You are on page 1of 4

Bài làm:

Trở về những năm 30-45 của thế kỉ trước, trào lưu văn học lãng mạn dường như đã khẳng
định được vị thế của mình trên văn đàn văn học Việt Nam với hàng loạt những cây bút tên
tuổi. Ta đã từng bắt gặp một Nhất Linh đau khổ, dằn vặt trên con đường đi tìm lý tưởng,
hạnh phúc; một Khái Hưng sôi nổi yêu đời để hòa mình vào những ảo tưởng đẹp đẽ và
ngây thơ hay một Thanh Tịnh mang trong mình vẻ đẹp đằm thắm, trong trẻo đậm chất lãng
mạn thì Thạch Lam lại hiện lên như một thiên sứ mang một sứ mệnh đặc biệt với phong
cách hoàn toàn mới lạ. Người con của tự lực văn đoàn không đưa ta đến những chân trời
phiêu du, mộng tưởng của những tình yêu, khát vọng thường thấy trong trào lưu lãng mạn
mà dắt ta đi vào giữa cõi đời ta đang sống. Con người dịu dàng nhân ái ấy đã nguyện gắn
ngòi bút của mình với những kiếp người đau khổ, vẫn luôn trân trọng sự sống nơi trần gian.
Ông từng nới rằng: “Cái đẹp man mác trong vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm
tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp kín đáo và che lấp
của sự vật” Và có lẽ nhờ vào khát khao đi tìm cái đẹp ấy đã là nguồn cảm hứng để ông
sáng tác truyện ngắn “Hai đứa trẻ” – áng văn xuôi đặc sắc của nền văn học Việt Nam trước
Cách mạng. Đặc biệt trong tác phẩm, cảnh đợi chuyến tàu đêm của hai chị em Liên chính là
nơi kết tinh những giá trị nghệ thuật sâu sắc và tiến bộ được Thạch Lam thể dưới ngòi bút
đầy nhân đạo và trữ tình.

Câu chuyện không có một tình huống thật li kì, một mâu thuẫn thắt nút cần giải quyết như
nhiều truyện ngắn khác. Cái làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn Thạch Lam là những
rung động tinh vi, những biến động thầm lặng mà mãnh liệt trong diễn biến tâm trạng của
nhân vật Liên đã gieo vào lòng người đọc nỗi băn khoăn, day dứt về kiếp người, về những
thân phận bé mọn luôn khát khao được thay đổi. Thạch Lam không chọn một điểm nhìn bên
ngoài, ông quan sát từ bên trong nội tâm nhân vật bằng cách hóa thân vào Liên – một cô bé
mới lớn, nhạy cảm, nhân hậu và giàu mơ ước. Dưới lăng kính hiện thực, phố huyện hiện
lên trong thời gian ngắn ngủi bắt đầu từ lúc chiều tàn cho đến lúc đêm khuya, sự tương
phản giữa tĩnh và động, tối và sáng, giữa nếp sống ảm đảm nơi phố huyện nghèo với
khoảnh khắc huyên náo khi đoàn tàu qua giúp cho chủ đề của tác phẩm được thể hiện một
cách ấn tượng.

Thạch Lam đã dồn bút lực để tạo dựng tình tiết cuối cùng của thiên truyện. Đó chính là điểm
sáng nhân, văn tạo nên giá trị của tác phẩm. Dù khắc khoải, buồn bã với kiếp sống quẩn
quanh, Liên cũng như biết bao con người trong bóng tối, trong cái phố huyện nghèo nàn kia
vẫn luôn có một niềm hy vọng mơ hồ, họ mong đợi một cái gì đó tươi sáng hơn cho cuộc
sống ảm đạm hằng ngày của họ. Niềm hy vọng mong manh được Thạch Lam khéo léo gửi
gắm qua chuyến tàu cuối cùng từ Hà Nội chạy qua phố huyện để lại trong ta biêt bao xúc
cảm.

