You are on page 1of 10

TÀI LIỆU ĐỌC TUẦN 1

1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC


1.1 Khái quát về kiểm tra, đánh giá trong giáo dục
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1 Đo lường (measurement)
Đo lường là khái niệm chung để chỉ sự so sánh một vật hay một hiện tượng với
một thước đo hoặc chuẩn mực và có khả năng trình bày kết quả về mặt định lượng.
Trong giáo dục, một bộ thước đo có thể bao gồm các tiêu chí và các chỉ số ứng với các
lĩnh vực. Các dữ liệu có thể là chỉ số định lượng (đo được bằng các con số, số liệu, xếp
loại), cũng có thể là định tính (bằng mô tả, nhận xét của người đánh giá). Nói cách khác,
đo lường liên quan đến việc sử dụng các con số vào quá trình lượng hoá các sự kiện,
hiện tượng hay thuộc tính. Đối lượng đo lường trong giáo dục không giống như trong
các khoa học tự nhiên; đó là con người – chủ thể có ý thức, bị chi phối bởi cảm xúc,
hoàn cảnh do vậy thường khó đo lường trực tiếp và chính xác.
1.1.1.2 Trắc nghiệm (test)
Trắc nghiệm là một kiểu đo lường có sử dụng những kỹ thuật cụ thể, có tính hệ
thống nhằm thu thập thông tin và chuyển hoá những thông tin này thành các con số
hoặc điểm số để lượng hoá cái cần đo.
Trong trắc nghiệm có những câu hỏi, đề mục (gọi là item) hay những tình huống
phải giải quyết, những phương án phải lựa chọn hay những nhiệm vụ phải hoàn thành.
Kèm theo đó là những hướng dẫn về cách làm và cho điểm thống nhất cho từng câu trả
lời. Trắc nghiệm có thể được thiết kế dưới dạng ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ, dưới dạng
khách quan hay chủ quan. Câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn một phương
án đúng (A B C D) chỉ là một trong nhiều hình thức trắc nghiệm.
1.1.1.3 Kiểm tra (testing)
Kiểm tra là quá trình xem xét, tổ chức thu thập thông tin và gắn với đo lường để
đưa các kết quả xác định xem cái gì đã đạt được, cái gì chưa đạt được, những nguyên
nhân ảnh hưởng, chi phối. Quá trình kiểm tra cho phép làm rõ những đặc trưng về số
lượng và chất lượng của thực trạng giáo dục. Trong dạy học, kiểm tra là kĩ thuật thu
thập thông tin về hoạt động học của học sinh; những thông tin này được so sánh với
một chuẩn nhất định để đánh giá hoạt động học.
Kiểm tra và đánh giá là hai hoạt động đan xen nhằm miêu tả và tập hợp những
bằng chứng về kết quả của quá trình giáo dục để đối chiếu với mục tiêu. Kiểm tra luôn
gắn với đánh giá. Trong thực tế, có thể tiến hành thu thập các thông tin nhưng không
đánh giá. Tuy nhiên, để đánh giá được cần tiến hành kiểm tra, tức là phải tiến hành thu
thập các thông tin, những thông tin thu được sẽ là căn cứ cho đánh giá.
1.1.1.4 Đánh giá (assessment)
Đánh giá là một khâu quan trọng, không thể tách rời của quá trình giáo dục. Nếu
coi giáo dục là một hệ thống thì đánh giá đóng vai trò phản hồi của hệ thống. Đánh giá

