You are on page 1of 17

Bài soạn triết học

I. Câu hỏi 1
1. Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết
học.
Triết học Mác là hệ thống triết học khoa học, biện chứng, duy vật, lịch sử, xã hội,
được sáng lập bởi Karl Marx và Friedrich Engels vào giữa thế kỷ 19, và được phát
triển bởi các nhà tư tưởng cách mạng sau này, như Vladimir Lenin, Hồ Chí Minh,
và nhiều người khác.
+ Sự ra đời của triết học Mác là kết quả của sự tiến hóa và phát triển của triết học
nhân loại, đặc biệt là triết học duy vật biện chứng. Triết học Mác đã khắc phục
những hạn chế và sai lầm của các trường phái triết học trước đó, như chủ nghĩa
duy tâm, chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa
duy vật kinh tế, và nhị nguyên luận. Triết học Mác đã đưa ra những nguyên lý cơ
bản về bản chất, quy luật và phương pháp nghiên cứu của thế giới và xã hội.
+Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học, vì nó
đã mở ra một tầm nhìn mới về thế giới và con người, một thế giới quan khoa học,
biện chứng, duy vật, lịch sử, xã hội, một phương pháp luận sáng tạo, phản ánh,
thực tiễn, một lý thuyết cách mạng, giải phóng, tiến bộ, một lực lượng tư tưởng lớn
lao, hướng dẫn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản. Triết học Mác đã có ảnh hưởng sâu sắc đến lịch sử và văn hóa
của nhân loại, đặc biệt là các nước đang phát triển và đấu tranh giành độc lập, như
Việt Nam.
2. Dựa vào cơ sở nào để khẳng định một trường phái triết học là duy vật,
duy tâm hay nhị nguyên? Vai trò của chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy
tâm?
- Để khẳng định một trường phái triết học là duy vật, duy tâm hay nhị
nguyên, ta dựa vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học:
Căn cứ vào việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học, từ trong
lịch sử triết học đã được phân chia thành những trường phái lớn sau đây:
Trường phái 1: Những nhà triết học cho rằng vật chất, giới tự nhiên có trước và giữ
vai trò quyết định được gọi là các nhà duy vật và học thuyết của học hợp thành chủ
nghĩa duy vật.
Trường phải 2: Những người cho rằng tinh thần là cái có trước, quyết định VẬT
CHẤT được gọi là các nhà triết học duy tâm và học thuyết của học được tập hợp
thành chủ nghĩa duy tâm.
Trưởng phải 3. Những nhà triết học cho rằng VẬT CHẤT và Ý THỨC là hai
nguyên thể song song tồn tại không cái nào quyết định cái nào, cả hai cùng là
nguồn gốc tạo ra thế giới được gọi là các nhà nhị nguyên và học thuyết của học
hợp thành học thuyết nhị nguyên luận (Decacto)
* Trường phái triết học duy vật có lịch sử hình thành, phát triển thông qua 3 hình
thái chủ yếu:
Khi giải quyết mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) nếu trả lời VẬT CHẤT có trước, Ý
THỨC có sau, Ý THỨC được sản sinh từ kết cấu VẬT CHẤT nhất định và VẬT
CHẤT giữ vai trò quyết định Ý THỨC thì hợp thành chủ nghĩa duy vật.
- Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ và trong khi thừa
nhận tính thứ nhất của VẬT CHẤT đã đồng nhất VẬT CHẤT với 1 hay 1 số chất
cụ thể và những kết luận của nó chủ yếu dựa trên quan sát trực tiếp, cảm tính chưa
có cơ sở khoa học. Họ cho rằng VẬT CHẤT, thế giới tự nhiên là cái có trước, Ý
THỨC, linh hồn con người là cái có sau cho dù quan điểm còn mộc mạc, giản đơn
nhưng nó chứa đựng những phỏng đoán thiên tài, là cơ sở cho thế giới quan triết
học sau này. Họ đã cố gắng lấy thế giới để giải thích thế giới mang tính trực quan
cảm tính, chưa dựa trên cơ sở khoa học nào. (âm dương ngũ hành ở Trung quốc -
Đất, nước, lửa, khi ở ấn độ -Khi ...phương Tây)
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc ở thế kỷ 17, thế kỷ 18. Đây là thời kỳ mà
cơ học cổ điểm thu thập được những thành tựu rực rỡ nên khi tiếp tục phát triển
quan điểm của CHỦ NGHĨA DUY VẬT thời cổ đại, CHỦ NGHĨA DUY VẬT
thời kỳ này đã chịu tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc
nó xem xét, quan niệm thế giới như một hệ thống máy móc phức tạp bao gồm
nhiều bộ phận không có liên hệ với nhau, không vận động không phát triển, bất
biến, ngưng đọng.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng có đặc điểm nổi bật: là CHỦ NGHĨA DUY VẬT
có sự thống nhất, kết hợp chặt chẽ với phép biện chứng, đồng thời khái quát được
thành tựu của các khoa học chuyên ngành. Đây là hình thức cao nhất do Mác –
Ăngghen sáng lập và Lênin phát triển được hình thành vào n năm 40 của thế kỷ 19,
nó khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước nó, nó xem xét thế giới
trong tỉnh chỉnh thể, thống nhất trong sự tác động qua lại biện chứng với nhau, nó
là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận để nghiên cứu và tìm hiểu thế giới. Ngoài
ra trong lịch sử phát triển của CHỦ NGHĨA DUY VẬT còn có hình thái chủ nghĩa
duy vật tầm thường (đồng nhất vật chất với Ý THỨC và xem nhẹ vai trỏ của Ý
THỨC), và hình thái chủ nghĩa CHỦ NGHĨA DUY VẬT kinh tế (trong đó xem
kinh tế là nhân tố duy nhất quyết định cư tồn tại và phát triển của xã hội). Điều này
được Đảng cộng sản VN khẳng định con đường đi lên xây dựng CNXH là không
coi kinh tế là quyết định tất cả.
