You are on page 1of 14

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN




BÀI TẬP LỚN

MÔN TRIẾT HỌC MAC-LENIN

ĐỀ 1: Phân tích định nghĩa vật chất của Lenin và chỉ ra tiêu chuẩn phân biệt vật chất
và ý thức. Chứng minh năng lượng là vật chất

Họ và tên :
Mã sinh viên :
Lớp :

Hà Nội/ 2023
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
PHẦN I: PHÂN TÍCH ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA
LENIN & CHỈ RA TIÊU CHUẨN PHÂN BIỆT VẬT CHẤT
VÀ Ý THỨC
1. Khái quát quan điểm trước Mác về vật chất
2. Phân tích định nghĩa vật chất của Lenin
a. Hoàn cảnh ra đời định nghĩa về vật chất của Lenin
b. Nội dung định nghĩa vật chất của Lenin
c. Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định
nghĩa vật chất Lenin
PHẦN II: CHỨNG MINH NĂNG LƯỢNG LÀ VẬT CHẤT
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử triết học Mác- Lênin khái niệm vật chất được hiểu là tất cả nhưng
gì tồn tại khách quan tức là những sự tồn tại của nó không phụ thuộc vào ý thức của
con người, không phụ thuộc vào quan niệm của con người. Theo đó vật chất là vô
cùng vô tận, là không có giới hạn, nó tồn tại giữa vô lượng các hình thức khác nhau,
có thể là những tồn tại mà con người đã biết hoặc có thẻ là những tồn tại mà con người
chưa biết. Đấy là những vật chất tự nhiên hoặc là những tồn tại của vật chất trong đời
sống xã hội. Vật chất tồn tại vô cùng lớn ví dụ: như thiên hà, hoặc vô cùng bé là
những hạt cơ bản. Đó có thể là những tồn tại mà người ta trực tiếp giác quan được
hoặc đó có thể là những tồn tại mà không thể trực tiếp giác quan được nhưng nó là tồn
tại khách quan. Vật chất với tư cách tồn tại khách quan thì không tồn tại cảm tính có
nghĩa là con người thể dùng giác quan để nhận biết nhưng vật chất khi biểu hiện tồn
tại cụ thể dưới những hình thức nhất định thì nó tồn tại cảm tính. Thông qua đó thì con
người mới có thể nhận thức được về nó. Khi nhắc tới vật chất ta không thể nhắc tới
vận động, thời gian và không gian là các phạm trù liên quan tới sự tồn tại của vật chất.
Với quan điểm trước Mác thì cho rằng vật chất là sự dịch chuyển vị trí các vật thể
trong không gian và thời gian. Đó là một quan niệm rất hạn chế vì nó chưa bao quát
mọi hình hình thức của thế giới. Còn trong triết học Mác thì khái niệm vận động thấy
được sự bao quát hơn: vận động là tất cả những sự thay đổi nói chung. Thế giới vật
chất là vô cùng, vô tận, do đó có sự vận dộng của vật chất cũng biểu hiện dưới vô
lượng các hình thức, phương thức khác nhau. Cho đến tận ngày nay trình độ khoa học
học phát triển thì con người đã khám phá và vận dụng 5 hình thức vận dụng sau: Vận
động vật lý, vận động cơ giới, vận động sinh vật, vận động xá hội, vận động hóa. 5
hình thức vận động trên không tồn tại biệt lập mà nó có mối quan hệ ảnh hưởng lẫn
nhau, chuyển hóa cho nhau vì vậy vận động có vai trò là phương thức của vật chất, để
vật chất không ngừng phát triển. Còn không gian và thời gian thì lại là hai hình thức
tồn tại cơ bản của mỗi tồn tại vật chất. Vậy “vật chất là gì? Nó có ý nghĩa phương
pháp ra sao?” chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích để hiểu rõ vẫn đề này.
NỘI DUNG

PHẦN I: PHÂN TÍCH ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA LENIN

& CHỈ RA TIÊU CHUẨN PHÂN BIỆT VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

1. KHÁI QUÁT QUAN ĐIỂM TRƯỚC MÁC VỀ VẬT CHẤT

Chế Lan Viên đã từng viết:

