You are on page 1of 5

Đề tài: Vấn đề phát triển kinh tế tại đại hội VIII, liên hệ thực tiễn

Việt Nam
Mở đầu
Trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước, mỗi kỳ đại hội Đảng đều đề
ra những đường lối, chủ trương quan trọng cho từng giai đoạn lịch sử. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1996 là một
dấu mốc có ý nghĩa đặc biệt. Đại hội không chỉ tổng kết 10 năm thực hiện công
cuộc đổi mới do Đại hội VI khởi xướng, mà còn xác định những định hướng lớn
cho quá trình phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Trong đó, vấn đề phát triển kinh tế được Đại hội Đảng lần thứ VIII đặc biệt
chú trọng. Nhiều chủ trương quan trọng về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, đổi mới doanh
nghiệp nhà nước... đã được Đại hội đề ra. Đến nay, sau hơn 20 năm thực hiện,
những chủ trương đó vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với
sự phát triển kinh tế của đất nước.
Bài viết này nghiên cứu vấn đề phát triển kinh tế tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng và liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế Việt Nam
hiện nay. Qua đó, chỉ ra những giá trị kế thừa và bổ sung của các chủ trương,
đường lối của Đại hội đối với công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Nội dung
1. Tổng quan về chủ trương phát triển kinh tế của Đại hội Đảng VIII
1.1. Cơ sở hình thành
Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng 6/1996, sau
10 năm tiến hành công cuộc đổi mới do Đại hội VI (1986) khởi xướng. Đây là
thời điểm đất nước đã vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội sau thời kỳ bao
cấp.
Trên cơ sở đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và kết quả 10
năm đổi mới, Đại hội VIII tiếp tục khẳng định con đường đổi mới là đúng đắn
và cần tiếp tục đẩy mạnh, đồng thời xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trọng tâm.
Các chủ trương về kinh tế của Đại hội VIII được xây dựng trên cơ sở đánh
giá bối cảnh kinh tế - xã hội mới, kế thừa những thành quả của thời kỳ đổi mới
1986 - 1996 và xu thế phát triển chung của kinh tế thế giới lúc bấy giờ.
1.2. Nội dung
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn
ra vào tháng 6/1996 trong bối cảnh đất nước đã vượt qua khủng hoảng kinh tế -
xã hội sau 10 năm đổi mới. Đây là một bước ngoặt quan trọng, khẳng định
những thành quả và kết quả tích cực sau một thập kỷ tiến hành công cuộc đổi
mới do Đại hội VI (1986) đề ra. Trên cơ sở đó, Đại hội VIII tiếp tục khẳng định
sự đúng đắn và tầm quan trọng của con đường đổi mới mà Đảng ta đã chọn,
đồng thời xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ then chốt, là trọng tâm trong
giai đoạn phát triển mới.
Cụ thể, một trong những định hướng quan trọng nhất về phát triển kinh tế
mà Đại hội VIII đề ra là tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được khẳng định là mô hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự kế thừa và phát
triển chủ trương đúng đắn đã được Đại hội VI đề ra, phù hợp với đặc điểm và
điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Bên cạnh đó, Đại hội VIII cũng chú trọng đến việc đa dạng hóa các thành
phần kinh tế, trong đó phát triển mạnh khu vực kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân
được coi là nhiệm vụ chiến lược. Cùng với đó, Đại hội đặc biệt nhấn mạnh đến
việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Các
giải pháp cụ thể như đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh
nghiệp đã được Đại hội đề ra nhằm thực hiện mục tiêu này.
Bên cạnh đó, Đại hội VIII cũng chú trọng đến việc cải cách hệ thống tài
chính, ngân hàng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế. Cụ thể,
các chính sách như nới lỏng kiểm soát lãi suất, tỷ giá, mở rộng tín dụng đầu tư
phát triển,... đã được đề ra. Ngoài ra, mở rộng hợp tác, thu hút đầu tư nước
ngoài cũng được coi là nhiệm vụ trọng tâm để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Nhìn chung, các chủ trương về phát triển kinh tế của Đại hội Đảng VIII đã
khẳng định những thành quả của công cuộc đổi mới và định hướng cho đất
nước trong giai đoạn phát triển mới, góp phần quan trọng đưa kinh tế Việt Nam
phát triển ổn định, bền
2. Liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay
