You are on page 1of 91

PHÂN TÍCH vai trò của nghị quyết Trung ương 15 tháng 1 năm 1959 đối với cách

mạng miền Nam

Hoàn cảnh lịch sử ra đời nghị quyết 15 : Về phía địch, chính quyền Mỹ-Diệm đã thi
hành hàng loạt các chính sách khủng bố, đàn áp dã man những người cộng sản, cán bộ
chiến sĩ và người dân yêu nước của ta như chính sách tố Cộng diệt Cộng tàn bạo, ban
hành luật 10/59 đặt Đảng Cộng Sản nằm ngoài vòng pháp luật, tiến hành công khai chiến
lược chiến tranh Đơn Phương chống lại nhân dân Việt Nam,...Trong khi đó, về phía ta lại
nghiêm chỉnh thực hiện chủ trương thống nhất đất nước bằng con đường ngoại giao hòa
bình thì phương châm đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang tự vệ như trước đó không
còn phù hợp với tình hình thực tế nữa. Ðiều này đòi hỏi Ðảng phải có sự chuyển hướng
chỉ đạo kịp thời để duy trì và phát triển phong trào cách mạng, đáp ứng nhu cầu của toàn
dân, cán bộ cả nước, nhu cầu cấp bách của lịch sử đặt ra lúc bấy giờ để đưa sự nghiệp
giải phóng miền nam, thống nhất đất nước của nhân dân ta vượt qua thử thách. Vào tháng
1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng đã tổ chức Hội nghị lần thứ 15 dưới sự chủ trì
của Chủ tịch Hồ Chí Minh để giải quyết vấn đề trên.

Nội dung nghị quyết 15:

Mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam: Sau khi phân tích tình hình nước ta, Hội nghị chỉ
ra hai mâu thuẫn cơ bản mà cách mạng Việt Nam phải giải quyết: Một là mâu thuẫn giữa
đế quốc Mỹ, địa chủ phong kiến, tư sản mại bản tay sai của Mỹ ở miền Nam với nhân
dân miền Nam nói riêng và toàn thể nhân dân Việt Nam nói chúng ; Hai là mâu thuẫn
giữa con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa và con đường tiến lên tư bản chủ nghĩa ở miền
Bắc. Trong đó mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn chủ yếu trong giai đoạn này. Từ đó, Hội
nghị cho rằng: "Cách mạng Việt Nam do Ðảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến
lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền nam". Hai nhiệm vụ chiến lược trên tuy tính chất khác nhau, nhưng lại có quan hệ
hữu cơ biện chứng, tiến hành song song, ảnh hưởng và tác động sâu sắc lẫn nhau, hỗ trợ
mạnh mẽ cho nhau để cùng thực hiện nhiệm vụ chung là giữ vững hòa bình, thống nhất
đất nước, tạo điều kiện thuận lợi để đưa Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Nhiệm vụ cơ bản của Cách mạng Việt Nam: Hội nghị đề ra nhiệm vụ chung của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện này là: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết
đấu tranh để giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân
chủ, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, ra sức
củng cố miền bắc và đưa miền bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, tích cực góp phần bảo vệ hòa
bình ở Ðông-Nam Á và thế giới".
Mâu thuẫn cơ bản của cách mạng miền Nam một là giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc
Mỹ xâm lược hay là giữa nông dân với địa chủ phong kiến trong đó mâu thuẫn thứ nhất
là mâu thuẫn chủ yếu trong giai đoạn cách mạng này.

Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam:

- Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập
dân tộc và người cày có ruộng, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh.

- Thực hiện đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, đánh
đổ tập đoàn thống trị độc tài tay sai của Mỹ- Ngô Ðình Diệm, thiết lập chính quyền liên
hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống
nhân dân. Giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập+ dân chủ.
Lực lượng cách mạng gồm lực lượng Công - nông – tiểu tư sản – tư sản dân tộc, trong đó,
động lực cách mạng là công – nông – tiểu tư sản. Liên minh công nông làm cơ sở. Chủ
trương thành lập 1 mặt trận dân tộc thống nhất riêng ở miền Nam, có cương lĩnh phù hợp
với tính chất – nhiệm vụ - thành phần để tập hợp rộng rãi tất cả các lực lượng yêu nước
và tiến bộ chống đế quốc và tay sai phản cách mạng.

Phương pháp cách mạng của cách mạng miền Nam:

Để thực hiện những nhiệm vụ trên, Hội nghị khẳng định: ngoài con đường cách mạng,
nhân dân miền Nam không có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ.
Chỉ có thắng lợi của cách mạng mới chấm dứt cảnh cùng khổ của nhân dân miền Nam,
mới triệt để làm thất bại mọi chính sách nô dịch, chia cắt và gây chiến của đế quốc Mỹ và
tay sai của chúng ở miền Nam. “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở
miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân". Chủ yếu là kết hợp với lực
lượng vũ trang đánh đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền
cách mạng của nhân dân."Đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong
những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng
chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ
chuyển sang một cục diện mới là: chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch và thắng lợi cuối
cùng nhất định về ta".

Về vai trò lãnh đạo của Đảng bộ miền Nam, Nghị quyết nhận định: Sự tồn tại và trưởng
thành của Đảng bộ miền Nam là một nhân tố quyết định thắng lợi của phong trào cách
mạng miền Nam. Vấn đề mấu chốt hết sức cấp bách hiện nay là phải củng cố, xây dựng
Đảng bộ miền Nam thật vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để không ngừng
nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp đảng bộ và nhất là của chi bộ đối với sự nghiệp
cách mạng dân tộc dân chủ. Trong hoàn cảnh mới, Đảng bộ miền Nam phải hết sức đề
cao công tác bí mật, phải biết triệt để sử dụng mọi khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để
che giấu lực lượng của Đảng, phải không ngừng nâng cao cảnh giác, tỉnh táo đề phòng
mọi sự xâm nhập, phá hoại của bọn gián điệp và những phần tử đầu hàng, phản bội. Để
bảo vệ các cơ quan đầu não và che giấu cán bộ, cần xây dựng ở các địa phương những cơ
sở an toàn và khu an toàn…

Vai trò/ ý nghĩa của nghị quyết trung ương15 (T1/1959) đối với cách mạng miền Nam
Việt Nam :

Nghị quyết trung ương 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, nó đã mở đường cho cách mạng miền
Nam tiến lên, đã xoay chuyển tình thế, dẫn đến cuộc đồng khởi oanh liệt của toàn miền
Nam năm 1960. Sau này khi tổng kết một số vấn đề lịch sử thời kỳ 1954-1975 Bộ chính
trị ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 7 đã kết luận “ nghị quyết trung ương 15 rất
đúng, làm xoay chuyển cả tình thế".

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 là một mốc lịch sử vô cùng quan trọng. Nghị quyết
đã đề ra một cách toàn diện đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam.
Nó đánh dấu bước phát triển mới về tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Ðảng ta trong
sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhằm mục tiêu chiến lược giải phóng miền
nam, thống nhất đất nước. Những quyết sách về đường hướng phát triển của cách mạng
miền nam mà Hội nghị đưa ra phản ánh đúng tình thế chín muồi của cách mạng miền
nam, đáp ứng được yêu cầu bức thiết của thực tế tình hình cách mạng miền nam lúc bấy
giờ, phù hợp với nguyện vọng tha thiết của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ miền nam và phù
hợp với xu thế phát triển tất yếu của cách mạng miền nam.

Nghị quyết 15 như một luồng sinh khí mới thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh của quần
chúng cách mạng mà đỉnh cao là phong trào đồng khởi cuối năm 1959 đầu năm 1960,
đưa cách mạng miền nam vượt qua thử thách nghiêm trọng nhất, chuyển sang thế tiến
công đập tan hình thức xâm lược, thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới mà đế
quốc Mỹ dày công tạo dựng ở miền nam Việt Nam.

Nghị quyết 15 và tiếp đó là Nghị quyết Ðại hội toàn quốc lần thứ III của Ðảng (tháng 9-
1960) đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam nói chung, đường lối và phương
pháp cách mạng Việt Nam ở miền nam nói riêng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước. Nghị quyết cũng thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Ðảng ta.
Nghị quyết 15 là một quyết định lịch sử, là tiền đề quan trọng dẫn đến thắng lợi hoàn
toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
Nghị quyết đánh dấu bước trưởng thành của Đảng ta, thể hiện sâu sắc tinh thần độc lập tự
chủ, năng động, sáng tạo trong đánh giá, so sánh lực lượng , trong vận dụng lý luận Mác-
Lênin vào cách mạng miền Nam, mở đường cho cách mạng miền Nam vượt qua thử
thách để tiến lên.

Nghị quyết Hội nghị BCHTW Ðảng lần thứ 15 (năm 1959) là một minh chứng điển hình
thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo của Ðảng đối với cuộc đấu tranh cách mạng ở Miền
Nam nói riêng và cách mạng Việt Nam nói chung.

60 năm nhìn lại,chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa lịch sử to lớn của Nghị quyết 15. “Nghị
quyết Trung ương 15 rất đúng”[9] bởi đã đề ra một cách toàn diện đường lối cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Nó đánh dấu bước phát triển mới về tư duy lý
luận và chỉ đạo thực tiễn của Ðảng ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, thống nhất
nước nhà.

***Bài học kinh nghiệm từ nghị quyết 15 đấu tranh bạo lực cách mạng khi tình thế cách
mạng đã chín mùi là đúng đắn phù hợp với kẻ thù đã sử dụng bạo lực cách mạng thẳng
tay giết hại cán bộ và nhân dân ta.

2.Vì sao ĐCSVN phải thực hiện đổi mới tư duy đối ngoại theo phương châm đa
phương hóa đa dạng hóa. Anh chị hãy đánh giá tác động của phương châm này đối
với hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

(Đối ngoại là tiến hành trong việc đàm phán dàn xếp thương lượng giữa những người đại
diện cho một nhóm hay một quốc gia.

Đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại là làm cho hoạt động đối ngoại trở nên đa dạng hơn
quan hệ trên nhiều mặt nhiều phương diện về kinh tế chính trị xã hội.

Đa phương hóa các quan hệ đối ngoại bài là việc thực hiện đối ngoại với nhiều bên cùng
một lúc nói cách khác là quan hệ đối ngoại có sự thỏa thuận hay tham gia của nhiều bên)

**** Cơ sở để Đảng Cộng Sản Việt Nam quyết định thực hiện đổi mới tư duy đối ngoại
theo phương châm đa phương hóa đa dạng hóa:

a. Hoàn cảnh lịch sử:

Tình hình chung của thế giới: Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX tình hình thế giới có
nhiều biến động. Các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng,
mạnh mẽ đã tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc trên toàn
thế giới. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hoà hoãn giữa các nước
lớn. Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn,
nhưng xu thế chung của thế giới lúc bấy giờ là hòa bình và hợp tác phát triển. Các nước
đang phát triển cũng dần đổi mới chính sách, thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối
ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với thời đại, thực hiện chủ trương đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế để tranh thủ sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và
công nghệ. Các chính sách chủ trương này cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến
chính sách ngoại giao của các nước, trong đó có các nước Đông Nam Á.

Trong khi đó, các nước XHCN lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Đến đầu những năm
90 chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ hoàn toàn. Sự tan rã của trật tự
thế giới hai cực đã hình thành trật tự thế giới mới : trật tự thế giới đa cực.

Tình hình của Việt Nam trước khi tiến hành đổi mới toàn diện đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng kinh tế-xã hội (1986-1996): Trước đổi mới do không nhận thức rõ được
tầm quan trọng của việc hội nhập quốc tế và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước
trên thế giới, những khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1975-1986 kéo dài về chủ
trương chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Khuynh
hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm khuyết điểm đó, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh
tế, là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo
nguyện vọng chủ quan, là tư tưởng tiểu tư sản vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. Khi đó,
Việt Nam vẫn đang bị các đế quốc và thế lực thù địch bao vây cô lập. Lấy cớ "sự kiện
Campuchia" các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện cấm vận chúng ta, Mỹ ba
lần phủ quyết chúng ta gia nhập Liên hợp Quốc. Trước tình hình bị cô lập cấm vận trên,
vừa bị các thế lực thù địch chống phá cộng với các chính sách không phù hợp với thời đại
khiến nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Lương thực thực phẩm,
hàng tiêu dùng đều khan hiếm, lạm phát tăng 300% năm 1985 lên 774% năm 1986. Các
hiện tượng tiêu cực vi phạm pháp luật vượt biên trái phép diễn ra khá phổ biến. Đổi mới
đã trở thành đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước, đặc biệt là đổi mới đối ngoại theo
phương châm đa phương hóa đa dạng hóa.

b. Lợi ích tích cực của phương châm đa phương hóa đa dạng hóa trong thực hiện đổi mới
tư duy đối ngoại: Xu thế đối ngoại theo phương châm đa phương hoá đa dạng hoá và hoà
bình, hợp tác phát triển, xu thế toàn cầu hóa kinh tế sẽ tạo thuận lợi cho nước ta mở rộng
quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế, cải thiện đời sống cho nhân dân cả nước.
Giúp chúng ta giải tỏa được tình trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây cấm vận, tiến
tới bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới như Mỹ,
Trung Quốc,... Đồng thời tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện, tạo môi trường
quốc tế thuận lợi để tập trung xây dựng kinh tế đất nước, chống tụt hậu về kinh tế, phát
huy vai trò và vị thế của nước ta trên trường quốc tế, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
ta và các quốc gia, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

==>Xuất phát từ tình hình cụ thể trong và ngoài nước, nhu cầu phát triển của nước ta và
những đánh giá về cục diện thế giới và khu vực nói trên, nhận thấy những lợi ích tích cực
và cơ hội to lớn từ phương châm này, trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(12/1986) Đảng Cộng Sản Việt Nam đã quyết định thực hiện đổi mới tư duy đối ngoại
theo phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa.

Đánh giá tác động của phương châm lên hoạt động đối ngoại thời kì đổi mới:

Về mặt tích cực : Chủ trương đa phương hóa đa dạng hóa trong hoạt động đối ngoại có
vai trò rất quan trọng nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi thân thiện và mở rộng. Là cơ
sở tiền đề giúp đẩy mạnh kinh tế xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước, là những
điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình độc lập dân tộc.

Phương châm này sẽ giúp gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, tiếp cận thị
trường thế giới. Việt Nam sẽ trở thành bạn của tất cả các nước, mở rộng cửa thu hút vốn,
công nghệ kĩ thuật mới thúc đẩy nhanh quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đồng
thời giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước, nâng cao trình độ nguồn nhân lực
của đất nước, thúc đẩy mở rộng hơn nữa về ngồn công việc và giải quyết được các vấn đề
khủng hoảng hiện giờ trong xã hội.

Sau hơn 30 năm thực hiện đổi mới tư duy đối ngoại theo phương châm đa phương hóa đa
dạng hóa trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể góp
phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Thứ nhất : Về quan hệ hợp tác đa
phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở
rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và
vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định
hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã thiết
lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc, các nước trong nhóm G8; nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung
Quốc, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ quan
đại diện của ta ở nước ngoài cũng tăng lên với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4
phái đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phòng kinh tế văn hóa. Thứ
hai :Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới,
Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và
đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và
thế giới. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và
chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN từ 1/1/1996. Tiếp đó, năm 1996
Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) và đến năm 1998, Việt
Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC).
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan trọng
khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức này.

*Về những thách thức khi thực hiện phương châm đa phương hóa đa dạng hóa đối với
hoạt động đối ngoại của Việt Nam:

Bên cạnh những tác động tích cực và thành tựu đã đạt được từ việc thực hiện phương
châm này của Đảng, chúng ta còn phải đổi mặt với nhiều thách thức, rủi ro liên quan đến
các vấn đề an ninh quốc phòng, bản sắc văn hóa dân tộc bị ảnh hưởng, sự thâm nhập của
các tư tưởng sai lệch, yếu tố văn hoá không lành mạnh vào đất nước, cùng với sự can
thiệp, chi phối của các thành phần bên ngoài, sự cạnh tranh của hàng hóa ngoại nhập với
sản phẩm sản xuất trong nước, tăng thêm các vấn đề về hàng giả hàng nhái vào thị trường
Việt Nam và còn một số vấn đề chính trị nhạy cảm khác...

Vì vậy Đảng ta đã và đang cố gắng để hoàn thiện hơn các chính sách, phương châm đổi
mới, phát triển an toàn cho đất nước, đưa đất nước ngày càng phát triển đi lên xã hội chủ
nghĩa.

3. Sự ra đời của sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một quá trình vận động
hoàn toàn khách quan hợp quy tắc/ là sự tất yếu + phân tích sự sáng tạo trong
cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Bối cảnh lịch sử quốc tế: Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ
tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính bước chuyển này đã làm cho
mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng trở nên gay gắt. Cùng với mâu thuẫn nội tại
trong bản thân mỗi nước tư bản thì thời điểm này cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa các
nước tư bản với nhau do tranh giành thuộc địa, phân chia thị trường và khu vực ảnh
hưởng. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-
1918). Đặc biệt là sự thống trị tàn bạo của CNĐQ làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc
thuộc địa với CNĐQ thực dân ngày càng trở nên gay gắt và trở thành một vấn đề mang
tính thời đại. Mâu thuẫn này tạo ra tính tất yếu của cách mạng vô sản.
- Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi mở ra một thời đại mới trong lịch sử
nhân loại, có tác động thức tỉnh các dân tộc đang đấu tranh giải phóng, đồng thời những
tư tưởng cách mạng tiến bộ mạnh mẽ truyền vào các nước thuộc địa.

- Bối cảnh trong nước: Sau khi thực dân Pháp hoàn thành quá trình xâm lược và đặt ách
thống trị lên nước ta đã biến Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập có chủ quyền
thành xã hội thực dân nửa phong kiến. Sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân
Pháp đã khiến cho đời sống của các giai cấp tầng lớp trong xã hội vô cùng khốn khổ, làm
gay gắt thêm các mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội Việt Nam. Tình trạng khủng hoảng
kinh tế –xã hội , đặc biệt là các mâu thuẫn dân tộc và giai cấp đã dẫn đến nhu cầu đấu
tranh để tự giải phóng. Nhân dân ta liên tiếp nổi dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc, theo
nhiều xu hướng, con đường chính trị khác nhau, nhưng đều lần lượt thất bại. Cách mạng
Việt Nam lâm vào thời kỳ “đen tối như không có đường ra”. Lịch sử đặt ra yêu cầu phải
tìm được một đường lối cứu nước đúng đắn nhằm đánh đổ ách áp bức giành độc lập tự do
cho nhân dân. Độc lập dân tộc và tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết của toàn dân, là
nhu cầu bức thiết của cả dân tộc.

-Các yếu tố đưa đến sự ra đời mang tính tất yếu khách quan của Đảng Cộng Sản Việt
Nam: Từ sự phân tích tình hình thế giới và tình hình kinh tế xã hội của giai cấp trong xã
hội Việt Nam lúc bấy giờ, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước là đi
theo con đường cách mạng vô sản, chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lãnh
đạo cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng. Phong trào công nhân ra đời và phát triển là
một quá trình lịch sử tồn tại tự nhiên. Muốn trở thành phong trào tự giác nó phải được vũ
trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; Vũ khí lý luận và tư tưởng của giai cấp
công nhân. Từ 1919 -1929, thông qua hoạt động của mình, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực
chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng. Người đã thành lập hội
Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên (6/1925) để thông qua tổ chức này cố gắng truyền bá
tư tưởng vô sản, lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam. Những năm 1928 – 1929,
chủ nghĩa Mác – Lê nin được truyền bá sâu rộng vào Việt Nam, làm cho phong trào công
nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Lúc bày, một yêu cầu cấp thiết đặt ra là
phải có tổ chức đứng ra lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu đó ở Việt Nam lần lượt xuất hiện ba tổ
chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Tân Việt Cách
mạng Đảng. Tuy nhiên ba tổ chức cộng sản tồn tại và hoạt động riêng rẽ khó tránh khỏi
khiến cho lực lượng và sức mạnh của phong trào cách mạng bị phân tán, thiếu thống nhất
về tổ chức trên cả nước. Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước,
với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng triệu tập
đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến họp từ 6/1 đến
7/2 năm 1930 tại Cửu Long - Hương Cảng (Hongkong, Trung Quốc). Hội nghị quyết
định hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một tổ chức duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều
lệ vắn tắt (Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng)... Như vậy, trước sự phát triển mạnh
mẽ của phong trào cách mạng tất yếu cần một chính đảng đại diện cho một giai cấp tiên
tiến để lãnh đạo đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là quá trình phát
triển khách quan, phù hợp với quy luật vận động của lịch sử. Quy luật vận động thành lập
chính Đảng vô sản cần hội tụ đủ hai yếu tố là lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và phong
trào công nhân, riêng ở Việt Nam có thêm yếu tố là phong trào yêu nước, đây là điểm
khác biệt trong quá trình vận động thành lập Đảng ở Việt Nam. Qua đây khẳng định sự
sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam.

==> Đảng ra đời là sự lựa chọn tất yếu khách quan của lịch sử. Thực tiễn quá trình vận
động thành lập Đảng đã chứng minh điều đó.

Phân tích sự sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: nội dung cơ bản của
cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, có hai văn kiện đó là: Chánh
cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng đã phản ánh về đường hướng phát
triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì
vậy hai văn kiện trên là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: Từ
việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam- một xã hội thuộc địa nửa
phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân, nông dân với đế
quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đường lối chiến lược của
cách mạng Việt Nam "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản". Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của
cách mạng vô sản.

Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam:"Đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến"," làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Cương
lĩnh đã xác định: chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc
lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc giành độc lập cho dân
tộc được đặt ở vị trí hàng đầu.

Về phương diện xã hội, cương lĩnh đã xác định rõ:" a)dân chúng được tự do tổ chức; b)
Nam nữ bình quyền,v.v. c) Phổ thông giáo dục theo công nông hóa". Về phương diện
kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái, thâu hết sản nghiệp lớn (như
công nghiệp, vận tải, ngân hàng... của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính
phủ công nông binh quản lý; thấu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia
cho dân cày nghèo bỏ xương thuế cho dân cày nghèo mở mang công nghiệp và nông
nghiệp thi hành luật ngày làm 8 giờ những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về phương
diện xã hội và phương diện kinh tế nêu trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh tế xã hội
cần được giải quyết ở Việt Nam vừa thể hiện tính cách mạnh toàn diện triệt để là xóa bỏ
tận gốc ách thống trị bóc lột hà khắc của bọn ngoại bang nhằm giải phóng dân tộc giải
phóng giai cấp giải phóng xã hội I đặc biệt là giải phóng cho hai giai cấp công nhân và
nông dân

Xác định lực lượng cách mạng phải đoàn kết công nhân nông dân đây là lực lượng cơ bản
trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp
các lực lượng tiến bộ yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai do vậy Đảng phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày
thấy sức liên lạc với tiểu tư sản trí thức trung nông để kéo họ đi vào pha vô sản giai cấp
còn đối với bọn Phú nông Trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng ảnh x lâu mới làm cho họ đứng trung lập đây là cơ sở của tư
tưởng chiến lược đại đoàn kết dân tộc xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các giai cấp
các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu nước cách mạng trên cơ sở đánh giá
đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.

Xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc cương lĩnh khẳng định
phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng trong bất cứ hoàn cảnh nào
cũng không được bảo hiểm không khi nào giữa một chút lợi ích gì của công nông mà đi
vào đường thoát hiểp. Có sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp để lôi kéo tiểu tư sản
trí thức trung tâm về phía giai cấp vô sản nhưng kiên quyết bộ phận nào đã ra mặt phẳng
cách mạng Đảng lập hiến phân vân thì phải đánh đổ

Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế cương lĩnh chỉ rõ võ trong khi thực hiện nhiệm vụ
giải phóng dân tộc đồng thời tranh thủ sự đoàn kết ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản thế giới nhất là giai cấp vô sản Pháp cương lĩnh nêu rõ cách mạng Việt
Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới trong khi tuyên
truyền các khẩu hiệu nước An Nam độc lập phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên
lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới như vậy ngay từ khi thành lập Đảng
cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai cấp
công nhân
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng ảnh Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được
dân chúng Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công
nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ
bản của cách mạng Việt Nam trong đó thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập tự chủ sáng tạo
trong việc đánh giá đặc điểm tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến của Việt Nam
trong những năm 20 của thế kỷ XX chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân
tộc Việt Nam lúc đó đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn xác thực thái độ của các giai tầng
xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc từ đó các văn kiện đã xác định đường lối
chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam đồng thời xác định phương pháp cách
mạng nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến
lược và sách lược đã đề ra

###Sáng tạo trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: So với Chủ nghĩa Mác – Lê-
nin quy định giải quyết vấn đề giai cấp trước, vấn đề dân tộc sau. Tính sáng tạo của
Cương lĩnh chính trị (đầu năm 1930) được thể hiện rõ nét nhất ở việc: Tuy ngắn gọn vắn
tắt nhưng đã kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm dân tộc và giai cấp, thắm đượm tính dân
tộc và thời đại.

- Kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp: Cương lĩnh vạch rõ tính chất của cách
mạng Việt Nam là phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng tư sản dân quyền (về sau gọi là
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) và cách mạng xã hội chủ nghĩa (“làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”). Như vậy, ngay từ đầu,
Đảng ta đã thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đề ra nhiệm vụ của cách mạng
tư sản dân quyền ở nước ta: chống đế quốc và chống phong kiến. Hai nhiệm vụ này có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau song song tiến hành trong đó nhiệm vụ chống đế quốc và
chính quyền tay sai được đặt lên hàng đầu.

- Thể hiện được vấn đề đoàn kết dân tộc: khi xác định lực lượng cách mạng không chỉ có
công- nông là gốc, là động lực của cách mạng mà còn có trí thức, trung và tiểu địa chủ thì
lợi dung hoặc trung lập họ.

- về phương pháp cách mạng Đảng chủ trương phải giành chính quyền bằng bạo lực cách
mạng. Cách mạng Việt Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa trên
thế giới. Cách mạng Việt Nam là một phần của cách mạng thế giới.
==>Như vậy trước yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam cần phải thống nhất các tổ
chức cộng sản trong nước chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng với uy tín chính trị
và phương thức hợp nhất phù hợp Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu tập và chủ trì hợp
nhất các tổ chức cộng sản những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất dù
vắn tắt nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt
Nam đến cách mạng Việt Nam sau một trang sử mới. Đó cũng là sự sáng tạo độc đáo
nhưng sâu sắc, chính xác của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.

Ý nghĩa lịch sử của sự kiện thành lập Đảng cộng sản Việt Nam:
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta,
chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước trong những năm cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại. Đó là kết
quả của sự vận động phát triển và thống nhất của phong trào cách mạng trong cả nước vì
chuẩn bị tích cực sáng tạo bản lĩnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sự đoàn kết nhất trí của
những chiến sĩ cách mạng tiên phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó
cũng là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất của phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng, " Việc thành lập Đảnglà một bước ngoặt vô
cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng ta nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản đã trưởng
thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng"( Trích Hồ Chí Minh Toàn tập)

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là điều kiện cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối với toàn
bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam từ đó về sau. Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời là biểu hiện sự xác lập vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng
nước ta. Sự kiện này đã mở đầu một thời đại mới trong lịch sử nước ta-thời đại mà giai
cấp công nhân đứng ở trung tâm kết hợp các trào lưu cách mạng , là giai cấp quyết định
nội dung và phương hướng phát triển chính của xã hội Việt Nam; thời đại mà nhân dân ta
làm ra lịch sử một cách tự giác và có tổ chức; thời đại mà nhân dân Việt Nam không chỉ
làm nên lịch sử vẻ vang của mình mà còn góp phần vào sự nghiệp chung của các dân tộc
bị áp bức, xoá bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập và tiến bộ xã
hội .