“Luận cương đến với Bác Hồ


Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lenin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin.”
Đã gần trăm năm kể từ sự ra đi của con người vĩ đại ấy, nhân loại cũng đã trải
qua biết bao nhiêu biến cố thăng trầm trong lịch sử. Nhưng những gì mà Lênin đã để
lại thì sẽ mãi sống với chúng ta, trong kho tàng tri thức của loài người. Một trong
những chân lí quý giá mà Mặt Trời Nga đã để lại chính là định nghĩa về vật chất trong
phạm trù triết học.
Đầu tiên muốn hiểu rõ định nghĩa này, ta phải đặt nó vào dòng chảy của lịch sử
để có thể xem xét thấu đáo cách thức cũng như nguyên nhân ra đời của định nghĩa này.
Xin được trích từ cuốn “Giáo trình Những Nguyên Lý cơ Bản Của Chủ Nghĩa Mác-
Lênin”; “Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500
năm. Ngay từ thời cổ đại, chung quan phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh
không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, cũng
giống những phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát triển gắn liền với
thực tiễn và nhận thức của con người.
Trong khi chủ nghĩa duy tâm quan niệm bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên
của mọi sự tồn tại là một bản nguyên tinh thần, còn vật chất chỉ được quan niệm là
sản phẩm của bản nguyên tinh thần ấy thì chủ nghĩa duy vật quan niệm: bản chất của
thế giới; thực thể của thế giới là vật chất- cái tồn tại vĩnh viễn, tạo nên mọi sự vật,
hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
Trước khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời, nhìn chung, các nhà triết học
duy vật quan niệm vật chất là một hay một số chất tự có, đầu tiên sản sinh ra vũ trụ.
Thời cổ đại, phải ngũ hành ở Trung Quốc quan niệm vật chất là kim, mộc, thủy, hỏa,
thổ. Ở Hà Lạp, phải Milet cho rằng đầu tiên ấy đơn thuần là nước, không khí, lửa,
nguyên tử... Cho đến thế kỉ XVII, XVIII quan niệm về vật chất như trên của các nhà
duy vật cơ bản vẫn không có gì khác tuy hình thức diễn đạt có thể khác đi ít nhiều.
Với quan niệm vật chất là một hay một số chất tự có, đàu tiên, sản sin ra vũ trụ
chứng tỏ các duy vật trước Mác đã đồng nhất vật chất với vật thể. Việc đồng nhất này
là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều hạn chế trong nhận thức: không hiểu
được bản chất của các hiện tượng ý thức cũng như mối quan hệ giữavật chất và ý
thức; không có cơ sở để xác định những biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội
nên cũng không có cơ sở để đứng trên quan điểm duy vật khi giải quyết các vấn đề xã
hội. Hạn chế đó tất yếu dẫn đến quan điểm duy vật nửa vời, không triệt để; khi giải
quyết những vấn đề tự nhiên, các nhà duy vật đứng trên quan điểm duy vật, nhưng khi
giải quyết những vấn đề xã hội họ lại trượt qua chủ nghĩa duy tâm.
Sự phát triển của khoa học tự nhiên cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, đặc biệt là
những phát minh của W. Roentgen, H. Becquerel, J.J. Thomson... đã bác bỏ quan
điểm của các nhà duy vật về những chất được coi là “giới hạn tột cùng”, từ đo dẫn
tới cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý học. Những
người theo chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản chất “phi vật
chất” cảu thế giới, khẳng định vai trò của các lực lượng siêu nhiên đối với quá trình
sáng tạo ra thế giới.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Lênin đã tiến hành tổng kết những thành tựu khoa