1
có vai trò tích cực giúp hiểu biết và đưa ra được các quyết định cần thiết về hệ thống,
góp phần đổi mới giáo dục.
Có nhiều quan niệm khác nhau về đánh giá, tuy nhiên, có thể định nghĩa đánh
giá là quá trình tiến hành có hệ thống: thu thập, tổng hợp, và phân tích, xử lí, diễn giải
thông tin về đối tượng cần đánh giá như kiến thức, kĩ năng, phẩm chất, năng lực của
học sinh; kế hoạch bài dạy của giáo viên, chính sách giáo dục của nhà trường… Nó bao
gồm sự mô tả định tính hay định lượng những kết quả đạt được và so sánh với mục tiêu
giáo dục đã xác định. Đánh giá cho phép xác định (định giá) các mục tiêu giáo dục đặt
ra là phù hợp hay không phù hợp? mức độ đạt được mục tiêu giáo dục cũng như tiến
trình thực hiện mục tiêu như thế nào?
Đánh giá trong giáo dục được tiến hành ở nhiều cấp độ khác nhau như: đánh giá
hệ thống giáo dục, đánh giá một nhà trường, một cơ sở giáo dục và đào tạo, đánh giá
hoạt động dạy học và giáo dục của giáo viên, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của
học sinh, đánh giá các thành tố của quá trình giáo dục, dạy học… Sự đánh giá ở mỗi
đối tượng cần phải được xem xét theo những tiêu chuẩn và tiêu chí riêng cho phù hợp.
1.1.1.5 Mối quan hệ giữa đo lường, kiểm tra, đánh giá
- Kiểm tra là quá trình thu thập thông tin về kết quả học tập của người học bằng
nhiều hình thức, công cụ, kĩ thuật khác nhau.
- Đo lường là hoạt động chỉ sự so sánh kết quả học tập ghi nhận được qua kiểm
tra với những tiêu chuẩn, tiêu chí nhất định.
Như vậy, giữa đo lường, kiểm tra, đánh giá có mối quan hệ gắn kết với nhau. Đánh giá
phải dựa trên cơ sở kiểm tra và đo lường, còn kiểm tra và đo lường là để phục vụ cho
việc đánh giá. Nói cách khác, có thể coi đánh giá là một quá trình và kiểm tra, đo lường
là một khâu của quá trình đó.
Bởi vì, kiểm tra là để đánh giá; đánh giá dựa trên cơ sở của kiểm tra nên đôi khi
người ta sử dụng cụm từ ghép: “kiểm tra – đánh giá”, “kiểm tra đánh giá”, “kiểm tra,
đánh giá”.
1.1.2 Vai trò của kiểm tra, đánh giá trong giáo dục
1.1.2.1 Đánh giá – bộ phận không thể tách rời quá trình dạy học
Kiểm tra, đánh giá là một khâu quyết định, không thể tách rời của quá trình dạy
học, là động lực thúc đẩy sự đổi mới không ngừng của quá trình dạy và học. Thông qua
kiểm tra, đánh giá, giáo viên thu được những thông tin ngược từ học sinh, phát hiện
điểm được và chưa được ở kết quả học tập hiện thời của học sinh cũng như những
nguyên nhân cơ bản dẫn tới thực trạng kết quả đó. Đó là cơ sở thực tế để giáo viên điều
chỉnh hoạt động dạy, qua đó hướng dẫn, hỗ trợ học sinh điều chỉnh hoạt động học của
bản thân.
Kiểm tra, đánh giá nếu được tiến hành thường xuyên, hiệu quả thì giúp cho học
sinh củng cố tri thức, phát triển trí tuệ và điều chỉnh cách học; dần hình thành nhu cầu,
thói quen tự kiểm tra – đánh giá, nâng cao trách nhiệm học tập, bồi dưỡng tính tự giác,
ý chí vươn lên.
1.1.2.2 Đánh giá - công cụ hành nghề quan trọng của giáo viên
Giáo viên là người trực tiếp tác động tạo ra những thay đổi ở người học nhằm
đạt được mục tiêu giáo dục. Muốn xác định người học – đối tượng của quá trình giáo