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định
sự lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam- con đường cách mạng vô sản.
Con đường duy nhất đúng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản phù hợp với nội dung và xu thế của thời
đại mới được mở ra từ cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại: "Đối với nước ta, không còn
con đường nào khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do hạnh phúc cho nhân dân. Cần
nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm
1930 với sự ra đời của Đảng ta"( Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập)
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách
mạng thế giới. Với đường lối đúng đắn, sáng tạo, từ khi ra đời và cho đến nay, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã tập hợp , đoàn kết được các lực lượng yêu nước, đã lãnh đạo
phong trào cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn. Sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh-người sáng lập , lãnh
đạo và rèn luyện Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trở thành nhân tố hàng đầu quyết
định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi nay đến thắng lợi khác.

4. Tại sao Đảng cộng sản Việt Nam xóa bỏ chế độ quản lý kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp sang cơ chế thị trường /vì sao Đảng cộng sản Việt Nam lựa chọn mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu

Bối cảnh lịch sử: Sau khi giành được độc lập, thống nhất đất nước, chúng ta đã lần lượt
tổ chức các đại hội đại biểu toàn quốc và đã tạo ra các bước đột phá mới, tiếp tục đổi mới
kinh tế. Tuy nhiên do những sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định mục
tiêu, bước đi; những khuyết điểm do không hoàn thành các mục tiêu của Đảng đề ra, đất
nước lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài, sản xuất tăng chậm và không ổn định,
nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt không có tích lũy; lạm phát tăng cao và kéo dài.
Bộ máy quản lý cồng kềnh nhiều cấp trung gian kém năng động kém hiệu quả, không tạo
được động lực phát triển, thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học công nghệ. Hơn
nữa đất nước ta đang bị bao vây, cô lập; đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối
với Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng. Vì vậy yêu cầu đặt ra là phải tiến
hành đổi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội mà một trong
những nhiệm vụ để thực hiện yêu cầu đó là xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp sang cơ chế thị trường.

Khái niệm: cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp hay cơ chế kinh tế kế
hoạch hóa tập trung là nền kinh tế mà nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh
hành chính, dựa trên hệ thống chỉ tiêu, pháp lệnh chi tiết lắp đặt từ trên xuống dưới. Chế
độ bao cấp của nhà nước dưới ba hình thức chính: bao cấp qua giá, qua chế độ tem phiếu,
qua chế độ cấp phát vốn.

Kinh tế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế phát triển cao của kinh tế hàng hóa mà
mỗi yếu tố đầu vào và đầu ra đều được thực hiện thông qua thị trường

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.

Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp chuyển sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì nó là một tồn
tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa của nước ta. Kinh tế thị trường
là một thành tựu trong sự phát triển xã hội loài người. Kinh tế thị trường có tính năng
động tính cân đối và tính tự điều chỉnh phát triển. Kinh tế thị trường làm phá vỡ kinh tế
tự nhiên và thúc đẩy sản xuất, kích thích tính năng động sáng tạo của chủ thể kinh tế thúc
đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất, nhờ đó phát huy tiềm năng
lợi thế từng vùng để tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, thúc đẩy quá trình
tích tụ và tập trung sản xuất, tạo điều kiện để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn có
tính xã hội hóa cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.

So với cơ chế quản lý tập trung bao cấp: các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả
phương hướng sản xuất nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy nhân
sự, tiền lương đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch
cấp phát vốn vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho nhà nước. Lỗ
thì nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu. Thì kinh tế thị trường đào tạo tuyển chọn những
người kinh doanh năng động. Kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do dân
chủ trong kinh tế bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động
mua bán được thực hiện thường xuyên rộng khắp trên cơ sở một kết cấu hạ tầng tối thiểu
để hoạt động mua bán diễn ra được thuận lợi, an toàn với một hệ thống thị trường ngày
càng đầy đủ. Các đối tác hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều theo đuổi lợi ích của
mình, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế. Tự do cạnh tranh là
thuộc tính của kinh tế thị trường động lực thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế xã hội nâng cao chất
lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có lợi cho cả người sản xuất và người tiêu dùng. Sự
vận động của các quy luật khách quan của thị trường dẫn dắt hành vi thái độ ứng xử của
các chủ thể kinh tế tham gia thị trường, nhờ đó hình thành một trật tự nhất định của thị
trường từ sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng. Kinh tế thị trường giúp chúng ta
thực hiện mục tiêu yêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Kinh tế thị trường không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xóa đói giảm
nghèo khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát
nghèo và từng bước khá giả hơn. Đây là sự khác biệt với mục đích tất cả vì lợi nhuận,
phục vụ lợi ích của các nhà tư bản bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản.

Sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ
đạo là công cụ chủ yếu điều tiết nền kinh tế. Phát triển kinh tế nền thị trường nhưng nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là công cụ chủ yếu để nhà
nước điều tiết nền kinh tế định hướng cho sự phát triển. Nhà nước phải nắm được vị trí
then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất
kinh doanh cao chứ không phải dựa vào bao cấp, cơ chế xin-cho hay độc quyền kinh
doanh.

Thực tiễn gần 30 năm đổi mới ở nước ta đã chứng minh hết sức sức thuyết phục rằng con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải đi qua kinh tế thị trường, không phát triển
kinh tế thị trường thì không thể đi tới chủ nghĩa xã hội bởi vì kinh tế thị trường có những
lợi thế mà kinh tế hiện vật tự cung tự cấp không thể so sánh được. Kinh tế thị trường thúc
đẩy chuyên môn hóa ngày càng sâu để phát huy tiềm năng nhiều mặt của những con
người khác nhau lấy giúp phân phối điều tiết hành vi của mọi người một cách tự giác
thông qua cơ chế trao đổi hàng hóa một cách tự nguyện, thỏa thuận, theo quy luật cung
cầu. Kinh tế thị trường phản ánh mức độ tự do dân chủ cao trong điều kiện nguồn lực để
thỏa mãn nhu cầu còn khan hiếm. So với cơ chế kế hoạch hóa tập trung của nhà nước
trong thời bao cấp kinh tế thị trường không tốn chi phí lập và điều hành kế hoạch mà lại
phát huy được sức mạnh của mọi người.

Sự phát triển kinh tế gắn liền với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cạnh tranh giữa các
quốc gia về kinh tế. Nước ta đang hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu
về hàng hóa dịch vụ càng làm nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường của thế giới.
Vì vậy cần tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . Đó
cũng là lý do vì sao Đảng cộng sản Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và xem nó như là một điều tất yếu, khách quan.

5. Phân tích yếu tố thời cơ trong đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng
cộng sản Đông Dương 1939-1945 liên hệ đến bài học nắm bắt thời cơ của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay/ làm rõ yếu tố thời cơ của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
(Tháng 9/1939 thế chiến thứ hai bùng nổ đã chi phối điều kiện kinh tế-chính trị-xã hội
của tất cả các nước liên quan. Mặt trận Nhân dân Pháp tan vỡ. Ở Đông Dương, chính
quyền thực dân Pháp đã thi hành chính sách thời chiến, phát xít hóa bộ máy thống trị, thủ
tiêu mọi quyền tự do cơ bản của nhân dân thuộc địa, cấm tuyên truyền cộng sản, đặt
Đảng Cộng Sản ngoài vòng pháp luật, đồng thời tăng cường vơ vét sức người sức của, áp
bức bóc lột công khai các thuộc địa phục vụ cho chiến tranh ở chính quốc. Tháng 9/1940
quân phiệt Nhật tiến vào Hà Nội, Pháp chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng đầu hàng, bắt
tay cấu kết với Nhật cùng thống trị nước ta. Dân ta lâm vào cảnh "1 cổ 2 tròng" ----->
mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với bè lũ thực dân Pháp- phát xít Nhật xâm lược càng
trở nên gay gắt. Nước ta rơi vào cảnh bần cùng về kinh tế, ngột ngạt về chính trị sâu sắc
hơn bao giờ hết.

------> Trước sự khủng bố quyết liệt của kẻ thù, Đảng Cộng sản Đông Dương chủ động
rút vào hoạt động bí mật, tích cực chuẩn bị đường lối đấu tranh giành chính quyền cho
nhân dân. )

Bối cảnh lịch sử : Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai đi đến giai đoạn kết thúc.
Chủ nghĩa phát xít liên tiếp thua trận, đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân đội
các nước đồng minh chuẩn bị đổ bộ vào Đông Dương. Trong tình thế khó khăn đó, phát
xít Nhật tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Pháp (9/3/1945) để độc chiếm Đông Dương. Về
phía ta, ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở
rộng tại Đình Bảng (Bắc Ninh), ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta” (12/3/1945), xác định rõ kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông
Dương lúc này là phát xít Nhật. Vì vậy, cần phải thay khẩu hiệu “đánh Pháp, đuổi Nhật”
bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật.

Đầu tháng 8/1945, chiến tranh thế giới thứ hai đi đến những ngày cuối cùng. Sau khi tiêu
diệt hoàn toàn phát xít Đức, chấm dứt chiến sự ở châu Âu, các nước trong phe Đồng
minh (đứng đầu là Mỹ và Liên Xô) dồn sức tiêu diệt phát xít Nhật ở châu Á, buộc chính
phủ Nhật hoàng phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện (13/8/1945). Tin tức đầu hàng
nhanh chóng lan đi khắp mặt trận. Quân đội Nhật chiếm đóng ở Đông Dương bị tê liệt,
mất tinh thần chiến đấu, chính phủ bù nhìn hoang mang cực độ. Không khí cách mạng
sục sôi trong cả nước.

Theo sự thỏa thuận của các nước đồng minh thắng trận, quân đội Tưởng Giới Thạch
(Trung Hoa Dân quốc) sẽ tiến vào miền Bắc Việt Nam, quân đội Anh - Pháp sẽ vào miền
Nam Việt Nam (lấy vĩ tuyến 16 phân chia) làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng
thực chất đều muốn thực hiện ý định tiêu diệt lực lượng cách mạng và Đảng Cộng sản
Đông Dương, thành lập chính quyền tay sai phục vụ mưu đồ cai trị, nô dịch lâu dài.
Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập Hội
nghị toàn quốc (từ 13-15/8/1945) họp tại Tân Trào (Tuyên Quang), nhận định thời cơ đã
đến, quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi
quân đồng minh vào. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc để kịp
thời chỉ đạo thống nhất phong trào khởi nghĩa các địa phương. Ủy ban Khởi nghĩa ra
quân lệnh số 1: “Giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam
cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà... Chúng ta phải hành động cho nhanh, với
một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định
sẽ về ta”.

Điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ:

Thứ nhất, về việc xác định thời cơ, lúc này tình thế đã hoàn toàn khác với thời điểm ngày
9/3/1945, khi Nhật đảo chính Pháp. Lúc đó, trong Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta” (ngày 12/3/1945), Đảng ta đã nhận định là “những điều kiện khởi
nghĩa chưa thực chín muồi”, do giữa Pháp và Nhật “chưa chia rẽ, hoang mang, do dự đến
cực điểm”; sự giác ngộ và đồng lòng của nhân dân cần có thêm thời gian tuyên truyền,
vận động; lực lượng chưa được chuẩn bị đủ và sẵn sàng. Đến tháng 8/1945, tình thế đã
thay đổi: Pháp chưa nắm lại được chính quyền, Nhật thì hoang mang cực độ, chế độ quân
chủ gần như sụp đổ, nhân dân đã vùng dậy (từ tự phát phá kho thóc của Nhật đến việc nổi
dậy giành chính quyền ở cơ sở tại một số nơi), lực lượng đã được chuẩn bị cơ bản, không
chỉ ở chiến khu Việt Bắc mà còn nhiều nơi khác…

Thứ hai, về chủ trương, từ tháng 3 đến tháng 8/1945, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương
nhằm chuyển hướng đấu tranh cách mạng, củng cố lực lượng… Bằng nhiều hình thức,
Trung ương Đảng đã chỉ đạo các Xứ ủy Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ đề ra các nhiệm vụ cụ
thể trong phạm vi hoạt động của mình.

Thứ ba, về lực lượng, đây là sự chuẩn bị lâu dài. Từ khi lãnh tụ Hồ Chí Minh về nước
hoạt động, tháng 5/1941, chỉ hơn 3 tháng sau khi về nước, Người thành lập Mặt trận Việt
Minh để tập hợp các lực lượng tham gia giành độc lập. Người mở nhiều lớp huấn luyện
quân sự cho cán bộ, xây dựng căn cứ địa... Ngày 22/12/1944, Người giao đồng chí Võ
Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, đơn vị vũ trang
chính thức đầu tiên của cách mạng, nhưng nhiệm vụ chính không chỉ có hoạt động vũ
trang mà còn có hoạt động tuyên truyền. Người cũng tranh thủ các đơn vị của Mỹ trong
lực lượng Đồng minh để giúp đỡ vũ khí và tham gia huấn luyện quân sự, đây chính là lực
lượng nòng cốt để hành quân về Hà Nội để cùng nhân dân giành chính quyền. Dĩ nhiên,
trong quá trình đó, lực lượng tối quan trọng vẫn là các tầng lớp nhân dân đã được giác
ngộ, vận động và tập hợp trong nhiều tổ chức, dưới nhiều hình thức.
Thứ tư, về các chỉ đạo cụ thể, tháng 8/1945, Hồ Chí Minh đã có thư kêu gọi khởi nghĩa,
ban hành mệnh lệnh khởi nghĩa, công bố Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa… Tiếp
đó, Người cùng Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn quốc của Đảng (ngày 14 và
15/8/1945) và tổ chức Đại hội Quốc dân ở Tân Trào (ngày 16/8/1945). Đại hội đã nhiệt
liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh. Đại hội quyết
định toàn dân đoàn kết đứng lên vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền; thông qua 10
chính sách lớn của Việt Minh; bầu Ủy ban Dân tộc giải phóng (tức Chính phủ lâm thời)
do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch; thống nhất quy định Quốc hiệu, Quốc kỳ, Quốc ca
của nước Việt Nam mới…

----> Như vậy, sự kiện Nhật đầu hàng Đồng minh, Thế chiến II kết thúc, chế độ phong
kiến ở Việt Nam sụp đổ kết hợp với sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt đã trở thành cơ hội
cách mạng, thời cơ có một không hai của một cao trào mang tính quyết định của cách
mạng Việt Nam. Yếu tố thời cơ giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng sâu sắc đối
với cách mạng Việt Nam, góp phần to lớn để đưa đến thắng lợi cuối cùng trong đường lối
đấu tranh giành chính quyền của Đảng cộng sản Đông Dương.

LIÊN hệ BÀI HỌC Nắm BẮT THỜI CƠ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY: nắm bắt thời cơ không chỉ đem lại thắng lợi to lớn trong đường lối đấu tranh giành
chính quyền của Đảng cộng sản Đông Dương giai đoạn 1939 1945, mà nắm vững bài học
đó, Đảng ta đã nhiều lần giành thắng lợi trong suốt chiều dài đấu tranh giành độc lập. Nổi
bật nhất là trong đại thắng mùa Xuân năm 1975, Đảng ta đã liên tiếp có những quyết định
sáng suốt và kịp thời để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trong đó có việc giải
phóng các đảo trong quần đảo Trường Sa trước khi đánh bại hoàn toàn chế độ Sài Gòn.

Tiếp theo đó, sau khi nhận thức được toàn cầu hóa và xu hướng hội nhập quốc tế là một
diễn biến khách quan mang tính tất yếu. Đảng ta đã biến nó thành cơ hội khi chuẩn bị
một tâm thế sẵn sàng hội nhập, bắt đầu từ kinh tế, văn hóa, thể thao cho đến chính trị.
Tranh thủ cơ hội để mở rộng hợp tác với tất cả các nước, đưa sản phẩm của Việt Nam
vươn xa ra thế giới. Việt Nam đã gia nhập ASEAN, trở thành thành viên Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), ứng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp
quốc… Vị thế, vai trò và uy tín của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao,
cải thiện được đời sống của nhân dân cả nước, thúc đẩy quá trình tiến lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.

Hiện nay, dịch Covid-19 đã và đang gây nhiều thiệt hại cho nền kinh tế thế giới nói
chung và cả Việt Nam nói riêng. Ngay từ khi dịch bệnh bắt đầu, Đảng ta đã chớp lấy thời
cơ tiến hành hàng loạt các biện pháp phòng chống tích cực, cử các lực lượng liên quan
tiến hành vây quét truy vết các F0,F1, xây dựng các chốt kiểm dịch,nắm chắc thời cơ để
kiểm soát được tốt nhất, nhằm ngăn chặn tối đa sự lan lan dịch bệnh, bảo đảm an toàn
cho nhân dân cả nước. Hơn thế nữa, việc nhanh chóng nghiên cứu sản xuất ra vắc xin và
tìm ra phương pháp điều trị , xây dựng các bệnh viện dã chiến, khu cách li tập trung cũng
được nhà nước và các cơ quan gấp rút thực hiện. Việc chớp lấy thời cơ đàm phán mua
vắc xin với các nước để phục vụ nhu cầu của nhân dân cũng được nhà nước đặc biệt quan
tâm thực hiện nhanh chóng nhất có thể

====>> Thời cơ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, chớp lăy thời cơ là chớp lấy cơ hội,
vì vậy, việc nắm bắt và vận dụng thời cơ của Cách mạng tháng Tám vẫn là bài học lớn
của Đảng, của đất nước trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay và mai sau!

6. trong nghị quyết Trung ương 9 khóa XI 2011 Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
quan điểm: " Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội là mục tiêu động lực phát
triển bền vững đất nước" Anh chị hãy nêu ý kiến về quan điểm trên

Trên chặng đường hơn 30 năm đổi mới đất nước một cách toàn diện, sâu sắc và triệt để
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trên cơ sở tổng kết Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII
“Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Hội
nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã đề ra quan điểm về vai trò
của văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước, Đảng ta xác định: "Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước". Đây là
một quan điểm hết sức đúng đắn, đánh giá chính xác vai trò của yếu tố văn hoá .

Trước tiên, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:

Theo Unessco: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của
cuộc sống; văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên
sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc vượt qua mọi khó khăn để phát triển. Vì vậy,
chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để
các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực
phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm
nhập của tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia
đình văn hoá.
Quan điểm này một lần nữa khẳng định vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc là chăm lo nền tảng tinh
thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không có sự phát triển
kinh tế - xã hội bền vững, Nghị quyết số 33 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, một trong những mục
tiêu quan trọng mà Đảng ta nhấn mạnh là: “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam
phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học. Văn hoá thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội,
là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Xây dựng và phát
triển văn hóa cũng là một mục tiêu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Mặt khác, để phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội,
chúng ta cần phải mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp thụ có chọn lọc cái hay, cái
tiến bộ trong tinh hoa văn hóa các dân tộc khác để làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc,
tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế, làm cho văn hóa Việt Nam bắt kịp sự phát triển của văn hóa nhân loại
trong thời đại ngày nay và chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, xa lạ với văn hóa.

Đảng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nghĩa là đề cao, coi trọng nguồn lực
văn hóa của sự phát triển bền vững đất nước. Hệ thống di sản văn hóa, các giá trị văn hóa
là “tài sản” vô giá, vô tận cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đó còn là cơ sở tinh thần cho
sự ổn định xã hội và sự bền vững của chế độ ta.

Văn hóa là một mục tiêu của phát triển bền vững đất nước: Mục tiêu tổng quát của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây cũng chính là mục tiêu của văn hóa, nếu hiểu theo
nghĩa rộng nhất của văn hóa. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 xác
định: Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Đồng
thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội,
phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”, ngày nay không thể phát triển bằng mọi giá, nhất
là chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi ích hôm nay mà làm tổn hại đến tương lai. C. Mác đã
chỉ dẫn “Nếu canh tác được tiến hành một cách tự phát mà không được hướng dẫn một
cách có ý thức….thì sẽ để lại sau nó đất hoang”. Điều đó có nghĩa là, muốn phát triển
kinh tế một cách hiệu quả, bền vững, thì không thể thiếu văn hóa, nên văn hóa chính là
mục tiêu của sự phát triển, văn hóa còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi
dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới.
Bản chất của văn hóa là sáng tạo, đổi mới để vươn tới các giá trị, tạo nên tinh thần nhân,
hạnh phúc đến cho mỗi người. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là thực hiện sự nghiệp vì nhân dân - con người. Phải đặt con người
vào vị trí trung tâm của sự phát triển, là mục tiêu của sự phát triển. Văn hoá giữ vai trò
quan trọng trong việc phât triển con người, vì vậy văn hóa chính là mục tiêu phát triển
bền vững của đất nước.

Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đó phải là nền kinh tế giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân
và xã hội, giữa kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo bền vững về môi trường
sinh thoái, tạo cơ sở nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó phải cần
đến văn hóa, sự tham gia của văn hóa vào trong tổ chức và hoạt động của nền kinh tế vì
mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người, đó chính là vai trò của văn hóa trong
kinh tế, kinh tế trong văn hóa.

Văn hóa với tư cách là đời sống tinh thần xã hội, một mục tiêu đặc biệt quan trọng, vì nó
là nhu cầu phong phú, vô cùng, vô tận, tinh tế của con người, nhu cầu tinh thần còn là
nhu cầu nhân văn và là cứu cánh của con người, văn hóa ấy vừa đáp ứng nhu cầu của con
người, xã hội tiến bộ, vừa thúc đẩy con người đạt được niềm tin, sự khác vọng hạnh phúc.

Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển: Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn
hoá dựa vào tiêu chuẩn cái đúng, cái tốt, cái đẹp, để hướng dẫn và thúc đẩy người lao
động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra
hàng hoá với số lượng và chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xã hội. Mặt khác, văn hoá sử
dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất
dẫn tới suy thoái xã hội.

Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Sự phát
triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới, nhưng lại
không thể tách rời cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội nguồn bằng cách phát huy cội
nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia dân tộc là văn hóa. Động lực của sự phát triển
kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hóa đang được phát huy (hàm
lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu thì khả năng
phát triển kinh tế - xã hội càng hiện thực và bền vững bấy nhiêu).Nền văn hóa Việt Nam
đương đại với những giá trị mới sẽ là tiền đề quan trọng đưa nước ta hội nhập ngày càng
sâu hơn, toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới. Trong vấn đề bảo vệ môi trường vì sự
phát triển bền vững, văn hóa giúp hạn chế lối sống chạy theo ham muốn quá mức của “xã
hội tiêu thụ”, dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái.
Văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước : Thực tế cho thấy, không ít
những quốc gia, dân tộc không giàu về tài nguyên thiên nhiên, thậm chí còn nghèo nàn và
hạn hẹp nhưng lại giàu về kinh tế, kinh tế phát triển, xã hội tiến bộ chính là nhờ coi trọng
yếu tố văn hóa, con người, thông qua việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài mở đường cho sự phát triển.

30 năm sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh rằng, ngay bản thân sự phát triển
kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra, mà động lực của sự đổi
mới kinh tế đó một phần quan trọng nằm trong văn hóa.

Trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động và làm thay đổi quan
niệm về phát triển kinh tế, phát triển bền vững, phát triển không đơn thuần chỉ dựa vào
điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mặt dù yếu tố này phong phú, đa dạng nhưng
đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt, mà dần dần chuyển sang yếu tố quyết định cho
sự phát triển chính là trí tuệ, tri thức, thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng tạo ra
những giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của cá nhân
và xã hội, đó tức là văn hóa, vai trò của văn hóa trong phát triển, chỉ có sự tham gia của
văn hóa mới đưa đến sự phát triển bền vững.

--------> Kết luận: Từ những phân tích trên có thể thấy rõ sự ra đời của Nghị quyết Trung
ương 9 khóa XI của Đảng ta, một lần nữa khẳng định và nhấn mạnh vai trò của văn hóa.
Với những thành tựu có ý nghĩa lịch sử qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng minh rằng, văn
hóa từ trong bản chất của mình có vai trò hết sức quan trọng đối sự phát triển kinh tế - xã
hội, phát triển bền vững đất nước, là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động
lực của sự phát triển gắn với tiến bộ công bằng xã hội hướng tới phát triển văn hóa và
phát triển toàn diện cá nhân con người.

Ở nước ta, để thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải nhận thức đúng vai trò của văn hóa " là nền
tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước".

*******"""""*"*""*"*" Nội dung nghị quyết

Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.

Quan diểm này một lần nữa khẳng định vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc là chăm lo nền tảng tinh
thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không có sự phát triển
kinh tế - xã hội bền vững, Nghị quyết số 33 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, một trong những mục
tiêu quan trọng mà Đảng ta nhấn mạnh là: “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam
phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học. Văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội,
là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Do vậy, phát triển bền vững phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế, là sức mạnh nội
sinh quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và phát triển văn hóa
cũng là một mục tiêu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Các giá trị văn hóa tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong
mỗi con người và cả dân tộc. Các giá trị văn hóa được nối tiếp, trao truyền và phát huy
qua các thế hệ người Việt Nam, đó là tất yếu của dòng chảy lịch sử từ quá khứ đến hiện
tại và hướng đến tương lai, tương lai của những giá trị phổ quát Chân - Thiện - Mỹ. Vì
vậy, chúng ta làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá
trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội.

Mặt khác, để phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội,
chúng ta cần phải mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp thụ có chọn lọc cái hay, cái
tiến bộ trong tinh hoa văn hóa các dân tộc khác để làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc,
tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế, làm cho văn hóa Việt Nam bắt kịp sự phát triển của văn hóa nhân loại
trong thời đại ngày nay và chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, xa lạ với văn hóa.

Đảng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nghĩa là đề cao, coi trọng nguồn lực
văn hóa của sự phát triển bền vững đất nước. Hệ thống di sản văn hóa, các giá trị văn hóa
là “tài sản” vô giá, vô tận cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đó còn là cơ sở tinh thần cho
sự ổn định xã hội và sự bền vững của chế độ ta.

Hai là, văn hóa là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước.

Mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một xã
hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Đây cũng chính là mục tiêu
của văn hóa, nếu hiểu theo nghĩa rộng nhất của văn hóa. Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội đến năm 2020 xác định: Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người,
do con người. Đồng thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”, ngày nay không thể phát triển
bằng mọi giá, nhất là chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi ích hôm nay mà làm tổn hại đến
tương lai. C. Mác đã chỉ dẫn “Nếu canh tác được tiến hành một cách tự phát mà không
được hướng dẫn một cách có ý thức….thì sẽ để lại sau nó đất hoang”[3]. Điều đó có
nghĩa là, muốn phát triển kinh tế một cách hiệu quả, bền vững, thì không thể thiếu văn
hóa, nên văn hóa chính là mục tiêu của sự phát triển, văn hóa còn có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới.

