You are on page 1of 104

Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

PHẦN
THẾ
GIỚI
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 1: NHÀ NƯỚC CHIẾM HỮU NÔ LỆ PHƯƠNG ĐÔNG


I. Cơ sở hình thành nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông:
1. Điều kiện tự nhiên: vị trí địa lý, khí hậu, thổ nhưỡng.
 Ai Cập cổ đại.
- Nằm ở Đông Bắc châu Phi, hình thành trên lưu vực sông Nile, bị bao bọc bởi biển và sa mạc,
mọi giao lưu với thế giới bên ngoài đều thông qua eo đất Xinai nối liền Ai Cập với Tây Á.
- Toàn bộ lịch sử Ai Cập gắn với dòng sông Nile, sông Nile dài gần 6.500km chảy từ Nam
xuống Bắc tạo thành 2 vùng được gọi là Hạ Ai Cập và Thượng Ai Cập. Sông Nile tạo ra một
vùng thung lũng dài với đất phù sa màu mỡ, hàng năm còn mang đến nước tưới cho cây cối,
hoa màu tốt tươi.
→ Về vị trí địa lý, chính sông Nile đã nuôi dưỡng cư dân đầu tiên của Ai Cập, là một trong
những cơ sở để hình thành nhà nước Ai Cập thời kỳ chiếm hữu nô lệ.

 Lưỡng Hà cổ đại.
- Lưỡng Hà nằm giữa 2 con sông là Tigrơ (Tigris) và Ơphrat (Euphrates), nằm ở khu vực Tây Á.
- Phía Đông và Phía Bắc được bao bọc bởi các dãy núi cao nguyên và hoang mạc.
- Khác với các quốc gia thời kỳ chiếm hữu nô lệ phương Đông, Lưỡng Hà được coi là vùng đất
có địa hình tương đối mở khi nó trở thành ngã ba đường giao thương phát triển kinh tế và hàng
hóa.

 Ấn Độ cổ đại.
- Ấn Độ là một bán đảo hình tam giác, nằm ở phía nam châu Á nhưng bị ngăn cách với châu lục
này bởi dãy núi cao nhất thế giới là dãy núi Himalaya. 3 mặt giáp biển, mặt còn lại bị ngăn cách
bởi dãy núi nên muốn đi đến Ấn Độ cực kỳ khó khăn ở thời kỳ này.
- Sông Hằng và sông Ấn được xem là 2 dòng sông mẹ sinh ra quốc gia Ân Độ, bồi đắp nên phù
sa và đó là cơ sở để hình thành nhà nước Ấn Độ.
→ Ấn Độ có vị trí địa lý khá biệt lập và các cư dân cổ đại của Ấn Độ sinh sống dọc lưu vực
sông Hằng và sông Ấn.

 Trung Quốc cổ đại.


- Lãnh thổ Trung Quốc rộng lớn nên địa hình và khí hậu đa dạng và phức tạp hơn rất nhiều so
với các quốc gia khác.
- Sông Hoàng Hà và sông Trường Giang là 2 sông lớn có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát
triển lịch sử Trung Quốc. Các triều đại của Trung Quốc đã xuất hiện, tồn tại trên lưu vực hai
dòng sông này và xây dựng nên nền văn minh Trung Quốc độc đáo.

→ Những điểm chung cơ bản về điều kiện tự nhiên:


- Các quốc gia này đều nằm trên lưu vực các con sông lớn. Giải thích: Điều này đem lại những
thuận lợi và khó khăn cho các quốc gia chiếm hữu nô lệ phương Đông: thuận lợi khi đem lại
khí hậu nhiệt đới (nóng ẩm, mưa nhiều, độ ẩm cao), thúc đẩy nền kinh tế trồng trọt đã phát triển
rất sớm khi công cụ lao động còn thô sơ; khó khăn là vì sống tập trung gần các con sông lớn
khiến dân cư dễ đối mặt với những hiểm họa từ thiên nhiên (lũ lụt, sạt lở đất…). Chính vì vậy,
ngay từ sớm các quốc gia chiếm hữu nô lệ ở phương đông đã đặt ra vấn đề sống chung với lũ và
khắc chế thiên nhiên.
- Địa hình phức tạp và khép kín (riêng chỉ có Lưỡng Hà là địa hình tương đối mở) → Chính đặc
điểm về điều kiện tự nhiên này dẫn đến khó khăn là giao thông bị hạn chế làm cho các nền văn
minh ở thời điểm này phát triển độc lập và mang đậm tính dân tộc.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
2. Điều kiện kinh tế:
- Sự chuyển biến về kinh tế: Chính nhờ điều kiện thuận lợi về tự nhiên mà kinh tế của các quốc
gia ở phương Đông cổ đại ngay từ sớm đã xuất hiện nền kinh tế nông nghiệp. Mặc dù canh tác
trên đất đai màu mỡ nhưng công cụ lao động còn thô sơ, chủ yếu là bằng đá, cành cây giòn và
dễ gãy nên năng suất lao động thấp. Sự thay đổi căn bản bắt đầu xuất hiện ở thiên niên kỷ thứ
IV TCN khi phát hiện ra công cụ bằng đồng. So với công cụ bằng đá, cành cây, xương… trước
kia thì công cụ bằng đồng đã có ưu điểm vượt trội: dẻo, mềm, dễ đập… góp phần làm đời sống
cư dân ổn định, năng suất sản xuất tăng, bắt đầu có của dư thừa để dành. Sự xuất hiện của công
cụ lao động mới đã làm xuất hiện hoạt động mới như săn bắt, đánh cá, trồng trọt, chăn nuôi. Từ
hoạt động săn bắt, hái lượm, kinh tế trồng trọt bắt đầu phát triển và 3 lần phân công lao động.
Công cụ bằng đá Công cụ kim loại

Hoạt động săn bắt, hái lượm Kinh tế trồng trọt

- Quá trình phân công lao động:


Trồng trọt Chăn nuôi Thủ công nghiệp Thương nghiệp

 Đặc trưng kinh tế:


- Kinh tế nông nghiệp là chủ đạo. Tính chất: Tự nhiên, tự cung tự cấp.
- Xuất hiện thủ công nghiệp và thương nghiệp, nhưng không được chú trọng.

3. Điều kiện xã hội:


- Chuyển biến về mặt xã hội:
+ Đặc trưng của xã hội công xã nguyên thủy là lao động chung, ở chung và ăn chung, sự phân
công lao động lúc này phụ thuộc vào giới tính: săn thú là việc của đàn ông, còn hái lượm, trông
nom con cái là việc của phụ nữ. Chính vì việc săn bắt bất ổn định hơn nên địa vị của phụ nữ
trong gia đình, xã hội cao hơn người đàn ông, người phụ nữ không chỉ là người chủ của gia
đình mà còn là người quyết định mọi việc trong thị tộc. Mặt khác do tập quán kết hôn quần hôn,
con cái sinh ra chỉ biết mặt mẹ không biết mặt cha và lấy họ mẹ nên thời kỳ này là chế độ mẫu
hệ. Tuy nhiên, sự xuất hiện của công cụ lao động mới làm nhiều hoạt động săn bắt (đánh cá,
trồng trọt…) đòi hỏi sức lao động của đàn ông nên chuyển từ chế độ mẫu hệ sang phụ hệ, người
đàn ông là lao động chính trực tiếp làm ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu sinh sống của cả thị
tộc nên đàn ông là chủ của gia đình và chế độ phụ hệ xuất hiện.
+ Đi kèm với sự thay đổi về mặt xã hội đó là công xã thị tộc tan rã, hình thành công xã nông
thôn:
Thứ nhất, gia đình nhỏ tách khỏi gia đình thị tộc và trở thành đơn vị kinh tế độc lập, công xã
nông thôn xuất hiện thay thế công xã thị tộc.
Thứ hai, chế độ tư hữu xuất hiện.
Xã hội công xã
Chế độ mẫu hệ Chế độ phụ hệ
nguyên thủy

Công xã thị tộc Công xã láng giềng Công xã nông thôn

Của cải dư thừa Tư hữu xuất hiện Tư hữu về tư liệu sinh hoạt
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
+ Phân hóa giàu nghèo và hình thành giai cấp:

Giai cấp thống trị: Giai cấp bị trị:


Quý tộc chủ nô - Nông dân công xã.
- Nô lệ: có nguồn gốc từ tù binh chiến tranh, nông
dân phá sản, không có quyền lợi về kinh tế, chính trị,
bị xem là đồ vật, công cụ lao động thuộc sở hữu của
chủ nô, chủ nô có toàn quyền sở hữu đối với nô lệ, có
thể mua bán, thế chấp, trao đổi nô lệ, thậm chí là
giết… Chính vì lý do này, khi nghiên cứu về chế độ
nô lệ ở phương đông cổ đại, chủ nghĩa Mác đã nhận
xét rằng đây chính là chế độ nô lệ gia trưởng.

Lưu ý: Chế độ nô lệ trong xã hội phương đông cổ đại mang tính chất không điển hình (hay gọi
là chế độ nô lệ gia trưởng) bởi vì:
+ Thứ nhất, số lượng nô lệ ở phương đông không có nhiều.
+ Thứ hai, chế độ nô lệ gia trưởng là loại hình xã hội còn duy trì nhiều tàn dư của chế độ công
xã thị tộc, số lượng nô lệ ít và sống, hầu hạ chủ nô, đồng thời, nền kinh tế chủ yếu nông nghiệp
nên họ sống và làm việc cùng với cả chủ, mối quan hệ này mang tính chất gia đình. Chính vì
vậy mà không có sự khác biệt giữa chủ nô và nô lệ như ở phương tây. Do vậy, tính chất nô lệ ở
phương đông cổ đại mang tính gia trưởng.

Chế độ nô lệ điển hình Chế độ nô lệ gia trưởng


Phương Tây Phương Đông
Số lượng nô lệ đông đảo Số lượng nô lệ ít
Lực lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội Phục vụ trong các gia đình chủ nô (nô tỳ,
đánh xa…)
Mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ rất gay gắt. Mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ khổng phải
là mâu thuẫn chính trong xã hội

→ Như vậy, giai cấp thống trị và giai cấp bị trị đã bắt đầu xuất hiện ở trong xã hội phương
đông cổ đại. Giữa 2 giai cấp này bắt đầu hình thành mâu thuẫn nhưng chưa đến nỗi gay gắt và
chưa bùng nổ thành các cuộc đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên, nhà nước vẫn ra đời do sự tác động
của hai yếu tố đó là: yếu tố trị thủy và chiến tranh.

 Yếu tố trị thủy và chiến tranh:


- Trị thủy và thủy lợi: Huy động sức của nhiều người trong thời gian ngắn. Giải thích: Do sống
gần các lưu vực sông lớn cần tiến hành trị thủy để việc sản xuất nông nghiệp trở nên dễ dàng
hơn. Việc trị thủy là cần sức của nhiều người trong thời gian ngắn nên đòi hỏi phải đoàn kết,
gắn bó với nhau. Đồng thời, vai trò của người đứng đầu chỉ đạo công việc trị thủy rất quan
trọng. Hai yếu tố này đã làm các cơ quan đã được hình thành trước khi nhà nước xuất hiện và
thực hiện các chức năng mang tính xã hội phục vụ công việc chung của xã hội.
- Chiến tranh: Đòi hỏi phải có người xây dựng, chỉ huy, thống lĩnh quân đội, tập trung lớn sức
người, sức của.
→ Khi trị thủy và chiến tranh trở thành nhu cầu sống còn của cư dân làm những tổ chức đầu
tiên được hình thành để thực hiện những công việc chung của xã hội và dần dần hoàn thiện,
chính là tiền thân của nhà nước.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
 Con đường hình thành Nhà nước theo học thuyết Mác - Lênin:

Chế độ Phân hóa Mâu thuẫn Đấu tranh Nhà nước


tư hữu giai cấp giai cấp giai cấp

 Con đường hình thành Nhà nước phương Đông cổ đại:

Trị thủy Chiến tranh Nhà nước

Chế độ Phân hóa Mâu thuẫn Đấu tranh


tư hữu giai cấp giai cấp giai cấp

→ So sánh với quan điểm của chủ nghĩa Mác về con đường hình thành Nhà nước thì có thể
nhận ra con đường hình thành Nhà nước của phương Đông cổ đại có sự khác biệt cơ bản. Nếu
con đường hình thành Nhà nước theo học thuyết Mác - Lênin đi tuần tự theo từng bước là: từ
xuất hiện chế độ tư hữu, phân hóa giai cấp đến mâu thuẫn giai cấp, khi mâu thuẫn giai cấp trở
nên gay gắt và bùng nổ đấu tranh giai cấp thì Nhà nước ra đời như là một sản phẩm của việc
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Tuy nhiên, ở phương Đông, sự ra đời của 4 nền
văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc thì không đi theo lần lượt từng bước như học
thuyết trên mà nó có mâu thuẫn giai cấp nhưng mâu thuẫn giai cấp này chưa đến mức gay gắt
đến mức bùng nổ đấu tranh giai cấp. Hai yếu tố trị thủy và chiến tranh tác động mạnh mẽ đến
sự hình thành nhà nước. Chính vì thế, Nhà nước phương đông cổ đại đã hình thành mà không
cần đến mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt đến mức bùng nổ đấu tranh giai cấp làm hình thành
Nhà nước.

Câu hỏi: Yếu tố trị thủy và chiến tranh có phải là nguyên nhân chính dẫn đến sự hình thành
Nhà nước hay không? Nếu không có yếu tố trị thủy và chiến tranh thì Nhà nước có ra đời hay
không?
→ Lưu ý: Nếu có yếu tố trị thủy và chiến tranh nhưng không có sự tư hữu về tài sản, không có
phân hóa giai cấp thì Nhà nước không thể ra đời được vì nhu cầu trị thủy và chiến tranh không
phải bây giờ mới xuất hiện mà trị thủy và chiến tranh đã xuất hiện từ khi con người bắt đầu sản
xuất và sinh hoạt. Có thủ lĩnh, có sự tập trung về mặt quyền lực nhưng không có sự tư hữu về
tài sản, không có phân hóa giai cấp thì sẽ không có giai cấp thống trị, giai cấp bị trị, thủ lĩnh
ngoài quyền uy mà không nắm kinh tế thì sẽ không được sự kính trọng của mọi người. Chính vì
vậy, yếu tố trị thủy và chiến tranh không phải là nguyên nhân chính dẫn đến sự hình thành Nhà
nước mà chỉ là yếu tố thúc đẩy Nhà nước hình thành nhanh hơn. Nguyên nhân chính dẫn đến sự
hình thành Nhà nước vẫn là sự phân hóa giai cấp.
(Cô bảo: Khi phân tích về sự hình thành Nhà nước phương Đông cổ đại thì cần chú ý đến yếu
tố về điều kiện tự nhiên, yếu tố về điều kiện kinh tế và yếu tố và điều kiện xã hội. Những yếu tố
này có sự tác động qua lại lẫn nhau và dẫn đến sự hình thành của Nhà nước).
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
→ Từ những nhận xét như trên thì ta có thể thấy sự hình thành Nhà nước của các quốc gia
chiếm hữu nô lệ phương đông cổ đại không giống hệt như quan điểm về sự hình thành Nhà
nước của chủ nghĩa Mác - Lenin mà nó được coi như là 1 ngoại lệ của sự hình thành Nhà nước.

II. Tổ chức bộ máy nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông:

Vua

Tô Quân
Bộ máy quan lại trung ương
thuế đội

Quan lại địa phương

- Vua: đứng đầu tổ chức bộ máy nhà nước, nắm mọi quyền hành: lập pháp, hành pháp, tư pháp,
nắm vương quyền và thần quyền. Quyền lực của vua là vô tận và vô hạn, cha chết thì truyền
ngôi cho con. Vua còn là chủ sở hữu tối cao về ruộng đất, nắm giữ mặt kinh tế rất vững chắc
bởi vì chỉ khi chi phối quyền lực về mặt kinh tế thì mới có thể chi phối các quyền lực khác về
mặt chính trị và xã hội.
- Bộ máy quan lại trung ương: giúp việc cho vua, có sự phân công, phân nhiệm bằng cách mỗi
người đảm nhận một công việc, một chức vụ, tuy nhiên sự đảm nhận công việc, chức vụ này
mang tính đơn giản, sơ khai.
- Quân đội: các vua ở các quốc gia chiếm hữu nô lệ phương đông rất quan tâm về quân đội.
Muốn duy trì bộ máy nhà nước, duy trì sự thống trị của giai cấp chủ nô cũng như tổ chức chiến
tranh để tranh giành lãnh thổ thì cần phải có lực lượng quân đội mạnh. VD: Ở Lưỡng Hà, vua
Hammurabi tổ chức được lực lượng quân đội mạnh và kỷ luật, thường trực nên vua Hammurabi
đã tiến hành các cuộc viễn chinh xâm lược chinh phục toàn Lưỡng Hà, đưa thời kỳ cổ Babylon
thành thời hoàng kim trong lịch sử Lưỡng Hà.
- Để duy trì bộ máy nhà nước và thực hiện các công việc chung của xã hội thì tô thuế là vấn đề
được các vua của quốc gia phương đông cổ đại quan tâm.
- Quan lại địa phương: Các quốc gia phương đông cổ đại chia lãnh thổ thành các đơn vị hành
chính và có người đứng đầu địa phương do vua bổ nhiệm nhưng chính quyền cơ sở thì hầu hết
đều là các công xã nông thôn. Ở phương đông, đời sống nông nghiệp quyết định nên người
nông dân quây quần trong các công xã. Nền kinh tế tự cung tự cấp làm cho tổ chức bộ máy
công xã có tính tự quản rất cao.
- Hội đồng công xã: là những người do thành viên công xã bầu ra, trong đó đứng đầu công xã là
người thay mặt thực hiện quan hệ với chính quyền cấp trên.
→ Như vậy, tổ chức bộ máy nhà nước chiếm hữu nô lệ phương đông hầu hết được tổ chức theo
hình thức chính thể quân chủ tuyệt đối, trong đó vua đứng đầu, nắm quyền lực tuyệt đối về tất
cả các mặt trong đời sống xã hội, giúp việc cho vua là hệ thống quan lại và thực hiện những
công việc và chức năng riêng. Tổ chức bộ máy nhà nước chiếm hữu nô lệ phương đông ở thời
kỳ này đã bắt đầu cơ bản có sự hình thành và có sự chuyên môn. Tuy nhiên, sự chuyên môn này
còn khá đơn giản, chỉ là mỗi người chỉ thực hiện một chức năng riêng.

III. Đặc điểm chung của các nhà nước phương Đông cổ đại:
- Các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông ra đời không phải là do nhu cầu bức thiết của
đấu tranh giai cấp mà do yêu cầu chống ngoại xâm và bảo vệ các lợi ích chung cộng đồng.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Các nhà nước phương Đông cổ đại được tổ chức theo hình thức quân chủ tuyệt đối.
- Quan hệ họ hàng huyết thống là yếu tố quan trọng nhất để tổ chức bộ máy nhà nước.
- Bộ máy nhà nước chịu ảnh hưởng tàn dư của chế độ thị tộc với những tín ngưỡng tôn giáo và
lễ giáo truyền thống.
- Bộ máy nhà nước mang nặng tính chất quân sự.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI


I. Pháp luật Lưỡng Hà cổ đại (Bộ luật Hammurabi):
1. Giới thiệu về Bộ luật Hammurabi:
a. Hoàn cảnh ra đời.
- Bộ luật Hammurabi ra đời vào thời kỳ của vương quốc Babylon của người Amorites (từ đầu
thế kỷ XIX TCN đến đầu thế kỷ XVI TCN) dưới thời vua Hammurabi.
- Bộ luật Hammurabi phát hiện năm 1901, hiện đang được trưng bày ở Bảo tàng Louvre (Pháp).
b. Nguồn của Bộ luật Hammurabi.
+ Thứ nhất, kế thừa những tiền lệ và tập quán trong xã hội trước đó.
+ Thứ hai, những quyết định (mệnh lệnh, chiếu chỉ) của vua Hammurabi.
+ Thứ ba, phán quyết của các bô lão, tộc trưởng.
→ Bộ luật Hammurabi được tổng hợp từ các nguồn tương đối phong phú, điều này cho thấy Bộ
luật Hammurabi có sự hệ thống hóa khá cao.

2. Cơ cấu của Bộ luật Hammurabi: gồm 3 phần:


- Phần mở đầu:
+ Hợp thức hóa giá trị thi hành của bộ luật bằng cách thần thánh hóa quyền lực của vua.
+ Vua Hammurabi khẳng định mục đích ban hành Bộ luật: “Khi thần Mácđúc ra lệnh cho trẫm
thống trị muôn dân và làm cho nước nhà được hưởng hạnh phúc, trẫm làm cho công bằng và
chính nghĩa tỏa khắp đất nước và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân từ nay về sau...”.
- Phần nội dung:
+ Nội dung gồm có 282 điều và có phạm vi điều chỉnh khá rộng đối với các quan hệ xã hội thời
Babylon cổ: hình sự, dân sự, tố tụng…
+ Từ Điều 1 đến Điều 4 quy định về việc đi kiện và bằng chứng;
+ Từ Điều 6 đến Điều 25 quy định về trộm cắp và cướp;
+ Từ Điều 39 đến Điều 64 quy định về ruộng đất và chế độ thuế.
- Phần kết luận:
+ Khẳng định mục đích ban hành luật “để cho người mạnh không hà hiếp kẻ yếu, để cho những
người cô quả có chỗ nương tựa ở thành Babylon… để cho tòa án trong nước tiện việc xét xử, để
cho sự tuyên án trong nước tiện việc quyết định…”.
+ “Nguyện thần trời đất vĩ đại, tất cả Anunác, thần bảo hộ các đền miếu hãy cùng nhau dùng
những lời trù đáng sợ để nguyền rủa bản thân người đó, nguyền rủa con cháu của người đó,
người dân và quân đội của người đó”.
→ Như vậy, phần mở đầu và phần kết luận cho thấy màu sắc thần quyền bao trùm trong Bộ luật
này, không chỉ vậy trong nội dung cụ thể của Bộ luật Hammurabi cũng thể hiện quan điểm của
người dân Lưỡng Hà cổ đại tin vào thế lực siêu nhiên luôn tồn tại song song với đời sống con
người.

3. Nội dung cơ bản của Bộ luật Hammurabi:


a. Các quy định về tội phạm và hình phạt.
Thừa nhận sự bất bình đẳng trong xã hội

Những quy
định về hình Áp dụng nguyên tắc đồng thái phục thù
phạt và tội và dùng tiền chuộc tội
phạm
Hình phạt hà khắc dã man
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
 Bộ luật Hammurabi thừa nhận sự bất bình đẳng trong xã hội:
Điều 204 Bộ luật Hammurabi: “Nếu một người dân tự do tát vào mặt một người dân tự do thì
phải bồi thường 10 xikhơ bạc”.
Điều 205 Bộ luật Hammurabi: “Nếu một nô lệ tát vào má con của dân tự do thì phải cắt một tay
của nó”.

 Nguyên tắc “đồng thái phục thù”:


Điều 196 Bộ luật Hammurabi: “Nếu dân tự do làm hỏng mắt của con của bất cứ người dân tự
do nào, thì phải làm hỏng mắt của y”.
Điều 197 Bộ luật Hammurabi: “Nếu dân tự do làm gãy xương của dân tự do, thì phải làm gãy
xương y”.
Điều 200 Bộ luật Hammurabi: “Nếu dân tự do đánh gãy răng của người dân tự do ngang hàng
với mình, thì phải đánh gãy răng của y”.
Điều 229 Bộ luật Hammurabi: “Nếu người thợ xây xây nhà mà xây không cẩn thận, nhà bị sập
làm chết chủ nhà thì giết chết người thợ xây; nếu làm chết con trai của chủ nhà thì phải giết
chết người con trai của người thợ xây”.

 Nguyên tắc dùng tiền chuộc tội:


Điều 199 Bộ luật Hammurabi: “Nếu y làm hỏng mắt của nô lệ của dân tự do thì phải bồi thường
1/2 giá mua của nô lệ đó”.

 Hình phạt hà khắc dã man:


Điều 21 Bộ luật Hammurabi: “Người nào xâm phạm chỗ ở của người khác thì bị xử tử và chôn
ngay tại chỗ đã xâm phạm”.
Điều 25 Bộ luật Hammurabi: “Nếu nhà nào bị cháy mà người dân tự do đến chữa cháy mà dòm
ngó tài sản hay lấy bất cứ vật gì, thì sẽ bị ném vào lửa”.

b. Các quy định về dân sự.


 Quy định về hợp đồng:
- Hợp đồng mua bán:
Người bán là chủ thực sự của tài sản
(Điều 7)

Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng Tài sản phải có giá trị sử dụng
(Điều 108)

Phải có người làm chứng


(Điều 7)

Điều 7 Bộ luật Hammurabi: “Người bán phải là chủ thực sự của tài sản và hợp đồng phải có
người làm chứng.
Nếu dân tự do mua của con hoặc nô lệ của dân tự do hoặc trữ giúp học cho họ bạc hoặc vàng
hoặc nô lệ, hoặc nữ nô lệ, hoặc bò, hoặc cừu, hoặc lừa, hoặc bất cứ vật gì, mà không có người
làm chứng hoặc giấy chứng nhận thì tức là ăn trộm, sẽ bị xử tử”.
- Hợp đồng vay:
Mức lãi suất (Điều 89, 91)

Hợp đồng vay tài sản Phương thức trả nợ (Điều 90, 51)

Phương thức bảo đảm


Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Hợp đồng lĩnh canh:
Vườn: 2/3 sản phẩm
Mức thu tô
(Điều 64, 48)
Ruộng: 1/3 - 1/2 sản phẩm

Hợp đồng Trách nhiệm


lĩnh canh không chuyên cần
ruộng đất (Điều 42 - 44)

Trách nhiệm
công tác thủy lợi
(Điều 53 - 56)

- Hợp đồng gửi giữ:


+ Quy định phải có người làm chứng và sau khi lấy lại tài sản phải có chứng từ (Điều 104 -
107).
+ Trách nhiệm của người nhận giữ tài sản mà không trao nó lại cho người gửi giữ (Điều 121,
Điều 122).

Phải có người làm chứng (Điều 122)

Hợp đồng gửi giữ tài sản Mức thù lao (Điều 121)

Trách nhiệm người gửi giữ (Điều 125)

 Quy định về hôn nhân và gia đình:


Kết hôn phải có giấy tờ
Quy định về thủ tục kết hôn
(Điều 128)

Quy định về nghĩa vụ vợ chồng Công khai thừa nhận sự bất bình
Các quy đẳng giữa vợ chồng
định về (Điều 128)
hôn nhân
và gia đình Hạn chế quyền ly hôn của
Quy định về ly hôn
người vợ (Điều 131, 134, 142)

Bảo vệ người phụ nữ trong một số


Nguyên tắc nhân đạo trường hợp (Điều 148, 149, 138)

- Quy định về thủ tục kết hôn:


Điều 128 Bộ luật Hammurabi: Nếu dân tự do cưới vợ mà không có giấy tờ thì người phụ nữ đó
không phải là vợ của y.
- Quy định về nghĩa vụ vợ chồng:
+ Công nhận quyền gia trưởng, người đàn ông là chủ gia đình.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
+ Theo điều khoản 129 của Bộ luật Hammurabi, người chồng là ông chủ, nghĩa là kẻ chiếm hữu
đầy quyền hành đối với vợ mình.
- Quy định về ly hôn:
+ Chồng có quyền bỏ vợ:
Điều 138 Bộ luật Hammurabi: “Nếu người dân tự do muốn bỏ người vợ chưa sinh con cái thì
phải cho thị một số bạc tương đương với lễ hỏi và phải trả lại những của hồi môn mà thị mang
từ nhà cha, mẹ về, sau đó mới bỏ”.
+ Vợ có quyền bỏ chồng:
Khi bị bệnh hủi và không muốn sống với chồng
Vợ có quyền bỏ chồng
Khi chồng hành hạ vợ

Điều 148 Bộ luật Hammurabi: “Nếu dân tự do lấy vợ, người vợ bị hủi, mà người này muốn lấy
một người khác nhưng không được bỏ người vợ bị bệnh hủi, người vợ đó được ở trong nhà y, y
phải nuôi nấng người vợ đó suốt đời. Nếu người đàn bà đó không muốn ở nhà chồng mình, thì
y phải trả lại của hồi môn mà thị mang từ nhà cha, mẹ về cho thị, thị có thể bỏ đi”.
Điều 142 Bộ luật Hammurabi: “Nếu người vợ ghét chồng và nói với chồng rằng: “Anh không
được chiếm hữu tôi” thì phải tìm người hàng xóm của họ để điều tra việc này. Nếu như thị trinh
tiết mà không có tội lỗi mà chồng thị thường đi ra ngoài và còn làm tội làm tình thị, thì người
đàn bà đó không có tội, thị được lấy của hồi môn của mình và trở về nhà cha mẹ”.

 Quy định về thừa kế:


- Luật Hammurabi phân làm 2 hình thức thừa kế: Thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di
chúc.
- Căn cứ phát sinh quan hệ thừa kế: cái chết của người cha. Tại sao không phải là cái chết của
người mẹ? Vì người mẹ không có quyền để lại thừa kế, khi kết hôn thì tất cả của hồi môn đều
thuộc về gia đình nhà chồng. Tuy nhiên, nếu trong pháp luật của các quốc gia cổ đại khác thì
quyền thừa kế chỉ thuộc về con trai, trong pháp luật Lưỡng Hà thì con trai và con gái đều được
hưởng quyền thừa kế bình đẳng và ngang nhau, đây là sự bình đẳng ít ỏi về giới tính trong Bộ
luật Hammurabi.
- Điều kiện bị tước quyền thừa kế: Điều 169.

c. Các quy định về tố tụng.


- Nguyên tắc khi xét xử như xét xử phải công khai, phải coi trọng chứng cứ, phán quyết phải thi
hành nghiêm minh.
- Quy định về trách nhiệm của thẩm phán.
- Quy định cách thức xét xử bằng phép thử tội. Giải thích: Những cư dân Lưỡng Hà cổ đại sống
mật thiết với thiên nhiên, tin rằng đấng tối cao đã sáng tạo ra muôn loài, thần thánh mới là
người công minh nhất cho biết thế nào là công bằng hay không. Tranh chấp về nhà cửa thì
nguyên đơn chỉ cần nhảy xuống dòng sông, nếu nguyên đơn còn sống thì tức là nhà của nguyên
đơn, nếu nguyên đơn chết thì đó không phải là nhà của nguyên đơn. Đây chính là phép thử tội
được sử dụng trong xã hội Lưỡng Hà cổ đại lúc bấy giờ.
- Việc xét xử mang tính thần thánh: Nếu một người kiện một người khác, bị đơn sẽ phải đi đến
một dòng sông và nhảy xuống, nếu anh ta bị chìm, bị dòng nước cuốn đi, nguyên đơn sẽ sở hữu
nhà của bị đơn. Nhưng ngược lại, nếu dòng sông chứng minh rằng bị đơn không có tội, tức là
anh ta còn sống, thì nguyên đơn sẽ bị giết chết, và bị đơn sẽ sở hữu nhà của nguyên đơn.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
→ Nhận xét, đánh giá về Bộ luật Hammurabi:
- Ưu điểm:
+ Phạm vi điều chỉnh rộng với hầu hết các quan hệ xã hội.
+ Các quy định về hợp đồng và thừa kế khá tiến bộ.
+ Có ý thức bảo vệ những người có địa vị yếu thế trong xã hội.
- Hạn chế:
+ Mang tính trọng hình khinh dân. Giải thích: Có rất nhiều các quy định về hình sự nhưng lại
rất ít các quy định về dân sự, chứng tỏ những quy định về trừng trị tội phạm được quan tâm hơn
cả trong xã hội Babylon.
+ Pháp luật bị ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo.
+ Hình phạt thì rất dã man, mang đau đớn kéo dài thể hiện sự răn đe, mà chưa có tính giáo dục,
mang tính “đồng thái phục thù”.
+ Pháp luật mang tính bất bình đẳng sâu sắc về giới và bất bình đẳng về giai cấp, địa vị xã hội.
+ Bộ luật chưa có tính khái quát, tính hệ thống cao, các quy định thường chỉ là sự mô tả các
hành vi cụ thể.

II. Pháp luật Ấn Độ cổ đại (Bộ luật Manu):


1. Đặc điểm Bộ luật Manu:
- Bộ luật Manu là bộ luật hoàn chỉnh nhất trong tất cả các luật lệ cổ ở Ấn Độ cổ đại, được xây
dựng vào thế kỷ II - I TCN bởi các giáo sĩ Bà-la-môn.
- Nguồn gốc: những luật lệ, những tập quán pháp của giai cấp thống trị được các giáo sĩ Bà-la-
môn tập hợp lại.
- Cơ cấu: Bộ luật gồm 2685 điều, chia thành 12 chương.
- Nội dung: Với 2685 điều điều chỉnh các quan hệ xã hội và những vấn đề khác như chính trị,
tôn giáo, quan niệm về thế giới và vũ trụ.
- Bộ luật Manu mang tính chất hà khắc, dã man, sơ khai và giai cấp và bộ luật này được coi là
bách khoa toàn thư về Ấn Độ cổ đại. Màu sắc tôn giáo ảnh hưởng rất nhiều trong Bộ luật Manu.
- Bên cạnh đó, xã hội Ấn Độ bị ảnh hưởng bởi chế độ đẳng cấp Vácna. Nguyên nhân của sự
phân chia đẳng cấp này là do sự phân hóa về tài sản, về giai cấp, về nghề nghiệp dẫn đến sự
phân hóa về đẳng cấp trong xã hội.

2. Nội dung cơ bản của Bộ luật Manu:


a. Những quy định về dân sự.
- Quy định về sở hữu: Pháp luật thừa nhận 3 hình thức sở hữu: Sở hữu của vua (Điều 265), Sở
hữu của công xã nông thôn (Điều 164), Sở hữu tư nhân (Điều 9).
- Quy định về hợp đồng:
+ Bộ luật Manu quy định về lãi suất tùy theo đẳng cấp trong xã hội: Địa vị càng cao thì lãi càng
thấp: cụ thể đẳng cấp Bà-la-môn là 2%, Ksatra 3%, Vaishya 4%, Sudra 5%.
+ Sử dụng con nợ làm vật đảm bảo cho hợp đồng.
+ Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng:
Không được ký kết mang tính giả tạo.
Không được ký kết với người điên, người già, người say rượu.
Hợp đồng phải được ký kết công khai, không được ký kết bí mật.
- Quy định về hôn nhân gia đình.
+ Về hình thức kết hôn: 4 hình thức hôn nhân: hôn nhân do cha mẹ định đoạt, cướp cô dâu, mua
vợ hoặc hôn nhân tự nguyện.
+ Về mối quan hệ vợ chồng: thể hiện sự bất bình đẳng trong quan hệ hôn nhân.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
+ Bảo vệ quyền gia trưởng của người đàn ông trong gia đình, bảo vệ sự bất bình đẳng về giới
tính và công nhận sự bất bình đẳng về đẳng cấp.
+ Bộ luật Manu công nhận sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng: “Người chồng có thể trụy lạc,
độc ác nhưng vợ vẫn phải coi chồng là thần thánh” (Điều 46 Bộ luật Manu).
+ Vai trò và địa vị của người phụ nữ vô cùng thấp kém: “Khi còn nhỏ người con gái phải phục
tùng cha, thời thanh xuân phải phục tùng chồng, sau khi chồng chết, phải phục tùng con trai”
(Điều 147 ,148).
- Quy định về thừa kế:
+ Thừa nhận hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Tất cả các con đều có
quyền thừa kế tài sản của người cha. Con gái nhận tài sản thừa kế dưới dạng của hồi môn.

b. Những quy định về tội phạm và hình phạt.


- Là lĩnh vực thể hiện sự bất bình đẳng vô cùng lớn giữa những đẳng cấp khác nhau trong xã
hội theo nguyên tắc: “khoan dung đối với những người thuộc đẳng cấp trên chà đạp lên quyền
lợi của đẳng cấp dưới, trừng trị thẳng tay đối với những người thuộc đẳng cấp dưới xâm phạm
đến tính mạng, quyền lợi, nhân phẩm của người thuộc đẳng cấp trên”.
- Các hình phạt trong Bộ luật Manu rất dã man: chặt chân, chặt tay, đóng đinh vào bàn tay, bàn
chân, nhúng người vào chảo dầu sôi…
- Mang tính trả thù ngang bằng nhau.

c. Những quy định về tố tụng.


- Bộ luật rất coi trọng chứng cứ nhưng chứng cứ lại phụ thuộc vào đẳng cấp và giới tính.
- Cho phép áp dụng phép thử tội.

→ Nhận xét, đánh giá về Bộ luật Manu:


- Một số quy định tiến bộ nằm ở lĩnh vực dân sự: quy định về các loại hợp đồng, điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng…
- Pháp luật thừa nhận sự bất bình đẳng sâu sắc.

III. Pháp luật Trung Quốc cổ đại: Pháp luật qua các triều đại: Hạ, Thương và Chu.
1. Pháp luật thời Hạ: Do pháp luật thời Hạ chủ yếu qua truyền miệng và tập quán là chính nên
có rất ít tư liệu về pháp luật thời nhà Hạ.

2. Pháp luật thời Thương: Tuy đã có pháp luật thành văn nhưng pháp luật chủ yếu là các
mệnh lệnh của nhà vua, hơn nữa các quy định lại chú trọng đến những hình phạt vô cùng tàn
nhẫn, khắc nghiệt (như chôn sống, xử tử, mổ bụng…), khá tiêu cực nên phần pháp luật Trung
Quốc cổ đại sẽ đi nghiên cứu pháp luật thời Chu.

3. Pháp luật thời Chu:


a. Pháp luật thời Tây Chu.
- Để bảo đảm trật tự xã hội và điều chỉnh hành vi con người thì hệ thống lễ của nhà Chu được
xây dựng, gồm 5 loại, được gọi là “Ngũ lễ”: Cát lễ (lễ tế các thần linh), Hung lễ (lễ cúng tế, ma
chay, mất mùa), Quân lễ (lễ ra quân), Tân lễ (lễ tiếp đón các chư hầu), Gia lễ (lễ hôn nhân, lễ
lập con trưởng).
- Người ta thực hiện lễ một cách tự nguyện, lễ trở thành quy tắc xử sự chung của mọi người
trong xã hội, nếu ai không tuân theo lễ sẽ bị chê cười là không có chính nghĩa, không xứng
đáng là bậc trượng phu… Chính vì đặc điểm đó nên nhà Chu dựa vào lễ để quản lý xã hội và
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
hình phạt lúc này dùng để trừng trị những ai không tuân theo lễ. Dần dần, lễ trở thành một yếu
tố quan trọng trong pháp luật nhà Chu.
- Hình phạt bao gồm 5 bậc, gọi là “Ngũ hình”: phị hình, cung hình, đại tịch, mặc hình, tỵ hình.
+ Phị hình: chặt chân.
+ Cung hình: thiến (đối với nam), nhốt vào nhà kín (đối với nữ).
+ Mặc hình: khắc chữ lên mặt.
+ Tỵ hình: xẻo mũi.
+ Đại tịch: tử hình.
→ Tội phạm, lễ và hình phạt có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.

b. Các tư tưởng chính trị xã hội thời Đông Chu.


Nếu ở thời Tây Chu uy quyền của thiên tử còn mạnh nên trật tự xã hội tương đối ổn định. Đến
thời Đông Chu, vua Chu đã mất dần thế lực và uy quyền, các nước chư hầu không ngừng đánh
giết lẫn nhau và xã hội trở nên mất ổn định. Trước tình hình đó đã có rất nhiều học thuyết chính
trị ra đời với mục đích khôi phục lại trật tự xã hội. Có nhiều trào lưu tư tưởng mới được xây
dựng và tiêu biểu có 4 trường phái đó là:
Nho giáo Đạo gia Mặc gia Pháp gia
Hạt nhân của tư Lão tử chủ Hạt nhân tư tưởng Cai trị xã hội bằng pháp luật
tưởng này là Nhân. trương: “Vô vi Mặc gia: Thuyết với 3 yếu tố: pháp, thế, thuật.
bất trị” (không kim ái.
làm không cai
trị).
Khổng Tử (551 - Lão tử họ Lý tên Người sáng lập Hàn Phi là công tử nước Hàn
479 TCN) là nhà tư Nhĩ, tự Đam - là học thuyết Mặc có học vấn uyên bác. Ông là
tưởng lỗi lạc, đồng người nước Sở, gia - Mặc Tử tên người đã tổng kết kinh nghiệm
thời sáng lập ra học là người sáng là Địch, người thực tiễn và lý luận của Pháp
thuyết Nho giáo. tạo ra Đạo gia. nước Lỗ. gia và phát triển, hoàn chỉnh
thành sách Hàn Phi Tử.
Tuy nhiên những quan điểm này đi ngược với tiến trình của lịch sử và không được giai cấp
thống trị đương thời chấp nhận, ngoại trừ pháp gia được đánh giá được đánh giá là thực dụng
hơn cả và được áp dụng ở một số quốc gia và mang đến thành tựu to lớn.

