You are on page 1of 51

MỞ ĐẦU

Công cuộc đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đã đặt ra
cho nhà nước ta nhiều vấn đề cấp bách cần phải giải quyết, mà mấu chốt của vấn đề
đó là xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Tư tưởng xây dựng nhà nước
pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng được đề ra như một nhiệm vụ chiến lược với
phương châm “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”. Mọi cơ quan, tổ chức,
người chấp hành, viên chức và mọi công dân có nghĩa vụ tôn trọng Hiến pháp và
pháp luật.

Thực hiện phương châm này, trong những năm đổi mới vừa qua, các cơ quan
nhà nước đã từng bước đổi mới tổ chức, hoạt động và hệ thống pháp luật từng bước
hoàn thiện phục vụ cho quá trình đổi mới cũng như phát triển của Nhà nước. nhà
nước của dân, do dân, vì dân và đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên,
quá trình thực hiện pháp luật còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của
công cuộc đổi mới cũng như xây dựng nhà nước pháp quyền, nhiều quy định của
pháp luật chưa được thực hiện đầy đủ trong thực tế vừa qua. Tính chủ động, tích
cực trong hành vi vi phạm pháp luật chưa cao, tình trạng vi phạm pháp luật ngày
càng phức tạp, làm giảm vai trò, vị trí và hiệu lực của pháp luật trong thực tiễn.

Nhà nước nào cũng muốn pháp luật đã ban hành của mình được tôn trọng và
thực thi nghiêm túc, vì vậy nhà nước nào cũng đấu tranh chống lại các hành vi vi
phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm. Để loại bỏ hiện tượng vi phạm pháp luật,
trước hết cần hiểu rõ bản chất, đặc điểm của nó, sau đó tìm cách loại bỏ nguyên
nhân và điều kiện gây ra chúng. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề trách nhiệm pháp lý
có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm đưa ra các biện pháp hữu hiệu nhằm đấu tranh,
ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội. Trước tầm quan trọng của vi
phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay cùng với công tác lý luận nhà nước và pháp
luật lớn hàng năm, nhóm chúng tôi đã chọn chủ đề “Trách nhiệm pháp lý” và
mong muốn hiểu và làm rõ hơn nguyên nhân sâu xa của vấn đề này.

1
I) Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đề tài trách nhiệm pháp lý - lý luận và thực tiễn đã có một số công trình
nghiên cứu cụ thể như sau:

[Tiểu luận 2010] Trách nhiệm pháp lý của người chuyên chở trong vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển của nhóm tác giả trường đại học Kinh tế - Luật
TP.HCM

[Luận văn 2012] Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn của trách nhiệm pháp
lý quốc tế chủ quan của quốc gia - Hoàng Phước

[Luận án 2016] Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng thương mại ở
Việt Nam hiện nay - ThS. Lê Thị Tuyết Hà

[Luận văn 2018] về Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Việt Nam - Nguyễn Thị Kim Lành

[Tiểu luận 2021] Trách nhiệm pháp lý và các loại trách nhiệm pháp lý -
Nguyễn Nhật Toàn

[Luận án 2021] Trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước
tại doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam - TS. Phạm Tuấn Anh

Với các công trình trên, các tác giả đã phân tích và làm rõ về khái niệm về
trách nhiệm pháp lý, phân loại các loại trách nhiệm đồng thời tiếp tục phân tích sâu
hơn những điểm bất cập, thiếu sót của pháp luật hiện hành và của thực tiễn áp dụng
và từ đó để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật đối với các quy định về
trách nhiệm pháp lý. Từ thực tiễn pháp luật, thực thi pháp luật về trách nhiệm pháp
lý các tác giả phân tích nhận thức pháp luật của các chủ thể áp dụng, chủ thể tham
gia vào quan hệ pháp luật có liên quan. Kế thừa và phát triển những công trình ấy,
nhóm chúng em đã phân tích sâu và hoàn thiện hơn, cũng như đã đề xuất những
phương án giải quyết về thực trạng và thực tiễn áp dụng trách nhiệm pháp lý ở Việt
Nam.

2
II) Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá về mặt lý luận, thực
trạng pháp luật và thực tiễn việc áp dụng trách nhiệm pháp ý trên cơ sở đó tìm ra
những vướng` mắc, bất cập để đề xuất những giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật
và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật hiện hành về các trách
nhiệm pháp lý.

III) Đối tượng nghiên cứu


Luận văn tập trung nghiên cứu các quan điểm trong các công trình nghiên
cứu; các quy định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý; các báo cáo tổng kết của
ngành tư pháp, của Tòa án nhân dân; các trường hợp điển hình về trách nhiệm pháp
lý (trách nhiệm dân sự, hình sự, kỉ luật và hành chính).

IV) Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


Ở trong bài này, nhóm chúng em phân tích dựa trên cơ sở của phương pháp
luận đó là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm và đường lối
của Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. Cùng với đó là các phương nghiên cứu chủ
yếu đó là phương pháp

3
thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp Luật học so sánh
để đưa ra lý luận của vấn trách nhiệm pháp lý. Chúng em sử dụng các phương pháp
để phân tích và đánh giá đối với thực trạng và thực tiễn áp dụng của trách nhiệm
pháp lý. Từ đó, đề ra những giải quyết, hướng giải pháp đối với vấn đề nêu ra.

V) Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng


Mặc dù chế định này đã thu hút được một số lượng tương đối lớn sự quan
tâm nghiên cứu của các học giả. Tuy nhiên, việc tiếp cận và sử dụng các thành quả
nghiên cứu này luôn gây rất nhiều khó khăn cho các đối tượng nghiên cứu trong
nước. Thông qua công trình nghiên cứu này, nhóm chúng em hy vọng có thể đóng
góp thêm cho hoạt động nghiên cứu trách nhiệm của ngành khoa học luật nước nhà,
tạo thêm nguồn tài liệu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu của các bạn sinh viên và
là cơ sở cho các nghiên cứu chuyên sâu hơn về sau của chúng em. Bên cạnh đó,
công trình cũng chứa đựng những nội dung có giá trị ứng dụng đối với chính Nhà
nước Việt Nam và con người Việt Nam, thông qua đó, họ có thể hiểu rõ hơn về
trách nhiệm pháp lý và tuân thủ đúng theo luật nước nhà.

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM
PHÁP LÝ
1. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm pháp lý
Xét về nguyên tắc, chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật thì phải gánh chịu
hậu quả pháp lý bất lợi được dữ liệu ở bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật.
Các biện pháp tác động mang tính bất lợi đó khi được áp dụng cho chủ thể có hành
vi vi phạm pháp luật được gọi là trách nhiệm pháp lý. Về nguyên tắc, chủ thể vi
phạm pháp luật thì phải chịu trách nhiệm pháp lý và ngược lại trách nhiệm pháp lý
chỉ áp dụng cho chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp lý là một
loại quan hệ pháp luật đặt biệt giữa nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật, trong
đó bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp
cưỡng chế nhà nước được quy định ở chế tài các quy định pháp luật.Hầu hết các
giáo trình về nhà nước và pháp luật đều thừa nhận: “Trách nhiệm pháp lý là hậu
quả bất lợi do Nhà nước áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật,

4
theo đó cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật phải chịu những chế tài được quy định
tại phần chế tài của quy phạm pháp luật”1.

Cơ sở trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật của chủ thể hay nói cách
khác nếu chủ thể không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thì trách nhiệm pháp lý
sẽ không được đặt ra.Tuy nhiên trong một số trường hợp mặc dù chủ thể tồn tại
hành vi vi phạm pháp luật trên thực tế nhưng trách nhiệm pháp lý lại không bị đặt ra
bởi vì chủ thể rơi vào trường hợp được pháp luật quy định miễn trừ trách nhiệm
pháp lý, những trường hợp thông thường: a) Chủ thể không có năng lực trách nhiệm
pháp lý (không nhận thức và điều khiển hành vi); b) Chủ thể thực hiện hành vi trong
tình thế cấp thiết; c) Do sự kiện bất ngờ (sự kiện bất khả kháng); d) Do phòng vệ
chính đáng.

Chủ thể vi phạm pháp luật chịu trách nhiệm pháp lý trước nhà nước. Nghĩa là
chỉ cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hay các chủ thể được pháp luật
trao quyền mới có quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp
luật. Tuy nhiên khi thực hiện quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý thì cơ quan nhà
nước phải thực hiện theo đúng trình tự luật quy định, phải giải thích rõ cho chủ thể
vi phạm quyền và nghĩa vụ của họ theo đúng tinh thần Hiến pháp và pháp luật,
trường hợp các cơ quan nhà nước thực hiện không đúng theo trình tự thủ tục pháp
luật mà gây hại cho chủ thể thì phải chịu trách nhiệm bồi thường theo pháp luật về
trách nhiệm bồi thường.

Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý dựa trên các quy định của các văn bản quy
phạm pháp luật có hiệu lực. Điều này có nghĩa là khi chủ thể thực hiện hành vi vi
phạm được quy định trong văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm chủ thể thực
hiện hành vi thì chủ thể mới bị truy cứu trách nhiệm pháp lý, trường hợp nếu tại
thời điểm này văn bản trên hết hiệu lực thi hành thì sẽ áp dụng văn bản mới thay thế
nếu hiệu lực pháp lý đã tồn tại để truy cứu trách nhiệm, trong trường hợp không có
văn bản mới thay thế hoặc có văn bản mới nhưng chưa có hiệu lực thì hành thì trách
nhiệm pháp lý sẽ không được đặt ra.

1 Nguyễn Văn Trịnh (2012), Lý luận chung về nhà nước và pháp luật –tóm tắt bài học, câu hỏi,
tình huống, NXB Lao Động, tr.188.

5
Trách nhiệm pháp lý của chủ thể luôn gắn liền với những biện pháp cưỡng
chế được quy định trong bộ phận chế tài các QPPL. Tuy nhiên bản chất của trách
nhiệm pháp lý không phải là sư cưỡng chế mà đó là nghĩa vụ của chủ thể vi phạm
phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế mà pháp luật quy định. Như vậy nội
dung của trách nhiệm pháp lý đó là việc áp dụng biện pháp cưỡng chế mà pháp luật
quy định, còn hình thức trách nhiệm pháp lý đó là việc tổ chức thực hiện các quy
định trong bố phận chế tài của QPPL.

2. Truy cứu trách nhiệm pháp lý

Ở nước ta hiện nay, khái niệm hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý còn
được hiểu theo nhiều hướng khác nhau. Trước hết, khái niệm hoạt động truy cứu
trách nhiệm pháp lý được một số nhà nghiên cứu đồng nhất với khái niệm trách
nhiệm pháp lý, có nội hàm là sự áp dụng những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước
với những chế tài pháp luật cụ thể, là một quá trình hoạt động của các cơ quan có
thẩm quyền trong việc xem xét và giải quyết những vụ việc pháp luật, đồng thời tổ
chức thực hiện những quyết định giải quyết. Đồng thời, có quan điểm xác định hai
khái niệm này là khác nhau. Trong đó trách nhiệm pháp lý là việc một chủ thể phải
gánh chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm pháp luật còn truy cứu trách nhiệm
pháp lý là việc chủ thể có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cần thiết để buộc
chủ thể gánh chịu hậu quả bất lợi theo luật định (Theo cách hiêu này thì trách nhiệm
pháp lý là cơ sở để tiến hành hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý).Tuy nhiên
giữa hai quan điểm cũng có sự khác biệt về giới hạn những hoạt động của những
chủ thể mang quyền lực nhà nước được coi là bộ phận cấu thành nội dung của khái
niệm”truy cứu trách nhiệm pháp lý”. Theo quan điểm thứ nhất, hoạt động xử lý vi
phạm pháp luật hoàn toàn tách biệt với hoạt động xác minh vi phạm pháp luật.
Trong đó khi xác minh vi phạm pháp luật là hoạt động được thực hiện bởi chủ thể
mang quyền lực nhà nước, liên hệ mật thiết, trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng của
việc xử lý vi phạm pháp luật, do đó có thể dẫn tới sự phiến diện, thiếu đầy đủ trong
việc nghiên cứu những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động truy
cứu trách nhiệm pháp lý2. Ngược lại, nếu theo quan điểm thứ hai thì nội dung của

2 Lê Vương Long (2008),Trách nhiệm pháp lý một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện
nay : sách chuyên khảo, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.92.

6
truy cứu trách nhiệm pháp lý quá rộng bao gồm cả việc tổ chức thực hiện việc xử lý
pháp luật trên thực tế. Trong khi đó việc xử lý, xác minh vi phạm luôn được tiến
hành theo một quy trình khác biệt với quy trình tổ chức thực hiện văn bản xử lý vi
phạm pháp luật. Do đó, cách hiểu này có thể dẫn tới việc không tách bạch về chức
năng của các chủ thể có liên quan tới những hoạt động tương đối khác biệt này, từ
đó có những quy định về thẩm quyền xác minh, xử lý, thi hành quyết định xử lý
một cách không hợp lý3. Theo quan điểm của chúng tôi, có thể xác định: Hoạt động
truy cứu trách nhiệm pháp lý là hành vi của những chủ thể mang quyền lực nhà
nước, được tiến hành theo thủ tục theo pháp luật quy định nhằm xác định hình thức
trách nhiệm pháp lý và áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể đối
với những cá nhân, tổ chức, có trách nhiệm pháp lý trong các trường hợp cụ thể.

3. Mục đích truy cứu trách nhiệm pháp lý

Mọi hiện tượng vi phạm pháp luật đều có hại cho xã hội vì nó phá vỡ trật tự
pháp luật, trực tiếp hoặc tạo ra nguy cơ gây thiệt hại về vật chất, tinh thần cho Nhà
nước, tổ chức xã hội và các cá nhân. Trong mọi trường hợp, hoạt động truy cứu
trách nhiệm pháp lý luôn có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
nước, xã hội và cá nhân, nhằm duy trì trật tự xã hội trong khuôn khổ pháp luật, tạo
sự ổn định cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Đồng thời, trong trường hợp có vi phạm pháp luật, hoạt động truy cứu trách
nhiệm pháp lý có mục đích trừng phạt, thông qua đó giáo dục cải tạo đối với người
có hành vi vi phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý có mục đích giáo dục,
phòng ngừa chung trong xã hội, nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân trong
việc tuân thủ pháp luật.

4. Tác dụng của truy cứu trách nhiệm pháp lý


4.1. Trừng phạt chủ thể vi phạm pháp luật

3 Lê Vương Long (2008), tlđd, tr.93.

7
Nhằm trừng trị người có hành vi vi phạm và răn đe tất cả những người khác
để họ kiềm chế giữ mình không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, không tái vi
phạm pháp luật.
4.2. Khôi phục một phần nào đó thiệt hại xã hội
Thiệt hại của xã hội có thể được khôi phục một phần thông qua quá trình áp
dụng trách nhiệm pháp lý. Chẳng hạn việc bồi hoàn về vật chất khi vi phạm làm
thiệt hại về vật chất, tịch thu và xung công những tài sản bất hợp pháp kiếm được từ
quá trình vi phạm của chủ thể là để giảm bớt một phần thiệt hại cho Nhà nước…
4.3. Răn đe, phòng ngừa, cải tạo và giáo dục
Nhằm giúp giác ngộ tư tưởng, ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng các lợi
ích của nhà nước, của xã hội, tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác, giáo dục thái độ sống và làm việc theo pháp luật của chủ thể đã có hành vi vi
phạm pháp luật cũng như của mọi công dân.