2
dục đáp ứng như thế nào so với mục tiêu giáo dục đã đề ra thì người giáo viên phải tiến
hành kiểm tra, đánh giá. Kết quả kiểm tra, đánh giá thu được trên cơ sở tổng hợp từ
nhiều nguồn thông tin (do sử dụng đa dạng các loại hình kiểm tra, đánh giá) có ý nghĩa
rất quan trọng để đi đến những dự báo về năng lực học tập, nhận định về điểm mạnh,
điểm yếu của học sinh, quyết định đánh giá/định giá khách quan, điều chỉnh kịp thời
nội dung, phương pháp giáo dục.
1.1.2.3 Đánh giá - bộ phận quan trọng của quản lý chất lượng dạy và học
Bản chất của kiểm tra, đánh giá là cung cấp thông tin nhằm xác định xem mục
tiêu của chương trình giáo dục đạt được hay chưa, mức độ đạt được thế nào… Các thông
tin khai thác được từ kết quả kiểm tra, đánh giá sẽ rất hữu ích cho các nhà quản lí, cho
giáo viên, giúp họ giám sát quá trình giáo dục, phát hiện các vấn đề, đưa ra quyết định
kịp thời về người học, về người dạy, về chương trình và điều kiện thức hiện chương
trình…để đạt được mục tiêu.
Kiểm tra, đánh giá luôn được xem là phương thức quan trọng để giám sát, quản
lí con người trong một lớp học và trong tổ chức vận hành nhà trường.
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xác định
đổi mới kiểm tra, đánh giá là khâu đột phá nhằm thúc đẩy các hoạt động khác như đổi
mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, đổi mới công tác quản lý giáo dục …
nhằm thực hiện thành công Chương trình giáo dục phổ thông 2018.
1.1.3 Chức năng của đánh giá trong giáo dục
1.1.3.1 Chẩn đoán các vấn đề của người học
Thông qua đánh giá, giáo viên phát hiện sớm các khó khăn trong học tập của lớp
học và số ít học sinh có vấn đề về nhận thức hoặc hành vi. Xác định được những vấn
đề này, giáo viên lưu ý quan sát để đưa ra các phản hồi phù hợp, nếu cần thì tiến hành
các hoạt động giúp đỡ riêng, kịp thời để học sinh khắc phục khó khăn, điều chỉnh cách
học và tiến bộ.
1.1.3.2 Xác nhận kết quả học tập của người học
Đánh giá cung cấp những số liệu để xác định mức độ mà người học đạt được các
mục tiêu học tập, làm căn cứ cho những quyết định phù hợp: thừa nhận hay bác bỏ sự
hoàn thành chương trình học, môn học, khoá học đi đến quyết định là cấp bằng, chứng
chỉ, chứng nhận hoặc xét lên lớp. Chức năng này có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt,
đặc biệt là về mặt xã hội. Đánh giá xác nhận bộc lộ tính hiệu quả của quá trình giáo dục
– đào tạo.
Việc đánh giá này đòi hỏi phải thiết lập ngưỡng trình độ tối thiểu và xác định đúng
vị trí kết quả học tập của học sinh so với ngưỡng này, từ đó đòi hỏi người học phải đạt
được mức độ tối thiểu các mục tiêu đã xác định. Kết quả đánh giá xác nhận có thể được
đối chiếu với các kết quả đánh giá định kì trước đó. Sự quan sát này không chỉ để xác
định quá trình tiến triển và xu hướng chung của thành tích mà còn để chứng minh cho
quá trình giáo dục có hiệu quả hoặc chưa có hiệu quả, còn thiếu sót ở mặt nào.
Ngoài ra, đánh giá có thể giúp xếp loại học sinh theo mục đích nào đó (tuyển sinh
đại học, tuyển chọn đội tuyển học sinh giỏi, trao học bổng…). Với mục đích này, một
ngưỡng tối thiểu nào đó cần vượt qua không quan trọng bằng sự đối chiếu giữa các học

3
sinh với nhau. Yếu tố này tạo ra sự cạnh tranh, áp lực rất lớn trong các kì thi có tính
phân loại.
1.1.3.3 Hỗ trợ hoạt động học tập cho người học
Đánh giá thực hiện chức năng hỗ trợ là chẩn đoán, điều chỉnh để hỗ trợ việc học
tập, giúp quá trình dạy học có hiệu quả. Nói cách khác, kiểm tra, đánh giá sẽ cung cấp
các thông tin ngược một cách kịp thời về việc học tập của người học, giúp người học
điều chỉnh cách học cho phù hợp.
Đánh giá hỗ trợ cho học tập đòi hỏi giáo viên và học sinh cùng tham gia tổ chức
để đảm bảo sự thành công của quá trình dạy học. Các hoạt động kiểm tra với chức năng
hỗ trợ có tính chất chẩn đoán, điểm kiểm tra1 là thứ yếu; điều cơ bản là phải xác định
được những thiếu sót trong hiểu biết, kĩ năng và nhận thức ở người học để có căn cứ
giúp đỡ họ khắc phục và tiến bộ hơn so với chính họ.
1.1.3.4 Điều chỉnh hoạt động giảng dạy của người dạy
Thông qua đánh giá, giáo viên dự báo2 khả năng của học sinh có thể đạt được
trong quá trình học tập, đồng thời xác định những điểm mạnh và yếu của học sinh trong
học tập; làm cơ sở cho việc bồi dưỡng năng khiếu; giúp cho giáo viên lựa chọn tiếp cận,
phương pháp giáo dục phù hợp với lớp học sinh và từng học sinh (giáo dục phân hóa);
đồng thời giúp học sinh lựa chọn hình thức, phương pháp và tài liệu học tập phù hợp.
Đánh giá giúp tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của bài học, tìm ra nguyên nhân ở kế
hoạch bài dạy (mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học…), ở
nghiệp vụ sư phạm của giáo viên hoặc ở ý thức, nhận thức của học sinh…và từ đó điều
chỉnh hoạt động dạy và học nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học.