 Tư tưởng Pháp trị:


- Nội dung cốt lõi của tư tưởng Pháp trị:
+ “Pháp”: hệ thống pháp luật nghiêm minh, rõ ràng và ban bố rộng rãi.
+ “Thế”: Uy quyền của nhà vua.
+ “Thuật”: Là phương pháp điều hành, quản lý con người. Thuật có 3 nội dung: Bổ nhiệm,
Khảo hạch, Thưởng phạt.
→ Trong thời kỳ này, tư tưởng pháp trị đem lại hiệu quả hơn hẳn kèm sự ổn định kinh tế, chính
trị, giúp nước Tần trở nên vững mạnh và là cơ sở để Tần Doanh Chính thống nhất Trung Quốc
sau này.

IV. Nhận xét về pháp luật phương Đông cổ đại:


- Thứ nhất, một số điểm tiến bộ:
+ Phạm vi điều chỉnh khá rộng, cả lĩnh vực dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình và tố tụng.
+ Một số quy định dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình có ý thức bảo vệ quyền lợi cho những đối
tượng yếu thế trong xã hội.
- Thứ hai, hạn chế:
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
+ Pháp luật công khai thừa nhận sự bất bình đẳng.
+ Pháp luật mang tính “trọng hình, khinh dân”, đồng thái phục thù.
+ Trong quan hệ gia đình, thừa nhận sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa các con với nhau;
trong xã hội thừa nhận sự bất bình đẳng giữa nam và nữ.
+ Pháp luật bị ảnh hưởng bởi tôn giáo, lễ giáo và các hệ tư tưởng chính trị.
+ Hình phạt được quy định vô cùng dã man.
+ Về trình độ lập pháp: Chưa có tính hệ thống, chưa có sự phân chia các quy phạm pháp luật
thành các chế định luật, ngành luật riêng biệt. Thiếu tính bao quát, dự liệu.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 3: NHÀ NƯỚC CHIẾM HỮU NÔ LỆ PHƯƠNG TÂY


I. Quá trình hình thành, phát triển và suy vong của nhà nước chiếm hữu nô lệ phương
Tây:
1. Cơ sở hình thành các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Tây:
- Các quốc gia cổ đại phương Tây ra đời vào khoảng thiên niên kỷ thứ II - Thiên niên kỷ thứ I
TCN.
- Vào thế kỷ thứ VIII - V TCN, nhà nước với hình thức là các quốc gia thành bang bắt đầu xuất
hiện ở bán đảo Bancan vào thế kỷ IV TCN.

a. Điều kiện tự nhiên.


 Hy Lạp cổ đại:
- Hy Lạp là một quốc gia ở khu vực Địa Trung Hải, có vị trí địa lý rất quan trọng trong việc
giao thương giữa phương Đông và phương Tây. Lãnh thổ Hy Lạp cổ đại bao gồm 3 phần: phần
Hy Lạp lục địa, Hy Lạp quần đảo và Hy Lạp Tiểu Á.
- Hy Lạp ít đồng ruộng, đất đai không thuận lợi cho việc trồng cây lương thực.
- Hy Lạp giáp biển thuận lợi cho việc đẩy mạnh hoạt động mậu dịch với các quốc gia khác.
- Địa hình Hy Lạp bị xé nhỏ bởi các dãy núi tạo thành các thung lũng hẹp.

 La Mã cổ đại:
- La Mã nằm trên bán đảo Italy, một bán đảo lớn, dài và hẹp, nằm chắn ngang Địa Trung Hải.
- Bán đảo Italy không bị chia cắt thành những vùng biệt lập. Ở đây có khá nhiều đồng bằng
màu mỡ và các cánh đồng cỏ rộng lớn.
- Cũng giống Hy Lạp, có diện tích tiếp giáp với biển khá nhiều, có nhiều vũng vịnh nước sâu
thuận lợi cho việc neo đậu tàu thuyền, từ đó thích hợp phát triển kinh tế thương nghiệp.
- La Mã có ngành kinh tế nông nghiệp phát triển hơn so với Hy Lạp. Địa hình của La Mã không
bị chia cắt như Hy Lạp nên thuận lợi cho việc xây dựng một nhà nước La Mã thống nhất.

→ Nhận xét:
- Thứ nhất, các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Tây được hình thành trên các đảo, bán đảo,
các mặt giáp biển thuận lợi cho sự phát triển kinh tế thương mại, mậu dịch hàng hải.
- Thứ hai, khí hậu ôn đới, đất đai phù hợp với việc trồng cây công nghiệp, là nguyên liệu cho
các ngành thủ công nghiệp, thương nghiệp.

b. Điều kiện kinh tế.


Công cụ lao động Năng suất lao Phân công
bằng sắt xuất hiện động tăng cao lao động xã hội

- Quá trình phân công lao động qua 3 giai đoạn:

Trồng trọt Chăn nuôi Thủ công nghiệp Thương nghiệp

- Sự phân công lao động ở xã hội ở phương Tây cổ đại rõ ràng và triệt để. Giải thích: Quá trình
phân công lao động ở phương Tây đã trải qua 3 giai đoạn và 3 giai đoạn này tách biệt hoàn toàn
với nhau, tức là thương nghiệp đã tách biệt khỏi thủ công nghiệp và nông nghiệp. Không giống
với phương Đông, mặc dù nền kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp đã xuất hiện nhưng
chưa tách khỏi nền kinh tế nông nghiệp vì nền kinh tế ở phương Đông là nền kinh tế chủ đạo,
thủ công nghiệp và thương nghiệp chỉ bổ trợ thêm cho nền kinh tế nông nghiệp. Trong khi đó, ở
phương Tây, thương nghiệp và thủ công nghiệp rất phát triển.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
c. Điều kiện xã hội.
- Chuyển biến về mặt xã hội:

Chế độ mẫu hệ Chế độ phụ hệ


Công xã nguyên thủy
Công xã thị tộc Công xã láng giềng Công xã du mục

+ Sự xuất hiện của chế độ phụ hệ thay thế cho chế độ mẫu hệ, chế độ phụ hệ là chế độ mà
người đàn ông có quyền quyết định tất cả những vấn đề trong gia đình và xã hội. Sự xuất hiện
của chế độ phụ hệ thể hiện vai trò của đàn ông và sự xuất hiện của các gia đình nhỏ tách ra khỏi
công xã nguyên thủy.
+ Sự xuất hiện công xã láng giềng thay thế công xã thị tộc. Trước đây, sợi dây liên kết giữa
những người trong công xã thị tộc là huyết thống thì nay công xã láng giềng là tập hợp của
những gia đình nhỏ, các gia đình nhỏ tách ra khỏi công xã thị tộc và cùng nhau sinh sống ở
những vùng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi, mối liên hệ giữa họ là kinh tế chứ không còn là
huyết thống. Hình thức công xã láng giềng ở phương Tây là công xã du mục, đặc trưng cho nền
kinh tế chăn nuôi du mục.
- Kinh tế phát triển mạnh, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều đã nhanh chóng phá vỡ chế độ sở
hữu chung của chế độ công xã thị tộc.

Năng suất Tư hữu xuất Phân hóa Mâu thuẫn Đấu tranh Nhà nước
lao động hiện, tư hữu giai cấp giai cấp giai cấp
tăng, của về sản phẩm sâu sắc
cải dư làm ra + tư
thừa liệu sản xuất

 Con đường hình thành Nhà nước theo học thuyết Mác - Lênin:

Chế độ Phân hóa Mâu thuẫn Đấu tranh Nhà nước


tư hữu giai cấp giai cấp giai cấp

→ So sánh với quan điểm của chủ nghĩa Mác về con đường hình thành Nhà nước thì có thể
nhận ra con đường hình thành Nhà nước phương Tây cổ đại đi theo đúng con đường hình thành
Nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Phân hóa giàu nghèo và hình thành giai cấp:
Giai cấp thống trị: Giai cấp bị trị:
- Quý tộc thị tộc: xuất thân từ vương công, tù trưởng, tộc trưởng - Nông dân lao động.
trước đây trong các công xã nguyên thủy. - Bình dân.
- Quý tộc công thương: đội ngũ thợ thủ công, thương nhân lớn - Nô lệ: có nguồn gốc rất đa dạng từ
mạnh, dần nắm quyền lực về kinh tế khi nền kinh tế thương nghiệp, tù binh chiến tranh, nông dân phá sản
thủ công nghiệp phát triển. Đây là đội ngũ tích cực nhất trong việc trở thành nô lệ, mua bán nô lệ, con do
xây dựng nền dân chủ ở phương Tây thời kỳ này. Vì quý tộc công nô lệ sinh ra, cướp biển bắt về làm nô
thương nắm trong tay quyền lực kinh tế, quý tộc thị tộc nắm trong lệ. Đội ngũ chiếm số lượng đông đảo
tay quyền lực về chính trị nên quý tộc công thương khi đã có kinh trong giai cấp bị trị. Đây là đội ngũ
tế càng muốn có quyền lực về chính trị (đây là quá trình dân chủ trực tiếp tham gia sản xuất và trực tiếp
hóa, thâu tóm quyền lực chính trị về tay quý tộc công thương). bị quý tộc, chủ nô bóc lột.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
2. Lịch sử phát triển và suy vong của các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Tây:
(đọc thêm giáo trình)
a. Hy Lạp.
- Văn minh Cret - Myxen (khoảng thiên niên kỷ III - thế kỷ XII TCN): Cret là một hòn đảo lớn
nằm ở phía nam bán đảo Êgiê với những thành thị nổi tiếng như Malia, Phaitốt, Cơnôsốt…
- Thời kỳ Hôme (thế kỷ XI đến thế kỷ IX TCN): Xã hội Hy Lạp thời kỳ Hôme là xã hội thị tộc,
bộ lạc ở giai đoạn mạt kỳ. Các thành viên thị tộc, theo truyền thống, được thị tộc phân chia cho
những mảnh đất để trồng trọt và chăn nuôi.
- Thời kỳ các quốc gia thành bang (thế kỷ VII - IV TCN): Trong tất cả các thành bang tồn tại
thời kỳ này, Xpác và Athens là 2 thành bang có vai trò quan trọng đối với Hy Lạp cổ đại.
- Thời kỳ Macedonia và thời kỳ Hy Lạp hóa (337 - 30 TCN): Sau khi Philip II bị ám sát năm
337 TCN, con trai là Alexandre lên cầm quyền, thống lĩnh lực lượng liên quân Hy Lạp
Macedonia tiến đánh và chiếm Ba Tư, chinh phục vùng Tây Á, Trung Á, Ai Cập, tới vùng bắc
Ấn Độ lập nên một đế quốc rộng lớn được gọi là thời kỳ Macedonia. 332 TCN, đế quốc
Macedonia tan rã, tuy nhiên do văn hóa Hy Lạp được truyền bá rộng rãi nên người ta gọi thời
kỳ này là thời kỳ Hy Lạp hóa.

b. La Mã.
- Thời kỳ Vương Chính (753 - 510 TCN) - thời kỳ dân chủ quân sự:
+ Theo truyền thuyết, thành Roma do Romullus xây dựng vào năm 753 TCN trên bờ sông
Tibres thuộc miền trung bán đảo Ý, nơi quần cư của 3 bộ lạc người Latin (mỗi bộ lạc 100 thị
tộc).
+ Quản lý xã hội thị tộc của người Roma thời kỳ này là 3 cơ quan:
Đại hội nhân dân (Curi) Là cơ quan quyền lực tối cao

Viện nguyên lão (Senat) Quyết định quan trọng của quốc gia

“Vua” (Rex) Là thủ lĩnh quân sự của 3 bộ lạc

- Nhà nước La Mã cổ đại thời kỳ cộng hòa (thế kỷ VI - I TCN): Năm 510 TCN, sau khi người
Roma lật đổ Rex Tarquin kiêu ngạo, La Mã bước vào thời kỳ cộng hòa.
- Thời quân chủ chuyên chế (30 TCN - 476 SCN): Từ cuối thế kỷ II TCN, nhất là từ giữa thế kỷ
I TCN, do sự đấu tranh của quần chúng nhân dân, sự chống đối ngày càng mạnh của các tỉnh,
nhà nước La Mã ngày càng có xu hướng tăng cường chuyên chính.

II. Các nhà nước điển hình ở phương Tây thời kỳ cổ đại:
1. Nhà nước Hy Lạp:
Vì địa hình bị xé nhỏ nên ở Hy Lạp xuất hiện nhiều nhà nước thành bang, trong đó có 2 nhà
nước thành bang điển hình nhất ở Hy Lạp là Xpác (Sparta) và Aten (Athens), đây là 2 thành
bang đại diện cho 2 xu hướng phát triển về chính thể: Xpác (Sparta) theo chính thể cộng hòa
quý tộc chủ nô, Aten (Athens) theo chính thể cộng hòa dân chủ chủ nô.

a. Nhà nước thành bang Xpác (Sparta).


 Quá trình hình thành nhà nước Xpác:
- Sự ra đời của nhà nước Xpác là kết quả của quá trình thôn tính của tộc người Đôriêng đối với
tộc người Akêăng.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Khi củng cố được sự thống trị của mình, người Đôriêng tiếp tục tổ chức chiến tranh và xâm
chiếm vùng đồng bằng của người Hilốt (thế kỷ VIII - VII TCN) biến toàn bộ dân cư của họ
thành nô lệ.
Akêăng
Đôriêng Nhà nước Xpác
Hilốt

Giai cấp thống trị Giai cấp bị trị


- Người Đôriêng (người Xpác) - Người Pêriét (người Akêăng).
- Người Hilốt: là nô lệ chung
của xã hội người Xpác, họ
không thuộc quyền sở hữu của
từng chủ nô - nô lệ tập thể.

 Tổ chức bộ máy nhà nước Xpác:


Hội đồng năm quan
Hai vua giám sát:
- Giám sát hai vua,
HĐTL, HNCD.
- Có quyền giải quyết
Hội đồng trưởng lão Hội nghị công dân
các công việc quan
trọng của Nhà nước về
chính trị, ngoại giao.
- Có quyền kiểm tra tư
cách công dân.

 Nhận xét về nhà nước Xpác:


- Thứ nhất, tất cả các thiết chế quyền lực trong nhà nước đều do tầng lớp quý tộc chủ nô nắm
giữ.
- Thứ hai, nhà nước thành bang Xpác được xem là một “trại lính”, một nhà nước mang tính
quân phiệt với sự lạc hậu về kinh tế, bảo thủ về mặt chính trị.

b. Nhà nước thành bang Aten (Athens).


Được đánh giá là nền dân chủ ra đời sớm nhất ở phương Tây thời kỳ cổ đại và là nền dân chủ
có giá trị tiến bộ đến ngày nay.
 Quá trình hình thành nhà nước Athens (VIII - IV TCN):
- Điều kiện tự nhiên: Có bờ biển rất dài, có nhiều mỏ khoáng sản lộ thiên.
- Điều kiện kinh tế:
+ Không thuận lợi để phát triển nông nghiệp.
+ Có điều kiện phát triển thủ công nghiệp và thương nghiệp, mậu dịch hàng hải.
- Điều kiện xã hội:
Quý tộc thị tộc
Giai cấp thống trị
Quý tộc công thương
Phân hóa giàu nghèo Phân hóa giai cấp
Bình dân
Giai cấp bị trị
Nô lệ
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

Quý tộc chủ nô Quý tộc công thương nghiệp

Quý tộc chủ nô Bình dân nô lệ

 Tổ chức bộ máy nhà nước Athens:


- Tổ chức bộ máy nhà nước Athens khi mới hình thành:

Hội đồng trưởng lão: là tập hợp đội Hội nghị nhân dân: là cơ quan
ngũ quý tộc thị tộc giàu có tham gia đại diện cho quyền lợi của người
vào. Đây là cơ quan có quyền lực cao bình dân.
nhất trong tổ chức bộ máy nhà nước
Athens thời kỳ này. Cơ quan này còn
thao túng quyền lực của Hội nghị nhân
dân.

Hội đồng quan nhiếp chính: thực hiện


các quyết định của Hội đồng trưởng
lão.

→ Nhận xét:
- Cơ quan có quyền lực cao nhất là Hội đồng trưởng lão và đại diện cho quyền lợi của quý tộc
thị tộc.
- Tổ chức bộ máy nhà nước Athens khi mới hình thành có hình thức chính thể là cộng hòa quý
tộc chủ nô. Nhưng Athens không dừng lại ở đây mà với sự phát triển về nền kinh tế thương
nghiệp và thủ công nghiệp ở Athens mà đội ngũ quý tộc công thương nắm trong tay quyền lực
về kinh tế rất lớn.

 Quá trình dân chủ hóa ở Athens:


 Cải cách của Solon: về kinh tế, xã hội, tổ chức bộ máy nhà nước.
- Về kinh tế:
+ Xóa bỏ nợ, cấm biến dân tự do Athens thành nô lệ.
+ Quy định hạn mức tối đa sở hữu ruộng đất.
+ Cải cách hệ thống tiền tệ và sử dụng thợ thủ công nước ngoài.
- Về xã hội:
+ Đẳng cấp thứ nhất: Giữ chức vụ cao cấp trong nhà nước.
+ Đẳng cấp thứ hai: Tham gia Hội đồng 400 người, đội kỵ binh.
+ Đẳng cấp thứ ba: Tham gia Hội đồng 400 người, đội bộ binh.
+ Đẳng cấp thứ tư: Không được tham gia bộ máy nhà nước, đi lính, đóng thuế.
- Về tổ chức bộ máy nhà nước:
+ Thành lập Hội đồng 400 người.
Tư vấn cho Hội đồng quan chấp chính.
Soạn thảo nghị quyết trước khi thảo luận tại Hội nghị công dân.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
Giải quyết công việc giữa hai kỳ họp Hội nghị công dân.
+ Thành lập Tòa án công dân.
+ Hội nghị công dân có quyền thảo luận, quyết định vấn đề.
→ Ý nghĩa cuộc cải cách của Solon:
- Tạo điều kiện kích thích công thương nghiệp phát triển.
- Hạn chế bớt thế lực của quý tộc chủ nô cũ, nâng cao địa vị kinh tế của quý tộc chủ nô mới.
- Xây dựng nền tảng vững chắc cho nền cộng hòa dân chủ.

 Cải cách của Clixten (Cleisthenes): về kinh tế, xã hội, bộ máy nhà nước.
- Về xã hội:
+ Chia cư dân theo đơn vị hành chính lãnh thổ.
+ Công dân phải đăng ký hộ tịch và gọi theo tên riêng từng người.
- Về bộ máy nhà nước:
+ Thành lập Hội đồng 500 người.
+ Thành lập Hội đồng tướng lĩnh phụ trách việc quân sự.
+ Thực hiện luật bỏ phiếu bằng vỏ sò.
→ Ý nghĩa cuộc cải cách của Cleisthenes:
- Xóa bỏ tàn tích cuối cùng của xã hội công xã nguyên thủy.
- Mọi công dân đều được tham gia hoạt động bộ máy nhà nước.
- Chính thể cộng hòa dân chủ chủ nô đã được thiết lập.

 Cải cách của Pêriclet (Pericles):


- Trả lương cho những người tham gia vào cơ quan nhà nước.
- Thay chế độ bầu bằng chế độ bốc thăm để chọn ra nhân viên nhà nước.
- Thực hiện biện pháp tăng cường quyền lực của Hội nghị công dân.
→ Ý nghĩa cuộc cải cách của Pericles: Pericles không chỉ có công lao lớn trong việc xây dựng
Athens thành một thành bang phát triển về mọi mặt mà ông còn đưa chế độ dân chủ chủ nô ở
Athens phát triển tới đỉnh cao.

→ Nhận xét về quá trình dân chủ hóa ở Athens:

Cải cách Solon Cải cách Cleisthenes Cải cách Pericles

- Cải cách Solon thiết lập nền tảng của nền dân chủ Athens. Đến cải cách Cleisthenes thì đã
chính thức thiết lập được nền dân chủ ở Athens khi mọi công dân ở Athens đều được tham gia
vào Hội nghị công dân và Hội đồng 500 người để quyết định vấn đề quan trọng nhất của xã hội
thời kỳ này. Đến cải cách Pericles đã đưa nền dân chủ ở Athens phát triển đến đỉnh cao, đảm
bảo cho toàn bộ công dân Athens từ những người giàu có nhất đến nghèo khó nhất đều có cơ
hội tham gia vào tổ chức bộ máy nhà nước.

- Tổ chức bộ máy nhà nước Athens sau các cuộc cải cách: Sau các cuộc cải cách của các quan
nhiếp chính này thì tổ chức bộ máy nhà nước của Athens không còn sắc màu của quý tộc thị tộc
mà chuyển sang nền cộng hòa dân chủ chủ nô. Cơ quan có quyền lực cao nhất là Hội nghị công
dân, mọi công dân nam của Athens từ đủ 18 tuổi trở lên đều được tham gia vào cơ quan này,
đây là cơ quan quyết định mọi vấn đề quan trọng nhất trong xã hội và cũng là cơ quan thiết lập
nên các cơ quan còn lại trong tổ chức bộ máy nhà nước: Hội đồng 10 tướng lĩnh (phụ trách về
lĩnh vực quân sự), Hội đồng 500 người (là cơ quan bàn về các quyết định trước khi đưa ra Hội
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
nghị công dân quyết định và thực thi các quyết định của Hội nghị công dân), Tòa bồi thẩm
(thực hiện chức năng tư pháp xét xử).

Hội nghị công dân

Hội đồng 10 tướng lĩnh Hội đồng 500 người Tòa bồi thẩm

Cơ cấu tổ chức Công dân nam từ 18 tuổi trở lên

Hội nghị công dân Quyết định những vấn đề quan trọng

Quyền hạn: cơ quan


Bầu và giám sát các cơ quan nhà nước
quyền lực cao nhất

Ban hoặc tước quyền công dân

Cơ cấu tổ chức Bầu từ 10 phân khu

Hội đồng 10 tướng lĩnh


Thống lĩnh quân đội
Quyền hạn
Thực hiện chính sách đối nội, đối ngoại

Cách thức thành lập Do HNCD bầu

Tổ chức hoạt động Gồm 10 ủy ban nhiệm kỳ 1 năm

Hội đồng 500 người Thường trực của HNCD

Thi hành quyết nghị của HNCD


Quyền hạn: cơ quan
hành pháp
Thảo luận trước khi HNCD quyết định

Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước

Cách thức thành lập HNCD bầu thẩm phán

Tòa bồi thẩm


Cơ quan xét xử tối cao
Quyền hạn
Giám sát tư pháp
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
 Nhận xét về nhà nước Athens:
- Hình thức chính thể của nhà nước Athens là cộng hòa dân chủ chủ nô.
- Tổ chức bộ máy nhà nước đã có sự chuyên môn hóa giữa các cơ quan:
+ Hội nghị công dân thực hiện quyền lập pháp.
+ Hội đồng 500 người thực hiện quyền hành pháp.
+ Tòa bồi thẩm thực hiện quyền tư pháp.
- Hạn chế của nhà nước Athens:
+ Chỉ những công dân nam Athens từ 18 tuổi trở lên mới có quyền tham gia vào Hội nghị công
dân, còn phụ nữ, kiều dân và nô lệ thì không có quyền này.
+ Các cuộc họp của Hội nghị công dân đa số được tổ chức tại thành Athens nên các công dân
sinh sống ở những vùng nông thôn xa xôi không có điều kiện để thường xuyên tham gia hội
nghị.

2. Nhà nước La Mã:


a. Thời kỳ Vương Chính (753 - 510 TCN) - thời kỳ dân chủ quân sự.
- Theo truyền thuyết, thành Roma do Romullus xây dựng vào năm 753 TCN trên bờ sông
Tibres thuộc miền trung bán đảo Italy, nơi quần cư của 3 bộ lạc người Latin (mỗi bộ lạc gồm
100 thị tộc).
- Quản lý xã hội thị tộc của người Roma thời kỳ này là 3 cơ quan: Đại hội nhân dân (Curi),
Viện nguyên lão (Senat) và “Vua” (Rex).

Đại hội nhân dân (Curi) Là cơ quan quyền lực tối cao

Viện nguyên lão (Senat) Quyết định quan trọng của quốc gia

“Vua” (Rex) Là thủ lĩnh quân sự của 3 bộ lạc

b. Nhà nước La Mã cổ đại thời kỳ cộng hòa (VI - I TCN).


- Năm 510 TCN, sau khi người Roma lật đổ Rex Tarquin kiêu ngạo, La Mã bước vào thời kỳ
cộng hòa.
 Đặc trưng quá trình hình thành Nhà nước La Mã:
- Sự đấu tranh giai cấp trong xã hội người La Mã và người Êtơrútxcơ
- Người La Mã tiến hành đấu tranh chống ách thống trị và thiết lập nhà nước. Nhà nước ban đầu
mang chính thể cộng hòa quý tộc chủ nô - nền cộng hòa bảo vệ quyền lợi cho quý tộc chủ nô
(quý tộc La Mã).

 Cải cách của Hoàng đế Xecviut Tuliut:


- Hoàng đế Xecviut Tuliut đã tiến hành cải cách chia xã hội thành 6 đẳng cấp căn cứ vào tài sản:
+ Đẳng cấp thứ nhất gồm những người có 5ha ruộng: giá 100.000 át.
+ Đẳng cấp thứ hai gồm những người có 3/4 của 5ha ruộng: giá 75.000 át.
+ Đẳng cấp thứ ba gồm những người có 2.5ha ruộng: giá 50.000 át.
+ Đẳng cấp thứ tư gồm những người có 1.25ha ruộng: giá 25.000 át.
+ Đẳng cấp thứ năm gồm những người có 0.62ha ruộng: giá 11.000 át.
+ Đẳng cấp thứ sáu gồm những người dân nghèo.
- Đại hội Xăngtuari ra đời. Mỗi Xăngtuari gồm 100 người/binh sĩ:
+ Đẳng cấp I tổ chức 18 Xăngtuari kỵ binh và 80 Xăngtuari bộ binh.
+ Đẳng cấp II, III, IV mỗi đẳng cấp có 20 Xăngtuari bộ binh.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
+ Đẳng cấp V có 30 Xăngtuari bộ binh.
+ Đẳng cấp VI có 5 Xăngtuari bộ binh.
- Mỗi Xăngtuari có 1 lá phiếu biểu quyết. Quá 1/2 số phiếu thì quyết định được thông qua.
→ Nhận xét:
- Ưu điểm: Tính huyết thống trong quan hệ xã hội được giảm nhẹ và yếu tố địa lý khu vực được
tăng cường, tạo điều kiện cho bình dân Ples nhanh chóng hòa nhập vào khối công dân Roma →
thủ tiêu dần chế độ thị tộc.
- Nhược điểm: Người Ples chưa được phân chia ruộng đất, chưa được quyền kết hôn với người
Roma, chưa có người đại diện trong bộ máy nhà nước.

 Sự thành lập chế độ cộng hòa:


Đại hội nhân dân (Xăngtuari) Là cơ quan quyền lực tối cao

Viện nguyên lão (Senat) Là cơ quan thường trực của Đại hội nhân dân

Hội đồng quan chấp chính (2 người) Trực tiếp điều hành công việc của xã hội, nắm
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp

- Tổ chức bộ máy nhà nước thời cộng hòa (VI - I TCN):

Hội nghị công dân

Đại hội Xăngtuari Đại hội bình dân

Viện nguyên lão Hội đồng Hội đồng Viện quan


quan chấp quan án bảo dân
chính
→ Nhận xét:
- Đại hội Xăngtuari là cơ quan có nhiều quyền lực hơn vì nó thành lập ra nhiều cơ quan hơn
trong tổ chức bộ máy nhà nước và hầu hết các quyết định quan trọng trong xã hội đều do Đại
hội Xăngtuari quyết định. Đại hội bình dân chỉ được quyết định những vấn đề liên quan đến
người bình dân thôi. Như vậy, Đại hội Xăngtuari là cơ quan có quyền lực nhất trong Hội nghị
công dân.
- Đại hội Xăngtuari là cơ quan thiết lập từ các đơn vị quân đội, mỗi đẳng cấp trong xã hội đều
có đơn vị quân đội nhất định, tương ứng với số đơn vị quân đội là số phiếu biểu quyết trong Đại
hội Xăngtuari. Tuy nhiên, nếu xét cụ thể thì quá 1/2 số phiếu trong Đại hội Xăngtuari là thuộc
về đẳng cấp thứ I - đẳng cấp giàu có nhất trong xã hội bấy giờ. Điều này khẳng định rằng, đội
ngũ giàu có nhất trong xã hội thời kỳ này là quý tộc La Mã và tổ chức bộ máy nhà nước này
đang bảo vệ cho tầng lớp quý tộc La Mã.

→ Nhận xét tổ chức bộ máy nhà nước thời cộng hòa:


- La Mã cổ đại thời cộng hòa có chính thể cộng hòa.
- Phát triển theo khuynh hướng cộng hòa quý tộc chủ nô - nền cộng hòa bảo vệ quyền lợi của
đội ngũ quý tộc La Mã.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
c. Thời quân chủ chuyên chế (I TCN - V).
- Từ cuối thế kỷ II TCN, nhất là từ giữa thế kỷ I TCN, do sự đấu tranh của quần chúng nhân
dân, sự chống đối ngày càng mạnh của các tỉnh, nhà nước La Mã ngày càng có xu hướng tăng
cường chuyên chính.
- Thiết chế quân chủ chuyên chế xuất phát từ quyền lực rất lớn của Hội đồng quan chấp chính
trong tình hình chiến tranh. Thời kỳ này, La Mã tiến hành rất nhiều cuộc chiến tranh để thôn
tính các khu vực ở Địa Trung Hải, thậm chí là biến Địa Trung Hải thành “ao nhà” của người La
Mã. Các cuộc chiến mang lại nhiều của cải, nô lệ thì càng đẩy cao lên vị thế của Hội đồng quan
chấp chính, sau này là Hoàng đế La Mã.

 Tình hình kinh tế - xã hội:


- Quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ đã phát triển tới đỉnh cao. Giải thích: Các cuộc chiến tranh
mang lại rất nhiều nô lệ cho người La Mã.
- Kinh tế phát triển vượt bậc, đặc biệt là ngoại thương. Giải thích: Vì toàn bộ khu vực Địa
Trung Hải nằm trong tay người La Mã nên người La Mã nắm toàn bộ hoạt động giao thương
buôn bán trong khu vực Địa Trung Hải.
- Các trang viên phong kiến lớn hình thành ngày càng nhiều.
- Mâu thuẫn giữa nô lệ, dân nghèo với chủ nô và giữa các vùng bị đô hộ với đế quốc ngày càng
gay gắt.
- Mâu thuẫn giữa chủ nô mới và chủ nô cũ ngày càng gia tăng.
→ Trước tình hình kinh tế, xã hội như vậy, buộc La Mã phải thiết lập nền quân chủ chuyên chế
với sự xuất hiện của Hoàng đế La Mã nắm toàn bộ quyền lực của tổ chức bộ máy nhà nước và
La Mã bước vào thời kỳ quân chủ chuyên chế.
Lưu ý: Nền quân chủ chuyên chế của La Mã không giống với nền quân chủ chuyên chế ở
phương Đông bởi lẽ Hoàng đế La Mã do Viện nguyên lão bầu ra, chứ không phải theo nguyên
tắc thế tộc như ở phương Đông.

So sánh sự khác biệt về chế độ quân chủ chuyên chế ở La Mã thời kỳ đế chế và chế độ quân
chủ chuyên chế ở phương Đông

III. Nhận xét về nhà nước phương Tây thời kỳ cổ đại:


- Nhà nước phương Tây cổ đại ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp khi mâu thuẫn giai
cấp đã đến mức gay gắt đòi hỏi phải giải quyết bằng đấu tranh giai cấp.
- Các nhà nước phương Tây cổ đại có sự đa dạng về hình thức chính thể, chủ yếu là hình thức
cộng hòa chủ nô.
- Tổ chức bộ máy nhà nước đã có sự hoàn thiện nhất định (Lấy ví dụ ở nhà nước Athens, có sự
phân hóa, chuyên môn hóa giữa các cơ quan, đã có cơ quan nắm quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp).
- Bộ máy nhà nước mang nặng tính chất quân sự.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 4: PHÁP LUẬT PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI


I. Pháp luật Hi Lạp cổ đại:
(vì Hi Lạp cổ đại tồn tại dưới hình thức là các nhà nước thành bang, nguồn tài liệu thu thập
được bị tản mạn, thiếu thốn nên không nghiên cứu về pháp luật Hi Lạp cổ đại, tự đọc giáo trình)

II. Pháp luật La Mã cổ đại:


1. Pháp luật La Mã thời cộng hòa sơ kỳ (VI - III TCN):
a. Đặc điểm kinh tế - xã hội.
- Lãnh thổ La Mã chưa vượt ra khỏi bán đảo Italy. Hệ quả: Với lãnh thổ nhỏ như thế thì việc
xuất hiện các quan hệ xã hội cần có pháp luật điều chỉnh chưa nhiều nên chưa có nhu cầu cao
trong việc xây dựng bộ luật thành văn để điều chỉnh quan hệ xã hội.
- Về kinh tế, ngành kinh tế chủ đạo vẫn là nông nghiệp, kinh tế thủ công nghiệp và thương
nghiệp chưa phát triển mạnh. Hệ quả: Chính vì nông nghiệp là chủ đạo nên các quan hệ về dân
sự ít. Đến khi kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển thì các quan hệ xã hội về dân
sự phát triển, khi đó cần có pháp luật điều chỉnh.
- Về xã hội, mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội là mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc La Mã và bình
dân Ples, quan hệ nô lệ vẫn còn mang tính gia trưởng. Giải thích: Tính chất gia trưởng thể hiện
ở chỗ: Thứ nhất, số lượng nô lệ thời kỳ này chưa nhiều vì La Mã chưa tiến hành các cuộc chiến
tranh xâm lược. Thứ hai, vì số lượng nô lệ chưa nhiều và nô lệ cũng chưa trực tiếp tham gia vào
quá trình sản xuất, chưa trở thành đối tượng trực tiếp bị bóc lột.

b. Nội dung pháp luật.


- Nguồn luật:
+ Tập quán pháp.
+ Tiền lệ pháp.
+ Văn bản pháp luật.
(Ở giai đoạn đầu của thời cộng hòa sơ kỳ, tập quán pháp và tiền lệ pháp là 2 nguồn luật cơ bản
quan trọng nhất. Tuy nhiên, yếu điểm của tập quán pháp và tiền lệ pháp là phụ thuộc rất nhiều
vào ý chí chủ quan của quan tòa nên những người bình dân đã nhận thấy yếu điểm đó và đấu
tranh đòi hỏi quý tộc La Mã phải xây dựng bộ luật thành văn, từ đó xuất hiện nguồn luật là văn
bản pháp luật).

 Nội dung Luật 12 Bảng:


- Được gọi là Luật 12 Bảng vì nó được khắc lên 12 tấm bảng đồng đặt ở nơi có đông dân cư
qua lại để họ nắm bắt luật.
Bảng 1 và 2: Quy định về tố tụng Bảng 8: Quy định về hành chính
Bảng 3: Quy định về nợ Bảng 9: Quy định về tổ chức bộ máy nhà nước
Bảng 4: Quy định về mối quan hệ cha mẹ và Bảng 10: Quy định về tang lễ
con
Bảng 5: Quy định về thừa kế Bảng 11: Quy định về hôn nhân gia đình
Bảng 6: Quy định về tài sản Bảng 12: Quy định về tội phạm
Bảng 7: Quy định về bất động sản
- Luật 12 Bảng ra đời có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết vấn đề trong các vụ án, quan tòa
phải xét xử theo quy định của luật nhưng nội dung của luật này được đánh giá là không có
nhiều tiến bộ so với các quy định ở phương Đông thời kỳ cổ đại.

(1) Quy định về dân sự:


- Quy định về tài sản.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
+ Thừa nhận và bảo vệ quyền tư hữu tài sản.
+ Quy định việc sử dụng, khai thác tài sản không được gây phương hại đến tài sản của người
khác.
- Quy định về hợp đồng.
+ Hợp đồng mua bán: Thời điểm chuyển quyền sở hữu.
+ Hợp đồng vay tài sản: Mức lãi suất, Người làm chứng, Biện pháp bảo đảm hợp đồng.
- Quy định về hôn nhân gia đình.
+ Thừa nhận quyền gia trưởng của người đàn ông.
+ Phân biệt đẳng cấp xã hội trong hôn nhân.
- Quy định về thừa kế.
+ Thừa kế theo di chúc.
+ Thừa kế theo pháp luật.
(2) Quy định về tội phạm và hình phạt:
- Tội phạm:
+ Tội xâm phạm tài sản.
+ Tội xâm phạm mùa màng.
+ Tội xâm phạm chế độ xã hội.
- Hình phạt:
+ Mang tính dã man.
+ Thừa nhận nguyên tắc đồng thái phục thù.
(3) Quy định về tố tụng:
- Quy định thủ tục xét xử rườm rà, máy móc gây nhiều khó khăn cho công tác xét xử. VD: Nếu
các bên có tranh chấp, thì họ phải đưa vụ kiện ra nơi công cộng trước buổi trưa. Họ sẽ cùng tự
bào chữa cho mình. Sau buổi trưa, thẩm phán sẽ phán quyết. Nếu cả hai đều có mặt, vụ kiện sẽ
kết thúc lúc mặt trời lặn (Điều 4 Bảng 1).

c. Nhận xét, đánh giá.


- Quy định về dân sự kém phát triển.
- Quy định về hình sự ảnh hưởng thời kỳ công xã nguyên thủy, đặc biệt là các quy định trong
nguyên tắc đồng thái phục thù (nguyên tắc trả nợ máu).
- Kém phát triển cả về nội dung, phạm vi điều chỉnh, kỹ thuật lập pháp.

2. Pháp luật La Mã thời cộng hòa hậu kỳ:


a. Đặc điểm kinh tế - xã hội.
- Lãnh thổ của đế quốc được mở rộng. Giải thích: La Mã biến Địa Trung Hải thành “ao làng”
của La Mã, với một lãnh thổ rộng lớn như thế đòi hỏi phải có một bộ luật hoàn chỉnh điều chỉnh
thống nhất toàn bộ lãnh thổ này.
- Kinh tế hàng hóa phát triển mạnh. Giải thích: Vì toàn bộ hoạt động giao thương trong khu vực
Địa Trung Hải đều nằm trong tay người La Mã, từ đó dẫn đến nhu cầu phải có pháp luật điều
chỉnh quan hệ dân sự phát sinh trong xã hội.
- Quan hệ nô lệ đã phát triển tới đỉnh cao và mang tính chất điển hình. Tại sao lại “đỉnh cao và
mang tính chất điển hình”? Vì khi người La Mã tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm thì đã
biến những cư dân ở vùng bị chiếm thành nô lệ cho người La Mã, làm số lượng nô lệ đạt tới
mức đỉnh cao, nô lệ trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất nên quan hệ sản xuất chiếm hữu
nô lệ mang tính chất điển hình ở thời kỳ này.

b. Nội dung pháp luật.


- Nguồn luật:
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
Nguồn cũ (thời cộng hòa sơ kỳ) Nguồn mới (thời cộng hòa hậu kỳ)
- Tập quán pháp. - Tập quán pháp.
- Quyết định của Hoàng đế. - Đạo luật.
- Quyết định của Tòa án. - Quyết định của Hoàng đế.
- Quyết định của Viện nguyên lão. - Quyết định của Tòa án.
- Quyết định của Viện nguyên lão.
- Quyết định của quan thái thú các tỉnh.
- Công trình nghiên cứu của các luật gia (Có
giá trị rất lớn vì thời kỳ này đã có đội ngũ
luật gia chuyên nghiên cứu về pháp luật, góp
phần làm pháp luật La Mã thời kỳ này phát
triển).
- Công trình hệ thống hóa pháp luật (Do
Hoàng đế La Mã tiến hành pháp điển).

(1) Các quy định về dân sự:


- Quyền sở hữu:
+ Bao gồm: quyền sử dụng (quyền khai thác công năng, sử dụng tài sản), quyền định đoạt
(quyền quyết định số phận của tài sản, đem ra mua bán, trao đổi), quyền chiếm hữu (quyền giữ
tài sản) → Có sự tiến bộ, đã có khái niệm tiệm cận với khái niệm hiện đại.
+ Căn cứ phát sinh: kế tục (quyền sở hữu được chuyển tiếp từ quyền sở hữu khác), tự nhiên (sở
hữu không thông qua bất kỳ sở hữu của người nào khác).
+ Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu: Yêu cầu trả lại vật và yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm.
- Hợp đồng dân sự:
+ Điều kiện có hiệu lực: Phải có sự thỏa thuận về ý chí của các bên và phù hợp với quy định
của pháp luật.
+ Phân loại hợp đồng:

Hợp đồng miệng


Hình thức hợp đồng
Hợp đồng văn bản
Phân loại hợp đồng
Hợp đồng thực tại
Thời điểm chuyển giao vật
Hợp đồng ưng thuận

Khái niệm
Cầm cố
Trái vụ Đảm bảo trái vụ
Bảo lãnh bên thứ 3

Chấm dứt trái vụ


Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Về hôn nhân gia đình:

Độ tuổi: Nam 14; Nữ 12

Điều kiện hôn nhân hợp pháp


Ý chí tự nguyện 2 bên

+ Về quyền và nghĩa vụ vợ chồng:


Người vợ có nghĩa vụ chung thủy.
Người chồng gánh vác chi phí gia đình.
+ Quyền ly hôn:
Người vợ có quyền ly hôn nếu có lý do chính đáng → Đây là một trong những điểm sáng về
pháp luật hôn nhân gia đình, bởi lẽ so sánh với pháp luật phương Đông thời cổ đại, trong bộ
luật Hammurabi quy định 3 trường hợp người vợ được quyền ly hôn nhưng ở đây chỉ cần có lý
do chính đáng, lý do chính đáng đã dự liệu rất nhiều trường hợp, không còn chỉ ra các trường
hợp cụ thể nữa. Đây là điểm khá tiến bộ trong quy định về hôn nhân gia đình.
+ Về tài sản trong hôn nhân:
Người chồng không có quyền định đoạt tài sản của vợ.
- Về thừa kế:

Người thừa kế có quyền


Theo di chúc
từ chối hưởng di sản
Hình thức thừa kế
Quy định diện thừa kế
Theo pháp luật
và hàng thừa kế

(2) Các quy định về hình sự:


- Luật La Mã khá trì trệ và bảo thủ, cách xét xử mang nặng yếu tố chủ quan của thẩm phán với
mục đích điều chỉnh các quan hệ chính trị.
- Hình phạt mang tính độc đoán, tàn bạo, chủ yếu là sử dụng nhục hình.

c. Nhận xét, đánh giá.