4.4. Tạo công bằng cho xã hội


Làm cho mọi công dân tin tưởng vào công lý và nâng cao ý thức cảnh giác
trong nhân dân, động viên quần chúng tích cực đấu tranh chống mọi biểu hiện vi
phạm pháp luật, từng bước hạn chế, loại trừ hiện tượng vi phạm pháp luật ra khỏi
đời sống xã hội, xã hội chủ nghĩa.
5. Căn cứ truy cứu trách nhiệm pháp lý
Cấu thành của vi phạm pháp luật được sử dụng làm căn cứ để truy cứu trách
nhiệm pháp lý, bao gồm: mặt chủ quan, mặt khách quan, chủ thể, khách thể của vi
phạm pháp luật.
Quá trình tìm hiểu các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật giúp đạt được
cả hai mục đích:
- Xác định những căn cứ để kết luận hành vi vi phạm pháp luật hay không;
- Đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi đó.
Như vậy, chỉ sau khi nghiên cứu hết các yếu tố của cấu thành vi phạm pháp
luật thì mới có cơ sở thực tế để ấn định mức chế tài thích đánh đối với chủ thể vi
phạm pháp luật.
5.1. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Là những biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm pháp luật. Nó bao gồm:

8
5.1.1. Hành vi trái pháp luật
Để truy cứu trách nhiệm pháp lý thì điều quan trọng là phải xác định được
hành vi trái pháp luật đã xảy ra, nghĩa là phải có sự kiện pháp lý xảy ra trên thực tế.
Sự kiện đó do con người gây nên (sự kiện hành vi) và hành vi đó là trái pháp luật.
Nếu không có sự kiện pháp lý xảy ra hoặc có nhưng không có sự tham gia
của con người hoặc có sự tham gia của con người nhưng không trái pháp luật thì
không truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Hành vi trái pháp luật là dấu hiệu phải xác định đầu tiên. Nếu không xác định
được hành vi trái pháp luật thì việc tìm hiểu các yếu tố khác sẽ trở nên vô nghĩa.
5.1.2. Sự thiệt hại của xã hội
Là những tổn thất về vật chất hoặc tinh thần mà xã hội phải gánh chịu, gây
tổn thất cho xã hội. Đó chính là lý do các hành vi vi phạm pháp luật cần phải bị xử
lý, bị ngăn chặn và bị phòng ngừa.
Mức độ nguy hiểm của hành vi được biểu hiện qua mức độ thiệt hại của xã
hội hoặc nguy cơ xảy ra sự thiệt hại của xã hội do hành vi đó gây nên. Trong nhiều
trường hợp mức độ gây thiệt hại còn là căn cứ để xác định loại trách nhiệm pháp lý.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại của xã hội. Để
truy cứu trách nhiệm pháp lý chuẩn xác thì cần phải xác định mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi trái pháp luật với thiệt hại của xã hội. Nghĩa là, phải xác định một cách
chắc chắn sự thiệt hại của xã hội là do chính hành vi trái pháp luật nói trên trực tiếp
gây ra. Nói cách khác, thiệt hại đó là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật.
Nếu không xác định được mối quan hệ nhân quả, thì sự thiệt hại trên thực tế
có thể do những nguyên nhân khác. Chẳng hạn, hành vi của chủ thể chỉ là một điều
kiện để nguyên nhân thực sự của nó làm phát sinh hậu quả (thiệt hại). Trong trường
hợp này không thể bắt chủ thể của hành vi trái pháp luật phải gánh chịu trách nhiệm
về những thiệt hại mà hành vi trái pháp luật của họ không trực tiếp gây ra.
Bên cạnh những yếu tố cơ bản trên thì còn có một số khách quan khác có ý
nghĩa đối với việc xác định tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật
như: lựa chọn biện pháp phòng ngừa, cải tạo, giáo dục chủ thể vi phạm pháp luật
một cách có hiệu quả…
5.2. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Bao gồm lỗi, động cơ, mục đích của chủ thể có hành vi trái pháp luật.
5.2.1. Lỗi

9
Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi của mình cũng như đối
với hậu quả của hành vi đó.4 Lỗi là biểu hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với xã
hội. Và căn cứ vào đó, khoa học pháp lý chia lỗi ra thành hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô
ý. Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có thể là lỗi vô ý tự
tin hoặc vô ý cẩu thả.
5.2.1.1. Lỗi cố ý trực tiếp
Là lỗi trong trường hợp chủ thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do
hành vi của mình gây ra và mong muốn điều đó xảy ra.
Nét đặc thù của hình thức lỗi này là cả lý trí và ý chí của chủ thể đều hướng
vào hành vi vi phạm. Chủ thể nhận thức rõ và quyết tâm thực hiện hành vi.
Trong tất cả các loại lỗi thì lỗi cố ý trực tiếp là loại lỗi có tính chất nguy
hiểm cao nhất, vì nó thể hiện rõ ý chí và thái độ chống đối xã hội, thái độ thiếu trách
nhiệm của chủ thể ở mức độ cao khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Với loại lỗi này thì nguy cơ gây thiệt hại của hành vi vi phạm thường rất lớn
vì chủ thể rất chủ động để đạt được hậu quả. Thậm chí, nhiều khi để đạt được hậu
quả, chủ thể còn thực hiện hàng loạt những hoạt động khác làm cho hành vi vi
phạm có tính chất nguy hiểm hơn (chẳng hạn, chủ thể có những cách thức che giấu
hành vi vi phạm pháp luật) hoặc thực hiện ở quy mô lớn hơn, như liên kết với chủ
thể khác (vi phạm có tính tổ chức) để vừa hoạt động dễ dàng thuận lợi, vừa an
toàn…
5.2.1.2. Lỗi cố ý gián tiếp
Là lỗi trong trường hợp chủ thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do
hành vi của mình gây ra, tuy không mong muốn nhưng để mặc cho nó xảy ra.
Cũng là lỗi cố ý, nhưng điểm khác biệt so với lỗi cố ý trực tiếp chính là thái
độ của chủ thể đối với hậu quả. Ở trường hợp trên: chủ thể cố gắng đạt được hậu
quả, còn trường hợp này: thái độ bàng quan và sự thiếu trách nhiệm, bỏ mặc cho
hậu quả xảy ra.
Về mặt nguyên tắc, lỗi cố ý gián tiếp có mức nguy hiểm thấp hơn so với lỗi
cố ý trực tiếp. Tuy nhiên, thái độ tiêu cực của người thực hiện hành vi vi phạm còn
được đánh giá thông qua những yếu tố khác, chẳng hạn như bỏ mặc để một thiệt hại
lớn xảy ra thì thể hiện tính trái đạo đức và thái độ tiêu cực lớn hơn. Do vậy, khi truy
4 VKSND huyện Tuy Đức. Phân tích mặt chủ quan của tội phạm. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Đắk Nông.
http://vksdaknong.gov.vn/Vien-Kiem-Sat-Nhan-Dan-Tinh-Dak-Nong/78/1122/2500/123527/Trao-
doi-phap-luat/Phan-tich-mat-chu-quan-cua-toi-pham-.html

10
cứu trách nhiệm pháp lý, để lựa chọn biện pháp xử lý thích hợp, cần xem xét lỗi của
chủ thể trong mối liên hệ với tất cả các yếu tố khác có liên quan.
5.2.1.3. Lỗi vô ý vì quá tự tin
Là lỗi trong trường hợp chủ thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do
hành vi của mình gây ra nhưng hy vọng, tin tưởng điều đó không xảy ra hoặc có thể
ngăn ngừa được.
Nét đặc thù của loại lỗi này là cố ý về hành vi và vô ý về hậu quả. Chủ thể
hoàn toàn nhận thức được nguy cơ xảy ra thiệt hại. Chủ thể không mong muốn hậu
quả đó và cũng không bỏ mặc. Có điều chủ thể đã đánh giá quá cao khả năng của
bản thân cũng như những thuận lợi khách quan đem lại. Chính sự đánh giá không
thực tế và không khách quan mà chủ thể rơi vào tình thế bị động trước hậu quả: khi
sự cố xảy ra thì mọi cố gắng của chủ thể thực sự không đủ để ngăn chặn thiệt hại.
Việc phân tích các tình tiết để xác định có lỗi vô ý vì quá tự tin hay không có
lỗi thường rất phức tạp. Song để không truy cứu oan đối với người người không có
lỗi thì cần phải đánh giá các tình tiết một cách khách quan, đầy đủ, chính xác. Cần
xem xét sự tin tưởng của chủ thể là có căn cứ và có thể được chấp nhận được với
tâm lý của một người bình thường hay không. Nếu rõ ràng là niềm tin của chủ thể
thiếu cơ sở thì chủ thể đã có lỗi.
5.2.1.4. Lỗi vô ý do cẩu thả
Là lỗi trong trường hợp chủ thể không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã
hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù cần phải thấy trước và có thể thấy trước.
Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp lỗi duy nhất mà chủ thể hoàn toàn không
nhận thức được hành vi cũng như hậu quả của hành vi này. Tuy nhiên, điều khác
biệt với trường hợp không có lỗi (ví dụ: trường hợp sự kiện bất ngờ) chính là ở chỗ:
ở sự kiện bất ngờ chủ thể không buộc phải thấy hoặc không cần phải thấy tính trái
pháp luật của hành vi. Đương nhiên, chủ thể cũng không buộc phải thấy hậu quả
nguy hiểm của hành vi này. Còn trường hợp lỗi vô ý cẩu thả thì chủ thể “buộc phải
thấy” và “có thể thấy”.
5.2.2. Động cơ, mục đích vi phạm
Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi vi
phạm. Ví dụ: Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy
định về Tội đánh bạc – động cơ phạm tội là các con bạc sát phạt nhau. Động cơ
phạm tội chỉ có thể đặt ra với các tội thực hiện với lỗi cố ý. Còn các tội thực hiện

11
với lỗi vô ý chỉ có động cơ của xử sự. Ví dụ: tại thời điểm vượt đèn đỏ, động cơ của
xử sự là để đưa bệnh nhân đến bệnh viện cấp cứu kịp thời nên đã gây hậu quả tai
nạn.
Đa số trường hợp phạm tội, động cơ phạm tội là tình tiết định khung tăng
nặng hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, việc xác định chúng có
ý nghĩa trong việc định khung hình phạt hoặc quyết định hình phạt. Ví dụ: Động cơ
đê hèn của tội giết người5.
Mục đích vi phạm là cái mốc mà người phạm tội đặt ra mong muốn đạt được
khi thực hiện hành vi. Giữa mục đích và hậu quả của hành vi vi phạm luôn có mối
liên quan chặt chẽ với nhau, hậu quả là sự thể hiện, sự phản ánh mục đích phạm tội.
Chính vì vậy mà trong mỗi cấu thành tội phạm chỉ có sự hiện diện của một trong hai
dấu hiệu này mà thôi. Thông thường những tội nào hậu quả khó xác định thì dấu
hiệu mục đích mới có thể được phản ánh trong cấu thành tội phạm. Ví dụ: Đối với
các tội xâm phạm an ninh quốc gia, mục đích phạm tội được phản ánh trong tất cả
các cấu thành tội phạm6.
5.2.3. Chủ thể vi phạm pháp luật
Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm
pháp lý và đã thực hiện hành vi trái pháp luật7.
Khi truy cứu trách nhiệm pháp lý nếu chủ thể của hành vi trái pháp luật là cá
nhân thì phải xem xét người đó đã đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật phải chịu
trách nhiệm pháp lý hay chưa? Thể chất, tinh thần của họ có phát triển bình thường
hay không? Trạng thái tâm lý của họ có phát triển bình thường hay không? Trạng
thái tâm lý của họ như thế nào ở thời điểm họ thực hiện hành vi trái pháp luật?
Trách nhiệm pháp lý sẽ không áp dụng nếu chủ thể là trẻ em chưa đến tuổi
pháp luật quy định, người mất năng lực hành vi do có nhược điểm thể chất hoặc
tinh thần hoặc mất năng lực hành vi ở thời điểm họ thực hiện hành vi trái pháp luật.
Nếu chủ thể là tổ chức thì phải chú ý đến tư cách pháp nhân của tổ chức đó. Trường
hợp vi phạm được thực hiện bởi một tổ chức không có tư cách pháp nhân thì trách

5 Sưu tầm. Động cơ và mục đích phạm tội. Viện Pháp Luật Ứng Dụng Việt Nam.
https://vienphapluatungdung.vn/dong-co-va-muc-dich-pham-toi.html

6 Sưu tầm. Động cơ và mục đích phạm tội. Viện Pháp Luật Ứng Dụng Việt Nam.
https://vienphapluatungdung.vn/dong-co-va-muc-dich-pham-toi.html

7 Thanh tra - Sở Nội vụ. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý. Sở nội vụ Tỉnh Quảng Bình
https://snv.quangbinh.gov.vn/3cms/Ban-in-507.htm?art=13829264414617

12
nhiệm pháp lý sẽ được xem xét với từng cá nhân của tổ chức đó tùy thuộc vai trò và
mức độ tham gia của họ vào quá trình thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
5.2.4. Khách thể vi phạm pháp luật
Khách thể của vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ
nhưng bị hành vi trái pháp luật xâm hại tới8.
Những quan hệ xã hội khác nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác
nhau, do vậy, tính chất và tầm quan trọng của khách thể cũng là yếu tố xác định
mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật.
Trong quá trình xem xét hành vi để truy cứu trách nhiệm pháp lý chính xác,
không truy cứu oan sai… phải xác định được quan hệ xã hội nào đã bị tổn hại? Mức
độ tổn hại? Quan hệ đó có được bảo vệ bằng pháp luật không? Nếu quan hệ xã hội
đó chưa được pháp luật bảo vệ thì hành vi xâm hại nó vẫn chưa phải là vi phạm
pháp luật và không bị truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Để truy cứu trách nhiệm pháp lý, ngoài việc xác định các yếu tố cấu thành
của vi phạm pháp luật thì ta còn phải xem xét thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp
lý và những trường hợp được miễn trách nhiệm pháp lý.
6. Các loại trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý mà Nhà nước áp dụng thông thường được chia thành
các loại:
6.1. Trách nhiệm hình sự
6.1.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hình sự
6.1.1.1. Khái niệm
Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người đã thực hiện một tội
phạm, phải chịu một biện pháp cưỡng chế nhà nước là hình phạt vì việc phạm tội
của họ. Hình phạt này do toà án quyết định trên cơ sở của luật hình, nó thể hiện sự
lên án, sự trừng phạt của nhà nước đối với người phạm tội và là một trong những
biện pháp để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh. Đây là loại trách
nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất9.