1.2 Loại hình, quy trình, nguyên tắc đánh giá trong giáo dục
1.2.1 Các loại hình đánh giá trong giáo dục
Dựa vào các đặc điểm khác nhau như: mục đích, đối tượng, cấp độ, phạm vi, thời
điểm đánh giá; vị trí của người đánh giá, đặc tính của câu hỏi…, có nhiều cách phân
loại các loại hình đánh giá trong giáo dục. Sau đây là một số loại hình cơ bản:
1.2.1.1 Đánh giá quá trình và đánh giá tổng kết
Xét theo tính liên tục và thời điểm đánh giá thì đánh giá trong giáo dục thường
được chia thành đánh giá quá trình và đánh giá tổng kết.
a) Đánh giá quá trình (formative assessment)
Đánh giá quá trình (còn gọi là đánh giá thường xuyên, đánh giá hình thành) là một
bộ phận không thể thiếu của quá trình dạy học; đóng góp cho việc học tập bằng cách
đưa ra những phản hồi kịp thời, chủ yếu bằng nhận xét: chỉ ra cái gì học sinh làm được
và chưa làm được. Giáo viên thực hiện đánh giá quá trình ngay trong quá trình dạy

1
“Kiểm tra” có nhiều phương pháp đa dạng và linh hoạt như quan sát, hỏi đáp, giao nhiệm vụ…chứ không
giới hạn ở bài kiểm tra viết.
2
Nghiên cứu hồ sơ học sinh là một cách để hiểu biết về học sinh, dự đoán triển vọng của học sinh, tuy
nhiên có thể tạo ra ấn tượng ban đầu chưa thật chính xác. Do vậy, cần thận trọng khi dung thông tin cũ để lập kế
hoạch giáo dục.

4
học, ở hầu hết các hoạt động học tập hằng ngày (tìm hiểu, lĩnh hội tri thức mới; luyện
tập, củng cố và vận dụng kiến thức) nhằm kịp thời điều chỉnh hoạt động của cả giáo
viên và học sinh, thúc đẩy học sinh cố gắng, tích cực học tập một cách liên tục, có hệ
thống, góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học. Việc đánh giá trở nên ý nghĩa
và phù hợp hơn khi người học cùng tham gia đánh giá chính bản thân mình trong quá
trình học tập.
b) Đánh giá tổng kết (summative assessment)
Đánh giá tổng kết (còn gọi là đánh giá định kì, đánh giá kết quả) là loại hình đánh
giá do giáo viên thực hiện, có tính tổng hợp nhằm cung cấp thông tin, chủ yếu bằng
điểm số về sự đáp ứng mục tiêu, yêu cầu cần đạt của học sinh sau khi kết thúc một
giai đoạn học tập (một chủ đề, một học kì học tập môn học hoặc một chương trình giáo
dục). Qua đó, công nhận người học đã hoàn thành hoặc không hoàn thành một giai đoạn
học tập và so sánh các học sinh trong cùng nhóm đối tượng nhằm xếp loại người học.
1.2.1.2 Đánh giá trên lớp học, đánh giá dựa vào nhà trường, và đánh giá diện rộng
Căn cứ vào phạm vi đối tượng đánh giá (học sinh), có thể phân chia hệ thống đánh
giá trong giáo dục phổ thông thành 03 loại là: đánh giá trên lớp học, đánh giá dựa vào
nhà trường và đánh giá trên diện rộng.
a) Đánh giá trên lớp học (classroom assessment)
Đánh giá trên lớp học là loại hình đánh giá trong phạm vi lớp học (đánh giá thường
xuyên), do mỗi giáo viên thực hiện trong mỗi bài học, có thể kết hợp với đánh giá của
cha mẹ học sinh, của bản thân học sinh được đánh giá và của các học sinh khác nhằm
trả lời các câu hỏi:
- Từng học sinh đã học tập như thế nào?
- Học sinh đã đạt được các mục tiêu, yêu cầu cần đạt của bài học hay chưa?
- Lớp có hài lòng về bài dạy của giáo viên hay không?
Từ đó, giáo viên điều chỉnh hoạt động dạy, học sinh điều chỉnh phương pháp học
để nâng cao kết quả học tập. Đánh giá trên lớp học cần những công cụ đơn giản, thiết
thực, đa dạng gắn với quá trình học tập và sự tiến bộ học tập của học sinh; đây không
phải là các công cụ trắc nghiệm được chuẩn hóa và khảo sát quy mô lớn.
b) Đánh giá dựa vào nhà trường (school-based assessment)
Đánh giá dựa vào nhà trường là loại hình đánh giá trong phạm vi một trường học,
do ban giám hiệu chủ trì và các tổ nhóm chuyên môn tiến hành đối với tất cả học sinh
trong nhà trường. Loại hình này không chỉ quan tâm đến kết quả bài kiểm tra định kì
năng lực học tập môn học, mà còn quan tâm đến sự phát triển phẩm chất học sinh. Kết
quả đánh giá dựa vào nhà trường phục vụ công tác quản lí các hoạt động dạy học (so
sánh chất lượng dạy học giữa các lớp, đánh giá giáo viên); đánh giá, phát triển chương
trình nhà trường (khung phân phối thời gian, phương pháp dạy học/đánh giá, học liệu,
thiết bị…) và bảo đảm chất lượng ở cơ sở giáo dục nói chung.
c) Đánh giá trên diện rộng (broad assessment)
Đánh giá trên diện rộng là loại hình đánh giá do các nhà quản lý giáo dục cấp quốc
gia hoặc địa phương chủ trì và tiến hành thống nhất với số lượng rất lớn học sinh ở các
cấp huyện, tỉnh, quốc gia, quốc tế. Mục đích chính của đánh giá trên diện rộng là cung