2.1. Các kết quả đạt được
Sau hơn 25 năm thực hiện các chủ trương về phát triển kinh tế của Đại hội
Đảng VIII, kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Về tốc độ tăng trưởng, GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng từ
khoảng 400 USD vào những năm 1990 lên đến gần 4.000 USD vào năm 2021.
Dự báo của Ngân hàng Thế giới cho thấy con số này có thể đạt 5.000 USD vào
năm 2025. Điều đó cho thấy sự tăng trưởng kinh tế ổn định, liên tục của Việt
Nam trong suốt thời gian qua.
Về thương mại đối ngoại, kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng trưởng ở
mức hai con số. Năm 2022, xuất khẩu của Việt Nam ước đạt khoảng 371 tỷ
USD. Các thị trường xuất khẩu chủ lực như Mỹ, EU, Trung Quốc, ASEAN,...
đều duy trì đà tăng trưởng tốt. Điều đó cho thấy sự mở rộng và đa dạng hóa thị
trường xuất khẩu thành công.
Về thu hút vốn FDI, tính đến tháng 9/2022, tổng vốn FDI vào Việt Nam đạt
hơn 18 tỷ USD. Nhiều tập đoàn đa quốc gia lớn đang mở rộng đầu tư tại Việt
Nam. Điều đó cho thấy sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam ngày càng
tăng trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài.
Những con số trên cho thấy các chủ trương của Đại hội Đảng VIII về phát
triển kinh tế thị trường, mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài,... vẫn
còn nguyên giá trị và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Chúng tiếp tục là những định
hướng quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước cho đến nay.
2.2. Các hạn chế và nguyên nhân
2.2.1. Các hạn chế
Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực trong 25 năm qua, kinh tế Việt
Nam vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục triệt để:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm dần trong những
năm gần đây, không đạt được mục tiêu đề ra. Cụ thể, tăng trưởng GDP năm
2022 chỉ đạt khoảng 2,9%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra là 6-6,5%. Đây
là một vấn đề đáng lo ngại.
Thứ hai, chất lượng tăng trưởng và năng suất lao động của Việt Nam vẫn
còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, tỷ trọng công nghiệp chế biến,
chế tạo trong GDP vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra. Điều này làm hạn chế năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ ba, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước còn hạn chế,
phụ thuộc nhiều vào vốn FDI. Hạ tầng kỹ thuật và nguồn nhân lực chất lượng
cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.
Thứ tư, tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước còn chậm và hiệu quả
thấp. Tỷ lệ nợ xấu cao của hệ thống ngân hàng cũng ảnh hưởng đến hoạt động
tín dụng.
Những hạn chế này cần được nghiên cứu và khắc phục triệt để để phát triển
kinh tế nhanh và bền vững hơn trong thời gian tới.
2.2.2. Nguyên nhân của các hạn chế
Có thể thấy những hạn chế của kinh tế Việt Nam hiện nay bắt nguồn từ một
số nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 và khủng hoảng kinh tế
toàn cầu là nguyên nhân trực tiếp khiến tăng trưởng kinh tế giảm sút trong 2
năm qua. Đây là yếu tố khách quan, bất khả kháng.
Thứ hai, môi trường kinh doanh trong nước vẫn còn nhiều rào cản, thiếu
tính thông thoáng và minh bạch. Điều này hạn chế sự phát triển của khu vực tư
nhân.
Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao và trình độ công nghệ, khả năng
đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Đây là nguyên
nhân nội tại quan trọng cần khắc phục.
Thứ tư, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm, thiếu
đồng bộ và minh bạch. Tiến độ thoái vốn nhà nước chưa đạt kế hoạch.
Thứ năm, các chính sách tài khóa và tiền tệ chưa thực sự linh hoạt và hiệu
quả trong việc hỗ trợ doanh nghiệp.
Những nguyên nhân trên cần được tập trung nghiên cứu và có giải pháp
khắc phục cụ thể, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững hơn trong
thời gian tới.
3. Các giải pháp và liên hệ bản thân trong phát triển kinh tế ở Việt Nam
3.1. Các giải pháp
Để phát huy những kết quả đạt được và khắc phục những hạn chế còn tồn
tại của nền kinh tế, Việt Nam cần tập trung vào một số nhóm giải pháp chính
sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách theo hướng thông thoáng,
minh bạch nhằm tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho các