8 Thanh tra - Sở Nội vụ. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý. Sở nội vụ Tỉnh Quảng Bình
https://snv.quangbinh.gov.vn/3cms/Ban-in-507.htm?art=13829264414617

9 Thanh tra - Sở Nội vụ. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý. Sở nội vụ Tỉnh Quảng Bình
https://snv.quangbinh.gov.vn/3cms/Ban-in-507.htm?art=13829264414617

13
6.1.1.2. Đặc điểm
Dưới góc độ của khoa học pháp lý, trách nhiệm hình sự có các đặc điểm cơ
bản sau:
● Trách nhiệm hình sự là “hậu quả pháp lý của việc phạm tội thể hiện ở chỗ
người đã gây tội phải chịu trách nhiệm trước nhà nước”.
● Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý. Là trách nhiệm của
người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp
luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó thực hiện.
● Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được
thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp
cưỡng chế của nhà nước do luật hình sự quy định.
● Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ
phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu Trách nhiệm hình sự, chịu bị
kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện
pháp tư pháp) và mang án tích.
6.1.2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Cơ sở của trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 2 của Bộ luật hình sự:
“1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải
chịu trách nhiệm hình sự.
2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều
76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Việc quy định tại điều 2 có ý nghĩa rất lớn, bởi theo đó thì chỉ khi nào người
thực hiện hành vi chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể
mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định như vậy giúp đảm bảo nguyên tắc
pháp chế trong luật hình sự, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
● Về mặt khách quan: một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi là cách cư xử của con người ra
thế giới khách quan được thể hiện bằng hành động hoặc không hành động
trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh khi có hành vi phạm tội. Hành vi đó có thể
gây thiệt hại hoặc có nguy cơ gây thiệt hại cho xã hội.

14
● Về mặt chủ quan: cơ sở của trách nhiệm hình sự dựa trên yếu tố “lỗi” của
người phạm tội khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Lỗi được dựa
trên quan điểm chủ quan của người phạm tội.
● Về mặt khách thể: Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội phải xâm
hại đến quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Đây là dấu hiệu bắt
buộc để xác định có cấu thành tội phạm hay không. Ngoài ra có các dấu hiệu
không bắt buộc như: đối tượng của tội phạm, người bị hại.
● Về mặt chủ thể: chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình
sự, tức là khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi của mình. Người đó phải đủ độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự quy định tại điều 12 của Bộ luật hình sự.10
Ví dụ minh họa: Anh D với anh H cãi nhau về đất đai, trong lúc say rượu anh
D đã đánh anh H trong trạng thái tinh thần kích động mạnh gây tổn thương sức
khỏe, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 32% , anh D phải chịu trách nhiệm hình sự trước
hành vi của mình.11
6.2. Trách nhiệm dân sự
6.2.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm dân sự
6.2.1.1. Khái niệm
Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm của một chủ thể phải gánh chịu những
biện pháp cưỡng chế nhà nước nhất định khi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ
thể khác hoặc khi vi phạm nghĩa vụ dân sự đối với bên có quyền. Biện pháp cưỡng
chế phổ biến đi kèm trách nhiệm này là bồi thường thiệt hại12.
6.2.1.2. Đặc điểm
Như đã khẳng định ở trên, trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp
lý nói chung, nên giống như các loại trách nhiệm pháp lý khác, nó cũng có những
đặc điểm chung sau đây:
● Là hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm, chỉ được áp dụng khi có hành vi vi
phạm pháp luật và chỉ áp dụng đối với người có hành vi vi phạm đó.

10 Công ty Luật FBLAW. Trách nhiệm hình sự là gì? Quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự?
FBLAW.
https://fblaw.vn/trach-nhiem-hinh-su-la-gi-quy-dinh-do-tuoi-chiu-trach-nhiem-hinh-su/
11 Phạm Kim Oanh. Trách nhiệm pháp lý là gì?
https://luathoangphi.vn/trach-nhiem-phap-ly-la-gi/
12 Thanh tra - Sở Nội vụ. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý. Sở nội vụ Tỉnh Quảng Bình
https://snv.quangbinh.gov.vn/3cms/Ban-in-507.htm?art=13829264414617

15
● Là một hình thức cưỡng chế của nhà nước và do cơ quan có thẩm quyền của
nhà nước áp dụng.
● Luôn mang đến một hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm.
Ngoài những đặc điểm chung của trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm dân sự
còn mang những đặc điểm riêng như sau:
● Căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự là hành vi vi phạm luật dân sự hoặc vi
phạm hợp đồng (đó là việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không
đầy đủ nghĩa vụ của người có nghĩa vụ dân sự).
● Trách nhiệm dân sự mang tính tài sản. Đây chính là đặc điểm cơ bản của
trách nhiệm dân sự. Do đó, trách nhiệm dân sự của người vi phạm bao giờ
cũng là sự bù đắp cho bên vi phạm những lợi ích vật chất nhất định.
● Chủ thể chịu trách nhiệm dân sự có thể là người vi phạm nhưng cũng có thể
là người khác, như là người đại diện theo pháp luật cho người chưa thành
niên, pháp nhân, cơ quan, tổ chức.
● Hậu quả bất lợi mà người vi phạm phải chịu là việc bắt buộc phải thực hiện
nghĩa vụ hoặc bồi thường thiệt hại nhằm bảo vệ quyền và khắc phục vật chất
cho bên vi phạm.
6.2.2. Cơ sở của trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự phát sinh khi cá nhân, tổ chức vi phạm sự thỏa thuận
trong giao dịch dân sự, hay có lỗi trong việc thực hiện hành vi gây thiệt hại đối với
người khác.
Sự thỏa thuận của các bên là cơ sở hình thành nghĩa vụ dân sự.
Vậy nên, việc vi phạm nghĩa vụ dân sự là căn cứ phát sinh trách nhiệm đối
với các chủ thể.
Ngoài ra, còn phải dựa vào việc vi phạm nghĩa vụ đấy có gây ra thiệt hại cụ
thể và có mối quan hệ nhân quả giữa nghĩa vụ và thiệt hại hay không?
Như vậy, trách nhiệm bồi thường chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố như:
lỗi, có thiệt hại vật chất xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi không thực
hiện nghĩa vụ và thiệt hại vật chất.
Ví dụ minh họa: Chị A có vay tiền của anh B, số tiền là 100.000.000 đồng,
hai bên ký hợp đồng vay tiền với thời hạn là 1 năm ( từ 25/8/2020 đến 25/8/2021)
với lãi suất 1%. Đến thời điểm thanh toán, nếu chị B không trả đủ tiền theo thỏa

16
thuận, chị A phải chịu trách nhiệm pháp lý về dân sự (trách nhiệm dân sự) như trả
đủ tiền gốc và lãi, bồi thường thiệt hại và chịu phạt vi phạm theo thỏa thuận.
6.3. Trách nhiệm hành chính
Quản lý Nhà Nước là một hoạt động quan trọng và cần thiết nhằm quản lý
các mối quan hệ xã hội theo một quy luật nhất định. Chính vì nhu cầu quản lý cấp
thiết đó, Nhà nước cho ra đời Luật Hành chính để quản lý và đảm bảo các mối quan
hệ xã hội trên.
6.3.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hành chính
6.3.1.1. Khái niệm
Trách nhiệm hành chính là trách nhiệm của một cơ quan, tổ chức hoặc cá
nhân đã thực hiện một vi phạm hành chính, phải gánh chịu một biện pháp cưỡng
chế hành chính tuỳ theo mức độ vi phạm của họ. Biện pháp cưỡng chế này do một
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền quyết định trên cơ sở pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính13.
6.3.1.2 Đặc điểm
● Trách nhiệm hành chính chỉ đặt ra đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính.
● Truy cứu trách nhiệm hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm là việc
chủ thể có thẩm quyền áp dụng một trong các hình thức xử phạt đối với cá
nhân, tổ chức này.
● Trách nhiệm hành chính là trách nhiệm pháp lý của tổ chức, cá nhân vi phạm
trước Nhà nước. Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính xâm hại đến trật tự
quản lý Nhà nước và chỉ Nhà nước mới có quyền áp dụng chế tài đối với các
chủ thể đó, do vậy trách nhiệm của cá nhân, tổ chức phải gánh chịu trước
Nhà nước.
● Việc truy cứu trách nhiệm hành chính được thực hiện trên cơ sở các quy định
của pháp luật hành chính.
6.3.2. Cơ sở của trách nhiệm hành chính

13 Thanh tra - Sở Nội vụ. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý. Sở nội vụ Tỉnh Quảng Bình
https://snv.quangbinh.gov.vn/3cms/Ban-in-507.htm?art=13829264414617

17
Cơ sở phát sinh bất cứ loại trách nhiệm pháp lý nào cũng đều là vi phạm
pháp luật. Không có vi phạm pháp luật thì không thể truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Như vậy, cơ sở phát sinh trách nhiệm hành chính là vi phạm hành chính.
Cấu thành vi phạm hành chính:
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những dấu hiệu bên ngoài của
VPHC, bao gồm:
- Hành vi trái pháp luật: vi phạm hành chính phải là hành vi (hành động
hoặc không hành động)
- Pháp luật cấm
- Không thực hiện hành vi pháp luật buộc phải thực hiện
- Không thực hiện đúng những gì pháp luật yêu cầu
- Có tính nguy hiểm cho xã hội.
- Hậu quả do VPHC gây ra: Xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ (trật tự quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, sở hữu nhà nước, là quyền, lợi
ích hợp pháp của tập thể, cá nhân), bao gồm hậu quả vật chất và hậu quả phi vật
chất.
- Mối liên hệ nhân quả: Với các vi phạm hành chính mà hậu quả là yếu tố
bắt buộc thì phải xác định giữa hành vi vi phạm và hậu quá có quan hệ nhân quả
trực tiếp.
- Thời gian, địa điểm: Cũng tương tự mối quan hệ nhân quả, đây không
phải là yếu tố bắt buộc trong mặt khách quan của cấu thành vi phạm hành chính, chỉ
đối với những vi phạm hành chính nhất định thì địa điểm, thời gian mới đóng vai
trò quan trọng, thậm chí quyết định có vi phạm xảy ra hay không.
- Phương tiện, công cụ thực hiện vi phạm hành chính : cũng là một trong
những yếu tố bắt buộc trong một số cấu thành vi phạm hành chính.
· Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là những dấu hiệu bên trong, thể
hiện thái độ, trạng thái tâm lý của người vi phạm đối với hành vi trái pháp luật,
nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và với hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã
hội, bao gồm các dấu hiệu:
- Lỗi: Là dấu hiệu bắt buộc.
- Lỗi có hai dạng: lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý.

18
- Độ tuổi và khả năng nhận thức là căn cứ để loại trừ yếu tố lỗi trong vi
phạm hành chính.
- Động cơ, mục đích vi phạm: Là dấu hiệu không bắt buộc.
· Chủ thể vi phạm hành chính
- Cá nhân: là công dân Việt Nam
- Nhóm chủ thể là người chưa thành niên: a. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi : xử phạt về hành vi cố ý. b. Người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi : bị xử phạt
về mọi hành vi.
Ví dụ minh họa: A bán hoa quả, các loại bánh trái trên vỉa hè ở nơi có quy
định cấm bán hàng rong, bị cảnh sát giao thông phạt 100.000 đồng. Việc A bán hoa
quả chính là vi phạm hành chính, cụ thể vi phạm kết cấu hạ tầng giao thông đường
bộ tại mục 2 chương II Nghị định 100.
6.4. Trách nhiệm kỷ luật
6.4.1. Khái niệm và nguyên tắc của trách nhiệm kỷ luật
6.4.1.1. Khái niệm
Trách nhiệm kỷ luật là trách nhiệm của một chủ thể (cá nhân hoặc tập thể) đã
vi phạm kỷ luật lao động, học tập, công tác hoặc phục vụ được đề ra trong nội bộ cơ
quan, tổ chức và phải chịu một hình thức kỷ luật nhất định theo quy định của pháp
luật14.
Cụ thể hơn, kỷ luật là hình thức trừng phạt thuộc quyền của một số cơ quan,
chính quyền và nhà chức trách hành chính đối với nhân viên dưới quyền mình, khi
người đó vi phạm quy chế, kỷ luật công tác, hoặc vi phạm những khuyết điểm mang
lại những hậu quả xấu cho cơ quan, công vụ. Trách nhiệm kỉ luật của công chức là
một loại trách nhiệm pháp lí do cơ quan, đơn vị có thẩm quyền áp dụng đối với
những công chức có hành vi các quy định về nghĩa vụ đạo đức và văn hóa giao tiếp;
vi phạm các quy định về những việc công chức không được làm và vi phạm pháp
luật bị tòa án tuyên là có tội hoặc bị cơ quan có thẩm quyền kết luận bằng văn bản
về hành vi vi phạm pháp luật.
6.4.1.2. Nguyên tắc xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức

14 Thanh tra - Sở Nội vụ. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý. Sở nội vụ Tỉnh Quảng Bình
https://snv.quangbinh.gov.vn/3cms/Ban-in-507.htm?art=13829264414617

19
“Mỗi hành vi vi phạm chỉ bị xử lý một lần bằng một hình thức kỷ luật. Trong
cùng một thời điểm xem xét xử lý kỷ luật, nếu cán bộ, công chức, viên chức có từ
02 hành vi vi phạm trở lên thì bị xử lý kỷ luật về từng hành vi vi phạm và áp dụng
hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so với hình thức kỷ luật áp dụng đối với hành
vi vi phạm nặng nhất, trừ trường hợp bị xử lý kỷ luật bằng hình thức bãi nhiệm,
buộc thôi việc; không tách riêng từng nội dung vi phạm của cán bộ, công chức, viên
chức để xử lý kỷ luật nhiều lần với các hình thức kỷ luật khác nhau.
Khách quan, công bằng; công khai, minh bạch; nghiêm minh, đúng pháp luật
Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức đang trong thời gian thi hành quyết
định kỷ luật tiếp tục có hành vi vi phạm thì bị áp dụng hình thức kỷ luật như sau:
- Nếu có hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật ở hình thức nhẹ hơn hoặc bằng so
với hình thức kỷ luật đang thi hành thì áp dụng hình thức kỷ luật nặng hơn một mức
so với hình thức kỷ luật đang thi hành.
- Nếu có hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật ở hình thức nặng hơn so với hình
thức kỷ luật đang thi hành thì áp dụng hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so với
hình thức kỷ luật áp dụng đối với hành vi vi phạm mới.
Khi xem xét xử lý kỷ luật phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ, tác
hại, nguyên nhân vi phạm, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, thái độ tiếp thu và
sửa chữa, việc khắc phục khuyết điểm, vi phạm, hậu quả đã gây ra.
Không áp dụng hình thức xử phạt hành chính hoặc hình thức kỷ luật đảng
thay cho hình thức kỷ luật hành chính; xử lý kỷ luật hành chính không thay cho truy
cứu trách nhiệm hình sự, nếu hành vi vi phạm đến mức bị xử lý hình sự.
Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức đã bị xử lý kỷ luật đảng thì hình
thức kỷ luật hành chính phải bảo đảm ở mức độ tương xứng với kỷ luật đảng.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày công bố quyết định kỷ luật đảng, cơ
quan, tổ chức, đơn vị phải xem xét, quyết định việc xử lý kỷ luật hành chính.
Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm thân thể, tinh thần, danh dự, nhân phẩm
trong quá trình xử lý kỷ luật.
Cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm lần đầu đã bị xử lý kỷ luật
mà trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày quyết định xử lý kỷ luật có hiệu lực có cùng
hành vi vi phạm thì bị coi là tái phạm; ngoài thời hạn 24 tháng thì hành vi vi phạm