Bản chất của văn hóa là sáng tạo, đổi mới để vươn tới các giá trị phổ quát đó là Chân -
Thiện - mỹ, tạo nên tinh thần nhân văn cho con người, đem hạnh phúc đến cho mỗi người.
Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là thực
hiện sự nghiệp vì nhân dân - con người. Nói đến văn hóa là mục tiêu của sự phát triển
kinh tế - xã hội cũng có nghĩa là toàn bộ sự phát triển kinh tế - xã hội phải hướng tới sự
phát triển con người, phát triển xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân. Phải đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, là mục tiêu của sự phát
triển.

Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đó phải là nền kinh tế giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân
và xã hội, giữa kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo bền vững về môi trường
sinh thoái, tạo cơ sở nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó phải cần
đến văn hóa, sự tham gia của văn hóa vào trong tổ chức và hoạt động của nền kinh tế vì
mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người, đó chính là vai trò của văn hóa trong
kinh tế, kinh tế trong văn hóa.

Văn hóa với tư cách là đời sống tinh thần xã hội, một mục tiêu đặc biệt quan trọng, vì nó
là nhu cầu phong phú, vô cùng, vô tận, tinh tế của con người, nhu cầu tinh thần còn là
nhu cầu nhân văn và là cứu cánh của con người, văn hóa ấy vừa đáp ứng nhu cầu của con
người, xã hội tiến bộ, vừa thúc đẩy con người đạt được niềm tin, sự khác vọng hạnh phúc.

Ba là, văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước.

Thực tế cho thấy, không ít những quốc gia, dân tộc không giàu về tài nguyên thiên nhiên,
thậm chí còn nghèo nàn và hạn hẹp nhưng lại giàu về kinh tế, kinh tế phát triển, xã hội
tiến bộ chính là nhờ coi trọng yếu tố văn hóa, con người, thông qua việc nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài mở đường cho sự phát triển.
Như vậy, nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một đất nước thấm sâu trong văn hóa,
con người. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, cái tốt, cái tiến bộ nhưng
không thể tách rời, bỏ qua cội nguồn, phát triển phải vựa trên cội nguồn, cội nguồn đó
của mỗi dân tộc là văn hóa. kinh nghiệm qua hơn 30 năm sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã
chứng minh rằng, ngay bản thân sự phát triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố
thuần túy kinh tế tạo ra, mà động lực của sự đổi mới kinh tế đó một phần quan trọng nằm
trong văn hóa.

Trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động và làm thay đổi quan
niệm về phát triển kinh tế, phát triển bền vững, phát triển không đơn thuần chỉ dựa vào
điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mặt dù yếu tố này phong phú, đa dạng nhưng
đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt, mà dần dần chuyển sang yếu tố quyết định cho
sự phát triển chính là trí tuệ, tri thức, thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng tạo ra
những giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của cá nhân
và xã hội, đó tức là văn hóa, vai trò của văn hóa trong phát triển, chỉ có sự tham gia của
văn hóa mới đưa đến sự phát triển bền vững.

Ngày nay, nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng sáng tạo
này nằm trong văn hóa, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, nhân cách của mỗi cá nhân và cộng
đồng. Chỉ có nguồn lực này là vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh, không bao giờ cạn
kiệt, các nguồn lực khác sẽ không được sự dụng có hiệu quả nếu không có những con
người đủ trí tuệ và năng lực khai khác chúng, thì các nguồn lực đó dù có phong phú, đa
dạng, thì cũng không thể tham gia và phát huy tác dụng vào trong phát triển.

Sự ra đời của Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI của Đảng ta, một lần nữa khẳng định và
nhấn mạnh vai trò của văn hóa, con người Việt Nam là sức mạnh nội sinh, đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước, để có được nguồn lực nội sinh như vậy cần phải quan
tâm đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo, sớm chấn hưng nền giáo dục Việt Nam, nền giáo
dục đó “vừa phản ảnh sâu sắc chiết lý văn hóa, giáo dục Việt Nam, vừa phản ánh xu thế
phát triển của thời đại”. Qua đó tạo ra những con người mới, đạo đức mới xã hội chủ
nghĩa như Đảng ta nhấn mạnh: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải
trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa
và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí
tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân”[4].
Những tri thức, trí tuệ, tình cảm, đạo đức kết tinh, thấm sâu vào trong mọi hoạt động của
đời sống con người và xã hội càng tăng cao bao nhiêu thì sự phát triển kinh tế - xã hội
càng nhanh chóng và bền vững bấy nhiêu.

Với những thành tựu có ý nghĩa lịch sử qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng minh rằng, văn
hóa từ trong bản chất của mình có vai trò hết sức quan trọng đối sự phát triển kinh tế - xã
hội, phát triển bền vững đất nước, là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động
lực của sự phát triển gắn với tiến bộ công bằng xã hội hướng tới phát triển văn hóa và
phát triển toàn diện cá nhân con người.

Ở nước ta, để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải nhận thức đúng vai trò của văn hóa cũng như
mục tiêu của sự phát triển, đó là vai trò của văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa,
chỉ có như vậy mới đảm bảo được mục tiêu phát triển bền vững, sớm hiện thực hóa mục
tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã chọn.

− Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển: Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn
hoá dựa vào tiêu chuẩn cái

đúng, cái tốt, cái đẹp, để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy
sáng kiến, cải tiến kỹ thuật,

nâng cao tay nghề, sản xuất ra hàng hoá với số lượng và chất lượng cao đáp ứng yêu cầu
xã hội. Mặt khác, văn hoá sử

dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất
dẫn tới suy thoái xã hội.

− Văn hoá là một mục tiêu của phát triển: Mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ, văn minh chính là mục tiêu của văn hoá. Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 1991 - 2000 xác định: Mục

tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Đồng thời nêu rõ
yêu cầu "tăng trưởng kinh tế

phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường".

− Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con
người và xây dựng xã hội

mới:

+ Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau như tài nguyên, vốn
v...v.. Những nguồn lực

này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực
vô hạn, có khả năng tái sinh

và tự sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu
quả nếu không có những con

người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng.

+ Năm 1990, chương trình phát triển của liên hợp quốc (UNDP) đưa ra những tiêu chí
mới để đánh giá mức độ

phát triển của các quốc gia. Đó là chỉ số phát triển con người, một trong ba chỉ tiêu của
cách tính toán mới này là
thành tựu giáo dục (hai chỉ tiêu khác là tuổi thọ bình quân và mức thu nhập). Chỉ tiêu
giáo dục lại được tổng hợp từ hai

tiêu chí: Tình trạng học vấn của nhân dân và số năm được giáo dục tính bình quân cho
mỗi người.

+ Theo đó, quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục cao, tức là có vốn trí tuệ toàn dân nhiều
hơn thì chứng tỏ xã hội

đó phát triển hơn, có khả năng tăng trưởng dồi dào. Như vậy văn hoá trực tiếp tạo dựng
và nâng cao vốn "tài nguyên

người".

+ Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nên
chưa có lợi thế về chỉ số

phát triển con người như mong muốn. Tỷ lệ người biết đọc, biết viết được xếp vào thứ
hạng cao trong khu vực nhưng

nguy cơ tái mù chữ lại đang tăng, đặc biệt là mù ngoại ngữ, tin học.

Vấn đề 33: Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc?

1. Nền văn hóa tiên tiến:


− Tiên tiến: là yêu nước và tiến bộ, mà nội dung cốt lõi của nó là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa Xã hội theo chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
− Mục tiêu: vì con người, vì hạnh phúc, tự do và phát triển con người.
− Thể hiện tinh thần dân chủ, mối quan hệ hài hòa giữa con người với cộng đồng, giữa
Xã hội với tự nhiên tiên tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức thể
hiện và các phương tiện truyền tải nội dung. 2. Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc:
− Bản sắc dân tộc: Bao gồm các giá trị văn hóa truyền thông của các dân tộc Việt Nam,
được xây dựng, giữ gìn và phát huy qua hàng ngàn năm lịch sử dụng nước và giữ nước:
lòng nồng nàn yêu nước, ý chí tự lực tự cường dân tộc, đức tính cần cù sáng tạo trong lao
động, lòng nhân ái khoan dung,..
3. Chúng ta phải xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vì:
− Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội và nhiều thánh thức
cho Việt Nam: + Cơ hội: mở rộng giao lưu văn hóa, tạo cơ hôi phát triển giáo dục- đào
tạo, khoa học công nghệ, xây dựng và phát triển nguồn lực con người,…
+ Thách thức: sự chệch hướng về phát triển văn hóa, tạo sự phân hóa Xã hội về văn hóa,
sự suy thoái về lối sống đạo đức ngày càng gia tăng,...

− Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, việc phát triển kinh tế, văn hóa- xã hội phải luôn đi
kèm với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, vừa không để tụt
hậu so với thế giới, vừa không làm mất đi những giá trị tốt đẹp của dân tộc ta.
− Mỗi dân tộc trên thế giới luôn có nền văn hóa của riêng mình. Việc giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc là giưc gìn

cốt cách dân tộc trong quá trình phát triển, là cơ sở để củng cố lòng tự tôn dân tộc, là nền
tảng cho sự phát triển kinh tế
bền vững, là sự kế thừa phát huy bản sắc dân tộc trong điều kiện giao lưu văn hóa thế giới,
bảo vệ mối quan hệ hài hòa giữa con người với tự nhieenv à Xã hội.
− Giữ gìn bản săc văn hóa dân tộc phải đi liền với những cái lạc hậu, lỗi thời trong tập
quán, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa
− Một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân.

Vấn đề 34: Nền văn hóa thống nhất mà đa dạng?

Văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất tinh thần được tạo ra trong lao động nhằm phục vụ đời
sống con người. −Văn hóa Việt Nam đa dạng :
+ Việt Nam có 54 dân tộc anh em, đi kèm đó là các phong tục tập quán, lễ hội tín
ngưỡng,.. mang những vẻ đẹp, đặc trưng khác nhau .

+ Về không gian :Cấu trúc địa hình, khí hậu, phân bố dân tộc, dân cư đã tạo ra những
vùng văn hóa có những nét đặc trưng riêng ở Việt Nam.
+ Về thời gian:Với lịch sử một nghìn năm của người Việt cùng với những hội tụ về sau
của các dân tộc khác,Việt Nam đã luôn có những thay đổi về mặt văn hóa theo các thời
kỳ lịch sử , có những khía cạnh mất đi nhưng cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ
sung cho nền văn hóa Việt Nam hiện đại.
- Văn hóa Việt Nam thống nhất:
+ Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã tạo nên một đặc
trưng văn hóa nổi bật:chủ nghĩa yêu nước,ý thức dân tộc.
+ Việt Nam gồm 54 dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ, nên văn hóa Việt Nam là một
sự thống nhất trong đa dạng.
+ Việt Nam cũng có những yếu tố văn hóa đặc trưng khi được nhìn nhận từ bên ngoài
như:tục thờ cúng Tổ tiên,tôn trọng các giá trị cộng đồng và xã hội, thủ công mĩ nghệ ,lao
động cần cù,hiếu học; ngoài ra cũng có những biểu tượng riêng như rồng, hoa sen, tre ,..
+ Các dân tộc cùng một chế độ chính trị, sử dụng chung một ngôn ngữ phổ thông.
Câu 40: Quan điểm chỉ đạo và chủ trương vè xây dựng và phát triển nền văn hóa
nước ta thời kì đổi mới.

*Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội

Văn hóa có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế, chính trị; xây dựng và phát
triển kinh tế phải nhằm mục đích cuối cùng là văn hóa. Trong mỗi chính sách kinh tế - xã
hội luôn bao hàm nội dung và mục tiêu văn hóa. Văn hóa có khả năng khơi dậy tiềm năng
sáng tạo của con người.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:
Theo Unessco: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của
cuộc sống diễn ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại; nó cấu thành một hệ thống các
giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc
riêng của mình. Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được
thấm nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng, được truyền lại, tiếp nối và phát
huy qua các thế hệ, được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của
từng dân tộc; đồng thời, nó tác động hàng ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của
mọi thành viên xã hội bằng môi trường xã hội - văn hóa. Tóm lại, văn hóa là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt trong toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng
đồng dân tộc vượt qua mọi khó khăn để phát triển.
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành
động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi tiêu cực xã hội, đẩy lùi
sự xâm nhập của tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ. Biện pháp tíchcực là đẩy mạnh cuộc vận
động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng
gia đình văn hóa,…
Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển:

Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Sự phát
triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới, nhưng lại
không thể tách rời cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội nguồn bằng cách phát huy cội
nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia dân tộc là văn hóa. Động lực của sự phát triển
kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hóa đang được phát huy (hàm
lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu thì khả năng
phát triển kinh tế - xã hội càng hiện thực và bền vững bấy nhiêu). Trong nền kinh tế thị
trường, một mặt, văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt, cái đẹp để hướng dẫn
và thúc đẩy người lao động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay
nghề,…mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý dân
tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ,…
Nền văn hóa Việt Nam đương đại với những giá trị mới sẽ là tiền đề quan trọng đưa nước
ta hội nhập ngày càng sâu hơn, toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới. Trong vấn đề bảo
vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, văn hóa giúp hạn chế lối sống chạy theo ham
muốn quá mức của “xã hội tiêu thụ”, dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường sinh thái.
Văn hóa cổ vũ và hướng dẫn cho một lối sống có chừng mực, hài hòa, nó đưa ra mô hình
ứng xử thân thiện giữa con người với thiên nhiên vì sự phát triển bền vững của hiện tại và
tương lai.
Văn hóa là một mục tiêu của phát triển:
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” chính là mục tiêu văn hóa.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000, Đảng ta xác định: “Mục tiêu và
động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người”. Đồng thời, nêu rõ yêu
cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo
vệ môi trường”. Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa - xã hội mới bảo đảm phát triển
bền vững, trường tồn. Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát
triển, chúng ta chủ trương phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát
triển kinh tế - xã hội. Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát
huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới:
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực, trong đó, tri thức của con người
là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh, không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn
lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả nếu không có những con người đủ trí tuệ và
năng lực khai thác chúng.

Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc

Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu vì con
người. Tiên tiến về nội dung, hình thức biểu hiện và các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam được vun đắp trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đó là lòng
yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết
cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa,
đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị
trong lối sống,…Bản sắc dân tộc còn đậm nét trong cả hình thức biểu hiện mang tính dân
tộc độc đáo. Bản sắc dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ
bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo giúp cho dân tộc đó giữ được tính duy
nhất, tính thống nhất, tính nhất quán trong quá trình phát triển.
Bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân tộc thường xuyên tự ý
thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh tranh và hợp tác để tồn tại
và phát triển.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư duy, cách
sống, cách dựng nước, cách giữ nước, cách sáng tạo trong văn hóa, khoa học, nghệ
thuật,…nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của
nền văn hóa. Hệ giá trị là những gì mà nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho
là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu vì con
người. Tiên tiến về nội dung, hình thức biểu hiện và các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã hội và thể chế
chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội nhập kinh tế thế giới, quá
trình giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhận tích cực văn hóa, văn minh
nhân loại.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm trong mọi
hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, giáo
dục, đào tạo,…sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có tư duy độc lập, có cách làm vừa
hiện đại, vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc
tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại,
song phải luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam
Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hòa quyện
bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc sống trên cùng lãnh thổ Việt
Nam. Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc của mình, cả cộng đồng dân tộc
Việt Nam có nền văn hóa chung nhất. Sự thống nhất bao hàm cả tính đa dạng - đa dạng
trong sự thống nhất. Không có sự đồng hóa hoặc thôn tính, kỳ thị bản sắc văn hóa của các
dân tộc.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng
Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà. Xây dựng và
phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân. Giai cấp công nhân, nông dân, trí
thức là lực lượng chủ lực, nòng cốt trong xây dựng và phát triển văn hóa. Đội ngũ trí thức,
văn nghệ sĩ gắn bó với nhân dân lao động, được Đảng, Nhà nước và nhân dân tôn trọng,
tạo điều kiện phát huy tài năng phục vụ nhân dân, cống hiến cho sự nghiệp phát triển của
nền văn hóa dân tộc. Sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà do Đảng
lãnh đạo,Nhà nước quản lý Để xây dựng đội ngũ trí thức, Đảng ta khẳng định: giáo dục -
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu.
Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (12/1996) khẳng định: cùng với giáo dục - đào tạo,
khoa học và côngbnghệ được coi là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế -
xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả
các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, củng cố quốc phòng
và an ninh, là nền tảng và là động lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước . Phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của
toàn dân.
Năm là, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm cho những giá trị ấy
thấm sâu vào cuộc sống, trở thành tâm lý, tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình
cách mạng đầy khó khăn, phức tạp. Trong công cuộc đó, xây đi đôi với chống, lấy xây
làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát huy những di sản quý báu của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp những giá trị mới, phải kiên trì đấu tranh bài
trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, chống âm mưu lợi dụng văn hóa để thực hiện diễn biến
hòa bình

8.vì sao trong quá trình tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường
cách mạng vô sản

Câu 2: Phân tích và chứng minh rằng: con đường cứu nước của Việt Nam do lãnh tụ
Nguyễn Ái

Quốc lựa chọn phù hợp với yêu cầu phát triển của lịch sử cách mạng Việt Nam?

Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 trước sự xâm lược và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp,
nhiều phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo phương hướng
phong kiến như phong trào cần Vương khởi nghĩa Yên thế... và theo phương hướng tư
sản như của Phan bội Châu Phan Châu Trinh,... Diễn ra mạnh mẽ nhưng cuối cùng đều
thất bại do hạn chế về giai cấp, thể hiện sự khủng hoảng về đường lối chính trị hệ thống
tổ chức giai cấp lãnh đạo và lực lượng cách mạng (hai lực lượng xã hội cơ bản là công
nhân và nông dân) . Qua đó cho thấy cách mạng phong kiến hay cách mạng tư sản ở Việt
Nam đều không thành công.

Ngay từ khi còn rất trẻ, Nguyễn ái Quốc đã biết đến con đường cứu nước theo ý thức hệ
phong kiến, hay theo tư tưởng dân chủ tư sản với hai khuynh hướng bạo động của Phan
Bội Châu và ôn hoà của Phan Châu Trinh,. rồi sau này trên bước đường hoạt động đầy
gian khổ ở nước ngoài (1911-1919), Người đã tiếp xúc với nhiều con đường, cách thức
đấu tranh của các dân tộc thuộc địa khác hoặc của ngay bản thân giai cấp công nhân,.
Đến năm 1920, Nguyễn ái Quốc bắt đầu biết đến và tiếp xúc với con đường cách mạng
vô sản qua “Sơ thảo luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin đăng trên
báo Nhân Đạo - cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Pháp. Sau một thời gian tìm hiểu,
nghiên cứu con đường cách mạng vô sản, Nguyễn ái Quốc càng củng cố niềm tin của
mình vào con đường cách đó đối với sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Từ đây,
Người hoàn toàn tin và đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, đi theo cách mạng tháng Mười Nga.

Việc Bác lựa chọn con đường cách mạng vô sản cũng xuất phát từ tình hình của cách
mạng nước ta lúc đó, cũng như từ yêu cầu của cách mạng

Là nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Pháp áp
đặt chính sách cai trị thực dân, đồng thời cấu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột
kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Mặc dù nền kinh tế có những
chuyển nhưng về cơ bản vẫn là nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, què quặt, lệ thuộc vào
Pháp. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đời sống của nhân dân lao động hết sức
khốn khổ. Xã hội phân hóa ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt
Nam với thực dân Pháp và bọn tay sai lên đến đỉnh điểm.

Yêu cầu của cách mạng lúc này là phải giải quyết hai nhiệm vụ cách mạng, đó là: Nhiệm
vụ dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Và nhiệm vụ
dân chủ nhằm đánh đổ chế độ phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân. Trong hai
nhiệm vụ trên, nhiệm vụ dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất. Con đường giải
phóng dân tộc phải thực hiện được cả hai nhiệm vụ đó.

Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam càng thôi thúc Người tìm ra con đường đấu
tranh mới. Trước sự xâm lược của thực dân pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Tiêu biểu là phong trào
cần vương theo con đường phong kiến, hoạt động của Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh theo khuynh hướng tư sản. Các hoạt động yêu nước diễn ra manh mẽ nhưng cuối
cùng đều thất bại. Những con đường đó không đáp ứng được yêu cẩu của cuộc cách
mạng, yêu cầu cần có con đường giải phóng dân tộc mới
1.Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tìm con đường cứu nước trong hoàn cảnh phong trào yêu
nước Việt

Nam đang khủng hoảng sâu sắc về đường lối.

- Sự xâm lược và thống trị của đế quốc Pháp không những làm cho dân tộc ta mất độc lập,
chủ

quyền mà còn kìm hãm nước ta trong vòng lạc hậu.

- Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp càng trở nên sâu sắc.

- Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành lại nền độc lập cho nước nhà là một đòi hỏi
bức thiết của dân tộc ta.

- Ngay từ khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta, tuy phong trào yêu nước chống
Pháp đãdiễn ra mạnh mẽ liên tục nhưng đều không giành được thắng lợi. Một trong
những nguyên nhân thất bại là nhân dân ta chưa có một đường lối cách mạng thích hợp
với thời đại mới của lịch sử , thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản , chưa có
một lực lượng lãnh đạo có đủ điều kiện đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thành
công.

- Sự nghiệp giải phóng dân tộc càng lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu
nước.

Vấn đề đặt ra lúc này là: Cần phải tìm một con đường cứu nước khác với con đường
phong kiến và con đường dân chủ tư sản. Đó là một đòi hỏi tất yếu của cách mạng Việt
Nam đầu thế kỷ XX.

2.Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn.

- Ngày 5-6-1911: Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc . Người sang Pháp ,
hướng về nơi có những tư tưởng tiến bộ “Tự do”, “Bình đẳng”, “Bác ái”. Người đi nhiều
nước Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi....Người muốn “xem xét” họ làm như thế nào để trở
về giúp đồng bào “cứu nước”.

- Trong thời gian sống và lao động ở nước ngoài. Người đã tham gia vào các hoạt động
chính trị và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và lao động các nước, được tiếp
xúc với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng.
- Qua thực tiễn đấu tranh , qua học tập và nghiên cứu các học thuyết cách mạng khác
nhau. Hồ Chí

Minh đã sớm nhận thức được những chân lý về giai cấp , dân tộc và thời đại . Người thấy
rõ chủ nghĩa đế quốc , chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc của mọi sự đau khổ của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở thuộc địa. Người khâm phục
các cuộc cách mạng tư sản , nhưng Người cho rằng những cuộc cách mạng này là “không
đến nơi”, vì nó không thực sự mang lại hạnh phúc cho nhân dân .

Và quyết định: Cách mạng Việt Nam không thể đi theo con đường này.

- Cách mạng tháng Mười thắng lợi là một sự kiện đặc biệt quan trọng. Nó mở ra một thời
đại mới trong lịch sử nhân loại, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi thế giới.

- Cách mạng tháng Mười có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển tư tưởng chính trị
của Hồ Chí Minh. Người đã tìm thấy ở đấy những tư tưởng mới chỉ ra con đường giải
phóng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vào tháng 7 /1920 sau khi đọc bản sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề của Lênin đồng thời tham gia
đại hội đảng xã hội Pháp tháng 12/1920 quan điểm này cần được Nguyễn Ái Quốc khẳng
định chắc chắn: " muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản"

- Việc Hồ Chí Minh bỏ phiếu tán thành quốc tế thứ III và thành lập Đảng Cộng sản Pháp
năm 1920 khẳng định sự lựa chọn dứt khoát của Người: Đứng hẳn về phía cách mạng
tháng Mười và Quốc tế cộng sản.

- Sự lựa chọn đó cũng là bước quan trọng , khẳng định Hồ Chí Minh đã tìm thấy con
đường cứu nước đúng đắn cho nhân dân ta. Đó là con đường giải phóng dân tộc theo chủ
nghĩa Mác-Lênin, kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp công nhân , nhân
dân lao động và giải phóng toàn xã hội .Cốt lõi của con đường cứu nước của Hồ Chí
Minh là độc lập, tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội -Đó là con đường cứu nước đúng đắn
nhất vì nó đáp ứng được những yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc
Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử

9.Tại sao nói cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là cương
lĩnh đúng đắn sáng tạo là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc tính giai cấp
và tính nhân văn

10. Vai trò lãnh vai trò lãnh đạo của đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945

Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đứng lên phá bỏ xiềng xích nô lệ gần một thế kỷ dưới ách
thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và hàng nghìn năm của chế độ quân chủ; giành
quyền làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mới. Mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử
dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Nhưng kẻ thù của cách mạng tìm cách xuyên tạc những thành quả, những giá trị to lớn
của Cách mạng Tháng Tám. Sự xuyên tạc của chúng làm cho một số người không hiểu,
hoặc không muốn hiểu sự thật của cách mạng. Một số luận điểm cho rằng vào tháng
8/1945, thời cơ xuất hiện khi quân Nhật bại trận phải đầu hàng, lực lượng các nước Đồng
minh tiếp nhận sự đầu hàng chưa vào Đông Dương kịp, do đó xuất hiện “một khoảng
trống quyền lực” nhờ đó mà dân tộc Việt Nam giành được độc lập một cách quá dễ dàng,
không phải đổ máu, chẳng qua là do “vận may”. Thậm chí họ còn cho rằng Cách mạng
Tháng Tám chẳng qua “may mắn” mà vớ được chính quyền... Những người này coi
thường hoặc phủ nhận hoàn toàn vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng
đón bắt thời cơ - nhân tố chủ quan quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945.

Đó là sự nhận thức sai lầm và ngoan cố, xuyên tạc. Sự thật lịch sử đã khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng là nhân tố chủ quan quan trọng nhất
quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Nói như vậy, không có nghĩa là phủ
nhận nhân tố khách quan.

Đến tháng 8/1945, ở Việt Nam tình thế khách quan vô cùng thuận lợi xuất hiện. Thực
hiện lời cam kết ở Hội nghị Yanta, ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, quân
đội Liên Xô tấn công đội quân Quan Đông tinh nhuệ nhất gồm hơn 1 triệu quân của Nhật
ở Đông Bắc Trung Quốc. Bên cạnh việc quân đội Liên Xô tiến đánh quân đội Nhật thì
Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirôsima ngày (6/8/1945) và Nagadaki ngày
(9/8/1945). Trước sức mạnh của đồng minh, ngày 11/8/1945 Chính phủ Nhật gửi thông
điệp cho Liên Xô, Mỹ và các nước Đồng minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Đúng
như dự đoán của lãnh tụ Hồ Chí Minh thì đây là cơ hội nghìn năm có một để nhân dân ta
thực hiện tổng khởi nghĩa.

Lúc này, thời cơ đã đến. Thời cơ xuất hiện trong những ngày tháng 8/1945 không chỉ có
ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước Đông Nam châu Á bị quân đội Nhật chiếm đóng. Các
nước này tuy có điều kiện khách quan thuận lợi giống như ở Việt Nam, nhưng không
chớp được thời cơ khởi nghĩa hoặc kịp thời phát động tổng khởi nghĩa nhưng thành quả
thu được không nhiều, vì lực lượng chưa được chuẩn bị đầy đủ, Đảng tiên phong chưa
nắm được quyền lãnh đạo cách mạng… Chỉ có duy nhất ở Việt Nam từ khi Đảng thành
lập năm 1930 đến năm 1945, đảng từng bước chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng chờ thời cơ
đến và kịp thời chớp thời cơ, lãnh đạo nhân dân Tổng khởi nghĩa thắng lợi.