- Thứ nhất, về trình độ lập pháp, pháp luật có những phát triển vượt bậc, đưa ra nhiều khái niệm
chuẩn xác, có giá trị pháp lý cao.
- Thứ hai, về kỹ thuật lập pháp chuẩn xác, từ ngữ rõ ràng, trong sáng. Các chế định không còn
được trình bày dưới dạng liệt kê nữa mà đã có sự khái quát hóa các trường hợp và pháp luật có
tính dự liệu cao.
- Thứ ba, về phạm vi điều chỉnh, hầu hết các quan hệ xã hội quan trọng, phổ biến đều được điều
chỉnh, đặc biệt là các quan hệ trong lĩnh vực dân sự.
- Thứ tư, còn tồn tại một số hạn chế: pháp luật vẫn thừa nhận sự bất bình đẳng về giai cấp, đẳng
cấp; trong một số quan hệ hôn nhân gia đình vẫn có sự bất bình đẳng giữa nam và nữ; các quy
định hình sự còn hạn chế.

Nguyên nhân gì dẫn đến sự chuyển biến, sự phát triển của pháp luật La Mã, đặc biệt là trong
các quan hệ về dân sự?
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 5: NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TÂY ÂU


I. Quá trình hình thành nhà nước phong kiến Tây Âu:
1. Sự xuất hiện quan hệ sản xuất phong kiến ở Tây Âu:
- Nhà nước phong kiến Tây Âu được hình thành dựa trên nền tảng là nhà nước chiếm hữu nô lệ
ở La Mã trong thời kỳ cổ đại. Nhà nước La Mã được xem là đế chế hùng mạnh bậc nhất trong
thời kỳ cổ đại ở phương Tây với lãnh thổ rộng lớn từ đông sang tây, từ bắc xuống nam đến mức
biến Địa Trung Hải thành “ao nhà” của La Mã. Đến thế kỷ III sau công nguyên, nhà nước La
Mã suy yếu và sự suy yếu của nhà nước La Mã đánh dấu bằng sự khủng hoảng của chế độ
chiếm hữu nô lệ nói chung và sự khủng hoảng của chế độ nô lệ nói riêng.
- Sau thời gian bị bóc lột nặng nề bởi tầng lớp chủ nô để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế,
đặc biệt là nền kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp thì nô lệ đã đấu tranh. Họ đấu tranh
bằng nhiều phương thức khác nhau, trong đó phương thức đấu tranh đầu tiên là nô lệ tiến hành
khởi nghĩa. Nô lệ khởi nghĩa đòi quyền tự do, quyền làm người, quyền được sở hữu tài sản -
những thứ mà họ không được trao khi bị xem là công cụ cho sự phát triển nền kinh tế và nhà
nước La Mã nói chung. Cách thức đấu tranh thứ hai là nô lệ tiến hành bỏ trốn và điều này làm
cho các hoạt động kinh tế thông thường ở nhà nước La Mã bắt đầu bị đình trệ. Mặt khác, nhà
nước La Mã đã bắt đầu suy yếu nên việc nhà nước La Mã mở rộng chiến tranh, bắt tù binh
chiến tranh về làm nô lệ để phục vụ cho nền kinh tế bắt đầu trở nên khó khăn và làm cho giá
của nô lệ bắt đầu tăng cao.
- Sự khủng hoảng nô lệ đã dẫn đến sự khủng hoảng của nền kinh tế. Việc khai thác sức lao
động của nô lệ như trước đây không mang lại hiệu quả kinh tế cho chủ nô nữa, mặt khác, việc
khai thác sức lao động của nô lệ tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro rất cao và nền kinh tế thủ công
và thương nghiệp của La Mã đã bị đình trệ và thậm chí một số chủ nô đứng trước nguy cơ bị
phá sản. Nền kinh tế bị khủng hoảng đã dẫn đến sự khủng hoảng về chính trị.
- Năm 330, Hoàng đế đã quyết định dời kinh đô về phía đông và đến năm 395, sau khi Hoàng
đế mất thì đế quốc La Mã đã chính thức bị chia làm đôi: Tây La Mã và Đông La Mã. Với việc
kinh đô của nhà nước La Mã đã bị dời về phía đông trước đó thì phần phía Tây La Mã dường
như đã trở thành một vùng đất vô chủ. Trên mảnh đất Tây La Mã này, chủ nô đang phải đối phó
với sự khủng hoảng của nô lệ, sự khủng hoảng về kinh tế và cả sự khủng hoảng về chính trị.
Nhà nước La Mã suy yếu

Chế độ chiếm hữu nô lệ khủng hoảng

Khủng hoảng kinh tế

Phân chia: Đông - Tây La Mã

- Để đối phó trước sự khủng hoảng này, chủ nô thay đổi phương thức bóc lột, từ bỏ nền kinh tế
thủ công và thương nghiệp vốn dĩ dựa hoàn toàn vào sức lao động của nô lệ, chia đất làm 2
phần:
+ Phần nhỏ: chủ nô quản lý. Chủ nô không trực tiếp làm việc trên mảnh đất này mà chủ nô sẽ
yêu cầu nô lệ đến sản xuất trên mảnh đất này và toàn bộ hoa lợi, lợi tức chủ nô sẽ nhận.
+ Phần lớn: chủ nô phát canh cho nô lệ.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Nô lệ lĩnh canh đất: nộp địa tô (địa tô trong giai đoạn đầu này phần lớn là tô hiện vật) và thực
hiện tô lao dịch, trở thành lệ nông (nghĩa là nô lệ không còn là nô lệ theo đúng nghĩa nữa mà họ
bắt đầu là những người thực hiện hoạt động sản xuất nông nghiệp, gọi là lệ nông).
- Chủ nô trở thành chủ đất (lãnh chúa). Giải thích: Vì lợi ích của họ dựa vào việc họ phân chia
đất đai và nhận được nguồn lợi từ đất đai.
→ Như vậy, hoạt động phát canh và thu tô của lãnh chúa đã làm quan hệ sản xuất phong kiến
xuất hiện và xuất hiện phương thức bóc lột bằng địa tô.

2. Sự xâm lược của các tộc người Giecmanh:


- Khoảng thế kỷ thứ IV - V, các tộc người Giecmanh tràn vào chinh phục vùng đất Tây La Mã.
Họ chiếm đoạt đất đai và theo cách bóc lột địa tô của chúa đất địa phương.
- Các tộc người Giecmanh xây dựng các vương quốc phong kiến ở Tây Âu như: vương quốc
Frăng, vương quốc Vidigốt, vương quốc Buyếcgông, vương quốc Xăcxông ở Anh.
- Thủ lĩnh quân sự chiếm đoạt quyền lực và trở thành vua, hình thành nên chế độ quân chủ
chuyên chế. Giải thích: Điều này xuất phát từ việc người Giecmanh khi họ xâm chiếm Tây La
Mã thì họ đang sống trong trạng thái công xã nguyên thủy chưa có nhà nước nên sau khi chiếm
Tây La Mã, họ phải xây dựng nhà nước để quản lý tộc người Tây La Mã và thực hiện xây dựng
nhà nước cho riêng mình.

→ Nhận xét: Như vậy, nhà nước phong kiến ở Tây Âu được hình thành dựa trên 2 nguyên
nhân: Sự xuất hiện quan hệ sản xuất phong kiến trên vùng đất Tây La Mã và sự xâm lược của
các tộc người Giecmanh. Sự xâm lược của các tộc người Giecmanh được xem là yếu tố mang
tính chất xúc tác giúp cho nhà nước phong kiến Tây Âu được hình thành một cách nhanh chóng
hơn.

II. Chế độ xã hội:


1. Kết cấu giai cấp:
- Có 2 giai cấp: giai cấp thống trị (quý tộc phong kiến) và giai cấp bị trị.
Lãnh chúa thế tập
Giai cấp thống trị
(Quý tộc phong kiến)
Lãnh chúa tăng lữ

Nông nô
Giai cấp bị trị
Nông dân tự do

a. Giai cấp thống trị (Quý tộc phong kiến).


- Lãnh chúa thế tập: được hiểu là lãnh chúa theo chế độ cha truyền con nối, đứng đầu trong
lãnh chúa thế tập là vua. Vua được xem là lãnh chúa thế tập tối cao hay lãnh chủ tối cao. Vua sẽ
tiến hành phân chia đất đai của mình và ban tước vị cho những người tùy tùng bên dưới (có thể
là tùy tùng hoặc họ hàng của mình) và sẽ lập ra các tước vị bao gồm: Công tước, Hầu tước, Bá
tước, Tử tước, Nam tước, Kỵ sĩ và tiểu Kỵ sĩ, đây là các thang bậc trong tầng lớp lãnh chúa thế
tập.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

Vua

Công tước Hầu tước Bá tước

Tử tước Nam tước Kỵ sĩ

Tiểu Kỵ sĩ

- Lãnh chúa tăng lữ: do sự ảnh hưởng mạnh mẽ của giáo hội thì lãnh chúa tăng lữ cũng là một
bộ phận trong giai cấp thống trị có quyền lực rất lớn. Đứng đầu lãnh chúa tăng lữ là đại giáo
chủ, bên dưới là giáo chủ, bên dưới giáo chủ là giáo phụ của các tu viện.
Đại giáo chủ

Giáo chủ

Giáo phụ

 Mối quan hệ giữa lãnh chúa - thần thuộc:


- Lãnh chúa phân đất, ban tước vị thì người nhận được gọi là thần thuộc của lãnh chúa và mối
quan hệ này được gọi là mối quan hệ giữa lãnh chúa và thần thuộc.
- Lãnh chúa còn được gọi là tôn chủ và thần thuộc còn được gọi là bồi thần. Trong đó, tôn chủ
không được phép can thiệp vào công việc nội bộ của thần thuộc sau khi đã chia đất và ban tước
vị, tôn chủ có nghĩa vụ giúp đỡ và bảo vệ cho thần thuộc của mình. Thần thuộc phải phục tùng
tôn chủ, phải cung cấp binh lính khi tôn chủ yêu cầu và phải tham gia vào các hội nghị do tôn
chủ triệu tập.
→ Mối quan hệ giữa lãnh chúa và thần thuộc được thể hiện qua câu ở phương Tây Âu trong
giai đoạn này là “thần thuộc của thần thuộc của ta không phải là thần thuộc của ta”, nghĩa là
mối quan hệ giữa lãnh chúa và thần thuộc chỉ là mối quan hệ mang tính chất trực tiếp. Lãnh
chúa ban tước vị và ban đất cho thần thuộc và thần thuộc có trách nhiệm phục tùng cho lãnh
chúa đó và không có trách nhiệm gì đối với lãnh chúa cao hơn tôn chủ của mình.

b. Giai cấp bị trị.


- Giai cấp bị trị: bao gồm nông nô, nông dân tự do và thị dân.
- Nông nô: được xem là đối tượng chịu sự bóc lột chủ yếu nhất của giai cấp thống trị trong giai
đoạn này vì nông nô có số lượng đông đảo nhất trong xã hội bấy giờ. Nông nô có một ít tài sản
riêng, có gia đình riêng nhưng họ không được phép tự do kết hôn → Đây là sự khác biệt so với
thân phận nô lệ trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Lãnh chúa không được phép tùy tiện giết nông
nô. Tuy nhiên nông nô vẫn phải gắn chặt cuộc đời của mình với nghĩa vụ nộp địa tô, với việc
sản xuất trên những mảnh đất đã được phát canh bởi lãnh chúa và họ phải nộp thuế cho lãnh
chúa cũng như phải thực hiện tô lao dịch cho lãnh chúa.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Nông dân tự do: có phần đất riêng và tự sinh sống trên mảnh đất của mình nhưng nông dân
tự do trong nhà nước phong kiến Tây Âu luôn đứng trước nguy cơ bị nông nô hóa và phần đất
của họ có nguy cơ bị lãnh địa hóa.
- Thị dân: đây là giai cấp bị trị có vai trò và sứ mệnh lịch sử đặc biệt. Thị dân xuất hiện muộn
hơn so với nông dân tự do và nông nô. Vào khoảng thế kỷ XI, ở nhà nước phong kiến Tây Âu
bắt đầu có sự phát triển vượt bậc về nền kinh tế, thị dân xuất hiện và họ là một bộ phận trong
giai cấp bị trị. Tuy nhiên đến khoảng thế kỷ thứ XIII, thị dân bắt đầu tham gia vào tổ chức bộ
máy nhà nước và dần dần họ trở thành một bộ phận trong giai cấp thống trị trong nhà nước
phong kiến Tây Âu.

2. Quan hệ giai cấp:


- Lãnh chúa thế tập và lãnh chúa tăng lữ luôn có sự cạnh tranh quyền lực. Giải thích: Lãnh chúa
thế tập được xem là những người nắm vương quyền và ngược lại, lãnh chúa tăng lữ ở nhà nước
phong kiến Tây Âu là người nắm trong tay thần quyền. Sự cạnh tranh quyền lực càng về sau
trong các giai đoạn phát triển của nhà nước phong kiến Tây Âu càng trở nên gay gắt hơn và
thậm chí đối đầu.
+ Giai cấp thống trị > < Giai cấp bị trị: mâu thuẫn giữa 2 giai cấp này luôn mang tính chất đối
kháng.
+ Giai cấp thống trị > < Nông nô: là mâu thuẫn chủ đạo.

III. Sự hình thành và tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến Tây Âu qua các giai đoạn:
1. Giai đoạn sơ kỳ trung đại (V - X):
- Đây là giai đoạn hình thành các vương quốc của các tộc người Giecmanh như: vương quốc
Frăng, vương quốc Vidigốt, vương quốc Buyếcgông, vương quốc Xăcxông… Trong số những
vương quốc này, vương quốc Frăng được xem là vương quốc rộng lớn nhất và hùng mạnh nhất
trong giai đoạn này. Clovis là người sáng lập ra vương quốc Frăng và mở đầu cho triều đại đầu
tiên ở Frăng là triều đại Merovigian. Vương quốc Frăng chấm dứt thời kỳ tồn tại của mình vào
năm 843 với sự kiện ở Verdun chấm dứt sự tồn tại của vương quốc Frăng và mở đầu cho sự ra
đời của 3 quốc gia Ý, Pháp và Đức. Có thể nói giai đoạn sơ kỳ trung đại từ thế kỷ V - X có rất
nhiều đặc trưng về điều kiện kinh tế, điều kiện chính trị, xã hội đã tác động đến tổ chức bộ máy
nhà nước.
 Về kinh tế:
- Nền kinh tế nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp trong các lãnh địa phong kiến. Những lãnh
địa phong kiến trong giai đoạn này được xây dựng mang tính chất biệt lập với nhau và gói gọn
trong nó, nền kinh tế mang tính chính thống nhất trong giai đoạn này là nông nghiệp.
 Về chính trị:
- Giai cấp thống trị chỉ bao gồm các lãnh chúa phong kiến (bao gồm lãnh chúa thế tập và lãnh
chúa tăng lữ) và giai cấp bị trị đa số là nông nô. Do vậy, mâu thuẫn trong xã hội chủ yếu là mâu
thuẫn giữa lãnh chúa và nông nô.
 Tổ chức bộ máy nhà nước:
- Hình thức chính thể của các nhà nước phong kiến: quân chủ tuyệt đối. Quyền lực tập trung
tuyệt đối trong tay của nhà vua.

2. Giai đoạn trung kỳ trung đại (XI - XV):


Tại sao phân chia làm 2 giai đoạn trong giai đoạn trung kỳ trung đại? Vì giai đoạn trung kỳ
trung đại ở nhà nước phong kiến Tây Âu được xem là giai đoạn phát triển của chế độ phong
kiến ở Tây Âu và trong quá trình phát triển có sự phát triển rất đặc biệt về kinh tế. Nói cách
khác là sự phát triển vượt bậc về mặt kinh tế từ khoảng thế kỷ XI - XV và song song với quá
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
trình phát triển kinh tế thì sự thay đổi về mặt chính trị, tương quan về mặt quan hệ giai cấp xã
hội cũng đã diễn ra, tổ chức bộ máy nhà nước đã có sự thay đổi.

a. Giai đoạn thế kỷ XI - XIII.


- Sự chuyển biến về kinh tế: (Nếu trong giai đoạn sơ kỳ trung đại, kinh tế chủ yếu của nhà
nước là nông nghiệp mang tính chất tự cung tự cấp bên trong các lãnh địa phong kiến thì đến
thế kỷ XI có sự chuyển biến về kinh tế rõ nét):
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Thợ thủ
công và nông nô ở các vùng nông thôn lân cận kéo vào thành thị.
+ Thành thị là trung tâm công thương nghiệp của một vùng đất. Giải thích: Ban đầu, những
thành thị được lập ra để làm nơi trao đổi hàng hóa, sản phẩm thủ công với nhau và dần dần biến
thành trung tâm công thương nghiệp của một vùng đất.
- Về chính trị, xã hội:
+ Xuất hiện thị dân, ngày càng giàu có. Giải thích: Thị dân là những người sinh sống trong
trung tâm thành thị và hoạt động chủ yếu là hoạt động giao thương. Nền kinh tế ngày càng phát
triển thì thị dân ngày càng trở nên giàu có.
+ “Không có vùng đất nào mà không có chủ”. Thành thị nằm trên đất của lãnh chúa phong kiến
nên thị dân phải nộp thuế cho lãnh chúa.
+ Mâu thuẫn giữa thị dân và lãnh chúa phong kiến ngày càng trở nên gay gắt. Giải thích: Việc
thị dân phải nộp nhiều thuế cho lãnh chúa và việc thị dân bắt đầu có hoạt động thông thương
với các lãnh địa phong kiến khác đã làm cho mâu thuẫn giữa thị dân và lãnh chúa phong kiến
ngày càng trở nên gay gắt hơn. Bởi lẽ thị dân bị lãnh chúa áp cho rất nhiều loại thuế nên thị dân
bắt đầu đấu tranh.
→ Thị dân đấu tranh giành quyền tự trị.
 Chế độ tự trị của các thành thị giành được bằng các biện pháp sau đây:
- Nộp một số tiền lớn cho lãnh chúa và đổi lại họ nhận được sự tự do trong phạm vi thành thị
của mình. Tuy nhiên đây là biện pháp đấu tranh không phải mang tính chất triệt để vì sau khi
nhận được tiền xong, nhiều lãnh chúa sẵn sàng nuốt lời hứa và quay trở lại tiếp tục áp bức,
thống trị đối với thị dân.
- Khởi nghĩa vũ trang. Họ liên kết lại với nhau và trang bị vũ khí để tiến hành các cuộc đấu
tranh chống lại quân đội của lãnh chúa phong kiến.
- Liên kết với vua. Những trung tâm thành thị không đủ tiền để mua sự tự do, cũng không đủ
sức mạnh để tự mình đấu tranh vũ trang nên họ tiến hành thỏa thuận với nhà vua để nhận được
sự hỗ trợ về mặt quân sự và đổi lại những thành thị này phải cam kết dành cho nhà vua quyền
kiểm soát trung tâm thành thị sau khi giành được quyền tự trị.
→ Kết quả: Xuất hiện thành thị tự trị hoàn toàn và thành thị tự trị không hoàn toàn. Trong đó,
thành thị tự trị không hoàn toàn vẫn chịu sự can thiệp của đại diện nhà vua tại trung tâm thành
thị.
- Tổ chức bộ máy nhà nước:
+ Hình thức chính thể của nhà nước: quân chủ tuyệt đối. Tuy nhiên, trong lòng phong kiến
trong giai đoạn này đã chứng kiến sự ra đời và tồn tại của những thành thị tự trị với mức độ tự
trị hoàn toàn và không hoàn toàn.

b. Giai đoạn thế kỷ XIII - XV.


- Về kinh tế:
+ Thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển, trở thành kinh tế hàng hóa. → Đây là kết quả
tất yếu của quá trình phát triển của những trung tâm thành thị.
+ Trung tâm thành thị ngày càng nhiều và mạnh về kinh tế.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
+ Vai trò kinh tế của tầng lớp thị dân ngày càng tăng. Thị dân ngày càng có tiếng nói hơn trong
xã hội.
- Về chính trị:
+ Mâu thuẫn giữa nhà vua và lãnh chúa ngày càng tăng khi vua muốn tăng thuế. Đặc biệt là
mâu thuẫn giữa nhà vua và lãnh chúa tăng lữ. Giải thích: Bởi lẽ trong giai đoạn này, một yếu tố
tác động mạnh mẽ là cuộc phát động cuộc chiến thập tự chinh đi về phương Đông và để tham
chiến thì tầng lớp lãnh chúa cần nhiều tiền để phục vụ cho chiến tranh. Do vậy, nhà vua muốn
tăng các thứ thuế nhưng lãnh chúa lại không hậu thuẫn cho việc này.
+ Vua cần một thế lực làm chỗ dựa đối phó với lãnh chúa, củng cố thế lực.
+ Vua quyết định triệu tập hội nghị các tầng lớp có thế lực hình thành nên nền quân chủ đại
diện đẳng cấp.
 Hội nghị các đẳng cấp: Việc triệu tập hội nghị các tầng lớp có thế lực trong xã hội của nhà
vua nhằm mục đích giải quyết vấn đề thuế cho nhà vua, nhà vua đã triệu tập hội nghị các
đẳng cấp có thế lực trong xã hội bấy giờ, bao gồm:
- Lãnh chúa tăng lữ.
- Lãnh chúa thế tập.
- Thị dân giàu có
(Tại một số quốc gia, hội nghị các đẳng cấp có thể có sự thay đổi, ví dụ như ở Anh có thể có sự
tham gia của tầng lớp Kỵ sĩ).
→ Tầng lớp thị dân tham gia vào trong đời sống chính trị bằng việc tham gia vào hội nghị này
và hội nghị này tồn tại bên cạnh quyền lực của nhà vua, giải quyết vấn đề về thuế cho nhà vua.
- Tổ chức bộ máy nhà nước:
+ Hình thức chính thể của nhà nước: quân chủ đại diện đẳng cấp. Cơ quan đại diện đẳng cấp trở
thành cơ quan hạn chế quyền lực của nhà vua khi nắm trong tay quyền quyết định tăng thuế,
giải quyết vấn đề về tài chính.
+ Tiêu biểu là Anh, Pháp.

3. Giai đoạn mạt kỳ trung đại (XV - XVII):


- Về kinh tế:
+ Quan hệ sản xuất phong kiến ở Tây Âu rơi vào tình trạng khủng hoảng. → Sự khủng hoảng
này là kết quả tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng
như sự ra đời của những trung tâm thành thị và sự lớn mạnh của những trung tâm thành thị ở
trong lòng chế độ phong kiến ở Tây Âu.
+ Những mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa làm cho kinh tế công thương
nghiệp phát triển mạnh.
- Về chính trị:
+ Giai cấp tư sản ra đời, xuất hiện mâu thuẫn giữa tư sản và phong kiến. Trong đó, tư sản mâu
thuẫn với quý tộc lãnh chúa và tư sản cũng có sự mâu thuẫn với nhà vua.
+ Giai cấp tư sản và nhà vua liên minh xây dựng chế độ quân chủ tuyệt đối. Tại sao? Giai cấp
tư sản mới hình thành vẫn còn non trẻ và chưa đủ sức để đối phó với quý tộc phong kiến nên
cần chỗ dựa để thực hiện mục tiêu về mặt kinh tế của mình đó là thống nhất một thị trường cho
sự phát triển kinh tế của họ. Ngược lại, trong giai đoạn này, nhà vua muốn lợi dụng giai cấp tư
sản để xóa bỏ quyền lực của lãnh chúa phong kiến, mở rộng vương quyền của mình. Do vậy,
nhà vua và giai cấp tư sản liên minh. Giai cấp tư sản sẽ ủng hộ nhà vua trong việc xác lập một
nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, xóa bỏ tình trạng phân quyền cát cứ của các lãnh
chúa phong kiến, mở rộng vương quyền của nhà vua, ngược lại, nhà vua sẽ tạo nên một thị
trường thống nhất để giai cấp tư sản xây dựng và phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa của
mình.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Tổ chức bộ máy nhà nước:
+ Hình thức chính thể của nhà nước: quân chủ tuyệt đối. Tuy nhiên, trên thực tế, hình thức
chính thể quân chủ tuyệt đối được hình thành tại một số quốc gia phong kiến giai đoạn này ở
Tây Âu là kết quả của sự liên minh tạm thời giữa giai cấp tư sản và nhà nước phong kiến và nhà
nước phong kiến được tồn tại trên sự mâu thuẫn giữa tư sản và chế độ phong kiến (giai cấp
phong kiến). Do vậy, thực chất là sự biểu hiện cho sự suy vong của chế độ phong kiến ở Tây
Âu.
→ Đây là giai đoạn đánh dấu sự suy vong của chế độ phong kiến Tây Âu và là biểu hiện cho sự
quá độ trước khi giai cấp tư sản tiến hành cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến ở
Tây Âu.

→ Như vậy: Nhà nước phong kiến Tây Âu trải qua 3 thời kỳ trong lịch sử phát triển của mình
là sơ kỳ, trung kỳ và mạt kỳ và đến thế kỷ XVII, những sự thay đổi về kinh tế, chính trị ở Tây
Âu đã được cụ thể hóa thông qua cuộc cách mạng tư sản chấm dứt thời kỳ phong kiến ở Tây Âu.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 6: PHÁP LUẬT PHONG KIẾN TÂY ÂU


I. Nguồn luật của pháp luật phong kiến Tây Âu:
- Nhà nước phong kiến Tây Âu có sự đa dạng và có đặc trưng của tình trạng phân quyền cát cứ,
chính vì vậy đã tạo ra một dấu ấn rõ nét trong sự đa dạng về hệ thống nguồn luật. Các nguồn
luật của pháp luật phong kiến Tây Âu có thể kể đến là:
+ Tập quán pháp.
+ Những quy định dẫn chiếu từ luật La Mã cổ đại.
+ Luật pháp của các triều đình phong kiến. Trong đó, chủ yếu là các quy định của nhà vua.
+ Luật lệ của giáo hội thiên chúa.
+ Luật lệ của các lãnh chúa, chính quyền tự trị (như luật lệ của các trung tâm thành thị tự trị).
→ Nhận xét: Sự đa dạng trong nguồn luật của pháp luật phong kiến Tây Âu xuất phát từ việc
đây là một nhà nước tồn tại một cách lâu dài và bền vững chế độ phân quyền cát cứ. Có nhiều
chủ thể có quyền ban hành ra các quy định pháp luật vì trong từng lãnh địa phong kiến sẽ có
luật lệ của lãnh chúa, trong phạm vi một quốc gia sẽ có luật lệ của nhà vua, trong phạm vi lãnh
địa của giáo hội sẽ có luật lệ của giáo hội điều chỉnh. Chính sự đa dạng của các chủ thể có
quyền ban hành ra luật cộng với tình trạng phân quyền cát cứ mà nhà nước phong kiến Tây Âu
có sự đa dạng trong hệ thống nguồn luật.
- Tùy từng thời kỳ mà vai trò của các nguồn luật khác nhau. Trong giai đoạn đầu tiên khi nhà
nước phong kiến Tây Âu mới được hình thành thì nguồn luật được sử dụng phổ biến để điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong giai đoạn này là các tập quán pháp. Tập quán pháp được xây
dựng và tập hợp lại trong bộ luật Xalich.
- Ở từng vùng, việc sử dụng các nguồn luật cũng khác nhau.

II. Nội dung của pháp luật phong kiến Tây Âu:
1. Quy định về dân sự: điều chỉnh về 3 lĩnh vực cơ bản: tài sản, hợp đồng và hôn nhân gia
đình.
a. Quy định về tài sản.
- Tài sản bao gồm: ruộng và các động sản khác.
- Nếu là ruộng đất canh tác thì có hai hình thức sở hữu là: công và tư.
- Nếu là nhà cửa vườn tược khác thì quyền tư hữu đối với tài sản này được pháp luật thừa nhận.
- Xâm phạm tài sản người khác sẽ bị trừng phạt.

b. Quy định về hợp đồng.


- Quan hệ hợp đồng và trái vụ đối với ruộng đất sẽ theo nguyên tắc “không đất nào mà không
có chủ”.
- Trong các thành phố tự trị, pháp luật La Mã được viện dẫn để điều chỉnh các quan hệ trái vụ
và hợp đồng như hợp đồng mua bán, đổi chác, trao tặng, thuê mướn, ủy thác.

c. Quy định về hôn nhân gia đình.


- Bộ luật Xalich nghiêm cấm tục cướp vợ hoặc mua bán vợ.
- Bộ luật vẫn còn duy trì một số tập quán như người phụ nữ góa phải lấy anh trai (em trai) của
chồng. Tuy nhiên, người phụ nữ góa chồng vẫn được phép lấy người khác không phải anh trai
(em trai) của chồng nếu thỏa mãn 2 điều kiện: được sự đồng ý của gia đình người chồng cũ và
người chồng mà cô gái định kết hôn phải nộp cho gia đình người chồng cũ một khoản tiền. Giải
thích: Quy định này nhằm để bảo toàn tài sản của gia đình chồng.
- Địa vị của người phụ nữ vẫn thấp kém và họ vẫn phải chịu sự lệ thuộc vào người chồng,
người cha, con trai.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
2. Quy định về hình sự:
a. Tục trả nợ máu.
- Tục trả nợ máu là một dấu ấn trong pháp luật hình sự của nhà nước phong kiến Tây Âu.
- Thời kỳ đầu của chế độ phong kiến tục trả nợ máu còn tồn tại khá đậm nét.
- Đối tượng của việc trả nợ máu là kẻ giết người hoặc con trai của người đó.
- Người được trả thù là cha, con trai, anh em trai của nạn nhân.
- Luật quy định thời gian chờ trả thù. VD: Ở Anh, quy định thời gian chờ trả thù là 12 tháng.
Khi hết quãng thời gian này mà người vi phạm thực hiện việc nợ máu không tự chuộc được tội
của mình thì họ sẽ phải trả giá và họ sẽ bị trả nợ máu.

b. Dùng tiền chuộc tội.


- Luật cho phép dùng tiền để chuộc tội. Bất kỳ tội gì cũng có thể chuộc tội bằng tiền nộp phạt.
- Không được phép dùng tiền chuộc tội: như phản quốc, không trung thành với vua và lãnh
chúa phong kiến, chống lại nhà thờ luật lệ tôn giáo, trộm cắp tài sản của nhà nước, nhà thờ…
- Họ hàng có nghĩa vụ tham gia vào việc nộp phạt cho tội phạm. Sau khi nộp phạt xong, tội
phạm phải có trách nhiệm phục tùng cho người đã bỏ tiền chuộc tội cho mình.

3. Quy định về tố tụng và tư pháp:


a. Tòa án.
- Nguyên tắc: Người xét xử phải có tài sản ít nhất bằng tài sản của người bị xử án.
- Có rất nhiều Tòa án: Tòa án của nhà vua, lãnh chúa, giáo hội. Mỗi tòa án có chức năng và
quyền hạn riêng biệt. VD: Bên trong các lãnh địa phong kiến, tòa án của các lãnh chúa phong
kiến sẽ là tòa án xét xử các hành vi vi phạm, Tòa án giáo hội xét xử những hành vi phạm tội
liên quan đến tôn giáo như tội dị giáo, các hành vi vi phạm pháp luật mà tác động đến giáo hội.

b. Tổ chức luật sư.


- Tổ chức luật sư phát triển mạnh, hoạt động như những ngành nghề khác trong xã hội và có vai
trò quan trọng trong đời sống chính trị xã hội.

c. Viện công tố.


- Sau khi nghị viện ra đời thì Viện công tố được hình thành.
- Ủy viên công tố là thành viên của nghị viện.
- Dần dần, viện công tố tách khỏi nghị viện và do một ủy viên công tố của nhà vua đứng đầu.

III. Nhận xét về pháp luật phong kiến Tây Âu:


- Pháp luật được xem là phương tiện của nhà nước để đàn áp, bóc lột giai cấp bị trị; bảo vệ cho
địa vị quyền lợi của tập đoàn phong kiến và giáo hội. Sự áp bức bóc lột này được thể hiện rất rõ
nét qua các nội dung cụ thể trong lĩnh vực dân sự, hình sự và tố tụng. VD: Trong lĩnh vực tố
tụng, nguyên tắc xử án của tòa án là người xét xử phải có tài sản ít nhất bằng tài sản của người
bị xử án. Đây là nguyên tắc không tạo ra sự công bằng vì một người nghèo có thể bị xử bởi bất
kỳ ai giàu hơn mình, còn người giàu thì luôn được xử bởi những người giàu.
- Luật pháp của phong kiến Tây Âu kém phát triển hơn so với pháp luật Hy Lạp - La Mã cổ đại.
Giải thích: Sự kém phát triển này cả về nội dung lẫn hình thức, đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự
và thương mại. Minh chứng rõ nét cho sự kém phát triển là việc khi nhà nước phong kiến Tây
Âu bước vào giai đoạn phát triển kinh tế từ khoảng thế kỷ XI, sự xuất hiện của những trung tâm
thành thị, quan hệ dân sự bắt đầu phát triển và đặt ra nhu cầu nhà nước phải có luật điều chỉnh
nhưng nhà nước Tây Âu đã không tự mình xây dựng mà họ viện dẫn lại những quy định pháp
luật của La Mã cổ đại để sử dụng.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
Tại sao một hệ thống pháp luật của một nhà nước ra đời sau (tức chế độ phong kiến) lại kém
phát triển hơn so với hệ thống pháp luật của một nhà nước đã tồn tại trước đó (tức nhà nước La
Mã trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ)?
→ Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do 3 nguyên nhân liên quan đến yếu tố về kinh
tế, chính trị và yếu tố về mặt tư tưởng:
- Thứ nhất, về mặt kinh tế, xuất phát từ tình trạng phân quyền cát cứ trong khoảng thời gian dài,
nền kinh tế tự cung tự cấp bên trong các lãnh địa phong kiến đã kìm hãm sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và nền kinh tế hàng hóa nói riêng. Do vậy, pháp luật trong lĩnh vực kinh tế
thương mại không phát triển vì quan hệ dân sự không xuất hiện nhiều.
- Thứ hai, về mặt chính trị, tình trạng phân quyền cát cứ đã dẫn đến các cuộc chiến tranh diễn ra
liên miên, các cuộc chiến tranh này có thể là các cuộc chiến tranh giành lãnh thổ bên ngoài, các
cuộc chinh phạt mở rộng lãnh địa phong kiến. Việc tham chiến trong một thời gian dài và liên
tục đã làm cho giai cấp thống trị ở nhà nước phong kiến Tây Âu không có thời gian, không đủ
điều kiện cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
- Thứ ba, xuất phát từ mặt tư tưởng và trình độ học vấn, đại bộ phận người dân trong thời kỳ
này đều mù chữ, nền giáo dục không được chú trọng và chủ yếu chỉ dạy kinh thánh và chiến
đấu, một số quý tộc cũng không biết chữ. Trong nhà nước, xét về mặt tư tưởng, giáo lý nhà thờ
được xem là hệ tư tưởng thống trị đối với toàn người dân. Nhà nước và giáo hội đã thực hiện
chính sách ngu dân và người dân có thể học thuộc lòng kinh thánh mà không có được sự giáo
dục mang tính toàn diện. Chính vì trình độ giáo dục thấp nên trình độ pháp lý ở nhà nước phong
kiến Tây Âu cũng thấp.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 7: NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN PHƯƠNG ĐÔNG


Ở phương Đông cổ đại đã nghiên cứu 4 nhà nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc. Tuy
nhiên sang phần này chỉ nghiên cứu 2 nhà nước phong kiến điển hình đó là Trung Quốc và
Nhật Bản vì cuối thời kỳ cổ đại Ai Cập và Lưỡng Hà đã trở thành một bộ phận của lãnh thổ đế
quốc La Mã. So với Ấn Độ, Trung Quốc là nhà nước phong kiến tiêu biểu hơn vì sự tồn tại bền
vững, lâu dài của chế độ phong kiến và chính sự lớn mạnh, to lớn của Trung Quốc đã trở thành
nhà nước kiểu mẫu và có ảnh hưởng sâu rộng đến các nước lân cận lúc bấy giờ. Nghiên cứu
phong kiến Nhật Bản vì Nhật Bản cũng là một trong những nhà nước phong kiến tiêu biểu ở
những nguyên nhân nội tại của nó đã giúp cho Nhật Bản trở thành một nước không bị xâm lược
khi bước qua thế kỷ thứ XIX.

I. Nhà nước phong kiến Trung Quốc:


1. Cơ sở hình thành nhà nước phong kiến Trung Quốc:
a. Điều kiện kinh tế.
- Vào thời kỳ Đông Chu (thế kỷ VIII TCN - III TCN), tình hình kinh tế Trung Quốc có nhiều
biến động quan trọng:
+ Về nông nghiệp, việc sử dụng công cụ lao động bằng sắt làm cho sức sản xuất phát triển
nhanh chóng, diện tích đất trồng trọt được mở rộng, nhiều kỹ thuật canh tác được áp dụng làm
cho năng suất nông nghiệp tăng cao.
+ Về thủ công nghiệp, có nhiều ngành nghề mới và sự tiến bộ, nhất là trong việc cải tiến kỹ
thuật và tăng số lượng các ngành nghề.
+ Về thương nghiệp cũng rất nhộn nhịp nhưng kinh tế chủ đạo vẫn là kinh tế nông nghiệp, thủ
công nghiệp và thương nghiệp có phát triển nhưng không mạnh mẽ như ở phương Tây. Tại sao?
Điều kiện tự nhiên ở phương Đông vốn rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp hơn là thủ
công nghiệp vì phương Đông hình thành trên các lưu vực con sông lớn, đất đai giàu mỡ, thuận
lợi cho việc trồng cây lương thực, khí hậu nhiệt đới, đất phù sa, không phù hợp cho việc trồng
cây công nghiệp, mặt khác, địa hình khép kín, bị chia cắt đã làm hạn chế sự phát triển giao lưu
buôn bán và phát triển thương nghiệp nơi đây.
- Sở hữu tư về đất đai phát triển (sự thay đổi quan trọng dẫn đến hình thành nhà nước phong
kiến Trung Quốc đó là sự xuất hiện của sở hữu tư, hay nói cách khác là sở hữu công - sở hữu
của nhà nước bị tan rã) vì những lý do sau:
+ Thứ nhất, nhu cầu sử dụng đất tăng do kinh tế phát triển. Giải thích: Sự phát triển kinh tế
nông nghiệp làm phát sinh nhu cầu sở hữu đất đai và đẩy cao nhu cầu chiếm hữu ruộng đất và
biến đất này trở thành đất tư.
+ Thứ hai, hệ quả của chế độ phân phong ruộng đất của nhà Chu. Giải thích: Chế độ phân
phong ruộng đất của nhà Chu đã làm hạn chế quyền sở hữu đất đai của nhà vua. Chế độ cấp đất
và ban tước được thực hiện từ thời nhà Chu, theo đó đất đai trong cả nước được ban cấp cho
anh em và thân thích và các công thần của nhà vua được ban đất kèm theo phong tước. Đất đai
được phong cũng được duy trì chế độ cha truyền con nối. Hệ quả là đất đai không còn tập trung
vào tay vua nữa mà dần dần thành đất riêng của các nước chư hầu. Về sau khi vua Chu suy yếu,
vua Chu hầu như không còn quyền lực gì trên đất đai của các nước chư hầu vì vậy ruộng đất
của nhà Chu dần dần thành ruộng đất tư của quý tộc.
+ Thứ ba, chế độ tỉnh điền tan rã. Chế độ tỉnh điền là gì? Nhà Chu thực hiện quản lý đất đai
theo chế độ tỉnh điền, đất đai của quý tộc được chia làm 9 miếng như hình chữ tỉnh, trong đó
quý tộc giữ lại 1 miếng, còn lại 8 miếng sẽ phát cho nông dân cày cấy và đưa hoa lợi cho quý
tộc và nhà vua. Ban đầu, 8 miếng đất này được luân chuyển sau mỗi mùa thu hoạch nên việc
sản xuất được ổn định trên 1 mảnh đất để đảm bảo sự công bằng cho các bên và hạn chế sự tư
hữu về đất đai. Sau quá trình dài lao động, người nông dân nhận ra rằng việc chia đất như vậy
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
làm người ta không có trách nhiệm đối với miếng đất của mình vì hết mùa vụ, đất sẽ lại được
chia. Sau đó, những người nông dân tự thảo luận không đổi đất với nhau nữa mà sẽ cố định trên
một mảnh đất để có thể chăm sóc đất tốt hơn, thu hoạch được nhiều mùa màng hơn. Bên cạnh
đó, xác suất tác động không nhỏ đến năng suất lao động, sản phẩm làm ra nhiều hơn vì vậy
người ta muốn có nhiều đất để canh tác. Mặt khác, khi kinh tế thủ công nghiệp và thương
nghiệp phát triển, một số nông dân đã chuyển sang hoạt động sản xuất thủ công nghiệp và buôn
bán, không có nhu cầu sản xuất trên đất đó và muốn có một nguồn vốn để phát triển sản xuất
thủ công nghiệp hoặc đầu tư cho thương nghiệp. Vì vậy dần dần xuất hiện nhu cầu chiếm hữu
ruộng đất, họ trao đổi ruộng đất với nhau làm cho đất đai tập trung ở một số gia đình. (Sau này,
ở một số nhà nước người ta nhận ra rằng dù có cấm thì việc buôn bán đất vẫn phát triển một
cách không công khai, vì vậy đã thừa nhận việc tự do buôn bán đất ví dụ như Nhật Bản). Chế
độ tỉnh điền tan rã kèm theo là sự tập trung ruộng đất tư hữu, nhu cầu phát canh thu tô phát
canh cho những người nông dân không có đất hoặc những người ít đất bắt đầu xuất hiện.
Những người nông dân không có đất hoặc những người ít đất được nhận đất về sản xuất và trả
thuế cho chủ đất gọi là nông dân tá điền. quan h sn xut phong kin
+ Thứ tư, quý tộc mở rộng việc khai hoang. Giải thích: Khai khẩn đất hoang được quý tộc thử
nghiệm trên quy mô lớn nhằm biến ruộng đất thành ruộng đất tư của mình. Ngoài ra, sau cuộc
chiến tranh loạn lạc làm cho nông dân phải rời bỏ quê hương đi nơi khác tạo ra vùng đất hoang
vô chủ nên quý tộc biến những vùng đất này thành đất tư của mình.
→ Chính sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng của chế độ tư hữu về ruộng đất làm cho quan
hệ sản xuất phong kiến cũng manh nha hình thành khi ruộng đất lớn dần tập trung trong tay của
chủ đất hoặc những quý tộc có ruộng đất, những nông dân giàu có mua được nhiều ruộng đất
thì họ tiến hành phát canh thu tô. Nhiều nông dân không có ruộng đất bao gồm cả quý tộc bị
cướp đất và nông dân bị phá sản phải bán ruộng đất của mình và nô lệ trở thành tá điền cày cấy
cho chủ đất. Một số khác do ít ruộng phải lĩnh canh thêm ruộng đất để cày cấy, nông dân phải
nộp địa tô hoặc có thể là tô điền, hoặc có thể là tô hiện vật cho chủ đất, ngoài ra họ còn phải
nộp các loại sưu khác, phải đi làm không công cho nhà nước trong thời gian nhất định trong
năm như đắp đê, xây dựng công trình. Như vậy, trong xã hội đã hình thành quan hệ sản xuất
phong kiến với quá trình lĩnh canh ruộng đất và địa tô xuất hiện.
→ Điều kiện kinh tế này dẫn đến sự thay đổi về điều kiện xã hội.

b. Điều kiện xã hội.