20
đó được coi là vi phạm lần đầu nhưng được tính là tình tiết tăng nặng khi xem xét
xử lý kỷ luật”.15
6.4.2. Các hành vi nào của cán bộ, công chức, viên chức bị xử lý kỷ luật ?
Theo Điều 6 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP quy định:
“Điều 6. Các hành vi bị xử lý kỷ luật
1) Cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm các quy định về nghĩa
vụ của cán bộ, công chức, viên chức; những việc cán bộ, công chức, viên chức
không được làm; nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; vi phạm đạo đức,
lối sống hoặc vi phạm pháp luật khác khi thi hành công vụ thì bị xem xét xử lý kỷ
luật.
2) Mức độ của hành vi vi phạm được xác định như sau:
- Vi phạm gây hậu quả ít nghiêm trọng là vi phạm có tính chất, mức độ tác
hại không lớn, tác động trong phạm vi nội bộ, làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ
quan, tổ chức, đơn vị công tác.
- Vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng là vi phạm có tính chất, mức độ, tác
hại lớn, tác động ngoài phạm vi nội bộ, gây dư luận xấu trong cán bộ, công chức,
viên chức và nhân dân, làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác.
- Vi phạm gây hậu quả rất nghiêm trọng là vi phạm có tính chất, mức độ,
tác hại rất lớn, phạm vi tác động đến toàn xã hội, gây dư luận rất bức xúc trong cán
bộ, công chức, viên chức và nhân dân, làm mất uy tín của cơ quan, tổ chức, đơn vị
công tác.
- Vi phạm gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là vi phạm có tính chất, mức
độ, tác hại đặc biệt lớn, phạm vi tác động sâu rộng đến toàn xã hội, gây dư luận đặc
biệt bức xúc trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân, làm mất uy tín của cơ
quan, tổ chức, đơn vị công tác.”
Ví dụ minh họa: Sinh viên sử dụng tài liệu làm bài thi khi đề thi không cho
phép.
6.5. Một số trách nhiệm pháp lý khác
Trách nhiệm hiến pháp là trách nhiệm mà một chủ thể phải gánh chịu khi họ
vi phạm hiến pháp, chế tài đi kèm trách nhiệm này. Trách nhiệm hiến pháp vừa là
trách nhiệm pháp lý đồng thời cũng là trách nhiệm chính trị. Chủ thể phải chịu trách

15 Nghị định 112/2020/NĐ-CP

21
nhiệm hiến pháp thường là các cơ quan Nhà nước hoặc những quan chức cấp cao
làm việc cho Nhà nước.
Trách nhiệm vật chất là trách nhiệm mà người lao động phải gánh chịu khi
gây ra thiệt hại cho tài sản của doanh nghiệp (như làm hư hỏng hoặc làm mất dụng
cụ, thiết bị, các tài sản khác do doanh nghiệp, giao cho hoặc tiêu hao vật tư quá định
mức cho phép) hoặc công chức phải gánh chịu vì trong khi thi hành công vụ gây ra
thiệt hại cho tài sản của nhà nước hoặc của chủ thể khác. Người lao động hoặc công
chức phải bồi thường một phần hoặc toàn bộ thiệt hại theo thời giá thị trường và có
thể được bồi thường bằng cách trừ dần vào lương hàng tháng.
Trách nhiệm pháp lý của quốc gia trong quan hệ quốc tế: Quốc gia cũng có
thể phải chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế trong quan hệ quốc tế. Trách nhiệm này
có thể phát sinh từ hành vi vi phạm luật quốc tế của quốc gia. Ví dụ: Quốc gia
không thực hiện các cam kết quốc tế mà mình đã công nhận (CEDAW) hoặc ban
hành luật trái với luật quốc tế, không ngăn chặn kịp thời các hành vi cực đoan tấn
công cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài của những người biểu tình… Trách
nhiệm này cũng có thể phát sinh khi có hành vi mà luật quốc tế không cấm. Ví dụ:
Quốc gia sử dụng tên lửa vũ trụ, tàu năng lượng hạt nhân, nhà máy điện nguyên tử
… gây ra thiệt hại cho vật chất cho các chủ thể khác của luật quốc tế.
7. Những trường hợp không chịu trách nhiệm pháp lý
Pháp luật hiện hành có nêu ra một số trường hợp không phải chịu trách
nhiệm pháp lý, đó là những trường hợp sau:
- Người vi phạm không có năng lực hành vi dân sự, đây là trường hợp trẻ
em chưa đủ 6 tuổi hay người bị mất năng lực hành vi dân sự.
- Người vi phạm chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý.
- Miễn trách nhiệm pháp lý.
- Hết thời hiệu chịu trách nhiệm pháp lý.
- Pháp luật quy định cấm nhưng không có chế tài.
- Sự kiện bất ngờ trong Luật hình sự: được hiểu là việc người thực hiện
hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp
không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó.16

16 Nguyễn Thị Yến. Như thế nào là sự kiện bất ngờ. Hệ thống tư vấn Luật.
http://hinhsu.luatviet.co/nhu-the-nao-la-su-kien-bat-ngo/n20161028120822336.html

22
·Phòng vệ chính đáng trong Luật hình sự: là hành vi của người vì bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của
người khác, mà chống trả lạ một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm
các lợi ích nói trên.
·Tình thế cấp thiết trong Luật hình sự: là tình thế của người vì muốn tránh
một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích
chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây
một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
1. Thực trạng về trách nhiệm pháp lý hình sự
1.1 Một số đổi mới và tiến bộ
Bộ luật Hình sự hiện hành là Bộ luật Hình sự năm 2015, bổ sung năm 2017.
Điều 1 Bộ luật Hình sự quy định nhiệm vụ của Bộ luật này như sau:
“Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa – an ninh của đất nước, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc,
quyền công dân, quyền con người, bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, tổ chức, chống phá mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm. Đồng thời, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giáo dục người dân hiểu và tuân
theo quy định pháp luật.”17
Nhằm đáp ứng kịp thời những chuyển biến, nhanh chóng thay đổi của kinh tế xã hội
thì Bộ luật hình sự hiện hành đã có nhiều thay đổi như sau:
Thứ nhất, nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về hình thức phạt tù thì cần
phải hạn chế, mở rộng phạm vi áp dụng đối với các hình phạt khác. Cụ thể là hình
thức phạt chính được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm
trọng. Đồng thời, nội hàm của tội phạm “cải tạo không giam giữ” cũng đã được mở
rộng.
Thứ hai, những quy định về không áp dụng hình phạt tử hình, không thi hành
án tử hình đối với một số trường hợp nhất định.
Thứ ba, Bộ luật hình sự đã có quy định xử lý hình sự đối với các pháp nhân
nếu họ vi phạm–lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam.

17 Điều 1 Bộ luật hình sự 2015, bổ sung và sửa đổi 2017

23
Thứ tư, thu hẹp lại khoảng cách giữa các khung hình phạt nhằm tránh bị lạm
dụng khi áp dụng đối với các khung phạt quá rộng như trước đây.
Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực đã đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính
hướng thiện, có có ý nghĩa rất lớn trong việc quản lý xã hội và việc xử lý những
hành vi vi phạm. Bộ luật hình sự năm 2015 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đóng vai
trò thể chế hóa Hiến pháp 2013, thể chế hóa tinh thần của Cải cách tư pháp trong
Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị; Coi trọng việc hoàn thiện các
chính sách pháp luật về hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng
ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội và trong công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm theo hướng giảm bớt hình phạt tù, mở rộng hình phạt
tiền và hình phạt cải tạo không giam giữ, thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tử hình
đồng thời quy định trong Bộ luật Hình sự những hành vi nguy hiểm mới xuất hiện
trong xã hội là tội phạm. Bên cạnh đó Bộ luật Hình sự năm 2015 còn góp phần vào
việc hoàn thiện và lành mạnh hóa thể chế kinh tế thị trường bằng việc có những sửa
đổi quan trọng đối với các tội phạm về kinh tế. Một lần nữa khẳng định Bộ luật
Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực từ 1/1/2018 đã tạo cơ sở
pháp lý cho các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan bảo vệ pháp luật trấn áp tội
phạm đồng thời tạo cơ sở pháp lý để người dân tự bảo vệ mình và góp phần quan
trọng vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới.
1.2 Những bất cập còn tồn tại
Thứ nhất, Những điều luật của Nhà nước được quy định trong luật hình sự và
tố tụng hình sự thể chính xác quan điểm của Nhà nước về việc xử lý các hành vi có
mức độ nguy hiểm đáng kể đối với xã hội được thực hiện bởi những cá nhân không
có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc là chưa đến đủ tuổi để chịu trách nhiệm pháp
lý hình sự là vẫn còn nhập nhằng, chưa hoàn toàn dứt khoát, không xác định rõ ràng
chủ thể đó vô tội hay có tội. Chi tiết đó là, trong khi truy cứu trách nhiệm pháp lý
hình sự, quy định không khởi tố vụ án hình sự được quy định tại điều 157 Bộ luật
Tố tụng hình sự khi có một trong những căn cứ sau:
- Không có sự việc phạm tội;
- Hành vi không cấu thành tội phạm;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách
nhiệm pháp lý hình sự...
Không nhất thiết phải tách riêng khoản 2 và 3 vì căn cứ không khởi tố vụ án
được quy định tại khoản 3 là một bộ phận nằm trong và không thể tách rời của căn

24
cứ được quy định tại khoản 2. Theo tinh thần của điều 8 Bộ luật hình sự bây giờ thì
khái niệm của tội phạm là: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc”18…. Như thế, hành vi không thể được coi là tội phạm khi hành vi đó gây
nguy hiểm cho xã hội nhưng do người do người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm
pháp lý hình sự thực hiện. “Xét theo các yếu tố cấu thành tội phạm trong khoa học
pháp lý hình sự (chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan) thì hành vi này
rõ ràng không cấu thành tội phạm do không thỏa mãn yếu tố chủ thể của tội phạm,
cụ thể ở đây là độ tuổi của chủ thể (chủ thể chưa có năng lực hành vi hình sự). Vì
thế, hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bởi chủ thể chưa đến tuổi chịu
trách nhiệm pháp lý hình sự chính là hành vi không cấu thành tội phạm”.
Mặc dù vậy, điều 359 Bộ luật Tố tụng Hình sự lại tiếp tục phân biệt hậu quả
pháp lý của khoản 2 và khoản 3 điều 157 Bộ luật Tố tụng Hình sự nêu trên bằng
cách quy định: khi có căn cứ quy định tại điểm 2 Điều 157 thì tòa án cấp phúc thẩm
hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ giải quyết vụ án trong khi
đó căn cứ tại điểm 3 điều 157 không là căn cứ để tuyên bị cáo vô tội mà chỉ là điều
kiện để tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Thứ hai, tại điều 2 Bộ luật hình sự có quy định: “Chỉ người nào phạm một
tội..” là nói đến người mà đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phạm tội đã được
nêu ra trong mặt khách quan để cấu thành nên tội phạm rồi nhưng mà sau đó, tại
điều 17 của Bộ luật hình sự lại quy định đoạn 2 Điều 17 Bộ luật Hình sự lại quy
định: "Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm
trọng thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện”, nghĩa là nếu có ai đó
chỉ mới "tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác
để thực hiện tội phạm đối với một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm
trọng”19 đã phải chịu trách nhiệm hình sự rồi, không cần phải yêu cầu là thực hiện
hành vi phạm tội. Bởi rằng, theo logic học là nếu một người chưa thực hiện hành vi
phạm tội theo mặt khách quan của tội phạm thì họ không thể bị áp dụng các chế tài
trong điều khoản, luật đó quy định theo đúng nghĩa; nhưng mà tại điều 52 Bộ luật
hình sự có quy định điều này. Lý do nên có quy định này bởi vì đây là trường hợp
vô cùng đặc biệt. Nếu như để tội phạm nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng xảy ra
thì sẽ vô cùng nguy hiểm đối với xã hội bời vì thế nên các nhà làm luật mới quy

18 Điều 8 Bộ Luật hình sự 2015, bổ sung và sửa đổi 2017


19 Điều 15 Bộ luật hình sự 2015, bổ sung và sửa đổi năm 2017

25
định như vậy nhằm ngăn chặn, răn đe và giáo dục đối với những cá nhân có ý định
phạm một trong các tội đã nêu trên.
2. Thực trạng về trách nhiệm pháp lý hành chính
2.1 Một số đổi mới và tiến bộ
So với các văn bản pháp luật trước đây, Luật Tố tụng hành chính năm 2015
có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng có tính khả thi cao, thể hiện và triển khai chủ
trương, chính sách của Đảng, của Nhà nước về đường lối giải quyết khiếu kiện hành
chính nói riêng và cải cách hành chính nói chung. Luật Tố tụng hành chính đã tạo
lập và đảm bảo trật tự pháp luật trong các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
giải quyết vụ án hành chính, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, vị thế pháp lý bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng. Ngoài ra Luật còn bảo
đảm pháp chế và kỷ luật trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, góp phần
nâng cao tăng cường hiệu lực quản lý hành chính Nhà nước; bảo đảm cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện đúng cái chức năng, nhiệm vụ. Cụ thể những điểm mới trong
Luật tố tụng hành chính như sau:
Thứ nhất, Luật tố tụng hành chính 2015 đã sửa đổi, bổ sung một số khái
niệm như quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định hành chính, hành
vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức, Luật còn bổ sung một số thuật
ngữ mới như Quyết định hành chính bị kiện hay Hành vi hành chính bị kiện.
Thứ hai, Luật đã bổ sung Quy định nguyên tắc về bảo đảm tranh tụng trong
xét xử (Điều 18) đặc biệt là “Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Luật này” và
“Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách
quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định của
Luật này”.
Thứ ba, Luật mới còn bổ sung quy định “Trong quá trình giải quyết vụ án
hành chính, Tòa án có quyền xem xét về tính hợp pháp của văn bản hành chính,
hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị
kiện và kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại văn bản
hành chính, hành vi hành chính đó và trả lời kết quả cho Tòa án theo quy định của
Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; Tòa án có quyền kiến nghị cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy
phạm pháp luật nếu phát hiện văn bản đó có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn

26
bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của Luật này
và quy định khác của pháp luật có liên quan để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm trả
lời Tòa án kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật bị kiến nghị theo quy định của
pháp luật làm cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án (Điều 6).”
Thứ tư, ngoài việc kế thừa các quy định của Luật Tố tụng Hành chính năm
2010 về những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và để đảm bảo
tính khả thi, Luật mới quy định quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
tại Tòa án nhân dân và quyết định xử lý hành chính các hành vi cản trở hoạt động tố
tụng của Tòa án nhân dân không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Luật
còn bổ sung đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là danh sách cử tri trưng cầu ý
dân để bảo đảm phù hợp với Luật trưng cầu ý dân.
Thứ năm, nhằm giải quyết những vướng mắc từ thực tiễn trong trường hợp
có sự thay đổi địa giới hành chính, Luật mới bổ sung quy định “Trường hợp sát
nhập, chia, tách, giải thể, điều chỉnh địa giới hành chính trong một đơn vị hành
chính mà đối tượng của quyết định hành chính có sự thay đổi thì cơ quan, tổ chức,
cá nhân đã ra quyết định hành chính có trách nhiệm tham gia tố tụng với tư cách là
người bị kiện tại Tòa án nơi cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính bị
kiện. Cơ quan tiếp nhận đối tượng của quyết định hành chính bị kiện phải tham gia
tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo khoản 5 Điều 59”.
Thứ sáu, Luật còn bổ sung quy định: “Trường hợp đương sự khiếu nại theo
đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau: a) 01 năm kể từ ngày nhận
được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải
quyết khiếu nại lần hai; b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo
quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải
quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại” để khắc phục tình trạng khi
người dân khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nhưng không
được giải quyết và cũng không thông báo cho người khiếu nại, dẫn đến nhiều
trường hợp khi họ khởi kiện ra Tòa án thì thời hiệu khởi kiện đã hết (thời hiệu tính
từ ngày họ nhận được hoặc biết được quyết định hành chính).
Thứ bảy, Luật mới quy định cụ thể về thủ tục rút gọn giải quyết vụ án hành
chính, để bảo đảm giải quyết nhanh gọn, kịp thời những vụ án đơn giản, chứng cứ
đã rõ ràng, tránh việc giải quyết vụ án bị kéo dài, gây tốn kém thời gian, công sức,
chi phí của đương sự và của Toà án trong việc giải quyết vụ án.