học tự nhiên cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống
chủ nghãi duy tâm, ông đã vạch rõ ý đồ xuyên tạc những thành tựu khoa học tự nhiên
của những nhà triết học duy tâm, khẳng định bản chất vật chất của thế giới và đưa ra
định nghĩa về vật chất:
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Như vậy, phạm trù vật chất ở trong triết học không phải là một khái niệm mới
bởi lẽ nó đã xuất hiện cách đây trên 2500 năm. Tuy nhiên vì sự ràng buộc từ những
quan điểm xưa cũ của chủ nghĩa duy vật cũng như những hạn chế về nhận thức vào
thời điểm đó, định nghĩa vật chất vẫn chưa được hoàn thiện. Cho đến khi Lenin, cùng
với hoàn cảnh lịch sử và nhu cầu của cuộc đấu tranh chống nghĩa duy tâm, ông đã
tổng kết những thành tựu khoa học đã đạt được và khẳng định “định nghĩa vật chất”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới tự nhiên, cơ sở
của mọi tồn tại là một bảng nguyên tinh thần nào đó, có thể là “ý chí” của thượng đế,
“ý niệm tuyệt đối”..., Chẳng hạn, Platon nhà triết học duy tâm khách quan lớn nhất
thời cổ cho rằng vật chất bắt nguồn từ “ý niệm”, sự vật cảm tính là cái bóng của “ý
niệm”. Mặt khác, ông tỏ ra căm thù chủ nghĩa duy vật, kết tội các nhà duy vật,nhất là
các môn đồ của Đemo out là vị thần- một tội kết án tử hình theo luật của Aten thời bấy
giờ, và đã đốt hết tác phẩm của Đêmorit. Hêghen- một nhà duy tâm khách quan tâm
của triết học cổ điển Đức cho rằng “vật chất là do ý niệm tuyệt đối sinh ra”. Hay có
thể thấy rằng, ông có thái độ thiên lịch đối với chủ nghĩa duy vật, đã cố tình xuyên tạc,
vu khống triết học duy vật của Heraclit và Êpiquya. Béccli đã hệ thống lại một số quan
điểm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan và đưa ra một vài công thức chung: “ tồn tại tức
là được tri giác”. Công thức chung ấy có nghĩa là mọi sự tồn tại trong phạm vi con
người cảm thấy chúng, cái gì ngoài tri giác là không tồn tại, không có chủ thể thì
không có khách thể. Công thức này đã phủ nhận khách quan sự tồn tại của vật chất,
kể cả con người- là điều tất yếu dẫn tới chủ nghĩa duy ngã- ngoài cái tôi ra thì không
có cái gì cả. Vào thời kỳ cổ đại các nhà triết học duy vật đã thống nhất vật chất nói
chung là những dạng cụ thể của nó, có thể hiểu là những vật thể hữu hình cảm tính
đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. Ở Trung Hoa thời cổ đại, các hà duy vật coi khí là
thực thể của thế giới ở Ấn Độ thời cổ đại phái Ngaya- Vaiseika coi nguyên tử là thực
thể của thế giới ở Hy Lạp cổ đại, Talet coi thực thể của thế giới là nước Anaximen coi
thực thể ấy là khí Hêraclit coi thực thể ấy là lửa. Không thừa nhận quan điểm thực thể
của thế giới là một chất cụ thể: Ămpêđoclơ đã coi thực thể là không khí;
Anaximanctrơ thì cho rằng thực thể về thế giới là một bản nguyên tử không xác định
về chất... Đỉnh cao của tư tưởng duy vật cổ đại về vật đó là Lơxip và Đêmôgrip khi
nói về thuyết nguyên tử- các phần tử vô cùng nhỏ, cứng và không thể xâm nhập được
hay cảm giác được. Điều đặc biệt của nguyên tử là nó có sự kết hợp hoặc tách rời với
các loại của nó trong không gian và tạo nên được toàn bộ thế giới. Không những thế,
nó còn mang tính chất phác nhưng phỏng đoán thiên tài ấy về cấu tạo vật chất góp
phần ý nghĩa to lớn đối với sự phảt triển khoa học.
Từ thời kỳ Phục Hưng (thế kỷ XV), đặc biệt là thời ký cận đại thế ký XVII-
XVIII, phương Tây đã có sự bứt phá so với phương Đông ở chỗ khoa học thực nghiệm