5
cấp những thông tin đáng tin cậy phục vụ công tác quản lí các hoạt động dạy học, xây
dựng chính sách giáo dục quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục. Công cụ chủ yếu
dùng cho đánh giá trên diện rộng là đề kiểm tra, phiếu hỏi được các chuyên gia đánh
giá chuẩn bị công phu theo các chuẩn mực xác định; có thể bổ sung thêm cả công cụ
quan sát khi đánh giá năng lực thực hiện của một nhóm đối tượng nào đó. Đối tượng
khảo sát trong loại hình đánh giá này gồm học sinh và các bên liên quan (hiệu trưởng,
giáo viên, cha mẹ học sinh...).
1.2.1.3 Đánh giá cá nhân và đánh giá nhóm
Việc đánh giá có thể được thực hiện riêng biệt cho một học sinh (đánh giá cá nhân)
hoặc cho một nhóm học sinh (đánh giá tiến hành theo nhóm).
a) Đánh giá cá nhân (individual assessment)
Thông tin kiểm tra, đánh giá trên cá nhân được thu thập từ các điều kiện chính
thức hoặc từ quan sát của giáo viên khi giao tiếp với cá nhân học sinh. Ví dụ, các thang
đánh giá chuẩn hóa như Thang đánh giá trí thông minh dành cho trẻ em của Wechsler
(WISC-IV) đòi hỏi phải đánh giá cá nhân. Đặc điểm và cũng là lợi thế của đánh giá cá
nhân là một người đánh giá một người; như vậy có nhiều cơ hội để người đánh giá quan
sát hoặc phỏng vấn sâu học sinh. Ví dụ, người đánh giá có thể quan sát được mức độ
tập trung chú ý của học sinh; khả năng lắng nghe, diễn đạt; mức độ mất bình tĩnh; kĩ
năng giải quyết vấn đề. Người đánh giá có thể lắng nghe các câu trả lời của học sinh để
hỏi thêm, làm rõ vấn đề và hiểu quá trình tư duy của người học. Tuy nhiên, loại hình
đánh giá cá nhân đòi hỏi người đánh giá hiểu rõ các công cụ và có kinh nghiệm sử dụng
các công cụ này. Ví dụ, thang WISC-IV chỉ có thể do những người được đào tạo có
chứng chỉ/giấy phép mới thực hiện được.
b) Đánh giá nhóm (collective assessment)
Đánh giá nhóm (hay đánh giá theo nhóm) là loại hình đánh giá mà giáo viên thu
thập thông tin của một nhóm học sinh hay một lớp học thông qua bài kiểm tra viết hoặc
trên máy tính; nhiều học sinh làm một công việc cùng một lúc. Đánh giá nhóm thiếu sự
giao tiếp, thấu hiểu từng học sinh. Nếu nội dung đánh giá liên quan đến tập đọc, phát
âm, cảm thụ hay cần phải thuyết trình, hỏi đáp hoặc thực hành với thiết bị, dụng cụ thì
loại hình đánh giá nhóm không phù hợp. Các đánh giá nhóm có thể là không chính thức
hoặc chính thức.
Đánh giá nhóm không chính thức diễn ra thường xuyên trong lớp học, trước tiên
là thông qua quan sát của giáo viên. Ví dụ, khi giáo viên quan sát và nhận thấy lớp bắt
đầu mất tập trung, làm việc riêng, nói leo, nói các vấn đề không liên quan hoặc trầm
lặng, không trả lời được bất kì câu hỏi nào của giáo viên…thì đây chính là giáo viên
đang đánh giá nhóm. Lúc này, giáo viên cần kịp thời điều chỉnh kế hoạch, phương pháp
dạy học.
1.2.1.4 Tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng
a) Tự đánh giá (self-assessment)
Tự đánh giá là quá trình học sinh đánh giá hoạt động học của bản thân theo các
tiêu chí cho trước. Thậm chí, học sinh có thể được tham gia vào quá trình xác định các