27
2.2 Những bất cập còn tồn tại
Pháp luật về trách nhiệm hành chính những năm qua đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quan tâm hoàn thiện. Tuy nhiên, với trách nhiệm hành chính
của công chức còn những tồn tại sau đây:
Hệ thống các biện pháp trách nhiệm hành chính của chúng ta chưa đa dạng,
còn bất cập. Như việc áp dụng hình thức phạt tiền trong thực tế không phải lúc nào
cũng đạt được kết quả mong muốn trong việc phòng ngừa vi phạm pháp luật.
Công tác xây dựng văn bản quy định việc xử phạt vi phạm hành chính trên
các lĩnh vực quản lý chưa kịp thời được ban hành để đáp ứng yêu cầu quản lý, nhất
là đối với những vi phạm của hoạt động công chức trong hoạt động công vụ.
Bên cạnh đó, việc xử lý các trách nhiệm hành chính đối với các cá nhân hay
tổ chức vi phạm hành chính. Những vi phạm này có thể là cố tình hoặc vô tình và
việc xử lý những vi phạm đó đều ảnh hưởng đến trật tự xã hội, kỷ cương nhà nước.
Dù vi phạm đó là cố ý hay vô ý đều cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.
Không chỉ vì việc vi phạm đó là do vô ý mà không phải chịu trách nhiệm cho những
hành vi của mình, nếu việc bỏ qua như thế những trường hợp đó thì những người
khác sẽ không rút ra được kinh nghiệm, bài học cho mình. Những vi phạm đó sẽ lặp
đi lặp lại, dẫn đến hệ quả nghiêm trọng là kỷ cương điều hành bị rối loạn, thậm chí
phá vỡ.
Nhưng mà, người vi phạm hành chính luôn tìm cách trốn tránh trách nhiệm,
kể cả không phải do cố ý và việc xử lý đối với vi phạm hành chính thì không phải
lúc nào cũng phức tạp. Đối với người bình thường thì việc đó là bình thường, nhưng
còn đối với cán bộ công chức nhà nước thì họ luôn tìm cách đối phó để không chịu
trách nhiệm hành chính bởi vì họ biết rõ rằng điều đó sẽ tạo hậu quả pháp lý không
tốt đối với cá nhân hoặc tổ chức dù vi phạm đó là nặng hay là nhẹ. “Suy cho cùng,
trách nhiệm hành chính cũng mang đặc điểm và tính chất chung của trách nhiệm
pháp lý, không làm tròn trách nhiệm này là vi phạm pháp luật. Khi bị xử lý trách
nhiệm hành chính cũng có nghĩa là cơ quan nhà nước có chức năng đã thay mặt nhà
nước thể hiện thái độ đối với chủ thể vi phạm”20. Đó chính là việc thực hiện một
loại nghĩa vụ đặc biệt, chỉ phát sinh khi có vi phạm pháp luật. Đối với cá nhân, danh
dự có thể bị mất trong công việc, hơn thế nữa có nhiều trường hợp bất lợi ngoài ý

20 Nguyễn, Tuấn Quốc. “Trách nhiệm hành chính và đảm bảo kỷ cương trong quản lý nhà nước.”
Tạp chí TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC, 24 7 2016,
https://tcnn.vn/news/detail/34004/Trach_nhiem_hanh_chinh_va_dam_bao_ky_cuong_trong_quan_
ly_nha_nuocall.html?
fbclid=IwAR0bcBsznWnXhaT14QKV3b16hWhQX1aDzhC8kBPL3unn_NaVhRsSn2RijCU.

28
muốn đã giáng chức, điều chuyển công tác,..Từ đó, có khá nhiều trường hợp không
muốn bị ảnh hưởng nên cố gắng muốn được bỏ qua không phải xử lý trách nhiệm vi
phạm hành chính, hoặc không muốn truy cứu đến cùng. Ví dụ là nếu bị phạt tiền thì
không muốn bị ghi lại biên bản nghĩa là không muốn để lại bằng chứng bất lợi về
mặt pháp lý. Nếu bị phê bình thì không muốn bị ghi lại vào hồ sơ đánh giá, điều đó
sẽ làm mất uy tín cá nhân đối với các cá nhân, tổ chức khác. Vì thế nhiều cá nhân,
tổ chức đã có xu hướng hối lộ, mua chuộc các cán bộ ủy quyền, cơ quan chức năng.
Đây là một hiện tượng cần phải được loại bỏ trong đời sống xã hội ngày nay.
3. Thực trạng trách nhiệm pháp lý dân sự
3.1 Một số đổi mới và tiến bộ
Bộ luật dân sự 2015 ra đời trên cơ sở kế thừa, phát huy truyền thống pháp
luật dân sự Việt Nam, thành tựu của các Bộ luật dân sự năm 1995 và năm 2005, rút
kinh nghiệm điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự qua 30 năm đất nước đổi mới
toàn diện và hội nhập quốc tế, Bộ luật dân sự năm 2015 được Quốc hội thông qua
đã ghi nhận nhiều nội dung mới, quan trọng, mang tính đột phá cả về nhận thức và
tư duy lập pháp trong việc hoàn thiện cơ chế pháp lý điều chỉnh quan hệ dân sự
trong đời sống hàng ngày của cá nhân, pháp nhân. Những điểm đó được thể hiện
qua những điểm sau:
Thứ nhất, Bộ luật dân sự 2015 đã thực sự thực hiện đủ vai trò của nó là luật
chung của hệ thống tư pháp. Bộ luật dân sự đứng ở giữa với tư cách là luật gốc bên
cạnh những đạo luật ngày càng ban hành ở từng lĩnh vực cụ thể như là Luật doanh
nghiệp, Luật đất đai, Luật đầu tư,..Điểm nổi bật và trọng tâm nhất trong Bộ luật dân
sự năm 2015 là sự thay đổi nhận thức trong tư duy lập pháp với việc mở rộng các
loại nguồn theo thứ tự ưu tiên áp dụng từ Điều 4 đến Điều 6 Bộ luật dân sự năm
2015: áp dụng Bộ luật dân sự; áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật.
Thứ hai, chủ thể trong các mối quan hệ pháp luật dân sự như các hộ gia đình,
tổ hợp tác, tổ chức được công nhân qua các cá đại diện tham gia các mối quan hệ
pháp luật dân sự như quan hệ sử dụng đất đai, điện nước,.. Điểm mới này đã giải
quyết một số bất cập, vướng mắc tồn tại trong suốt thời gian qua khi tham gia vào
giải quyết tranh chấp tại các Tòa án và các cơ quan chức năng.
Thứ ba, đặc biệt lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam trong việc ghi nhận địa
vị pháp lý đối với những người chuyển đổi giới tính trong các mối quan hệ dân sự
và cơ sở pháp lý của mình. Điều 37 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Việc
chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi

29
giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về
hộ tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy
định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”. Đây là một điểm mới rất quan
trọng, tiến bộ trong quá trình nước ta hội nhập hóa với quốc tế. Bộ luật dân sự 2015
quy định điều này đã góp phần hoàn thành tốt trong việc đảm bảo công bằng và hòa
nhập xã hội cho nhóm người yếu thế.
3.2 Những bất cập còn tồn tại
Trong những năm gần đây, trong số các vụ án dân sự đã được giải quyết thì
số lượng các vụ án tranh chấp dân sự do vi phạm hợp đồng giữa các bên chiếm tỉ
phần khá cao. Công tác xét xử các vụ án đang được cải thiện qua từng ngày cùng
với đó là chất lượng cơ sở vật chất và trình độ chuyên môn của đội ngũ thẩm phán
cũng được nâng cao. Nhiều vụ án đã được giải quyết với sự đảm bảo quyền lợi giữa
các bên. Nhưng mà, bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một số điểm cần điều chỉnh, nổi
bật lên là những quan điểm sau đây:
Thứ nhất, Bộ luật dân sự 2015 ra đời là nền tảng cơ bản với mục đích là điều
chỉnh các quan hệ dân sự theo các quy tắc chung, mà quan hệ hợp đồng là một trong
số đó, tuy vậy vẫn còn nhiều bất cập như: Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, Bộ
luật dân sự năm 2015 quy định bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có bốn căn cứ
sau đây là có hành vi vi phạm hợp đồng, có lỗi của bên vi phạm, có thiệt hại thực tế
xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế.
Nhưng Luật thương mại lại không quy định yếu tố lỗi là một căn cứ phát sinh Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Về căn cứ loại trừ Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng cũng tồn tại một vài điểm chưa thống nhất.
Thứ hai, là vấn đề về hiệu lực của hợp đồng do Tòa án tuyên. Việc Tòa án
tuyên bố một hợp đồng vô hiệu hay có hiệu lực vô cùng quan trọng, đòi hỏi phải
thật chính xác, mới có thể đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, song
trên thực tế vẫn còn nhiều trường hợp Tòa án đưa ra những phát xét chưa chính xác
về hiệu lực của hợp đồng.
Thứ ba, quy định về lãi suất và lãi suất nợ quá hạn: Cách tính lãi suất của Bộ
luật dân sự năm 2015 chưa thực sự phù hợp với các quy định của Ngân hàng về lãi
suất, dẫn đến việc nhiều Tòa án còn lúng túng trong việc áp dụng cách tính lãi suất
đối với các hợp đồng vay tài sản, tín dụng…
Thứ tư, sự phân biệt không rõ ràng trong các quy định của pháp luật về trách
nhiệm của người đại diện và của pháp nhân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ

30
với bên thứ ba đã gây ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bên thứ ba21. Khi
người đại diện bên pháp nhân tham gia vào việc giao dịch đối với bên thứ ba theo
đúng thẩm quyền đúng trong quy chế nội bộ mà công ty đang áp dụng thì người đại
diện pháp nhân lại hình thành thêm trách nhiệm đối với bên thứ ba trong việc không
thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ đối với thứ ba. Trong những trường
hợp này, thì có nhiều pháp nhân từ chối chịu trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba
do người đại diện của mình đã xác lập. Đã có rất nhiều tranh chấp liên quan đến vấn
đề này, thay vì chịu trách nhiệm thì pháp nhân yêu cầu cơ quan chức điều tra khởi
tố vụ án, khởi kiện bị can đối với người đại diện theo pháp luật của mình về tội lạm
dùng quyền hạn,... Pháp nhân không thể không chịu trách nhiệm của mình khi cho
rằng đó là do vi phạm của người đại diện đã vi phạm một số điều trong quy trình
giao dịch đối với bên thứ ba. Vấn đề trên xảy ra là do vẫn còn chưa rõ ràng, mơ hồ
giữa người đại diện pháp nhân trong các giao dịch đối với bên thứ ba.
4. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm kỷ luật.
4.1 Một số đổi mới và tiến bộ
Thứ nhất, Nghị định số 112/2020/NĐ-CP hướng dẫn xử lý kỷ luật cán bộ,
công chức, viên chức ra đời thay thế cho Nghị định 34/2011/NĐ-CP hướng dẫn xử
lý kỷ luật công chức và Nghị định 27/2012/NĐ-CP hướng dẫn kỷ luật viên chức.
Việc đồng thời hướng dẫn kỷ luật cả ba đối tượng cán bộ, công chức, viên chức vào
một văn bản giúp thuận lợi trong việc áp dụng các quy định của pháp luật vào thực
tế một cách dễ dàng hơn.
Thứ hai, Để đồng bộ với các quy định của Luật Cán bộ, công chức, Luật viên
chức đã quy định hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức đã nghỉ
việc, nghỉ hưu. Đồng thời bổ sung thêm quy định về tái phạm khi kỷ luật cán bộ,
công chức. Điều này nhằm giảm tình trạng “hạ cánh an toàn”, lúc trước khi cán bộ
đã nghỉ hưu thì không còn lo lắng về những sai phạm của bản thân trong quá trình
công tác. Quy định này được xem như là một bước tiến lớn có tác dụng răn đe cán
bộ trong quá trình công tác.
Thứ ba, Nghị định số 112/2020/NĐ-CP bổ sung các trường hợp miễn hoặc
chưa xem xét trách nhiệm kỷ luật. Điều này đã nêu lên bao quát các trường hợp, tạo

21 Vũ Quang. “Trách nhiệm dân sự của người đại diện pháp nhân.” Tạp chí nghiên cứu
lập pháp, 10 November 2021, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?
tintucid=210911.

31
sự thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với từng đối tượng cán bộ,
công chức, viên chức cụ thể.22
4.2 Những bất cập còn tồn tại
Hiện nay, pháp luật hiện hành đã ban hành các quy định, nghị định về trách
nhiệm kỷ luật. Tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều sự bất cập, vấn đề giữa lý thuyết và thực
tế gây khó khăn trong việc truy cứu trách nhiệm pháp lý kỷ luật dẫn đến công tác
truy cứu trách nhiệm pháp lý kỷ luật chưa thực sự hiệu quả. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Khoản 6 Điều 2 Quy định 102 -QĐ/TW quy định rõ: Kỷ luật đảng
không thay thế kỷ luật hành chính. Trong trường hợp cán bộ, công chức là đảng
viên đã bị kỷ luật Đảng mà các hình thức kỷ luật Đảng không thể thay thế xử lý kỷ
luật hành chính. Nghị định 112/2020/NĐ-CP có quy định: “Trường hợp cán bộ,
công chức đã bị xử lý kỷ luật Đảng thì kỷ luật hành chính phải bảo đảm ở mức độ
tương xứng với kỷ luật Đảng”. Tuy nhiên, “bảo đảm ở mức độ tương xứng” kỷ luật
Đảng và kỷ luật hành chính là như thế nào thì hiện nay vẫn chưa có một chuẩn mực
cụ thể nhất định. Nói cách khác, pháp luật hiện hành không đưa ra giải thích hay
hướng dẫn cụ thể để giúp chủ thể có thẩm quyền xác định yếu tố “tương xứng” giữa
kỷ luật hành chính với kỷ luật Đảng.23
Căn cứ vào khoản 4 Điều 2 Quy định 102 - QĐ/TW hình thức kỷ luật đối với
đảng viên chính thức gồm: Khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ; đối với đảng
viên dự bị: Khiển trách, cảnh cáo.24 Hình thức kỷ luật đối với công chức gồm: khiển
trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc trong đó hình
thức hạ bậc lương không áp dụng cho công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Vậy
hình thức “khiển trách” trong kỷ luật Đảng sẽ tương xứng với hình thức kỷ luật
hành chính “khiển trách” đối với cán bộ, công chức; hình thức “cảnh cáo” trong kỷ
luật Đảng sẽ tương xứng với hình thức kỷ luật hành chính “cảnh cáo” đối với cán
bộ, công chức. Tương tự, hình thức “cách chức” trong kỷ luật Đảng sẽ tương xứng
với hình thức kỷ luật hành chính “cách chức” đối với cán bộ, công chức. Trong khi
đó, hình thức “khai trừ” trong kỷ luật Đảng sẽ tương xứng với hình thức kỷ luật
22 Nguyễn Hương, “7 điểm mới về luật cán bộ, công chức, viên chức từ 20/09/2020”, Luật Việt
Nam.
https://luatvietnam.vn/can-bo-cong-chuc/diem-moi-ve-xu-ly-ky-luat-can-bo-cong-chuc-vien-chuc-
566-26858-article.html

23 Cao Vũ Minh “Sự tương thích trong các quy định về kỷ luật Đảng và kỷ luật hành chính đối với
cán bộ, công chức”, Tạp chí Mặt trận, TS Đại học Luật TP HCM.
http://tapchimattran.vn/thuc-tien/su-tuong-thich-trong-cac-quy-dinh-ve-ky-luat-dang-va-ky-luat-
hanh-chinh-doi-voi-can-bo-cong-chuc-38635.html
24 Khoản 4 Điều 2 Quy định 102-QĐ/TW về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm của Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 15/11/2017.