- Xã hội đã dần hình thành ra 2 tầng lớp: tầng lớp địa chủ và nông dân tá điền, đồng thời xuất
hiện phương thức bóc lột bằng địa tô bao gồm tô điền, tô hiện vật, tô lao dịch và các loại sưu
thuế khác. Ngoài ra, trong xã hội còn tồn tại tầng lớp công thương và nô tỳ.
Giai cấp thống trị Giai cấp bị trị
Địa chủ Nông dân tá điền

2. Sự phát triển và suy vong của nhà nước phong kiến Trung Quốc: lãnh chúa và bi thn
- Trước những biến đổi về mặt kinh tế như vậy, những cải cách chính trị bắt đầu xuất hiện và
được thực hiện nhằm cải thiện tình hình bất ổn chính trị cũng như là phát triển kinh tế và lịch sử
Trung Quốc gọi thời kỳ này là thời kỳ chiến quốc.
- Trung Quốc được chia thành 7 nước lớn là: Tần, Hán, Triệu, Ngụy, Yên, Tề, Sở. Chế độ tư
hữu ruộng đất lúc này đã tương đối phát triển, giai cấp địa chủ mới mâu thuẫn quyền lợi với
giai cấp chủ nô đã tiến hành đấu tranh quyết liệt và dần nắm quyền lãnh đạo nhà nước. Các
nước đều thi hành cải cách chính trị, trong từng nước đều xây dựng chính quyền trung ương tập
quyền. Các nước Hán, Triệu, Ngụy, Yên, Tề, Sở quý tộc chống đối mạnh nên các cuộc cải cách
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
đều thất bại, riêng nước Tần vì điều kiện thuận lợi và nhà Tần cương quyết với cải cách nên đã
giành thắng lợi, biến nước Tần thành nước mạnh nhất thời chiến quốc.

 Cải cách của Thương Ưởng:


- Chủ yếu tập trung vào khuyến khích sản xuất và phát triển quan hệ sản xuất phong kiến, thống
nhất đo lường người nào sản xuất được nhiều của cải thì nhà nước miễn lao dịch.
- Thừa nhận chế độ tư hữu ruộng đất. Quý tộc không lập được công trạng thì sẽ không được ban
tước vị, quý tộc hay bình dân đều bình đẳng trước pháp luật, nguyên tắc “hình phạt không tới
bậc đại phu, lễ nghi không tới bậc thứ dân” bị xóa bỏ nhằm tước bỏ những đặc quyền, đặc lợi
của giai cấp chủ nô, tăng cường quyền lực cho giai cấp phong kiến.
- Ưu ái tầng lớp địa chủ mới và tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất phong kiến

 Nhà Tần (221 - 206 TCN):


- Nhà Tần thống nhất 7 nước và trở thành nhà nước phong kiến đầu tiên của Trung Quốc.
- Sau khi đã thống nhất Trung Quốc, nhà Tần đã thực hiện nhiều chính sách để củng cố hệ
thống tư tưởng chính trị của nhà nước. Để củng cố hệ thống tư tưởng chính thống của nhà Tần,
chính quyền đã ban hành nhiều đạo luật, đốt sách, giết kẻ sĩ, trừ những sử sách của nhà Tần,
sách y học, thủ công nghiệp… Mặt khác, chính quyền thống nhất về luật pháp, tiền tệ, đơn vị
đo lường và thống nhất về mặt chữ viết. Nhà Tần thẳng tay bóc lột và đàn áp nhân dân, thuế
khóa hà khắc.
- Nhà nước phong kiến Trung Quốc ngay từ đầu đã là nhà nước quân chủ chuyên chế, phương
thức tổ chức của nhà Tần là cơ sở để bộ máy nhà nước phong kiến Trung Quốc tồn tại hơn
2000 năm.

 Nhà Hán: có 2 thời kỳ là tây hán và đông hán:


- Nhà Hán tăng cường chế độ quân chủ chuyên chế. Hán Cao Tổ muốn lập ra một đẳng cấp quý
tộc của dòng họ nên đã phong cho con cháu của mình làm vương hầu. Vương hầu xen kẽ với
các quận huyện của hoàng đế để kìm chế, giám sát các quan lại địa phương và giúp vua dễ dàng
đàn áp các cuộc phản kháng của nhân dân.
(đọc thêm trong giáo trình)

Sơ lược lịch sử phong kiến Trung Quốc từ nhà Hán đến nhà Thanh
- Năm 202 TCN, Lưu Bang tiêu diệt Hạng Vũ, lập ra nhà Hán.
- Năm 280, Tư Mã Viêm thống nhất Trung Quốc, lập ra nhà Tấn.
- 581, Dương Kiên lập ra nhà Tùy.
- 618, nhà Tùy mất, Lý Uyên lập lên nhà Đường.
- Năm 907, Triệu Khuông Dận lập nên nhà Tống.
- 1279, Hốt Tất Liệt lập ra nhà Nguyên.
- 1368, nhà Minh được thành lập.
- 1644, nhà Minh bị người Mãn Thanh xâm chiếm lập ra nhà Thanh.
- 1911, cách mạng tư sản Trung Quốc của Tôn Trung Sơn đã lật đổ nhà nước phong kiến cuối
cùng.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
3. Tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến Trung Quốc:
a. Tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương.

Hoàng đế

Thừa tướng Thái úy

Các chức quan khác Các quan văn Các quan võ Các chức quan khác

Quận Quận

Huyện Huyện Huyện Huyện

 Vua:
- Vua là chủ sở hữu lớn nhất trong xã hội, có quyền lực tuyệt đối cả vương quyền và thần quyền
và là tổng chỉ huy quân đội. Bên cạnh đó, vua còn là người đại diện hợp pháp trong các quan hệ
giao bang với nước ngoài, quyết định cử sứ thần đi bang giao.
- Vua nắm giữ vương quyền:
Lập pháp Hành pháp Tư pháp
- Vua lệnh cho các - Vua bổ nhiệm, thăng chức, thưởng - Vua là người giữ quyền xét
quan lại ban hành các phạt, thuyên chuyển quan lại. xử cao nhất.
bộ luật. - Vua trực tiếp đề ra chính sách và
thực hiện chính sách.
- Vua nắm giữ quân đội:
+ Vua là tổng chỉ huy quân đội.
+ Vua có quyền bãi miễn và bổ nhiệm các chức danh quan trọng trong quân đội, quyết định
chính sách xâm lược các quốc gia khác.
- Vua nắm giữ thần quyền: t tng chính tr
+ Vua là thiên tử. Pháp lut v Trung Quc thi k phong kin không hc
+ Vua là chủ tế trong các lễ nghi tôn giáo.

 Tể tướng:
- Tể tướng có nhiệm vụ tổng quản chính vụ, giúp Hoàng đế cai trị dân, nắm thu chi của nhà
nước, quản lý các công trình công cộng.
VD: Nhà Tần, có lúc phân chia thành Tả, Hữu Thừa tướng. Thời Hán, gọi là Thượng Thư
Lệnh… Ở nhà Đường không đặt chức Tể tướng.

b. Tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương.


- Tùy từng triều đại có cách chia khác nhau:
+ Nhà Tần, cả nước được chia làm 2 cấp là quận và huyện.
+ Nhà Hán, chế độ quản lý ở địa phương có 3 cấp: bộ, quận, huyện.
+ Nhà Đường: chia cả nước thành 10 đạo. Dưới đạo vẫn là quận (châu), huyện. Thời Trung
Đường, Tiết độ sứ kiêm luôn cả chức Thứ sử, nắm đại quyền quân chính ở địa phương.
+ Nhà Tống, chia địa phương thành Lộ, Châu, Huyện, Xã.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
→ Trung Quốc có thể tổ chức bộ máy nhà nước theo hình thức quân chủ tuyệt đối lâu dài
vì:
- Thứ nhất, để huy động được sức người, sức của trong thiên hạ thực hiện việc trị thủy và tổ
chức chiến tranh.
- Thứ hai, do ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo.
(Nho giáo được Khổng Tử khởi xướng từ thời xuân thu và tiếp tục phát triển trong các thời kỳ
sau. Đến thời Hán Nguyên Đế trở đi, Nho giáo được phong làm hệ tư tưởng chủ đạo trong tổ
chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Tư tưởng căn bản của Nho giáo là muốn tạo ra một xã
hội ổn định trong gia đình, nhà nước và trên toàn thế giới. Nho giáo yêu cầu hành vi của con
người trước hết phải theo một hệ thống luân lý đạo đức nghiêm ngặt, sau đó mới dựa vào chuẩn
mực của pháp luật, theo đó hệ thống luân lý mà Nho giáo đưa ra điều chỉnh hành vi của con
người trong mối quan hệ của tam cương, vua tôi, vợ chồng, cha con nhằm củng cố trật tự đẳng
cấp phong kiến. Như vậy, Nho giáo giải quyết được mối quan hệ trong xã hội theo hướng có lợi
cho giai cấp thống trị nên được nhà nước phong kiến Trung Quốc lợi dụng, biến nó thành hệ tư
tưởng chính thống).
- Thứ ba, mối quan hệ trong nội bộ giai cấp thống trị luôn thống nhất cùng bóc lột giai cấp bị trị.
Mặc dù giai cấp thống trị ở xã hội phong kiến bao gồm nhiều tầng lớp khác nhau (địa chủ quan
lại, tăng lữ…) nhưng luôn thống nhất cùng bóc lột giai cấp bị trị bằng sưu cao thuế nặng, bằng
địa tô.
Vì vậy, có thể thấy trong lịch sử phong kiến Trung Quốc là sự thống nhất cao về mặt quyền lực,
sự thay đổi của triều đại này thực ra là do sự thay đổi thống trị của tập đoàn phong kiến này lên
tập đoàn phong kiến khác.
Lịch sử phong kiến Trung Quốc kéo dài, lịch sử lên ngôi của các dòng họ chỉ hưng thịnh ở giai
đoạn đầu và thối nát ở giai đoạn cuối. Vì vậy, sự nổi dậy của các phong trào đấu tranh nông dân
chính là đặc trưng trong xã hội Trung Quốc. Quyền lực vẫn tập trung cao độ vào tay vua mà
người ta không hề nghĩ đến việc xây dựng bất cứ một thể chế nào để hạn chế quyền lực nhà vua
như ở các nước phong kiến Tây Âu bởi vì nền kinh tế nông nghiệp vẫn là chủ đạo, người dân
sống phụ thuộc vào đất và giai cấp thống trị bóc lột giai cấp bị trị bằng thuế quan, địa tô. Chính
vì vậy, các nhà nước phong kiến Trung Quốc vẫn mang tính tập trung quyền lực một cách cao
độ và tồn tại một cách lâu dài.

4. Đặc trưng của nhà nước phong kiến Trung Quốc:


- Thứ nhất, nhà nước phong kiến Trung Quốc có chính thể quân chủ tuyệt đối điển hình ở
phương Đông.
- Thứ hai, Nho giáo là hệ tư tưởng chủ đạo trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước
của nhà nước phong kiến Trung Quốc.
- Thứ ba, Trung Quốc luôn tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược nhằm mở rộng lãnh thổ và
đồng hóa.

II. Nhà nước phong kiến Nhật Bản:


1. Quá trình hình thành, phát triển và suy vong nhà nước phong kiến Nhật Bản:
a. Quá trình hình thành nhà nước phong kiến Nhật Bản.
(1) Sự sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Nhật Bản:
- Khoảng thế kỷ I, ở Nhật Bản bắt đầu xuất hiện nhà nước. Nhờ học hỏi, tiếp thu văn minh
Trung Quốc và Triều Tiên mà xã hội Nhật Bản chuyển biến nhanh.
- Về kinh tế:
+ Kinh tế nông nghiệp là chủ đạo.
+ Quan hệ nô lệ mang tính gia trưởng.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Về xã hội:
Giai cấp thống trị Giai cấp bị trị
- Thiên hoàng. - Nô lệ: chiếm số lượng ít, phục dịch
- Quan lại. trong các gia đình quý tộc, khai khẩn đất
- Địa chủ. hoang, làm thủy lợi và nhiều công trình
khác.
- Dân tự do.
- Bộ dân: là những người bán tự do, gồm:
những người di cư từ Trung Quốc, Triều
Tiên phải sống tập trung tại những nơi do
nhà nước quy định; những người Nhật
Bản bán mình cho quý tộc, quý tộc không
được quyền giết họ.

- Quan hệ nô lệ tồn tại ở Nhật Bản nhưng không trải qua đầy đủ sự phát triển của chế độ chiếm
hữu nô lệ vì:
+ Thứ nhất, thời điểm Nhật Bản ra đời nhà nước chiếm hữu nô lệ thì ở trên thế giới chế độ nô lệ
đã lâm vào trạng thái khủng hoảng.
+ Thứ hai, nền kinh tế chủ đạo ở Nhật Bản là kinh tế nông nghiệp. Giải thích: Nền kinh tế nông
nghiệp chủ yếu do nông dân công xã cày cấy, nô lệ chưa bao giờ là nguồn lao động sản xuất
chủ yếu.
+ Thứ ba, nguồn nô lệ suy giảm do nhà nước không thể tổ chức được chiến tranh. Giải thích:
Nô lệ mà Nhật Bản có được trước nay chủ yếu do tiến hành chiến tranh xâm lược Triều Tiên
nhưng Triều Tiên thời kỳ này đã lớn mạnh, có khả năng đẩy lùi các cuộc chiến tranh xâm lược
của Nhật Bản.

(2) Sự xuất hiện của quan hệ sản xuất phong kiến:


- Thứ nhất, do mâu thuẫn nội bộ giai cấp thống trị.
- Thứ hai, cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân bùng nổ.
- Thứ ba, do quá trình học hỏi, tiếp thu từ Trung Quốc và Triều Tiên.
 Cuộc cải cách Taica:
- Một là, xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân về đất đai; Quy định chỉ có nhà nước được quyền sở hữu
đất đai.
- Hai là, xóa bỏ chế độ bộ dân, toàn bộ cư dân trở thành thần dân cả nước, được lĩnh canh ruộng
đất, có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước.
- Ba là, nhà nước thực hiện chế độ ban điền và chế độ thu tô “tô, dung, điệu” (tương tự như ở
Trung Quốc).
- Bốn là, tầng lớp quý tộc thống trị cũng có ruộng đất dưới hình thức phong nhận được của nhà
nước.
- Năm là, xây dựng nhà nước quân chủ trung ương tập quyền (theo mô hình bộ máy nhà nước
phong kiến Trung Quốc đời Đường).
→ Nhận xét:
+ Cuộc cải cách này là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh của nông dân, mà trước hết là của bộ
dân và nô lệ với giai cấp thống trị. Nhưng khi thiết lập trật tự và thể chế mới, Taica đã rập
khuôn chế độ phong kiến của Trung Quốc thời nhà Đường trong việc thực hiện quyền sở hữu
ruộng đất, chế độ quân điền, tổ chức bộ máy nhà nước nhằm củng cố chế độ quân chủ chuyên
chế trung ương tập quyền.
+ Cải cách Taica được xem là sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu sự thiết lập chế độ phong
kiến ở Nhật Bản.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
 Đặc điểm của quan hệ phong kiến Nhật Bản:
- Nhà nước có quyền sở hữu tối cao đối với ruộng đất trong toàn quốc và thực hiện quyền đó
dưới hình thức ban điền.
- Từ thế kỷ X, chế độ trang viên phong kiến đã ra đời. Toàn bộ đất đai của lãnh chúa phong
kiến đều được miễn thuế và có quyền bất khả xâm phạm về mặt hành chính.

b. Quá trình phát triển và suy vong của nhà nước phong kiến Nhật Bản.
- Thời kỳ Nara (710 - 794).
- Thời kỳ Hayan (794 - 1192).
- Thời kỳ Mạc phủ (thế kỷ XII đến thế kỷ XIX).

2. Tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến Nhật Bản:


- Sau cải cách Taica, bộ máy nhà nước của Nhật Bản được tổ chức rập khuôn theo bộ máy nhà
nước của nhà nước phong kiến Trung Quốc đời nhà Đường.

3. Đặc trưng của nhà nước phong kiến Nhật Bản:


- Thứ nhất, sự xuất hiện của nhà nước phong kiến Nhật Bản chậm hơn các nhà nước phong kiến
Trung Quốc.
- Thứ hai, quân chủ hạn chế là hình thức chính thể phổ biến tồn tại trong thời kỳ phong kiến của
Nhật Bản.
- Thứ ba, về tổ chức bộ máy nhà nước, các tướng lĩnh quân sự nắm quyền kiểm soát quốc gia
trong nhiều thế kỷ, đặc biệt dưới thời Mạc Phủ.
- Thứ tư, tình trạng lật đổ, tranh giành quyền lực trong nội bộ giai cấp thống trị giữa các dòng
họ quý tộc với thiên hoàng là tình trạng phổ biến. Chứng tỏ rằng tình hình chính trị và tổ chức
nhà nước phong kiến Nhật Bản không có tính ổn định và bền vững.

Tại sao sau cải cách Taica, Nhật Bản đã xây dựng nhà nước quân chủ tuyệt đối nhưng thế kỷ
XX sự phát triển của nhà nước phong kiến Nhật Bản lại giống phong kiến Tây Âu? (cô gợi ý:
sự tồn tại của điền trang thái ấp)
→ Từ khoảng năm 912, chính quyền không còn quan tâm nhiều đến phân phối đất đai mà chỉ
đề cập đến thuế má và việc cho thuê đất bỏ hoang. Chế độ “Ban điền” được xem là chấm dứt và
đến thế kỷ X thì ruộng đất thuộc quyền sở hữu tư nhân đã hoàn toàn lấn át ruộng đất do nhà
nước ban cấp và chế độ trang viên phong kiến đã ra đời. Sự phát triển của chế độ ruộng đất tư
hữu còn bao hàm ý nghĩa và quá trình chuyển quyền lực từ chính quyền trung ương vào tay các
chủ đất ở các địa phương. Đây cũng là quá trình hình thành các trang viên (Shoen) rộng lớn ở
khắp đất nước, toàn bộ đất đai của lãnh chúa phong kiến đều được miễn thuế và có quyền bất
khả xâm phạm về mặt hành chính. Cùng với thời gian, các trang viên lớn mạnh dần với tư cách
không chỉ là đơn vị kinh tế tự cấp tự túc mà còn là khu vực hành chính độc lập khiến nhà nước
không dễ kiểm soát được. Tới thế kỷ XII, các chủ trang viên ở Nhật Bản đã tập hợp xung quanh
các dòng họ Samurai có thế lực nhằm phát triển và nâng cao vị thế của mình. Sở dĩ, sự phát
triển của nhà nước phong kiến Nhật Bản lại giống phong kiến Tây Âu vì giữa các trang viên ở
Nhật Bản có sự tương đồng với các lãnh địa phong kiến của tầng lớp lãnh chúa phong kiến Tây
Âu. Tương tự như các lãnh địa phong kiến Tây Âu, trong các trang viên Nhật Bản cũng là nền
kinh tế nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp. Đến thời Edo (1603 - 1868), kinh tế có sự
chuyển biến rõ nét, đây là thời của thị dân và thương gia, được so sánh với thời Phục hưng bên
châu Âu, công nghiệp và nghề thủ công phát triển mạnh mẽ, giao thông được cải thiện, đem lại
sự thịnh vượng cho buôn bán và thương mại nội địa. Các thị trấn mọc lên ngày càng nhiều và
rất hưng thịnh, đặc biệt là các đô thị quanh cung điện, giới thương gia trở nên giàu có. Chế độ
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
Mạc phủ gặp phải những khó khăn tài chính, samurai và nông dân rơi vào cảnh nghèo khó. Đã
có các nỗ lực nhằm cải cách chế độ Mạc phủ, nhưng do vẫn duy trì chính sách thả lỏng việc tư
nhân kinh doanh nên tình trạng suy vong ngày càng nặng nề. Nạn đói kém và thảm họa thiên
nhiên, cộng thêm sưu cao thuế nặng (đối với lúa gạo) mà chế độ Tướng quân và Đại danh bắt
người dân gánh vác đã biến những người nông dân và các tầng lớp dân thường khác thành
nghèo khổ. Trước tình cảnh đó, các cuộc khởi nghĩa của nông dân bùng nổ. Nhìn lại nhà nước
phong kiến Tây Âu, thị dân ngày càng giàu có và mâu thuẫn giữa thị dân và lãnh chúa phong
kiến ngày càng gay gắt dẫn đến thị dân đã đấu tranh giành quyền tự trị. Quá trình chuyển biến
xã hội phong kiến Nhật Bản cũng tương tự như quá trình chuyển biến xã hội ở nhà nước phong
kiến Tây Âu nên mặc dù sau cải cách Taica, Nhật Bản đã xây dựng nhà nước quân chủ tuyệt
đối nhưng quá trình phát triển của nhà nước phong kiến Nhật Bản lại giống phong kiến Tây Âu.

III. Đặc trưng các nhà nước phong kiến phương Đông:
- Thứ nhất, các nhà nước phong kiến phương Đông đều tồn tại dưới hình thức quân chủ tuyệt
đối.
- Thứ hai, nhà nước phong kiến phương Đông đều chịu ảnh hưởng của các tư tưởng chính trị -
xã hội (Nho giáo, Đạo giáo).
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 8: PHÁP LUẬT PHONG KIẾN PHƯƠNG ĐÔNG


I. Pháp luật phong kiến Trung Quốc:
Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, đảm bảo thống nhất các quan điểm xã hội, mỗi triều
đại phong kiến Trung Quốc đều ban hành ra hệ thống luật pháp phù hợp với điều kiện xã hội
của từng triều đại. Chính vì thế, thời kỳ phong kiến Trung Quốc tồn tại nhiều triều đại và mỗi
triều đại có những hệ thống pháp luật riêng nên chương này chỉ khái quát sơ lược về pháp luật
các triều đại phong kiến và tập trung phân tích pháp luật thời nhà Đường với bộ luật Đường luật
sớ nghị, bởi vì Đường luật sớ nghị có sự hoàn thiện đạt tới đỉnh cao hơn so với các bộ luật triều
đại khác và nó cũng là bộ luật đặt nền móng cho việc xây dựng và ban hành pháp luật của thời
kỳ sau. Theo đó, Đường luật sớ nghị đã kế thừa những tư tưởng pháp lý của pháp luật thời Tần,
Hán và pháp luật các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh về cơ bản đã kế thừa Đường luật.
Không chỉ vậy, Đường luật còn có ý nghĩa to lớn với nước ngoài, như pháp luật của Nhật Bản
khi Minh Tân duy trị, hay pháp luật Triều Tiên, Việt Nam cũng coi Đường luật là cán mốc để
hình thành hệ thống pháp luật.
1. Khái quát pháp luật các triều đại phong kiến Trung Quốc:
Triều đại Pháp luật
Nhà Tần Tần luật (Vân Mộng Tần giản)
Cửu chương luật
Nhà Hán
Hán luật
Luật Trinh Quán
Nhà Đường Bộ luật Vĩnh Huy
Bộ Đường luật sớ nghị
Nhà Tống Tống hình thống
Bộ pháp điển “Chí Nguyên tân cách”
Nhà Nguyên
Bộ luật “Đại Nguyên thống chế”
Nhà Minh Bộ “Đại Minh luật”
Nhà Thanh Bộ “Đại Thanh luật lệ”

2. Nội dung pháp luật phong kiến Trung Quốc:


 Nhà Tần:
- Về cơ bản, pháp luật nhà Tần đã có những chế định bao quát các lĩnh vực về dân sự, hình sự
và tố tụng nhưng nhà Tần chủ yếu xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế, đề cao pháp trị.
- Áp dụng tuyệt đối tư tưởng Pháp trị nên việc thực thi pháp luật mang tính áp đặt, cưỡng chế.
- Hình phạt rất dã man.

 Nhà Hán:
- Đặc biệt dưới thời Hán Vũ Đế, rút kinh nghiệm của nhà Tần trong việc trị nước nên đồng thời
với việc đặt ra hình luật còn sử dụng Nho giáo làm tư tưởng chủ đạo.
- Chủ trương: “Bãi truất bách gia, độc tôn nho thuật”, “Đức chủ hình phụ” (nghĩa là lấy đức làm
chủ yếu còn hình phạt là phụ theo dùng để trợ giúp cho những việc thực hành đức), “Lễ pháp
tịnh dụng”, “Lấy Xuân thu quyết án”.
- Thay thế những hình phạt dã man thời Tần bằng những hình phạt nhẹ hơn.

 Nhà Đường:
- Đường luật sớ nghị gồm 30 quyển do Trưởng tôn Vô Kỵ và một số người phụng mệnh hoàng
đế biên soạn. Đây là bộ luật hoàn chỉnh nhất còn lại của Trung Quốc. Đường luật sớ nghị gồm
2 phần: phần luật Đường thành văn và phần giải thích luật văn của Trưởng tôn Vô Kỵ và một
số người khác.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Về hình thức, Đường luật sớ nghị gồm 4 phần: luật, lệnh, cách, thức.
- Đường luật sớ nghị được coi là tập hợp về hệ thống hóa mang dấu ấn đậm nét của chế độ
phong kiến, thể hiện được ý chí giai cấp của tầng lớp thống trị phong kiến, nội dung của nó
phản ánh chế độ lễ nghi, chế độ quân chủ chuyên chế, chế độ đẳng cấp và chế độ tâm pháp. Bộ
luật này khoan dung hơn bộ luật của triều đại phong kiến chuyên chế thời Tần, Hán.
- Tư tưởng pháp luật: “Đức lễ vi chính giáo chi bản, hình phạt vi chính giáo chi dụng”, kết hợp
giữa đạo đức và pháp luật.
- Đơn giản hóa pháp luật, giảm nhẹ hình phạt.

 Nhà Tống:
- Có tư tưởng cấp tiến nhưng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.

 Nhà Nguyên:
- Pháp luật thực hiện chính sách kỳ thị và áp bức dân tộc.
- Pháp luật kém phát triển chủ yếu sao chép pháp luật nhà Đường.

 Nhà Minh:
- Pháp luật mang trì trệ, cứng nhắc, không phù hợp thực tế.
- Áp dụng nhiều biên sắc “dĩ sắc phá luật”.

 Nhà Thanh:
- Pháp luật thực hiện chính sách phân biệt đối xử giữa người Mãn Thanh và người Hán.

3. Nhận xét pháp luật phong kiến Trung Quốc:


- Vua là trung tâm của hoạt động lập pháp.
- Pháp luật mang tính trọng hình khinh dân. Giải thích: Hầu như tất cả triều đại của Trung Quốc,
hệ thống pháp luật thường quan tâm các quy định về hình sự hơn là các quy định về dân sự.
Điều này xuất phát từ xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ coi trọng và bảo vệ giai cấp thống trị. Các
quy định về hợp đồng và dân sự chưa được quan tâm nhiều.
- Pháp luật mang tính bất bình đẳng sâu sắc.
- Pháp luật thể hiện sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị.
- Pháp luật kết hợp giữa lễ và hình.

II. Pháp luật phong kiến Nhật Bản:


1. Thành tựu lập pháp:
- Sau cải cách Taica, người Nhật mới bắt đầu soạn ra luật pháp. Pháp luật của Nhật Bản bị ảnh
hưởng rất nhiều từ pháp luật Trung Quốc, chủ yếu của thời Tùy, Đường.
- Về hình thức, gồm 4 loại: Ritsu, Ruô, Kyaku, Shiki, tương ứng với luật, lệnh, cách, thức của
Trung Quốc.
- Bộ luật đầu tiên của Nhật Bản là Bộ luật 17 điều do Sô-tô-cư ban hành năm 104.
- Năm 622, Thiên Hoàng ban hành một bộ luật, nhưng bộ luật này không còn nữa, chúng ta biết
đến nó qua các tư liệu lịch sử.
- Năm 701, Bộ luật Taihô Risư Riô được soạn thảo, ban hành và được chỉnh sửa, bổ sung vào
năm 718.
- Năm 757, nhà nước lại ban hành bộ luật Yoro.
- Đến thời cầm quyền của các Mạc phủ. Chính quyền Mạc phủ không ban hành luật dưới dạng
các bộ luật mà công bố pháp luật dưới dạng các bảng khuyến cáo. Do quyền lực của chính
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
quyền Mạc phủ trong thời kỳ này lấn át quyền lực của Thiên Hoàng nên pháp luật của Mạc phủ
cũng có giá trị pháp lý cao hơn pháp luật của Thiên Hoàng.

2. Đặc trưng của pháp luật phong kiến Nhật Bản:


- Pháp luật phong kiến Nhật Bản khá đa dạng. Giải thích: Đa dạng bởi vì nhiều hệ thống pháp
luật như pháp luật của Thiên Hoàng, pháp luật của chính quyền Mạc phủ, pháp luật của lãnh
chúa phong kiến; đặc biệt trong thời kỳ Mạc phủ, pháp luật của tướng quân có hiệu lực pháp lý
cao nhất.
- Pháp luật phong kiến Nhật Bản chịu ảnh hưởng nhiều từ pháp luật phong kiến Trung Quốc.
Giải thích: Điều này là do quá trình xây dựng nhà nước phong kiến, các Thiên Hoàng đã chủ
trương học tập kinh nghiệm từ Trung Quốc, từ đó những tư tưởng pháp lý của Nhật Bản tiếp
thu từ pháp luật phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là thời Tùy, Đường.
- Pháp luật có sự phân chia giai cấp. Giải thích: Ở Nhật Bản thời kỳ phong kiến, phân chia
thành 4 đẳng cấp: sĩ, nông, công, thương; những người ở những đẳng cấp khác nhau sẽ bị trừng
phạt với các tội khác nhau theo cách thức khác nhau. Chẳng hạn, nếu cùng một tội ác, nếu
samurai phạm phải thì được xem là quá khích, còn dân thường phạm phải thì bị xem đó là tội ác
và phải hứng chịu những hình phạt nặng nề nhất, pháp luật cũng có đạo luật riêng để điều chỉnh
quan hệ hôn nhân của các samurai và dân thường.

III. Đặc trưng của pháp luật phong kiến phương Đông:
- Thứ nhất, pháp luật phong kiến phương Đông cổ đại là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị,
phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, củng cố chế độ phong kiến, chế độ đẳng cấp và đàn
áp bóc lột nhân dân.
- Thứ hai, pháp luật phong kiến bị ảnh hưởng bởi tôn giáo, tín ngưỡng.
- Thứ ba, pháp luật chính là công cụ cai trị sắc bén để giai cấp thống trị duy trì sự thống trị bằng
bạo lực, đàn áp của mình lên quần chúng nhân dân.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 9: NHÀ NƯỚC TƯ SẢN


Chủ nghĩa tư bản (CNTB) trải qua các thời kỳ:
- Thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh: thế kỷ XVII - nửa đầu thế kỷ XIX.
- Thời kỳ CNTB lũng đoạn và CNTB hiện đại: từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay.
I. Nhà nước tư sản trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh:
1. Những tiền đề dẫn đến sự ra đời của nhà nước tư sản:
a. Tiền đề về kinh tế. (Sự ra đời của nhà nước tư sản là bước đánh dấu cho sự ra đời của một
kiểu nhà nước tương ứng với một phương thức sản xuất mới, tương ứng với một hình thái kinh
tế - xã hội mới và chấm dứt sự tồn tại của chế độ phong kiến nên tiền đề đầu tiên cho sự ra đời
của nhà nước tư sản là tiền đề về kinh tế)
- Thế kỷ XV - XVII: chế độ phong kiến khủng hoảng, đặc biệt là trong quan hệ sản xuất phong
kiến. Quan hệ sản xuất phong kiến trong giai đoạn này bắt đầu lỗi thời và dần dần bị thay thế
bởi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đang hình thành trong lòng xã hội phong kiến.
- Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành dựa trên các điều kiện cơ bản:
+ Thứ nhất, là các thành tựu khoa học kỹ thuật trong giai đoạn này và bước đánh dấu đầu tiên
của những thành tựu này là sự xuất hiện của cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh bằng sự kiện
phát minh ra máy hơi nước. Những thành tựu khoa học kỹ thuật trong giai đoạn này đóng góp
rất lớn cho sự thay đổi trong cách thức sản xuất ở các ngành kinh tế cơ bản trong giai đoạn này,
trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp. Cụ thể là ngành nông nghiệp đã có
sự phát triển mới đã có việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào để tăng năng suất
trong lĩnh vực nông nghiệp .
+ Thứ hai, quá trình tích lũy nguyên thủy tư bản.
→ Cả hai điều kiện trên đã làm xuất hiện ngành kinh tế mới là ngành công nghiệp, đồng thời
làm thúc đẩy sự phát triển của ngành thương nghiệp. Vì kỹ thuật hàng hải mới xuất hiện trong
giai đoạn này đã làm giúp cho quá trình khám phá thuộc địa và mở mang giao lưu kinh tế đông,
tây diễn ra dễ dàng và nhanh chóng. Việc tìm kiếm thuộc địa, kiếm nguyên liệu, sức lao động,
thị trường tiêu thụ của các nhà nước trong giai đoạn này dễ dàng và giúp thương nghiệp phát
triển. Lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp, thương nghiệp đều phát triển trong một xu thế. Do
vậy, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện và ngày càng phát triển.
- Kinh tế thủ công nghiệp:
+ Công xưởng sản xuất được mở rộng và mức độ chuyên môn hóa ngày càng cao.
+ Máy móc thay thế lao động bằng tay.
+ Năng suất lao động tăng cao.
- Kinh tế công nghiệp:
+ Tại các công xưởng thủ công, máy móc được phát minh phục vụ sản xuất: máy kéo sợi, máy
dệt, máy hơi nước…
+ Các ngành công nghiệp nặng cũng phát triển trước nhu cầu sản xuất máy móc.
- Kinh tế nông nghiệp:
+ Trong nông nghiệp, nhờ sử dụng máy móc, năng suất lao động cao, giải phóng sức lao động
của con người.
+ Kinh tế tự cung - tự cấp thay thế bằng kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
- Kinh tế thương nghiệp:
+ Sản phẩm thủ công nghiệp và nông nghiệp dồi dào thúc đẩy trao đổi sản phẩm.
+ Những phát kiến địa lý góp phần đẩy mạnh việc trao đổi hàng hóa.
+ Từ đó, thương nghiệp ngày càng phát triển.
→ Thế kỷ XVI, nền sản xuất tư bản ra đời và có ưu thế phát triển.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

Thành tựu khoa học - kỹ thuật Quá trình tích lũy tư bản nguyên thủy

Thay đổi

Nông nghiệp Công nghiệp Thương nghiệp

b. Tiền đề về chính trị - xã hội.


Quý tộc phong kiến Tư sản Nông dân Công nhân
- Quý tộc bảo hoàng. - Tư sản bảo hoàng. - Nông nô. - Nông dân, thợ thủ công
- Quý tộc mới. - Tư sản mới. - Nông dân tự do. phá sản.

- Giai cấp tư sản ra đời, là kết quả tất yếu của quá trình phát triển phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
Giai cấp tư sản hình thành từ đâu? Hình thành từ rất nhiều nguồn khác nhau, trong đó có 2 bộ
phận chính hình thành nên giai cấp tư sản: Một là, tầng lớp thị dân hình thành trong lòng chế độ
phong kiến ở Tây Âu; Hai là, những lãnh chúa phong kiến thức thời với sự ra đời của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, họ trở thành giai cấp tư sản. Dù xuất thân thế nào thì giai cấp tư
sản cũng là lực lượng đại diện cho một phương thức sản xuất mới.
- Trong xã hội xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt giữa:
+ Tư sản > < Lao động làm thuê.
+ Tập đoàn phong kiến > < Phần còn lại của xã hội (đứng đầu là giai cấp tư sản). Mâu thuẫn
này được xem là mâu thuẫn thời đại và mang tính chủ đạo.

c. Tiền đề về tư tưởng. (Đây là sự trang bị về mặt tư tưởng để giai cấp tư sản tiến hành quá
trình cách mạng của mình)
- Giai cấp tư sản đã trang bị một hệ tư tưởng dân chủ tư sản nhằm kêu gọi các tầng lớp và giai
cấp khác đứng về phía mình, mục đích là lật đổ chế độ phong kiến. Quá trình này đã được thực
hiện thông qua việc giai cấp tư sản phát động 2 phong trào:
+ Phong trào văn hóa phục hưng: bắt đầu từ khoảng thế kỷ XIII, phong trào này đề cao giá trị tư
tưởng tự do, các giá trị văn hóa từ thời trung cổ mà đã bị giai cấp phong kiến và các thế lực nhà
thờ hạn chế nhằm tăng phẩm giá, nhân cách con người. Mục đích của phong trào này là giải
phóng con người khỏi sự chi phối của giáo hội. Đây là cơ sở cho sự hình thành các tư tưởng
mang tính chất dân chủ tư sản tiến bộ sau này.
+ Phong trào cải cách tôn giáo: Đánh dấu sự suy tàn của tôn giáo và xã hội. Mục đích của
phong trào cải cách tôn giáo là xóa bỏ đặc quyền của tầng lớp tăng lữ, kêu gọi xây dựng một
loại nhà thờ rẻ tiền và chỉ cần lòng tin vào đức Chúa hơn là qua các thang bậc tầng lớp tăng lữ
trung gian mang tính đặc quyền, hạn chế sự phụ thuộc của cá nhân vào nhà thờ và tầng lớp lãnh
chúa tăng lữ. Phong trào cải cách tôn giáo có sự ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử xã hội thời kỳ
này và mục đích là xóa bỏ sự ảnh hưởng nặng nề của nhà thờ đối với nhà nước.
- Những học thuyết dân chủ tư sản ra đời. Những học thuyết, tư tưởng, quan điểm mang tính
chất tiến bộ về nhà nước và pháp luật, có rất nhiều quan điểm xuất hiện trong thế kỷ XV - XVI,
lịch sử xã hội thường gọi đây là thời kỳ Khai sáng với sự xuất hiện của rất nhiều nhà tư tưởng
dân chủ tư sản. Một số học thuyết dân chủ tư sản ra đời trong giai đoạn này như:
+ Nhà nước pháp quyền.
+ Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
+ Thuyết khế ước xã hội.
- Sự ra đời của một số khái niệm mang tính chuẩn mực cao và lần đầu tiên xuất hiện như khái
niệm công dân, khái niệm về xã hội dân sự, xã hội công dân, về giới hạn quyền lực nhà nước…

→ Nhận xét:
- Các tiền đề: kinh tế, chính trị - xã hội và tư tưởng đạt đến điểm cao trào thì các cuộc cách
mạng tư sản bùng nổ.
- Cuộc cách mạng tư sản đầu tiên nổ ra vào cuối thế kỷ XVI ở Hà Lan. Cuộc cách mạng tư sản
ở Hà Lan đánh dấu sự suy tàn của xã hội phong kiến nhưng cuộc cách mạng tư sản ở Hà Lan
không tạo được tiếng vang cũng như tác động đối với các quốc gia trong giai đoạn này. Phải
đến thế kỷ XVII, cuộc cách mạng tư sản ở Anh nổ ra và giành được thắng lợi, được xem là mốc
đánh dấu cho phong trào cách mạng tư sản trên thế giới. Điều này được lý giải là bởi lẽ trong
giai đoạn này, nước Anh được xem là quốc gia có thuộc địa nhiều nhất trên thế giới và cuộc
cách mạng tư sản ở Anh không chỉ ảnh hưởng ở châu Âu mà còn có sự ảnh hưởng lớn trên
phạm vi toàn thế giới.