6
tiêu chí đánh giá hoạt động học. Tự đánh giá phù hợp với quan điểm dạy học hiện đại
– lấy học sinh làm trung tâm.
Tự đánh giá giúp người học nhận thức sâu sắc hơn về những gì mình đã học, đã
tiến bộ và những gì cần điều chỉnh, cố gắng hơn; biết chịu trách nhiệm trước kết quả
học tập của mình, tự tin hơn về những gì các em có thể làm được. Tuy nhiên cần lưu ý:
không phải lúc nào học sinh cũng có khả năng tự đánh giá.
Tự tự đánh giá làm cho người học nhận thức sâu sắc về bản thân, ý thức được
điểm mạnh, điểm yếu của mình.
b) Đánh giá đồng đẳng (peer-assessment)
Đánh giá đồng đẳng (đánh giá ngang hàng, đánh giá chéo, đánh giá lẫn nhau) là
quá trình người học tham gia vào việc đánh giá hoạt động, sản phẩm học tập của những
học sinh khác theo các tiêu chí xác định. Các tiêu chí này do giáo viên xác định hoặc
cùng học sinh xác định và mô tả bằng những ngôn từ cụ thể, phù hợp với khả năng nhận
thức của học sinh.
Trong bối cảnh lớp học đông, việc học sinh quan sát các bạn trong quá trình học
tập sẽ đưa ra thông tin phong phú, chi tiết hơn là thông tin mà giáo viên thu được khi
đánh giá quá trình/đánh giá trên lớp học. Ngoài ra, qua đánh giá hoạt động, sản phẩm
học tập của bạn, học sinh có thể học hỏi những điểm tốt hoặc rút kinh nghiệm từ những
điểm chưa tốt của bạn; rèn luyện kĩ năng lắng nghe và đưa ra ý kiến; hình thành khả
năng đưa ra các nhận xét khách quan và tự chịu trách nhiệm về những đánh giá của
mình về người khác. Tuy nhiên cần lưu ý: đánh giá đồng đẳng có nhiều nét cảm tính,
phụ thuộc vào năng lực quan sát, thu thập và xử lí thông tin của học sinh.
Tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng nên được diễn ra trong quá trình học tập và
được sử dụng như là một phần của đánh giá quá trình. Tuy nhiên, giáo viên cần lựa
chọn, xây dựng các nhiệm vụ tự đánh giá, đánh giá đồng đẳng phù hợp với học sinh và
điều kiện dạy học cụ thể. Thực hành đánh giá đồng đẳng dưới sự hướng dẫn của giáo
viên là một bước quan trọng tiến tới thói quen tự đánh giá của học sinh – nền tảng của
học tập suốt đời.
1.2.2 Các bước cơ bản của quá trình đánh giá – đánh giá kết quả học tập
Tùy thuộc vào mục đích đánh giá, đối tượng đánh giá, cấp độ và phạm vi đánh giá
mà mỗi loại hình đánh giá sẽ được tiến hành theo các bước cụ thể. Tuy nhiên, đánh giá
kết quả học tập trong nhà trường bao gồm các bước cơ bản sau.
Bước 1. Xác định mục đích đánh giá
Xác định mục đích đánh giá là khâu đầu tiên của một tiến trình đánh giá, đòi hỏi
phải xác định được: Đánh giá kết quả học tập nhằm mục đích gì? Quyết định nào sẽ
được đưa ra sau khi đánh giá (so sánh, lựa chọn hoặc xác định công nhận, hay hỗ trợ
cải tiến học tập)? Từ đó lựa chọn loại hình đánh giá, sử dụng phương pháp, công cụ
đánh giá phù hợp. Như vậy, mục đích đánh giá sẽ làm căn cứ cho các bước tiếp theo
của tiến trình đánh giá.
Bước 2. Xác định các mục tiêu giáo dục cần đạt được
Đó là những hành vi, biểu hiện cụ thể có thể quan sát được, thể hiện ở người học