32
hành chính “bãi nhiệm” đối với cán bộ và “buộc thôi việc” đối với công chức. Nếu
vậy, hình thức kỷ luật “giáng chức” đối với công chức sẽ không thể được áp dụng
nếu căn cứ vào nguyên tắc “bảo đảm ở mức độ tương xứng” giữa kỷ luật hành
chính với kỷ luật Đảng, bởi không có hình thức kỷ luật Đảng nào tương xứng với
hình thức kỷ luật “giáng chức”.25
Thứ hai, Nghị định 112/2020/NĐ-CP đã bộc lộ những hạn chế, bất cập với
các văn bản pháp luật đang có hiệu lực. Theo điểm a, khoản 2 Điều 1 Nghị định
112/2020/NĐ-CP có quy định đối tượng áp dụng gồm: Cán bộ trong các cơ quan
hành chính nhà nước, đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách. Luật Tổ chức chính
quyền địa phương có quy định người giữ chức danh Chủ tịch HĐND, Trưởng các
Ban của HĐND có thể hoạt động chuyên trách hoặc kiêm nhiệm. Vậy trong trường
hợp người đó hoạt động kiêm nhiệm thì các vấn đề về hình thức, thẩm quyền, trình
tự thủ tục về xử lý kỷ luật quy định như thế nào, ở đâu và thực hiện ra sao vẫn chưa
được đề cập đến.
Thứ ba, Tại khoản 1 Điều 20 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP quy định như
sau: “Cấp có thẩm quyền phê chuẩn, quyết định phê duyệt kết quả bầu cử thì có
thẩm quyền xử lý kỷ luật”.Khoản 5 Điều 53 Luật Tổ chức Quốc hội, khoản 6 Điều
83 Luật Tổ chức chính quyền địa phương Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH)
có thẩm quyền phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND cấp tỉnh;
Thường trực HĐND cấp trên phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND
cấp dưới. Vậy theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định 112, người thẩm quyền
phê chuẩn kết quả bầu cử thì cũng có thẩm quyền xử lý kỷ luật. Khi đó, UBTVQH
có thẩm quyền xử lý kỷ luật Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
tương tự Thường trực HĐND cấp tỉnh có thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với Chủ
tịch, Phó Chủ tịch HĐND cấp huyện, Thường trực HĐND cấp huyện có thẩm
quyền xử lý kỷ luật đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND cấp xã.
Theo các quy định về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của UBTVQH tại
chương 3 Luật Tổ chức Quốc hội 2014 sửa đổi, bổ sung 2020, Thường trực HĐND
tại Điều 104 Luật Tổ chức chính quyền địa phương thì UBTVQH, Thường trực
HĐND không có thẩm quyền xử lý kỷ luật. Như vậy, quy định tại khoản 1 Điều 20
Nghị định 112 là không phù hợp với quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ
chức chính quyền địa phương .26
25 Cao Vũ Minh “Sự tương thích trong các quy định về kỷ luật Đảng và kỷ luật hành chính đối với
cán bộ, công chức”, Tạp chí Mặt trận, TS Đại học Luật TP HCM.

26 Ths. Hoàng Thị Lan, Vụ Công tác đại biểu, Văn phòng Quốc hội “Một số vướng mắc khi áp
dụng xử lý kỷ luật đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu”, Tạp chí Nghiên cứu Lập

33
Thứ tư, Luật Cán bộ, công chức 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2019 có bổ sung
các quy định về các hình thức kỷ luật của cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu.
Theo đó, cán bộ, công chức sau khi nghỉ việc, nghỉ hưu mới phát hiện có hành vi vi
phạm trong thời gian công tác thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm thì phải chịu
một trong các hình thức kỷ luật sau: khiển trách, cảnh cáo, xóa tư cách chức vụ đã
đảm nhiệm. Tuy những hình thức này có thể làm cho dư luận cảm thấy hài lòng
nhưng “Các hình thức kỷ luật này đối với người đã nghỉ hưu là không quan trọng,
lợi ích gắn với họ là lương hưu nên nếu có xóa tư cách chức vụ thì cũng không ảnh
hưởng đến quyền lợi của họ”. 27

5. Thực tiễn và những vướng mắc trong áp dụng trách nhiệm pháp lý
5.1. Thực tiễn pháp luật về trách nhiệm dân sự:
5.1.1. Đặc trưng cơ bản về thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam:
Quy trình xây dựng và phát triển:

Vào ngày 22/6/1996, công ty bảo hiểm đầu tiên tại Việt Nam ra đời và thành
lập mang tên Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Việt. Đây là đơn vị đi đầu và tạo nên
hướng đi cho ngành bảo hiểm nhân thọ tại nước ta lúc bấy giờ. Ngay sau đó vào
tháng 8, bộ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ lần đầu tiên được sản xuất và công bố tại
Việt Nam.

Sau đó vào cuối năm 1993, Nghị định 100/2019/NĐ-CP được Chính phủ ban
hành về kinh doanh bảo hiểm, điều này đã trở thành nền tảng cho cơ sở pháp lý để
mở rộng và giúp cho ngành bảo hiểm thương mại ở nước ta đi lên. Phá vỡ thế độc
quyền của Bảo Việt vì hàng loạt các công ty bảo hiểm như: PVI, MIC,... đã ra đời
sau đó không lâu

Đến 09/12/2000, bộ Luật kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội thông qua, tạo
hành lang pháp lý chặt chẽ để hoàn chỉnh thị trường bảo hiểm tại Việt Nam.

pháp.
http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210630
27 Minh Vương “Bất cập trong xử lý kỷ luật cán bộ”, Báo Pháp luật TP HCM.
https://plo.vn/phap-luat/bat-cap-trong-xu-ly-ky-luat-can-bo-921554.html

34
Tổng doanh thu đến từ ngành bảo hiểm không ngừng tăng cao qua từng năm.
Theo số liệu của Cục quản lý, Giám sát bảo hiểm vừa công bố cho thấy rằng chỉ
mới từ đầu năm đến tháng 6 năm 2021, doanh thu đến từ bảo hiểm phi nhân thọ ước
đạt 29,981 tỷ đồng

5.1.2. Các doanh nghiệp tham gia thị trường bảo hiểm phi nhân thọ:

Từ những năm 1994 trở về trước chỉ có duy nhất một công ty bảo hiểm phi
nhân thọ độc chiếm thị trường bảo hiểm tại Việt Nam.

Năm 2021, trên thị trường tổng số công ty bảo hiểm đã tăng rất nhiều từ con
số 1 lên đến 31 doanh nghiệp công ty hoạt động về ngành bảo hiểm phi nhân thọ
này.

5.1.3. Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ

Bất kì một chủ xe cơ giới nào tham gia giao thông trên phạm vi đất nước
Việt Nam đều phải nghiêm chỉnh chấp hành tham gia đăng ký bảo hiểm bắt buộc
trách nhiệm dân sự theo quy định tại Thông tư này và các quy định khác có liên
quan của pháp luật.

Chủ xe cơ giới không được phép đồng thời tham gia 2 hợp đồng trở lên về
Bảo Hiểm bắt buộc để hoàn thành trách nhiệm dân sự.

5.2. Phân tích thực tiễn triển khai bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới đối với người thứ ba trên thị trường bảo hiểm tại Việt Nam

5.2.1. Cơ sở triển khai trách nhiệm nghiệp vụ:

Bảo hiểm trách nhiệm dân sự đã được Chính phủ thông qua và đưa ra quyết
định ban hành Nghị định số 30/HĐBT ngày 10/3/1988, Nghị định số 115/1997/NĐ-
CP ngày 17/12/1997, Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 và gần đây
nhất là Nghị định số 03/2001/NĐ-CP. Nhằm quy định loại hình này là loại hình bảo
hiểm bắt buộc với bất kỳ loại phương tiện nào khi tham gia giao thông tại nước ta
để thể hiện rõ ràng quyền lợi của chủ xe cơ giới và mang lại ý nghĩa xã hội to lớn.

5.2.2. Tình hình hiện nay:

35
Theo thống kê số lượng môtô, xe máy đã đăng ký ở Việt Nam, bao gồm cả
những xe không còn lưu hành, là 42.818.527 chiếc. Tính theo số dân 90,5 triệu
người, bình quân cứ 1.000 người dân sẽ sở hữu khoảng 460 xe máy. Dự báo, giai
đoạn 2018 - 2021, số xe máy theo đăng ký sẽ tăng hơn 1,12 triệu xe máy, số lượng
xe máy trong lưu thông tăng khoảng 1,15 triệu xe. Đến năm 2030, số lượng xe máy
theo đăng ký sẽ tăng gần 1,5 triệu xe, lượng xe máy trong lưu thông tăng hơn 1,62
triệu xe.

Tuy nhiên, trái ngược với lượng tăng mạnh của các phương tiện xe cơ giới
hiện nay thì cơ sở hạ tầng về ngành giao thông lại chưa có thể ấp ứng với số lượng
phương tiện lớn này. Vì vậy, Chính phủ quy định về trách nhiệm dân sự về tham gia
bảo hiểm là bắt buộc để đem lại những lợi ích thực tế cho chủ các loại xe cơ giới
cũng như bảo vệ tài chính cho nạn nhân khi gặp tai nạn giao thông do xe cơ giới
gây ra.

Song trên thực tế, người dân vẫn chưa thể nắm hết được mức độ cần thiết của
bảo hiểm trách nhiệm dân sự và chưa nhìn thấy rõ được những quyền lợi và lợi ích
mà bảo hiểm đem lại dẫn đến việc người dân vẫn khá thờ ơ không xem trọng nên
thường sẽ không tham gia hoặc có tham gia những bảo hiểm đã hết hạn nhưng
không có ý định đổi sang bảo hiểm mới. Cùng với đó là việc khi có sự cố về giao
thông xảy ra với họ thì việc được bảo hiểm chi trả bồi thường thì người dân phải có
và xuất đưa ra rất nhiều những giấy tờ như: biên bản của cảnh sát giao thông, giấy
chứng nhận điều trị tại bệnh viện, biên lai y tế gốc kèm với các chi phí phát sinh,...
Quả thật đây là những thủ tục vô cùng rườm rà và khá là rắc rối bởi vị không phải ai
cũng có khả năng lưu lại những giấy tờ này và làm sao để gửi cho đơn vị bảo hiểm.
Vì khi người dân mua bảo hiểm tại những doanh nghiệp bán bảo hiểm họ chỉ tư vấn
qua loa khi bán bảo hiểm và khi tai nạn xảy ra thì họ lại đùn đẩy trách nhiệm bằng
những điều khoản, quy định làm khó người mua. Từ đó dẫn đến việc người dân
quay lưng với việc mua bảo hiểm y tế và họ nghĩ rằng việc tham gia bảo hiểm bắt
buộc này chỉ là điều bất đắc dĩ.

Theo thống kê chưa đầy đủ của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam cho chúng ta
thấy rằng, chỉ có 30% các loại xe đã tham gia thực hiện trách nhiệm dân sự khi mua
bảo hiểm cho phương tiện xe cơ giới của mình, trong khi đó 70% còn lại là toàn bộ
những xe không mua bảo hiểm bắt buộc này. Bên cạnh đó còn có những suy nghĩ
cho rằng việc mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc chỉ là đối phó khi bị kiểm
tra hoặc là số tiền bỏ ra đóng phạt cũng không cao hơn số tiền mua bảo hiểm là bao

36
mà còn phải làm những thủ tục rườm rà, mất thời gian nên họ ngó lơ đi những lợi
ích thực sự của loại hình bảo hiểm này.

Mức trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm được quy định tại Điều 9
Thông tư 22/2016/TT-BTC quy định Quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách
nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ trưởng Bộ
Tài chính ban hành: Mức trách nhiệm bảo hiểm là số tiền tối đa doanh nghiệp bảo
hiểm có thể phải trả đối với thiệt hại về thân thể, tính mạng và tài sản của bên thứ
ba và hành khách do xe cơ giới gây ra trong mỗi vụ tai nạn xảy ra trong phạm vi
trách nhiệm bảo hiểm.

Qua đó, chúng ta cũng sẽ có thể nhận ra được rằng nếu các đơn vị phân phối
bảo hiểm có trách nhiệm hơn với người dân mà đã tham gia bảo hiểm của đơn vị,
tối giản đi các thủ tục rườm rà làm khó người mua hay đưa ra những chính sách quy
định để có những cách xử lý linh động hơn trong mọi tình huống thì không cần phải
cần đến việc những biện pháp xử phạt thì người dân cũng nghiêm túc chấp hành tự
nguyện mua bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự.

6. Thực tiễn pháp luật về miễn trách nhiệm hình sự

6.1. Nội dung của miễn trách nhiệm hình sự:

6.1.1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự:

Hai từ trách nhiệm trong thực tế chúng ta có thể hiểu theo hai hướng khác
nhau. Thứ nhất, trách nhiệm là nhiệm vụ, phận sự của một người nào đó với một
người khác, một tập thể khác hay trước nhà nước. Thứ hai, từ trách nhiệm này là
những hậu quả người này phải chịu khi vi phạm hay phạm phải những điều không
được phép làm trước người khác, trước xã hội hay nhà nước. Trong đó, trách nhiệm
hình sự được hiểu theo nghĩa thứ hai.

Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc người hoặc pháp nhân thương mại
phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà họ đã phạm phải. Trách nhiệm
hình sự là tiền đề để miễn trách nhiệm hình sự ra đời, vì vậy cần làm sáng tỏ nội
dung của miễn trách nhiệm hình sự thì đồng thời nội dung của trách nhiệm hình sự
cũng được hiểu một cách rõ ràng hơn.

37
6.1.2. Ý nghĩa của việc quy định miễn trách nhiệm hình sự trong luật pháp
tại Việt Nam

Từ những nội dung về khái niệm trên đồng thời kết hợp với các quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam cho thấy được sự quan trọng cho thấy được những đặc
điểm ý nghĩa to lớn của miễn trách nhiệm hình sự như sau:

 Ý nghĩa thứ nhất - miễn trách nhiệm hình sự cho thấy được trách nhiệm và
bổn phận của người phạm tội đối với những quy định của Nhà nước.
 Ý nghĩa thứ hai - miễn trách nhiệm hình sự giúp làm rõ được những chính
sách nguyên tắc phân biệt mức độ vi phạm của tội phạm trong luật hình sự
Việt Nam.
 Ý nghĩa thứ ba - miễn trách nhiệm hình sự làm nổi bật nguyên tắc nhân đạo
trong Luật hình sự.
 Ý nghĩa thứ tư - chỉ áp dụng đối với những người đủ điều kiện để được miễn
trách nhiệm hình sự.
 Ý nghĩa thứ năm - miễn trách nhiệm hình sự còn mang ý nghĩa to lớn phản
ánh nguyên tắc công bằng trong xã hội.