Đảng đã vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, ra
sức và tích cực chuẩn bị lực lượng để đón thời cơ giành thắng lợi chứ không khoanh tay
chờ thời một cách bị động. Sự lãnh đạo tích cực của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng
chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền, được thể hiện trên 3 mặt sau:

Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt sẵn
sàng nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ đến.

Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành cao trào cách mạng 1930 -
1931, đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám. Cao trào
dân chủ 1936 - 1939, là cuộc tổng diễn tập thứ 2 chuẩn bị cho cách mạng tháng tám.
Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945 là cuộc diễn tập thứ ba trực tiếp dẫn đến
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Đặc biệt, trong thời kỳ cao trào kháng Nhật, cứu
nước (thời kỳ tiền khởi nghĩa), sau chỉ thị “Nhật pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta” ngày 12/3/1945, Đảng lãnh đạo quần chúng tiến hành khởi nghĩa từng phần, làn sóng
khởi nghĩa phát triển mau lẹ, kịp thời và dâng lên gần như đồng thời ở nhiều nơi... Trong
thời kỳ tiền khởi nghĩa, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt. Nhân dân Việt
Nam, nhất là quần chúng trong các tổ chức Cứu quốc, từ lâu đã sẵn sàng hy sinh để giành
độc lập, quyết tâm chiến đấu.

Hai là, Đảng tích cực vận động, lôi kéo tầng lớp trung gian(1) đứng về phía cách mạng.

Trong hệ thống lý luận của giai cấp vô sản, vấn đề tranh thủ tầng lớp trung gian có tầm
quan trọng lớn mặc dù về cơ bản tầng lớp trung gian không đóng vai trò đầu tàu quyết
định trong những bước ngoặt của lịch sử. Nhưng khi các tầng lớp trung gian ngả về phía
cách mạng thì nó tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cách mạng thành công. Trái lại, nếu
Đảng lãnh đạo cách mạnh không tranh thủ được tầng lớp trung gian, thì nhiều khi thời cơ
đã chín muồi mà vẫn không thể làm cách mạng thắng lợi nhanh chóng được.

Tình cảnh khó khăn của tầng lớp trung gian là tiền đề tạo ra khả năng lôi cuốn họ vào con
đường đấu tranh chống Pháp - Nhật. Nhưng từ khả năng đến hiện thực là cả một quá trình
vận động. Chính sách của Đảng với tầng lớp trung gian trong thời kỳ Cách mạng Tháng
Tám là: phê bình, uốn nắn, vạch đường lối, chân thành đoàn kết cùng nhau đưa cách
mạng đến thành công. Chẳng những thẳng thắn phê bình mà Đảng còn chân thành đoàn
kết trong hành động thực tế. Đảng giúp đỡ các tầng lớp trung gian lập ra tổ chức của
mình để phát huy năng lực phục vụ Tổ quốc. “Tháng 6 năm 1944 Đảng dân chủ Việt
Nam ra đời với tư cách là một chính đảng cách mạng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí
thức yêu nước tiến bộ”(2) làm cho thành phần tổ chức của Mặt trận Việt Minh ngày thêm
phong phú và khả năng hiệu triệu của tầng lớp trung gian tham gia đánh đuổi Nhật càng
được tăng thêm. Tuy vậy, cho đến cuộc đảo chính của Nhật ngày 9/3/1945 các tầng lớp
trung gian tham gia phong trào cách mạng chống Nhật - Pháp vẫn chưa đông đảo. Sau
đảo chính, nhiều nhân vật trung gian vẫn trải qua một bước dao động ngắn rồi với mạnh
dạn tham gia phong trào cứu quốc một cách đông đảo. Một số đông quần chúng trung
gian thoạt đầu còn bị mắc lừa Nhật và bọn tay sai Đại Việt quốc gia liên minh vì tưởng
rằng Nhật đã ban cho mình độc lập thật, cứ thế mà hưởng. Một số nhân vật trung gian
khác, tuy hiểu rằng Nhật chẳng tốt đẹp gì, nhưng thiếu quan điểm đấu tranh cách mạng
nên lập lờ chủ trương lợi dụng Nhật hoặc lợi dụng chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim để
xây dựng lực lượng cho Việt Nam để sau này Nhật thua có thể chống Pháp nếu Pháp
quay trở lại xâm lược lần nữa, điển hình là tổ chứcTân Việt Nam hội. Hơn nữa, bộ mặt có
vẻ trung gian của nội các bù nhìn Trần Trọng Kim cũng làm cho nhiều người mắc lừa…
Trước tình hình đó, Đảng chủ trương phải vạch mặt chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim
“Thân phận bù nhìn của nó chỉ giữ được bù nhìn, phương châm của nó hứa hẹn nhiều
nhưng thực hành ít, hay thực hành trái với lời hứa. Nhiệm vụ của nó là bọc nhung cho
ách Nhật và hùa với giặc áp bức bóc lột nhân dân”(3), và bóc dần cái vẻ độc lập giả hiệu
của phát xít Nhật... Sự phê bình, giúp đỡ của Đảng đã làm cho quần chúng trung gian dần
dần tỉnh ngộ và đi theo cách mạng. Mặt khác, thực tiễn chứng minh những điều phê bình
chỉ dẫn của Đảng là đúng. Ngày 13/8/1945, sau khi Nhật đầu hàng đồng minh tầng lớp
trung gian nói chung đều theo cách mạng.

Ba là, Đảng tiền phong đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sẵn sàng lãnh đạo quần
chúng khởi nghĩa giành chính quyền

Ngay từ năm 1930 tại Hội nghị thành lập Đảng, Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến,
làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập"(4). Đường lối chiến lược và sách lược của
Đảng đúng đắn ngay từ đầu và không ngừng được bổ sung, phát triển cho phù hợp với
từng giai đoạn cách mạng.Đặc biệt tại Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung
ương (5/1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì đã đề ra chủ trương thay đổi
chiến lược cách mạng. Hội nghịquyết định tiếp tục chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách
mạng ruộng đất để tranh thủ mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hội nghị nhấn mạnh
“Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được
độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu
mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của các bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi
được”(5). Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, xúc tiến chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa.

Cuối năm 1944, Hồng quân Liên Xô phản công tiêu diệt phát xít Đức, Ý, giải phóng các
nước Đông Âu, làm cho quân Nhật ở Đông Dương hoang mang dao động. Trước tình
hình đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh nhận định: “Bây giờ tình hình phát triển cách mạng hòa
bình đã qua, nhưng thời kỳ khởi nghĩa toàn dân chưa đến. Cho nên nếu chỉ hoạt động
trong vòng chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào tiến tới, nhưng nếu phát động
khởi nghĩa ngay thì sẽ bị quân địch làm cho nguy khốn. Đã đến lúc một cuộc đấu tranh
phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự, nhưng lúc này chính trị vẫn trọng
hơn quân sự, cần phải tiến hành hình thức đấu tranh thích hợp thì mới có thể đưa cách
mạng tới thành công”(6).

Đêm 9/3/1945, khi Nhật đảo chính Pháp, ngay đêm đó Hội nghị Ban Thường vụ Trung
ương mở rộng được triệu tập tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Trường
Chinh chủ trì. Ban thường vụ Trung ương Đảng nhận định về thời cơ có thể nổ ra khởi
nghĩa: Tình hình chính trị trong cả nước khủng hoảng sâu sắc, nạn đói ghê gớm diễn ra,
chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt là những cơ hội tốt cho khởi nghĩa đi đến chín muồi
một cách nhanh chóng; Khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương, khi phát xít Nhật đưa
quân ra ngăn cản quân Đồng minh, để sau lưng sơ hở thì lúc đó là lúc phát động khởi
nghĩa vô cùng thuận lợi. Đồng thời bản Chỉ thị nói rõ “Dù sao ta không thể đem việc
quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc khởi nghĩa của
ta, vì như thế lại ỷ vào người và tự bỏ tay trong khi tình thế biến chuyển thuận tiện. Nếu
cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật thành lập hay nếu
giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần
thì khi ấy quân đồng minh chưa đổ bộ vào Đông Dương thì cuộc tổng khởi nghĩa của ta
có thể bùng nổ thắng lợi”(7). Dự kiến này gần đúng với sự thật diễn ra trong Cách mạng
Tháng Tám năm 1945.

Thực hiện chỉ thị trên, Đảng phát động cao trào kháng Nhật cứu nước (thời kỳ tiền khởi
nghĩa) lãnh đạo toàn dân gấp rút chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong cả nước. Hội nghị thay đổi khẩu hiệu (đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp) trước đây
bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật và đề ra việc thành lập chính quyền cách mạng
của nhân dân. Bản Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” thể hiện sự
lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời nhạy bén, bình tĩnh thận trọng và sáng tạo. Bản
chỉ thị là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của Mặt trận Việt Minh trong cao
trào kháng Nhật cứu nước, quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi
nghĩa Tháng Tám.
Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về việc tổ chức Uỷ ban dân tộc giải phóng
các cấp và trong phạm vi cả nước thì lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức chính
quyền cách mạng lâm thời của nước Việt Nam mới.

Để chuẩn bị tích cực và khẩn trương hơn nữa cho việc khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền trong cả nước. Ban thường vụ Trung ương triệu tập hội nghị quân sự Bắc Kỳ ở
Hiệp Hoà, Bắc Giang (16/4/1945). Hội nghị quyết định quyết đinh thống nhất các lực
lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân; phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang
và nửa vũ trang; xây dựng căn cứ kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp
thời cơ.

Trong thời gian, này trong nội bộ Đảng ta phê phán nghiêm khắc quan điểm sai lầm của
một vài đồng chí ở Trung Bộ chủ trương cải tổ chính phủ Trần Trọng Kim hy vọng giành
độc lập bằng con đường hoà bình với Nhật. Đồng thời, Trung ương phê phán tư tưởng tả
khuynh của các đồng chí trong báo Giải Phóng (Nam Bộ) vẫn còn giữ khẩu hiệu đánh đổ
phát xít Pháp Nhật sau khi Nhật hoàn thành cuộc đảo chính.

Trong cao trào tiền khởi nghĩa, tất cả các hoạt động của Đảng về chính trị, quân sự, tư
tưởng đều chĩa mũi nhọn vào phát xít Nhật và chính phủ bù nhìn thân Nhật, nhằm mục
tiêu trước mắt là tổng khởi nghĩa giành chính quyền .

Vừa được tin quân Nhật hoàn toàn tan rã và xin đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng
minh, ngày 13/8/1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc ở Tân Trào (Tuyên Quang).
Hội nghị nhận định thời cơ cho ta giành độc lập đã tới, Đảng phải kịp thời phát động,
lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay
sai của chúng trước khi quân Đồng minh Anh, Mỹ vào Việt Nam.

Ngay đêm 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập do đồng chí Trường
Chinh - Tổng Bí thư phụ trách. Uỷ ban đã ra Quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Chủ
tịch Hồ Chí Minh thay mặt Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam đã gửi thư tới đồng bào
cả nước kêu gọi nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Đến đây, trong một thời gian dài chuẩn bị lực lượng từ năm 1930. Đảng sẵn sàng lãnh
đạo quần chúng nhân dân chớp thời cơ nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đây là
nhân tố vô cùng quan trọng để cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi.

Tóm lại, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kết hợp chặt chẽ điều kiện
khách quan và chủ quan: Kết hợp chặt chẽ đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng với
trí sáng tạo, tinh thần dũng cảm và sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta. Kết hợp những
cố gắng của bản thân nhân dân Việt Nam với chiến công của quân đội Liên Xô, quân đội
Đồng minh và thắng lợi của các lực lượng dân chủ nói chung trên toàn thế giới chống chủ
nghĩa đế quốc. Trong đó, nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quyết định. Vì thời cơ cách
mạng xuất hiện như một tất yếu, lịch sử đưa quần chúng đến ngưỡng cửa của khởi nghĩa
giành chính quyền rồi trôi đi một cách nhanh chóng. Nếu Đảng tiên phong không chuẩn
bị đầy đủ, không kịp thời chớp lấy thời cơ thì dù điều kiện khách quan có thuận lợi đến
đâu cách mạng cũng không nổ ra được.

Thời gian không ngừng trôi, thắng lợi Cách mạng Tháng Tám mãi mãi là mốc son chói
lọi của lịch sử cách mạng, lịch sử dân tộc Việt Nam. Những bài học đúc rút từ thắng lợi
của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và
phát huy trong điều kiện mới.

Trong phạm vi bài này chúng ta hiểu “Vai trò lãnh đạo của Đảng” theo nghĩa thứ
nhất: Vai trò lãnh đạo của Đảng có nghĩa là: Đảng có chức năng lãnh đạo, Đảng đóng vai
trò quan trọng, Đảng là lực lượng dẫn dắt, tổ chức cuộc đấu tranh giành thắng lợi trong
cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách
mạng Tháng Tám năm 1945 được thể hiện như thế nào và ý nghĩa lịch sử to lớn của cách
mạng Tháng Tám ra sao?

Trước hết là, Vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở đường lối chống đế quốc và
chống phong kiến đúng đắn của Đảng. Đường lối chính trị đúng đắn của Đảng trong
Cách mạng tháng Tám năm 1945 không những thể hiện tinh thần triệt để cách mạng, tinh
thần đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp
mà còn toát lên tinh thần độc lập, tự chủ, tinh thần tự lực cánh sinh, tinh thần sáng tạo rất
cao. Nhờ đó, khi chiến tranh thế giới bùng nổ (tháng 9/1939), Đảng ta đã mau lẹ chuyển
hướng về chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Như vậy là
từ chỗ thấy hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến phải gắn liền với nhau,
Đảng ta đã tiến lên một bước, nhận rõ thêm rằng trong hai nhiệm vụ chiến lược ấy thì
nhiệm vụ chống đế quốc là nhiệm vụ chủ yếu nhất (điều này lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã
nhận thấy và xác định ngay từ ngày đầu thành lập Đảng 3/2/1930 nhưng không được
Quốc tế Cộng sản và Đảng ta tán thành). Nhờ nhận thức và chủ trương đúng đắn đó,
Đảng đã tập hợp được thêm các lực lượng dân tộc mà cao trào cách mạng 1930-1931
trước đây chưa tập hợp được; Ngọn cờ dân tộc được giai cấp công nhân giương cao, trở
thành tiếng gọi thống thiết tất cả mọi người yêu nước, mọi giai cấp, mọi tầng lớp từ công
nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, thậm chí cả một số địa chủ vừa và nhỏ có
mâu thuẫn với đế quốc…tập hợp nhau lại trong một Mặt trận dân tộc thống nhất, dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân, trên nền tảng khối liên minh công - nông.
Đế quốc tăng cường khủng bố, Đảng ta đã biết mau lẹ chuyển từ hoạt động công khai
và nửa công khai sang hoạt động bí mật hoàn toàn, chuyển trọng tâm công tác về nông
thôn, dựa vào nông thôn xây dựng căn cứ địa cách mạng, bí mật chuẩn lực lượng, vận
động quần chúng đấu tranh chính trị và khi có điều kiện thì đấu tranh vũ trang, đánh du
kích. Đồng thời hết sức coi trọng vai trò của thành thị. Coi trọng việc gây cơ sở cách
mạng và phát triển phong trào cách mạng ở thành thị, kết hợp chặt chẽ phong trào cách
mạng ở thành thị với phong trào cách mạng ở nông thôn.

Hai là,Đảng đã dự doán đúng thời cơ và hành động chính xác, kịp thời khi thời cơ
xuất hiện.

Ngay sau khi chiến tranh thế gới thứ hai bùng nổ, Đảng ta đã có những dự đoán ban
đầu về thời cơ khởi nghĩa. Nghị quyết TW6 (11/1939) đã nhận định: “Cuộc khủng hoảng
kinh tế, chính trị gây nên bởi đế quốc chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mạng Đông
Dương bùng nổ” Dựa vào dự đoán ban đầu quan trọng đó và dựa vào sự phân tích đúng
diễn biến của tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị TW8 (5/1941) nêu rõ:
“ Liên Xô thắng trận, quân Trung Quốc phản công…tất cả các điều kiện ấy sẽ giúp cho
các cuộc vận động của Đảng ta mau phát triển,và rồi đây, lực lượng sẽ lan rộng ra toàn
quốc để gây một cuộc tổng khởi nghĩa rộng lớn”. Hội nghị nêu bật: ”Nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta”,
“Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được
độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn phải
chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không
đòi lại được”. Đến Hội nghị thường vụ TW ngày 9/3/1945, Đảng ta đã nhận thức cụ thể
hơn: “Rồi đây, những thắng lợi của Liên Xô, sự tan rã của chủ nghĩa phát xít quốc tế…sẽ
thúc đẩy cách mạng bùng nổ ở nhiều nước”. do đó tư tưởng chỉ đạo của Hội nghị là “Phải
hành động ngay, hành động cương quyết nhanh chóng, sáng tạo chủ động, táo bạo”.

Nhờ dự đoán đúng tình hình và đúng thời cơ, toàn Đảng mới có hành động mau lẹ,
kịp thời khi Nhật tuyên bố đầu hàng Liên Xô và Đồng Minh, sau khi nghe tin Nhật đầu
hàng, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã nhận định” Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã
tới” và quyết định phát động cuộc Tổng khởi nghĩa trong Toàn quốc giành chính quyền
từ tay phát xít Nhật, trước khi quân Đồng Minh kéo vào Đông dương. Tiếp đó, Đại hội
Quốc dân đã nhiệt liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và đã thông qua
10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, đã cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính
phủ lâm thời do lãnh tụ Hồ Chí Minh đứng đầu.

Trong lãnh đạo khởi nghĩa, một vấn đề rất quan trọng có ý nghĩa quyết định thắng
lợi đó là phải nắm đúng thời cơ. Thời cơ có thể do thực lực cách mạng trong nước tạo ra,
cũng có thể do hoàn cảnh bên ngoài đưa lại. Nếu không có sẵn thực lực cách mạng đến
mức đủ mạnh thì không thể tạo ra được thời cơ và khi thời cơ đến sẽ không kịp thời lợi
dụng được nó. Thời cơ thuận lợi có một không hai của cuộc Tổng khởi nghĩa đã xuất hiện
rất ngắn ngủi, vẻn vẹn trong 10 ngày (từ ngày 15 đến ngày 25/8), nghĩa là từ sau khi Nhật
đầu hàng đến trước khi quân Đồng Minh vào Đông dương. Đảng ta đã ra lệnh Tổng khởi
nghĩa đúng vào lúc thời cơ lịch sử có một không hai xuất hiện. Điều đó thể hiện Đảng ta
đã thành công lớn trong nghệ thuật chỉ đạo cách mạng và đã giành được thắng lợi hoàn
toàn. Quả đúng như Chủ Tịch Hồ Chí Minh khi nói về tầm quan trọng của thời cơ đã viết:

“Lạc nước hai xe đành bỏ phí

Gặp thời một tốt cũng thành công”

Ba là, Đảng đã lựa chọn đúng hình thức, phương pháp đấu tranh, phát huy đến mức
tối đa sức mạnh tổng hợp của cách mạng, giành thắng lợi một cách nhanh gọn.

Lựa chọn đúng thời cơ, lại còn phải có sự chỉ đạo và có phương pháp đúng mới có mới
có thể giành được thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa. Tư tưởng chỉ đạo và phương pháp
mà Đảng ta lựa chọn trong Tổng khởi nghĩa là:

- Dựa vào cao trào cách mạng của toàn dân.

- Kết hợp giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, lấy lực lượng chính trị là
chủ yếu, lực lượng vũ trang làm nòng cốt.

- Nổi dậy đồng loạt. Kết hợp phong trào ở nông thôn và phong trào ở thành thị hỗ
trợ nhau để khởi nghĩa.

- Dựa vào sức mạnh chung của cách mạng, kể cả thế thắng của cách mạng thế giới là
chính, có kết hợp ở một mức độ nhất định về công tác binh vận, thuyết phục bọn tay sai
của Nhật đầu hàng.

- Ba nguyên tắc hành động là: Tập trung, thống nhất, kịp thời; Chính trị và quân sự
phối kết hợp; Làm tan dã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh”.

Tư tưởng chỉ đạo nói trên của Đảng còn được quán triệt và thể hiện ở sự chủ động,
năng động, sáng tạo của các Đảng bộ địa phương và diễn biến của Tông khởi nghĩa trong
cả nước, nhất là ở những địa phương tiêu biểu, trọng yếu như ở Hà nội,Huế, Sài gòn, đặc
biệt là ở thủ đô Hà nội.
Sự chỉ đạo của Đảng về hính thức, về nguyên tắc và về thời gian khởi nghĩa đã đưa
lại kết quả là nhân dân ta giành được chính quyền trước khi quân Đồng Minh vào Đông
dương.

Bốn là, Đảng đã thực hiện sách lược khôn khéo đối với Nhật trong khi tiến hành
Tổng khởi nghĩa.

Từ tháng 9/1940, khi Nhật nhảy vào Đông Dương, Đảng ta xác định Nhật là kẻ thù
chủ yếu, cần phải đánh đổ. Nhưng lúc này, Nhật đã đầu hàng Liên Xô và Đồng Minh,
tinh thần quân đội Nhật hoang mang cao độ, Đảng đã thực hiện một sách lược khôn khéo:
“ Đối với quân đội Nhật, chúng ta sẽ rất ôn hòa, tránh tất cả những sự xô xát vô ích, bất
lợi cho cả đôi bên, đồng thời chúng ta có thể dùng ngoại giao làm cho Nhật hiểu rõ tình
thế, tán thành cách mạng Việt Nam”.

Trong thực tế, lực lượng khởi nghĩa do Đảng chỉ đạo đã không đánh quân Nhật, mà
dựa vào sức mạnh của cách mạng để thuyết phục và vô hiệu hóa lực lượng của chúng,
làm cho chúng không can thiệp vào công việc giành chính quyền của nhân dân ta. Đối
với những nơi xảy ra xô xát, ta dựa vào sức mạnh bạo lực của quần chúng và dùng đàm
phán, buộc Nhật phải nhượng bộ. Nhờ đó, đã tránh được đổ máu và thổn thất trong quá
trình tiến hành khởi nghĩa.

Như vậy, cuộc cách mạng tháng Tám thành công một cách mau lẹ, trọn vẹn là do
nhiều nhân tố, nhưng trước hết và quyết định nhất là vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt
và nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta.

Cách mạngTháng Tám năm 1945 thành công có một ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn
đối với lịch sử dân tộc và thời đại.

Đối với dân tộc: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu một cuộc biến
đổi cực kỳ to lớn trong tiến trình lịch sử của dân tộc, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ
nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ
thân phận nô lệ đứng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đảng Cộng sản
Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) từ một đảng hoạt động bí mật trở thành
một đảng cầm quyền. Nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước
độc lập, một nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

Đối với thời đại: Cách mạng Tháng Tám thành công đã thúc đẩy mạnh mẽ phong
trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển mạnh mẽ, góp phần làm tan rã chủ nghĩa
thực dân cũ trên phạm vi thế giới. Cách mạng Tháng Tám đã nêu lên một chân lý lớn của
thời đại, đó là: Trong thời đại ngày nay, một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
một nước thuộc địa do toàn dân nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, có đường
lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại hoàn toàn có khả năng
thắng lợi. Cuộc cách mạng ấy có thể thành công trước khi giai cấp công nhân và nhân
dân lao động ở nước đế quốc có thể giành được chính quyền.

Tinh thần của cách mạng Tháng Tám là bất diệt, Độc lập dân tộc là thiêng liêng và
bất khả xâm phạm. Chúng ta phải trân trọng và bảo vệ nền độc lập của dân tộc trong bất
kỳ tình huống nào. Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội vừa là mục tiêu, lý
tưởng của Bác Hồ, của Đảng ta, vừa là nguyện vọng chân chính của nhân dân ta và đó
cũng chính là con đường lựa chọn duy nhất đúng đắn của Bác, của Đảng và của nhân dân
ta ngay từ năm 1930 của thế kỷ XX.

11. Tính chất ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của cuộc cách mạng tháng tám 1945
trang 35 chương I thầy gửi.

12Vì sao nói cách mạng tháng tám 1945 Việt Nam rơi vào tình thế ngàn cân treo sợi
tóc .

. Những khó khán của nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945

+ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà non trẻ vừa mới ra đời đã phải đối phó với nhiều kẻ
thù. Quân đội của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế trong phe Đồng minh, dưới
danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật đã kéo vào nước ta với những âm mưu rất thâm độc:

Ở phía Bắc vĩ tuyến 16, là 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc kéo theo các tổ chức phản
động Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc) và Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt
Cách) nhằm lật đổ chính quyền cách mạng của nhân dân ta, thành lập chính quyền tay sai.
ơ phía Nam vĩ tuyến 16, cũng với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, hơn một vạn quân
đội Anh vào chiếm đóng, ra sức mở đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta
lần thứ hai.

Được sự ủng hộ của quân Anh, ngày 2 - 9 - 1945, quân Pháp đã xả súng bắn vào đồng
bào ta đang mít tinh mừng Ngày Độc lập ở Sài Gòn. Ngày 23 - 9 - 1945, quân Pháp đã
tiến công Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.

Trên đất nước ta lúc này lại còn khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải pháp, trong đó có
một bộ phận theo lệnh của đế quốc Anh đánh lại lực lượng vũ trang của ta, tạo điều kiện
cho quân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng.
Lợi dụng sự chiếm đóng của quân Trung Hoa dân quốc, Anh, Pháp, Nhật trên đất nước ta,
các thế lực phản động ở trong nước nổi dậy hoạt động chống phá.

+ Chính quyền cách mạng mới ra đời, chưa được củng cố, lực lượng vũ trang còn non
yếu, trang bị thô sơ thiếu kinh nghiệm chiến đấu.

+ Kinh tế chủ yếu là nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề,
thiên tai liên tiếp xảy ra. Hậu quả nạn đói do Nhật - Pháp gây ra cuối Năm 1944 đầu năm
1945 vẫn chưa được khắc phục thì nguy cơ nạn đói mới xuất hiện, đe dọa nghiêm trọng
đời sống của nhân dân. Lụt lội, hạn hán kéo dài làm cho đồng ruộng không cày cấy được.
Các cơ sở công nghiệp của ta chưa phục hồi được sản xuất, Hàng hoá khan hiếm, giá cả
tăng vọt...

+ Về tài chính, ngân sách nhà nước lúc này hầu như trống rỗng, chính quyền cách mạng
chưa nắm được Ngân hàng Đông Dương. Quân Trung Hoa dân quốc tung ra thị trường
các loại tiền của Trung Quốc đã mất giá, làm cho tài chính nước ta thêm rối loạn.

+ Các tệ nạn xã hội cũ cùng với di sản văn hoá do chế độ thực dân phong kiến để lại hết
sức tai hại, đặc biệt là hơn 90% dân ta không biết chữ.

Như vậy, khó khăn của ta lúc này là rất lớn, đã trực tiếp đe dọa đến sự tồn tại của nhà
nước cách mạng, đặt nước ta trong tình trạng “Ngàn cân treo sợi tóc”.