- người đạt được các mục tiêu giáo dục. Mục tiêu chứa đựng kết quả đã dự kiến trước.
Bước 3. Xác định các phương pháp thu thập bằng chứng
7
Các phương pháp được lựa chọn và sử dụng phải phù hợp với việc đo lường các
mục tiêu đã xác định. Mục tiêu có thể đa dạng và được đo lường, đánh giá bằng các
phương pháp khác nhau. Các phương pháp đánh giá cũng phong phú; mỗi phương pháp
có thể đánh giá tốt một số mục tiêu nhất định. Do vậy, cần hiểu rõ từng phương pháp
và công cụ đánh giá để lựa chọn, sử dụng phù hợp.
Bước 4. Xây dựng/lựa chọn (nếu có sẵn) công cụ đánh giá
Công cụ đánh giá có vai trò quan trọng trong việc đánh giá chính xác kết quả học
tập của học sinh. Nếu chưa có sẵn các công cụ đánh giá thì cần phải xây dựng. Việc xây
dựng các công cụ đánh giá cần tuân thủ quy trình nhất định để đảm bảo độ giá trị và độ
tin cậy của công cụ đánh giá. Việc thông báo rõ các tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá cho
người đánh giá và những đối tượng được đánh giá sẽ đưa đến tính thống nhất, giảm bớt
căng thẳng có thể xảy ra trong quá trình đánh giá.
Bước 5. Thu thập và xử lí thông tin đánh giá
Ở giai đoạn này, cần vận dụng các công cụ và kĩ thuật để thu thập thông tin định
tính và định lượng phù hợp với mục đích, đối tượng đánh giá và mục tiêu giáo dục cần
đạt. Sau khi thu thập, cần xử lí thông tin đó; đối chiếu với các tiêu chuẩn, tiêu chí đã
xác định ban đầu để đưa đến kết luận. Đây là giai đoạn phức tạp, cần chú trọng để đảm
bảo tính khách quan và chính xác.
Bước 6. Kết luận và đưa ra những quyết định
Là công đoạn cuối cùng của quá trình đánh giá. Kết luận chính xác là cơ sở để đưa
ra những quyết định phù hợp, có tác dụng xác nhận hay điều chỉnh nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả của hoạt động học tập. Người đưa ra quyết định có thể là người tham
gia trực tiếp vào quá trình đánh giá nhưng cũng có thể không tham gia trực tiếp.
1.2.3 Các nguyên tắc đánh giá trong giáo dục
1.2.3.1 Đảm bảo tính khách quan
Là yêu cầu cơ bản trong đánh giá. Đánh giá đảm bảo tính khách quan là phản ánh
được chính xác kết quả học tập như nó tồn tại trên cơ sở đối chiếu với mục tiêu đặt ra,
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người đánh giá. Cần ngăn ngừa các yếu tố
dẫn đến đánh giá không chính xác như:
- Yếu tố từ phía người đánh giá như trạng thái tâm lí, định kiến cũng như năng
lực, phẩm chất và kinh nghiệm.
- Yếu tố từ phía người được đánh giá như tâm trạng, sức khỏe, tính trung thực.
- Công cụ đánh giá không đảm bảo các yêu cầu để đánh giá chính xác, thể hiện ở
thiết kế các câu hỏi kiểm tra và các thang đo.
Ngoài ra, môi trường diễn ra quá trình kiểm tra, đánh giá cũng có ảnh hưởng đến
tính khách quan của đánh giá. Cần xây dựng các tiêu chí đánh giá cụ thể, rõ ràng, phù
hợp với đặc thù môn học và công khai các tiêu chí này cho học sinh. Bồi dưỡng cho
học sinh kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá; ngăn ngừa thái độ đối phó, thiếu trung thực trong
viết tiểu luận, kiểm tra, thi cử.