* Trường phái triết học duy tâm tồn tại và phát triển dưới hai hình thức sau đây:
Chủ nghĩa duy tâm xuất hiện ngay từ khi triết học ra đời. Sở dĩ gọi là duy tâm vì nó
trả lời Ý THỨC là cái có trước, VẬT CHẤT, thế giới khách quan là cái có sau, Ý
THỨC quyết định VẬT CHẤT.
- CHỦ NGHĨA DUY TÂM khách quan (Platon, Heghen) cho rằng có một thực thể
tinh thần hay ý niệm tuyệt đối tồn tại bên ngoài độc lập với con người có trước con
người đã sinh ra vạn vật, quyết định sự tồn tại và phát triển của thế giới và con
người.
- CHỦ NGHĨA DUY TÂM chủ quan (Béccli) cho rằng cảm giác và Ý THỨC của
con người là cái có trước và tồn tại sẵn có trong con người, mọi sự vật hay thế giới
vật chất chỉ là kết quả của sự phức hợp của cảm giác mà thôi. Do đó, toàn bộ cái
thế giới khách quan bên ngoài chỉ là “phức hợp” của những cảm giác do cái “Tôi”
sinh ra. (ĐH VI của Đảng phân tích sự chủ quan duy ý chí....) Tóm lại, cả chủ
nghĩa duy tâm khách quan và chủ quan cho dù có những biến thái, cách giải quyết
khác nhau về mặt thứ nhất song nó giống nhau ở chỗ đều coi Ý THỨC, tinh thần là
cái có trước, quyết định VẬT CHẤT, nó thường là đồng minh của tôn giáo, là vũ
khí của giai cấp thống trị trong việc nô dịch quần chúng nhân dân, nó chống lại
khoa học và những tư tưởng tiến bộ.
* Ngoài ra còn có trường phái nhị nguyên luận, họ cho rằng cả VẬT CHẤT và tinh
thần đều tồn tại song song, chúng độc lập với nhau, VẬT CHẤT sinh ra VẬT
CHẤT, tinh thần sản sinh ra các hiện tượng tinh thần. Đại biểu của nó chính là Để
các tơ. 2. Các hình thức chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm và vai trò của nó
trong đời sống xã hội.
Vai trò của chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm:
*Chủ nghĩa duy vật:
Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của thực tiễn và nhận thức khoa học,chủ
nghĩa duy vật đã trải qua ba hình thức cơ bản là: Chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ
nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là hình thức sơ khai của chủ nghĩa duy vật. Trong khi
thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, chủ nghĩa duy vật chất phác đã lý giải toàn bộ
sự sinh thành của thế giới từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó
là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của thế giới. Những lý giải đó được thể hiện
trong nhiều học thuyết duy vật thời cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp.
Tuy còn rất nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác về cơ bản là đúng vì
nó đã lấy bản thân vật chất của giới tự nhiên để giải thích về thế giới.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể
hiện tiêu biểu trong lịch sử triết học Tây Âu thế kỷ XVII-XVIII. Đặc điểm lớn nhất
của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này là phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận
thức về thế giới.
Tuy chưa phản ánh đúng thế giới trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển nhưng
chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần quan trọng trong việc chống lại thế giới
quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung cổ
sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do
C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập, VI.Lênin và những người kế tục ông bảo vệ và
phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng
triệt để những thành tựu khoa học tự nhiên đương thời, chủ nghĩa duy vật biện
chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật
chất phác thời cổ đại và chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại Tây Âu, đạt tới
trình độ là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử. Trên
cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự
phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động
nhận thức khoa học và thực tiễn cách
mạng.
Toàn bộ hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên
cơ sở lý giải một cách khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức.
Chủ nghĩa duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát tử giới tự nhiên
để giải thích thế giới.
VD:quan niệm của Talét, Ileraclit. Đêm crit...
chủ nghĩa duy vật đã phát triển khoảng năm 600 TCN với các tác phẩm của Ajita
Kesakambali, Payasi, Kanada
*Chủ nghĩa duy tâm:
Chủ nghĩa duy tâm ra đời từ hai nguồn gốc:
Một là, nguồn gốc nhận thức luận: Đó là sự tuyệt đối hóa, thổi phồng mặt tích cực
của nhân tố ý thức con người, trong nhận thức và thực tiễn. Sai lầm của chủ nghĩa
duy tâm triết học biểu hiện ở việc khẳng định về sự tồn tại trước và có vai trò quyết
định của nhân tố ý thức, tinh thần đối với nhân tố vật chất trước hết bắt nguồn từ
chỗ trong cuộc sống con người (cả trong nhận thức và thực tiễn), ý thức có vai trò
rất to lớn, tích cực. Chính xuất phát từ khả năng sáng tạo của ý thức, tư duy con
người với những “mô hình” tồn tại trong đầu, thông qua hoạt động thực tiễn của
con người đã cho ra đời cả một thế giới các sự vật mới, đã làm cho bộ mặt của thế
giới vật chất, của xã hội biến đổi sâu sắc.