Tình hình trên đật ra một yêu cầu cấp bách trước mắt cho toàn Đảng, toàn dân ta là phải
bảo vệ nền độc lập, tự do, bảo vệ chính quyền cách mạng vừa giành được.

13Hãy chứng minh thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1946 1954
là kết quả của cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện lâu dài và dựa vào sức
mình là chính

∗ Toàn dân: bất kỳ đàn ông, đàn bà, ko chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già,
người trẻ. hễ là ng VN thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, thực hiện mỗi người dân là
1 chiến sĩ, mỗi làng xóm là 1 pháo đài.

∗ Toàn diện: đánh địch về mọi mặt chitrị, quân sự, ktế, văn hoá, ngoại giao.

− Chính trị: thực hiện đkết toàn dân, tăng cường xây dựngd Đảng, cơ quan, các đoàn thể
ND. Đoàn kết

với Miên, Lào và các dtộc yêu chuộng tự do, hoà bình. Quân sự: thực hiện vũ trang toàn
dân, xd lực lượng Vũ trang ND, tiêu diệt địch, giải phóng ND và đất đai, thực hiện du
kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy Triệt để d ng du kích, vận động chiến.
Bảo toàn thực lực, k/c lâu dài… Vừa đánh vừa v trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo thêm
cán bộ.

−kinh tế: Tiêu thổ k/c, xd ktế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.

− Văn hoá: xoá bỏ Vh thực dân, P , xd nền Vh dân chủ mới theo 3 nguyên tắc: dân tộc,
khoa học, đại chúng.

− Ngoại giao: thực hiện thêm bạn bớt th , biểu dương thực lực, liên hiệp với dtộc Pháp,
chống phản động thực dân Pháp, s n sàng đàm phán nếu Pháp công nhận VN độc lập.

∗ Trường kỳ: chống âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp, có thời gian
phát huy yếu tố

thiên thời, địa lợi, nhân hoà của ta, chuyển hoá tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn
địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.

∗ Dựa vào sức mình là chính: phải tự cấp, tự túc về mọi mặt vì ta bị bao vây 4 phía, chưa
được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. khi nào có đk ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ
của các nước song cũng ko được ỷ lại

Câu 30: Chiến tranh nhân dân Việt Nam, chiến tranh do toàn dân Việt Nam tiến hành một
cách toàn diện nhằm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Chiến tranh nhân dân Việt
Nam vốn đã có từ lâu trong lịch sử dân tộc Việt Nam, được kế thừa những tinh hoa quân
sự của nhân loại và phát triển sáng tạo thành những truyền thống quân sự độc đáo của
dân tộc mà nổi bật là "cả nước đồng lòng, chung sức đánh giặc", "lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít
địch nhiều", v.v. Từ khi Ðảng ta ra đời, lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trên cơ sở kết hợp
đúng đắn học thuyết Mác - Lê-nin về chiến tranh và quân đội với di sản, truyền thống
quân sự dân tộc, Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa chiến tranh nhân dân Việt
Nam phát triển lên một trình độ mới, một chất lượng mới cao hơn, trở thành chiến tranh
nhân dân toàn dân, toàn diện.

Ngay từ ngày đầu cuộc kháng chiến, tinh thần chiến tranh nhân dân đã được thể hiện
trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Bất
kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.
Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng
dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai
cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước"(1). Tinh thần đó được thể hiện trong
đường lối kháng chiến của Ðảng, với nội dung cụ thể là kháng chiến toàn dân, toàn diện.
Ðường lối đó đã được, toàn dân và toàn quân ta triển khai thực hiện trong suốt cuộc
kháng chiến, giành được nhiều thắng lợi quan trọng đưa cuộc kháng chiến của ta vững
bước tiến lên, làm thay đổi tương quan lực lượng, ngày càng có lợi cho ta.

Trong Ðông Xuân 1953-1954, chiến tranh nhân dân Việt Nam được nhân lên một tầm
cao mới. Với tinh thần "Tất cả để đánh thắng", cả nước cùng ra trận, cả nước cùng đánh
giặc trên khắp mọi chiến trường, với quyết tâm, ý chí tinh thần cao độ. Nhân dân khắp
mọi miền đất nước vừa tích cực động viên chồng con, anh em tòng quân, nhập ngũ lên
đường ra tiền tuyến; gia nhập lực lượng vũ trang địa phương đánh địch tại chỗ; đi thanh
niên xung phong, dân công hỏa tuyến phục vụ chiến đấu vừa tích cực đóng góp lương
thực, thực phẩm để bộ đội "ăn no, đánh thắng".

Chính trị

Thắng lợi của chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Ðảng

Thứ Hai, 16-03-2009, 17:50

Thắng lợi của chiến dịch bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, yếu tố. Tìm hiểu và lý giải
nguyên nhân thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ (ÐBP) và
thất bại của thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Ðông Dương nói chung và ở
ÐBP nói riêng, đến nay vẫn là mối quan tâm của các nhà chính trị, quân sự và giới khoa
học. Ở đây, chúng tôi tập trung phân tích lý giải về một cơ sở, nguyên nhân làm nên
chiến thắng ÐBP, đó là chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài
tình của Ðảng ta.

Chiến tranh nhân dân Việt Nam, chiến tranh do toàn dân Việt Nam

tiến hành một cách toàn diện nhằm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Chiến tranh
nhân dân Việt Nam vốn đã có từ lâu trong lịch sử dân tộc Việt Nam, được kế thừa những
tinh hoa quân sự của nhân loại và phát triển sáng tạo thành những truyền thống quân sự
độc đáo của dân tộc mà nổi bật là "cả nước đồng lòng, chung sức đánh giặc", "lấy nhỏ
thắng lớn, lấy ít địch nhiều", v.v. Từ khi Ðảng ta ra đời, lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
trên cơ sở kết hợp đúng đắn học thuyết Mác - Lê-nin về chiến tranh và quân đội với di
sản, truyền thống quân sự dân tộc, Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa chiến tranh
nhân dân Việt Nam phát triển lên một trình độ mới, một chất lượng mới cao hơn, trở
thành chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện.

Ngay từ ngày đầu cuộc kháng chiến, tinh thần chiến tranh nhân dân đã được thể hiện
trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Bất
kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.
Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng
dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai
cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước"(1). Tinh thần đó được thể hiện trong
đường lối kháng chiến của Ðảng, với nội dung cụ thể là kháng chiến toàn dân, toàn diện.
Ðường lối đó đã được, toàn dân và toàn quân ta triển khai thực hiện trong suốt cuộc
kháng chiến, giành được nhiều thắng lợi quan trọng đưa cuộc kháng chiến của ta vững
bước tiến lên, làm thay đổi tương quan lực lượng, ngày càng có lợi cho ta.

Trong Ðông Xuân 1953-1954, chiến tranh nhân dân Việt Nam được nhân lên một tầm
cao mới. Với tinh thần "Tất cả để đánh thắng", cả nước cùng ra trận, cả nước cùng đánh
giặc trên khắp mọi chiến trường, với quyết tâm, ý chí tinh thần cao độ. Nhân dân khắp
mọi miền đất nước vừa tích cực động viên chồng con, anh em tòng quân, nhập ngũ lên
đường ra tiền tuyến; gia nhập lực lượng vũ trang địa phương đánh địch tại chỗ; đi thanh
niên xung phong, dân công hỏa tuyến phục vụ chiến đấu vừa tích cực đóng góp lương
thực, thực phẩm để bộ đội "ăn no, đánh thắng".

Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương được thành lập do Phó Thủ tướng Chính phủ
Phạm Văn Ðồng làm Chủ tịch. Ðồng thời, Hội đồng cung cấp mặt trận cấp liên khu, như
Liên khu IV, Liên khu III, Liên khu Việt Bắc và cấp tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An, Phú
Thọ, Sơn La, v.v, được thành lập. Các Hội đồng đó làm nhiệm vụ tổ chức huy động sức
người, sức của ở hậu phương chi viện cho tiền tuyến, đặc biệt là cho Mặt trận Ðiện Biên
Phủ. Tính riêng trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ, đồng bào các dân tộc Tây Bắc, Việt Bắc,
Liên khu III, Liên khu IV đã đóng góp hơn 260.000 dân công (tính ra thành 14.000.000
ngày công), 20.991 xe đạp thồ và hàng chục nghìn phương tiện vận chuyển thô sơ. Về
bảo đảm vật chất, đồng bào đã đóng góp cho chiến dịch (số huy động tại gốc) 25.056 tấn
lương thực, 907 tấn thịt và hàng nghìn tấn thực phẩm khác. Chỉ tính riêng số vật phẩm đã
chuyển được ra mặt trận là hơn 2 vạn tấn, trong đó có 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, 62,7
tấn đường, 577 tấn thịt và 565 tấn thức ăn khô(2).

Phục vụ chiến dịch ÐBP, hàng trăm nghìn thanh niên xung phong, dân công, không quản
ngày đêm, không sợ gian khổ, hy sinh, dũng cảm mưu trí, quyết tâm đưa hàng ra mặt
trận, bảo đảm cho bộ đội chiến đấu kịp thời.

Công tác bảo đảm hậu cần kỹ thuật cho một lực lượng lớn ở xa hậu phương, phục vụ cho
chiến dịch lớn, với thời gian dài, gặp rất nhiều khó khăn, nhưng chúng ta đã giải quyết
thành công do biết phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân.

14Tại sao đại hội 3 1960 của Đảng được xem là đại hội hoàn chỉnh đường lối chiến
lược cách mạng hai miền Nam Bắc
Bước vào những năm 60 của thế kỷ XX, tình hình trong nước và quốc tế tiếp tục có
những biến đổi to lớn, tác động sâu sắc đến sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Xu hướng hòa dịu trong quan hệ quốc tế vừa tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nhưng cũng gây nhiều bất lợi cho sự nghiệp đấu tranh
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của Nhân dân ta. Vượt qua những khó khăn to
lớn, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Chủ tịch Hồ
Chí Minh đứng đầu, cách mạng Việt Nam đã không ngừng tiến lên giành được những
thành tựu to lớn ở hai miền Nam, Bắc. Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng đã họp tại Hà Nội. Sau những ngày họp nội bộ, Đại hội đã họp công
khai từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960

Phân tích tình hình đất nước ta tạm thời bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã
hội khác nhau, bản báo cáo xác định: “Nhiệm vụ cách mạng của nhân dân ta trong giai
đoạn hiện nay là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình,
đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và
dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông
Nam Á và thế giới”1.

Hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau,
song hai nhiệm vụ đó trước mắt đều có một mục tiêu chung là thực hiện hòa bình thống
nhất Tổ quốc, đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn giữa Nhân
dân ta với đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai của chúng. Giải quyết mâu thuẫn chung ấy là
trách nhiệm của cả nước, song mỗi miền có nhiệm vụ chiến lược riêng và có vị trí khác
nhau.

“Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc... là nhiệm vụ quyết định nhất đối với
sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của
nhân dân ta”[1]. Còn “cách mạng miền Nam có một vị trí rất quan trọng. Nó có tác dụng
quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”2.

Xuất phát từ những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Bắc, mà đặc điểm lớn nhất là
đi từ một nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ cá thể, cơ sở kinh tế tư
bản chủ nghĩa hết sức kém cỏi tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, cho nên “công cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt
nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến
lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản
xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế rời rạc và lạc
hậu, xây dựng thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại, làm cho miền Bắc tiến bộ mau
chóng, thành cơ sở ngày càng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà”3.

Quá trình cải biến cách mạng ở miền Bắc là một quá trình kết hợp cải tạo và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, là quá trình đấu tranh gay go và phức tạp giữa con đường xã hội chủ
nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng,
văn hóa và kỹ thuật.

Từ sự phân tích đó, Đại hội đã xác định đường lối chung của Đảng trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là “đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng
nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng
cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền
Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no
hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh
thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Muốn đạt mục tiêu ấy phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử
của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ
công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh; phát
triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng
cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn
hóa và kỹ thuật; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại,
nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến”1.

Để thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật
chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa làm
cho nền kinh tế miền Bắc nước ta thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, Đại hội xác
định những nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất:

- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, công nghiệp
thực phẩm, công nghiệp nhẹ...

- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, củng cố và tăng cường thành
phần kinh tế quốc doanh, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.

- Nâng cao trình độ học vấn của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân lành
nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, xúc tiến công tác khoa học và kỹ
thuật.

- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, mở mang phúc lợi
công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.

- Ra sức củng cố quốc phòng, trật tự an ninh xã hội.

Các nhiệm vụ đó liên hệ mật thiết với nhau.

Đại hội cũng quyết định các chủ trương tăng cường nhà nước dân chủ nhân dân, củng cố
sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân miền Bắc, đoàn kết quốc tế và đẩy mạnh
xây dựng Đảng.

Tổng kết 30 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đại hội đã nêu lên những bài học kinh
nghiệm lớn:

- Xây dựng được một chính đảng Mác - Lênin, đoàn kết nhất trí, liên hệ chặt chẽ với quần
chúng, luôn luôn giữ vững quyền lãnh đạo cách mạng.

- Vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin vào
hoàn cảnh cụ thể của đất nước, đề ra đường lối, phương châm cách mạng kết hợp đúng
đắn nhiệm vụ phản đế và nhiệm vụ phản phong kiến, coi nhiệm vụ chống đế quốc và bè
lũ tay sai của chúng là nhiệm vụ chủ yếu nhất và nhiệm vụ phản phong kiến phải tiến
hành từng bước, kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ phản đế.

- Giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân, thực hiện được khối liên minh công nông vững
chắc.

- Dựa trên cơ sở khối liên minh công nông vững mạnh, tập hợp mọi lực lượng dân tộc và
dân chủ thành một mặt trận thống nhất rộng rãi dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Lấy việc xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng làm cơ bản, khéo phối hợp hoạt
động không hợp pháp với hoạt động hợp pháp, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh
chính trị, kết hợp lực lượng vũ trang với lực lượng chính trị.

- Xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang nhân dân.


- Tăng cường nhà nước dân chủ nhân dân, củng cố nền tảng liên minh công nông của nó,
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.

- Khéo lợi dụng những mâu thuẫn cục bộ và tạm thời trong nội bộ kẻ thù.

- Tăng cường đoàn kết quốc tế.

Thực tiễn cách mạng 30 năm qua khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cơ bản
quyết định mọi thắng lợi. Muốn cho Đảng làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn mới, vấn đề
mấu chốt vẫn là không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tức là “phải nâng cao
sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng, cụ thể là phải tăng cường tính chất giai cấp
và tính chất tiên phong của Đảng, phải củng cố sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng,
phải cải tiến công tác lãnh đạo của Đảng, phải nâng cao không ngừng trình độ hiểu biết
và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên, phải làm cho chi bộ trở thành hạt nhân lãnh
đạo của Đảng ở cơ sở”1.

Đại hội nhất trí thông qua nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất,
thông qua Điều lệ Đảng (sửa đổi). Bản Điều lệ của Đảng gồm có phần cương lĩnh chung,
12 chương với 62 điều. Cương lĩnh chung ghi rõ: Đảng Lao động Việt Nam là đảng của
giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai
cấp công nhân... Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng... Đảng đi đường lối quần chúng
trong mọi hoạt động của mình, tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có kỷ luật
nghiêm minh, lấy phê bình và tự phê bình làm quy luật phát triển của Đảng.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng gồm 47 ủy viên chính thức và 31
ủy viên dự khuyết.

Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm 11 ủy
viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch
Đảng, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng thành công tốt đẹp. “Đại hội... sẽ là
nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng và toàn dân ta xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”1. “Toàn
Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ. Chúng ta sáng tạo.
Chúng ta xây dựng. Chúng ta tiến lên”[2].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp từ ngày 5 - 10/9/1960 tại Thủ đô Hà
Nội. Dự đại hội có 525 đại biểu chính thức, 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt hơn 500
nghìn đảng viên.
Đại hội diễn ra trong bối cảnh chung: Hệ thống XHCN thế giới do Liên Xô đứng đầu đã
lớn mạnh vượt bậc, có ảnh hưởng sâu rộng trong quan hệ quốc tế, giữ vai trò quyết định
đến giữ gìn hòa bình, an ninh thế giới; tạo ra những thuận lợi mới cho phong trào cách
mạng các nước. Ở Việt Nam, chiến thắng Điện Biên Phủ đã chấm dứt cuộc chiến tranh
xâm lược của thực dân Pháp. Hiệp định Geneva được ký kết (ngày 21/7/1954), hòa bình
được lập lại ở Đông Dương. Đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc hoàn
toàn giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng XHCN và trở thành cơ sở vững chắc
cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh của Nhân dân ta
chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai diễn ra quyết liệt.

Căn cứ vào đặc điểm đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, đại hội đề ra đường lối
chung cho cách mạng Việt Nam: Đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc, đồng thời
đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Báo cáo chính trị của
BCH T.Ư Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III chỉ rõ:

Hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi
nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị
chia cắt làm hai. Song, hai nhiệm vụ đó trước mắt đều có một mục tiêu chung là thực
hiện hòa bình, thống nhất Tổ quốc.

Miền Bắc là căn cứ địa chung của cả nước, sự lớn mạnh không ngừng của miền Bắc
không những nâng cao lòng tin tưởng, cổ vũ tinh thần hăng hái cách mạng của đồng bào
yêu nước miền Nam, mà còn làm cho lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách
mạng trên phạm vi cả nước ta càng nghiêng về phía cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi
cho cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ và giành thắng lợi cuối cùng...

Mặt khác, muốn cho miền Bắc có hoàn cảnh hòa bình để xây dựng CNXH, muốn giữ gìn
hòa bình ở Đông Dương và trên thế giới, miền Nam cần phải kiên quyết đấu tranh chống
đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, làm thất bại chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh
của chúng, đánh đổ ách thống trị tàn bạo của chúng. Ngoài con đường đấy ra, không có
con đường nào khác.

Đối với cách mạng XHCN ở miền Bắc, đại hội thông qua Kế hoạch nhà nước 5 năm lần
thứ nhất (1961-1965), với những nhiệm vụ cơ bản: Ra sức phát triển công nghiệp và nông
nghiệp, ưu tiên phát công nghiệp nặng, phát triển toàn diện nông nghiệp. Hoàn thành
công cuộc cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp. Nâng cao
trình độ văn hóa của Nhân dân. Cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của Nhân dân lao
động. Củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng
CNXH ở miền Bắc.

Đại hội thông qua: Nghị quyết về nhiệm vụ và đường lối của Đảng; Nghị quyết về ngày
thành lập Đảng; Điều lệ Đảng (sửa đổi); Lời kêu gọi của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng Lao động Việt Nam.

Đại hội bầu BCH T.Ư khóa mới gồm 78 đồng chí, trong đó có 47 ủy viên chính thức, 31
ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết. Đồng
chí Hồ Chí Minh tiếp tục được bầu làm Chủ tịch Đảng; đồng chí Lê Duẩn được bầu làm
Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đảng.

15 Hiệp định Paris 1973 là kết quả của quá trình vừa đánh vừa Đàm và là cơ hội lớn
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn ý kiến của anh
chị về nhận định trên

Hiệp định Pari về Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân
dân ta ở cả hai miền đất nước, đã tạo ra bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam. Từ Hiệp định này, quân xâm lược Mỹ đã phải cuốn
cờ rút khỏi Việt Nam, tạo thế xoay chuyển có lợi cho cách mạng Việt Nam. Là sự kiện
lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tạo điều kiện cho cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn
toàn.

Với thắng lợi của Hiệp định Pari năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu “đánh cho Mỹ cút”, mở ra một
giai đoạn mới, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện mục tiêu “đánh cho ngụy nhào”. Đây
cũng chính là tiền đề để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước
vào năm 1975.

Từ sau Hiệp định Giơnevơ 1954, đế quốc Mỹ nhanh chóng nhảy vào miền Nam, thế chân
thực dân Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Việt Nam một lần
nữa trải qua cuộc chiến tranh trường kỳ, bền bỉ chống Mỹ để đi tới việc ký kết Hiệp định
Pari, ngày 27 tháng 1 năm 1973.

Do liên tiếp bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam-Bắc Việt Nam, nhất là sau cuộc Tổng
tiến công Tết Mậu Thân 1968, Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc,
thực hiện hội nghị đàm phán với đại diện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
(ngày 13/5/1968), và sau đó với đại diện của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam (ngày 25/1/1969).
Hội nghị Pa-ri là cuộc đối thoại giữa hai thế lực đối đầu trên chiến trường, giữa một bên
là lực lượng xâm lược có thế mạnh vượt trội về quân sự và kinh tế nhưng lại yếu về chính
trị, tinh thần; với một bên là lực lượng bảo vệ Tổ quốc, tuy có điểm yếu tương đối về
quân sự và kinh tế nhưng lại có thế mạnh tuyệt đối về chính trị - tinh thần và chính nghĩa.
Hội nghị còn là cuộc đối chọi giữa hai nền ngoại giao: Nền ngoại giao nhà nghề của một
siêu cường với nền ngoại giao của một nhà nước cách mạng còn non trẻ. Bởi vậy, đây là
một cuộc đấu quyết liệt giữa hai ý chí, hai trí tuệ, hai loại pháp lý và đạo lý và mưu
lược… khác nhau.

Từ phiên họp đầu tiên (ngày 13/5/1968) đến khi đạt được dự thảo Hiệp định Pari về Việt
Nam (tháng 10/1972), Hội nghị bốn bên (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hoa Kỳ, Chính
phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hoà) ở Pari đã trải qua
201 phiên họp chung công khai và 54 cuộc tiếp xúc riêng trong thời gian 4 năm 9 tháng.

Tháng 1 năm 1969, Hội nghị 4 bên về Việt Nam chính thức họp phiên đầu tiên tại Pari.
Lập trường bốn bên, mà thực chất là của hai bên, Việt Nam và Mỹ, giai đoạn đầu rất xa
nhau, mâu thuẫn nhau, khiến cho các cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn hội nghị,
đến mức nhiều lúc phải gián đoạn thương lượng. Trong thời gian này, trên chiến trường
cả hai bên Việt Nam và Mỹ đều tìm mọi cách giành thắng lợi quyết định về quân sự để
thay đổi cục diện chiến trường, lấy đó làm áp lực cho mọi giải pháp chấm dứt chiến tranh
trên thế mạnh mà cả hai phía đang giành giật trên bàn đàm phán nhưng chưa đạt kết quả.
Những thắng lợi quân sự của ta trong các chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, Đông Bắc và
Đông Nam Campuchia trong năm 1971; các chiến dịch tiến công Trị - Thiên, Bắc Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Bình Định, Khu 8 Nam Bộ… trong năm 1972 đã làm quân
Mỹ - nguỵ bị thiệt hại nặng nề, từng bước làm phá sản chiến lược “Việt Nam hoá chiến
tranh” và tạo thế thuận lợi cho ta trên bàn đàm phán.

Ngày 8/10/1972, phái đoàn Việt Nam đưa cho Mỹ bản dự thảo “Hiệp định về chấm dứt
chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam” và đề nghị thảo luận để đi đến ký kết. Lúc đầu,
bản dự thảo được các bên nhất trí nhưng đến ngày 22/10/1972 phía Mỹ lật lọng viện dẫn
chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản dự thảo. Đêm 18/12/1972, tổng thống
Mỹ Nixon ra lệnh ném bom huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng bằng B52. Cuộc đụng đầu lịch
sử trong 12 ngày đêm được ví là "Trận Điện Biên Phủ trên không" kết thúc bằng việc 38
pháo đài bay B52 và 43 máy bay chiến đấu khác của Mỹ bị bắn rơi ngay trên bầu trời Hà
Nội. Thất bại của Mỹ trên chiến trường miền Nam cùng với thất bại của không quân
chiến lược Mỹ trên bầu trời Hà Nội, đẩy Mỹ vào thế thua không thể gượng nổi, buộc
chúng phải chấp nhận thất bại, nối lại đàm phán tại Pari. Trên tư thế bên chiến thắng,
phái đoàn ta tại cuộc đàm phán đã kiên quyết đấu tranh giữ vững nội dung của dự thảo
Hiệp định đã thoả thuận.
Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam chính thức được ký
kết ngày 27/1/1973 tại Trung tâm các hội nghị phố Clêbe ở Pari. Hiệp định bắt đầu có
hiệu lực từ 7 giờ sáng ngày 28/1/1973.

Nội dung Hiệp định nêu rõ:

Hoa Kỳ và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của nước ViệtNam.

Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân sự
và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. Rút hết quân đội của Mỹ và
của các nước khác, cố vấn và nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ
tất cả các căn cứ quân sự.

Tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam
Việt Nam. Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình
thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ.

Hiệp định Pari năm 1973 là kết quả cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân ta
ở cả hai miền đất nước, tạo ra bước ngoặt lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của dân tộc. Hiệp định góp phần ngăn chặn mọi âm mưu can thiệp trở lại của Mỹ
khi toàn dân, toàn quân ta giành thắng lợi hoàn toàn với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử. Cuộc đấu tranh này phản ánh sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, trên cơ
sở chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hiệp định Pari về Việt Nam mãi
mãi là trang sử vàng chói lọi, thể hiện cao độ bản lĩnh, tinh thần, trí tuệ của con người và
nền văn hóa Việt Nam được kết tinh từ lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước,
để lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau những bài học vô giá.

Ý nghĩa của hiệp định Paris 1973

Nhìn lại sự kiện ký kết Hiệp định Paris, chúng ta rút ra nhiều bài học quan trọng và có thể
vận dụng vào việc xử lý các vấn đề đối ngoại trong giai đoạn hiện nay.

Thứ nhất, giữ vững các nguyên tắc trên tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Lập trường
của ta trong các cuộc đàm phán là luôn khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam; lên án tội ác chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ trên hai miền Nam, Bắc Việt Nam; đòi Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam;
yêu cầu chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam của
Mỹ… Chúng ta đã linh hoạt ứng xử trong các tình huống cụ thể nhưng không bao giờ từ
bỏ các nguyên tắc đó và chúng ta đã chiến thắng…
Hiện nay, trong vấn đề chủ quyền của Việt Nam ở biển Đông, chúng ta cũng đã giữ vững
quan điểm Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi ở biển Đông, trong đó có các quần
đảo Trường Sa và Hoàng Sa, và điều đó là “bất biến”. Trong từng điều kiện cụ thể, chúng
ta có thể có thể linh hoạt thực hiện các biện pháp đấu tranh, bảo vệ chủ quyền sao cho
phù hợp với luật pháp quốc tế và điều kiện thực tế của đất nước, ấy chính là “vạn biến”.

Thứ hai, phải luôn kiên quyết, kiên trì, sử dụng đồng thời các thắng lợi khác để bổ trợ cho
công tác đối ngoại. Thắng lợi của Hiệp định Paris là một thắng lợi về mặt ngoại giao
nhưng cũng là thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam cả về chính trị, quân sự… Nếu
không có từng chiến thắng ở các chiến dịch, trận đánh cụ thể thì Mỹ không bao giờ chịu
ngồi vào bàn đàm phán, hoặc không bao giờ từ bỏ các yêu sách phi lý của mình. Trong
đó, thắng lợi ở trận “Điên Biên Phủ trên không” cuối năm 1972 đã bẻ gãy hoàn toàn ý chí
xâm lược của Mỹ và buộc Mỹ phải chấp nhận đàm phán cũng như chấp nhận các đề nghị
của Việt Nam.