thành phần kinh tế. Cụ thể, cần rà soát, sửa đổi các quy định pháp luật còn rườm
rà, chồng chéo, khó thực thi; đồng thời ban hành các cơ chế, chính sách mới để
thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, cải cách mạnh mẽ thủ tục
hành chính, áp dụng công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ công, đảm bảo
tính minh bạch về hoạt động kinh doanh, đầu tư.
Thứ hai, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng, nâng cao năng suất và sức cạnh tranh. Cụ thể, cần tập trung phát triển
công nghiệp chế biến chế tạo, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Đồng thời,
đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đô thị hóa nông thôn nhằm thúc đẩy tái cơ cấu
lao động. Bên cạnh đó, việc áp dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới
quản trị là hết sức cần thiết.
Thứ ba, triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp cổ phần hóa, thoái vốn
nhà nước tại doanh nghiệp. Đồng thời, xử lý triệt để các ngân hàng thương mại
yếu kém, xử lý nợ xấu nhằm lành mạnh hóa hệ thống tài chính.
Thứ tư, đầu tư mạnh mẽ vào phát triển khoa học công nghệ và đổi mới
sáng tạo, coi đây là động lực phát triển lớn nhất. Đồng thời, chú trọng phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao thông qua cải cách giáo dục
đào tạo.
Thứ năm, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc
vào các lĩnh vực then chốt như công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ. Đây là
nguồn lực quan trọng để bổ sung vốn, công nghệ cho phát triển.
Những nhóm giải pháp trên sẽ góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát
triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong thời gian tới. Đồng thời, tăng cường
sức chống chịu của nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tiếp tục
khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới mà Đại hội Đảng VIII đã đề ra.
3.2. Liên hệ bản thân
Là sinh viên ngành Kinh tế, tôi nhận thấy mình cần phải nắm vững và vận
dụng sáng tạo những chủ trương, đường lối kinh tế mà Đảng và Nhà nước đã đề
ra, đặc biệt là tại Đại hội Đảng VIII, vào thực tiễn cuộc sống và công việc sau
này.
Thứ nhất, tôi cần phải học tập, nghiên cứu sâu sắc hơn nữa lý luận về kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để có cái nhìn đúng đắn, toàn diện.
Từ đó, tôi có thể vận dụng linh hoạt các cơ chế thị trường nhưng vẫn đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa trong công việc sau này.
Thứ hai, tôi sẽ chú trọng nâng cao kỹ năng phân tích, đánh giá tình hình
kinh tế vĩ mô để có những dự báo và khuyến nghị chính sách phù hợp. Bên cạnh
đó, kỹ năng phân tích tài chính doanh nghiệp, soạn thảo và thẩm định các dự án
đầu tư cũng rất cần thiết đối với tôi trong tương lai.
Cuối cùng, tôi nhận thấy cần xây dựng phẩm chất đạo đức tốt, trách nhiệm
cao với công việc để trở thành một chuyên gia kinh tế giỏi chuyên môn, có đạo
đức nghề nghiệp và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đây chính là những yếu
tố then chốt giúp tôi góp phần vào sự nghiệp xây dựng kinh tế đất nước sau này.

Kết luận
Nhìn chung, chủ trương về phát triển kinh tế của Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ VIII năm 1996 đã đề ra những định hướng quan trọng, phù
hợp với xu thế phát triển chung của thế giới và điều kiện thực tiễn của Việt
Nam. Sau hơn 25 năm thực hiện, những chủ trương này vẫn còn nguyên giá trị
và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Chúng tiếp tục là kim chỉ nam cho sự phát triển
kinh tế đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn một
số hạn chế cần khắc phục. Để giải quyết những vấn đề tồn tại và phát huy
những kết quả đã đạt được, Việt Nam cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về thể chế,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ
và đổi mới sáng tạo. Đồng thời, mở rộng hội nhập quốc tế cũng là hướng đi
đúng đắn giúp Việt Nam vươn lên mạnh mẽ trong thời đại toàn cầu hóa ngày
nay.

Tài liệu tham khảo


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] Phạm Minh Chính (2021), Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[3] Nguyễn Phú Trọng (2016), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

You might also like