ra đời và sự phát triển mạnh mẽ của cơ học, công nghiệp. Chủ nghĩa duy vật nói chung
và phạm trù vật chất nói riêng đã có bước phát triển mới chứa đựng nhiều yếu tố biện
chứng. Mở đầu thời kỳ này là khi Copecnich chứng minh mặt trời là trung tâm đã làm
xáo trộn truyền thuyết của kinh thánh và quan điểm thần học về thế giới. Pranxi Becon
coi thế giới vật chất tồn tại khách quan, vật chất là tổng hợp các hạt, coi tự nhiên là
tổng hợp của những vật thể có chất lượng muôn màu,muôn vẻ coi vận động là một
thuộc tính không tách rời khỏi vật chất Piero Gat xăng đi phát triển học thuyết nguyên
tử cổ địa và cho rằng thế giới gồm những nguyên tử có đặc tính tuyệt đối như tính kiên
cố và tính không thể thông qua. Đêcacto trong học thuyết vật lý duy vật của mình đã
xuất phát từ vật chất vận động để giải thích thế giới. Xpinoza cho rằng chỉ có tự nhiên
là tồn tại, tự nhiên là nguyên nhân tự nó, để tồn tại thì tự nhiên chẳng cần cái gì khác.
Ông cho rằng thực thể là thống nhất còn vật hữu hạn thì nhiều vô kể. Vào thế kỉ XVIII
các nhà duy vật Pháp đã phát triển phạm trù vật chất lên một bước mới. Điđrô cho
rằng, trong vũ trụ, trong con người, mọi sự vật chỉ có thực thể duy nhất là vật chất, vật
chất là lí do duy nhất của máy móc về vận động, ông nêu lên tư tưởng biện chứng
rằng bản tính cố hữu của vật chất là vận động, vận động như là năng lực sống động
của vật chất, vận động có ở cả vật chất đang vận động lẫn đứng im. Ông cho rằng quá
trình vận động và phát triển của vật chất, giới tự nhiên sẽ tự chọn lọc những thứ giúp
cho ngày càng hoàn thiện, đồng thời cũng đào thải những vật không thích nghi. Vật
chất theo Honbach đó là tất cả những gì tác động bằng cách nào đó vào cảm giác của
chúng ta tuy vậy khoa học thời kỳ này chỉ có cơ học cổ điển phát triển nhất, còn các
ngành khoa học khác như vật lý học, hoá học, sinh học, địa chất học còn ở trình độ
thấp khoa học lúc này chủ yếu dừng lại ở trình độ sưu tập mô tả. Tương ứng với trình
độ trên của khoa học thì quan niệm thống nhất trong triết học và khoa học tự nhiên
thời ấy đã điều khiển triết học về vật chất. Người ta giải thích mọi hiện tượng tự nhiên
bằng sự tác động qua lại của lực hấp dẫn và lực đẩy của các phân tử, theo đó các phần
tử của vật trong quá trình vận động là không thay đổi còn cái thay đổi chỉ là trạng thái
không gian và tập hợp của chúng. Mọi phân biệt về chất giữa vật thể đều bị quy giảm
về sự phân biệt về lượng, mọi sự vận động đều bị quy giảm, những hiện tượng phức
tạp cũng đều bị quy về cái giản đơn. Niềm tin vào các chân lý trong cơ học, nguồn gốc
vận động nằm ngoài vật chất. Viết tiếp quan điểm nguyên tử luận cổ đại, các nhà triết
học duy vật cận đại vẫn xem nguyên tử là phần tử nhỏ nhất, không thể phân chia được,
tách rời nguyên tử với vận động, không gian với thời gian...
2. PHÂN TÍCH ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA LÊNIN
a. Hoàn cảnh ra đời định nghĩa vật chất của Lenin
Thời cận đại thế kỉ XVII: Khoa học tự nhiên phát triển, người ta phục hồi lại
thuyết nguyên tử, cho nguyên tử là nhỏ nhất.
Cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX cùng những phát minh mới trong khoa học tự
nhiên, con người cũng đã có những hiểu biết sâu sắc hơn về nguyên tử:
- Năm 1895, Roentgen phát hiện ra tia X
- Năm 1896, Becquerel phát hiện ra hiện tượng phóng xạ
- Năm1897, Thomson phát hiện ra điện tử và cấu tạo của nguyên tử
- Năm 1901, Kaufman chứng minh khối lượng của nguyên tử không ổn định

Cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực khám phá Vật lý học. Chủ
nghĩa duy tâm đã xuyên tạc rằng vật chất bị “tiêu tan” chỉ còn lại ý thức, duy vật “mất
đi” chỉ còn lại duy tâm. Triết học duy vật lúc này cần phải đưa ra được một quan niệm
chính xác, khoa học về phạm trù vật chất. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán” Lenin đã đưa ra một định nghĩa đúng đắn, khoa học và
sâu sắc nhất về phạm trù vật chất.

b. Nội dung định nghĩa vật chất của Lenin


Theo Lênin vật chất là một phạm trù rộng đến cùng cực, rộng nhất mà cho đến
nay thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt quá được. Khi định nghĩa phạm trù này
không thể quy nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thể quy về
phạm trù cụ thể rộng hơn vì đến hiện tại vẫn chưa có phạm trù nào bao quát hơn phạm
trù vật chất. Do đó chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với ý thức,
phạm trù đối lập với nó và trong quan hệ ấy. Bằng phương pháp ấy định nghĩa phạm
trù vật chất của Lenin được diễn đạt như sau: “Vật chất là phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác. Được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác”.
Ở định nghĩa Lenin phân biệt biệt hai vấn đề quan trọng:
Trước hết cần phân biệt vật chất với vai trò là phạm trù triết học với các quan
niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các dạng vật
chất khác nhau. “Vật chất” ở đây không thể hiểu theo nghĩa hẹp như là vật chất trong
lĩnh vực vật lý, hóa học, sinh học (nước, từ trường, đồng,..) hay nghành khoa học
thông thường khác... Và cũng không thể hiểu như vật chất trong cuộc sống hàng ngày
(bàn, ghế, oto, xe máy...). “Vật chất” trong Lênin định nghĩa với tư cách là phạm trù
triết học nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận không sinh ra, không mất đi, còn
các đối tượng các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn nó sinh ra
và mất đi để chuyển háo thành cái khác. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất nói
chung với những dạng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại,
cận đại đã làm. Đến nay, nhận thức luận vẫn chưa hình dung được cái gì rộng hơn
phạm trù vật chất. Ta không thể “nhồi nhét” vật chất này trong một khoảng không gian
nhất định nào đó, vì không có gì rộng hơn nó.
Thứ hai, trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan trọng để
nhận biết vật chất chính là những thuộc tính khách quan. Theo Lenin khách quan là
“cái đang tồn tại độc lập với loài người với cảm giác của con người”. Trong đời sống
xã hội “vật chất chính là cái tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con
người”. Về mặt nhận thức luận thì khái niệm về vật chất cũng không có gì khác hơn.
Thứ ba, vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác: Vật chất, tức là
thực tại khách quan, là cái có trước cảm giác. Vậy nên, vật chất sinh ra trước là tính
thứu nhất. Cảm giác (ý thức) sinh ra sau là tính thứ hai. Do tính trước- sau như vậy,
vật chất không thể lệ thuộc vào ý thức, nhưng ý thức lệ thuộc vào vật chất. Ví dụ như
trước khi loài người xuất hiện trên trái đất, vật chất đã tồn tại nhưng chưa có ý thức vì
chưa có con người- vật chất tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức. Khi có ý
thức của con người trước hết là do có vật chất tác dộng trực tiếp hoặc gián tiếp lên
giác quan (mắt, mũi, tai, lưỡi,..) của con người- ý thức lệ thuộc vào vật chất. Chính vì
vậy, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não con người một cách
năng động sáng tạo.
Thứ tư, vật chất được giác quan của con người chép lại, chụp lại, phản ánh: Vật
chất là một phạm trù triết học, tuy rộng đến cùng cực nhưng được biểu hiện qua các
dạng cụ thể mà các giác quan trên cơ thể con người có thể cảm nhận được. Giác quan
của con người, với những khả năng vốn có, có thể chép lại, chụp lại, phản ánh sự tồn
tại của vật chất, tức là nhận thức được vật chất. Việc chép lại, chụp lại, phản ánh của
giác quan đối với vật chất càng rõ ràng thì nhận thức của con người về vật chất càng
sâu toàn diện.