Vận dụng bài học này, để khẳng định quan điểm của Việt Nam trong các đàm phán quốc
tế, cần thể hiện vị thế của nước ta ở nhiều lĩnh vực, nhất là chính trị, kinh tế, văn hóa và
cả quân sự. Như trong các đàm phán thương mại song phương, có đối tác đưa ra các yêu
sách phi lý về nhân quyền, về các vấn đề nội bộ, về nền kinh tế thị trường…; bên cạnh
việc kiên trì giải thích, thuyết phục, chúng ta luôn chứng minh bằng các lý lẽ cụ thể về
các thành tựu bảo vệ quyền con người ở nước ta, về uy tín của đất nước trên trường quốc
tế, về tính hội nhập và đặc điểm thị trường của nền kinh tế…

Thứ ba, tôn trọng các cam kết nhưng không bao giờ mất cảnh giác. Ngay trước và sau
Hiệp định Paris, chính quyền Sài Gòn liên tiếp vi phạm Hiệp định bằng cách ráo riết thực
hiện Chiến dịch Tràn ngập lãnh thổ từ đêm 24/1/1973 và hàng loạt kế hoạch quân sự
trong toàn bộ năm 1973, đầu năm 1974; đồng thời thực hiện các kế hoạch như Hùng
Vương, Lý Thường Kiệt (1973 - 1974) và kế hoạch toàn diện lâu dài (1973 - 1978) nhằm
nhanh chóng bình định miền Nam Việt Nam… Đối phó với âm mưu, thủ đoạn này, ta đã
có nhiều giải pháp từ trong nội bộ và hành động cụ thể về mặt chính trị, quân sự và từng
bước làm phá sản các kế hoạch của địch trước khi đánh đổ hoàn toàn chế độ này...

Hiện nay, chúng ta ký kết nhiều thỏa thuận, hiệp định, hiệp ước song phương, đa phương
với nhiều đối tác. Trong quá trình thực hiện, không tránh khỏi những cách hiểu khác nhau,
sự vận dụng khác nhau vào từng thời điểm, thậm chí có cả những âm mưu, thủ đoạn phá
hoại. Do đó, bài học cảnh giác vẫn phải luôn được thực hiện một cách thường xuyên và
triệt để.
Thứ tư, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế nhưng phải dựa vào sức mình là chính. Hiệp định
Paris là “niềm cổ vũ lớn lao đối với nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế
giới, những người đã đồng hành ủng hộ, giúp đỡ nhân dân ta trong suốt cuộc kháng chiến
lâu dài, gian khổ, dõi theo từng diễn biến trên chiến trường cũng như trên bàn đàm phán
tại Paris. Hiệp định Paris là sự minh chứng hùng hồn cho chân lý “đại nghĩa thắng hung
tàn, chí nhân thay cường bạo”, củng cố niềm tin của nhân dân yêu chuộng hòa bình và
các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới vào sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa”, như phát
biểu của Chủ tịch Trương Tấn Sang tại lễ kỷ niệm 40 năm ngày ký Hiệp định này. Tuy
nhiên, nếu bản thân cách mạng Việt Nam không tự lực, tự cường thì không thể đi đến
Hiệp định cũng không thể đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân tiến bộ trên thế
giới…

Hiện nay, việc xử lý các vấn đề liên quan đến chủ quyền trên biển Đông của Việt Nam cơ
bản được thế giới đánh giá cao và ủng hộ. Như trong cuộc đấu tranh với việc Trung Quốc
hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam năm 2014, gần như cả thế giới đứng về phía Việt Nam. Tuy nhiên, sự ủng hộ
đó chỉ trở thành sức mạnh vật chất thực sự khi kết hợp với các sức mạnh khác từ nội lực
của chúng ta, như về chính trị, kinh tế, ngoại giao, kể cả sức mạnh quốc phòng.

Có thể nói, thắng lợi của Hiệp định Paris đã mở ra một bước ngoặt mới cho cuộc đấu
tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Quá trình đi đến việc ký kết và bản thân Hiệp
định đã để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học quý giá. Trong bối cảnh hiện nay,
các bài học đó cần được nghiên cứu và vận dụng một cách hợp lý để tiếp tục thúc đẩy
cách mạng nước ta phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

16.Quá trình tìm tòi khảo nghiệm đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng cộng sản
Việt Nam

Đầu thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX, trước những sự kiện, những nhân tố chính trị, kinh
tế, xã hội diễn ra với nhịp độ dồn dập, tính chất phức tạp và với một qui mô to lớn chưa
từng thấy, tất cả đang đặt ra yêu cầu bức thiết là cần phải có sự phát triển, bổ sung lí luận
cho phù hợp mà trước tiên phải có cách nhìn mới, nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội.
Đây chính là cơ sở khách quan của đường lối đổi mới, cải cách mà nhiều nước xã hội chủ
nghĩa đã và đang tiến hành, trong đó có Việt Nam.

Một trong những đặc điểm lớn nhất của thời đại là sự phát triển "kiểu dòng thác"
chưa từng có trong lịch sử loài người đó chính là thành tựu của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ được tiến hành từ giữa thế kỉ XX đã
tạo ra những lực lượng sản xuất to lớn và mới về chất, góp phần thúc đẩy nhiều quá trình
hiện đại của xã hội loài người như: cấu trúc lại các nền kinh tế, thay đổi, chuyển hướng
các kết cấu hạ tầng của sản xuất, tăng cường xu thế toàn cầu hóa trên nhiều lĩnh vực quan
trọng của các quốc gia, ảnh hưởng to lớn đến các thiết chế xã hội, đến văn hóa, lối sống
các dân tộc...

Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa nền
kinh tế và đời sống kinh tế thế giới. Các quốc gia lần lượt bị cuốn hút vào quá trình phân
công lao động, hợp tác hóa quốc tế và thị trường thế giới...

Tình hình trên vừa tạo ra những thời cơ hiếm có đồng thời cũng đặt ra những thách
thức gay go cho mọi quốc gia, đặc biệt là các nước chậm phát triển.

Bên cạnh đó, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, thế giới đang đứng trước những vấn đề
toàn cầu và việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung của toàn
nhân loại, ở các quốc gia với những chế độ chính trị khác nhau. Đó là vấn đề bảo vệ hòa
bình, chống chiến tranh hạt nhân hủy diệt, đó là vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi
trường, phòng chống bệnh hiểm nghèo, vấn đề bùng nổ dân số, sự nghèo đói...Trước tình
hình đó, mỗi quốc gia, dân tộc trong việc lựa chọn con đường phát triển của mình không
thể không quan tâm đến những vấn đề chung, vì "giải quyết những vấn đề đó chính là
điểm hội tụ, nơi gặp gỡ của các dân tộc vì số phận và tương lai của chính mình cũng như
của toàn nhân loại"[1] .

Chính vì vậy, những vấn đề chung của nhân loại trở thành yêu cầu khách quan tác
động đến sự phát triển và đổi mới của chủ nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam. Và chỉ có
như vậy, chủ nghĩa xã hội hiện thực mới chứng minh bản chất ưu việt của mình, chứng
minh chủ nghĩa xã hội tất yếu là con đường đi tới của các dân tộc.

Sau hơn 70 năm tồn tại, đến cuối thập niên 80 của thế kỉ XX, toàn bộ hệ thống xã hội
chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện và sâu sắc. Đứng trước sự thủ thách, nhiều
nước xã hội chủ nghĩa đã tìm cách thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng bằng nhiều cách khác
nhau. Trước hết, phải kể đến công cuộc “cải cách, mở cửa” với những thành tựu rõ rệt
của Trung Quốc - một nước xã hội chủ nghĩa láng giềng và cuộc “cải tổ” ở Liên Xô - một
cường quốc xã hội chủ nghĩa đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới với những diễn
biến phức tạp, đầy sóng gió.

Trung Quốc tiến hành cải cách kinh tế theo hướng thị trường mở cửa từ năm 1978.
Những thành tựu của Trung Quốc đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nước trong đó
có Việt Nam. Tiếp đó, công cuộc cải tổ không thành công dẫn tới sụp đổ chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô và Đông Âu là bài học phản diện cho Việt Nam những kinh nghiệm không thể
cải tổ theo kiểu “phủ định sạch trơn”, giải quyết không biện chứng mối quan hệ giữa kinh
tế và chính trị.

Cũng trong thời gian này, thành công của các nước công nghiệp mới (NIC) như Singapo
ở Đông Nam Á đã đưa ra những gợi ý hết sức quan trọng về cách thức và giải pháp phát
triển đối với những nước xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp và có kiểu quan hệ xã hội,
văn hóa Phương Đông. Động lực để phát triển của các nước này là phát huy nội lực, huy
động mọi tiềm năng của đất nước, thực hiện cơ chế thị trường, mở cửa, hướng vào xuất
khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.

Sự tác động của những biến đổi của tình hình thế giới đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ,
phải có cách nhìn nhận đúng đắn, khách quan khoa học trên cả phượng diện lí luận và
thực tiễn.

Trong nhiều thập kỷ trước đổi mới, cũng giống như các nước xã hội chủ nghĩa khác,
Việt Nam thực hiện công cuộc xây dựng đất nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa. Mô
hình chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vốn có những khiếm khuyết lại được áp dụng để đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội với những bước đi nhanh vội hơn. Mặt hạn chế của mô hình
đó chưa được bộc lộ đầy đủ trong hoàn cảnh chiến tranh thì nay bộc lộ rõ ràng hơn và
gây tác động tiêu cực lớn hơn trong điều kiện hòa bình. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung và
sự thừa nhận chỉ có hai thành phần kinh tế (quốc doanh và tập thể) đã kìm hãm sức sản
xuất, làm cho nhiều năng lực của xã hội không được phát huy, các vấn đề mấu chốt của
đời sống nhân dân không được giải quyết. Vì thế đất nước không tạo ra được sự thay đổi,
không tạo được sự bứt phá. Nhân dân kém nhiệt tình lao động và mất đi những động lực
sáng tạo. Cùng với đó, những thiếu hụt, mất cân đối và nguy cơ bất ổn định cứ tích góp,
dồn nén trong xã hội làm tăng thêm tình trạng căng thẳng và mất lòng tin của nhân dân.
Hậu quả là cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, trên thực tế, đất nước ta
lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội. Niềm tin vào chủ nghĩa xã hội bị thách
thức.

Đứng trước những đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, với xu thế phát triển của thời đại,
lại chịu ảnh hưởng của các nước trong khu vực và trên thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã
đề ra nhiều chủ trương, biện pháp để khắc phục như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương Khóa IV (8/1979) làm cho sản xuất bung ra; Chỉ thị 100 của
Ban Bí thư (13/1/1981) về khoán sản phẩm trong hợp tác xã nông nghiệp; Quyết định 25-
CP và 26-CP của Chính phủ (21-1-1981)về cải tiến cơ chế quản lý trong kinh tế quốc
doanh; quan điểm của Đại hội V (3/1982) đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương Khóa V (6/1985) về giá - lương - tiền, xóa bỏ cơ chế tập trung quan
liêu hành chính bao cấp, những kết luận về các quan điểm kinh tế của Bộ Chính trị
(9/1986) ...Những thử nghiệm đó cả thành công và thất bại tuy không kiềm chế nổi tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng trầm trọng, song đã thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình đổi mới tư duy của Đảng và xã hội để đi tới công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc,
được mở đầu bằng Đại hội VI của Đảng năm 1986 - Đại hội của đổi mới.

Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam được khởi xướng trên những cơ sở
khách quan, khoa học, trước bối cảnh quốc tế có những chuyển biến hết sức sâu sắc và
nhanh chóng. Đường lối đổi mới đã đi vào cuộc sống và ngày càng thể hiện tính đúng
đắn và sáng tạo của nó, điều đó cho thấy tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng
trong việc khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới.

Hơn 30 mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, mặc dù còn nhiều vấn đề mới nảy
sinh cần tiếp tục thử ngiệm và hoàn thiện, song con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta ngày càng được xác định rõ hơn. Nền chính trị ổn định, kinh tế tiếp tục tăng tưởng, kết
cấu hạ tầng xây dựng đồng bộ và ngày càng khang trang, đời sống vật chất và tinh thần
của đại bộ phận các tầng lớp dân cư được cải thiện. Điều đó cho phép chúng ta hoàn toàn
tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với
đường lối đúng đắn, khoa học và sáng tạo.

17. Tại sao phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước phát
triển mới về tư duy lý luận sự vận động sáng tạo độc lập của Đảng

Hh Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn phấn đấu, rèn luyện xứng đáng là
đội tiên phong và đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; các tổ chức của Ðảng
và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; luôn gắn bó mật thiết
với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước
nhân dân về những quyết định của mình.

Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn ý thức sâu
sắc vị thế của Ðảng duy nhất cầm quyền. Theo đó, "mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung
thành của nhân dân"(1).

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã hiến định: Ðảng
Cộng sản Việt Nam - Ðội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Ðảng
Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; các tổ
chức của Ðảng và đảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật. Việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Ðảng là tư tưởng xuyên suốt,
nhất quán, là vấn đề có tính nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp
với thể chế chính trị - xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn.

Lịch sử Việt Nam trong những năm 30 của thế kỷ 20 đến nay đã đánh dấu nhiều mốc son
chói lọi, gắn liền với sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Ðó là các sự kiện dân tộc
ta đứng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); vừa
kháng chiến vừa kiến quốc, thống nhất đất nước và nay đang thực hiện công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh". Sứ mệnh và vai trò của Ðảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định ngay từ khi
mới thành lập, được chỉ rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt.

Nhờ đó, "Ðảng đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại: Một là, thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa;... Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc;... Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội"(2). Những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... trong hơn 30 năm đổi mới càng khẳng
định tầm vóc to lớn về vai trò lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị và trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.

Tuy nhiên, cho đến nay, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống của nhân dân vẫn
còn nhiều khó khăn. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện
các Nghị quyết của Ðảng hiệu quả chưa cao, chưa tạo được sự lan tỏa lớn. Nhiều cán bộ,
đảng viên, trong đó có lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa xác định rõ trách nhiệm và chưa
thật sự gương mẫu trong rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống, tác phong, còn
trục lợi, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Ðặc biệt, có cán bộ cấp cao, cả đương chức và
nghỉ hưu, đã vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của Ðảng, pháp luật của Nhà nước, gây dư
luận xấu trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Ðể khắc phục những hạn chế của mình, đồng thời làm thất bại mọi âm mưu chống phá
của các thế lực thù địch, thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới, hơn lúc nào hết Ðảng cần và phải nâng cao năng lực lãnh đạo của mình.
Theo đó, tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, củng cố và mở rộng nền tảng xã hội của Ðảng, tiếp tục giành được sự ủng hộ
tuyệt đối của nhân dân.

Theo quan điểm mác-xít, chính đảng là sản phẩm của mâu thuẫn giai cấp, là tổ chức
chính trị đại diện cho giai cấp và tập đoàn nhất định trong xã hội có giai cấp. Một trong
những chức năng cơ bản của chính đảng là phản ánh lợi ích, nguyện vọng và yêu cầu của
giai cấp, tầng lớp, tập đoàn nhất định. Do vậy, với Ðảng ta, trong quá trình củng cố và
mở rộng nền tảng xã hội của Ðảng thì vấn đề mấu chốt là Ðảng phải kiên định với chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đồng thời lấy
đó làm cơ sở để xây dựng nền tảng xã hội của Ðảng. Vì thế, Ðảng không chỉ phải làm tốt
vai trò là người lãnh đạo, mà còn phải làm tốt bổn phận "là người đày tớ thật trung thành
của nhân dân".

Là một tổ chức lãnh đạo, Ðảng phải có đủ trí tuệ và bản lĩnh chính trị, đề ra đường lối,
chủ trương đúng đắn, vượt qua mọi khó khăn thử thách đưa sự nghiệp cách mạng không
ngừng tiến lên; thực hiện trọn vẹn mục tiêu, lý tưởng Ðảng đã lựa chọn, xứng đáng với
niềm tin tưởng tuyệt đối của nhân dân. Là người "đày tớ", Ðảng và từng cán bộ, đảng
viên phải phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân vô điều kiện; việc gì có lợi cho dân phải
hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Ðể có thể làm tốt cả hai phận sự ấy,
mỗi đảng viên và cán bộ của Ðảng phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) về "Tăng cường và đổi
mới sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới" có ý nghĩa quan
trọng với vai trò lãnh đạo của Ðảng. Bởi, hơn bao giờ hết, mỗi cán bộ, đảng viên của
Ðảng phải thực sự "hết lòng vì dân", mới "được dân hết lòng vì Ðảng".

Hai là, phòng, chống triệt để những biểu hiện quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, cơ hội
chủ nghĩa, kiêu ngạo cộng sản.

Ðối với Ðảng Cộng sản Việt Nam, vai trò lãnh đạo được thể hiện bởi hiệu quả lãnh đạo
Nhà nước và toàn xã hội. Ðiều đó đã được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử, kể từ khi
lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội trước đây và công
cuộc đổi mới, phát triển đất nước hiện nay. Theo đó, vai trò lãnh đạo của Ðảng đối với
Nhà nước được xem là trụ cột của cơ chế vận hành trong hệ thống chính trị; Ðảng lãnh
đạo hệ thống chính trị nói chung và Nhà nước nói riêng là nhân tố bảo đảm xây dựng Nhà
nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, với bản chất là pháp luật giữ vị
trí tối thượng trong điều chỉnh hành vi các quan hệ xã hội và tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân.
Cần khẳng định rằng, Ðảng Cộng sản Việt Nam duy nhất cầm quyền, lãnh đạo hệ thống
chính trị là nguyên tắc không thể thay đổi. Tuy nhiên, ngoài những mặt rất cơ bản, tích
cực của một đảng duy nhất cầm quyền, sẽ không tránh khỏi những mặt hạn chế nhất định,
những nguy cơ có thể xảy ra. Ðiều đó đã từng được V.I.Lê-nin cảnh báo các nguy cơ: sai
lầm về đường lối, quan liêu, xa rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản khi Ðảng cầm
quyền. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đặc biệt chú ý nguy cơ sai lầm về đường lối và
suy thoái của cán bộ, đảng viên ngay sau khi giành được chính quyền. Người yêu cầu cần
phải chiến thắng ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu; nếu không sẽ làm đổ
vỡ cả sự nghiệp của một đảng cầm quyền.

Ðối với Ðảng ta hiện nay, các nguy cơ đó có thể bị ngăn ngừa, đẩy lùi, khắc phục bằng
việc từng bước đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, mà trước hết là dân chủ trong Ðảng, dân chủ trong các cơ quan quyền lực nhà
nước và trong toàn xã hội. Mỗi cán bộ, đảng viên của Ðảng quán triệt và thực hiện tốt
chức trách và công việc được giao, kiên quyết đấu tranh phòng, chống các biểu hiện:
"Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối "quan" chủ. Miệng thì nói "phụng
sự quần chúng", nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng"(3). Nếu lãnh đạo
chỉ thiên về quyền lực "làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép
dân chúng làm"(4), là đồng nghĩa với lãnh đạo thiếu văn hóa. Văn hóa cầm quyền của
Ðảng là phải "sao cho được lòng dân", "Chính phủ là công bộc của dân"(5).

Ba là, lãnh đạo thực hiện hiệu quả Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
viên, xây dựng hình tượng cán bộ, đảng viên trong sạch, liêm khiết.

Ðối với nước ta, tệ tham nhũng và sự kém hiệu quả trong đấu tranh chống tệ nạn này có
nguyên nhân từ sự thiếu gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4, khóa XI chỉ rõ: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có
những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng,
sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa
địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... từ đó làm suy giảm lòng
tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Ðảng, vào bản chất tốt đẹp của chế độ.

Trong bối cảnh hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy
viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm chỉnh chấp hành
Cương lĩnh, Ðiều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Ðảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; gương mẫu thực hiện các quy định của Ban Bí thư, quy định của Bộ
Chính trị, quy định của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương, xây dựng
hình tượng cán bộ, đảng viên trong sạch, liêm khiết; kiên quyết khắc phục sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; nâng cao lập
trường cách mạng, bản chất giai cấp công nhân của Ðảng; ra sức học tập đạo đức, phong
cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng dưới mọi hình
thức; nêu cao tính đảng, tính gương mẫu trong quá trình tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức,
lối sống của cán bộ, đảng viên. Ðó thực sự là một mặt trận chiến đấu đầy cam go, phức
tạp, không kém phần quyết liệt và có ý nghĩa quyết định sự "mất, còn" đối với uy tín lãnh
đạo của Ðảng, lòng tin của nhân dân đối với Ðảng .

Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Ðảng, đất nước đã vượt
qua tình trạng một nước nghèo, kém phát triển; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tăng trưởng kinh tế khá; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với những nhận thức rõ và đầy đủ hơn vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Không ngừng xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước và xã hội.
Thực hiện nhất quán và thành công đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; nâng cao vị thế của đất nước. Hiện nay, Ðảng tiếp tục đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị và các lĩnh vực của đời sống
xã hội; huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân, toàn quân chung sức, đồng lòng, tạo
xung lực mới thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.

18. So sánh đường lối công nghiệp hóa của Đảng thời kỳ trước đổi mới và đổi mới

Sự giống nhau:

– Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa đối với nước ta là một tất yêu, khách
quan. Bởi vì, công nghiệp hóa là vấn đề không mới, mà các nước tư bản chủ nghĩa đã
thực hiện từ lâu, công nghiệp hóa còn được đề cập trong chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Đồng
thời, tình hình đất nước ta tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công, manh mún, lạc hậu…

– Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên cơ sở hạ
tầng, cơ sở vật chất của xã hội thiếu thốn và thấp kém, năng suất lao động thấp, đời sống
nhân dân nghèo nàn, lạc hậu, công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc nhiều khó khăn…

– Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Sự khác nhau:
– Đường lối công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý. Ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Đặc điểm của nước ta là tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp,
cơ sở hạ tầng chưa hình thành… do đó cần phải tiến hành công nghiệp hóa. Công nghiệp
hóa được hiểu quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.

Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã chuyễn lao động bằng
máy móc, công cụ sang giai đoạn mới là tự động hóa, điều khiển hóa, đây là quá trình
hiện đại hóa. Như vậy, bối cảnh thế giới mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội và thách
thức mới.

Chính vì vậy, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, nghĩa là chúng ta lựa chọn mô
hình công nghiệp hóa theo hướng rút ngắn bằng cách kết hợp hai quá trình đó là: quá
trình tuần tự (từ sử dụng lao động thủ công chuyển sang sử dụng máy móc, rồi từ sử dụng
máy móc chuyển sang tự động hóa, điều khiển hóa), quá trình nhảy vọt (lĩnh vực nào đủ
điều kiện thì phải hiện đại hóa ngay lập tức, phải đi trước đón đầu, hội nhập với thời đại).

– Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh tế khép kín,
hướng nội. Còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì lấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khai thác
hiệu quả mọi nguồn lực của nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất
yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ
hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới… sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác hiệu quả thị trường thế
giới. Hội nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

– Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước
và doanh nghiệp nhà nước. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành sự
nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế mà trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.

– Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực hiện
công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, theo
kế hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực
hiện bằng cơ chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế.

– Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài
nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa ở thời
kỳ đổi mới, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững; coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.

Con người là yếu tố cơ bản tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để phát
triển yếu tố con người cần đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo. Nguồn nhân lực
cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ,
có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế
giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.

Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đế tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản
xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế. Ở nước ta, muốn đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển
khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập
công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh.

– Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản đơn, chủ
quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.
Còn ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nhanh, hiệu quả
và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế
phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Phát triển kinh tế cũng là để thực hiện các
vấn đề an sinh xã hội, vấn đề văn hóa – xã hội… vì mục tiêu phát triển con người, mọi
người đều hưởng thành quả của sự phát triển.

– Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với
phát triển nông nghiệp, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng, ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh
phát triển công nghiệp địa phương. Ở thời kỳ đổi mới, phải phát triển các ngành và lĩnh
vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Hai là, phát triển nhanh
hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Ba là, phát triển kinh tế vùng. Bốn là, phát triển
kinh tế biển. Năm là, dịch chuyển cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ. Sáu là,bảo vệ, sử
dụng, hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.

Nhận thức đầy đủ vai trò của CNH với sự hưng thịnh của quốc gia dân tộc, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã có hơn nửa thế kỷ liên tục (52 năm: 1960-2012) lãnh đạo nhiều triệu
dân trên lãnh thổ hàng nghìn km2 thực hiện CNH theo những quan niệm, mô hình và cơ
chế rất khác nhau với những thể nghiệm, tìm tòi, rồi điều chỉnh, bổ sung, phát triển để
không ngừng hoàn thiện.

Nhìn tổng quan, đường lối CNH của Đảng thời kỳ trước và sau đổi mới có những điểm
giống và khác rất rõ rệt.1. Điểm giống

a) Điểm giống qua báo cáo của Bộ Chính trị

Bộ Chính trị đã từng báo cáo với Trung ương làm rõ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện
nay có gì giống và khác với trước đây:

“Trong những năm tiến hành công nghiệp hoá trước đây, chúng ta đã đạt được một số
thành tựu quan trọng. Một số công trình lớn đã được xây dựng và đang phát huy tác dụng
(thuỷ lợi, điện, xi măng, giao thông…). Ngày nay chúng ta kế thừa và đang tiếp tục phát
huy những thành tựu của thời kỳ trước, hướng những công trình đó phục vụ có hiệu quả
của nền kinh tế quốc dân.

Chỗ thống nhất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước đây và hiện nay tập trung ở
những điểm sau:

* Một là, trước đây cũng như hiện nay Đảng ta đều quan niệm công nghiệp hoá là nhiệm
vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

* Hai là, công nghiệp hoá đều nhằm chuyển đổi một cách căn bản nền sản xuất xã hội từ
lao động thủ công là chủ yếu sang lao động dùng máy móc, phương tiện kỹ thuật là phổ
biến, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở đó, nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân.

* Ba là, từng bước hình thành quan hệ sản xuất mới tiến bộ, phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thể hiện ngày càng đầy đủ bản chất ưu việt của
chế độ mới, tạo ra hạ tầng cơ sở vững chắc cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

* Bốn là, tiến hành công nghiệp hoá trước đây và hiện nay đều phải được thực hiện theo
hướng hiện đại hoá tuy có sự khác nhau về mức độ. Do sự phát triển rất nhanh chóng của
khoa học và công nghệ trong những thập kỷ gần đây, khái niệm hiện đại hoá luôn luôn
được bổ sung những nội dung mới với phạm vi bao quát nhiều mặt, từ sản xuất, kinh
doanh đến dịch vụ, quản lý… Những tiến bộ khoa học – công nghệ được coi là hiện đại
cách đây vài thập kỷ thì nhiều cái nay đã trở nên bình thường, cần được bổ sung, thậm
chí lạc hậu, cần được thay thế. Khái niệm hiện đại hoá mà chúng ta đề cập trong Nghị
quyết Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần
này được hiểu theo ý nghĩa đó.