Tương tự, trong nhận thức cũng vậy, để đi tới sự đánh giá nhất định về sự vật, hiện
tượng bên ngoài, đòi hỏi người ta phải thông qua ý thức, cảm giác, phải dựa vào
vốn hiểu biết cũng như năng lực tư duy nhất định của minh. Từ thực tế đó, các nhà
triết học duy tâm đi tới quan điểm cho rằng nhân tố ý thức, tinh thần có trước sự
vật bên ngoài, tồn tại độc lập với sự vật bên ngoài, thậm chỉ quyết định sự tồn tại
sự vật bên ngoài. Họ không biết rằng hay cố tình không biết, xét cho tới cùng,
những hình ảnh trong đầu, những “mô hình” có sẵn, chỉ có thể có được thông qua
sự phản ánh các sự vật hiện tượng bên ngoài vào đầu óc của con người. Có thể
khẳng định, chủ nghĩa duy tâm thể hiện một quan điểm phiến diện, đối với vai trò
nhân tố ý thức, tinh thần. VI Lênin cũng từng chỉ rõ: “Theo quan điểm của một chủ
nghĩa duy vật thô lỗ, giản đơn, siêu hình, thì chủ nghĩa duy tâm triết học chỉ là một
sự ngu xuẩn. Trái lại, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thì chủ
nghĩa duy tâm triết học là một sự phát triển (một sự thổi phồng, bơm to) phiến
diện, thái quá (...) của một trong những đặc trưng, của một trong những mặt, của
một trong những khía cạnh của nhận thức thành một cái tuyệt đối, tách rời khỏi vật
chất, khỏi giới tự nhiên, thần thánh hóa”.
Hai là, nguồn gốc xã hội: Đó là sự tách rời giữa lao động trí óc và lao động chân
tay trong các chế độ xã hội có sự phân chia giai - tầng, đẳng cấp: thống trị và bị trị,
bóc lột và bị bóc lột. Trong chế độ xã hội này, sự tách rời giữa lao động trí óc và
lao động chân tay được biểu hiện cụ thể bằng địa vị thống trị của lao động trí óc
đối với lao động chân tay. Tình trạng đó đã dẫn tới quan niệm cho rằng nhân tố
tinh thần, tư tưởng có vai trò quyết định tới sự biến đổi, phát triển của xã hội nói
riêng, thế giới nói chung. Chẳng hạn như Nho giáo quan niệm rằng yếu tố đạo đức
đóng vai trò quyết định sự ổn định và phát triển của xã hội. Quan điểm duy tâm
này lại được các giai cấp thống trị đương thời ủng hộ, bảo vệ để làm cơ sở lý luận
cho các quan điểm chính trị - xã hội nhằm duy trì địa vị thống trị của mình. Chính
vì thế mà trong lịch sử triết học, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và của
nghĩa duy tâm thưởng gắn liền với các cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng chính trị. Chủ
nghĩa duy vật thường gắn liền với tư tưởng chính trị dân chủ, tôn trọng các quyền
lợi cơ bản của giới lao động chân tay, bị trị trong xã hội. Chủ nghĩa duy tâm
thường gắn liền với tư tưởng chính trị độc đoán, phi dân chủ, thiếu tôn trọng, thậm
chí không quan tâm tới quyền lợi của người lao động bị trị. Vai trò của chủ nghĩa
duy tâm biểu hiện ở chỗ, nhấn mạnh tới vai trò hết sức to lớn của nhân tố tinh thần,
lý tính đối với sự tồn tại và phát triển xã hội. Mặc dù diễn giải về nhân tố tinh thần,
lý tính bằng một hình thức duy tâm thần bí, mà thực chất là sự tuyệt đối hóa các
nhân tố này, tách rời sự tồn tại của nó ra khỏi hoạt động của con người, song việc
chú trọng xem xét, phân tích, đánh giá vai trò của nhân tố tinh thần của chủ nghĩa
duy tâm đã góp phần quan trọng vào sự phát triển tư duy lý luận của nhân loại, tạo
nên một hiện tượng mà V.I.Lênin gọi là “chủ nghĩa duy tâm thông minh”.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần có trước và quyết định giới tự nhiên.
Giới tự nhiên chỉ là một dạng tồn tại khác của tinh thần, ý thức.
Và quan niệm của beccoly; Platon, Hêghen.
Một số truyền thống ấn độ giáo và tông phái phật giáo có thể được coi là theo chủ
nghĩa duy tâm. Một số tông phái Phật giáo được gọi là các phái duy thức vì họ chú
trọng vào ý thức mà không có một Thượng đế hay linh hồn.
3. Các hình thức của chủ nghĩa duy vật? Tại sao nói chủ nghĩa duy vật biện
chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật?
Các hình thức của chủ nghĩa duy vật:
Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của thực tiễn và nhận thức khoa học,chủ
nghĩa duy vật đã trải qua ba hình thức cơ bản là: Chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ
nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Chủ nghĩa duy vật chất phác là hình thức sơ khai của chủ nghĩa duy vật. Trong
khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, chủ nghĩa duy vật chất phác đã lý giải
toàn bộ sự sinh thành của thế giới từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm
tính, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của thế giới. Những lý giải đó được
thể hiện trong nhiều học thuyết duy vật thời cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy
Lạp.
Tuy còn rất nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác về cơ bản là đúng vì
nó đã lấy bản thân vật chất của giới tự nhiên để giải thích về thế giới.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật,
thể hiện tiêu biểu trong lịch sử triết học Tây Âu thế kỷ XVII-XVIII. Đặc điểm lớn
nhất của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này là phương pháp tư duy siêu hình trong việc
nhận thức về thế giới.