Với những nội dung cơ bản trên phạm trù vật chất trong định nghĩa của Lênin
có nhiều ý nghĩa to lớn. Khi khẳng định vật chất là “thực tại khách quan”, “tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”. Có thể hiểu là vật chất là tất cả những gì tồn tại thực,
khách quan ở bên ngoài, độc lập với ý thức con người và không lệ thuộc vào cảm giác,
ý thúc. Đây chính là thuộc tính quan trọng nhất của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt
cái gì là vật chất. Điều đó khẳng định vật chất có trước, cảm giác ý thức có sau, vật
chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức. Và khi khẳng định vật chất tồn tại
không huyền bí mà nó là “thực tại của khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh”. Điều này khẳng định con người
có khả năng nhận thức về thế giới vật chất, chỉ có những điều chưa biết chứ không thể
có những điều không biết. Đồng thời định nghĩa vật chất của Lenin còn có ý nghĩa
định hướng đối với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức
mới của vật thể trong thế giới.

Nhận thức được hiện tượng đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của Lenin có
thể xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội, từ đó giúp các nhà khoa học có cơ
sở để lý giải những nguyên nhân cuối cùng của biến cố xã hội, những nguyên nhân
thuộc về sự vận dộng của phương thức sản xuất trên cơ sở ấy người ta có thể tìm ra
các phương án tối ưu để thúc đẩy xã hội phát triển.
PHẦN II: CHỨNG MINH NĂNG LƯỢNG LÀ VẬT CHẤT

Quá trình nhận thức của loài người về vật chất đã chuyển dần từ đơn giản đến
sâu sắc hơn và đúng đắn hơn. Từ xưa con người đã cho rằng vật chất là gồm các vật
thể và các chất. Nhận thức về các vật thể không có nhiều sự thay đổi, nhưng nhận thức
về chất đã có nhiều sự chuyển biến, từ chỗ cho rằng các chất bao gồm lửa, nước, đất
đá, gỗ, kim loại đến chỗ xác định được các chất là các nguyên tố hoá học có cấu tạo từ
các nguyên tử. Hay các nguyên tử là các cấu trúc vật chất nhỏ nhất không thể phân
chia đến chỗ xác định được rằng nguyên tử lại được hình thành từ các cấu trúc nhỏ
hơn nữa. Nội dung của khái niệm vật chất đã được chứa đựng những ý nghĩa mới.
Khái niệm vật chất không chỉ còn là các vật thể và các chất, nó bao hàm một ý nghĩa
lớn lao hơn, sâu sắc hơn, vật chất là một bản thể của vũ trụ. Những cái mà chúng ta
vẫn gọi là vật chất từ xưa đến nay là các vật thể và các chất, đều là những dạng tồn tại
của vật chất được gọi chung là các cấu trúc vật chất. Cấu trúc vật chất là hình thức
biểu thị cho sự tồn tại của vật chất. Và để tồn tại ở hình thức biểu thị này, vật chất cần
một yếu tố có quan hệ với nó đó là năng lượng.