Trên đây là một số điểm chính về sự giống nhau giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện
nay và trước đây.”

b) Theo tôi, bên cạnh những điểm khác nêu trên, tư duy – đường lối – lãnh đạo thực hiện
CNH Việt Nam của Đảng trước và sau Đại hội Đổi mới (1986) còn có thêm những đặc
điểm giống sau:

* Thứ nhất, đường lối CNH của Đảng luôn nhấn mạnh đến yếu tố khoa học kỹ thuật công
nghệ (then chốt, quyết định…), luôn xác định khoa học là LLSX trực tiếp, hướng hoặc đề
cập trực tiếp tới công nghệ tiên tiến, công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao… nhưng những
gì đạt được trên thực tế lại cho thấy khoa học và công nghệ chưa được hiểu một cách đầy
đủ, thống nhất, xứng tầm.

Cơ chế, chính sách cho phép khoa học kỹ thuật công nghệ đóng góp vào sự phát triển
nhanh và bền vững của Tổ quốc còn hạn chế. Thứ hạng trình độ khoa học công nghệ của
Việt Nam luôn rất thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả một số nước nhỏ về diện
tích, không nhiều về dân số trong khu vực: số lượng các bằng phát minh sáng chế được
đăng ký, đội ngũ các nhà khoa học, chất lượng nguồn nhân lực, bài báo khoa học đăng
tạp chí quốc tế…. các giải thưởng danh giá khoa học thế giới…. đều rất ít.

Tính cho tới hiện tại, đây là một đặc điểm chung liên quan tới sự lãnh đạo của Đảng qua
đường lối CNH Việt Nam. Cần và phải hiểu được khoa học và công nghệ một cách đầy
đủ, có hành động hiệu quả cao, nếu không đường lối chính sách liên quan tới khoa học
công nghệ chỉ là những ngôn từ hoa mỹ, sáo rỗng, thiếu sức sống trên thực tế và chết yểu
trước những thách thức lớn của lịch sử.

Đặc biệt, sự hạn chế về nhận thức và kém hiệu quả trong thực hiện sẽ làm cho khoảng
cách chênh lệch phát triển của Tổ quốc chúng ta với nhiều quốc gia sẽ ngày càng xa hơn.
Việt Nam sẽ trở nên lạc hậu, sẽ bị gạt ra rìa trong xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển như
vũ bão của khoa học công nghệ như ngày nay.

Cách đây 36 năm, vào thời điểm miền bắc đã CNH được gần 2 thập kỷ, Tổng Bí thư Lê
Duẩn đã từng nhận xét trong Hội nghị lần thứ 25 (10-1976): “Không có nước nào lại
nghèo như nước Việt Nam mình. Thu nhập quốc dân không quá 100 đôla/đầu người,
trong khi nước khác ở Đông Nam Á thấp nhất cũng đến 300 (trong này có thể có cách
tính khác nhau). Thấp như thế là vì công nghiệp chưa có gì bao nhiêu. Kinh tế chủ yếu là
nông nghiệp. Mà đất đai nông nghiệp thì lại sụt”.

Quá khứ và hiện tại, Việt Nam đều chưa tạo ra được những cơ chế chính sách đặc biệt, có
tính đột phá (mang tầm vóc “cất cánh” hay “thần kỳ”…) cho các nhà khoa học, các viện
nghiên cứu khoa học và các yếu tố kinh tế liên quan để tạo ra mũi nhọn hiệu quả phát
triển mạnh bền vững đi trước.

* Thứ hai, CNH bằng con đường thích hợp để đưa Tổ quốc phát triển đạt trình độ cao về
mọi mặt là mạch tư duy không bao giờ dứt trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Khái quát bước chuyển biến tư duy lý luận về CNH XHCN cho thấy một điều từ khi chủ
trương đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội tới nay, khát vọng đưa nước ta từ một nước
nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước công nghiệp phát triển, khoa học và
kỹ thuật tiên tiến, nhân dân có cuộc sống ấm no tự do và hạnh phúc, là mạch tư duy
không bao giờ dứt trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một trong những con
đường để đạt được điều đó là thông qua CNH XHCN thành công.

* Thứ ba, khẳng định CNH có tính tất yếu và giữ vị trí nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Từ góc nhìn lịch sử có đầy đủ cơ sở để khẳng định rằng, sự đánh giá của Đảng về tính tất
yếu, vị trí, vai trò, mục tiêu, định hướng phát triển hay nói chung là tầm quan trọng của
công cuộc CNH đối với đất nước ta là khá nhất quán và xuyên suốt. CNH theo hướng
hiện đại được coi là nhiệm vụ trọng tâm để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
trong khoảng vài chục năm.

Tuy nhiên, do chủ quan, nóng vội, duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan, và cả do sự
hạn chế về trình độ nhận thức, cho nên trong một giai đoạn khá dài chúng ta đã xác định
sai bước đi, “trên thực tế đã chủ trương đẩy mạnh CNH trong khi chưa có đủ các tiền đề
cần thiết” đúng như Nghị quyết Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) nhận định.

Ngay sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1954), Đảng Cộng sản Việt Nam có
quyết tâm chính trị đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội mà CNH XHCN là nhiệm vụ trung
tâm của cả thời kỳ quá độ. Quyết tâm chính trị đó được thực hiện chính thức bằng quá
trình CNH bắt đầu từ Đại hội III (1960) của Đảng.
Từ đó, dù Đảng luôn thể nghiệm, tìm tòi, rồi điều chỉnh, bổ sung, phát triển nhưng vẫn
nhất quán quan điểm: CNH có tính tất yếu và là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội

* Thứ tư, mục tiêu CNH có nhiều điểm giống nhau.

Mục tiêu cơ bản của CNH luôn là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đi đôi với không ngừng
cải thiện đời sống nhân dân và cải biến nước ta thành một nước công nghiệp (chung một
số điểm như: đảm bảo cơ sở vật chất – kỹ thuật, cơ cấu kinh tế cho chủ nghĩa xã hội ;
QHSX tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX; mức sống vật chất và tinh thần
cao; quốc phòng – an ninh vững chắc; dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, ấm no, tự do, hạnh phúc…); để thực hiện mục tiêu chung đó, ở mỗi thời kỳ thường
xác định những mục tiêu cụ thể cần đạt được.

* Thứ năm, mô hình CNH Việt Nam đều sử dụng kết hợp các ưu thế của nhiều mô hình
khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý rằng: ưu thế của một mô hình cụ thể ở một
quốc gia cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định thì có lúc lại là mô hình không ưu
thế với Việt Nam. Chính vì thế, mô hình công nghiệp hóa Việt Nam có nhiều đặc điểm từ
các mô hình CNH hiện đại của thế giới nhưng qua năm tháng vẫn có những điểm không
phù hợp, chưa tạo được bước phát triển cất cánh, nhảy vọt hay thần kỳ.

CNH là một xu thế phát triển tất yếu và đã được thực hiện ở nhiều nước khác nhau trên
thế giới với nhiều mô hình khác nhau. Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, người ta có
nhiều cách phân loại mô hình CNH khác nhau.

Đường lối CNH Việt Nam của Đảng qua các thời kỳ có sự kết hợp các ưu thế của nhiều
mô hình khác nhau nhằm hướng tới mô hình ngày càng phù hợp hơn với nước ta: một số
đặc điểm của mô hình CNH cổ điển, phi cổ điển, CNH thay thế nhập khẩu, CNH hướng
vào xuất khẩu, CNH tư bản chủ nghĩa, CNH XHCN….

* Ngoài ra, đường lối CNH Việt Nam còn có những đặc điểm chung như: khả năng sử
dụng hiệu quả nguồn lực của đất nước chưa cao; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo bản chất
và nội dung CNH hiện đại còn chậm; liên tục đổi mới tư duy để hoàn thiện các hình thức
sở hữu và các thành phần kinh tế trong quá trình thực hiện CNH Tổ quốc…

Những nội dung trên đã chỉ ra một số điểm giống trong đường lối CNH của Đảng thời
đoạn trước và sau mốc Đại hội VI (12-1986).

2. Điểm khác
Do nhiều lý do chủ quan và khách quan chi phối, đường lối, chủ trương, quan niệm CNH
xã hội của Đảng ở các thời kỳ có những khác nhau, thực chất là quá trình thể nghiệm,
trăn trở để dần tìm ra hướng đi đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đất nước.

Đặc biệt, với 20 năm đổi mới, quan niệm, mô hình và con đường CNH XHCN ở nước ta
đã định hình trên những đường hướng tổng thể và tính đúng đắn của nó đã được kiểm
chứng ở những thành quả phát triển chung của đất nước.

Đó là một quá trình chuyển biến nhận thức, trên cơ sở tổng kết thực tiễn đất nước và kinh
nghiệm thế giới, để không ngừng bổ sung, hoàn thiện quan niệm của đảng cầm quyền về
CNH XHCN.

a) Theo Bộ chính trị: “Bên cạnh những điểm thống nhất nêu trên, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá hiện nay có nhiều cái khác so với trước đây mà một số điểm chính là:

* Công nghiệp hoá trước đây được tiến hành theo cơ chế cũ, tập trung quan liêu, bao cấp;
thực hiện kế hoạch hoá tập trung với các chỉ tiêu pháp lệnh. Ngày nay, chúng ta tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo cơ chế mới, là cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng; thị trường phản ánh nhu cầu xã hội,
có tiếng nói quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực cho sản xuất, hình thành cơ cấu
kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm thước đo.

* Trước đây, công nghiệp hoá thường được hiểu là việc của Nhà nước, thông qua khu
vực quốc doanh và tập thể là chủ yếu. Ngày nay, nó là sự nghiệp của toàn dân với sự
tham gia tích cực của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo.

Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước cũng linh hoạt hơn, bao gồm những doanh nghiệp
mà Nhà nước nắm một số cổ phần, khống chế tương đối hay tuyệt đối. Đồng thời thực
hiện đa dạng hoá và đan xen các loại hình sở hữu.

* Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, Đảng ta đã đề ra quan điểm xây dựng nền
kinh tế mở cả trong nước và với bên ngoài; đa dạng hoá, đa phương hóa quan hệ đối
ngoại và kinh tế đối ngoại trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền; thúc đẩy mở cửa,
khuyến khích các hình thức hợp tác, liên doanh nhằm thu hút vốn, công nghệ mới, kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài.

Quan niệm của chúng ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng được điều chỉnh phù hợp
với xu thế quốc tế hoá về kinh tế. Trước đây, chúng ta thường thực hiện các công trình
theo kiểu khép kín, làm từ đầu đến cuối. Ngày nay, chúng ta có thể đi từ lắp ráp, tiến tới
sản xuất trong nước một phần với tỷ lệ tăng dần, thích hợp. Trên thế giới hiện nay, không
ít sản phẩm hoàn chỉnh là kết quả hợp tác của nhiều nước. Một số sản phẩm mà chúng ta
sản xuất cũng có thể làm theo cách đó.

Trên đây là một số điểm chính về sự khác nhau giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện
nay và trước đây”

b) Theo tôi, bên cạnh những điểm khác nêu trên, tư duy – đường lối – lãnh đạo thực hiện
CNH Việt Nam của Đảng trước và sau Đại hội Đổi mới (1986) còn có thêm những đặc
điểm khác sau:

Có thể khái quát những chuyển biến CNH XHCN của Đảng ở mấy nét lớn sau:

* Thứ nhất, về cách giải quyết mối quan hệ giữa phát triển LLSX và xây dựng QHSX
XHCN trong quá trình công nghiệp hóa.

Trong tiến trình cách mạng XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiệm vụ phải vừa lãnh
đạo phát triển LLSX vừa lãnh đạo xây dựng QHSX XHCN.

Đây là một mối quan hệ lớn được Đảng ta đặc biệt quan tâm và liên tục có nhiều đổi mới
rất quan trọng, có tính đột phá, nhất là từ Đại hội VI đến nay.

Trong thời kỳ đầu sau giải phóng, miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng
ta đã nhấn mạnh thái quá vai trò “tích cực” của quan hệ sản xuất, dẫn đến chủ trương
quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo động lực cho sự phát triển lực lượng sản
xuất. Ngoài ra, do CNH trong nền kinh tế hiện vật (có trao đổi), không thừa nhận thị
trường và cạnh tranh nên rất hạn chế trong việc tìm động lực phát triển LLSX từ khoa
học và kỹ thuật.

Bước vào thời kỳ đổi mới, chúng ta đã ngày càng khẳng định rõ: Phải từng bước xây
dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước
ta. Đại hội VIII xác định: Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước
ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh. Đại hội IX xác định rõ thêm: Phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý
và phân phối.

Qua tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI đã thảo luận và biểu
quyết với đa số phiếu tán thành nội dung đặc trưng kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng là: “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.

Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực
hiện công bằng xã hội.

Đây là một bước bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 và các nghị quyết của Đảng từ
sau đổi mới về vấn đề này.

Như vậy, đường lối CNH của Đảng chuyển từ CNH gắn với quan niệm xây dựng QHSX
XHCN đi trước một bước mở đường cho sự phát triển của LLSX, chuyển sang thực hiện
ưu tiên phát triển LLSX hiện đại, đồng thời xây dựng QHSX tiến bộ phù hợp.

* Thứ hai, về bước đi, tốc độ của công nghiệp hóa.

Thời kỳ trước Đổi mới, Đảng đã chủ trương đẩy mạnh CNH, xây dựng một cơ cấu kinh
tế công – nông nghiệp hiện đại, trù liệu thời gian CNH XHCN mất khoảng 20 năm…
(ĐH IV).

Thời kỳ đổi mới, Đảng xác định: quá trình CNH phải được tiến hành từng bước phù hợp
với trình độ lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; trong chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ chưa thể đẩy mạnh CNH, mà là tạo tiền đề cần thiết để
đẩy mạnh CNH ở chặng đường tiếp theo (chủ trương đẩy mạnh CNH từ Đại hội VIII –
1996); cơ cấu kinh tế hợp lý với từng thời đoạn; con đường CNH ở nước ta cần và có thể
rút ngắn thời gian so với các nước đi trước…

Tư duy CNH của Đảng thời đổi mới xác định: con đường CNH ở nước ta cần và có thể
rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm
thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới. Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và
thành quả của các nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại và qua hội nhập quốc tế để
rút ngắn thời gian.

Như vậy, đường lối CNH chuyển từ CNH XHCN với cách làm nóng vội, bỏ qua các
bước đi trung gian cần thiết, đã chuyển sang thực hiện CNH vừa có bước đi tuần tự, giai
đoạn trước tạo tiền đề cho sự phát triển của giai đoạn sau theo trật tự tuyến tính, vừa cho
phép phát triển “rút ngắn” trên cơ sở đi tắt, đón đầu các thành tựu phát triển nhảy vọt về
khoa học và công nghệ của thế giới.
* Thứ ba, xây dựng cơ cấu kinh tế (mối quan hệ giữa công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ,
nông nghiệp, kinh tế trung ương, kinh tế địa phương, sản xuất, phân phối, tiêu dùng); cơ
chế và mô hình nền kinh tế trong quá trình CNH

Quan điểm công nghiệp hoá và hiện đại hoá dựa trên nhận thức mới, khác với quan niệm
trước đây về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa theo cơ cấu kinh tế khép kín, nhất thiết
phải đi từ công nghiệp nặng.

Thực chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là không ngừng đổi mới trang thiết bị, kỹ
thuật, đổi mới công nghệ, đạt tới năng suất lao động cao trong tất cả các ngành kinh tế
quốc dân. Cách làm phải phù hợp với điều kiện thực tế, tích cực nâng cao trình độ công
nghệ và trang bị kỹ thuật trong nước, đồng thời tranh thủ tiếp nhận công nghệ và trang bị
kỹ thuật mới từ bên ngoài. Trong điều kiện thiếu vốn, nhiều lao động, phải kết hợp công
nghệ nhiều trình độ, vừa sử dụng và cải tiến công nghệ truyền thống, vừa tranh thủ tối đa
công nghệ tiên tiến, kết hợp phát triển theo chiều rộng và chiều sâu, làm quy mô vừa và
nhỏ là chính, song không loại trừ quy mô lớn khi cần thiết và có hiệu quả. Đó là cơ sở để
xác định bước đi của công nghiệp hoá trong cơ cấu kinh tế, giải quyết hợp lý mối quan hệ
giữa nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp tư liệu sản xuất.

Quan niệm mới về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải đẩy mạnh cách mạng khoa
học và công nghệ, bao gồm cả khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và
đưa được các khoa học đó vào cuộc sống, nhằm đổi mới công nghệ, kể cả công nghệ
quản lý (cách nói cách mạng khoa học – kỹ thuật như lâu nay dễ dẫn tới coi nhẹ vai trò
rất quan trọng của khoa học xã hội). Cái nền để nâng cao năng lực khoa học và công nghệ
của đất nước là sự nghiệp giáo dục và đào tạo, vừa nâng cao dân trí, vừa chú trọng nhân
tài. Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là một mặt rất quan trọng trong việc phát
huy nhân tố con người, không thể coi như một yếu tố hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế hoặc như một chính sách về bảo đảm xã hội.

Như vậy: 1- Từ chủ trương xác lập nóng vội cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, hiện đại hoá để đưa nước ta đến năm 2020
về cơ bản trở thành một nước công nghiệp, có cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp và dịch
vụ hiện đại; 2- Từ nền kinh tế “khép kín”, “hướng nội”, quan hệ chỉ khép kín trong hệ
thống XHCN, chuyển sang thực hiện một nền kinh tế mở đa dạng, đa phương phù hợp
thông lệ quốc tế, hướng mạnh về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập khẩu; 3- Chuyển từ
CNH thực hiện trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang
tuân theo thị trường, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới thành một chỉnh
thể hữu cơ, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
* Thứ tư, CNH, HĐH gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển nhanh, bền vững.

Từ quan niệm CNH cổ điển chuyển sang quan niệm CNH, hiện đại hoá gắn với phát triển
kinh tế tri thức, thực hiện các mục tiêu phát triển trước mắt phải đi đôi với yêu cầu không
làm tổn hại đến khả năng phát triển trong tương lai (phát triển nhanh, bền vững, bảo vệ
tài nguyên môi trường).

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta lãnh đạo sự nghiệp đẩy mạnh CNH, hiện đại hóa vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, chính là làm cho mục tiêu
này thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng
những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp, tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt
được, sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm nhằm đạt những thành tựu to lớn và vững
chắc hơn trong việc thực hiện những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ mà Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011) được Đại hội lần thứ XI của Đảng thông qua.

Ngoài ra, CNH còn có các đặc điểm được nhận thức rõ và nhấn mạnh hơn: Đẩy mạnh
CNH, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Khoa học và công nghệ
cũng là quốc sách hàng đầu, là động lực đẩy mạnh CNH, hiện đại hóa đất nước, từng
bước phát triển kinh tế tri thức.

Nghiên cứu đường lối CNH, HĐH của Đảng Cộng sản Việt Nam và quá trình thực hiện
đường lối đó trong giai đoạn hiện nay, đồng thời so sánh với trước thời kỳ đổi mới sẽ
giúp chúng ta hiểu và nhận thức sâu sắc hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, hiện trạng của Tổ quốc. Từ đó, mỗi công dân sẽ có thái độ tích hơn, hành
động hiệu quả hơn, thể hiện cụ thể thực tế vào vào sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước hiện tại cũng như trong tương lai..

CNH bằng con đường như nào là đúng để đưa Việt Nam có sự phát triển cất cánh, thần
kỳ? Làm sao phát huy cao bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thời đại mới? Làm sao để
một nước anh hùng nhưng còn nghèo như Tổ quốc thân yêu của chúng ta sớm khắc phục
tình trạng tụt hậu, trở thành nước anh hùng, giàu mạnh và văn minh, đuổi kịp và sánh vai
cùng các nước trung bình, rồi từng bước với các nước tiên tiến trên thế giới, như trước
đây đã từ một nước thuộc địa trở thành một trong những nước đi tiên phong trong phong
trào giải phóng dân tộc – đó vẫn còn là câu hỏi, là thách thức lịch sử với mỗi công dân
trách nhiệm.

19. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế
Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo
làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất
nước do Đảng ta khởi xướng trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, đất
nước chồng chất khó khăn càng làm nổi bật những thành tựu đạt được sau 25 năm đổi
mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử, khẳng định lý tưởng cộng sản cao đẹp, sức sống
bền vững của chủ nghĩa xã hội hiện thực và tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đất nước có hoà bình, thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội nhưng với mô hình và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa áp dụng vào
Việt Nam đã nhanh chóng bộc lộ khuyết tật, sai lầm của nó. Nhưng sau mỗi sai lầm, vấp
ngã, Đảng đã dũng cảm "nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật", kiên quyết sửa chữa,
kịp thời tổng kết rút ra những bài học từ những thành công và cả những sai lầm, thất bại,
kiên trì sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hai mươi lăm năm qua với bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức cao đẹp của một Đảng cách mạng
cầm quyền dày dạn kinh nghiệm, luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn tạo động lực mạnh
mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vươn lên giành nhiều thắng lợi mới.
Mô hình, mục tiêu và con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày
càng sâu sắc, đầy đủ hơn. Mặc dù cách mạng còn nhiều khó khăn, lâu dài nhưng nhất
định thắng lợi. Bởi đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam phù
hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử nhân loại. Đường lối đổi mới của Đảng xa lạ với
những gì mà kẻ thù lâu nay vẫn ra sức tuyên truyền xuyên tạc rằng con đường phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta là "sản phẩm ngoại nhập, không
có tương lai". Nhất là từ sau những sai lầm về đường lối cải tổ dẫn tới sự sụp đổ của chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thế kỷ XX. Kẻ thù đã lớn
tiếng tuyên bố rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị phủ định ngay tại quê hương của nó bởi
sự lỗi thời; hơn nữa, khi du nhập vào Việt Nam đã bị cắt xén, biến dạng thành bạo lực
đấu tranh; kinh tế trì trệ, suy thoái, khủng hoảng…; là những biểu hiện của “hồi kết”,
“Chương thử nghiệm cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản"; "sự toàn thắng của chủ nghĩa tư
bản".v.v.. Nhưng thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 25 năm qua của dân
tộc ta đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc xằng bậy đó của kẻ thù.
Giữ vững nguyên tắc độc lập, sáng tạo, trung thành với lợi ích của nhân dân, bám sát thực
tiễn cuộc sống, xác định đường lối, chính sách đúng đắn và nhanh chóng đưa vào cuộc
sống hướng dẫn hoạt động cách mạng của nhân dân là bí quyết thành công của Đảng ta.
Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ khâu đột phá của sự nghiệp đổi mới là đổi mới tư duy
nhưng trọng tâm lại là đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị làm
cơ sở cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã hội "Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân
tộc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.

Để tiếp tục tạo cơ sở vững chắc trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong những
năm tới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định rõ 8 phương hướng
cơ bản để toàn Đảng, toàn dân ta quán triệt và thực hiện: Một là, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây
dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc
phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh.

Với những phương hướng cơ bản trên, chắc chắn trong thời gian tới, Đảng ta sẽ tiếp tục
lãnh đạo đất nước tiến lên không ngừng, đạt được nhiều thắng lợi to lớn hơn trong sự
nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước./

Thực hiện công bằng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế

- Thực hiện công bằng xã hội là một chủ trương lớn, quan điểm nhất quán của Đảng
Cộng sản Việt Nam, thể hiện bản chất nhân văn, tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng. Việc hoàn thiện quan điểm của Đảng về
công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá
trình lâu dài, vừa làm, vừa tìm tòi, khảo nghiệm, chọn lọc, nghiên cứu lý luận và tổng kết
thực tiễn để đề ra đường lối, chủ trương, biện pháp thực hiện theo hướng ngày càng đầy
đủ, khoa học, sáng tạo và hiệu quả hơn.
ngày 13-1-2020_Ảnh: TTXVN

Một là, công bằng xã hội thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam

Từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước; và, một trong những dấu ấn quan trọng là quan điểm phát triển nền
kinh tế thị trường (KTTT) đã bước đầu được định hình. Từ tiền đề quan trọng đó, thể chế
KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ngày càng được hoàn thiện và được chứng
minh tính đúng đắn trên thực tế khi giúp đất nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế
- xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, xã hội ổn định, đời sống nhân dân ngày càng được cải
thiện. Song, lại có một thực tế nảy sinh, cùng với thành tựu đạt được về kinh tế trong quá
trình phát triển KTTT, khoảng cách giàu - nghèo lại tăng lên. Nhìn vào hiện tượng đó, có
ý kiến cho rằng, nếu Việt Nam thực hiện KTTT sẽ không thể có công bằng xã hội
(CBXH), tức là, thực hiện KTTT sẽ phải chấp nhận hy sinh CBXH để đổi lấy sự tăng
trưởng kinh tế.

Theo C. Mác, CBXH chỉ thực sự có được trong chủ nghĩa xã hội, bởi vì khi đó chế độ tư
hữu mới bị thủ tiêu, chế độ công hữu mới được thiết lập. Còn trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, CBXH không chỉ biểu hiện như là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà còn là một
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, một biện pháp căn bản để
hiện thực hóa những giá trị, lý tưởng cao cả của chủ nghĩa xã hội,... Đứng vững trên lập
trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nghiên cứu, xem xét khách quan, toàn diện các chiều cạnh của vấn đề và đi
đến khẳng định rõ ràng, nhất quán rằng: CBXH và KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
không đối lập nhau, bài trừ, phủ định nhau mà luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau,
hỗ trợ, bổ sung cho nhau, làm cơ sở, tiền đề của nhau. Trong đó, CBXH không phải là
nhân tố kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế; trái lại, nó còn là động lực góp phần thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế, sự phát triển kinh tế - xã hội nói riêng và sự tiến bộ xã hội nói chung.
Bởi lẽ, CBXH tạo cơ hội bình đẳng cho mỗi cá nhân và mọi thành viên của xã hội có thể
phát huy tối đa khả năng, sở trường trong tham gia, đóng góp vào sự phát triển của xã hội
cũng như quyền lợi mà họ được hưởng một cách tương xứng. Nói cách khác, nếu CBXH
được thực hiện đầy đủ thì lợi ích chính đáng của mỗi người được bảo đảm; điều đó sẽ trở
thành động lực kích thích mọi người tích cực cống hiến cho xã hội một cách tự nguyện,
tự giác nhất, qua đó sẽ thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Đảng ta khẳng định: “Chính sách xã
hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng
tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(1).
Mặt khác, việc thực hiện CBXH trong nền KTTT định hướng XHCN sẽ khắc phục bản
chất cố hữu của nền KTTT là cạnh tranh, mạnh được, yếu thua, bất công, bất bình đẳng
xã hội,... Vì vậy, trong điều kiện KTTT định hướng XHCN, Việt Nam không những có
thể mà còn tất yếu phải thực hiện CBXH.

Về phía ngược lại, phát triển KTTT định hướng XHCN lại là cách thức, con đường, biện
pháp thiết thực để thực hiện CBXH. Tuy vậy, Đảng ta cũng chỉ rõ, bản thân KTTT không
tự động bảo đảm CBXH. Vì thế, phải có những điều tiết xã hội thông qua vai trò của Nhà
nước XHCN, nhằm loại bỏ những thu nhập bất hợp pháp; đồng thời, giảm bớt những
chênh lệch “hợp pháp” do thị trường đem lại nhờ lợi thế nhất định nào đó. Và, quan trọng
hơn, hoạt động điều tiết ấy của Nhà nước sẽ giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa cống
hiến và hưởng thụ đối với tất cả mọi thành viên xã hội - điều mà KTTT không thể tự nó
làm được. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Nhà nước sử dụng thể chế, các
nguồn lực, công cụ điều tiết, chính sách phân phối và phân phối lại để phát triển văn hóa,
thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, từng bước nâng
cao phúc lợi xã hội, chăm lo cải thiện đời sống mọi mặt của nhân dân, thu hẹp khoảng
cách giàu - nghèo”(2).