Tuy chưa phản ánh đúng thế giới trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển nhưng
chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần quan trọng trong việc chống lại thế giới
quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung cổ
sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật,
do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập, V.I.Lênin và những người kế tục ông bảo vệ và
phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng
triệt để những thành tựu khoa học tự nhiên đương thời, chủ nghĩa duy vật biện
chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật
chất phác thời cổ đại và chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại Tây Âu, đạt tới
trình độ là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử. Trên
cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự
phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động
nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Toàn bộ hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên
cơ sở lý giải một cách khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa
duy vật vì:
Một là, nó không chỉ đứng trên lập trường duy vật để giải thích các tồn tại trong
giới tự nhiên (như chủ nghĩa duy vật siêu hình cổ đại), mà còn đứng trên lập
trường duy vật để giải thích các hiện tượng, quá trình diễn ra trong đời sống xã hội
của con người - đó là các quan điểm duy vật lịch sử hay chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Thứ hai, Người không chỉ đứng trên quan điểm duy vật trong quá trình định hướng
ý thức và cải tạo thế giới mà còn sử dụng phương pháp biện chứng trong quá trình
này. Nhờ đó tạo ra tính đúng đắn, khoa học trong việc giải thích thế giới và cải tạo
thế giới.
Thứ ba, nó ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy
vật chất phác thời cổ đại và chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại Tây Âu, và
nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ sở kế thừa
những tinh hoa của lịch sử triết học và trên cơ sở tổng hợp những thành tựu vĩ đại
của khoa học và thực tiễn trong thời đại mới; nó trở thành thế giới quan và phương
pháp luận khoa học của giai cấp cách mạng và lực lượng tiến bộ ngày nay.
4. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất?
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử tiến hoá trên 2.500 năm.
Ngay từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc tranh đấu không
khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trong khi chủ nghĩa
duy tâm coi bản chất của thế giới và cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại là một bản
nguyên tinh thần, còn vật chất chỉ là sản phẩm của bản nguyên tinh thần, và vật
chất chính là chủ thể của bản nguyên tinh thần ấy thì chủ nghĩa duy vật quan niệm
bản chất của thế giới và chủ thể của thế giới là vật chất - thứ tồn tại vĩnh viễn và
phát triển thành mọi sự vật và hiện tượng cùng với các thuộc tỉnh của chúng. Để
bảo vệ và phát triển thế giới quan duy vật, V.I. Lênin đã tổng kết những thành tựu
khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đồng thời kế thừa tư tưởng của
C.Mác và Ph.Ăngghen để đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất: “Vật chất là một
phạm trù viết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”.
5. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất?
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật chất;
không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất. Vận động là phương
thức tồn tại của vật chất Ph. Ăngghen định nghĩa: “Vận động, hiểu theo nghĩa
chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc
tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn
ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Theo quan điểm
của Ph. Ăngghen, vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí mà là mọi sự biến đổi,
mọi quá trình trong vũ trụ, vật chất luôn gắn liền với vận động và chỉ thông qua
vận động, vật chất mới biểu hiện ra hình thức tồn tại cụ thể của nó.
Vận động trở thành phương thức tồn tại của vật chất. Tuy nhiên, không có nghĩa là
chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận đứng im, theo quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động
trong thế cân bằng và đứng im là hiện tượng tương đối, tạm thời. Đứng im là hiện
tượng tương đối vì sự đứng im chỉ xuất hiện trong một số dạng vận động và trong
những mối liên hệ nhất định chứ không phải trong mọi dạng vận động và mọi mối
liên hệ. Đứng im là hiện tượng tạm thời vì đứng im chỉ tồn tại nhất thời chứ không
tồn tại mãi mãi.
Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất. Mọi dạng cụ thể của
vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính nhất định và tồn tại
trong các mối tương quan nhất định với những dạng vật chất khác. Những hình
thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn
được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa, v.v..
Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Vật chất, không gian và thời gian là không thể chia cắt; không có sự tồn tại nào
ngoài không gian và thời gian; không có không gian và thời gian nào tồn tại ngoài
vật chất đang vận động. Nó là hình thức tồn tại của vật chất, là thời gian và không
gian tồn tại khách quan, do vật chất quy định; trong đó, không gian có ba chiều là
chiều cao, chiều rộng và chiều dài; thời gian có một chiều; chiều từ quá khứ đến
hiện tại, tương lai.
Lý luận trên cho ta ý nghĩa là muốn nhận thức đúng đắn sự vật, hiện tượng nhất
thiết phải có quan điểm lịch sử cụ thể xem xét nó trong không gian, thời gian nhất
định. Tức là khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng, một vấn đề nào đó phải
xem nó tại địa điểm, tại thời gian cụ thể, gắn với những điều kiện, hoàn cảnh khách
quan mà nó đã ra đời, tồn tại và phát triển. Nếu không có quan điểm lịch sử cụ thể
ta sẽ xem xét, đánh giá không đúng về sự vật, hiện tượng.
6. Cơ sở lý luận và yêu cầu của nguyên tắc tôn trọng khách quan và phát
huy tính năng lực chủ quan. Vận dụng vào hoạt động thực tiễn của bản
thân.
Nếu đề hỏi cơ sở lý luận thì câu trả lời sẽ liên quan đến mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức
*Cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan:
- Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: - Mối quan hệ vật chất và ý thức là “Vấn
đề cơ bản của triết học, đặc biệt là triết học hiện đại”. Tùy theo lập trường thế giới
quan khác nhau, khi giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức mà hình thành
hai đường lối cơ bản trong triết học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Dưới đây ta cùng tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức.
- Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán,Lênin đã
đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”-
Như vậy định nghĩa về vật chất của Lênin bao hàm các nội dung cơ bản sau:Thứ
nhất vật chất là thực tại khách quan tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và không lệ
thuộc vào ý thức Thứ hai vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan của con
người thì đem lại cho con người cảm giác .Thứ ba vật chất là cái mà ý thức chẳng
qua chỉ là sự phản ánh của nó.- Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, là quá trình phản ánh tích cực sáng tạo hiện thực khách quan của óc
người. Ý thức là “hình ảnh” của sự vật trong óc người, là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan.Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực
tiễn xã hội.Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.
⇨Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức : Có thể nói vật chất và ý thức như hai mặt
của một vấn đề về chúng có mối quan hệ hai chiều tác động biện chứng chặt chẽ,
trong đó vật chất quyết định ý thức và ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
*Thứ nhất vật chất có vai trò quyết định đối với ý thức
- Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức:
Vật chất là cội nguồn sản sinh ra ý thức vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất
hiện của con người, mà con người là kết quả của một quá trình tiến hóa lâu dài,
phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con người do giới tự nhiên, vật
chất sinh ra cho nên ý thức - một thuộc tính của bộ phận con người- cũng do giới
tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng
minh được rằng giới tự nhiên có trước, con người, vật chất là cái có trước còn ý
thức là cái có sau. Vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức là nguồn gốc sinh
ra ý thức. Bộ óc con người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan
phản ánh ảnh để hình thành ý thức. Sự tác động của thế giới khách quan vào não
người tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Lao động trong hoạt động thực
tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất và ngôn ngữ cùng nguồn gốc tự nhiên
quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của ý thức.
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Ý thức dù dưới bất kỳ hình thức nào suy cho cùng đều là phản ánh hiện thực khách
quan. Thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của
nó được phản ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức. Thế giới khách quan mà
trước hết chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội -lịch sử của loài người là
yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh. Sự Phát triển của hoạt động thực
tiễn là động lực quyết định tính phong phú của nội dung ý thức.
- Vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người, là cơ sở để
hình thành phát triển ý thức. Trong đó ý thức của con người vừa phản ánh vừa sáng
tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
- Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình hình thành, phát triển
của giới tự nhiên, của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
Con người - một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh
thần thì dĩ nhiên ý thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả
về nội dung và hình thức phản ánh của nó. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và
khoa học ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó. Trong đời sống xã hội, sự
phát triển của kinh tế sẽ đến cùng quy định sự phát triển của văn hóa, đời sống vật
chất thay đổi thì đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
*Thứ hai, ý thức độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
- Ý thức có tính độc lập tương đối. Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào
trong đầu óc con người, là do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có
“đời sống” riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, không lệ thuộc một cách
máy móc vào vật chất. Ýthức một khi ra đời thì có tính độc lập tương đối tác động
trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh hơn, chậm hơn hay song
hành so với hiện thực nhưng nhìn chung thường thay đổi chậm so với sự biến đổi
của thế giới vật chất.
- Ý thức tác động với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nhờ có hoạt động thực tiễn ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện hoàn cảnh
vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con
người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể nào biến đổi được hiện thực con
người. Dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật
khách quan, từ đó con người đề ra mục tiêu, phương hướng,biện pháp và ý chí
quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ
cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân- lực lượng vật chất, xã hội
thì có vai trò rất to lớn.
- Ý thức chỉ đạo hoạt động, hành động của con người. Nó quyết định ảnh làm cho
hoạt động con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức có mối quan hệ
cùng chiều với sự phát triển, khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo,
tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận,
định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần
động viên, cổ vũ, khai thác tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân
lên gấp bội. Ngược lại ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai, là xuyên
tạc hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học... - Xã hội ngày càng phát
triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn. Nhất là trong thời đại ngày nay - thời
đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa và vai trò của tri thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng
nhân văn là hết sức quan trọng.Kết luận : Sự tác động của ý thức trở lại vật chất
cũng chỉ với mức độ nhất định, nó không thể sinh ra hay phá vỡ các quy luật vận
động của vật chất. Ý thức không thể vượt quá những tiền đề vật chất đã xác định,
phải dựa trên những điều kiện khách quan, năng lực chủ quan của chủ thể để hoạt
động. Nếu bỏ qua điều này thì con người sẽ rơi vào chủ nghĩa chủ quan, duy tâm
và không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
Nếu đề hỏi cơ sở lý luận và yêu cầu của nguyên tắc tôn trọng khách quan thì
câu trả lời phải liên quan đến vai trò vật chất và ý thức
*Vai trò của vật chất:
- Vật chất đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại của xã hội loài người
Tiếp tục tư tưởng xuất phát trong “Hệ tư tưởng Đức”; “tiền đề đầu tiên của mọi sự
tồn tại của con người, và là tiền đề của mọi lịch sử đó là: người ta phải có khả năng
sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử". Nhưng muốn sống được thì trước hết phải
có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và những yếu tố vật chất khác nhằm đảm bảo
sự sinh tồn của thế giới tự nhiên nói chung và loài người nói riêng. Như vậy, hành
vi lịch sử đầu tiên của con người là việc tận dụng nguồn vật chất tự nhiên phục vụ
sự sống của mình (Công xã Nguyên Thủy). Chính việc săn bắt hái lượm – bộ não
con người dần phát triển; Thay vì sử dụng nguyên liệu tự nhiên dạng thô, con
người đã biết sử dụng sức lao động, công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải
tạo giới vật chất phục vụ cuộc sống của mình. Quá trình trên gọi là “sản xuất vật
chất”. Mang tầm vóc lịch sử cao hơn nữa, sản xuất vật chất là hành vi tiên quyết,
một điều kiện cơ bản để duy trì sự sống của loài người. Mác đi đến kết luận:
“...Con người muốn sống và sáng tạo ra lịch sử thì trước hết phải sản xuất vật
chất... Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế là con người đã gián
tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình...". Vậy: Sản xuất vật chất là quá
trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng
vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu tồn tại và
phát triển của con người.