8
1.2.3.2 Đảm bảo tính công bằng
Đánh giá đảm bảo công bằng là phải tạo điều kiện cho tất cả học sinh có cơ hội
như nhau để thể hiện kết quả học tập; kết quả đánh giá phải phản ánh đúng kết quả học
tập của họ. Người đánh giá và người được đánh giá đều hiểu tiêu chí, hành vi đánh giá
như nhau. Để thực hiện yêu cầu này, cần lưu ý:
- Không có sự phân biệt và thiên vị khi đánh giá. Cần tránh những ảnh hưởng từ
các yếu tố như chủng tộc, giới tính, địa vị kinh tế - xã hội, môi trường sống.
- Cần cho tất cả học sinh được biết về phạm vi sẽ đánh giá nhằm giúp định hướng
quá trình học tập, ôn tập.
- Giúp học sinh có kĩ năng làm bài kiểm tra trước khi tiến hành kiểm tra, đánh giá.
- Tiêu chí đánh giá cũng như kết quả đánh giá phải được công bố công khai và kịp
thời cho học sinh.
1.2.3.3 Đảm bảo tính toàn diện
Đánh giá phải bao quát được các mặt, các khía cạnh cần đánh giá theo yêu cầu,
mục tiêu giáo dục, đặc biệt là các mục tiêu về năng lực – mục tiêu phức hợp. Năng lực
học sinh không chỉ bao gồm kiến thức, kĩ năng mà còn là thái độ, ý chí của học sinh
trước nhiệm vụ cần giải quyết trong hoạt động học; năng lực không chỉ phản ánh ở sự
hiểu biết mà là những gì học sinh có thể làm với những điều họ biết. Để đánh giá toàn
diện, đầy đủ, chính xác các mục tiêu đã xác định, cần lựa chọn và sử dụng phối hợp các
phương pháp kiểm tra, đánh giá.
1.2.3.4 Đảm bảo thường xuyên, có hệ thống
Đánh giá cần được tiến hành đều đặn, theo kế hoạch nhất định, như là một bộ phận
của quá trình dạy học. Số lần kiểm tra, đánh giá trong học kì phải đủ để cung cấp kịp
thời phản hồi cho giáo viên, học sinh; giúp điều chỉnh hiệu quả hoạt động dạy và học.
Hơn nữa, đánh giá thường xuyên sẽ cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng, tạo cơ sở để
đánh giá kết quả học tập một cách khách quan, công bằng, toàn diện.
1.2.3.5 Đảm bảo tính hiệu quả
Đánh giá phải phù hợp với công sức và thời gian tiến hành kiểm tra, đánh giá (thời
gian chuẩn bị, thời gian tổ chức thực hiện, thời gian chấm điểm, công bố kết quả); chi
phí công sức, thời gian ít nhưng vẫn đảm bảo giá trị và tin cậy thì được coi là hiệu quả.
1.2.3.6 Đảm bảo tính phát triển
Kết quả học tập đo lường trong quá trình dạy học chỉ thể hiện một mặt nào đó
năng lực học sinh và mang tính thời điểm; bằng sự nỗ lực của bản thân, với sự hỗ trợ
của giáo viên, học sinh có thể cải thiện kết quả học tập. Do vậy, kiểm tra – đánh giá
không chỉ là việc xác định mức độ đáp ứng mục tiêu dạy học mà còn là việc công bố
kết quả đánh giá kịp thời, khéo léo tạo yếu tố tâm lí tích cực, động viên học sinh vươn
lên, thúc đẩy mặt tốt, hạn chế mặt tiêu cực. Đối với học sinh còn nhỏ, đánh giá thể hiện
qua lời nhận xét là quan trọng, giúp học sinh dễ dàng tiếp nhận phản hồi và điều chỉnh
hành vi.
Quy định về kiểm tra, đánh giá theo Điều lệ trường THCS, THPT và trường phổ
thông có nhiều cấp học ban hành kèm Thông tư số 32/2020/TT-BGDĐT ngày
15/9/2020 đã đặt ra các yêu cầu này và giáo viên trong toàn quốc cần thực hiện tốt:
9
“Việc kiểm tra, đánh giá học sinh được thực hiện theo quy định của chương trình GDPT
do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành; bảo đảm tính toàn diện, công bằng, trung thực,
khách quan, vì sự tiến bộ của học sinh, coi trọng việc động viên khuyến khích học sinh
tiến bộ; chú trọng đánh giá quá trình học tập của học sinh; đánh giá bằng nhiều phương
pháp, hình thức, kĩ thuật và công cụ khác nhau; không so sánh học sinh này với học
sinh khác và không gây áp lực cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh”.
1.2.3.7 Đảm bảo đánh giá trong bối cảnh thực tiễn
Để chứng minh người học có phẩm chất và năng lực ở mức độ nào đó, phải tạo cơ
hội để họ giải quyết vấn đề trong bối cảnh mang tính thực tiễn. Đánh giá trong bối cảnh
thực tiễn là nguyên tắc gắn với yêu cầu dạy học phát triển phẩm chất, năng lực học sinh.
1.2.3.8 Phù hợp với đặc thù môn học (đối với đánh giá trong dạy học)
Mỗi môn học có những đặc thù riêng về mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy
học. Vì vậy, việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp, công cụ đánh giá cần phù hợp
với đặc thù của môn học nhằm đánh giá hiệu quả mục tiêu giáo dục môn học, đặc biệt
là các mục tiêu về năng lực đặc thù cần hình thành, phát triển ở học sinh.

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP


Câu hỏi tự luận
1. Phân biệt khái niệm kiểm tra, đánh giá, đo lường trong giáo dục. Nêu mối quan hệ
giữa ba khái niệm này và đưa ra một minh hoạ cụ thể.
2. Phân tích vai trò của kiểm tra, đánh giá trong giáo dục. Vai trò đó được thể hiện trong
thực tiễn giáo dục ở nước ta hiện nay như thế nào?
3. Mô tả các chức năng của đánh giá thông qua các tình huống cụ thể trong thực tiễn
mà anh/chị được biết hoặc đã trải qua.
4. Phân biệt các loại hình đánh giá trong giáo dục và thảo luận về khả năng áp dụng
chúng trong đánh giá học sinh ở trường phổ thông.
5. Phác thảo kế hoạch để triển khai các bước đánh giá kết quả học tập của học sinh trong
môn học và ở tình huống cụ thể.

10

You might also like