Hai là, thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển kinh tế.

Trước đổi mới và ở giai đoạn đầu của đổi mới, đã từng có không ít ý kiến cho rằng, Việt
Nam còn nghèo, kinh tế chưa phát triển, cho nên, nhiệm vụ trước mắt là phát triển kinh tế,
khi nào kinh tế phát triển cao mới có nền tảng, điều kiện vật chất để thực hiện CBXH. Ý
kiến này thoáng qua dường như có vẻ hợp lý, nhưng thực chất không phù hợp với quan
điểm, mục tiêu của Đảng ta cũng như bản chất của chế độ XHCN mà Việt Nam đang xây
dựng.

Dựa chắc trên cơ sở lý luận mác-xít về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,... và thấu triệt quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Có khi vật tư, hàng hóa không thiếu, mà phân phối không đúng,
thì gây ra căng thẳng không cần thiết. Trong công tác lưu thông phân phối, có hai điều
quan trọng phải luôn luôn nhớ: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; Không sợ
nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên...”(3). Từ đó, Đảng nêu rõ yêu cầu: “Không chờ kinh tế
phát triển cao rồi mới giải quyết các vấn đề xã hội, mà ngay trong từng bước và suốt quá
trình phát triển, tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội”(4); “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát
triển là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện bản chất tốt đẹp
của chế độ xã hội chủ nghĩa”(5).
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới cho thấy, nếu tách rời hoặc tuyệt
đối hóa mục tiêu kinh tế mà xem thường, coi nhẹ mục tiêu xã hội thì kết cục mục tiêu
kinh tế cũng không thể đạt được trọn vẹn. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa mục tiêu xã hội,
không coi trọng đúng mức tới các mục tiêu kinh tế, tất yếu sẽ không có cơ sở, nền tảng
vật chất để thực hiện mục tiêu xã hội. Điều đó có nghĩa, tăng trưởng kinh tế và CBXH có
thể và cần phải làm tiền đề, điều kiện cho nhau. Trong đó, tăng trưởng kinh tế tạo ra điều
kiện vật chất để thực hiện CBXH; thực hiện tốt CBXH sẽ trở thành động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Thực tiễn đã chỉ ra, sẽ không thể có CBXH trên cơ sở một nền kinh
tế thấp kém; cũng không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững trong một
xã hội với đa số người dân trí tuệ thấp kém, thể trạng ốm yếu và tỷ lệ lao động thất
nghiệp cao...

Đảng ta khẳng định, chỉ có sự gắn kết hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục
tiêu xã hội mới thực hiện được CBXH một cách bền vững. Đồng thời, nền KTTT định
hướng XHCN tăng trưởng, phát triển kinh tế đến đâu, phải thực hiện ngay CBXH đến đó.
Không thể chờ khi nào kinh tế phát triển đến trình độ cao mới thực hiện CBXH, càng
không chấp nhận hy sinh CBXH để đổi lấy tăng trưởng kinh tế. Phải nhất quán “Thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng
trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã
hội vì mục tiêu phát triển con người”(6). Đặc biệt, cần coi trọng “gắn kết chặt chẽ chính
sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công
cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước”(7).

Đây là một trong những quan điểm rất quan trọng, thể hiện bước phát triển trong lý luận
của Đảng về CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN.

Ba là, công bằng xã hội không có nghĩa là cào bằng, “bình quân chủ nghĩa”.

Theo quan điểm của Đảng ta, bản chất của CBXH là bảo đảm sự “ngang nhau” giữa
người với người trong mối quan hệ giữa cống hiến với hưởng thụ, quyền lợi với nghĩa vụ,
vinh dự với trách nhiệm. Vì thế, không thể coi việc thực hiện CBXH như là sự cào bằng;
CBXH không phải là một sự ngang bằng, dàn đều theo kiểu “bình quân chủ nghĩa”. Đảng
ta luôn nhấn mạnh, thực hiện CBXH ở Việt Nam, một mặt, không chỉ là hướng tới mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà đó còn là một động lực quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, là một yêu cầu bức thiết của công cuộc đổi mới, chấn hưng
đất nước. Do vậy, nếu đồng nhất CBXH với chủ nghĩa bình quân sẽ triệt tiêu động lực
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Điều này sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhiều
lần nhắc nhở: Bình quân chủ nghĩa là trái chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, Đảng ta cho rằng,
không phải cứ thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo có nghĩa là có CBXH, cũng do đó
không phải cứ gia tăng khoảng cách giàu - nghèo là đồng nghĩa với gia tăng sự bất công
bằng.

Trên thực tế, sự đồng nhất CBXH với bình đẳng xã hội đã từng là cơ sở lý luận của chủ
nghĩa bình quân, của quan niệm sai lầm cho rằng không thể đạt được đồng thời mục tiêu
kép là công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế. Do đó, quan điểm trên đây là một bước
tiến trong tư duy của Đảng về CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN.

Bốn là, thực hiện phân phối phù hợp - điều kiện căn bản để có công bằng xã hội.

Cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định, muốn thực hiện tốt CBXH phải bảo đảm công
bằng trong phân phối. Phân phối là quá trình phân chia kết quả sản xuất và các nguồn lực
cho các nhu cầu sản xuất và sinh hoạt đời sống. Phân phối có vị trí rất quan trọng trong
toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội, đồng thời có ý nghĩa kinh tế - xã hội rộng lớn. Vì
vậy, cần có chính sách phân phối đúng đắn trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, không phải
ngay từ đầu và bất kỳ lúc nào chúng ta cũng xác định và thực hiện đúng nguyên tắc phân
phối phù hợp. Trước đây, do áp dụng một cách máy móc, giáo điều theo mô hình nước
ngoài, chủ nghĩa xã hội được hiểu và thực hiện trong thực tế theo chủ nghĩa bình quân.
Nếu như trong điều kiện đất nước có chiến tranh, chính sách phân phối theo chủ nghĩa
bình quân đóng vai trò lịch sử nhất định, trong một thời gian nhất định. Nhưng khi điều
kiện thực tế đã thay đổi, chính sách phân phối theo kiểu bình quân kéo dài quá lâu đã cào
bằng mọi giá trị lao động, chẳng những không tạo ra được bất cứ một sự CBXH nào, mà
trái lại còn là lực cản, triệt tiêu động lực của sản xuất, trở thành một trong những nguyên
nhân kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế và dẫn đến những hậu quả tiêu cực cho sự phát triển
của xã hội. Đây là một trong những nguyên nhân đòi hỏi chúng ta phải tiến hành công
cuộc đổi mới, xác lập cơ chế thị trường nhằm thực hiện nguyên tắc công bằng mới: Xóa
bỏ chế độ bao cấp, xây dựng hình thức và nguyên tắc phân phối hợp lý hơn.

Khi đất nước chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN, Đảng ta xác định phải thực
hiện nhiều hình thức phân phối. Theo quan điểm của Đảng, một mặt, nền kinh tế Việt
Nam đang tồn tại nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế dựa trên cơ sở một hình thức
sở hữu tư liệu sản xuất nhất định và tương ứng sẽ là một hình thức phân phối. Mặc dù các
thành phần kinh tế ở Việt Nam không tồn tại biệt lập mà đan xen với nhau và hợp thành
một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, nhưng khi còn tồn tại những hình thức sở hữu
khác nhau thì sự phân phối thu nhập cá nhân chưa thể được thực hiện theo một hình thức
thống nhất, mà phải được thực hiện theo nhiều hình thức. Chỉ có nh­ư vậy mới giải phóng
được mọi năng lực sản xuất, khai thác triệt để mọi tiềm năng kinh tế của đất nước nhằm
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, từ đó từng bước củng cố và hoàn thiện quan hệ
sản xuất theo định hướng XHCN. Mặt khác, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
với nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia. Mỗi chủ
thể sản xuất, kinh doanh có phương thức tổ chức sản xuất, kinh doanh khác nhau, tạo nên
tính đa dạng, phong phú của nền kinh tế. Trên cơ sở những phương thức kinh doanh đó,
tồn tại những hình thức phân phối đa dạng, như phân phối theo tài sản; phân phối dựa
trên các nguồn lực góp vào sản xuất, kinh doanh, như­ vốn, kinh nghiệm tổ chức quản lý
sản xuất, lao động, trí tuệ, tài năng, cổ phần,...

Đáng chú ý, nền KTTT ở Việt Nam có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Theo cơ chế này, các yếu tố của đầu vào và đầu ra của sản xuất phải được phân phối qua
thị trường, thông qua các hình thức, nguyên tắc của thị trường. Điều đó cũng góp phần
hình thành phương thức phân phối với nhiều hình thức đa dạng. Các hình thức phân phối
cơ bản được Đảng ta xác định đó là “thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và
phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”(8). Đây là sự quán triệt sâu
sắc nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể và phát triển trong thực hiện CBXH
nói riêng, quá trình giải quyết các vấn đề xã hội nói chung của Đảng. Quan điểm này
hoàn toàn đúng đắn về mặt lý luận, phù hợp với thực tiễn và điều kiện khách quan của
Việt Nam, thể hiện bước phát triển mới về chất trong nhận thức của Đảng về thực hiện
CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.

Bởi trên thực tế, hình thức phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế có tác dụng thúc
đẩy mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm và thái độ lao động, củng cố kỷ luật lao
động, tích cực rèn luyện tay nghề, nâng cao hiệu quả và tăng năng suất lao động. Trên cơ
sở đó, góp phần nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của người lao động, vừa bảo đảm
tái sản xuất sức lao động, vừa tạo mọi điều kiện cho người lao động phát triển toàn diện.
Nhưng theo quan điểm của Đảng ta, tuy hình thức phân phối này là tiến bộ, công bằng
nhất, cơ bản và chủ yếu nhất, song không phải là duy nhất. Vì, bản thân hình thức phân
phối này cũng đang chứa đựng những mâu thuẫn, hạn chế chưa giải quyết được một cách
triệt để, nhất là khi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ quá độ. Điều này
chính bản thân C. Mác trước đây đã từng chỉ rõ: “Với một công việc ngang nhau và do đó,
với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này
vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia, v.v.”(9). Đó vừa là ưu
việt, vừa là thiếu sót của nguyên tắc phân phối theo lao động - một thiếu sót mà theo C.
Mác, là không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa(10).

Hơn nữa, do cơ chế thị trường ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành, phát triển cho
nên vẫn còn có những hiện tượng ở không ít ngành, nghề lao động giản đơn lại có thu
nhập lớn hơn, cao hơn nhiều lần lao động phức tạp; nhiều lĩnh vực lao động trí óc lại
hưởng thụ thấp hơn lao động chân tay; nhiều người ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo chưa được hưởng phúc lợi xã hội như ở các trung tâm, các thành phố lớn,...

Bên cạnh đó, những đóng góp khác không phải trong hoạt động kinh tế, trong lĩnh vực
sản xuất vật chất, nhất là những đóng góp trong lĩnh vực xã hội cũng cần được quan tâm,
tính đến để bảo đảm cho người cống hiến chân chính được hưởng quyền lợi tương xứng.
Vì vậy, Đảng ta cho rằng, cần kết hợp phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực
khác vào kết quả sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua các quỹ an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội, nhằm bảo đảm mức bình đẳng có thể cho những nhóm người dễ bị tổn
thương và yếu thế trong xã hội, đặc biệt là với những người tàn tật, già yếu, cô đơn, các
gia đình thương binh, liệt sĩ, những dân tộc ở vùng cao, vùng xa, vùng sâu, những gia
đình có công với cách mạng,... Có như vậy mới thực hiện được CBXH đúng nghĩa trên
thực tế; đồng thời, thể hiện rõ bản chất của chủ nghĩa xã hội và truyền thống nhân văn,
nhân đạo, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của dân tộc Việt Nam.

Cũng theo quan điểm của Đảng, bảo đảm công bằng trong phân phối phải được hiểu theo
nghĩa rộng hơn, thực chất hơn; đó không chỉ giản đơn là công bằng trong phân phối của
cải vật chất, kết quả sản xuất hay chỉ thuần túy từ phương diện kinh tế,... mà cốt lõi của
vấn đề là sự công bằng trong phân phối về tư liệu sản xuất, trong các mặt, các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội, như văn hóa, khoa học, giáo dục, y tế,... tạo cơ hội và điều kiện
cho mỗi người phát triển toàn diện năng lực cá nhân. “Công bằng xã hội phải thể hiện ở
cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc
tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của
mình”(11). Và, phải quan tâm “xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai
tầng xã hội;... giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc, những mâu thuẫn có
thể dẫn đến xung đột xã hội... quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế
trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu
hướng gia tăng phân hóa giàu - nghèo”(12).

Từ khi đổi mới đến nay, qua các kỳ đại hội Đảng, qua nhiều hội nghị Trung ương Đảng,
trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng ở mỗi giai đoạn, mỗi thời điểm lịch sử tuy hình
thức thể hiện và cách thức diễn đạt có khác nhau, nhưng xuyên suốt và nhất quán trong
đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng nhận thức đúng đắn và
giải quyết hài hòa vấn đề CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN. Qua đó, đánh
dấu bước phát triển vượt bậc trong lý luận và thực tiễn lãnh đạo công cuộc đổi mới của
Đảng, góp phần quan trọng vào thành tựu chung của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Quan điểm của Đảng về CBXH trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là kết
quả của quá trình Đảng ta nhận thức và vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; đồng thời, luôn bám sát sự vận
động, phát triển của thực tiễn đất nước, tích cực tham khảo kinh nghiệm của các nước
trên thế giới; thực hiện tốt việc kết hợp giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn đổi
mới.

Ngày nay, yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới toàn diện và đồng bộ đất nước,
cũng như quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam,... đòi hỏi lý
luận của Đảng về CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN không chỉ đúng đắn,
sáng tạo mà còn có sự đột phá và hiệu quả cao hơn nữa./.

Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ

Cơ chế là sự vận hành tổng hợp của các yếu tố trong một sự vật theo một nguyên tắc nhất
định, để sự vật đó tồn tại và phát triển đúng như bản chất vốn có của nó. Sự vận hành cơ
chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là bảo đảm mở rộng và thực
thi có hiệu quả nền dân chủ XHCN, làm cho mọi quyền lực xã hội đều thuộc về nhân dân.

Nhân dân làm chủ - yếu tố trung tâm của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”. Tầm quan trọng đặc biệt của yếu tố này biểu hiện ở chỗ: quyền lực của
Đảng và Nhà nước đều từ quyền lực của nhân dân. Trong lịch sử Việt Nam và thế giới,
đã có tư tưởng đặt lên hàng đầu vai trò của nhân dân trong cấu tạo quyền lực nhà nước và
quyền lực xã hội. Trần Hưng Đạo (thế kỷ 13) khẳng định: “khoan thư sức dân” là “kế sâu
rễ bền gốc”. Nguyễn Trãi (thế kỷ 15) cho rằng: chở thuyền và lật thuyền đều do dân. Các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin khẳng định rõ: cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm: cách mạng là sự nghiệp
chung của cả dân chúng Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) là do dân lập
nên để phục vụ nhân dân. Đầu năm 1946, khi trả lời các nhà báo nước ngoài về chức vụ
Chủ tịch của mình, Người khẳng định: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú
quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải gắng
sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao
giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi vui lòng lui”1.

ĐCSVN ra đời, tồn tại, phát triển không vì mục đích tự thân mà vì giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và toàn dân tộc. Điều này được thể hiện rõ trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng của Đảng. Tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “ĐCSVN là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc”2. Mục đích duy nhất của ĐCSVN là đấu tranh giành độc lập dân
tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu mạnh, đồng bào được sống trong tự do,
ấm no, hạnh phúc. Theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng, ngay từ bản
Hiến pháp đầu tiên năm 1946 cũng như các bản Hiến pháp sau này (1959, 1980, 1992),
cấu tạo quyền lực Nhà nước và xã hội của nước ta đều thể hiện rõ: tất cả mọi quyền lực
đều thuộc về nhân dân. Nhờ vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn phát huy được sức mạnh của
mọi tầng lớp nhân dân để tiến hành đấu tranh giành và giữ vững độc lập, tự do của dân
tộc và ngày nay đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN. Tuy nhiên, trong thực tế, có lúc, có nơi vai trò làm chủ của nhân dân
vẫn còn mờ nhạt. Việc nhân dân tham gia xây dựng Đảng chưa được nhiều, hiệu quả
chưa cao, nhất là việc góp ý kiến, giám sát, kiểm định đường lối, chủ trương của Đảng
cũng như đối với cán bộ, đảng viên nơi công tác và nơi cư trú. Nhân dân thực hiện quyền
dân chủ trực tiếp trong lựa chọn, bầu đại biểu Quốc hội và Quốc hội cấu tạo các cơ quan
Nhà nước để thay mặt mình quản lý xã hội, mới chủ yếu thông qua hiệp thương; trong
thực tế ở một số nơi, quyền làm chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm nghiêm trọng... Đây
chính là vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta cần phải nghiên cứu, giải quyết, nhằm phát huy
tốt hơn nữa vai trò làm chủ của nhân dân.

Đảng lãnh đạo - yếu tố tiên quyết đảm bảo cho sự vận hành cơ chế có hiệu quả. Vai trò
lãnh đạo của Đảng không tự nhiên mà có và không phải cứ tự nhận mà được. Vai trò đó
đã được thử thách, kiểm nghiệm trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước
trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Nhân dân Việt Nam thừa nhận, tin tưởng trao cho Đảng vai trò lãnh đạo toàn xã hội và
dân tộc.

Tuy nhiên, hiện nay, Đảng đang đứng trước nhiều thách thức, nguy cơ phải vượt qua.
Đảng ta là Đảng cầm quyền; Đảng không chấp nhận đa nguyên chính trị và đa đảng đối
lập là quyết định hoàn toàn đúng đắn. Để đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng hoàn toàn
phù hợp yêu cầu của đất nước, cần có nhiều yếu tố, trong đó vai trò phản biện xã hội là
hết sức quan trọng. Bởi lẽ, nếu không có sự phản biện xã hội sẽ dễ dẫn đến sự chủ quan,
duy ý chí; đường lối chính trị dễ bị sai lầm; hành động thực tế dễ bị độc đoán, làm mất
dân chủ trong xã hội và không bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, không bảo
đảm và phát huy tốt vai trò quản lý của Nhà nước. Cùng với đó, Đảng phải phòng và
chống nguy cơ thoái hoá, biến chất và chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực
thù địch. Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “Thoái hoá, biến chất về chính trị, tư tưởng, về
đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi,
nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai,
quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý tài chính, làm giảm lòng tin của nhân dân đối
với Đảng. Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”3. Nói
tham nhũng, lãng phí, quan liêu xảy ra nghiêm trọng; nhưng ai là người tham nhũng? Chỉ
có những người có chức, có quyền, những cán bộ, đảng viên nắm trong tay của cải, tiền
bạc của Nhà nước mới có khả năng tham nhũng... Đảng ta đã nhận thức được vấn đề đó;
bởi vậy, trong Báo cáo về công tác xây dựng Đảng (của Đại hội X) Đảng ta đã nhận định:
“vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”4. Đó là tình
trạng đáng báo động, ảnh hưởng trực tiếp đến sự lãnh đạo của Đảng. Nguy cơ Đảng bị
suy yếu còn biểu hiện ở chỗ: có lúc, có nơi lòng tin của nhân dân đối với Đảng bị suy
giảm; vai trò, chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước đang
có biểu hiện lệch chuẩn...

Sự lãnh đạo của Đảng hơn 80 năm qua đã đảm bảo cho dân tộc ta giành được những
thành tựu vô cùng to lớn; nhưng, những thành tựu đó có thể không còn ý nghĩa, nếu Đảng
bị suy thoái và không còn giữ được vai trò lãnh đạo đối với dân tộc; khi đó mọi thành quả
cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã giành được bằng bao xương, máu, mồ hôi và nước
mắt, phút chốc sẽ đổ xuống sông, xuống biển; lúc đó, cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ” cũng bị tiêu tan. Đây là lý do để khẳng định: Đảng đóng vai
trò tiên quyết cho sự tồn tại, vận hành có hiệu quả của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”.

Nhà nước quản lý - yếu tố quyết định trực tiếp sự thành công trong vận hành cơ chế. Nhà
nước của chúng ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để bảo đảm và phát huy
vai trò quản lý của Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền? Về lý luận,
trong nhà nước pháp quyền thì pháp luật chiếm vị trí, vai trò tối thượng đối với mọi mặt
của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, do tính chất XHCN, Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng thì có mâu thuẫn với nhà nước pháp quyền không? Câu trả lời là không! Bởi lẽ, bên
cạnh lãnh đạo đất nước thông qua cương lĩnh, chủ trương, đường lối; sự lãnh đạo của
Đảng đối với xã hội có nhiều nội dung được thể chế hoá qua hoạt động của Nhà nước.
Trong công tác cán bộ, Đảng thống nhất lãnh đạo, quản lý công tác cán bộ của cả hệ
thống chính trị. Điều đó là hoàn toàn phù hợp; bởi vì, ĐCSVN là Đảng cầm quyền, là hạt
nhân, là cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Tuy nhiên, để hoàn thành trọng trách đó,
Đảng phải không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, vừa bảo đảm sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng, vừa bảo đảm cho Nhà nước hoạt động theo đúng chức năng của mình;
trong đó, mọi công dân, mọi tổ chức và bản thân Đảng phải hoạt động theo đúng khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật; Điều lệ, nghị quyết của Đảng phải đúng với Hiến pháp và
pháp luật.

Để cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” vận hành có hiệu quả,
đòi hỏi Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó chặt chẽ với nhân dân. Nhân
dân là yếu tố trung tâm của mọi quyền lực, là cội nguồn của mọi sức mạnh. Vì vậy, mọi
biểu hiện xa dân, coi thường dân, ức hiếp dân, gây phiền phức cho dân... đều là những
biểu hiện của quá trình Đảng tự suy yếu, làm lỏng lẻo, thậm chí phá vỡ cơ chế “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Cùng với đó, Nhà nước phải làm tốt
chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong xã hội hiện đại, Nhà nước còn làm các
dịch vụ xã hội để giữ ổn định chính trị-xã hội và làm cho xã hội phát triển bền vững.
Đảng lãnh đạo Nhà nước; đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ chủ chốt hầu hết là
đảng viên, đều chịu sự quản lý của các tổ chức Đảng tương ứng. Nhưng không vì thế mà
Nhà nước hoạt động một cách thụ động; Nhà nước mạnh thì Đảng cầm quyền mới mạnh,
và ngược lại; Nhà nước mạnh thì quyền làm chủ của nhân dân mới được bảo đảm và phát
huy. Nhà nước và hoạt động của nó ngày càng nhận được sự ủng hộ của mọi tầng lớp
nhân dân thì hiệu quả hoạt động càng cao, xã hội càng thể hiện tính chất dân chủ...

Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN với nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn, thách thức. Để tiếp tục vận hành
có hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, Đảng và Nhà
nước cần tập trung thực hiện tốt những vấn đề cơ bản sau đây:

Trước hết, cần thể chế hoá bằng pháp luật mọi chủ trương, đường lối của Đảng, tạo cơ sở
để thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Hiến pháp
năm 1992 đã xác định rõ: Đảng là thành viên và đồng thời là hạt nhân của hệ thống chính
trị, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội; Đảng hoạt động trong khuôn khổ của
Hiến pháp và pháp luật... Theo đó, trong các văn bản quy phạm pháp luật, cần quy định
rõ ràng, cụ thể chức năng, nhiệm vụ của Đảng cầm quyền cũng như của từng chức danh
cán bộ của Đảng trong xã hội. Điều này cũng phù hợp với việc Đảng đề ra Điều lệ và các
quy định của tổ chức đảng và mọi đảng viên; tất nhiên những quy định đó phải phù hợp
với Hiến pháp và pháp luật. Cùng với đó, Đảng cần phải làm tốt công tác quản lý tổ chức
Đảng và đảng viên; mọi đảng viên, bất kể giữ chức vụ, cương vị gì trong bộ máy của hệ
thống chính trị đều phải thực hiện nghiêm pháp luật. Chỉ có như vậy, mới bảo đảm cho
Đảng vừa không buông lỏng lãnh đạo, vừa không lạm quyền, bao biện, làm thay chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội
khác.
Thứ hai, phải tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp thể hiện quyền làm chủ trong hoạt
động của Đảng và Nhà nước. Cương lĩnh năm 1991 nêu rõ: chúng ta xây dựng một “Xã
hội do nhân dân làm chủ”. Để thực hiện được điều đó, cần tạo ra nhiều “kênh” để nhân
dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình, như: góp ý vào các quyết sách của Đảng,
vào công tác cán bộ... Cùng với đó, Đảng cần tổ chức nhiều đợt lấy ý kiến của nhân dân;
qua đó, làm cho nhân dân ta giác ngộ hơn nữa về chính trị, phát huy quyền làm chủ về
chính trị của mình đối với các vấn đề trọng đại của đất nước. Có thể thí điểm, dần dần và
tiến tới đại trà, việc quy định để nhân dân trực tiếp bầu các chức danh lãnh đạo của Nhà
nước. Dân có quyền bãi miễn (theo thủ tục đơn giản nhất) những đại biểu do mình bầu ra
khi thấy đại biểu đó không còn đủ tư cách và không hoàn thành nhiệm vụ. Đó cũng chính
là cách thức để thực hiện có hiệu quả phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, giám sát và quản lý mọi hoạt động của xã hội.

Thứ ba, cần xác định thật rõ những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có thể nêu lên ở đây một số nội dung cơ bản
cần phải quy định rõ, như: Nhà nước quản lý xã hội dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp
luật; mọi hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội (kể cả tổ chức đảng) đều phải tuân
thủ theo Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước phải chịu sự lãnh đạo của Đảng và sự lãnh
đạo ấy phải được thể chế bằng luật định. Cấu tạo quyền lực của Nhà nước cũng như hoạt
động của nó phải bảo đảm tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân; nhân dân có
quyền kiểm soát Nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu do mình bầu ra, nếu đại
biểu đó mất tư cách và không làm tròn nhiệm vụ; Nhà nước tôn trọng và khuyến khích sự
hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội theo đúng luật định; Nhà nước có chức năng
quản lý xã hội; đồng thời, có chức năng tổ chức các dịch vụ xã hội nhằm đáp ứng, chăm
lo tất cả mọi yêu cầu của nhân dân. Đây chính là sự biểu hiện rõ ràng nhất vai trò: “Nhà
nước của dân, do dân, vì dân”; đồng thời, cũng là điểm biểu hiện rõ ràng tư cách “Nhân
dân làm chủ” trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là sản phẩm tất yếu của
lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, đảm bảo cho sự thành công của công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Xây dựng, hoàn thiện và phát huy đầy đủ cơ
chế đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, mà trước hết là của cấp
uỷ, chính quyền các cấp.

You might also like