Khái niệm chỉ rõ: sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài
người. Đó là quá trình hoạt động có mục đích và luôn luôn sáng tạo của con người.
Ăng ghen đã chỉ rõ sự khác biệt giữa xã hội loài người và loài vật: “là ở chỗ loài
vật may mắn lắm chỉ hái lượm, trong khi đó con người lại sản xuất”.
Sản xuất của xã hội loài người rất phong phú nhưng có ba hoạt động sản xuất cơ
bản: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba
hình thức sản xuất trên có quan hệ biện chứng với nhau, nhưng vai trò không
ngang bằng nhau đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Hai mặt của nền sản xuất gồm: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất gồm người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó con người giữ
vai trò quyết định.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan
hệ sản xuất gồm có:
+ Quan hệ về sở hữu các tư liệu sản xuất, còn gọi tắt là quan hệ sở hữu;
+ Quan hệ về tổ chức, quản lý sản xuất còn gọi là quan hệ quản lý;
+ Quan hệ về phân phối sản phẩm, còn gọi tắt là quan hệ phân phối.
Phương thức sản xuất là phương thức khai thác những của cải vật chất (tư liệu sản
xuất và tư liệu sinh hoạt) cần thiết cho hoạt động tồn tại và phát triển xã hội.
Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tạo
thành phương thức sản xuất. Trong sự thống nhất biện chứng này, lực lượng sản
xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất phải thay đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất không phải hoàn toàn thụ động,
mà có tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất có thể tác động đến lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích
của sản xuất, ảnh hưởng đến lợi ích và thái độ của người lao động trong sản xuất.
Do đó, Quan hệ sản xuất là những quan hệ đầu tiên, cơ bản nhất, xét đến cùng,
quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó “hình thành sợi chỉ
xuyên qua toàn bộ sự phát triển, sợi chỉ duy nhất có thể làm cho ta hiểu được sự
phát triển của lịch sử xã hội”
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì
nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; ngược lại, nếu quan hệ sản xuất lỗi
thời sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tiêu chuẩn căn bản để xem
xét một quan hệ sản xuất nhất định có phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất hay không là ở chỗ nó có thể thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,
cải thiện đời sống nhân dân và tạo điều kiện thực hiện công bằng xã hội hay không.
Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
biểu hiện thành mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng. Mâu thuẫn này tất yếu dẫn
đến đấu tranh giai cấp, nổ ra cách mạng xã hội thay thế quan hệ sản xuất cũ, lạc
hậu bằng quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn, ra đời phương thức sản xuất cao hơn
trong lịch sử. Lịch sử loài người đã trải qua các phương thức sản xuất: công xã
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và đang quá độ lên
phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Về bản chất, các LLSX, PTSX, hay hình thái KTXH cũng là các dạng vật chất bậc
cao cùng với chiều dài lịch sử sáng tạo nên cuộc sống con người.
Quá trình vận động liên tục không ngừng của các dạng vật chất trong lịch sử: từ
những vận động khổng lồ mà Heraclit; £piquya; Honbach hay Điđrô.... có sống lại
cũng không thể tưởng tượng nổi quá trình vận động liên tục, phát triển không
ngừng của thế giới vật chất, và càng không ngờ khi con người có thể khám phá ra
những điều diệu kỳ đó – những minh chứng hùng hồn việc con người hoàn toàn
nhận thức được thế giới vật chất: Ai có thể nghĩ qua hang tỷ năm đại dương thành
lục địa, Sông hồ thành bình nguyên, biển cả thành sa mạc, thậm trí hay những vận
động âm thầm trong từng khoảnh khắc của các hạt vật chất vô cùng nhỏ bé lại
mang những năng lượng (E=mc2) có thể phá nát cả một hành tinh. Bằng những
năng lực vô song của mình, thế giới vật chất đã chứng minh vai trò thống trị, tiền
đề cơ bản trong đời sống xã hội của loài người.
Tồn tại ⇔ sản xuất vật chất ⇔ Quan hệ sản xuất vật chất ⇔ Lực lượng sản xuất
⇔ Phương thức sản xuất ⇔ Hình thái kinh tế xã hội.
- Vật chất tác động lên mọi mặt của đời sống xã hội - là nhân tố quyết định đến sự
phát triển của đời sống xã hội
Không chỉ là điều kiện khách quan cho sự phát triển của xã hội, vật chất còn là
nhân tố hàng đầu, trọng tâm, quyết định tới sự phát triển của xã hội.
Xã hội — đặt trong phạm trù triết học về vật chất – chỉ là một thành phần nhỏ bé
của thế giới vật chất bao la. Chính sự phát triển của vật chất quyết định đến sự phát
triển của xã hội.
Con người —là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất. Thông qua các
hình thức vận động của vật chất, ta cũng thấy phần nào vai trò của vật chất trong
sự phát triển của xã hội.