2. Một số cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu:


a. Cách mạng tư sản ở Anh. (Quê hương của phong trào cách mạng tư sản, là dấu hiệu cho
phong trào cách mạng tư sản trên thế giới)
- Anh được xem là quốc gia có thuộc địa nhiều nhất, được xem là đại công trường thủ công trên
thế giới, nền kinh tế ở Anh rất phát triển. Cách mạng tư sản ở Anh diễn ra được xem là một
cuộc nội chiến qua 2 giai đoạn:
+ Cuộc nội chiến thứ I (1642 - 1646)
+ Cuộc nội chiến thứ II (1648)
- Cách mạng tư sản ở Anh thực chất là một cuộc đấu tranh trong nội bộ giai cấp tư sản và giữa
giai cấp tư sản và nhà vua (đại diện cho tầng lớp quý tộc phong kiến). Đến năm 1648, cuộc
cách mạng tư sản ở Anh chấm dứt được xem là chấm dứt luôn cuộc nội chiến lần thứ II.
- Cách mạng tư sản ở Anh là cuộc cách mạng không triệt để. Giai cấp tư sản ở Anh liên minh
với các thế lực phong kiến cũ thiết lập nhà nước mang hình thức quân chủ nghị viện.

b. Cách mạng tư sản ở Hoa Kỳ.


- Cách mạng tư sản ở Hoa Kỳ mang tính chất của một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
mang tính dân chủ tư sản. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chính là việc đấu tranh của 13
thuộc địa của nước Anh trên vùng đất Bắc Mỹ và xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa tư sản ở chính
quốc - nước Anh và tư sản tại thuộc địa. Cuộc cách mạng này diễn ra bằng sự kiện năm 1773,
cảng Boston quyết định đổ toàn bộ chè trên những thuyền của chính quốc xuống biển và chính
quốc đã điều binh đến để trấn áp cuộc nổi dậy của thuộc địa. Thuộc địa đã đứng lên đấu tranh
với sự lãnh đạo của Oa-sinh-tơn. Ngày 04/7/1776, hội nghị lục địa lần thứ 2 đã đưa ra bảng
tuyên ngôn độc lập và Hiệp ước Véc-xây được ký năm 1783 đã đánh dấu cho sự độc lập của 13
thuộc địa và sự hình thành nên hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
- Hiến pháp 1787 do Hội nghị liên bang xây dựng đã đánh dấu sự thành lập liên bang hợp
chúng quốc Hoa Kỳ.
- Nhà nước tư sản Mỹ là điển hình về chính thể cộng hòa tổng thống, được tổ chức theo học
thuyết phân quyền.
12/1773 09/1774 04/1775 07/1776 09/1783

Sự kiện chè Hội nghị Hội nghị lục Chiến tranh Hiệp ước
Boston lục địa lần I địa lần II giành độc lập Vecxay
của 13 bang
thắng lợi
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
c. Cách mạng tư sản ở Pháp. (Cuộc cách mạng mang tính chất triệt để, điển hình cho Châu
Âu)
- Khoảng thế kỷ XVIII, nền kinh tế Pháp phát triển nhờ những tiến bộ của khoa học - kỹ thuật
và năng suất lao động tăng trong nhiều ngành nghề, đặc biệt là sự phát triển công nghiệp và
thương nghiệp đã làm tăng thế lực cho giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản ở Pháp trong giai đoạn
này tương đối thuần nhất, được xem là giai cấp cấp tiến. Chính điều này đã dẫn đến sự mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến trở nên gay gắt, sâu sắc hơn. Bởi vì sự cai trị
của chế độ phong kiến trong giai đoạn này ở Pháp đã làm hạn chế sự phát triển của nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa. Sự tập trung quyền lực trong tay vua cũng như sự độc đoán của nhà vua với
các cuộc chiến tranh xâm lược đã gây nên cảnh đói nghèo cho toàn người dân Pháp trong giai
đoạn này.
- Thế kỷ XVII - XVIII, ở Pháp đã xuất hiện phong trào Khai sáng, chính phong trào Khai sáng
với những nội dung của nó đã chống lại giáo lý của nhà thờ, đề cao quyền tự do cá nhân, quyền
tự do dân chủ và chống lại sự chuyên chế của nhà vua và nhà thờ, tạo nên những học thuyết về
cách mạng, về nhà nước, xây dựng một xã hội dân chủ. Tất cả những tiền đề này tạo nên cách
mạng tư sản Pháp diễn ra từ 1789 - 1794 qua 3 giai đoạn.
- Đến năm 1794, cách mạng tư sản ở Pháp đã kết thúc và hình thành nên nhà nước cộng hòa đại
nghị.
- Đây là cuộc cách mạng tư sản triệt để dưới sự đấu tranh rất mạnh mẽ và kiên quyết của quần
chúng nhân dân, bởi lẽ cuộc cách mạng này đã xóa bỏ hoàn toàn chế độ phong kiến.
- Nhà nước tư sản thiết lập ở Pháp là chính thể cộng hòa nghị viện mang tính điển hình, thiết
lập nền cộng hòa thứ nhất.

d. Cách mạng tư sản ở Nhật Bản.


- Tình hình Nhật Bản trước cải cách:
+ Kinh tế: Từ nửa sau thế kỷ XVIII, kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành và phát triển ở
Nhật Bản nhưng bị nhà nước phong kiến kìm hãm phát triển.
+ Xã hội: Trước sự bóc lột của chính quyền Mạc…..

- Trong khi hầu hết các quốc gia ở phương Đông trong giai đoạn này vẫn còn trong thời kỳ
phong kiến hoặc trở thành thuộc địa của các quốc gia phương Tây thì Nhật Bản đã sớm có cuộc
cách mạng tư sản và hình thành nên nhà nước tư bản chủ nghĩa.
- Năm 1868, Thiên hoàng Minh Trị đã tiến hành cuộc duy tân đất nước mang tính chất của một
cuộc cách mạng tư sản. Cuộc cách mạng tư sản ở Nhật còn được gọi là Minh Trị duy tân. Ông
đã xây dựng đường hướng tư bản chủ nghĩa cho nước Nhật trên nhiều lĩnh vực khác nhau dựa
trên cải cách cụ thể: cải cách về chính trị, cải cách về kinh tế - xã hội. Ông đã xây dựng một nền
kinh tế theo quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Thiên hoàng Minh Trị còn tiến hành cải cách về
giáo dục, về chính sách đối ngoại, giúp cho nước Nhật sau cải cách năm 1868 đã trở thành một
nước tư bản chủ nghĩa với nền quân chủ nghị viện được thiết lập. Nhật Bản trở thành nước duy
nhất ở phương Đông sớm phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, không bị biến thành thuộc địa
của phương Tây.

 Cuộc cải cách Minh Trị:


- Quyền hành tập trung vào Thiên hoàng.
- Thành lập: Chính viện (hành pháp), Tả viện (lập pháp), Hữu viện
Cải cách về chính trị (tư pháp).
- Cả nước chia thành các quận, huyện và thành phố.
- Cải cách hệ thống quân đội.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Cải cách chế độ giáo dục “khoa học phương Tây, đạo đức phương
Cải cách về xã hội Đông”.
- Lối học “tầm chương trích cú” bị bãi bỏ.
- Một là, mở cửa kinh tế, hòa nhập với phương Tây.
Cải cách về kinh tế
- Hai là, xây dựng nền kinh tế quốc phòng vững mạnh
- Mở rộng giao thiệp với phương Tây nhằm nâng cao vị thế trên
Cải cách về đối ngoại trường quốc tế.
- Học tập kinh nghiệm từ nước ngoài.

- Cuộc cách mạng tư sản ở Nhật không triệt để. Nhà nước - thành quả chính trị của cuộc cách
mạng đó là chính thể quân chủ nghị viện.

3. Đặc trưng của nhà nước tư sản trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh:
- Nhà nước tư sản ra đời là kết quả cơ bản và trực tiếp của cuộc cách mạng tư sản, là hệ quả của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Nhà nước tư sản trong thời kỳ này không can thiệp vào quá trình sản xuất và trao đổi tư bản.
Giải thích: Trong thời kỳ này, nhà nước tư sản hầu như đứng ngoài đời sống kinh tế, xã hội và
nhà nước chỉ can thiệp khi có sự lung lay của chế độ tư hữu. Nền kinh tế trong giai đoạn này tự
điều chỉnh bởi quy luật cạnh tranh tự do và bởi quy luật giá trị, các cá nhân tư bản hầu như có
đầy đủ quyền trong việc kinh doanh và bóc lột người lao động.
- Hình thức chính thể phổ biến là quân chủ lập hiến (hay còn gọi là quân chủ đại nghị, quân chủ
nghị viện), mở đầu cho hình thức chính thể này là cuộc cách mạng tư sản đánh dấu cho mốc ra
đời của nhà nước tư sản đầu tiên đó là nhà nước tư sản Anh. Một số quốc gia theo chính thể
cộng hòa như Thụy Sĩ, Pháp, Mỹ.
- Bộ máy nhà nước không lớn.
- Đây là thời kỳ hoàng kim của nghị viện tư sản nên chế độ chính trị trong thời kỳ này là chế độ
đại nghị. Giải thích: Nghị viện trong giai đoạn này dù ở chính thể nào luôn có vai trò và quyền
lực to lớn. Nghị viện được xem là danh lũy chính trị của giai cấp tư sản, là cơ quan có quyền
lực mang tính thực quyền nhiều nhất, là trung tâm quyền lực của nhà nước tư sản, là nơi tập
trung diễn ra các cuộc đấu tranh chính trị giữa các đảng phái tư sản. Quyền lực của nghị viện
lớn đến mức có câu ngạn ngữ: “Nghị viện Anh có thể làm tất cả mọi thứ trên đời, chỉ trừ một
việc biến người đàn ông thành người đàn bà”.
- Nhà nước tư sản là công cụ thống trị, bảo vệ địa vị, quyền lợi của giai cấp tư sản thông qua
việc bảo vệ chế độ tư hữu tư bản, trấn áp các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động và chống lại các cuộc chiến tranh xâm lược của nước ngoài.

Vì sao nhiều quốc gia theo hình thức chính thể quân chủ lập hiến? Là vì nhiều nguyên nhân,
trong đó có một số nguyên nhân mang tính chất chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, do tương quan lực lượng giữa giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến, giữa lực lượng
cách mạng và lực lượng bảo thủ mà quá trình cách mạng ở một số quốc gia không mang tính
chất triệt để, giai cấp tư sản ở nhiều quốc gia còn nhiều mối quan hệ và quyền lợi với giai cấp
phong kiến, vì vậy họ tìm cách liên minh và thỏa hiệp với giai cấp phong kiến, thiết lập hình
thức chính thể quân chủ lập hiến.
- Thứ hai, giai cấp tư sản hoảng sợ trước sức ép đấu tranh của nhân dân nên họ quyết định liên
minh với quý tộc phong kiến để bảo vệ địa vị, quyền lợi của mình.
- Thứ ba, do tập quán và tâm lý chính trị truyền thống ở nhiều quốc gia. Với sự tồn tại hàng
ngàn năm của chế độ phong kiến, trong giai cấp tư sản có một bộ phận xuất thân là quý tộc
phong kiến, trong quá trình xây dựng và phát triển nhà nước sau cách mạng tư sản thì hình ảnh
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
của một vị quân vương vẫn còn trong tâm lý chính trị của xã hội và trong giới tư sản, quý tộc và
cả người dân. Do vậy, nhiều quốc gia vẫn còn giữ lại hình ảnh của nhà vua khi xây dựng nhà
nước tư sản trong giai đoạn này.

II. Nhà nước tư sản trong thời kỳ CNTB lũng đoạn và CNTB hiện đại:
1. Sự xuất hiện nhà nước tư bản lũng đoạn và nhà nước tư bản hiện đại:
a. Từ cuối thế kỷ XIX, CNTB lũng đoạn (chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa đế quốc
xuất hiện).
- Cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ hai đòi hỏi phải tập trung sản xuất và tư bản trên
quy mô lớn, toàn quốc.
- Sự cạnh tranh tự do ngày càng gay gắt giữa các tập đoàn tư bản. Sự cạnh tranh gay gắt này đã
buộc nhà nước tư bản phải đứng ra can thiệp và điều tiết sâu vào nền kinh tế.
- Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản độc quyền với giai cấp công nhân, các tầng lớp và giai cấp
khác nhau ngày càng gay gắt. Để bảo vệ cho địa vị thống trị của mình, giai cấp tư sản độc
quyền tìm mọi cách lũng đoạn nhà nước và thiết lập một nhà nước cho riêng mình.
- Để đối phó với phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới, giữ vững thuộc địa và thị
trường của giai cấp tư sản, giai cấp tư sản đã thiết lập nên nhà nước tư bản độc quyền.
→ Đây là những nguyên nhân để từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh trong giai đoạn đầu, chủ
nghĩa tư bản lũng đoạn đã ra đời.

b. Sau chiến tranh thế giới lần II, CNTB lũng đoạn phát triển thành CNTB lũng đoạn nhà
nước (CNTB hiện đại).
- Sự xuất hiện của CNTB hiện đại trong thời kỳ này là quá trình kết hợp của nhà nước với các
tập đoạn tư bản lũng đoạn thành bộ máy thống nhất và bộ máy này nhằm phục vụ cho quyền lợi
của tư bản độc quyền.
- Đại diện của Chính phủ sẽ tham gia vào việc quản lý những công ty lũng đoạn, những nhà tư
bản lũng đoạn nắm những chức vụ trong bộ máy nhà nước.

2. Đặc trưng của nhà nước tư sản trong thời kỳ CNTB lũng đoạn và CNTB hiện đại:
- Nhà nước tư bản độc quyền trực tiếp giữ các chức vụ quan trọng của bộ máy nhà nước. Giải
thích: Đây là điểm thay đổi đáng kể so với thời kỳ trước đó. Vì trong thời kỳ CNTB tự do cạnh
tranh, các nhà tư sản nắm quyền lực chính trị là chủ yếu thông qua người đại diện của mình
trong bộ máy nhà nước thì đến giai đoạn này, các nhà tư bản không chỉ quản lý hành chính mà
còn trực tiếp quản lý kinh tế và xã hội. Các nhà tư bản độc quyền nắm giữ trực tiếp các chức vụ
quan trọng để có thể tích tụ tư bản, thu chi ngân sách, chính sách giá cả thị trường nhằm bảo vệ
quyền lợi của các tập đoàn tư bản lũng đoạn. Điều này chứng tỏ nhà nước đã thật sự trở thành
công cụ để tư bản độc quyền tập trung và cung cấp vốn cho các tập đoàn tư bản lũng đoạn nói
chung và là công cụ thu nhập lại, phân phối lại thu nhập quốc dân.
- Vai trò và thực quyền của tổng thống, thủ tướng - của cơ quan hành pháp ngày càng được tăng
cường. Giải thích: Nếu trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh được xem là thời kỳ hoàng kim
của nghị viện thì đến thời kỳ này, thời kỳ hoàng kim của nghị viện không còn nữa, ngược lại,
bắt đầu có sự tập trung quyền lực và sự bành trướng quyền lực trong tay bộ máy hành pháp và
cụ thể đó là sự gia tăng quyền lực và thực quyền trong tay tổng thống và thủ tướng. Chính sự
tăng cường quyền lực này đã làm cho cơ quan hành pháp trở thành cơ quan có thực quyền. Sự
gia tăng quyền lực của bộ máy hành pháp không làm quyền lực của nghị viện mất đi, mà nghị
viện vẫn được xem là nơi tranh giành quyền lực chính trị các đảng phái tư sản và các đảng phái
tư sản vẫn tiếp tục thảo luận, chia sẻ quyền lực tại nghị viện tư sản. Bên cạnh đó, các cơ quan tư
pháp vẫn được xem là thành trì để bảo vệ cho sự tự do dân chủ và tư sản.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Nhà nước trở thành công cụ của các tập đoàn tư bản độc quyền tranh giành thị trường xuất
khẩu, thực hiện chính sách thực dân kiểu mới. → Nhà nước tư bản đã thực sự trở thành công cụ
của một nhóm nhỏ tư bản độc quyền và trong cơ cấu, chức năng của nhà nước, nhà nước công
khai phục tùng nhóm tư bản độc quyền.
- Nhà nước tư sản thực hiện chức năng quản lý kinh tế. Giải thích: Đây là điểm khác biệt so với
thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh vốn dĩ nhà nước không can thiệp vào quá trình sản xuất. Đến
thời kỳ này, nhà nước tư sản bắt đầu điều tiết kinh tế bằng việc thực hiện thông qua một hệ
thống các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước, trong đó đặc biệt là thông qua vai trò của cơ
quan hành pháp và thông qua các cơ quan điều tiết nền kinh tế, giám sát chặt chẽ hoạt động của
các cơ quan kinh tế. Để thực hiện chức năng quản lý kinh tế thì nhà nước trong giai đoạn này
thực hiện hàng loạt các phương pháp khác nhau, chủ yếu trong đó là các biện pháp về mặt tài
chính:
+ Đề ra kế hoạch phát triển kinh tế;
+ Ban hành ra các văn bản pháp luật, điều chỉnh các chính sách kinh tế, thành lập các tổ chức
để quản lý kinh tế;
+ Trực tiếp đầu tư và quản lý các công trình công cộng, công trình cơ sở;
+ Quản lý giá cả của một số mặt hàng quan trọng;
+ Can thiệp vào các quan hệ lao động như quy định giờ làm việc, tuổi lao động, sa thải lao
động…
- Chức năng đối ngoại thay đổi nhất định so với thời kỳ trước:
+ Nhà nước tư sản tập trung trấn áp vào phong trào đấu tranh do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phát
triển nền dân chủ tư sản. Giải thích: Nhà nước tư sản lũng đoạn ra đời trong bối cảnh cách
mạng XHCN đang phát triển trên diện rộng lớn, đồng thời trào lưu hòa bình dân chủ cũng đang
bùng lên mạnh mẽ ở nhiều nhà nước tư sản, chính vì vậy, nhà nước tư sản trong giai đoạn này
đã tập trung vào việc trấn áp các phong trào đấu tranh do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Để đối phó
với cục diện và tình hình chính trị trên thế giới, các nhà tư sản đã ngăn cản tiến trình phát triển
của các trào lưu cách mạng trên thế giới bằng nhiều biện pháp khác nhau như biện pháp cấm
vận, diễn biến hòa bình. Bên cạnh đó, các nhà nước tư sản trong thời kỳ này cũng từng bước
củng cố và tăng cường nền dân chủ tư sản bằng nhiều biện pháp như xóa bỏ thể chế phát xít và
tái lập nên nền đại nghị tư sản, từng bước cải cách chế độ bầu cử, từng bước nâng cao địa vị
pháp lý và quyền lợi cho người phụ nữ, người da màu.

3. Tổ chức bộ máy một số nhà nước tư sản tiêu biểu:


Tại sao nghiên cứu bộ máy của 3 quốc gia Anh, Hoa Kỳ và Pháp? Lựa chọn nghiên cứu tổ chức
bộ máy của 3 nước này vì 3 quốc gia này là 3 quốc gia có các cuộc cách mạng tư sản mang tính
chất tiêu biểu, đồng thời đây là 3 quốc gia xây dựng nên các thể chế chính trị mang tính chất
đặc biệt và tạo ra 3 hình thức chính thể tiêu biểu trong thời kỳ hiện đại.

a. Anh.
- Hình thức chính thể của nước Anh là quân chủ đại nghị (hay còn gọi là quân chủ nghị viện,
quân chủ lập hiến).
- Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước dựa trên Hiến pháp không thành văn. Giải thích:
Hiến pháp của nước Anh được xây dựng dựa trên các nguyên tắc, các tập quán chính trị pháp lý
mang tính chất truyền thống.
 Tổ chức bộ máy nhà nước tư sản Anh:
- Nguyên thủ quốc gia (đứng đầu nhà nước): nhà vua, nữ hoàng. Giải thích: Ngai vàng được
truyền cho cả con trai và con gái nên nhà vua hoặc nữ hoàng có thể là nguyên thủ quốc gia,
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
miễn là người được kế thừa ngai vàng phải sống theo “khuôn vàng thước ngọc” của Hoàng gia
và bắt buộc phải theo Anh giáo - quốc giáo của nước Anh, không được theo tôn giáo nào khác.
+ Về mặt địa vị pháp lý và quyền lực: Nguyên thủ quốc gia ở nước Anh không có quyền lực
thực tế mà chỉ giữ vai trò về mặt tượng trưng và lễ nghi. Tuy nhiên, nhà vua, nữ hoàng được
xem là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc. VD: Nguyên thủ quốc gia hiện nay của Anh là
Nữ hoàng Elizabeth II luôn nhận được sự kính trọng vô cùng lớn từ phía người dân Anh và
được xem là người đại diện cho khối đại đoàn kết dân tộc không chỉ của Vương quốc Anh mà
của cả Liên hiệp Anh. Trên thực tế, mọi hoạt động của nhà vua hay nữ hoàng chủ yếu chỉ nhằm
mục đích chính thức hóa về mặt nhà nước các hoạt động của nghị viện và chính phủ Anh. VD:
Nguyên thủ quốc gia của Anh bị ràng buộc bởi nguyên tắc chữ ký thứ 2, nghĩa là một quyết
định của nhà vua chỉ có hiệu lực thực thi khi có chữ ký kèm theo của thủ tướng hoặc bộ trưởng
và thực chất việc ký này chỉ mang tính chất thủ tục và hình thức. Do vậy, trên thực tế, dù ký
nhưng nguyên thủ quốc gia không phải chịu trách nhiệm về chữ ký của mình.
- Nghị viện: cơ quan giữ vai trò lập pháp. Giải thích: Nước Anh là quê hương của nghị viện tư
sản vì vậy mà nghị viện được xem là cơ quan có quyền lực rất lớn ở Anh. Trong thời kỳ hoàng
kim của nghị viện, tức là trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh trước đây, có câu ng
ngữ là: “Nghị viện Anh có thể làm tất cả mọi thứ trên đời, chỉ trừ một việc biến người đàn ông
thành người đàn bà”.
+ Nghị viện được chia thành: Thượng Nghị viện và Hạ Nghị viện.
 Thượng Nghị viện còn được gọi là viện quý tộc vì thành phần tham gia của Thượng Nghị
viện không qua cơ chế bầu cử mà chủ yếu do được cử, trong đó có thành phần quý tộc Anh
(từ hàm bá tước trở lên sẽ đương nhiên được cha truyền con nối chức Thượng Nghị sĩ), các
thủ lĩnh tôn giáo đương nhiệm của nước Anh cũng đương nhiên là Thượng Nghị sĩ, thủ
tướng Anh khi hết nhiệm kỳ cũng đương nhiên trở thành Thượng Nghị sĩ của nước Anh, một
số Thượng Nghị sĩ khác do đích thân nhà vua bổ nhiệm. Vì thành phần tham gia chủ yếu là
quý tộc nên thực chất Thượng Nghị viện ở Anh không phải là cơ quan có thực quyền, nhưng
trong mối quan hệ với Hạ Nghị viện thì Thượng Nghị viện vẫn là cơ quan có vai trò đối
trọng và kìm chế quyền lực của Hạ Nghị viện.
 Hạ Nghị viện còn được gọi là viện dân cử, viện dân biểu. Đây là cơ quan có thực quyền rất
lớn bởi vì hầu như mọi vấn đề về mặt lập pháp là được quyết định tại Hạ Nghị viện.
- Chính phủ: cơ quan giữ vai trò hành pháp ở Anh.
+ Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng, do vua hoặc nữ hoàng bổ nhiệm theo sự giới thiệu của
Nghị viện theo nguyên tắc thủ lĩnh của đảng chiếm đa số trong Nghị viện sẽ đương nhiên trở
thành Thủ tướng. Sau đó, Thủ tướng sẽ bổ nhiệm Bộ trưởng và quyết định vị trí Bộ trưởng nào
sẽ có chân trong Nội các và Thủ tướng có quyền điều hành Nội các và Chính phủ, đồng thời
Thủ tướng của nước Anh có quyền đề nghị nhà vua giải tán Hạ viện.
- Tòa án: cơ quan giữ vai trò tư pháp ở Anh.
→ Nhận xét: Bộ máy nhà nước Anh mang tính chất của một nhà nước theo hình thức chính thể
quân chủ đại nghị điển hình, trong đó vai trò của nhà vua là nguyên thủ quốc gia nhưng nhà vua
lại giữ vị trí trung lập trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị, nhà vua không có thực
quyền nhưng nhà vua được xem là biểu tượng của quốc gia. Quyền lực của nhà nước tập trung
chủ yếu vào tay Nghị viện của nước Anh. Mặc dù nước Anh là quê hương sản sinh ra nguyên
tắc phân chia quyền lực nhà nước nhưng nước Anh lại không áp dụng nguyên tắc này.

b. Hoa Kỳ.
- Hiến pháp 1787 thiết lập nhà nước Hoa Kỳ theo chính thể cộng hòa tổng thống, là sự áp dụng
đầy đủ và triệt để học thuyết phân chia quyền lực nhà nước.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Bộ máy nhà nước: lập pháp, hành pháp và tư pháp theo nguyên tắc cân bằng và đối trọng
quyền lực.
 Tổ chức bộ máy nhà nước tư sản Hoa Kỳ:
- Nguyên thủ quốc gia (đứng đầu nhà nước): Tổng thống. Giải thích: Tổng thống của Hoa
Kỳ do dân bầu và Tổng thống vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người đứng đầu cơ quan
hành pháp.
- Nghị viện: cơ quan lập pháp của Hoa Kỳ.
+ Nghị viện được chia thành: Thượng Nghị viện và Hạ Nghị viện.
 Thượng Nghị viện có số thành viên không đổi là 100 Thượng Nghị sĩ.
 Hạ Nghị viện có số lượng thành viên phụ thuộc vào dân số của từng bang.
- Chính phủ: cơ quan hành pháp ở Hoa Kỳ. Đứng đầu Chính phủ là Tổng thống.
- Tòa án tối cao (Tối cao pháp viện): cơ quan tư pháp ở Hoa Kỳ. Đặc trưng của Tối cao pháp
viện là có 9 Thẩm phán và được xem là cơ quan có quyền lực cao nhất trong lĩnh vực tư pháp.
Tòa án tối cao của Hoa Kỳ có quyền xét xử, có quyền giải thích luật, quyền tuyên bố tính hợp
hiến của các đạo luật.

c. Pháp.
- Hiến pháp 1958 xác lập nền Cộng hòa thứ V ở Pháp với hình thức chính thể của nhà nước là
cộng hòa hỗn hợp (đây thực chất là sự pha trộn giữa cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị).
 Tổ chức bộ máy nhà nước tư sản Pháp:
- Nguyên thủ quốc gia (đứng đầu nhà nước): Tổng thống.
- Quốc hội: cơ quan giữ quyền lập pháp.
+ Quốc hội được chia thành: Thượng Nghị viện và Hạ Nghị viện.
- Chính phủ: cơ quan hành pháp của Pháp.
- Hội đồng bảo hiến: cơ quan tư pháp tối cao của Pháp.
→ Pháp được xem là quốc gia có mô hình chính thể đặc biệt và đặc trưng, đó là mô hình cộng
hòa đại nghị mang tính chất điển hình.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 10: PHÁP LUẬT TƯ SẢN


I. Pháp luật tư sản trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh:
1. Hai hệ thống chính của pháp luật tư sản:
- Do ảnh hưởng của cách mạng tư sản ở Anh và Pháp nên pháp luật tư sản thời kỳ này được
chia thành 2 hệ thống chính:
+ Hệ thống pháp luật lục địa: bao gồm pháp luật của Pháp, các nước tư bản ở lục địa châu Âu
và nhiều nước là thuộc địa của Pháp. Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa có đặc điểm là: hệ
thống pháp luật châu Âu lục địa đều được hình thành dựa trên nền tảng là Luật La Mã và được
các nước tiếp thu một cách có chọn lọc. VD: Bộ luật Dân sự Pháp 1804, Bộ luật Dân sự Đức
1896 đều được hình thành trên cơ sở kết hợp luật tập quán địa phương với luật La Mã.
+ Hệ thống pháp luật Anh Mỹ: bao gồm pháp luật Anh - Mỹ và các nước là thuộc địa của hai đế
quốc này như Australia, Canada…Đặc điểm cơ bản: có nguồn gốc từ luật Anh cổ; Án lệ là
nguồn chính thống và quan trọng nhất, không có sự phân chia thành luật công và luật tư; Thẩm
phán vừa có chức năng xét xử vừa có chức năng lập pháp.
- Sự phân biệt thành hai hệ thống chỉ mang tính tương đối và hình thức.
- Trong từng hệ thống tùy theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, pháp luật ở từng nước cũng có nhiều
điểm khác nhau.
- Càng về sau, sự khác nhau giữa hai hệ thống của pháp luật tư sản được xóa bỏ dần theo sự
phát triển của xã hội tư sản.

2. Một số ngành luật cơ bản của pháp luật tư sản thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh:
a. Luật Hiến pháp.
- Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước tư sản.
- Giai cấp tư sản đã sáng lập ra Hiến pháp vì:
+ Nhằm ngăn chặn sự phục hồi của nền quân chủ tuyệt đối.
+ Do sự thỏa hiệp, phân chia và cân bằng quyền lực giữa các tầng lớp và phe phái trong nội bộ
- Nội dung của hiến pháp tư sản thường bao gồm 3 chế định:
+ Tổ chức bộ máy nhà nước: Tùy mỗi nước dù quy định là hình thức chính thể nào (quân chủ
nghị viện, cộng hòa nghị viện, cộng hòa tổng thống) thì Hiến pháp vẫn được xem là văn bản ghi
nhận về việc tổ chức bộ máy nhà nước và các cơ quan cơ bản trong bộ máy nhà nước, bao gồm
nguyên thủy quốc gia, cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp.
+ Quyền và nghĩa vụ của công dân.
+ Chế độ bầu cử.
- Trong thời kỳ này, Hiến pháp thành văn đầu tiên được xây dựng trên thế giới là Hiến pháp
năm 1787 ở Hoa Kỳ.

b. Luật Dân sự.


 Chế định quyền tư hữu tài sản:
- Quyền tư hữu tài sản được coi là quyền tự nhiên của con người, là quyền thiêng liêng bất khả
xâm phạm.
- Pháp luật bảo vệ một cách tối đa, triệt để bằng việc tránh mọi quy định làm phương hại quyền
tư hữu.
- Quyền tư hữu gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.
 Chế định hợp đồng và trái vụ:
- Hợp đồng là hình thức trao đổi chủ yếu của chủ nghĩa tư bản.
- Quy định rõ điều kiện đảm bảo thực hiện hợp đồng.
- Pháp luật quy định nhiều phương pháp để đảm bảo thực hiện hợp đồng như cầm cố, đặt cọc,
bảo lãnh, tiền phạt vi phạm hợp đồng…
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
 Chế định pháp nhân và công ty cổ phần:
- Đây là một chế định mới xuất hiện trong thời kỳ CNTB, đặc biệt là thời kỳ tự do cạnh tranh.
- Chế định này đáp ứng yêu cầu kinh tế ngày càng phát triển nhằm củng cố địa vị kinh doanh
của nhà tư bản đồng thời tập trung vốn, mở rộng kinh doanh và dẫn đến độc quyền.
- Cơ quan quản lý cao nhất của công ty là hội nghị các cổ đông. Trong hội nghị, số đầu phiếu
không tính theo đầu người mà tính theo cổ phiếu. Do đó, quyền quản lý công ty thực chất thuộc
về các nhà tư bản lớn.
- Chế định này thể hiện rõ thông qua sự ra đời của các công ty cổ phần. Các công ty cổ phần ra
đời được xem là sự tích tụ và tập trung tư bản, đồng thời mở rộng phạm vi và tầm ảnh hưởng
của những tập đoàn tư bản và các nhà tư bản lớn.
 Chế định hôn nhân gia đình:
- Việc kết hôn phải hội đủ các điều kiện sau:
+ Người kết hôn phải có năng lực pháp lý.
+ Hai bên nam nữ đồng ý lấy nhau.
+ Thỏa mãn hình thức kết hôn: có nước quy định hình thức kết hôn dân sự (do chính quyền
chứng nhận), có nước theo hình thức tôn giáo.
- Một số nước chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Thiên chúa giáo nên pháp luật cấm ly hôn.
 Chế định thừa kế:
- Có hai hình thức thừa kế: theo di chúc và theo pháp luật.
- Về mặt pháp lý, người ta còn phân biệt loại thừa kế của hệ thống pháp luật lục địa và loại thừa
kế của hệ thống pháp luật Anh - Mỹ.

c. Luật Hình sự.


- Các quy định về tội phạm và hình phạt có nhiều điểm tiến bộ hơn nhưng vẫn còn những hình
phạt mang tính dã man.
- Cuối thế kỷ XIX, hình thức án treo bắt đầu xuất hiện ở một số nước.
- Xuất hiện nhiều đạo luật quy định các tội về chính trị.

d. Tổ chức tư pháp và tố tụng tư sản.


- Quyền tư pháp ra khỏi quyền hành pháp, cơ quan hành pháp không có quyền.
- Tố tụng được tách thành tố tụng hình sự và tố tụng dân sự.
- Những nguyên tắc chủ yếu trong tố tụng:
+ Nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa.
+ Nguyên tắc suy đoán vô tội.
+ Nguyên tắc không thay đổi thẩm phán.

3. Nhận xét chung về pháp luật tư sản thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh:
- Pháp luật tư sản ra đời là một tiến bộ lớn lao trong lịch sử. Giải thích: Bởi vì pháp luật tư sản
đã có những ghi nhận và sự ra đời của những ngành luật mang tính chất tiến bộ, thể hiện sự dân
chủ tư sản, chẳng hạn như sự ra đời của Hiến pháp tư sản - văn bản được xem là đạo luật gốc
cho việc xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nước.
- Pháp luật đã đóng vai trò tích cực trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, thúc đẩy xã hội
phát triển. Chẳng hạn sự ra đời của chế định pháp nhân và công ty cổ phần, đây là chế định góp
phần tích tụ về mặt tư bản và mở rộng quyền lực về mặt kinh tế cho các nhà tư sản.
- Kỹ thuật lập pháp có sự tiến bộ với việc phân chia thành các ngành luật, các chế định, các
khái niệm pháp lý…
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
II. Pháp luật tư sản trong thời kỳ CNTB lũng đoạn, CNTB hiện đại:
1. Một số ngành luật cơ bản của pháp luật tư sản thời kỳ CNTB lũng đoạn, thời kỳ CNTB
hiện đại:
a. Luật Hiến pháp.
- Hiến pháp vẫn là đạo luật cơ bản của nhà nước tư sản, củng cố cho địa vị thống trị của giai
cấp tư sản.
- Hiến pháp là văn bản ghi nhận mối tương quan giữa giai cấp tư sản và nhân dân lao động; ghi
nhận một số nội dung mang tính dân chủ hơn như quyền bình đẳng nam nữ, quyền tự do bầu
cử…

b. Luật Dân sự.


 Quyền sở hữu tài sản:
- Pháp luật thay đổi theo hướng hợp pháp hóa sự điều chỉnh của nhà nước đối với quan hệ tư
hữu nhằm tập trung tư bản vào trong tay tư bản độc quyền.
- Một chế định mới xuất hiện là chế định về quyền sở hữu của nhà nước, điều chỉnh quan hệ sở
hữu tư bản của nhà nước.
→ Bước sang thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc quyền, luật sở hữu tài sản có nhiều biến động lớn,
thực chất nhằm hạn chế quyền tư hữu nhỏ, phục vụ cho các tập đoàn tư bản độc quyền.
 Các đạo luật chống độc quyền (hay còn gọi là các đạo luật chống Tơ rớt):
- Trong nửa đầu thế kỷ XX, các đạo luật chống độc quyền được ban hành xuất phát từ các cuộc
đấu tranh của quần chúng nhân dân.
- Mục đích: nghiêm cấm việc định giá mang tính độc quyền hay tập trung sức mạnh kinh tế quá
nhiều vào một công ty, một tập đoàn.
- Trên thực tế, các đạo luật này không có hiệu lực thực tế hoặc chỉ tồn tại trong một thời gian
ngắn.
 Chế định hợp đồng:
- Chế định tự do hợp đồng đã bị hạn chế.
- Nhà nước có sự can thiệp vào việc giao kết hợp đồng do có sự xuất hiện của độc quyền về
nguyên liệu, thị trường, giá cả… đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh.
- Nguyên tắc không sửa đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã có sự thay đổi, theo đó hợp đồng có thể
được sửa đổi, hoặc hủy bỏ khi gặp phải thiên tai khách quan.
 Chế định về hôn nhân và gia đình:
- Vai trò và địa vị pháp lý của người phụ nữ ngày càng được củng cố. Họ dần được hưởng một
số quyền của mình như quyền sử dụng thu nhập của mình, tự do lựa chọn nghề nghiệp, đi bầu
cử…
- Một số nước ban hành luật về bình đẳng nam nữ như Anh, Nhật, một số bang ở Mỹ... Quyền
bình đẳng nam nữ trong các nhà nước tư bản ngày càng phát triển và mang tính toàn diện hơn.
- Nhưng một số nước, địa vị của người phụ nữ vẫn rất thấp kém.
 Chế định thừa kế:
- Pháp luật đã có sự thay đổi trong việc xác lập lại trật tự thừa kế đối với các loại tài sản; đảm
bảo vật chất cho phụ nữ góa bụa và đảm bảo quyền thừa kế cho con ngoài giá thú…

c. Luật Hình sự.


- Từ thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ I đến sau chiến tranh thế giới lần II, các nhà nước tư
sản ban hành nhiều đạo luật về tội chính trị nhằm trấn áp các phong trào cộng sản và các trào
lưu dân chủ tiến bộ. Trong giai đoạn này cũng xuất hiện các đạo luật trấn áp các cuộc bãi công,
các phong trào đấu tranh, các cuộc biểu tình của công nhân.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Hiện nay, nhiều nước bỏ hình phạt tử hình, mức cao nhất chỉ là chung thân như Đức, Thụy Sĩ,
Pháp, một số bang ở Mỹ…

d. Luật Lao động.


- Ngành luật này được xem là ngành luật mới xuất hiện trong thời kỳ CNTB lũng đoạn và
CNTB hiện đại.
- Ngành luật này xuất hiện do tác động của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Chế định luật lao động được ban hành nhằm mục đích xoa dịu các cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân.
- Luật lao động điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình sử dụng lao động làm thuê, về
tranh chấp lao động, về tổ chức công đoàn…
- Luật lao động ngày càng tiến bộ theo trào lưu các phong trào đấu tranh của công nhân và nhân
dân lao động.

e. Luật Tố tụng.
- Trong một thời gian dài (đặc biệt trong thời kỳ trị vì của chủ nghĩa phát-xít), một số nguyên
tắc tiến bộ mang tính dân chủ tư sản bị hạn chế hoặc bị xóa bỏ. Giải thích: Vì giai cấp tư sản
trong giai đoạn này thể hiện vai trò điều tiết kinh tế của mình cũng như thể hiện sự độc quyền
của mình trong việc tổ chức và quản lý bộ máy nhà nước. Các nguyên tắc đã được thực hiện
trong một thời gian dài ở thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh như là nguyên tắc suy đoán vô tội,
nguyên tắc tranh tụng tại tòa, nguyên tắc không thay đổi thẩm phán bị xóa bỏ.
- Hiện nay, ở hầu hết các nước tư sản, các chế định nguyên tắc mang tính dân chủ tư sản và các
nguyên tắc tiến bộ này đã được hồi phục dần.