Khái niệm lượng Phương Tây có nhiều thay đổi, trước hết phải khẳng định thực
khách quan, đo lường lượng hóa Theo nhà vật lý thiên văn học Morvan Salez, “năng
lượng, giống tiền bạc, tích trữ được, quy luật vật lý học, thay đổi hình thức : từ vũ trụ
đời đến nay, lượng không thêm vào, mà thay hình đổi dạng” Đầu kỷ XX, nhà bác học
Einstein phát vật chất, khối lượng, hình thức lượng Vật chất chuyển hóa thành tia
lượng chuyển thành vật chất, ví dụ chuyển hóa diễn Với việc Einstein đưa lý thuyết
tương đối vào năm 1905, hầu hết thứ cổ điển tan vỡ. Gọi đối ngẫu sóng-hạt Nó dẫn
đến hợp khối lượng lượng; hai đại lượng hai dạng vật chất. Trong vũ trụ, lượng vật
chất bảo toàn Hơn nữa, phản ứng mặt trời dẫn đến phản ứng tổng hợp hạt nhân khối
lượng biến đổi thành lượng. Vật chất lượng tách rời, đâu có vật chất có lượng Ẩn sau
hình (vật chất) nhìn thấy mắt lượng vơ hình Nhìn vào vật chất mà ta thấy lượng tiềm
ẩn giống nhìn vào củi ta thấy khả cung cập nhiệt lượng - thân gỗ nặng trắc cháy lâu
cho nhiều nhiệt Mỗi vật chất có mức lượng tiềm ẩn khác Vật chất trạng thái biểu
lượng dạng hữu hình cịn lượng biểu vật chất dạng vơ hình Nhưng nhìn thấy mắt hình
(cái thấy biết mắt thường) nên lấy hình đại diện cho vật chất lượng vật chất biểu thị
cho lượng Khi nói đến hình có nghĩa nói vật chất mức lượng tiềm ẩn sau vật chất Khi
vật chất hay lượng gom nén lại (hướng tâm), chuyển động vật chất lượng chậm lại,
tĩnh lại, lạnh (trạng thái âm) Khi vật chất hay lượng bung (li tâm), giải phóng cơng
chuyển động vật chất lượng nhanh lên, hoạt hóa, nóng (trạng thái dương) Trạng thái
âm (chậm, tĩnh, lạnh) trạng thái dương (nhanh, hoạt, nóng) tính chất lượng hay vật
chất gọi khí Cái nhìn hình nhìn bề ngồi người ta bối rối nhầm lẫn chưa thấy bên khí
Và thực chất q trình tương tác âm dương q trình khí (năng lượng) Nhưng khơng nhìn
thấy khí (năng lượng) mắt thường nên người ta phải mượn hình (vật chất) để diễn đạt
biểu Như vậy, ta hiểu: Khí tính chất (nóng lạnh, nhanh chậm) vật chất hay lượng, âm
dương để nói lên chiều hướng vật chất hay lượng.

Căn cứ vào những ý trên cũng như định nghĩa của vật chất, có thể nói rằng năng
lượng là vật chất bởi vì vật chất có trước và ý thức có sau. Vật chất chính là nguồn gốc
khách quan của cảm giác, ý thức con người. Ý thức con người lại chính là sự phản ánh
của thực tại khách quan đó. Con người có khả năng nhận thức được thế giới.
KẾT LUẬN

Tóm lại, ta thấy từ lúc xuất hiện phạm trù vật chất diễn đấu tranh không khoan
nhượng chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa duy tâm. Phạm trùu vật chất có quá trình phát
triển gắn liền với người quan niệm vật vật chất thời cận đại cổ đại Tây âu triết học
Mác- Lenin khác. Ở thời kỳ cận đại Tây âu đặc biệt là thế kỉ 17- 18 khoa học châu Âu
phát triển mạnh. Do chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật chất nói riêng. Có
bước phát triển chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng. Theo quan niệm của Lenin thì vật
chất có phạm trù rộng lớn, định nghĩa phạm trù vật chất có mối quan hệ đặc biệt với ý
thức. Như ta thấy vật chất phạm trù tồn tại từ lâu đời, luôn phát triển với yếu tố người
phát triển khoa học tự nhiên. Mở đường cổ vũ cho khoa học sâu khám phá kết cấu
phức tạp giới vật chất. Đồng thời, định nghĩa vật chất của Lenin là tiêu chuẩn để phân
biệt giới quan vật và giới quan tâm. Do thời gian quá trình nhận thức về kỹ năng còn
hạn chế, nên em viết không thể tránh khỏi những sai sót. Em mong cô xem xét gốp ý
để em hoàn thiện hơn ạ. Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Triết học Mác- Lênin (NXB Chính trị Quốc Gia Sự Thật, 2023)
2. Giáo trình Những Nguyên Lý cơ Bản Của Chủ Nghĩa Mác- Lênin (NXB Chính
trị Quốc Gia, 2008)
3. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ đô hộ lên CNXH (NXB Chính trị Quốc
Gia Sự thật, 1991)
4. Một số tài liệu trên Internet:
- Ý nghĩa và mối quan hệ của vật chất và năng lượng
(https://voer.edu.vn/public/m/y-nghia-triet-hoc-cua-moi-quan-he-dac-biet-
giua-vat-chat-va-nang-luong/c0ac12b0)
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về phạm trù vật chất
(https://123docz.net/document/2785510-quan-diem-cua-chu-nghia-duy-vat-
bien-chung-ve-pham-tru-vat-chat-y-nghia-phuong-phap-luan.htm)
- .....

You might also like