6.2 Thực tiễn áp dụng miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

6.2.1. Khái quát chung về tình hình trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Theo Website chính thức của tỉnh Đắk Lắk: Nằm ở trung tâm vùng Tây
Nguyên với diện tích 13.123,37 km2 với 47 dân tộc: dân tộc kinh chiếm khoảng
70% và các dân tộc còn lại chiếm khoảng 30% số dân toàn tỉnh. Dân số đông đúc
chủ yếu tại các thành phố và thưa thớt hơn ở các vùng khó khăn.

6.2.2. Thực tiễn áp dụng miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk

Liên quan đến vụ việc tham ô, hối lộ xảy ra trên địa bàn huyện Krông Bông,
tỉnh Đắk Lắk, ngày 26.12 đã có quyết định khởi tố bị can và lệnh tạm giam 4 tháng
đối với chủ tịch ủy ban nhân dân xã Cư Đrăm ông Nguyễn Văn Trung vì đã lợi
dụng chức vụ và quyền hạn của mình để sai phạm trong việc xử lý gỗ tang vật.

Theo như điều tra của viện kiểm sát nhân dân, vào tháng 2.2019, đã có đơn
tố cáo ông Nguyễn Văn Trung và một số cán bộ khác đã phát hiện ra một vụ vận

38
chuyển gỗ lớn và tịch thu số lượng gỗ đó. Nhưng số lượng vi phạm đó lại bị những
người có chức có quyền này lợi dụng cơ hội để đem về làm của riêng. Không những
vậy họ còn không lập hồ sơ xử lý để đem đi bán với giá rẻ hay đi biếu tặng những
người ở chức vị cao hơn họ.

Tại tòa, sau khi lắng nghe ý kiến của các bị cáo và đại diện Viện kiểm sát
nhân dân, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt Nguyễn Văn Trung 2 năm 9 tháng tù và Y
Na Êban 9 tháng tù về tội "Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong thi hành công vụ".

Tuy nhiên, vào sáng ngày 12 tháng 6, nhiều người dân tại huyện trên đã gửi
đơn kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền về việc nhiễm trách nhiệm hình sự
đối với ông Nguyễn Văn Trung - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Cư Đrăm, huyện
Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk. Hơn thế nữa kèm theo đơn kiến nghị của người dân còn
có khoảng 300 chữ ký để ủng hộ việc miễn trách nhiệm hình sự với lí do gia đình
ông Trung và ông luôn gương mẫu chấp hành tốt các quy định của Đảng và Nhà
nước. Vì vậy việc bắt giữ ông Trung với hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn trong
khi thi hành công vụ do đã chỉ đạo cấp dưới bắt gỗ lậu rồi tham mưu cho tập thể
Ban thường vụ Đảng ủy xã Cư Đrăm thanh lý không đúng quy định.

Cũng theo đơn, quá trình công tác ông Trung có những sai phạm nhưng thiết
nghĩ làm người, làm việc thì không ai tránh hết được những sai lầm. Những sai
phạm của ông Trung là vì tình cảm, vì tập thể. Ông Trung đã báo cáo với Ban
thường vụ Đảng ủy xã và được tập thể đồng ý, chứ không phải 1 mình tự quyết
định, không vụ lợi cá nhân.

39
Nhưng nội dung đơn kiến nghị của người dân sau khi được Viện kiểm sát
nhân dân huyện Krông Bông xem xét và dựa trên những quy định của luật pháp thì
chỉ có thể thấy rằng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác của mình, cũng
như thời gian sinh sống cùng người dân trên địa bàn ngoài lần phạm phải sai lầm
này thì ông luôn chấp hành đúng theo pháp luật và không có hành vi phạm tội.
Đồng thời hòa thuận với nhân dân, yêu quý đồng nghiệp, như trong đơn nói trên thì
chỉ có thể xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Khoản 2, Điều 51
Bộ Luật hình sự. Còn việc miễn trách nhiệm hình sự đối với ông Trung - nguyên
chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Cư Đrăm là điều không thể vì không có căn cứ chính
xác, rõ ràng để xem xét.

Như vậy, chỉ có người có thẩm quyền mới có thể quyết định rằng người đó
có phạm tội hay không phạm tội để từ đó có thể đưa ra các bản án cũng như quyết
định cho người vi phạm. Do đó, về mặt lý luận thì chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền
quyết định miễn trách nhiệm dân sự cho người phạm tội dựa trên luật pháp Việt
Nam hiện hành.

7. Thực tiễn pháp luật về trách nhiệm hành chính

7.1. Quy định về địa điểm hoạt động kinh doanh mua bán của các cá nhân:

Những khu vực pháp luật nhà nước không cho phép thực hiện các hành vi
buôn bán thương mại theo Nghị định 39/2007/NĐ-CP quy định như sau :

 Địa điểm được nhà nước, thế giới công nhận là các di tích lịch sử, văn hoá
truyền thống, các danh lam thắng cảnh nổi tiếng.
 Địa điểm quan trọng điều hành của nhà nước, nơi tiếp các đoàn khách từ
quốc tế đến thăm quan và làm việc tại Việt Nam.
 Địa điểm xung quanh các khu quân sự, khu kho đạn dược, kho chứa các chất
cháy nổ nguy hiểm, nơi chứa các vũ khí phục vụ cho quân đội.
 Địa điểm có các cảng hàng không, càng biển, nơi các phương tiện vận
chuyển.
 Phạm vi xung quanh các địa điểm trường học, nơi thờ các tín ngưỡng,...
 Địa điểm dùng để làm nơi đậu, đỗ xe theo đúng quy định của các phương
tiện giao thông, trong đó bao gồm cả đường tàu và đường biển.
 Khu vực được quy định dành cho đường bộ như: vỉa hè, lòng đường hay các
đường xung quanh khu dân cư,...

40
 Các tuyến đường được Uỷ ban Nhân dân xã, phường quy định và có biển
cấm các hoạt động thương mại.
 Các khu vực thuộc sự quản lý của các cá nhân hay tổ chức nào đó mà chưa
có sự đồng ý cho phép thực hiện các hoạt động buôn bán thì không được
phép sử dụng.

7.2. Thực tiễn trách nhiệm hành chính về địa điểm buôn bán:

Hiện nay, việc người dân sử dụng lòng lề đường với mục đích chuộc lợi cho
bản thân không còn là hành vi của vài người nữa, mà nó trở thành một vấn nạn đáng
báo động và lên tiếng để cải thiện mỹ quan đô thị, hơn thế nữa còn gây hàng loạt
những cản trở giao thông, gây nguy hiểm đến tính mạng của mình và những người
xung quanh.

Sự quá tải về hạ tầng, thiếu hụt đi nơi để kinh doanh buôn bán với mức giá
hợp lí dành cho nhiều tầng lớp thương nhân buôn bán,... những điều trên dẫn đến
tình trạng lấn chiếm vỉa hè, lòng lề đường diễn ra một cách tràn lan để làm nơi
trông giữ xe, buôn bán diễn ra thường xuyên. Không thể phủ nhận được mức độ
tiện lợi, cũng như nhanh chóng của việc buôn bán tại vỉa hè đối với cả người mua
và người bán. Chúng ta có thể dừng lại ngay trước quầy bán và mua những đồ mà
chúng ta cần, trong khi không cần bước xuống xe để đi vào một cửa hàng nào đó.

Vấn đề để hành vi vi phạm này vẫn liên tiếp xảy ra và chưa có dấu hiệu sẽ
dừng lại là do ý thức chấp hành của người dân buôn bán chưa tốt. Vào những đợt ra
quân để rà soát trật tự an ninh, giải tỏa những nơi là điểm nóng của việc lợi dụng
vỉa hè làm nơi kinh doanh trái phép đồng thời có các biện pháp xử lí thì đơn vị kinh
doanh phối hợp để tháo dỡ cũng như di dời. Nhưng khi lực lượng chức năng rời đi
thì đâu cũng lại vào đó, họ lại tiếp tục dọn hàng quán, bàn ghế ra bán trở lại. Bên
cạnh đó là việc các cơ quan chưa mạnh tay trong việc xử lý, kiểm tra các trường
hợp trên vì nể nang là người quen, người nhà nên chưa có các biện pháp cứng rắn,
chưa có sự kết hợp quản lý của các bộ phận các cơ quan tại địa điểm đó để theo dõi
và ngăn chặn các hành vi trước khi họ thực hiện.

Thực tế cho thấy rằng, những người buôn bán lấn chiếm vỉa hè đều nhận ra
được vi phạm của bản thân mình về hành vi này nhưng họ vẫn cố tình vi phạm, xem
thường các chế tài mà pháp luật đặt ra. Theo điều 35 Luật giao thông đường bộ
2008 nói rằng lòng đường và hè phố chỉ được sử dụng cho mục đích giao thông.

41
Trong một số trường hợp vẫn cho phép tổ chức một số hoạt động văn hóa, thể thao,
diễu hành, lễ hội trên đường bộ.

Vì vậy việc lấn chiếm lòng lề đường phục vụ mục đích cá nhân, buôn bán
hàng hóa gây mất trật tự an ninh là những hành vi vi phạm hành chính theo Nghị
định 171/2013/NĐ - CP của Chính phủ quy định về những hình thức xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông và đường bộ. Đối với việc tập trung đông
người trái phép, nằm, ngồi trên đường gây cản trở giao thông: Đá bóng, đá cầu,
hoặc chơi các loại hình thể thao trên đường giao thông, sử dụng bàn trượt, patanh,
các thiết bị tương tự trên đường xe chạy mức phạt từ 100.000 đồng đến 400.000
đồng. Ngoài việc bị phạt tiền, cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm còn bị áp dụng
các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc phải tháo dỡ bỏ các biển quảng cáo, thu
dọn vật liệu, chất phế thải, hàng hóa và khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay
đổi do vi phạm hành chính họ gây ra.

8. Thực tiễn pháp luật về trách nhiệm pháp lý kỷ luật.

8.1. Tình trạng hiện nay

Chỉ trong năm 2021, Đảng và Nhà nước đã tiến hành kỷ luật hàng loạt cán bộ cấp
cao đương chức và nghỉ hưu. Trong đó có cả cán bộ thuộc Bộ Chính trị, Ban Bí thư
quản lý, Ủy viên Trung ương Đảng… Trong đó có những vụ việc gây hậu quả
nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến hình ảnh của Đảng và Nhà nước, gây bức xúc dư
luận.

Vụ việc xử lý kỷ luật Ban Thường vụ Đảng ủy Cảnh sát biển VN nhiệm kỳ


2015 - 2020 vì đã vi phạm rất nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên
tắc tự phê bình và phê bình, quy chế làm việc, quy định của Quân ủy T.W, để nhiều
cán bộ, đảng viên (trong đó có cả các bí thư, phó bí thư Đảng ủy, tư lệnh, phó tư
lệnh và lãnh đạo, chỉ huy đơn vị trực thuộc) suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. Ban
Bí thư thi hành kỷ luật về Đảng, Thủ tướng Chính phủ thi hành kỷ luật như sau:

 Khai trừ ra khỏi Đảng và khởi tố về hành vi nhận hối lộ đối với Thiếu tướng
Lê Xuân Thanh (Tư lệnh vùng Cảnh sát biển 3) và Thiếu tướng Lê Văn
Minh (Tư lệnh vùng Cảnh sát biển 4).
 Cách chức toàn bộ chức vụ trong Đảng và cách chức đối với Trung tướng
Nguyễn Văn Sơn (Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Cảnh sát biển).

42
 Cách chức toàn bộ chức vụ trong Đảng và xóa tư cách nguyên Chính ủy
Cảnh sát biển Việt Nam đối với Trung tướng Hoàng Văn Đồng (Nguyên Bí
thư Đảng ủy, nguyên Chính ủy Cảnh sát biển).
 Cách chức toàn bộ chức vụ trong Đảng và xóa tư cách nguyên Phó Tư lệnh
Cảnh sát biển Việt Nam đối với Thiếu tướng Bùi Trung Dũng.
 Cách chức toàn bộ các chức vụ trong Đảng và cách chức đối với Thiếu tướng
Doãn Bảo Quyết (Phó Chính ủy Cảnh sát biển);Thiếu tướng Phạm Kim Hậu
(Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Cảnh sát biển); Thiếu tướng Trần Văn
Nam (Phó Tư lệnh Cảnh sát biển);
 Cách chức toàn bộ các chức vụ trong Đảng đối với Thiếu tướng Đào Hồng
Nghiệp (Tư lệnh vùng Cảnh sát biển 2).
 Kỷ luật cảnh cáo đối với Trung tướng Nguyễn Quang Đạm (nguyên Phó Bí
thư Đảng ủy, Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam).

Vụ việc trên được xem là một ví dụ điển hình về việc suy thoái phẩm chất
đạo đức trong đội ngũ cán bộ nước nhà hiện nay. Việc Đảng và Chính phủ thực hiện
kỷ luật hàng loạt là một dấu hiệu đáng mừng trong công tác phòng chống tham
nhũng, “làm sạch” bộ máy nhà nước. Tuy nhiên từ vụ việc trên cũng khiến dư luận
trở nên hoang mang “Liệu còn bao cán bộ, công chức vi phạm nhưng chưa được
phát hiện và xử lý?” “Có phải khi vi phạm rất nghiêm trọng thì được giải quyết và
xử lý còn vi phạm gây hậu quả không quá nghiêm trọng lại được bao che, bỏ qua?”
Việc cán bộ, công chức, viên chức vi phạm kỷ luật, làm sai quy định không ít
nhưng việc truy cứu và xử lý lại vẫn còn hạn chế.

8.2. Một số nguyên nhân, vướng mắc dẫn đến công tác, xử lý kỷ luật cán bộ
chưa đạt được hiệu quả cao:

 Do sự nể nang cán bộ, công chức; cán bộ, công chức có chức vụ, quyền hạn
cao, địa vị nhất định trong xã hội nên không dám đứng lên đấu tranh vì lẽ
phải.
 Sự bao che cho nhau giữa các cán bộ, công chức để tránh bị xử lý kỷ luật vì
sẽ mang lại hậu quả tiêu cực cho ngành, cơ quan của mình.Hay khi cán bộ vi
phạm đáng phải chịu kỷ luật tuy nhiên lại được bao che, bỏ qua thậm chí là
được bổ nhiệm hoặc luân chuyển lên một vị trí cao hơn.
 Sự hạn chế của các quy định pháp luật về kỷ luật cán bộ, công chức, viên
chức.