Từ những vận động cơ học thuần túy của loài người như tìm ra Châu Mỹ, đến các
đợt di cư của các đàn chim, thậm chí các định luật I, II, III Newton là những minh
chứng khoa học điển hình cho vận động cơ học của xã hội. Đây là vận động điển
hình nhất diễn ra từng giây trong cuộc sống.
Thuyết nguyên tử cho thấy một dạng vận động tuyệt vời của vật chất: vận động vật
lý; Các hạt không ngừng tương tác, mang năng lượng và tạo ra từ trường, sóng âm;
Một lần nữa vật chất lại khẳng định sự tồn tại khách quan dưới mọi hình dạng,
không chỉ là thế giới vật chất mà các nhà siêu hình vẫn nghĩ, mà nó còn tồn tại ở
dạng sóng, dạng hạt,...
Ngay từ nhiều thiên niên kỷ trước, Mendeneep đã thấy được dạng vận động thần
kỳ khác của vật chất thông qua bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, mà nay đưa
cuộc sống con người lên tầm cao hơn, tiện nghi, nhàn nhã hơn khi biết đến nó –
vận động hóa học.
Sự phát triển của thế giới sinh vật – trong đó bao gồm con người được Đác Uyn
khái quát thông qua thuyết tiến hóa; chính vận động sinh học là nguyên nhân sâu
xa của sự phát triển này. Thuyết tiến hóa cũng góp phần khái quát sự phát triển rất
tự nhiên và cứ ngỡ diệu kỳ của con người nói riêng tới sinh vật khác nói chung. Từ
loài vượn dùng đá thô sơ, nay tôi ngồi đây gõ phím – thực hiện bài tiểu luận này.
Dạng vật chất cao nhất – mà các nhà siêu hình hay cổ đại không thể nhận thức tới –
ví nó hiện diện quá nghiễm nhiên – âm thầm lặng lẽ, và vận động rất chậm chạp
trong điều kiện không gian thời gian vô tận thông qua hình thức vận động của nó –
vận động xã hội. Mỗi hình thái kinh tế xã hội được đặc trưng bởi một phương thức
sản xuất tương ứng với trình độ lực lượng sản xuất phù hợp. Đặt trong mối quan hệ
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Xã hội – bằng vận động tự
than của nó, đã phát triển từ thấp đến cao. Từ mông muội (Công xã Nguyên Thủy),
dã man (CHNL),bất bình đẳng xã hội (PK) đến văn minh (Tư bản CN) và hiện đại
(XHCN), công bằng (CSCN). Vậy một lần nữa, vật chất và phương thức tồn tại của
nó – Vận động trong sự “dung túng” của thời gian. “hậu thuẫn” của không gian đã
định hình sự phát triển xã hội loài người.
* Vai trò của ý thức:
Vai trò của ý thức có một tầm quan trọng đối với thực tiễn cuộc sống và khẳng
định vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức, còn ý thức chỉ
là sản phẩm, là sự phản ánh chân thật về thế giới khách quan. Và hành động của
con người chỉ xuất phát từ những yếu tố tác động của thế giới khách quan.
Điều này đã tạo cho con người sự thông minh, nhạy bén để có thể ứng phó kịp thời
với tác động của môi trường xung quanh. Từ đó giúp tạo bên các giá trị thực tiễn
cho đời sống xã hội, nhiều công trình kiến trúc được tạo nên, nhiều phát minh khoa
học được hình thành do ý thức của con người dự đoán được những thiên tai, hay
những thay đổi của tương lai ....
Nói tới vai trò của ý thức thực chất là nói tới vai trò của con người, vì ý thức tự nó
không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Do đó, muốn thực hiện tư
tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn. Nghĩa là con người muốn thực hiện quy
luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có
ý chí và phương pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo các
hoạt động của con người, có thể quyết định làm cho con người hành động đúng
hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định.
Do vậy, con người càng phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan thì càng
cải tạo thế giới có hiệu quả. Vì thế, phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý
thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động, cải tạo thế giới khách quan.
Vận dụng
- Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan
Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất của các quy
luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và trong
hoạt động thực tiễn sinh viên phải xuất phát từ thực tế khách quan lấy thực tế
khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.
VI Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng: “Không được lấy chủ quan của mình
làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược
và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí
áp đặt tho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho kiến thức thì sẽ mặc phải bệnh chủ
quan duy ý chí”. (5, 177].
Hiểu được nội dung của nguyên tắc tổn trong khách quan sinh viên phải biết
vận dụng vào trong quá trình học tập của bản thân để đạt kết quả cao trong học
tập. Trước tiên trong nhận thức sinh viên phải phan anh trung thực nội dung
bản chất của sự vật, hiện tương. Không được lấy kiến chủ quan, định kiến của
mình áp đặt cho sự vật, hiện tượng.
+Chấp hành nghiêm chỉnh nội quy nhà trường vì nội quy giành cho sinh viên
trong nhà trường là tiêu chuẩn đánh giá về tác phong, đạo đức mà mỗi người
sinh viên phải có. Không nên có tư tưởng cả nhân là nội quy nhà trưởng rườm
ra làm ảnh hưởng không tốt đến việc học đến thời gian cả nhân mà không thực
hiện theo thi sẽ dẫn đến hậu quả không tốt.
+Khi đề bạt, tranh cử ban cán sự lớp phải đảm bảo tính công bằng đánh giá
trung thực năng lực của từng cá nhân để bổ nhiệm vào vị trí phù hợp dẫn dắt
tập thể lớp đi lên. Không nên vì định kiến cá nhân mà đánh giá không trung
thực thi sẽ ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thi đua của tập thể.