2. Nhận xét chung về pháp luật tư sản thời kỳ CNTB lũng đoạn, thời kỳ CNTB hiện đại:
- Số lượng các văn bản pháp luật tăng nhiều.
- Pháp luật trong giai đoạn này góp phần vào việc điều tiết kinh tế TBCN. Giải thích: Sự điều
tiết kinh tế TBCN được xem là chức năng quan trọng của nhà nước tư bản trong thời kỳ TBCN
lũng đoạn, khác với bản chất và chức năng của nhà nước tư sản trong thời kỳ TBCN tự do cạnh
tranh. Việc điều tiết này được thể hiện rất rõ thông qua một số chế định cơ bản, như trong lĩnh
vực hợp đồng thì nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng đã bị bãi bỏ, việc giao kết hợp đồng phải
trên cơ sở các nguyên tắc, các quy định của nhà nước, đồng thời nhà nước cũng ban hành rất
nhiều chính sách và trên cơ sở đó ban hành ra các quy định pháp luật để điều tiết nền kinh tế.
- Các chế định của dân chủ tư sản từng bước được phục hồi và phát triển.
- Pháp luật tư sản ngày càng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, vừa giải quyết các vấn đề mang tính quốc tế như môi trường, tội phạm quốc tế, thất
nghiệp…
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

PHẦN
VIỆT
NAM
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 1: SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC VÀ


PHÁP LUẬT ĐẦU TIÊN Ở VIỆT NAM
I. Các nhân tố tác động đến sự hình thành nhà nước đầu tiên:
a. Sự chuyển biến về kinh tế.
- Thời đại Hùng Vương chia làm 4 giai đoạn chính:

Phùng Nguyên Đồng Đậu Gò Mun Đông Sơn

- Tồn tại khoảng - Tồn tại - Tồn tại - Tồn tại


thiên niên kỷ khoảng nửa khoảng nửa khoảng thế kỷ
thứ 2 TCN, sau thiên niên đầu thiên niên 8 TCN.
thuộc sơ kỳ thời kỷ thứ 2 TCN, kỷ thứ nhất - Chứng kiến
đại đồng thau. thuộc trung kỳ sự phát triển
TCN, thuộc
- Công cụ sử thời đại đồng rực rỡ nhất về
thau. hậu kỳ thời
dụng chủ yếu là công cụ lao
đồ đá, đồ đồng - Công cụ sử đại đồng thau. động.
chỉ mới xuất dụng chủ yếu - Công cụ sử - Đồ đồng đạt
hiện là đồ đá, đồ dụng là đồ đá đến đỉnh cao,
đồng chỉ ít sử dụng, đồ đồ sắt xuất
chiếm 20%. đồng chiếm tỉ hiện.
lệ khá cao.

 Sự chuyển biến về kinh tế:


- Các ngành nghề của nền kinh tế:
+ Nông nghiệp trồng lúa nước:
+ Săn bắt, hái lượm: không giữ vai trò chủ yếu như trước đây nữa.
+ Trồng trọt, chăn nuôi.
+ Thủ công nghiệp luyện kim (đúc đồng, luyện sắt và các ngành nghề khác).
+ Thương nghiệp: giao thương buôn bán đã phát triển tuy chưa phát triển vượt bậc.
→ Kết luận:
- Kinh tế ngày càng phát triển, đóng vai trò chủ đạo là nông nghiệp.
- Kinh tế phát triển thì sản phẩm dư thừa ngày càng nhiều nên tư hữu xuất hiện. Tuy nhiên, tư
hữu ở thời kỳ hùng vương chỉ xảy ra đối với nhà ở và sản phẩm lao động, không có tư hữu về
đất đai vì sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
b. Quá trình phân hóa xã hội thời Hùng Vương.

Chế độ hôn nhân gia đình mẫu hệ bị thay thế bởi chế độ phụ hệ. Điều
này bắt nguồn từ sự phát triển nền kinh tế, các ngành nghề đòi hỏi vai
trò của người đàn ông ngày càng nhiều, từ đó, vị thế của đàn ông ngày
càng cao làm thay đổi chế độ hôn nhân gia đình từ mẫu hệ sang phụ hệ.

Các gia đình nhỏ xuất hiện và trở thành tế bào của xã hội. Với năng
suất ngày càng tăng, sự phân hóa XH ngày càng lớn thì nhu cầu tách ra
khỏi công xã thị tộc khép kín và tạo nên các gia đình nhỏ, hình thành các
đơn vị kinh tế độc lập. Sự xuất hiện của gia đình nhỏ làm quan hệ huyết
thống - vốn là đặc trưng của công xã thị tộc trước đó, trở nên lỏng lẻo.
Điều này phá vỡ tính khép kín vốn thuộc về đặc trưng của công xã thị
tộc và tổ chức xã hội thay đổi hình thành nên công xã nông thôn.

Công xã nông thôn xuất hiện phá vỡ công xã thị tộc (khép kín). Tại sao
công xã nông thôn lại xuất hiện? Khi các gia đình nhỏ xuất hiện, với địa
vị độc lập của mình có nhu cầu tách ra khỏi công xã thị tộc của mình và
nhu cầu tách ra của họ là để chấm dứt tình trạng họ không được tư hữu
về sản phẩm làm ra (vốn là đặc trưng của công xã thị tộc). Các gia đình
này di cư đến vùng địa lý nhất định và có nhu cầu liên kết với các gia
đình nhỏ khác nên hình thành các công xã nông thôn.

Công xã thị tộc Công xã nông thôn


Dựa trên mô hình huyết thống. Hình thành trên cơ sở địa lý láng
giềng với vai trò của người đàn ông
trong gia đình được khẳng định.
Sở hữu là sở hữu chung. Được quyền tư hữu đối với nhà ở, sản
phẩm làm ra.

Xã hội phân chia thành các tầng lớp có lợi ích mâu thuẫn nhau.

→ Kết luận:
- Xã hội thời kỳ này đã phân chia thành các tầng lớp khác nhau:
+ Quý tộc: xuất thân từ tù trưởng, các thủ lĩnh của các bộ tộc, có quyền lực nhất trong xã hội,
lợi dụng uy tín, tín nhiệm của mình chiếm dụng một số sản phẩm thặng dư.
+ Nông dân tự do: là lực lượng sản xuất chính trong xã hội, xuất thân từ nông dân, ngư dân,…,
tự do về thân phận, được sở hữu đối với sản phẩm làm ra nhưng không được tư hữu về đất đai.
Bị lệ thuộc và bị bóc lột về mặt kinh tế, thể hiện ở chỗ phải cống nạp cho tầng lớp trên, phải có
nghĩa vụ quân sự khi có chiến tranh.
+ Nô tỳ: địa vị thấp kém, bị lệ thuộc vào chủ, xuất thân chủ yếu từ tù binh trong chiến tranh, do
bị nợ nần hoặc thông qua các hoạt động trao đổi, mua bán con người.
- Quá trình phân hóa xã hội diễn ra một cách chậm chạp. Chậm chạp bởi vì sự tồn tại dai dẳng
của công xã nông thôn, công xã nông thôn có đặc trưng là tư hữu đối với đất đai không được
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
thừa nhận, chỉ thừa nhận đối với nhà ở và sản phẩm làm ra, vì vậy, sự phân hóa giàu nghèo
không quyết liệt như các quốc gia phương tây.
- Mâu thuẫn giữa các tầng lớp trong xã hội có nảy sinh nhưng chưa đến mức gay gắt không thể
điều hòa được.

c. Trị thủy - thủy lợi và chống chiến tranh.


- Điều kiện tự nhiên: nhiều sông hồ, thuận lợi nhưng chịu ảnh hưởng bởi thiên tai.
- Nhu cầu của nền kinh tế nông nghiệp: Nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước giữ vai trò chủ
đạo, phụ thuộc rất lớn vào hoạt động trị thủy - thủy lợi → Trị thủy - thủy lợi đóng vai trò quan
trọng trong xã hội bấy giờ.
- Vị trí địa lý và nhu cầu thôn tính nhau giữa các thị tộc, bộ lạc: Nhu cầu tự vệ, chống lại mối
đe dọa từ bên ngoài là rất cần thiết. Nhu cầu thôn tính lẫn nhau giữa các thị tộc, bộ lạc xuất hiện
→ Nhu cầu chống chiến tranh.
→ Do vậy, thủy lợi và chống chiến tranh là những yếu tố thúc đẩy sự ra đời sớm hơn của Nhà
nước. Tại sao? Nhu cầu thủy lợi và chống chiến tranh đòi hỏi sức mạnh của tập thể, đòi hỏi sự
tập hợp không chỉ là của nhiều gia đình nhỏ mà còn là sự liên kết nhiều công xã nông thôn với
nhau. Vì vậy, tổ chức rộng lớn hơn đã hình thành. Tổ chức ấy ra đời cần sự chỉ huy thống nhất
của một số người nắm vai trò thủ lĩnh, những người có uy tín, địa vị trong xã hội giúp dân
chống thiên tai, bảo vệ người dân. Như vậy, những người này, tổ chức này ban đầu được bầu ra
chỉ mang tính chất quản lý về xã hội nhưng dần dần họ nắm nhiều quyền lực trong tay mang
sức mạnh công cộng đặc biệt, dẫn đến Nhà nước xuất hiện.

Lưu ý: trị thủy - thủy lợi và chống chiến tranh không nắm vai trò quyết định. Nhân tố quyết
định thuộc về nội tại của kinh tế, xã hội, kinh tế phải phát triển đến mức độ nhất định dẫn đến
tư hữu xuất hiện và xã hội hình thành các lợi ích đối kháng nhau.

II. Sự hình thành nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam thời Hùng Vương:
a. Sự hình thành Nhà nước Văn Lang.
- Quá trình hình thành Nhà nước Văn Lang rất lâu dài. Sự xuất hiện của các liên minh thị tộc bộ
lạc vào đầu thời Hùng Vương. Sau đó là quá trình chuyển hóa quyền lực xã hội thành quyền lực
công cộng đặc biệt vào cuối thời Hùng Vương.
- Sự hình thành “Nhà nước phôi thai” vào cuối thời Hùng Vương - Nhà nước Văn Lang.
(đọc thêm giáo trình)

b. Sự hình thành Nhà nước Âu Lạc. Sự kế thừa liên tục từ Nhà nước Văn Lang và ra đời vào
thời kỳ Đông Sơn. Do vậy, về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, Nhà nước Âu Lạc vẫn kế
thừa và phát triển trên cơ sở thành tựu trước đó của nhà nước Văn Lang.
- Phát triển trên cơ sở nhà nước Văn Lang.
- Sự hình thành Nhà nước Âu Lạc gắn liền với vai trò của Thục Phán trong việc tổ chức chống
xâm lược nhà Tần (Trung Quốc) và cũng trên cơ sở thống nhất của hai tộc người Tây Âu và
Lạc Việt để mở rộng và phát triển nhà nước Văn Lang.
(đọc thêm giáo trình)

III. Pháp luật Việt Nam thời Hùng Vương:


- Pháp luật đơn giản, sơ khai.
- Pháp luật sử dụng chủ yếu là tập quán pháp và pháp luật từ các “mệnh lệnh” truyền miệng.
- Nước Văn Lang - Âu Lạc đã có nền luật pháp riêng biệt.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 3: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT


THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ (939 - 1009)
I. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội:
- Giai đoạn mở ra thời kỳ độc lập tự chủ. Trước thời Ngô - Đinh - Tiền Lê, đất nước đã trải qua
hơn 1000 năm bắc thuộc.
- Chính trị bất ổn, kinh tế khó khăn, xã hội loạn lạc:
+ Về chính trị, với thời gian tồn tại từ năm 939 - 1009 khá ngắn nhưng lại có 3 thời đại khác
nhau trị vì, cụ thể là: nhà Ngô tồn tại trong vòng 28 năm với 3 đời vua; sau đó Đinh Bộ Lĩnh
dẹp loạn 12 sứ quân lập ra nhà Đinh, nhà Đinh tồn tại trong vòng 12 năm với 2 đời vua; nhà
Tiền Lê thay thế nhà Đinh trị vì, tồn tại trong 29 năm với 3 đời vua.
+ Kinh tế khó khăn, vì đây là giai đoạn khắc phục hậu quả nặng nề của sự tàn phá của hơn 1000
năm chống bắc thuộc trước đó.
+ Xã hội loạn lạc, thù trong giặc ngoài.

II. Tổ chức bộ máy nhà nước:


1. Tổ chức bộ máy nhà nước qua các triều đại:
a. Nhà Ngô.
- Đứng đầu tổ chức bộ máy nhà nước là Vua.
- Dưới vua là đội ngũ quan lại: “Đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục”.
- Ở địa phương, cả nước chia ra làm 5 cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã.
(đọc thêm giáo trình)
b. Nhà Đinh.
 Tổ chức trung ương:
- Hoàng đế: là người đứng đầu nhà nước.
- Năm 1968, sau khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, cùng với việc đặt quốc hiệu thì ông lấy
Hoa Lư làm kinh đô của quốc gia. Hoa Lư với vị trí hiểm trở, có đồi núi bao quanh được lấy
làm kinh đô quốc gia cho thấy sự chú trọng của Nhà nước trong giai đoạn này trong việc phòng
thủ quốc gia, nhằm tăng cường sức mạnh về mặt quân sự, bảo vệ độc lập chủ quyền của quốc
gia trong khi chính quyền trung ương còn non trẻ, chưa thực sự đủ mạnh.
- Các quan lại trong triều: có các chức danh cơ bản như:
+ Định quốc công: viên quan đầu triều
+ Đô hộ phủ sĩ sư.
+ Thập đạo tướng quân: giữ vai trò tổng chỉ huy quân đội của cả nước, bao gồm có 10 đạo.
+ Đô úy: trông coi về mặt quân sự.
+ Chi hậu nội nhân.
+ Tăng thống.
+ Tăng lục.
+ Sùng chân uy nghi.
→ Đa số chức quan lại trong triều cũng là những chức quan phụ trách về quan võ.

 Tổ chức chính quyền địa phương:


- Đạo là cấp hành chính cao nhất.
- Dưới cấp đạo là giáp, xã.

c. Nhà Tiền Lê.


- Đứng đầu tổ chức bộ máy nhà nước là Vua.
- Dưới vua là đội ngũ quan lại: có các chức quan như:
+ Tổng quản tri quân dân sự: viên quan đầu triều.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
+ Thái sư: quan đại thần.
+ Thái úy: quan võ.
+ Nha nội đô chỉ huy sứ: quan võ.
- Địa phương: “Đổi mười đạo làm lộ phủ châu”.

2. Nhận xét về tổ chức bộ máy nhà nước:


- Tổ chức bộ máy nhà nước khá đơn giản, chưa hoàn thiện.
Tại sao? Bởi vì điều kiện hoàn cảnh nhà nước trong giai đoạn này, đây là giai đoạn vừa mới
thoát khỏi hơn 1000 năm bắc thuộc và chống bắc thuộc, chính trị bất ổn, xã hội loạn lạc,
kinh tế khó khăn, các thời đại tồn tại ở thời gian khá ngắn. Do đó, nhà nước không có điều
kiện để xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước.
Biểu hiện: số lượng quan lại trong nhà nước chưa nhiều, lĩnh vực hoạt động của nhà nước
khá hẹp.
- Nặng tính hành chính - quân sự. Đây là một trong những đặc trưng rất cơ bản của nhà nước
sau chiến tranh.
Biểu hiện: chức năng chủ yếu của nhà nước là bạo lực trấn áp. Đây là điều dễ hiểu trong bối
cảnh quyền lực nhà nước còn yếu, bất ổn về chính trị, xã hội. Quan lại trong nhà nước chủ
yếu là các quan võ. Ở thời Đinh, kinh đô được lựa chọn là ở Hoa Lư - nơi có vị thế hiểm trở,
đồi núi bao quanh, chứng tỏ nhà nước rất coi trọng phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc, chú trọng
nhà nước quân sự.
- Hình thức chính thể là quân chủ tuyệt đối.
Biểu hiện: vua nắm mọi quyền lực nhà nước, bao gồm cả vương quyền và thần quyền,
không có cơ chế kiềm chế đối trọng quyền lực với nhà vua. Tuy nhiên, vì đây mới là giai
đoạn đầu tiên xác lập mô hình quân chủ tuyệt đối trên cả lãnh thổ sau khi chúng ta giành
được độc lập tự chủ nên tính chất chuyên chế của nhà nước vẫn còn chưa cao.

III. Pháp luật:


Có đặc điểm:
- Pháp luật chưa phát triển.
- Quy định pháp luật chủ yếu mang tính trừng trị.
(đọc thêm giáo trình)
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 4: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM


GIAI ĐOẠN LÝ - TRẦN - HỒ (1010 - 1407)
I. Tổ chức bộ máy nhà nước:
1. Nhà Lý (1010 - 1225):
a. Khái quát tình hình chính trị - xã hội.
- Nhà Lý xuất hiện năm 1010.
+ Sự xuất hiện này chấm dứt 72 năm khủng hoảng chính trị - xã hội, thù trong giặc ngoài, nội
chiến.
+ Tạo ra sự ổn định và đồng thuận xã hội.
2 tiền đề này thuận lợi và chi phối rất lớn đến cách thức tổ chức và sinh hoạt chính trị của Nhà
Lý.
- Kinh tế: khôi phục nông nghiệp và thủ công nghiệp (vốn dĩ không được quan tâm đúng mức,
đời sống nhân dân lầm than bởi vì các nhà nước phong kiến trong thế kỷ thứ X chủ yếu tập
trung các nguồn lực củng cố sức mạnh quân đội mà bỏ qua đời sống kinh tế).
- Tôn giáo: Phật giáo là quốc giáo. Kể từ thời Tiền Lê thì phật giáo trở thành quốc giáo và Lý
Công Uẩn đã làm cho phật giáo trở nên hưng thịnh hơn trong đời sống tinh thần của nhân dân.
- Quân sự: tinh giản quân lính và hạn chế quyền lực quân đội.
(Số lượng quân lính trong thế kỷ thứ X rất lớn nhưng ở thời Lý, đất nước thái bình thịnh trị nên
tinh giản quân lính theo tinh thần “quân cốt tinh ư bất cốt đa” (quân lính quan trọng về tinh thần,
về sự tinh nhuệ chứ không phải ở số đông) cho nên việc tinh giản quân lính một mặt làm giảm
chi tiêu cho ngân sách nhà nước. Một bộ phận quân đội tinh nhuệ được giữ lại chủ yếu để bảo
vệ chủ quyền, an ninh trật tự, vương quyền của nhà vua. Quân đội của nhà Lý không nhằm mục
đích chinh phạt các thế lực, còn một bộ phận được tinh giản để thực hiện chính sách “một binh
ư nông” theo tinh thần “tĩnh vi nông, động vi binh” (khi đất nước hòa bình thì họ là nông dân
để thúc đẩy kinh tế nông nghiệp; khi đất nước có chiến tranh, loạn lạc thì những nông dân đó sẽ
trở thành những người lính). Thế kỷ X đứng trước tình thế loạn lạc phân ly nên các vương triều
Ngô, Đinh, Tiền Lê đều xây dựng chính quyền quân đội, quyền lực quân đội vốn là yếu tố cốt
tử, mang tính chất sống còn gắn liền với quyền lực NN. Tuy nhiên, điều này không còn phù
hợp với hoàn cảnh ra đời của nhà Lý theo hướng NN hạn chế sự cưỡng bức, hà khắc như các
triều đại trước).
- Đường lối chính trị “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân, bá tánh là gốc, yếu tố thứ
hai là cơ đồ, giang sơn, xã tắc, còn chức vụ, ngôi báu, bổng lộc là thứ không đáng. Bộ máy
chính trị nhà Lý không phải được lập ra là để bảo vệ ngôi báu, phải bảo vệ trước hết cho lợi ích
của dân, sau đó là giang sơn, chủ quyền trước hết).
(Tham khảo chiếu dời đô của Lý Công Uẩn năm 1010: Lý Công Uẩn nêu rõ mục đích của việc
dời đô là vì bách dân, bá tách, vì để người dân có điều kiện thuận lợi cho trồng trọt, chăn nuôi
mà dời đô từ vùng trung du xuống đồng bằng).
- Xây dựng nền quân chủ không mang tính chuyên chế, hà khắc, không cường quyền, bạo lực,
không mang tính chất đề cao sự đàn áp, nền quân chủ mang tính chất thân dân.
- Bộ máy nhà nước đơn giản.
→ Xã hội mang tính chất “dân sự”. Nhà Lý là chính quyền xây dựng mối quan hệ hài hòa với
dân chúng, giảm thiểu sự can thiệp đơn phương, giảm thiểu dùng vũ lực, đàn áp đối với dân
chúng, mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội, giữa xã hội với nhau trên tinh thần nhân bản, nhân
ái của tinh thần phật giáo. Chỉ khi nào xã hội bất ổn thì quyền lực nhà nước mới can thiệp.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
b. Tổ chức chính quyền trung ương.

Hoàng đế

Quan đại thần


(6 vị Ban văn và 3 vị Ban võ)

Các cơ quan và chức quan khác

- Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia, đại diện về đối nội, đối ngoại. Hoàng đế nắm vương quyền
(những quyền mang tính chất chính trị: lập pháp, hành pháp, tư pháp, đứng đầu về quân đội,
ngoại giao và quốc phòng) và thần quyền (là quyền lực của Hoàng đế trong đời sống tâm linh,
tư tưởng, Hoàng đế là vị chủ tế trong các buổi sinh hoạt nghi thức của nhà nước phong kiến lập
đàn, tế lễ, sắc phong các chức danh về mặt tôn giáo, phật giáo). Ngôi vua vẫn được duy trì theo
phong cách “cha truyền, con nối”.
- Có các thiết chế bên dưới để hỗ trợ, giúp đỡ Hoàng đế thực thi quyền hạn của mình.
+ Quan đại thần là tập thể viên quan cao cấp trong triều đình, nguồn gốc xuất thân của quan
đại thần: là các công thần, có cống hiến cho triều đình hoặc đỗ đạt cao trong các khoa thi, có
tâm, có tài, có đức. Quan đại thần giúp Hoàng đế, tham vấn cho Hoàng đế trước những quyết
định đối nội, đối ngoại, kinh tế. Gồm 6 người Ban văn: phụ trách kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, tôn giáo, giáo dục và 3 người Ban võ: phụ trách quân sự, ngoại giao, quốc phòng, an ninh
trật tự. Trong số 9 người quan đại thần này, Hoàng đế chọn ra 1 người giao cho chức danh Tể
tướng. Do vậy, quyền lực của tể tướng rất là lớn.
+ Các cơ quan và chức quan khác để thực thi quyền lực nhà nước ở tầm vi mô.
→ Nhìn chung, tổ chức chính quyền trung ương của nhà Lý khá đơn giản.

2. Nhà Trần - Hồ (1225 - 1407):


a. Khái quát tình hình chính trị - xã hội.
- Năm 1225, Trần Thủ Độ chủ mưu lật đổ nhà Lý, xác lập vương triều Trần.
→ Điều này tạo nên mâu thuẫn gay gắt giữa nhà Trần và nhà Lý.
→ Nhà Trần đối diện với sự bất ổn, chia rẽ sâu sắc.
→ Mục tiêu của nhà Trần: duy trì sự trường tồn tôn thất nhà Trần.
→ Trên những cơ sở đó, nhà Trần tiến hành củng cố, xây dựng nền quân chủ mạnh mẽ hơn
(nhà Lý) thông qua tổ chức lại BMNN và xây dựng luật pháp.
b. Tổ chức bộ máy nhà nước.

Thái thượng hoàng


Hoàng đế
Hoàng thái tử

Quan đại thần


(6 vị Ban văn và 6 vị Ban võ tộc Trần)

Các cơ quan và chức quan khác


Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Nhà Lý không có thiết chế thái thượng hoàng như Nhà Trần. Đây là danh xưng để đương
kim hoàng đế nhắc đến khi vua cha băng hà với lòng tôn kính. Tuy nhiên ở thời Nhà Trần, đây
không còn là một danh xưng đơn thuần mà đây là một chức danh trong bộ máy nhà nước. Thái
thượng hoàng về mặt chính ngôn thuận thì không phải là người đứng đầu bộ máy nhà nước
nhưng lại nắm thực quyền trong tay. Thái thượng hoàng lãnh đạo đường lối, tư tưởng, quan
niệm ở tầm vĩ mô, trực tiếp quyết định việc quân đội, còn nắm vai trò trong đời sống thần
quyền đó là nắm vai trò trong việc tổ chức các nghi thức tế lễ tôn giáo, được xem là người giám
sát tối cao hoạt động của triều đình (kể cả là hoàng đế). Hoàng đế về mặt danh nghĩa là người
đứng đầu quốc gia nhưng thật ra quyền lực bị chi phối bởi quyền lực của thái thương hoàng, chỉ
nắm vương quyền, quyền lập pháp, tư pháp nhưng lập pháp và tư pháp cũng phải trong chi phối
của thái thượng hoàng. Thái thượng hoàng còn được xem là người thầy về mặt chính trị của
hoàng đế.
- Hoàng thái tử không chỉ là 1 danh xưng mà còn là chức danh trong bộ máy nhà nước để được
rèn luyện trong môi trường chính trị.
- Quan đại thần có khác biệt ở nhà Trần là muốn thành quan đại thần thì điều kiện đầu tiên,
tiên quyết là phải là nằm trong tộc Trần, vì nhà Trần muốn bảo vệ quyền lực tối đa của nhà
Trần.
+ Số lượng quan đại thần tăng lên là 12 người, bổ sung thêm 3 vị Ban võ. Vì nhà Trần hình
thành trong sự bất ổn, tranh đấu nên nhà Trần tăng cường quân sự để tăng sự phòng vệ.
+ Trong số các quan đại thần cũng chọn ra 1 người là Tể tướng.
→ Nhìn chung, quyền lực của quan đại thần nói chung và tể tướng nói riêng giảm thiểu hơn so
với thời Lý vì sự chi phối của thiết chế Thái thượng hoàng.
→ Nhìn chung, bộ máy nhà nước của thời Trần - Hồ vừa có nhiều điểm kế thừa nhà Lý nhưng
cũng có một số điểm khác biệt để thích ứng với hoàn cảnh lịch sử của nhà Trần - Hồ.

So sánh chính thể thời Lý với Trần - Hồ:


Nhà Lý Nhà Trần - Hồ
 Hoàng đế:  Hoàng đế:
- Là nguyên thủ quốc gia. - Là nguyên thủ quốc gia.
- Nắm quyền lực tối cao đối với: - Nắm một phần quyền lực tối cao đối với:
+ Vương quyền: + Vương quyền:
Lập pháp - Hành pháp - Tư pháp. Lập pháp - Hành pháp - Tư pháp.
Quân đội, ngoại giao, quốc phòng.  Thái thượng hoàng:
+ Thần quyền là quyền lực tôn giáo, tư - Nắm quyền trong lĩnh vực:
tưởng. + Quân đội, ngoại giao, quốc phòng.
+ Thần quyền là quyền lực tôn giáo, tư tưởng.
 Đội ngũ quan đại thần:  Đội ngũ quan đại thần:
- Ưu tiên lựa chọn từ: - Ưu tiên lựa chọn từ:
+ Công thần khai quốc. + Vương hầu quý tộc trong tôn thất nhà Trần.
+ Vương hầu quý tộc.
+ Khoa cử.
- Gồm 9 người: 6 văn và 3 võ. - Gồm 12 người: 6 văn và 6 võ.
- 1 quan đại thần được cử kiêm giữ chức - 1 quan đại thần được cử kiêm giữ chức thừa
thừa tướng. tướng.
- Chức năng chính là tham vấn. - Chức năng chính là tham vấn.
- Thừa tướng có quyền lực rất lớn. - Thừa tướng có quyền lực bị hạn chế.
 Cơ quan chuyên môn: còn ít về số  Cơ quan chuyên môn: nhiều hơn và đa dạng
lượng và đơn giản về chức năng. hơn về chức năng.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
II. Tình hình pháp luật thời Lý - Trần - Hồ:
- 2 Bộ luật Hình luật thư của nhà Lý và Trần đã thất truyền.
- Một số thông tin về pháp luật được ghi chép sơ lược trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư.
- Pháp luật về hình sự, ruộng đất, tô thuế, hợp đồng, hôn nhân - gia đình… đã được ban hành.
- Đến thời nhà Hồ, Hồ Quý Ly ban hành nhiều chính sách pháp luật mới hơn nhằm cải cách
toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội.
(tham khảo thêm giáo trình)

Nhận xét chung về chính thể quân chủ Lý - Trần - Hồ:


So với nhà Lý:
- Chính thể Trần - Hồ phát triển mạnh hơn.
- Có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng hơn.
- Tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước (quyền lực của quan lại cũng như quyền lực của
Hoàng đế) → Một trong những lý do dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lý là do quan lại kiểm soát
lỏng lẻo, thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực của quan đại thần.
- Pháp luật thời Trần - Hồ hoàn thiện hơn.
- Nhà Trần - Hồ tuyệt đối và cực đoan hóa vai trò của giai cấp cầm quyền dẫn đến sự mất ủng
hộ của người dân dẫn đến sụp đổ.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
ĐỀ THẦY CHO LÀM
Từ tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý và Trần - Hồ, hãy trả lời các câu hỏi sau:
1. Nêu ra những đặc điểm giống và khác nhau.
2. Nguyên nhân của những điểm khác biệt.
3. Bạn có nhận xét, đánh giá gì về cách sử dụng quyền lực cứng và quyền lực mềm trong đời
sống chính trị của nhà Lý với nhà Trần - Hồ.
Bài làm
1. Nêu ra những đặc điểm giống và khác nhau.
 Điểm giống:
- Về mặt chính thể quân chủ, cả nhà Lý, Trần - Hồ đều có những đặc điểm cơ bản trong mô
hình tổ chức bộ máy: Vua, quan đại thần, các cơ quan chuyên môn giúp việc, các bộ.

 Điểm khác biệt:


- Hoàng đế ở thời Lý và Trần đều là nguyên thủ quốc gia nhưng ở thời Lý, hoàng đế nắm quyền
lực tối cao đối với vương quyền, quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, quân đội, ngoại giao,
quốc phòng và thần quyền (quyền lực tôn giáo, tư tưởng). Trong khi đó, ở thời Trần - Hồ,
Hoàng đế chỉ nắm một phần quyền lực tối cao, nắm vương quyền, quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp, quân đội, ngoại giao, quốc phòng vì chịu sự chi phối bởi thái thượng hoàng.
- Đội ngũ quan đại thần. Thời Lý ưu tiên lựa chọn từ công thần khai quốc, vương hầu quý tộc,
khoa cử thì thời Trần ưu tiên lựa chọn từ vương hầu quý tộc trong tôn thất nhà Trần.
- Đội ngũ quan đại thần thời Lý có 9 người (6 văn, 3 võ) thì thời Trần - Hồ có 12 người (6 văn,
6 võ).
- Thừa tướng ở thời Lý có quyền lực rất lớn nhưng ở thời Trần thì thừa tướng có quyền lực bị
hạn chế.
- Cơ quan chuyên môn thời Lý còn ít về số lượng và đơn giản về chức năng. Trong khi đó, cơ
quan chuyên môn thời Trần - Hồ nhiều hơn và đa dạng về chức năng hơn.
- Về mặt quân sự: Thời Lý tinh giản quân lính và hạn chế quyền lực quân đội. Trong khi thời
Trần - Hồ thì củng cố quyền lực quân đội.

2. Nguyên nhân của những điểm khác biệt.


- Thứ nhất, nhà Trần đối diện với sự bất ổn, chia rẽ sâu sắc do sự mâu thuẫn gay gắt giữa nhà
Trần và nhà Lý, mục tiêu của Nhà Trần là duy trì sự trường tồn tôn thất của nhà Trần.
- Nhà Trần tiến hành củng cố, xây dựng nền quân chủ mạnh mẽ hơn nhà Lý thông qua tổ chức
lại bộ máy nhà nước và xây dựng luật pháp
- Quân đội của nhà Lý không nhằm mục đích chinh phạt các thế lực, còn một bộ phận được tinh
giản để thực hiện chính sách “một binh ư nông” theo tinh thần “tĩnh vi nông, động vi binh” (khi
đất nước hòa bình thì họ là nông dân để thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, khi đất nước có chiến
tranh, loạn lạc thì những nông dân đó sẽ trở thành những người lính). Quyền lực quân đội vốn
là yếu tố cốt tử, mang tính chất sống còn gắn liền với quyền lực NN. Tuy nhiên, điều này không
còn phù hợp với hoàn cảnh ra đời của nhà Lý theo hướng NN hạn chế sự cưỡng bức, hà khắc
như các triều đại trước.
- Thời Lý chủ trương “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân là gốc, yếu tố thứ hai là
cơ đồ, giang sơn, xã tắc, còn chức vụ, ngôi báu là thứ không đáng. Bộ máy chính trị nhà Lý
không phải được lập ra là để bảo vệ ngôi báu, phải bảo vệ trước hết cho lợi ích của dân, sau đó
là giang sơn, chủ quyền trước hết).
- Xây dựng nền quân chủ không mang tính chuyên chế, hà khắc, không cường quyền, bạo lực,
không mang tính chất đề cao sự đàn áp. Do vậy nên tổ chức BMNN thời Lý đơn giản.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Nhà Lý không có thiết chế thái thượng hoàng như Nhà Trần. Đây là danh xưng để hoàng đế
nhắc đến khi vua cha băng hà với lòng tôn kính. Tuy nhiên ở thời Nhà Trần, đây không còn là
một danh xưng đơn thuần mà đây là một chức danh trong bộ máy nhà nước. Thái thượng hoàng
còn nắm vai trò trong đời sống thần quyền đó là nắm vai trò trong việc tổ chức các nghi thức tế
lễ tôn giáo, được xem là người giám sát tối cao hoạt động của triều đình (kể cả là hoàng đế).
Hoàng đế thật ra quyền lực bị chi phối bởi quyền lực của thái thương hoàng, chỉ nắm vương
quyền, quyền lập pháp, tư pháp nhưng lập pháp và tư pháp cũng phải trong chi phối của thái
thượng hoàng. Thái thượng hoàng còn được xem là người thầy về mặt chính trị của hoàng đế.
- Hoàng thái tử là chức danh trong bộ máy nhà nước để được rèn luyện trong môi trường chính
trị
- Quan đại thần có khác biệt ở nhà Trần là muốn thành quan đại thần thì điều kiện đầu tiên, tiên
quyết là phải là nằm trong tộc Trần, vì Nhà Trần muốn bảo vệ quyền lực tối đa của nhà Trần.
- Số lượng quan đại thần tăng lên là 12 người, bổ sung thêm 3 vị Ban võ. Vì nhà Trần hình
thành trong sự bất ổn, tranh đấu nên nhà Trần tăng sự phòng vệ.

3. Bạn có nhận xét, đánh giá gì về cách sử dụng quyền lực cứng và quyền lực mềm trong đời
sống chính trị của nhà Lý với nhà Trần - Hồ.
- Xã hội nhà Lý nói chung mang tính chất “dân sự”, giảm thiểu sự sử dụng vũ lực, đàn áp. Nhà
Lý xuất hiện năm 1010 chấm dứt 72 năm khủng hoảng chính trị - xã hội và tạo ra sự ổn định,
đồng thuận xã hội nên hai yếu tố này chi phối rất lớn đến cách thức tổ chức BMNN, sinh hoạt
chính trị của nhà lý. Chính vì thế, quyền lực mềm nhà Lý sử dụng chính là chủ trương “dân vi
quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân là gốc, yếu tố thứ hai là cơ đồ, giang sơn, xã tắc, còn
chức vụ, ngôi báu là thứ không đáng. Bộ máy chính trị nhà Lý không phải được lập ra là để bảo
vệ ngôi báu, phải bảo vệ trước hết cho lợi ích của dân, sau đó là giang sơn, chủ quyền trước
hết). Điều này làm cho xã hội nhà Lý là nhà nước thân dân, lấy tin tưởng làm sự kết nối giữa
quan lại triều đình và dân chúng nên xã hội êm đềm, không có sự mâu thuẫn sâu sắc

- Quyền lực của quan đại thần nói chung, tể tướng nói riêng ở thời Trần bị giảm thiểu hơn so
với nhà Lý vì bị sự chi phối của thái thượng hoàng.
- Nhìn chung, BMNN nhà Trần - Hồ có nhiều điểm kế thừa và nhiều điểm mới so với nhà Lý.
Tổ chức BMNN thời Lý đơn giản hơn.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 5: TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VIỆT NAM


THỜI KỲ NHÀ LÊ SƠ (1428 - 1527)
I. Lược sử triều đại:
- Lê sơ là giai đoạn đầu của nhà Hậu Lê, để phân biệt với nhà Tiền Lê trước đây. Sau khi giành
thắng lợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi thiết lập một nhà nước phong kiến độc lập, mở ra
thời kỳ Hậu Lê. Thời kỳ Hậu Lê chia làm hai giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu gọi là thời kỳ Lê sơ (1428 - 1527), đây là thời kỳ mà các vị vua nhà hậu Lê
tiến hành cải tổ bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật làm cho thời kỳ Lê sơ phát triển vượt bậc
về tổ chức bộ máy nhà nước và pháp luật;
+ Giai đoạn sau là giai đoạn thời kỳ Lê trung hưng (hay Lê mạt) (1527 - 1789), thời kỳ này
đất nước bị chia cắt, phân liệt làm tổ chức BMNN phân tán, cát cứ, việc phát triển pháp luật
không được chú trọng.
- Thời kỳ đầu Lê sơ (1428 - 1460):
+ Lê Thái Tổ (1428 - 1433) đặt niên hiệu Thuận Thiên.
+ Lê Thái Tông (1434 - 1442).
+ Lê Nhân Tông (1453 - 1459)
+ Lê Nghi Dân (1459).
- Thời kỳ từ vua Lê Thánh Tông (1460 - 1527):
+ Lê Thánh Tông (1460 - 1497).
+ Lê Hiến Tông (1497 - 1504).
+ Lê Túc Tông (1504).
+ Lê Uy Mục (1505 - 1509): bắt đầu suy yếu.
+ Lê Tương Dực (1510 - 1516).
+ Lê Chiêu Tông (1516 - 1522).
+ Lê Cung Hoàng (1522 - 1527).

1. Tình hình kinh tế:


- Chế độ sở hữu ruộng đất:
+ Sở hữu nhà nước (gồm: sở hữu quan điền - đất do nhà nước quản lý và trực tiếp thu hoa lợi,
lợi tức trực tiếp từ ruộng đất thuộc chế độ quan điền; chế độ lộc điền; chế độ đồn điền).
+ Sở hữu làng xã.
+ Sở hữu tư nhân.
- Kinh tế nông nghiệp là chủ đạo.
- Tính chất nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp.
- Kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp không có điều kiện phát triển.
→ Điều kiện kinh tế và đồng thời đất nước chịu ảnh hưởng rất lớn của Nho giáo góp phần tác
động rất lớn đến điều kiện xã hội.

2. Chế độ xã hội:
Giai cấp thống trị Giai cấp bị trị
- Địa chủ quan liêu: - Nông dân: chủ yếu
đội ngũ quan lại trong là nông dân lĩnh canh,
triều đình, ở trung có một bộ phận nhỏ là
ương và địa phương. nông dân tự canh.
- Địa chủ bình dân: - Thợ thủ công: số
những thợ thủ công, lượng không nhiều.
nông dân tự canh, - Thương nhân: số
thương nhân có tài lượng không nhiều.
sản.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
Theo quan điểm của Nho giáo, phân chia tầng lớp xã hội là:

Nông

Công

Thương

Cách sắp xếp tầng lớp như trên chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo và yếu tố kinh tế
nông nghiệp là chủ đạo.

II. Tổ chức bộ máy nhà nước thời kỳ đầu Lê sơ (1428 - 1460):


- Lê Thái Tổ (1428 - 1433): thời Lê sơ mở ra với công lao của vua Lê Thái Tổ (1428 - 1433),
trong thời gian 5 năm, Lê Thái Tổ thực hiện cải tổ tổ chức bộ máy nhà nước, những hoạt động
để xây dựng pháp luật nhưng 5 năm là không đủ để vua Lê Thái Tổ thực hiện cải cách toàn diện
về mặt tổ chức bộ máy nhà nước và pháp luật.
- Lê Thái Tông (1434 - 1442): lên ngôi lúc 10 tuổi, quyền lực trong triều đình lúc bấy giờ chủ
yếu nằm trong tay các quan đại thần.
- Lê Nhân Tông (1453 - 1459): lên ngôi lúc 2 tuổi, quyền lực trong triều đình lúc bấy giờ chủ
yếu nằm trong tay của thái hậu và các quan đại thần.
- Lê Nghi Dân (1459): ở ngôi 8 tháng, sau đó bị đội ngũ quan lại, quan đại thần phế xuống để
đưa hoàng tử thứ tư của vua Lê Thái Tông lên ngôi, Lê Tư Thành (sau này là Lê Thánh Tông).
→ Nhận xét: Trong các vị vua của thời kỳ đầu Lê sơ, vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) là người có
công lao lớn nhất trong việc cải tổ tổ chức bộ máy trong giai đoạn này. Nhưng thời gian của
vua Lê Thái Tổ trị vì quá ngắn (5 năm) nên các cải tổ chưa hoàn thiện. Sau đó, các vị vua Lê
Thái Tông, Lê Nhân Tông lên ngôi khi tuổi quá nhỏ nên việc cai quản triều chính không nằm
trong tay nhà vua mà nằm trong tay thái hậu và quan đại thần. Do vậy, tổ chức bộ máy nhà
nước trong thời kỳ đầu Lê sơ tương đối yếu so với giai đoạn sau - giai đoạn cải cách của vua Lê
Thánh Tông.

1. Tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương:


Vua

Quan đại thần Tể tướng Cơ quan cố vấn

Các Bộ

Cơ quan giám sát Các cơ quan Cơ quan văn phòng


chuyên môn
→ Nhận xét: Việc thực hiện quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương chưa thực
sự tập trung tuyệt đối vào tay vua. Bởi lẽ, có các đội ngũ, cơ quan trung gian là tể tướng, quan
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
đại thần, cơ quan cố vấn, đây là cơ quan trung gian giữa nhà vua và các cơ quan phía dưới. Ở
thời kỳ đầu Lê sơ, quyền lực chưa thực sự tập trung tuyệt đối vào tay vua và nó bị chia sẻ cho
các cơ quan bên dưới là quan đại thần, tể tướng, cơ quan cố vấn.
Vương quyền
Vua
Thần quyền
- Vua: Theo quan điểm của Nho giáo và chính thể quân chủ chuyên chế, vua nắm vương quyền
(quyền lực nhà nước, bao gồm: lập pháp (vua ban hành luật); hành pháp (vua bổ nhiệm hệ
thống quan lại để thực thi quyết định của vua); tư pháp (vua có thẩm quyền xét xử cao nhất,
mọi vụ án trong quốc gia đều thuộc thẩm quyền xét xử của nhà vua, quyết định của nhà vua là
quyết định chung thẩm) và thần quyền (quyền lực về mặt tư tưởng, tôn giáo: vua là chủ tế trong
các nghi thức tế lễ của quốc gia, là thiên tử cử xuống để cai trị người dân). Ở trong thời kỳ đầu
Lê sơ, trong 4 vị vua thì vua Lê Thái Tổ là người nắm nhiều quyền lực nhất, sau đó, vua Lê
Thái Tông, Lê Nhân Tông thì trên danh nghĩa là quyền lực bao gồm vương quyền và thần
quyền nhưng thực tế, quyền lực này bị chia sẻ cho quan đại thần và thái hậu.

- Tả, hữu tướng quốc: đứng đầu trong đội ngũ quan đại thần, gồm 2 người: tả tướng
quốc và hữu tướng quốc, đây là 2 chức quan có từ thời kỳ nhà Trần - Hồ.
Quan
- Đại Hành khiển:
đại
+ Tam Tư: Tư đồ, Tư mã, Tư không.
thần
+ Tam Thái: Thái sư, Thái phó, Thái bảo.
+ Tam Thiếu: Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo.

- Dưới đội ngũ quan đại thần là hệ thống quan lại được chia làm 2 ngạch:
+ Ngạch quan văn:
 Đại Hành khiển.
 Thượng thư, Hành khiển.
 Thị lang (tả, hữu).
 Lang trung.
 Viên ngoại lang.
 Tư vụ, Chủ sự.
+ Ngạch quan võ:
 Đại Đô đốc.
 Đô Tổng quản.
 Thái úy.
 Thiếu úy.
 Tả, hữu Bộc xạ.
 Đại tướng, Thừa tướng, Tướng quân các vệ…

- Các cơ quan chuyên môn:


+ Các Bộ: Bộ Lại (quản lý về quan lại, bổ nhiệm quan chức), Bộ Lễ (quản lý về nghi thức, nghi
lễ quốc gia), Bộ Hộ (quản lý nhân khẩu và quản lý tài sản công của nhà nước, đất đai…). Vì Lê
Lợi mới lên ngôi vua, thời gian chưa có nhiều nên mới lập 3 bộ. Đến thời vua Lê Nghi Dân thì
đã thiết lập đủ 6 bộ.
+ Lục Khoa: Lê Nghi Dân đặt 6 khoa để kiểm sát công việc của 6 bộ.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
+ Nội mật viện: bàn bạc việc cơ mật.
+ Tam Sảnh (Trung thư, Môn hạ, Hoàng môn).
+ Hàn lâm viện, Quốc tử giám, Quốc sử viện.
+ Ngự Sử đài, Ngũ Hình viện.
+ Chính sự viện (bao gồm đông đảo các chức quan trong triều), thành phần rộng hơn Nội mật
viện (chỉ bao gồm các tâm phúc của nhà vua): cũng có chức năng cơ bản là cố vấn cho vua.
Tiền thân là đội ngũ những người cùng “nằm gai nếm mật”, trợ giúp cho Lê Lợi trong khởi
nghĩa Lam Sơn. Tuy nhiên, đến thời kỳ vua Lê Thánh Tông đã bãi bỏ cơ quan có chức năng cố
vấn cho nhà vua để tập trung quyền lực tuyệt đối vào tay vua.
+ Thái sử viện (Tôn nhân phủ).
→ Hệ thống các cơ quan chuyên môn tương đối đầy đủ và hoàn thiện, học hỏi từ nhà Trần - Hồ.

2. Tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương:


- Chia thành 5 cấp:
Đạo: cả nước chia thành 5 đạo (Đông đạo, Bắc đạo, Tây đạo, Nam Hành Khiển, Tổng Quản:
đạo, Hải tây đạo, là 5 đơn vị hành chính lãnh thổ cao nhất ở địa Đứng đầu cấp đạo là Hành
phương, vừa là 5 đạo quân (Giống như thời Ngô - Đinh - Tiền Lê khiển (quản lý về quân sự)
→ có tính hành chính quân sự, hành chính quân quản trong thời kỳ và Tổng quản (quản lý về
Lê sơ. Đứng đầu là Hành khiển (quản lý về quân sự) và Tổng quản các lĩnh vực còn lại).
(quản lý về các lĩnh vực còn lại).

Lộ - Phủ - Trấn Tri phủ

Thiêm Phán, Tào


Châu
Vận, Tri châu

Tuần Sát,
Huyện
Chuyển Vận sứ

Xã: ở thời kỳ Lê sơ, đặc biệt là thời Xã Quan: do cấp trên


vua Lê Thái Tổ đã chia thành xã cử xuống chứ không
lớn, xã vừa, xã nhỏ. Đối với xã lớn phải người dân trong
thì có 3 xã quan, xã vừa có 2 xã xã bầu lên.
quan, xã nhỏ có 1 xã quan.

→ Nhận xét:
- Thứ nhất, nhìn vào cấp đạo có thể thấy được tính chất hành chính quân sự.
- Thứ hai, tương đối nhiều cấp trung gian ở địa phương, gây nên tốn kém cho ngân sách nhà
nước và cồng kềnh trong tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương.
- Thứ ba, ở cấp xã, xã quan không phải người dân trong xã bầu lên mà do cấp trên cử xuống
nên chưa thực sự dân chủ ở cấp xã.

→Nhận xét chung tổ chức bộ máy nhà nước thời kỳ đầu Lê sơ:
- Tổ chức BMNN thời kỳ đầu Lê sơ còn mang tính quý tộc thân vương (do ảnh hưởng từ triều
Trần), tức là đội ngũ quan lại trong triều đình được bổ nhiệm từ hoàng thân quốc thích với nhà
vua → Tổ chức BMNN mang tính quý tộc thân vương chưa phải là 1 tổ chức BMNN hoàn
thiện và hiệu quả.
- Quyền lực bị phân tán bởi thế lực quý tộc hoàng tộc. Biểu hiện: Đội ngũ quý tộc nắm giữ
những chức quan, quan đại thần quan trọng nhất, từ đó hạn chế quyền lực của nhà vua. Các vua
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
thời kỳ Lê sơ lên ngôi khi còn nhỏ tuổi nên hoạt động triều chính nằm trong tay quan lại, quan
đại thần hoặc thái hậu nhiếp chính.
- Địa phương có xu hướng “thoán quyền”. Tại sao? Xu hướng này xuất phát từ hoàn cảnh ra đời
của nhà Lê sơ là ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh khi giành độc lập sau hơn 20 năm thuộc nhà
Minh, địa phương có xu hướng tự trị, “thoán quyền”. Sau khi nhà hậu Lê lên ngôi, các vị vua
đầu chưa thực sự có biện pháp hiệu quả để giải quyết tình trạng cát cứ, xa rời trung ương của
địa phương.
- Nặng tính hành chính quân sự. Tại sao? Bởi vì triều đại nào ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh
loạn lạc thì trong giai đoạn đầu tổ chức bộ máy nhà nước mang nặng tính hành chính quân sự
(hành chính quân quản). Biểu hiện: Thứ nhất, ở địa phương, đạo vừa là đơn vị hành chính lãnh
thổ ở địa phương, vừa là các đạo quân để nhanh chóng thích ứng với tình hình chiến tranh có
thể xảy ra bất cứ lúc nào. Thứ hai, đội ngũ quan lại ở thời kỳ Lê sơ chủ yếu là xuất phát từ đội
ngũ quan võ, những người cùng vào sinh ra tử với vua Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn,
quan võ chiếm số lượng đông đảo trong đội ngũ quan lại ở thời kỳ này.

III. Tổ chức bộ máy nhà nước từ sau cải cách Lê Thánh Tông (1460 - 1527):
1. Nguyên nhân cải cách:
- Bất ổn chính trị đã được loại bỏ, chính quyền quân sự không còn phù hợp.
- Thế lực nhà Lê ngày càng mạnh mẽ hơn.
- BMNN mang nặng tính quý tộc không còn phù hợp.
- Lãnh thổ được mở rộng về phía nam.
- Kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và đặc biệt là thương nghiệp rất phát triển.
- Nho giáo ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống chính trị - xã hội.
- Khát vọng xây dựng đất nước Đại Việt hùng cường. Tại sao? Ở Trung Quốc, triều Minh trở
thành một triều đại hùng mạnh, điều này đe dọa đến sự tồn tại của Đại Việt, vì vậy cần phải
thống nhất các phe phái lại để đưa đất nước phát triển, tồn tại trước một triều Minh hùng mạnh.
- Sự xuất hiện của triết gia, nhà văn hóa, nhà chính trị, nhà quân sự - vua Lê Thánh Tông.
→ Tiến hành cải cách toàn diện đời sống xã hội, trong đó ưu tiên cải cách BMNN và hệ thống
pháp luật.

2. Chủ trương của các cuộc cải cách:


Xây dựng nhà nước quân chủ trung ương tập quyền trên nguyên tắc “tôn quân quyền” của Nho
giáo (tôn tức là độc tôn; quân là quân vương, nhà vua; quyền là quyền lực), tức là tập trung
quyền lực vào tay vua, không để bị chia sẻ quyền lực.
 Các nguyên tắc cải cách:
(1) Nguyên tắc tập quyền: dựa trên cơ sở tư tưởng “tôn quân quyền” của Nho giáo.
- Mục đích: muốn quyền lực nhà vua tập trung tuyệt đối cả 3 quyền: lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Bãi bỏ các cơ quan, chức quan làm nhiệm vụ trung gian.
- Nội dung cải cách:
+ Bỏ chức danh tể tướng.
+ Giảm số lượng, quyền lực quan đại thần.
+ Trực tiếp chỉ đạo hoạt động hành pháp, lập pháp, tư pháp.
(Lê Thánh Tông học hỏi từ mô hình nhà Minh xóa bỏ chức vụ tể tướng, xóa bỏ chức tả, hữu
tướng quốc. Ngoài ra, Lê Thánh Tông còn xóa bỏ các cơ quan, chức quan khác và sắp xếp lại
nhiệm vụ của nó, như: chức quan đại khiển, hành khiển,… Đến thời kỳ vua Lê Thánh Tông đã
bãi bỏ cơ quan có chức năng cố vấn cho nhà vua để tập trung quyền lực tuyệt đối vào tay vua,
như: chính sự viện, nội mật viện. Ngoài ra, các tam thái có quyền lực rất lớn nhưng đến thời kỳ
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
Lê Thánh Tông chỉ được hưởng bổng lộc chứ không được tham gia vào triều chính mà triều
chính do nhà vua đích thân chỉ đạo sắp đặt).

(2) Nguyên tắc tản quyền: xuất phát từ nhu cầu phát triển của xã hội (Tản quyền về bản chất
cũng là tập quyền, quyền lực thuộc về nhà vua nhưng vua không thể thực hiện mọi việc được
nên vua ủy quyền cho một số cơ quan thay mặt vua thực hiện, quyền quyết định cuối cùng, tối
cao vẫn thuộc về vua).
- Mục đích:
+ Hạn chế việc 1 cơ quan có nhiều chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
+ Chuyển một số chức năng, nhiệm vụ từ cấp trên xuống cấp dưới.
+ Cấp trên, trung ương tập trung thực hiện việc kiểm tra, giám sát.
- Nội dung cải cách: phân chia các cơ quan nhà nước thành 2 lĩnh vực:
+ Hành pháp: Lục bộ, cơ quan văn phòng, cơ quan thuộc hoàng đế, cơ quan quản lý nông
nghiệp…
 6 Bộ: Bộ Lại (quản lý về quan lại, bổ nhiệm quan chức), Bộ Lễ (quản lý về nghi thức, nghi lễ
quốc gia), Bộ Hộ (quản lý nhân khẩu và quản lý tài sản công của nhà nước, đất đai…), Bộ
Binh (chức năng quốc phòng và bảo vệ trật tự trị an, an ninh), Bộ Hình (xét xử các vụ án và
theo dõi sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan, quan lại, cá nhân), Bộ Công (xây dựng các
công trình công cộng).
+ Tư pháp - giám sát: Đề cao trách nhiệm cá nhân, hạn chế sự ách tắc công việc.

(3) Nguyên tắc pháp chế:


- Mục đích: hạn chế sự lạm quyền của quan lại bằng cách tăng cường các cơ quan giám sát (đặt
6 khoa để kiểm sát công việc của 6 bộ, sáng tạo của Lê Thánh Tông: người đứng đầu lục khoa
có quyền cao hơn nhưng hàm phẩm thấp hơn người đứng đầu lục bộ, để kiểm tra chéo lẫn
nhau).
- Nội dung cải cách:
+ Bước đầu có sự tách bạch giữa hoạt động tư pháp và giám sát.
+ Tổ chức và hoạt động của cơ quan giám sát trực thuộc hoàng đế và độc lập với các cơ quan
khác.
- Ngoài ra, Lê Thánh Tông đã bác bỏ chế độ sử dụng người trong hoàng tộc để làm quan. Vua
Lê Thánh Tông đã tổ chức những kỳ thi tuyển công khai và đích thân làm chủ khảo để lựa chọn
người tài, thi đỗ càng cao thì chức quan càng lớn, điều này đã thúc đẩy Nho học, phong trào
học hành rất nhiều dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
3. Tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương từ sau cải cách Lê Thánh Tông (1460 - 1527):
 Trước cải cách Lê Thánh Tông (1428 - 1460):

Vua

Quan đại thần Tể tướng Cơ quan cố vấn

Các Bộ

Cơ quan giám sát Các cơ quan Cơ quan văn phòng


chuyên môn

 Sau cải cách Lê Thánh Tông (1460 - 1497):

Lục Bộ
Cơ quan giám sát Quan đại thần

Vua
Cơ quan nhà nước Cơ quan văn phòng

Các cơ quan
chuyên môn khác

- Vua:
+ Nắm vương quyền và thần quyền.
+ Quyền lực tập trung tuyệt đối.

- Các quan đại thần:


+ Bãi bỏ chức quan có quyền lực lớn (Tả, hữu tướng quốc, Tam Tư, Chính sự viện, Nội mật
viện, Trung thư sảnh…).
+ Không kiêm nhiệm, không thực quyền.

- Lục Bộ:
Thuyên khảo Thanh đại ty, Tư vụ Tuyển bổ, thăng giáng, lựa chọn, khảo
Bộ Lại
sảnh thường trực. xét phong tước cho quan lại.
Bản tịch thanh lại ty, Độ chi thanhCoi sóc ruộng đất, tài chính, nhân
Bộ Hộ lại ty, Hộ bộ Tư vụ sảnh thường trực.
khẩu, tô thuế, kho tàng, thóc tiền và
lương của quan quân.
Nghi chế thanh lại ty, Lễ bộ Tư vụ Phụ trách lễ nghi, tế tự, thiết đãi tiệc
Bộ Lễ sảnh thường trực. các quan và tân khách, thi cử, học
hành, đúc các ấn tín, trông coi Tư
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
thiên giám, Thái y viện.
Vũ khố thanh lại ty, Quân vụ thanh Coi giữ việc thuộc về binh chính, đặt
lại ty, Binh Bộ Tư Vụ sảnh. quan trấn thủ biên ải, tổ chức giữ các
Bộ Binh
nơi hiểm yếu và ứng phó việc khẩn
cấp.
Thanh hình, Thận hình, Minh hình, Trông coi về luật lệnh, hình pháp, xét
Bộ Hình Tương hình thanh lại ty, Hình bộ Tư lại các việc tù đày, kiện cáo, các việc
Vụ sảnh. nghiêm cấm.
Doanh thiện, Công trình thanh lại ty, Trông coi việc sửa chữa, xây dựng
Bộ Công
Công bộ Tư Vụ sảnh. (cầu cống, thành trì, cung điện…)

- Lục Tự:
Tổ chức Xét lại vụ án nặng (tử hình, đi đày) chuyển
Đại lý tự
Mỗi tự gồm: lên Bộ Hình để tâu vua.
Thái thường tự Đứng đầu: Tự khanh (5a) Phụ trách thi hành lễ nghi, trông coi đền thờ.
Quang bộc tự Chức phó: Thiếu khánh Lo thực phẩm yến tiệc.
Thái bộ tự (6a) Coi sóc ngựa, xe.
Hồng lô tự Giúp việc: Tự thừa (7a) Xướng danh người đỗ thi đình, tiếp
Thượng bảo tự Đóng ấn trong thi hội.

Cơ quan chuyên
trách: Kinh lịch ty,
Án ngục ty, Chiếu
ma sở
Giám sát quan lại
trong triều
Cơ quan thường
trực: Tư vụ sảnh
Ngự sử đài

Giám sát các đạo Ty ngự sử


Các cơ quan
giám sát

Trực thuộc trực


Lục khoa Giám sát lục bộ
tiếp nhà vua
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
4. Tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương từ sau cải cách Lê Thánh Tông (1460 - 1527):
 Trước cải cách Lê Thánh Tông (1428 - 1460):
Đạo: cả nước chia thành 5 đạo (Đông đạo, Bắc đạo, Tây đạo, Nam Hành Khiển, Tổng Quản:
đạo, Hải tây đạo, là 5 đơn vị hành chính lãnh thổ cao nhất ở địa Đứng đầu cấp đạo là Hành
phương, vừa là 5 đạo quân (Giống như thời Ngô - Đinh - Tiền Lê khiển (quản lý về quân sự)
→ có tính hành chính quân sự, hành chính quân quản trong thời kỳ và Tổng quản (quản lý về
Lê sơ. Đứng đầu là Hành khiển (quản lý về quân sự) và Tổng quản các lĩnh vực còn lại).
(quản lý về các lĩnh vực còn lại).

Lộ - Phủ - Trấn Tri phủ

Thiêm Phán,
Châu
Tào Vận, Tri châu

Tuần Sát,
Huyện
Chuyển Vận sứ

Xã: ở thời kỳ Lê sơ, đặc biệt là thời Xã Quan: do cấp trên


vua Lê Thái Tổ đã chia thành xã cử xuống chứ không
lớn, xã vừa, xã nhỏ. Đối với xã lớn phải người dân trong
thì có 3 xã quan, xã vừa có 2 xã xã bầu lên.
quan, xã nhỏ có 1 xã quan.

 Sau cải cách Lê Thánh Tông (1460 - 1497):

Đạo Tam Ty (Thừa, Đô, Hiến Ty)

Phủ Tri phủ

Huyện - Châu Tri Huyện - Tri châu

Xã Xã trưởng

- Nội dung cải cách:


+ Giảm số cấp trung gian (còn 2 cấp).
+ Tăng số đạo từ 5 lên 12 + 1 (năm 1471) đạo.
+ Thành lập Tam Ty: thể hiện tản quyền, chuyên môn hóa.
 Thừa Ty (hành chính, tài chính, dân sự): Thừa chính sứ (8b).
 Đô Ty (quân sự): Đô tổng binh sứ (4a).
 Hiến Ty (xét xứ các vụ án và giám sát): Hiến sát sứ (6a).
+ Giao cho Giám sát ngự sử (Ngự sử đài) giám sát, hỗ trợ các đạo, đàn hặc quan lại kết hợp với
giám sát địa phương (Hiến Ty).
+ Thay Xã Quan bằng Xã Trưởng, đổi cơ chế chọn.
+ Quy định không cho phép những người anh em ruột, anh em con chú bác, cô cậu, dì già, cháu
chú cháu bác, cháu cô cháu cậu và thông gia với nhau không được cùng làm Xã Trưởng.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
→ Chính những cải cách của vua Lê Thánh Tông đã giúp nước Đại Việt dưới thời vua Lê
Thánh Tông đã có bước tiến vượt bậc, là nước mạnh bậc nhất Đông Nam Á bấy giờ.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 6: PHÁP LUẬT NHÀ HẬU LÊ (THẾ KỶ XV - XVIII)


I. Tổng quan về pháp luật thời Hậu Lê (thế kỷ XV - XVIII):
1. Thành tựu lập pháp thời Hậu Lê:
- Nhà Hậu Lê để lại di sản lập pháp đồ sộ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
- Rất nhiều đạo luật còn được lưu giữ lại đến ngày nay với rất nhiều nội dung tiến bộ vượt bậc
và có thể tham khảo hoàn thiện pháp luật hiện nay ở nước ta.
- Một số đạo luật cơ bản thời Lê sơ: Quốc triều hình luật (hay bộ luật Hồng Đức hoặc còn gọi là
Lê triều hình luật), Hồng Đức thiện chính thư,…

2. Giới thiệu chung về Lê triều hình luật:


a. Bối cảnh ra đời.
- Có 2 quan điểm:
+ Xuất hiện từ thời vua Lê Lợi và được các vua Lê đời sau hoàn thiện, trong đó nổi bật nhất là
vua Lê Thánh Tông.
+ Là công trình pháp điển hóa tiến bộ nhất do vua Lê Thánh Tông khởi soạn và hoàn thiện.
→ Cả 2 quan điểm đều thừa nhận công lao và vai trò to lớn của vua Lê Thánh Tông (dưới niên
hiệu Hồng Đức, 1471 - 1497) nên gọi là Bộ luật Hồng Đức.

b. Về kỹ thuật lập pháp trong Lê triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức).
- Tuy tên gọi là hình luật nhưng thực chất đây là Bộ luật tổng hợp, bao gồm các quy phạm điều
chỉnh các lĩnh vực dân sự, hôn nhân - gia đình, tố tụng, đất đai…
- Bất cứ quy tắc ứng xử nào trong điều luật cũng đều gắn với chế tài.
- Thường một điều luật thiết kế theo một trong hai cách:
+ Giả định + quy định. Giả định + chế tài.
+ Giả định + chế tài.
→ Bộ phận chế tài trở nên phổ biến nhất trong cấu trúc của quy phạm pháp luật.
→ Xu hướng hình sự hóa các quan hệ xã hội.
- Ví dụ:
 Điều 295: Những người góa bụa, con côi, tàn phế đói nghèo, không nơi nương tựa thì quan
sở tại phải nuôi dưỡng họ. Nếu bỏ rơi đánh 50 roi, bãi chức.
 Điều 308: Chồng xa cách vợ không lui tới suốt 05 tháng (nếu đã có con thì 1 năm) thì người
vợ có quyền trình quan ly hôn chồng. Nếu đã ly hôn mà cản trở vợ (cũ) cưới người khác thì
đánh 80 gậy.
 Điều 590: Người vay nợ bỏ trốn thì người bảo lãnh phải trả nợ thay người đó phần tiền gốc.
Trái luật đánh 80 gậy.
 Điều 677: Những việc nào cần đối chất mà các quan hình án trì trệ để lâu ngày không cho
đối chất thì bị đánh 80 gậy.
→ 4 điều luật trên đại diện cho 4 lĩnh vực khác nhau: hành chính, hôn nhân - gia đình, dân sự,
tố tụng nhưng đều có điểm chung là được bảo vệ bằng các biện pháp chế tài. Vì vậy, tên gọi là
luật hình.

3. Các yếu tố tác động đến nội dung Bộ luật Hồng Đức (tức cơ sở hay nguồn xác lập nội
dung BLHĐ):
 Yếu tố bên trong:
- Bối cảnh lịch sử ra đời nhà Lê sơ và sự xuất hiện của đức vua đại minh triết Lê Thánh Tông -
nhà văn hóa, tư tưởng, quân sự - chính trị. (Khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi năm 1460, nhà Lê
đã giải quyết được khủng hoảng tạo ra một tiền đề trật tự xã hội ổn định và Lê Thánh Tông
không duy trì mô hình chính quyền quân sự mà đề cao vai trò pháp luật đối với xã hội).
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Trình độ phát triển kinh tế: Thời Hậu Lê, kinh tế không chỉ nông nghiệp mà kinh tế công
nghiệp, thủ công nghiệp rất phát triển, nhất là lĩnh vực thương nghiệp (nội thương và ngoại
thương). Nhà Lê đã khai thác hiệu quả Bến Vân Đồn - là thương cảng để Đại Việt giao lưu với
các quốc gia khác: Cam Ly, Triều Tiên, Trung Hoa… → Với sự mở mang kinh tế, phát triển
như vậy đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật để thích ứng với sự phát triển kinh tế.
- Kế thừa các giá trị, chuẩn mực phong tục, tập quán. (Các giá trị, chuẩn mực phong tục, tập
quán đã có phù hợp với suy nghĩ, văn hóa, phù hợp với ý chí của giai cấp cầm quyền thì được
thể chế vào luật để trở thành một quy tắc mang tính bắt buộc).
- Tham khảo pháp luật các triều đại trước..
 Yếu tố bên ngoài:
- Ảnh hưởng triết lý chính trị (nhân trị và pháp trị) Trung Hoa.
- Tham khảo pháp luật Trung Hoa.

4. Cấu trúc Bộ luật Hồng Đức:


- Phần mở đầu BLHĐ gồm 2 nội dung: Biểu đồ tang chế và công cụ thực hiện hình phạt (đồ
hình cụ).
- BLHĐ có 722 điều được chia trong 6 quyển.
- Mỗi quyển có 2 chương (riêng Quyển 3 có 3 chương).
- Chương 1 Quyển 1 là Chương Danh lệ (tức được coi là phần chung).
- Các chương khác là những quy định tội phạm cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội.

II. Một số định chế cơ bản của Bộ luật Hồng Đức:


1. Chế định pháp luật hình sự:
a. Nguyên tắc luật hình.
- Là tư tưởng chỉ đạo trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự.

 Nguyên tắc vô luật bất hình:


- Cơ sở pháp lý: Điều 683, 685, 722.
- Nội dung: hành vi pháp luật không quy định thì không cấu thành tội phạm nên không phải
chịu hình phạt → có tinh thần nhân văn.
- Ví dụ:
 Điều 683: “Khi luận tội phải dẫn đủ chính văn và cách thức của luật lệnh, không được tự ý
thêm bớt tội…”.
 Điều 685: “Những sắc chế xử án của nhà vua có tính nhất thời, không phải là sắc lệnh vĩnh
viễn thì không được viện dẫn sắc lệnh ấy mà xử việc sau”.
Tức có 2 loại văn bản pháp luật: sắc lệnh có tính chất nhất thời (văn bản áp dụng pháp luật) và
sắc lệnh vĩnh viễn (văn bản pháp quy).
 Điều 722: “hình quan (quan tòa xử án) khi định tội danh, chiểu (viện dẫn) chính điều đã có
trong luật, không được tự ý thêm bớt…”. Mở rộng: Cái hay của Điều 722 ở chỗ: không chỉ
nhắc lại nguyên tắc vô luật bất hình đã được đề cập ở Điều 683, 685 mà Điều 722 là điều
cuối cùng của BLHĐ, dường như muốn nhắc lại lần nữa 721 điều kia có phát huy đúng giá
trị hiệu quả của nó hay không phụ thuộc rất lớn vào việc tuân thủ Điều 722 - nguyên tắc vô
luật bất hình.
→ Với nguyên tắc vô luật bất hình đặt tiền đề, nền tảng cho quy định trong Bộ luật hình sự hiện
hành ở nước ta, “chỉ người nào phạm một tội do Bộ luật này quy định thì mới phải chịu trách
nhiệm hình sự” (Điều 2 BLHS năm 2015).
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
 Nguyên tắc chiếu cố:
- Cơ sở pháp lý: Điều 3, 6, 17, 21, 22...
- Đối tượng:
+ Nhóm 1: Bát nghị (Bát là tám, nghị là xem xét, giảm nhẹ, tức là 8 đối tượng trước hết cần
xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trước khi xét xử phải được phép của vua và khi kết tội
phải tâu lên vua để vua định đoạt), gồm 8 loại người:
 Nghị thâm: họ hàng, tôn thất của nhà vua.
 Nghị cố: những bậc công thần, cố cựu.
 Nghị hiền: những người có đức hạnh lớn.
 Nghị năng: những người có tài năng lớn.
 Nghị công: những người có công lao lớn.
 Nghị quý: những người có chức tước lớn.
 Nghị cần: những người siêng năng, chăm chỉ, cần mẫn trong chức vụ.
 Nghị tôn: quốc khách, con cháu của triều đại trước.
Tuy nhiên, nếu đối tượng thuộc Bát nghị nhưng phạm vào những tội thập ác thì không được áp
dụng bát nghị.
+ Nhóm 2: Nhân thân người phạm tội để xem xét giảm nhẹ.

Tình trạng Thái độ Mức Phụ nữ Độ


sức khỏe, thành độ lỗi mang thai tuổi
tàn tật khẩn của hay nuôi
người con nhỏ
phạm tội

Lưu ý: Các nhóm đối tượng trên không được áp dụng nguyên tắc này khi phạm vào nhóm
“Thập ác tội”.

 Nguyên tắc xử lý nghiêm hành vi đồng phạm: bởi vì đồng phạm lúc nào cũng thực hiện với
lỗi cố ý, gồm 2 người trở lên và gây tổn thất cho xã hội nên cần xử lý nghiêm.
- Cơ sở pháp lý: Điều 35, 415, 418, 420, 426…
- Cá thể hóa trách nhiệm hình sự của từng người phạm tội trong vụ án đồng phạm:
+ Người chủ mưu: chịu trách nhiệm nặng nhất.
+ Người thực hành được giảm 1 bậc.
+ Những người khác tùy theo vai trò, mức độ tham gia mà có thể được giảm 1 bậc hay nhiều
hơn.

b. Tội phạm.
 Quan niệm:
- Là hành vi trái pháp luật. Xu hướng pháp luật nhà Hậu Lê là hình sự hóa nên “trái pháp luật”
ở đây không chỉ có nghĩa là trái với Bộ luật Hồng Đức mà còn có thể trái với các quy định PL
khác.
- Có lỗi. Có 2 loại lỗi: cố ý và vô ý (các điều 47, 49, 499…).
- Độ tuổi: từ trên 7 tuổi đến dưới 90 tuổi (Điều 16).
→ Đủ 3 dấu hiệu trên thì được xem là tội phạm.

 Các loại tội phạm:


- Có 2 nhóm tội phạm:
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
(1) Nhóm tội thập ác (Điều 2 và một số điều trong Chương 1 và 2):
- Bao gồm 10 loại trọng tội xâm phạm 3 khách thể quan trọng nhất, được nhà nước ưu tiên bảo
vệ:
+ 4 hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, chế độ chính trị cũng như uy tín, sức khỏe, tính mạng
của nhà vua và hoàng tộc (như: mưu phản, mưu bạn, mưu đại nghịch, đại bất kính).
+ 4 hành vi xâm phạm trật tự hôn nhân - gia đình (ác nghịch, bất hiếu, bất mục và nội loạn).
+ 2 hành vi xâm phạm đến tính mạng người khác hoặc lễ nghĩa Nho giáo (bất đạo và bất nghĩa).

(2) Nhóm tội phạm khác:


- Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm (Quyển 4).
- Các tội vi phạm nghĩa vụ quân sự (Quyển 1 và 2).
- Các tội xâm phạm sở hữu (Quyển 3 và 5).
- Các tội về tham nhũng (Quyển 3 và 5).
- Các tội xâm phạm nghĩa vụ trong quan hệ dân sự (Quyển 5).
- Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (Quyển 6).

 Đường lối xử lý tội phạm:


- Phạm tội liên quan đến chính trị thường bị áp dụng hình phạt tử hình.
- Phạm tội khác trong thập ác tội thường bị lưu đày hoặc tử hình.
- Hình phạt cho các tội ngoài thập ác tội thường dựa vào lỗi, hậu quả, độ tuổi hay các yếu tố
nhân thân khác.

c. Hình phạt.
- Hình phạt là chế tài phổ biến áp dụng cho mọi hành vi phạm tội.
- Một hành vi phạm tội có thể gánh chịu nhiều hình phạt khác nhau.
- Hình phạt được phân hóa cho từng trường hợp phạm tội như: đặc điểm nhân thân, loại tội,
giới tính, lỗi, hậu quả…
- Mục đích hình phạt đề cao tính trừng trị hơn tính giáo dục, phòng ngừa → Nhiều hình phạt có
tính nhục hình, dã man.
 Các loại hình phạt:
- Nhóm ngũ hình: xuy - trượng - đồ - lưu - tử.
- Nhóm hình phạt khác: phạt tiền, xăm chữ, giáng chức, tước vị…

2. Pháp luật dân sự:


a. Quyền sở hữu.
- Bao gồm 3 quyền: chiếm giữ, sử dụng và chuyển giao (các điều 352, 357, 444, 445, 574…).
- Mở rộng chủ thể quyền sở hữu đối với mọi thành phần dân cư. Nguyên nhân: Đối tượng
quyền sở hữu chủ yếu là đất đai - là tư liệu sản xuất quan trọng nhất trong xã hội thiên về nông
nghiệp. Không phải đến nhà Hậu Lê mới thừa nhận quyền tư hữu của người dân nhưng ở những
giai đoạn trước nhất là thời nhà Trần, mặc dù không cấm người dân quyền tư hữu nhưng chế độ
đất đai, điền trang thái ấp tích tụ hết trong tay giới thống trị, hoàng tộc, quan lại cho nên người
dân hầu như không có cơ hội tư hữu đất đai, đất đai tập trung vô hạn ở tầng lớp trên. Vua Lê
Thánh Tông đã thực hiện chế độ hạn điền: mỗi người trong xã hội ở địa vị khác nhau chỉ được
sở hữu tối đa số lượng ruộng đất nhất định, số lượng còn lại để tạo cơ hội cho những người dân
biết tích tụ, biết làm ăn sẽ được xác lập quyền tư hữu đối với đất đai → Điểm tiến bộ trong
chính sách đất đai của vua Lê Thánh Tông.
- Quy định cụ thể các căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu (các điều 316, 384, 387, 602, 606…)
và căn cứ chấm dứt quyền sở hữu (các điều 377, 379, 611, 631…).
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Quyền sở hữu được bảo vệ bằng: Pháp luật hình sự, pháp luật khế ước, pháp luật thừa kế.
→ Quyền sở hữu là vấn đề tuy không mới nhưng nhà Hậu Lê đã có nhiều cách làm mới tiến bộ
vượt bậc hơn. Nhờ vậy, pháp luật đã tạo tiền đề, bệ phóng để bảo vệ quyền tư hữu của người
dân và người dân yên tâm được xác lập quyền tư hữu trên cơ sở luật pháp, yên tâm sản xuất,
làm ăn.

b. Khế ước (Hợp đồng dân sự).


 Quan niệm:
- Khế ước là sự thỏa thuận giữa các bên về quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản.
- Để khế ước có giá trị pháp lý phải thỏa mãn 4 điều kiện:
+ Chủ thể: bên giao tài sản phải là chủ sở hữu (điều 342, 558, 579…).
+ Ý chí: 2 bên phải tự nguyện và trung thực (điều 191, 355, 377, 638…).
+ Nội dung khế ước: không trái pháp luật (điều 73, 74, 75, 76…).
+ Hình thức khế ước: phải phù hợp với pháp luật (điều 366).
 Nếu loại hợp đồng nào đó pháp luật không bắt buộc về mặt hình thức thì có thể thỏa thuận
bằng miệng (khẩu ước) hoặc văn bản (văn khế, văn tự).
 Nếu pháp luật bắt buộc phải lập bằng văn bản thì các bên phải tuân theo.
(Ở triều Hậu Lê có một đạo luật tên gọi là “Quốc triều thư khế thể thức” (cách thức để lập các
văn khế, hợp đồng), theo đó, những tài sản quan trọng như đất đai, nhà cửa, trâu bò… bắt
buộc phải lập bằng văn bản khi đem những tài sản đó giao kết, nếu không lập bằng văn bản
thì không xem đó là khế ước, không có giá trị pháp lý).
 Khi lập hợp đồng bằng văn bản:
(1) Các bên biết chữ tự lập hợp đồng.
(2) Một hoặc các bên không biết chữ phải nhờ xã trưởng lập giùm và làm chứng.
(3) Việc lập văn khế phải tuân theo mẫu chung.
(4) Đối với hợp đồng mua bán nhà ở, ruộng đất, nô tỳ phải được xã trưởng cho phép và chứng
nhận. Tại sao? Vì nhà làm luật thời Lê đã đưa ra hạn mức hạn điền, hạn nô.
Lưu ý: Bất kỳ một văn khế (mua bán, cho thuê, cho mượn…) theo “Quốc triều thư khế thể
thức”, sau khi đã thỏa thuận nội dung ở trên rồi, dòng cuối cùng các bên phải ghi: “Số ruộng
đất bán đứt này nguyên là của cải của riêng tôi. Nếu có gì man trá tôi xin chịu tội, không liên
quan gì đến bên mua”.

 Phân loại khế ước:


- Dựa vào hình thức: có 2 loại: khẩu ước và văn khế.
- Dựa vào nội dung: (tức quyền và nghĩa vụ):
+ Khế ước đoạn mại (mua đứt bán đoạn: sau khi mua bán xong thì các bên không còn mối liên
hệ nào cả).
+ Khế ước điển mại (bên bán bảo lưu quyền chuộc lại tài sản đã bán: khi bên mua muốn bán tài
sản thì bên bán được quyền mua lại tài sản đó).
+ Khế ước cho thuê, cho mượn, gửi giữ.
+ Khế ước vay.

 Một số nội dung về khế ước vay:


- Là loại khế ước phổ biến nhất nhưng rất dễ phát sinh tranh chấp.
- Quy định về mức lãi suất trần (điều 587):
+ Cấm cộng lãi chưa thanh toán vào vốn gốc → triệt tiêu tình trạng lời mẹ đẻ lời con, đẩy người
đi vay vào tình trạng khánh kiệt.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
+ Tổng lãi suất được nhận không vượt quá vốn vay (tức là 1 vốn 1 lời, triệt tiêu tình trạng 1 vốn
4 lời).
- Quy định về thời hạn vay (điều 588):
+ Không quy định thời hạn vay đối với động sản.
+ Quy định thời hạn vay có cầm cố ruộng đất do các bên thỏa thuận nhưng không quá 20 năm;
nếu các bên có quan hệ hôn nhân - huyết thống thì không quá 30 năm.
+ Nếu người nhận cầm cố có trồng lúa trên ruộng đất đó thì ngày trả lại ruộng đất là:
 Ngày thu hoạch xong mùa vụ.
 Không được kéo dài quá ngày 15/3 đối với vụ lúa mùa, và 15/9 đối với vụ lúa chiêm.

c. Thừa kế (Các điều từ 374 đến 400).


- Thừa kế là việc chia tài sản thuộc sở hữu của người chết cho người còn sống phù hợp với các
quy định của pháp luật.
- Trước khi chia di sản phải thanh toán các khoản:
+ Nợ người chết để lại.
+ Chi phí tang lễ.
+ Trích 1/20 làm di sản hương hỏa (thờ cúng tế tự hàng năm).
+ Di sản hương hỏa giao cho con trai, cháu trai giữ; nếu không có con trai, cháu trai thì giao
cho trưởng nữ giữ; nếu không có trưởng nữ, thứ nữ giữ thì giao cho trưởng tộc, trưởng họ giữ
thờ cúng tế tự hàng năm.
- Tính đến công sức đóng góp của những người có liên quan đến di sản:
+ Phu gia điền sản (cha mẹ chồng cho riêng chồng ít tài sản để lấy vợ, khi người chồng chết thì
cha mẹ chồng được hưởng một phần tài sản).
+ Thê gia điền sản (cha mẹ vợ cho riêng vợ ít tài sản để làm hồi môn, khi người vợ chết thì cha
mẹ vợ được hưởng một phần tài sản).
+ Tân tạo điền sản (chồng/vợ chết thì trong tài sản chung vợ/chồng phải được phần).
- Nếu có di chúc thì chia theo di chúc; nếu không có thì cha, mẹ, vợ, chồng, con luôn được ưu
tiên chia trước.
- Bảo đảm sự bình đẳng nam nữ (vợ chồng, con trai con gái…) trong việc chia di sản (quy định
tại điều 388).