43
8.3. Một số quan điểm của Đảng về vấn đề phòng chống tham nhũng:

Quan điểm của Đảng về phòng chống tham nhũng đã có những bước tiến
mới với nhiều giải pháp như hoàn thiện pháp luật; động viên, khen thưởng những cá
nhân, tổ chức dám đứng lên tố cáo hành vi tham nhũng đồng thời có những biện
pháp bảo vệ những cá nhân, tổ chức đó khỏi sự đe dọa, trả thù; đề ra một số biện
pháp trong công tác thanh tra, giám sát, kiểm tra phòng chống tham nhũng; ngăn
chặn, xử lý các hành vi tham nhũng trên phương châm: “Sai phạm đến đâu thì xử lý
đến đó và không có “vùng cấm” trong phòng, chống tham nhũng”

CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG, CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
PHÁP LÝ

1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý

1.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý

Là một công cụ sắc bén, hữu hiệu của Đảng, Nhà nước và của nhân dân ta,
các bộ luật đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo pháp chế, củng cố và duy trì
trật tự pháp luật, đồng thời góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng và
chống tội phạm, cũng như bảo vệ một cách hữu hiệu lợi ích của Nhà nước, của xã
hội và của công dân. Các bộ luật hiện hành của nước ta đều có những quy định
nhằm trừng trị người có hành vi vi phạm và răn đe, giáo dục tất cả những người
khác để họ không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, qua một thời
gian áp dụng và thi hành các bộ luật cho thấy: một số quy định của các bộ luật còn
chưa đầy đủ, chặt chẽ về nội dung, chưa phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng và
chống tội phạm trong tình hình mới, đặc biệt còn nhiều quy định cần có sự hướng
dẫn kịp thời và thống nhất của các cơ quan tư pháp có thẩm quyền. Do đó, việc tiếp
tục sửa đổi, bổ sung những quy định cũ, xây dựng những quy định mới nhằm hoàn
thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý là đòi hỏi có tính cấp bách.

1.2. Các định hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý

44
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý phù hợp
với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đáp ứng
yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế;

Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đảm bảo
vừa răn đe, vừa khắc phục những tổn hại kinh tế do người có hành vi vi phạm gây
ra;

Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đảm bảo
tính kế thừa có chọn lọc và tiếp thu kinh nghiệm lập pháp của các nước trên thế
giới.

1.3. Các nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật về trách nhiệm pháp lý

1.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý hình sự

Để đảm bảo tính logic và tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, Bộ luật hình sự
2015 (sửa đổi bổ sung 2017) cần phải sửa đổi bổ sung những điều sau:

Thứ nhất, quy định "Chỉ người nào phạm một tội...” cần sửa thành "Người
phạm một hay nhiều tội ...”, bởi nếu không sẽ dẫn đến cách hiểu sai như là: "chỉ
người nào phạm một tội... mới phải chịu trách nhiệm hình sự, còn khi phạm từ hai,
ba... tội trở lên thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”. Hơn nữa, cần khẳng định
đây là cơ sở "pháp lý...”.

Thứ hai, để đảm bảo tính thống nhất giữa các điều luật trong Bộ luật Hình sự
(Điều 2 và Điều 17) chúng ra cần có những quy định bổ sung thêm.

Thứ ba, để bao quát các trường hợp đặc biệt, Điều 2 Bộ luật Hình sự cần bổ
sung thêm cụm từ "trên những cơ sở chung” vào cuối nội dung điều luật. Bởi lẽ, căn
cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự và trên thực tế, sẽ có những trường hợp
một người phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định nhưng vẫn không phải
chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Trường hợp do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự (Điều 23 Bộ luật Hình sự 2015) hoặc trường hợp “Người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất

45
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu
trách nhiệm hình sự”. (Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015);..v.v.

1.3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý dân sự

Thứ nhất, cần áp dụng thời hiệu chung trong lĩnh vực hợp đồng để tránh
trường hợp Tòa án đưa ra những phán xét chưa chính xác về hiệu lực của hợp đồng.
Và khi Tòa án có sự lúng túng trong việc phán xét về hiệu lực hợp đồng thì cần có
những phương án giải quyết khác như: Đối với trường hợp các hợp đồng vô hiệu do
vi phạm về hình thức hay điều kiện đăng ký kinh doanh, nhưng đó là sự tự nguyện,
đã qua thỏa thuận giữa các bên và đã thực hiện hợp đồng, thì chúng ta nên thừa
nhận hợp đồng đó. Và những vi phạm về hình thức hay điều kiện đăng ký kinh
doanh của hợp đồng có thể được Tòa án yêu cầu các bên tiến hành hoàn thiện để
tiếp tục thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, để hạn chế tình trạng tuyên bố hợp đồng vô
hiệu tràn lan do một bên chủ thể lợi dụng quy định của pháp luật để "bội ước” hợp
đồng thì chúng ta nên chấp nhận những hợp đồng tuy không tuân thủ đúng các quy
định về hình thức bắt buộc hay các hợp đồng không thỏa mãn quy định về điều kiện
đăng ký kinh doanh, nhưng các bên đã thực hiện hợp đồng thì hợp đồng không bị
vô hiệu và cần được công nhận. Đồng thời, sự chấp chấp nhận này cũng giảm bớt
sự lúng túng của Tòa án trong việc xét xử hợp đồng vô hiệu do vi phạm về hình
thức hoặc không thỏa mãn điều kiện đăng ký kinh doanh.

Thứ hai, về cách tính lãi suất của Bộ luật dân sự năm 2015 chưa thực sự phù
hợp với các quy định của luật chuyên ngành, nhóm chúng em có các kiến nghị như
sau: Trong một lĩnh vực cụ thể, để tránh rắc rối khi tranh chấp, tránh vấn đề tranh
cãi là phải áp dụng cách tính lãi suất theo Bộ luật dân sự năm 2015 hay áp dụng các
quy định có liên quan khác từ Luật chuyên ngành, chúng ta cần thống nhất các quy
định về cách tính lãi suất ở các văn bản pháp luật khác nhau. Hoặc có thể bỏ cụm từ
“theo quy định của pháp luật” tại Khoản 2 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm
2010 nhằm phù hợp hơn với các quy định tại Bộ luật dân sự 2015.

Thứ ba, để bảo vệ quyền lợi cho bên thứ ba trong các quy định về việc phân
định trách nhiệm dân sự của người đại diện pháp nhân, chúng ta cần sửa đổi, bổ
sung một số điều luật để có những quy định rõ ràng hơn trong trường hợp này. Cụ
thể, theo một tác giả chúng ta cần sửa đổi Điều 167 Luật Doanh nghiệp năm 2020
theo hướng bổ sung quy định bảo đảm quyền lợi của bên thứ ba trong giao dịch với
pháp nhân. Cụ thể bổ sung quy định “Nếu điều lệ hạn chế quyền hạn của Chủ tịch

46
Hội đồng quản trị hoặc Tổng giám đốc/Giám đốc bằng các đòi hỏi phải có sự đồng
ý trước Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông, hoặc giá trị hợp đồng, giao
dịch ký vượt quá một mức nào đó, thì những giới hạn này không có giá trị với bên
thứ ba; bên thứ ba vẫn có quyền đòi phải thực hiện hợp đồng, giao dịch dù chưa có
ý kiến của Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông…"

1.3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý hành chính

Nhằm bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được
thực thi một cách nghiêm minh và tránh trường hợp người vi phạm hành chính tìm
cách trốn tránh trách nhiệm, chúng ta cần có những giải pháp như sau:

Thứ nhất, chúng ta cần xác định đối tượng bị áp dụng quyết định buộc thi
hành bản án, quyết định của Tòa án một cách chính xác. Theo đó, cần sửa đổi Điều
11 của Nghị định số 71/2016 theo hướng xác định người phải thi hành án hành
chính là người bị kiện trong vụ án. Bởi lẽ, “người phải thi hành án trong quyết định
buộc thi hành án của Tòa án chỉ có thể là người bị kiện trong vụ án vì nếu người
khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không thi hành án thì đã bị cưỡng
chế áp dụng thi hành theo thủ tục hành chính”. Việc sửa đổi theo hướng trên sẽ giúp
Tòa án xác định rõ đối tượng bị áp dụng quyết định này để tránh trường hợp ban
hành sai đối tượng gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên thi hành
án.

Thứ hai, cần phải bổ sung quy định về phạm vi áp dụng của quyết định buộc
thi hành bản án, quyết định của Tòa án, do đó, cần sửa đổi Điều 312 Luật Tố tụng
Hành chính năm 2015 theo hướng bổ sung quy định: “Quyết định buộc thi hành bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án chỉ buộc thi hành phần bản án,
quyết định của Tòa án không liên quan đến tài sản”. Việc đề xuất theo hướng trên
để thống nhất với các quy định tại điểm h khoản 1 Điều 311 của Luật TTHC năm
2015: “Quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án được thi
hành theo quy định của pháp luật về THA dân sự”, đồng thời, phù hợp với quy định
tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 71/2016: “Thi hành án hành chính là việc thi hành
bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được thi hành quy định tại Điều
309 Luật TTHC, trừ quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án
về vụ án hành chính”.

Thứ ba, cần bổ sung các quy định về kiểm sát việc thực hiện quyết định buộc
thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Để công tác kiểm

47
sát thi hành quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nói riêng và
kiểm sát thi hành bản án, quyết định của Tòa án nói chung đạt được hiệu quả, chúng
ta cần phải bổ sung các quy định hướng dẫn về công tác kiểm sát thi hành quyết
định buộc thi hành án của Tòa án, tránh tình trạng như hiện nay chỉ có một điều luật
duy nhất quy định một cách chung chung về công tác kiểm sát thi hành án hành
chính. Vì vậy, cần ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn và quy
định rõ các vấn đề về nội dung kiểm sát, phương thức kiểm sát, quyền đề nghị, kiến
nghị của Viện kiểm sát khi kiểm sát quyết định buộc thi hành án của Tòa án để đảm
bảo cho công tác kiểm sát được thực hiện có hiệu quả và thuận lợi nhất.

1.3.4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý kỷ luật

Thứ nhất, để đảm bảo sự đồng bộ trong xử lý kỷ luật Đảng và xử lý kỷ luật


hành chính, chúng em kiến nghị thay thế từ “tương xứng” trong khoản 6 Điều 2
Nghị định số 112/2020/NĐ-CP thành từ “tương đối” để có thể mở rộng phạm vi xử
lý vi phạm kỷ luật hơn. Đồng thời, thêm vào hình thức xử lý kỷ luật Đảng một hình
thức tương đối với giáng chức là "tạm thời khai trừ". Hay nói cách khác, trong một
thời gian cụ thể, người bị tạm thời khai trừ sẽ bị xóa bỏ tư cách Đảng viên hợp lệ,
và thông qua quá trình theo dõi trong thời gian quy định sẽ xem xét có khôi phục lại
tư cách Đảng viên hay không.

Thứ hai, về việc đề xuất hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức đã nghỉ
hưu, chúng ta không nên quy định xóa tư cách chức vụ đã đảm nhiệm mà nên quy
định các hình thức kỷ luật giảm, truất lương hưu vĩnh viễn kèm theo hệ quả pháp lý
là tước bỏ hoặc cắt giảm chế độ chính sách đang được hưởng gồm lương hưu, danh
hiệu, danh xưng, huân huy chương…v.v.

Thứ ba, để tránh những tranh cãi trong quá trình kỷ luật đối với người hoạt
động kiêm chức, chúng ta cần đặt ra những quy định riêng về hình thức, thẩm
quyền, trình tự xử lý kỷ luật đối với đối tượng này.

Thứ tư, để giải quyết sự không phù hợp của quy định tại khoản 1 Điều 20
Nghị định 112 so với với quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức chính
quyền địa phương, chúng cần xác định những người giữ chức vụ do HĐND bầu
không phải là đối tượng áp dụng trách nhiệm kỷ luật hành chính, các quy định về xử
lý kỷ luật nói riêng và các vấn đề về công tác quản lý cán bộ nói chung. Trong
trường hợp cần thiết phải xác định một loại hình trách nhiệm pháp lý đối với cán bộ
do cơ quan dân cử bầu thì ý tưởng đó nên được quy định tại một văn bản riêng,

48
hoặc một điều khoản riêng trong các đạo luật về tổ chức của cơ quan dân cử (Quốc
hội, HĐND). Giải pháp này sẽ tránh hiện tượng Chính phủ “giao việc”, “trao thẩm
quyền” cho UBTVQH, Thường trực HĐND các cấp như bất cập đã nêu tại Nghị
định số 112/2020/NĐ-CP.

KẾT LUẬN
Từ các phân tích của bài tiểu luận này, cho thấy các quy định của pháp luật
về trách nhiệm pháp lý hiện nay vẫn tồn tại nhiều bất cập, không thống nhất, mâu
thuẫn trong quy định của luật chung, và trong các luật chuyên ngành.
Trên đây là những nghiên cứu, phân tích khái quát về trách nhiệm pháp lý
trên hai mặt lý luận và thực tiễn. Qua bài tiểu luận trên, chúng ta có thể hiểu rõ hơn
về khái niệm, đặc điểm các loại trách nhiệm pháp lý từ đó nêu ra được những hạn
chế của pháp luật về các loại trách nhiệm pháp lý. Đồng thời đề ra được các giải
pháp phù hợp góp phần nâng cao chất lượng trong việc hoàn thiện pháp luật, áp
dụng các loại trách nhiệm pháp lý vào thực tiễn tại Việt Nam.
Những cơ sở lý luận về trách nhiệm pháp lý trong pháp luật Việt Nam đang
dần được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu của công cuộc phát triển và hội nhập kinh tế
xã hội của nước ta. Trong quá trình hoàn thiện pháp luật, sự thay đổi tư duy về góc
nhìn tiếp nhận pháp luật là cần thiết để tăng cơ hội thành công, việc tiếp nhận pháp
luật nước ngoài phải tính đến nhiều yếu tố khác nhau như bối cảnh, các lợi ích, sự
đồng thuận. Chỉ có vây, việc tiếp nhận pháp luật nước ngoài sẽ diễn ra liên tục, đáp
ứng những thay đổi của thực tiễn, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng hơn.

49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn bản Quy phạm pháp luật:
- Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
- Nghị định 100/2019/NĐ-CP
- Hiến pháp 2013
- Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung 2017)
- Luật Tố tụng Hành chính năm 2010
- Bộ luật Dân sự
- Luật thương mại
- Nghị định số 112/2020/NĐ-CP
- Điều 2 Quy định 102 - QĐ/TW
- Nghị định 100/2019/NĐ-CP
- Nghị định số 30/HĐBT
- Thông tư 22/2016/TT-BTC
- Nghị định 171/2013/NĐ - CP
2. Sách và tạp chí
- Nguyễn Văn Trịnh (2012), Lý luận chung về nhà nước và pháp luật –tóm tắt
bài học, câu hỏi, tình huống, NXB Lao Động.
- Lê Vương Long (2008),Trách nhiệm pháp lý một số vấn đề lý luận và thực
tiễn ở nước ta hiện nay : sách chuyên khảo, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
- Nguyễn, Tuấn Quốc, “Trách nhiệm hành chính và đảm bảo kỷ cương trong
quản lý nhà nước.” Tạp chí TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC.
- Vũ Quang. “Trách nhiệm dân sự của người đại diện pháp nhân.” Tạp chí
nghiên cứu lập pháp.

50
- Cao Vũ Minh, “Sự tương thích trong các quy định về kỷ luật Đảng và kỷ
luật hành chính đối với cán bộ, công chức”, Tạp chí Mặt trận.
- Ths. Hoàng Thị Lan,“ Một số vướng mắc khi áp dụng xử lý kỷ luật đối với
người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu”, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp.
- Minh Vương “Bất cập trong xử lý kỷ luật cán bộ”, Báo Pháp luật TP HCM.

51

You might also like