Khi đánh giá điểm rèn luyện của các bạn trong lớp nên thực hiện công khai
khách quan trình đánh giá theo cảm tính cá nhân. Như thế sẽ tạo ra mâu thuẫn
nội bộ, không kích thích được sự thi đua, phấn đấu của mọi người trong lớp.
Sinh viên phải trung thực trong các kì kiểm tra, thi hết môn. Sinh viên phải
tích cực ôn luyện và làm bài bằng kiến thức của mình. Không nên có hành vi
quay cóp, chép bài của bạn vì dù điểm cao đó cũng không phải số điểm bạn
đạt được, không phản ánh đúng lượng kiến thức bạn có.
Bên cạnh đó, sinh viên phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở để đưa ra
đường lối, chủ trương, kế hoạch, mục tiêu cho phù hợp.
+Khi đưa ra phương pháp học tập cho bản thân, mỗi sinh viên phải xem xét
phương pháp học tập đó có phù hợp với thể trạng, sức khỏe, tâm lý và đặc
điểm cả nhân thì mới đưa ra một phương pháp học tập phù hợp, đúng đắn đem
lại hiệu quả cao. Không nên áp dụng rập khuôn phương pháp học tập của bạn
cho bản thân mình sẽ không đem lại kết quả như mong muốn
+Khi đưa ra kế hoạch học tập cho thời gian tới sinh viên phải xét đến điều kiện
thực tế như: Thời gian sức khỏe tài chính... để đưa ra một kế hoạch phù hợp,
có khả năng thực hiện. Chẳng hạn để có thể nâng cao trình độ tin học, ngoại
ngữ sinh viên cần phải xét thời gian nào phù hợp có thể học, trường nào có
mức học phí phù hợp với điều kiện tài chính của bản thân, phương tiện đi học
có phù hợp với địa điểm học...
+Khi đưa ra mục tiêu phấn đấu, sinh viên phải đánh giá đúng khả năng của
bản thân cũng như những điều kiện liên quan để đưa ra mục tiêu phù hợp với
bản thân Tranh đưa ra mục tiêu quá thấp sẽ không kích thích được sự cố gắng
không cải thiện được sự hiểu biết. Cũng không nên đưa ra mục tiêu quá cao,
không có khả năng thực hiện sẽ dễ gây tâm lý chán nản.
Ngoài ra, sinh viên còn phải biết sử dụng lực lượng vật chất để thực hiện
đường lối chính sách kế hoạch, mục tiêu đã đề ra vì vật chất là cơ sở để hiện
thực hóa ý thức.
+ Để có thể ra trưởng đúng hạn ngoài sự nỗ lực trong học tập thôi chưa đủ sinh
viên còn phải đóng tiền học phi đúng hạn.
+Để có thể học tập, nghiên cứu sinh viên phải có sách, vở, tài liệu, bút.
phương tiện đi lại ..
+Để có thể tồn tại sinh viên phải được đáp ứng các nhu cầu cơ bản như: ăn,
mặc, nhà ở...
- Phát huy tính năng động chủ quan

Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn nên con
người cần phải phát huy tính năng động chủ quan của mình.
Phát huy tính năng động chủ quan tức là phát huy vai trò tích cực, năng động.
sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò tích cực của nhân tố con người trong
việc vật chất hòa tinh tích cực năng động sáng tạo ấy. Bản thân ý thức tự nó
không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức muốn tác động trở lại
đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người
thực hiện trong thực tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động của ý thức đối với vật
chất phải thông qua hoạt động của con người được bắt đầu từ khâu nhận thức
cho được quy luật khách quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan,
phải có ý chỉ, có phương pháp để tổ chức hành động. Là sinh viên chúng ta cần
phát huy được tính năng động chủ quan trong việc học tập của bản thân, thể
hiện qua những mặt sau:

+Sinh viên phải tôn trọng tri thức khoa học và làm chủ được tri thức khách
quan

Sinh viên phải ra sức học tập, nghiên cứu tri thức khoa học để làm giàu thêm
kho tàng tri thức của bản thân không chỉ xem trọng tri thức chuyên ngành mà
phải quan tâm cả những môn khoa học cơ bản, vi khoa học cơ bản là tiền đề, cơ
sở để sinh viên tiếp xúc với tri thức chuyên ngành hiệu quả hơn.

+Có tinh thần ham học hỏi tham gia nhiều cuộc thi khoa học để mỡ rộng tầm
hiểu biết, giao lưu học hỏi với bạn bè trong nước và quốc tế như Đường lên
đỉnh Olympia, giải toán quốc tế, rung chuông vàng...

+Tham gia những cuộc thi nghiên cứu khoa học do trường tổ chức để kích thích
óc sáng tạo của bản thân và cống hiến những ý tưởng hay.

+Vận dụng những kiến thức học tập ở trường lớp vào trong thực tiễn

hành động.
Sinh viên còn phải biết truyền bả nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức,
niềm tin của quần chúng. phổ biến tri thức khoa học cho mọi người cùng biết

+Sinh viên tham gia chiến dịch tình nguyện mùa hè xanh đến những vùng cao,
miền núi để dạy học cho các em nhỏ.

+ Sinh viên tổ chức học nhóm để giúp đỡ nhau trong học tập Tuyên truyền
những kiến thức mà mình đã học tập được để giúp đỡ những người chưa có cơ
hội tìm hiểu.

You might also like