3. Pháp luật về hôn nhân - gia đình:


a. Pháp luật về quan hệ hôn nhân.
 Kết hôn:
(1) Về điều kiện kết hôn:
- Điều kiện 1: Phải có sự đồng ý của hai bên cha mẹ (người trưởng họ hoặc trưởng làng).
+ Nam, nữ không được tự ý kết hôn với nhau mà phải xin phép cha mẹ.
+ Cha mẹ đóng vai trò là người chủ hôn.
Nguyên nhân: Quan điểm này xuất phát từ Nho giáo: hôn nhân là một loại quan hệ phải xuất
phát từ quyền lợi của gia đình, dòng họ để kế thừa dòng dõi nên hôn nhân không phải là sự tự
do lựa chọn của các bên đương sự mà phải đặt trong sự quyết định của người gia trưởng.
 Điều 314 Quốc triều hình luật: Người kết hôn mà không đủ sính lễ đến nhà cha mẹ (người
con gái) (nếu cha mẹ chết cả, thì đem đến nhà người trưởng họ hay nhà người trưởng làng)
để xin, mà thành hôn với nhau một cách cẩu thả thì phải biếm một tư và theo lệ sang hèn…,
người con gái phải bị phạt 50 roi.
→ Nhận xét: Quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ không được xác lập trên cơ sở tự nguyện mà
phải trên cơ sở sự đồng ý của hai bên cha mẹ. Điều này đã phản ảnh rõ đặc trưng của xã hội
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
phong kiến bấy giờ. Quy định này thể hiện sự hạn chế của pháp luật nhà Lê trong việc quy định
về điều kiện kết hôn vì đã tước bỏ sự tự nguyện của hai bên nam nữ trong việc kết hôn.
- Điều kiện 2: Nam, nữ phải đạt độ tuổi theo quy định pháp luật.
+ Quốc triều hình luật không quy định về độ tuổi kết hôn, việc quy định về độ tuổi kết hôn
được quy định trong Thiên Nam dư hạ tập.
+ Thiên Nam dư hạ tập quy định: “Con trai từ 18 tuổi, con gái từ 16 tuổi mới có thể thành hôn,
ngoài ra bản thân hoặc người chủ hôn (là cha mẹ hoặc người trưởng tộc) phải không có tang”.
→ Nhận xét: Quy định này của pháp luật nhà Lê thể hiện sự tiến bộ, ở chỗ giúp hạn chế tình
trạng phổ biến lúc bấy giờ là phong tục tảo hôn, ngoài ra, việc quy định về độ tuổi kết hôn như
thế này giúp các chủ thể có đầy đủ năng lực để tự nuôi sống bản thân, đủ trưởng thành để xây
dựng cuộc sống hôn nhân, gia đình sau này.
- Điều kiện 3: Không vi phạm vào những trường hợp cấm kết hôn theo quy định PL (Điều 316,
317, 318, 319, 323, 334, 338, 339 Quốc triều hình luật).
+ Cấm kết hôn giữa những người thân thích.
 Điều 319: “Người vô lại lấy cô, dì, chị em gái, kế nữ (con gái riêng của vợ), người thân thích,
đều phỏng theo luật gian dâm mà trị tội”.
+ Cấm kết hôn khi đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng.
 Điều 317: “Ai đang để tang cha mẹ hoặc tang chồng mà cưới gả thì xử tội đồ. Biết mà vẫn
kết hôn thì biếm ba tư và phải chia lìa” → Có 2 trường hợp: TH1: con cái (con trai và con
gái) đang có tang cha mẹ thì không được kết hôn, thể hiện tư tưởng đạo hiếu của con cái đối
với cha mẹ; TH2: phụ nữ đang có tang chồng, không thấy có quy định ngược lại là đàn ông
đang có tang vợ thì không được kết hôn, điều này thể hiện người phụ nữ trong xã hội phong
kiến chịu khắt khe trong vấn đề kết hôn. Như vậy, quy định này thể hiện sự hạn chế trong
pháp luật về hôn nhân gia đình của nhà Lê, bị ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng Nho giáo nên
không bảo vệ lợi ích của người phụ nữ.
+ Cấm kết hôn khi ông, bà, cha, mẹ đang chấp hành hình phạt.
 Điều 318: “Trong khi ông bà, cha mẹ bị giam cầm tù tội, mà lấy vợ lấy chồng thì đều xử
biếm ba tư và đôi vợ chồng phải ly dị. Nếu ông bà, cha mẹ có cho phép thì chỉ được làm lễ
thành hôn mà không được bày cỗ bàn ăn uống, trái luật thì xử biếm một tư”.
+ Cấm kết hôn trong trường hợp có thể ảnh hưởng đến chính trị.
 Điều 316: “Các quan ty ở trấn ngoài mà lấy đàn bà ở trong hạt mình, thì xử phạt 70 trượng,
biếm ba tư và bãi chức”.
 Điều 334: “Các quan ty mà cùng với những người tù trưởng ở nơi biên trấn kết làm thông gia,
thì phải tội đồ hay lưu và phải ly dị…” → Nhằm tránh tình trạng bè phái giữa các quan lại
với tù trưởng ở nơi biên trấn tạo nên uy thế ở địa phương và âm mưu lật đổ chính quyền, gây
nên tình trạng phân quyền, cát cứ. Quan hệ hôn nhân đã bị ảnh hưởng bởi màu sắc chính trị.
Thể hiện bản chất giai cấp của pháp luật.
+ Cấm kết hôn trong trường hợp ức hiếp người phụ nữ.
 Điều 338: “Những nhà quyền thế mà ức hiếp để lấy con gái lương dân, thì xử tội phạt biếm
hay đồ” → Quy định này tiến bộ, nhằm hạn chế tình trạng người giàu có, quyền thế trong xã
hội phong kiến ức hiếp lấy phụ nữ trái với ý chí của họ.
+ Cấm kết hôn trong trường hợp có thể ảnh hưởng đến luân thường đạo lý.
 Điều 324: “Là anh, là em, là học trò mà lấy vợ của em, của anh, của thầy học trò đã chết, đều
xử tội lưu, người đàn bà xử giảm một bậc; đều phải ly dị”.
+ Cấm kết hôn trong trường hợp có thể ảnh hưởng đến trật tự xã hội.
 Điều 339: “Những người mối lái đem đàn bà, con gái có tội đương trốn tránh, làm mối cho
người ta làm vợ cả, vợ lẽ thì xử tội nhẹ hơn của chính người đàn bà ấy một bậc; người không
biết thì không phải tội” → Khắt khe đối với người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
 Điều 323: “Các quan và thuộc lại lấy đàn bà con gái hát xướng làm vợ cả, vợ lẽ, đều xử phạt
70 trượng, biếm ba tư; con cháu các quan viên mà lấy những người phụ nữ nói trên thì xử 60
trượng; và đều phải ly dị” → Xã hội phong kiến đề cao trật tự đẳng cấp.

(2) Thủ tục kết hôn:


- Theo Quốc triều hình luật quy định trách nhiệm pháp lý ở hai bước:
+ Bước 1: Lễ đính hôn.
+ Bước 2: Lễ thành hôn.
- Theo Thiên Nam dư hạ tập quy định thủ tục kết hôn cụ thể hơn, bao gồm 4 bước: Lễ nghị hôn,
Lễ định thân (Lễ vấn danh, ra mắt), Lễ nạp trưng (Lễ dẫn đồ cưới, Lễ đính hôn), Lễ nghênh
thân (Lễ đón dâu, thành hôn).

 Lễ đính hôn:
- Hôn nhân có giá trị pháp lý kể từ khi hoàn thành bước đính hôn: Nhà gái nhận đồ sính lễ của
nhà trai.
→ Thể hiện tính chất long trọng của việc hứa hôn.
→ Phù hợp với phong tục, tập quán.
- Không được “từ hôn”:
+ Về nguyên tắc, không được quyền từ hôn (cả nhà trai và nhà gái).
+ Được quyền “từ hôn” trong một số trường hợp do pháp luật quy định.
 Điều 322: “Con gái hứa gả chồng mà chưa thành hôn, nếu người con trai bị ác tật hay phạm
tội hoặc phá tán gia sản thì cho phép người con gái được kêu quan mà trả đồ lễ. Nếu người
con gái bị ác tật hay phạm tội thì không phải trả đồ lễ, trái luật thì xử phạt 80 trượng”.
→ Ở chừng mực nhất định, pháp luật đã có sự bảo vệ người phụ nữ trong quan hệ hôn nhân.

 Lễ thành hôn:
- Lễ thành hôn được tiến hành sau lễ đính hôn.
- Hôn nhân có giá trị thực tế sau lễ thành hôn.
→ Hai bên nam và nữ được về sống chung với nhau.

 Ly hôn:
- Pháp luật cho phép chấm dứt hôn nhân bằng hình thức ly hôn trong những trường hợp sau đây:
+ Ly hôn do lỗi của vợ.
+ Ly hôn do lỗi của chồng.
+ Thuận tình ly hôn.

(1) Ly hôn do lỗi của vợ:


- Pháp luật bắt buộc người chồng phải ly hôn vợ khi người vợ có lỗi (“bắt buộc” nghĩa là đây
là một nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nhà Lê, nếu người chồng không thực hiện nghĩa vụ
này thì người chồng được xem là có tội) (Điều 310 Quốc triều hình luật).
 Điều 310: “Vợ cả, vợ lẽ phạm phải điều nghĩa tuyệt (như thất xuất) mà người chồng chịu
giấu không bỏ thì xử biếm, tùy theo việc nặng nhẹ”.
 Đàn bà có bảy điều phải ly dị (Đoạn 164 Hồng Đức thiện chính thư):
+ Một là, không có con (không có con là bất hiếu với cha mẹ, cớ ấy phải bỏ).
+ Hai là, ghen tuông (không bỏ thì bại hoại gia đạo).
+ Ba là, ác tật (vì khi việc tế tự người vợ không làm được xôi hay cỗ).
+ Bốn là, dâm đãng (không bỏ thì bại hoại gia đình).
+ Năm là, không kính cha mẹ.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
+ Sáu là, không hòa thuận với anh em (lắm lời).
+ Bảy là, phạm tội trộm cắp.
→ Pháp luật nhà Lê đặt quyền lợi gia đình lên trên hết hơn cả quan hệ hôn nhân, vì vậy, khi
người phụ nữ rơi vào những trường hợp trên thì bị xem là nghĩa tuyệt, buộc người chồng phải
có nghĩa vụ ly hôn.
- Người chồng không thể bỏ vợ khi vợ thuộc trường hợp “Tam bất khứ” (Đoạn 165 Hồng Đức
thiện chính thư):
+ Một là, người vợ đã chịu tang cha mẹ (chồng).
+ Hai là, lúc lấy nhau nghèo hèn, sau trở nên giàu sang.
+ Ba là, lúc lấy có cha mẹ, mà sau (nếu bị bỏ) thì không nơi nương tựa.
→ Pháp luật nhà Lê khắt khe với người phụ nữ nhưng trong chừng mực nhất định đã bảo vệ
quyền lợi người phụ nữ.

(2) Ly hôn do lỗi của chồng:


- Người vợ có quyền ly hôn khi người chồng có lỗi trong những trường hợp (“có quyền” nghĩa
là người vợ không bắt buộc phải ly hôn):
+ Bỏ lửng vợ không đi lại (vi phạm nghĩa vụ đồng cư) (Điều 308).
+ Mắng nhiếc cha mẹ vợ phi lý (Điều 333).
 Điều 308: “Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (vợ được trình quan sở tại và xã
quan làm chứng) thì mất vợ. Nếu vợ đã có con, thì cho hạn một năm. Vì việc quan phải đi xa
thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ mà lại ngăn cản người khác lấy vợ cũ thì phải tội
biếm”.
 Điều 333: “… Nếu con rể lấy chuyện phi lý mà mắng nhiếc cha mẹ vợ, đem việc thưa quan
sẽ cho ly dị”.

(3) Thuận tình ly hôn:


 Đoạn 167 Hồng Đức thiện chính thư: “Hai vợ chồng bất hòa thuận nguyện xin ly dị, thì tờ ly
hôn phải tay viết tay ký. Tờ hợp đồng (ly hôn) ấy phải làm thành hai bản, vợ chồng mỗi
người cầm một bản, rồi mỗi người phân chia một nơi… Ngoài ra kể đến sự chia nhau đồng
tiền, chiếc đũa, cùng là người ngoài viết hộ ly hôn thư, mà lời lẽ không hợp phép, đều cho tờ
ly hôn thư ấy vô hiệu, lại bắt phải đoàn tụ làm vợ chồng”.

b. Pháp luật về quan hệ gia đình.


 Quan hệ giữa vợ và chồng:
 Quan hệ giữa cha mẹ và con cái:
(đọc thêm giáo trình)
- Đặc trưng cơ bản:
+ Đề cao quyền lợi của người gia trưởng.
+ Bảo vệ hai mối quan hệ giường cột theo quan niệm Nho giáo: cha - con, chồng - vợ: Người
vợ có rất nhiều nghĩa vụ đối với chồng và gia đình chồng; Con cái phải tuyệt đối phục tùng cha
mẹ.

→ Nhận xét chung về chế độ hôn nhân và gia đình theo pháp luật Lê sơ:
- Thừa nhận chế độ hôn nhân gia đình gia trưởng, phụ hệ.
- Chịu ảnh hưởng nặng nề của học thuyết Nho giáo: Bảo vệ tuyệt đối mối quan hệ giữa cha -
con, chồng - vợ.
- Vẫn bảo vệ quyền của người phụ nữ (người vợ) ở một chừng mực nhất định.
- Thể hiện đạo lý truyền thống dân tộc.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

CHƯƠNG 8: TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VIỆT NAM


THỜI KỲ NHÀ NGUYỄN (1802 - 1884)
I. Lược sử triều đại:
- Thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ (1802 - 1884):
+ Gia Long (1802 - 1819).
+ Minh Mạng (1820 - 1840).
+ Thiệu Trị (1841 - 1847).
+ Tự Đức (1848 - 1883).
+ Dục Đức (16 - 19/6/1883).
+ Hiệp Hòa (6/1883 - 11/1883).
+ Kiến Phúc (12/1883 - 8/1884).
- Thời kỳ thuộc địa nửa phong kiến (1884 - 1945): thực dân Pháp nhúng tay sâu vào hoạt
động tổ chức bộ máy nhà nước của Việt Nam.

 Hoàn cảnh ra đời:


Nhà Nguyễn ra đời nhờ công lao của Nguyễn Ánh.
- Thời kỳ hậu nội chiến phân liệt triền miên. Tại sao? Trước thời nhà Nguyễn ra đời, đất nước
bị chia cắt thành 2 vùng: Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đàng Trong là sự quản lý của chúa
Nguyễn; Đàng Ngoài là sự cai quản của vua Lê - chúa Trịnh. Xuất hiện tình trạng Nam Bắc
triều, nội chiến phân liệt giữa nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh tạo nên hoàn cảnh chiến tranh loạn
lạc.
- Hệ thống hành chính không chặt chẽ, thiếu thống nhất từ trung ương đến cơ sở, địa phương
cục bộ và phân tán (làng xã). Tại sao? Bởi lẽ nhà Nguyễn ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh,
loạn lạc nên các địa phương từ bắc xuống nam bị phân tán.
- Tình trạng bất ổn và chống đối:
+ Đàng Ngoài - Bắc Hà: ổn định hơn trong xu thế trì trệ, bùng nhùng trong hoàng hôn của một
thời thịnh trị vào buổi đầu thời Lê sơ (thế kỷ XV). Tại sao? Đàng Ngoài có lịch sử ngàn năm
văn hiến, trước đây các triều đại phong kiến đã thiết lập nên nền quân chủ của mình nên tạo
trạng thái ổn định hơn nhưng các sĩ phu ở Bắc Hà không ủng hộ cho nhà Tây Sơn, từ đó tạo nên
tình trạng trì trệ, bùng nhùng.
+ Đàng Trong - Nam Hà: hội tụ cư dân thuộc nhiều sắc tộc (người Việt, Mãn Thanh, Chăm và
dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên…) là chỗ dựa cơ bản của chúa Nguyễn Phúc Ánh (đặc biệt
vùng Gia Định). Tại sao? Đây là vùng đất quần cư của dân ô hợp (có nhiều nguồn gốc khác
nhau nhập cư vào) nên có xu hướng “gió chiều nào theo chiều ấy”, không có nền văn hiến như
Đàng Ngoài.
+ Phú Xuân: Nguyễn Ánh lên ngôi chọn nơi này làm đất định đô.
Tại sao Gia Long (Nguyễn Ánh) không đặt kinh đô của nhà Nguyễn ở thành Thăng Long - kinh
đô muôn đời của các triều đại phong kiến trước đây hoặc ở Gia Định - vùng đất nền tảng, cơ sở
của nhà Nguyễn, đặc biệt là Nguyễn Ánh khi đánh nhà Tây Sơn mà lại chọn ở Phú Xuân? Vì
đây là vùng đất nằm ở giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài, vùng đất Phú Xuân này là đất tổ của
nhà Nguyễn, vì các chúa Nguyễn đầu tiên đã thiết lập chính quyền ở Phú Xuân, vùng đất Thuận
Hóa. Không chọn Thăng Long vì người dân ở Đàng Ngoài trong những buổi đầu chưa thực sự
ủng hộ cho nhà Nguyễn mà vẫn ủng hộ nhà Tây Sơn. Không chọn Gia Định vì tình trạng bất ổn,
tập hợp dân cư ô hợp nên không phù hợp để chọn làm đất định đô.
+ Đối ngoại: Nhà Thanh vẫn theo truyền thống cho mình là Thiên triều, phải “cầu phong” để
thừa nhận tính chính thống của vương triều (Khi Nguyễn Ánh lên ngôi phải “cầu phong”, cử sứ
thần sang Trung Quốc để xin nhà Thanh công nhận quốc hiệu, cuối cùng nhà Thanh công nhận
quốc hiệu cho nước ta là Việt Nam).
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
+ Phía tây: Vạn Tượng (Lào), Chân Lạp (Miên) không ổn định, có vấn đề về biên cương lãnh
thổ phải dàn xếp.
+ Phương Tây (Pháp): Nguyễn Ánh cần trả nợ “ân tình” trong xu hướng bành trướng của tư bản
phương Tây. Tại sao? Khi Nguyễn Ánh còn “nằm gai nếm mật” chống nhà Tây Sơn, có nhờ
cậy đến lực lượng quân Pháp và Pháp đã giúp đỡ để đánh bại nhà Tây Sơn → Việc đối ngoại
với Pháp là một bài toán khó đối với vua Gia Long (Nguyễn Ánh) khi lên ngôi.
- Lãnh thổ quốc gia rộng, phức tạp.

II. Tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương:


 Nguyên tắc tổ chức: “tôn quân quyền” của Ngo giáo được áp dụng triệt để.
- Hoàng đế:
+ Vẫn nắm trong tay vương quyền và thần quyền nhưng quyền lực đạt đến mức “độc tôn đế
quyền”. Giải thích: Ở thời kỳ Lê sơ, các vị vua, đặc biệt là vua Lê Thánh Tông thì quyền lực
tập trung tuyệt đối vào tay vua. Tuy nhiên chưa thấy thuật ngữ “độc tôn đế quyền”. So với thời
kỳ Lê sơ, nhà Nguyễn có những biện pháp tương đối cực đoan để bảo vệ quyền lực của vua, thể
hiện qua việc đặt lệ “Tứ bất”.
+ Đặt lệ “Tứ bất”: nhằm hạn chế phân chia quyền lực: Không lập Tể tướng, Hoàng hậu (trừ Gia
Long, Bảo Đại), Thái tử, Trạng nguyên.

- Hội đồng đình thần:


Chức năng: tư vấn tối cao, ra quyết nghị về vấn đề được giao chủ
Thời Gia Long
yếu trong lĩnh vực tư pháp xét xử, giải quyết công việc liên ngành.
Chức năng: tư vấn tối cao, kiến nghị về vấn đề chính trị, hành chính
Thời Minh Mạng
và tư pháp.
→ Nhận xét: Chức năng, vai trò của Hội đồng đình thần ở giai đoạn đầu, đặc biệt là thời vua
Gia Long, có quyền lực rất lớn trong việc tư vấn, cố vấn cho nhà vua. Tuy nhiên đến thời Minh
Mạng, quyền lcự tập trung tuyệt đối vào tay vua thì Hội đồng đình thần không còn nhiều chức
năng, vai trò như thời kỳ đầu nữa. Quyền lực càng về sau càng tập trung tuyệt đối vào tay vua,
hạn chế sự cố vấn của Hội đồng đình thần.

- Quan đại thần:


+ Tứ trụ đại thần: Cần chánh điện đại học sỹ, Văn minh điện đại học sỹ, Đông các đại học sỹ,
Võ hiển điện đại học sỹ → Tứ trụ đại thần này thay thế cho chức quan đại thần thời Lê sơ trước
đây.
+ Cửu khanh: đứng đầu triều đình đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Hoàng đế. Trong đội ngũ
9 viên quan thì có 6 viên quan thượng thư đứng đầu các bộ.
+ Phụ chính đại thần (Tự Đức): ngang với quan Tể tướng đã có trước triều Nguyễn.

- Các cơ quan trực thuộc Hoàng đế:


+ Nội các:
Thành lập dưới thời vua Minh Mạng (1829).
Chức năng: cơ quan văn phòng trung ương, trung tâm điều hành chính sự, tổng hợp thông tin,
nắm bắt tình hình ngang với quan Tể tướng đã có trước triều Nguyễn, khống chế và giám sát
lục bộ.
Quan lại: 2 chánh tam phẩm và 2 chánh tứ phẩm, đứng sau Thượng thư 6 bộ.
Tại sao thời vua Gia Long không thành lập nội các mà đến thời vua Minh Mạng mới thành lập
Nội các? Có thể lý giải vì khi vua Minh Mạng lên ngôi tiến hành cải cách ở địa phương, xóa bỏ
chính quyền cấp thành, dẫn đến công việc dồn lên trung ương, trung ương phải giải quyết nhiều
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
vấn đề ở cả trung ương và địa phương, do vậy nên thành lập thêm cơ quan Nội các để giải
quyết công việc, tập trung thêm quyền lực cho trung ương.
+ Cơ mật viện:
Thành lập dưới thời vua Minh Mạng (1834), gồm 2 ban: Nam, Bắc chương kinh (Nam, Bắc ty).
Chức năng: cơ quan tư vấn tối cao về quân sự, an ninh chính trị, phát triển kinh tế, dân sinh cho
Hoàng đế; giám sát công việc của triều đình; trực tiếp soạn thảo các văn bản đặc biệt liên quan
đến vận mệnh của triều đình, là nơi bảo quản các quốc bảo, các tài liệu mật, các bản đồ quốc
gia, hàng quốc cấm.
Quan lại: 4 vị “Cơ mật đại thần”.
Mục đích của việc thiết lập nên Cơ mật viện: tương tự như Nội các: để nhà vua có thêm cơ
quan để quản lý ở địa phương khi thực hiện việc bãi bỏ cấp thành (Gia định thành và Bắc thành)
để đẩy công việc của địa phương lên trung ương, từ đó trung ương có thêm nhiều công việc để
quản lý ở địa phương.

- Lục Bộ:
Lục Bộ đã được thiết lập dưới thời kỳ Lê sơ, thời Lý - Trần - Hồ đã có nhưng chưa đủ 6 bộ.
Nhà Nguyễn tiếp tục kế thừa thiết chế này.
Phụ trách việc tuyển bổ, thuyên chuyển quan Tổ chức:
Bộ Lại văn, phong tước, phong tặng, giữ phép khảo sát - Văn phòng Bộ: gồm có
niên khóa; thăng thưởng phẩm trật và quan hàm. 2 bộ phận Ấn ty và Trực
Cân bằng giá trong việc phát ra, thu vào để điều ty.
Bộ Hộ hòa nguồn của cải nhà nước, phụ trách kho tàng, - Các ty trực thuộc.
đinh điền, thuế khóa, tiền tệ, hàng hóa. Vị trí thẩm quyền: cơ
Phụ trách lễ nghi, triều hội, giáo dục, khoa cử, quan chấp hành của triều
Bộ Lễ
ngoại giao. đình trung ương đặt dưới
Phụ trách việc bổ nhiệm, tuyển dụng các chức võ quyền điều khiển trực tiếp
Bộ Binh quan; tuyển mộ binh lính, điều quân, lập đồn; tra của Hoàng đế.
xét công, tội; lập sổ quân bạ.
Phụ trách tư pháp, xét xử tội nặng (tử tội), phúc
Bộ Hình thẩm các nghi án, xếp đặt lao ngục, chế độ tù
phạm.
Coi giữ thợ thuyền, xây dựng thành trì, lăng tẩm,
Bộ Công đồn lũy cầu đường, đóng tàu thuyền, sửa chữa
cung điện, kho tàng.

→ Nhận xét: Về Lục Bộ, nhà Nguyễn có tiến bộ hơn so với các triều đại trước đây:
- Thực hiện chức năng chấp hành và tư vấn cho Hoàng đế.
- Bộ được tổ chức hoàn thiện hơn, mỗi bộ có nhiều cơ quan chuyên môn giúp việc hơn.
- Giữa các Bộ thực hiện chính sách “lục bộ tương thông” (các bộ hỗ trợ, tương tác lẫn nhau để
đạt hiệu quả quản lý).

- Các cơ quan chuyên môn:


+ Tư pháp giám sát:
+ Văn hóa giáo dục.
+ Giao thông liên lạc.
+ Kho bãi.
+ Cơ quan khác.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
 Cơ quan giám sát:
Cơ quan giám sát trung ương và địa phương

Đô sát viện
Là cơ quan ngang Bộ. Nhiệm vụ: giám sát hoạt động
thực thi pháp luật và giám sát tư pháp, xem xét tư cách,
phẩm chất của quan chức nhà nước từ trung ương
xuống địa phương. Cùng với Bộ Hình và Đại lý tự xét
xử phúc thẩm các vụ án có tranh chấp về chứng cứ.

Ở thời Lê sơ, cơ quan có chức năng giám sát tối cao ở trung ương và địa phương là Ngự sử đài,
đến thời nhà Nguyễn được thay bằng Đô sát viện, chức năng tương tự như Ngự sử đài trước đây
ở thời Lê sơ.
Quyền đàn hặc: tố cáo, buộc tội quan chức.
Quyền can gián, tấu trình, nghe chính sự, ghi chép lời nói của Vua.
Đô sát viện
Quyền kiểm tra các Bộ và các hoạt động tế tự, thiết triều, ngoại giao, thi cử.
Quyền phúc duyệt các bản án trước khi trình lên Vua.

 Cơ chế giám sát:


Thường xuyên, ổn định
Đô sát viện
Trung ương, địa phương
Vua
Lâm thời, bất thường
Kinh lược sứ
Địa phương

Kinh lược sứ: vua cắt cử những viên thanh tra để đi giám sát ở địa phương khi có thiên tai, tình
huống bất thường xảy ra.

 Cơ quan giám sát:


Lại khoa Bộ Lại, Hàn lâm viện
Hộ khoa Bộ Hộ, Phủ Nội vụ, Tào chính ty, Thương trường
Lục Hình khoa Bộ Hình, Đại lý tự
khoa Lễ khoa Bộ Lễ, Thái thường tự, Quang lộc tự, Hồng lô tự, Quốc tử giám,
Khâm thiên giám
Công khoa Bộ Công, Vũ khố, Mộc thương
Binh khoa Bộ Binh, Thái Bộc tự, Kinh thành đê đốc, 2 kho vũ khí và thuốc súng
Lục khoa đã được thiết lập dưới thời kỳ Lê sơ, giám sát hoạt động của Lục bộ.

 Cơ quan tư pháp:
- Trung ương:
+ Bộ Hình: duyệt lại những tội nặng, án ngờ, xét kỹ những tù giam ngục cấm.
+ Công đồng: Là cơ quan phúc thẩm tối cao dưới quyền của Hoàng đế.
- Địa phương:
+ Kinh đô:
 Đại lý tự xét xử tối cao.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
 Tam pháp ty.
+ Các tỉnh:
 Án sát: coi việc hình án.
+ Phủ, huyện - châu:
 Quan đứng đầu đơn vị hành chính.
→ Cơ quan có chức năng tư pháp (xét xử) được thiết kế khá đồng bộ từ trung ương xuống địa
phương.

 Cơ quan chuyên môn: (tham khảo giáo trình)

III. Tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương:


1. Từ năm 1802 - 1830: (giai đoạn vua Gia Long lên ngôi và 10 năm đầu vua Minh Mạng lên
ngôi)
- Áp dụng nguyên tắc “trung ương tản quyền” và mô hình “quân quản”. (Mô hình “quân quản”
đã được áp dụng ở thời kỳ đầu Lê sơ, thời kỳ Ngô - Đinh - Tiền Lê, đều ra đời trong thời kỳ
chiến tranh loạn lạc nên thiết kế mô hình tổ chức BMNN nhà nước mang tính chất “quân quản”
- tức là có những đơn vị hành chính lãnh thổ đồng thời là đơn vị quân đội).
- Nguyên nhân:
+ Mô hình “tạm thời” để khắc phục dần tình trạng thiếu thống nhất và phức tạp giữa các vùng
miền.
+ Thời kỳ quá độ để xây dựng một mô hình hành chính thống nhất từ trung ương đến địa
phương.
→ Rõ ràng chính quyền “trung ương tản quyền” và mô hình “quân quản” không phải là cách
thức tổ chức BMNN hiệu quả và tập trung tuyệt đối quyền lực vào tay vua.

 Cấp thành:
- Cấp cao nhất ở địa phương thời kỳ này là cấp Thành:
Bắc thành Gia Định thành
Năm 1802 1808
3 Tổng trấn 7 Tổng trấn
Có sắc ấn riêng, trực tiếp điều khiển, kiểm soát các trấn trực thuộc.
Đứng đầu → Việc có sắc ấn riêng làm quyền lực của Tổng trấn rất lớn, giống như những
vị vua nhỏ trong lãnh thổ của mình. Đặc biệt, Tổng trấn thống lĩnh quân đội ở
cấp thành.
Lập Hộ, Binh, Hình tào giúp việc Tổng trấn (Bộ, Binh và Hình là 3 lĩnh vực
thuộc Lục bộ, có sự tương ứng về quản lý ở cấp trung ương và địa phương: ở
Tổ chức
trung ương có bộ Hộ, Binh, Hình thì ở trung ương có Hộ tào, Binh tào, Hình
tào.
- Thành tồn tại trong 30 năm đầu vương triều Nguyễn chỉ là một khâu trung gian đặt tạm thời
nối liền triều đình với trấn dinh trong khi bộ máy trung ương chưa đủ mạnh để trực tiếp nắm
đến tất cả các đơn vị ở cấp thứ hai trong toàn quốc.
- Về hình thức và quy mô: vừa mang dáng dấp của một triều đình thu nhỏ vừa mang tính chất
của trấn dinh phóng đại. Giải thích: Mang dáng dấp của một triều đình thu nhỏ ở chỗ Tổng trấn
là người đứng đầu cấp thành có sắc ấn riêng, thống lĩnh về mặt quân đội ở cấp thành, như vậy
chứng tỏ quyền lực của trung ương ở địa phương chưa với tay đến được, quyền lực của trung
ương bị chia sẻ cho cấp thành rất lớn và làm cho Tổng trấn có quyền lực rất lớn ở cấp thành.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
- Về chức năng: thành được nhà vua trao quyền theo thế triều định giải quyết việc quân dân, đối
nội, đối ngoại theo chủ trương chung thực chất là một biện pháp tình thế buộc nhà nước quân
chủ phải chấp nhận tạm thời một thứ phân quyền.
- Là biện pháp tạm thời, lần lượt bị xóa bỏ vào các năm 1831 - 1832.

 Cấp trấn - dinh:


Tổ chức Trấn phía Bắc Trấn phía Nam
Đứng đầu Trấn thủ (quan võ) Lưu thủ (quan võ)
Giúp việc Hiệp trấn, Tham hiệp Cai bạ, Ký lục
Tả thừa: Lại, Binh, Hình
Các ty
Hữu thừa: Hộ, Lễ, Công
→ Nhận xét:
- Ở cấp thành, Tổng trấn thống lĩnh về quân đội; ở cấp trấn - dinh, đứng đầu là quan võ → Thể
hiện tính chất hành chính quân sự, hành chính quân quản trong tổ chức bộ máy nhà nước ở địa
phương.
- Có sự thống nhất trong việc quản lý từ trung ương xuống địa phương: ở trung ương có bộ Lại,
Binh, Hình, Hộ, Lễ, Công thì ở cấp trấn - dinh có 6 ty như thế.

 Cấp phủ - huyện - châu:


Tổ chức Phủ Huyện Châu
Đứng đầu Tri phủ Tri huyện Tri châu
Xét xử các vụ kiện xảy ra trên địa bàn, quản lý làng xã, giáo hóa
Thẩm quyền
dân chúng, giữ gìn an ninh, trật tự.

 Cấp tổng - xã:


Tổ chức Tổng Xã
Tổng trưởng (Cai tổng) do quan phủ Xã trưởng (do dân bầu).
huyện giới thiệu tâu Bộ Lại, Vua cấp → tương tự như thời kỳ Lê sơ
văn bằng Cai tổng.
Thẩm quyền Quản lý việc thu thuế và trật tự trị an.

→ Nhận xét chung về tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương giai đoạn 1802 – 1830
(trong 30 năm đầu thời kỳ nhà Nguyễn), đặc biệt là cấp thành:
- Bộ máy hành chính các cấp nối liền giữa triều đình và cơ sở đã từ tình trạng không thống nhất
đến từng bước được củng cố, tương đối chặt chẽ, đảm bảo dần hiệu lực quản lý lãnh thổ và dân
cư trong bối cảnh lịch sử nhiều khó khăn về đối nội, đối ngoại.
- Là sản phẩm của thời kỳ quá độ cần thiết, là một sáng tạo của vương triều Nguyễn nhằm vượt
qua được những khó khăn ban đầu.

2. Từ năm 1831 - 1884: (giai đoạn từ sau cải cách của vua Minh Mạng)
- Nội dung cải cách:
+ Bãi bỏ cấp thành. Giải thích: Cấp thành là sản phẩm của thời kỳ quá độ, thời kỳ khó khăn ban
đầu, nay đã ổn định hơn thì phải bỏ cấp thành vì nó là cấp trung gian có quyền lực quá lớn, thao
túng quyền lực của trung ương khi quản lý ở địa phương, việc bãi bỏ cấp thành là chuyện sớm
muộn sẽ xảy ra.
+ Tổ chức bộ máy hành chính thống nhất, gọn nhẹ.
+ Phân công, phân nhiệm rõ ràng chức năng, nhiệm vụ.
+ Tăng cường kiểm tra, giám sát cấp hành chính cơ sở.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

 Cấp tỉnh:
- Cấp cao nhất ở chính quyền địa phương.
- Cả nước chia thành 30 tỉnh và 1 phủ.
- Đứng đầu: Tổng đốc.
- Giúp việc là: Tuần phủ, Bố chính, Án sát, Lãnh binh.
- Có sự phân công chức năng rõ ràng giữa các chức quan.

 Cấp phủ - huyện - châu:


Tổ chức Phủ Huyện (Châu) Châu
Tri phủ (5b), Tri huyện, Tri châu.
Đứng đầu
Đồng Tri phủ. Huyện thừa.
Nhiệm vụ Quản lý tiền lương, thu thuế, xử án trong địa phận hành chính.
Chính sách Lưu quan hoặc Thổ quan, từ 1869 dưới thời Tự Đức áp dụng “Thổ
sử dụng quan” trong cả nước.

 Cấp tổng - xã:


Tổ chức Tổng Xã
Tổng trưởng (Cai tổng) do quan Lý trưởng (do dân bầu).
phủ huyện giới thiệu tâu Bộ Lại, → Sau cải cách của vua Minh Mạng thì
Đứng đầu Vua cấp văn bằng Cai tổng. ở cấp xã không gọi là Xã trưởng nữa mà
gọi là Lý trưởng nhưng về cách thức
bầu, chức năng vẫn tương tự.
Thẩm quyền Quản lý việc thu thuế và trật tự trị an.

→ Nhận xét chung về tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương giai đoạn 1831 - 1884 (sau
cải cách của vua Minh Mạng):
- Nhà Nguyễn đã xây dựng được một bộ máy quản lý hành chính gọn nhẹ, hiệu quả theo tiêu
chí quân chủ trung ương tập quyền tuyệt đối. Giải thích: Chứng minh cho quân chủ trung ương
tập quyền tuyệt đối: thời kỳ nhà Nguyễn đặt lệ “Tứ bất” nhằm hạn chế sự phân chia quyền lực
để tập trung quyền lực tuyệt đối vào tay vua. Bộ máy quản lý hành chính gọn nhẹ, hiệu quả
phát huy được hiệu quả trong giai đoạn đầu, nhưng càng về sau thì bộ máy quá đơn giản không
đủ đáp ứng tình hình đặt ra với nhà Nguyễn. Đây là một trong những nguyên nhân lý giải vì sao
nhà Nguyễn nhanh chóng rơi vào cục diện nửa phong kiến, bị thực dân Pháp can thiệp rất sâu
vào hoạt động nhà nước.
- Chọn lọc, tiếp thu, kế thừa, phát triển tinh hoa văn hóa pháp lý trong tổ chức chính quyền của
nhà Minh, nhà Thanh trân trọng di sản tiến bộ do lịch sử để lại.
- Là triều đại phát triển đỉnh cao, thể hiện sự hoàn thiện của chế độ trung ương tập quyền ở
nước ta vào thế kỷ XIX.
(Nếu như thời Ngô - Đinh - Tiền Lê là giai đoạn xây dựng, thiết lập nền quân chủ chuyên
chế, thời Lý - Trần - Hồ là giai đoạn củng cố chính thể quân chủ chuyên chế, đến thời kỳ
Lê sơ là phát triển chính thể quân chủ chuyên chế, nhà Nguyễn là đỉnh cao của chế độ
trung ương tập quyền - quyền lực tập trung tuyệt đối vào tay nhà vua đến mức “độc tôn
đế quyền”).
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
ĐỀ THẦY CHO LÀM NHÓM

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
A A C D CD A B C E D
11 12 13 14 15 16 17 18 19 20
A B C D D DA B B A D

Sai 6 câu → 7đ → được cộng 0.25

ÔN TẬP
Câu 1: Vì không có yếu tố này nên làm cho mâu thuẫn xã hội cổ đại Việt Nam không gay gắt?
→ Không xuất hiện giai cấp.

Câu 2: Đây là mô hình tổ chức BMNN trong một vài triều đại phong kiến Việt Nam?
→ Hành chính - quân sự.

Câu 3: Đây là bài học chính trị có ý nghĩa sâu sắc mà nhà Lý để lại cho các vương triều sau?
→Thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực.

Câu 4: Đặc điểm trong đời sống chính trị của nhà Trần cũng như trong mối quan hệ giai cấp?
(Gợi ý: Điều này ngược với nền chính trị của nhà Lý; Góp phần làm cho nhà Trần mất dần uy
tín chính trị và sự ủng hộ của người dân; Thể hiện càng rõ hơn sau 3 lần chống quân Nguyên;
Một trong những nguyên nhân làm cho nhà Trần sụp đổ).
→Tính quan liêu, quý tộc.

Câu 4: Đặc điểm trong đời sống chính trị của nhà Trần cũng như trong mối quan hệ giai cấp?
(Gợi ý: Điều này ngược với nền chính trị của nhà Lý; Góp phần làm cho nhà Trần mất dần uy
tín chính trị và sự ủng hộ của người dân; Thể hiện càng rõ hơn sau 3 lần chống quân Nguyên;
Một trong những nguyên nhân làm cho nhà Trần sụp đổ).
→Tính quan liêu, quý tộc.

Câu 5: Có thể hiểu đồng phạm là những người phạm tội đều mong muốn thực hiện hành vi
phạm tội cho đến cùng, tức cho đến khi đạt được mục đích.

Câu 6: Trong hình thức chính thể quân chủ hạn chế ở Anh, thiết chế Vua/Nữ hoàng nắm quyền
cai trị đất nước.

Câu 7: Yếu tố địa lý không có nhiều tác động đến sự ra đời của các nhà nước đầu tiên ở phương
Tây mà chỉ có yếu tố mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tác động mà thôi.

Câu 8: Hội nghị Tam cấp (thế kỷ XIII) ở Tây Âu gồm đại diện các đẳng cấp:
A. Tăng lữ, quý tộc và vua
B. Vua, thị dân, tăng lữ
C. Vua, quý tộc, thị dân
D. Tăng lữ, quý tộc, thị dân
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405
NỘI DUNG THẢO LUẬN
MÔN HỌC: LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Phần 1. Lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới
1. Tính ổn định, xuyên suốt của chính thể quân chủ chuyên chế ở phương Đông trong nhà nước
chiếm hữu nô lệ và phong kiến.
2. Những mặt tiến bộ và hạn chế của các nền dân chủ của ở phương Tây thời kỳ cổ đại.
3. Sự tiến bộ, phát triển của các chế định pháp luật dân sự trong pháp luật La Mã thời kỳ cộng
hòa hậu kỳ trở đi.
4. Vai trò của giáo hội đối với sự hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến Tây Âu.
5. Vai trò hệ tư tưởng Nho giáo và Pháp gia đối với quá trình xây dựng nhà nước và pháp luật
phong kiến Trung Quốc.
6. Ý nghĩa của các bản hiến pháp tư sản trong thời kỳ của nghĩa tư bản tự do cạnh tranh.
7. Đặc điểm của chính thể quân chủ lập hiến của nhà nước tư bản sau cách mạng tư sản và hiện
đại.
8. Sự tiến bộ trong các chế định pháp luật hiến pháp, dân sự, lao động, cạnh tranh… của pháp
luật tư sản hiện đại.

Phần 2. Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam


1. Những cải cách cơ bản của Vua Lê Thánh Tông đối với tổ chức nhà nước ở trung ương thời
Lê sơ và bài học kinh nghiệm.
2. Những cải cách của Vua Lê Thánh Tông đối với tổ chức nhà nước ở địa phương thời Lê sơ
và bài học kinh nghiệm.
3. Tính giai cấp của pháp luật thời phong kiến Việt Nam thông qua quy định của Quốc triều
hình luật.
4. Tính nhân văn của pháp luật nhà Lê sơ.
5. Vấn đề bảo vệ quyền của người phụ nữ, người nông dân trong pháp luật nhà Lê sơ.
6. Vấn đề bảo vệ truyền thống dân tộc trong pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình thời Lê sơ.
Người soạn: Trần Cẩm Nhung - 0902747405

You might also like