Không chỉ có chị em Liên mà tất cả những người dân nơi phố huyện nghèo đều đợi chuyến
tàu đêm đi ngang qua. Với những người dân trong phố huyện, họ chờ tàu để bán hàng, để
thêm vào cuộc sống mưu sinh hằng ngày vài đồng lẻ ít ỏi, nhưng với Liên và An, họ thức
chờ tàu vì nguyên nhân sâu xa hơn. Trước hết đây là những đứa trẻ ngoan ngoãn biết vâng
lời, chúng làm theo đúng lời mẹ dặn, cố thức đợi tàu để xem có ai mua gì nữa không.
Nhưng Liên “không trông mong còn ai đến mua nữa. Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay
gói thuốc là cùng”, dường như việc chờ tàu hằng đêm của Liên và Anh không hoàn toàn
xuất phát từ nhu cầu của đời sống vật chất mà hầu như chỉ xuất phát từ nhu cầu của đời
sống tinh thần. Hai đứa trẻ buồn ngủ ríu cả mắt, An trước khi ngủ còn dặn với chị đánh thức
trước khi tàu đến bởi lẽ với chúng, đoàn tàu có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Nó là “sự hoạt
động cuối cùng của đêm khuya”, hoạt động ấy có khả năng khuấy động mạnh liệt nhịp sống
tẻ nhạt, tù đọng nơi “ao tù phẳng lặng” (Tỏa nhị kiều_Xuân Diệu) , đem lại cho phố huyện
nghèo phút chốc bừng tỉnh sau giấc ngủ dài. Cả một ngày dài leo lét, quẩn quanh chỉ có
chuyến tàu mang đến cho chị em Liên một sự khác biệt, một thế giới hoàn toàn khác với
thực tại tựa như có phép màu lướt qua nơi đây.

Chuyến tàu hiện lên qua cảm nhận của Liên từ xa đến gần rồi cứ thế xa mãi trong tầm mắt
của chị. Cảnh chuyến tàu sắp đến dường như mang một sức sống kỳ diệu, cả phố huyện
giờ đây mới thực sự bắt đầu động đậy. Khi tiếng còi xe lửa ở xa vang lại, Liên liền đánh
thức em dậy: “Dậy đi An, tàu sắp đến rồi”, còn bác Siêu thì nghển cổ nhìn ra phía ga rồi
mừng rỡ: “Đèn ghi đã đến kia rồi”. Những lời giục giã, những tiếng reo thoảng thốt trong
mừng rỡ vì nếu chậm sẽ không được nhìn thấy đoàn tàu nữa. Thạch Lam không dùng từ
ngữ nào để miêu tả sự háo hức của người dân phố huyện mà sự háo hức ấy vẫn hiện lên
sống động và đầy chất nhân văn. Đoàn tàu còn ở phía xa, Liên đã trông thấy ngọn lửa xanh
biếc, sát mặt đất như ma trơi, những âm thanh huyên náo “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại,
trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng
dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”, “tiếng tàu rít lên và tàu rầm rộ đi tới”. Những âm thanh
ấy hoàn toàn khác với thứ âm thanh ảo não cuả tiếng trống thu không hay tiếng trống cầm
canh khô khan, của tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve hay tiếng đàn bầu rung lên bần bật
trong yên lặng. Một thế giới khác được đoàn tàu đem tới cho phố huyện nghèo, Liên và An
say mê ngắm nhìn “các toa đèn sáng trưng…những toa trên sang trọng lố nhố những
người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”, dường như ánh sáng rực rỡ của đoàn
tàu đã xua tan đi cái “bóng tối” đang gặm nhấm phố huyện từng khắc một. Ánh sáng ấy
không tù mù, leo lét như quầng sáng từ ngọn đèn chị Tí, từ khe sáng hé ra nơi cánh cửa
của các nhà trong phố, hay vệt sáng nhỏ nhoi, yếu ớt của những con đom đóm. Cư dân phố
huyện như choáng ngợp bởi sự náo động của đoàn tàu và cứ thế họ dần mơ về một thế
giới thật đẹp đẽ và rực rỡ…

Thực ra, đó là chuyến tàu không đông đúc như mọi khi, “thưa vắng người và hình như kém
sáng”, vậy mà nó vẫn đem đến cho hai đứa trẻ biết bao xúc động. Con tàu đi qua sẽ chẳng
có gì đặc biệt trong nhận thức của con người, có chăng Tế Hanh đã từng thốt lên:

“Tôi thấy tôi thương những con tàu


Ngày đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy
Với những toa đầy nặng khổ đau”

Nhưng với chị em Liên thì hoàn toàn khác, chuyến tàu mà hai đứa trẻ hằng mong đợi không
phải để chở đi những đau khổ của kiếp người mà nó là ánh sáng, là hi vọng cuối cùng của
phố huyện này có thể bấu víu vào. Khi An cố hỏi chị một câu hỏi gì đó nhưng Liên không
đáp, dường như chị lặng người theo những mơ tưởng về một thế giới khác mà đoàn tàu
vừa đem tới. Hai chữ Hà Nội ngân nga trong lòng cô bé nghèo: “…họ ở Hà Nội về!… Hà Nội
xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo” Đoàn tàu mang đến cho chị em Liên một
niềm mơ tưởng xa xăm mà rất êm đềm về quá khư tươi đẹp tại chốn mỹ lệ Hà Nội “băm
mươi sáu phố phường”.

Quả là “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, niềm vui của người dân phố huyện chỉ hiện lên
trong chốc lát và ngay sau đó là nỗi buồn ập đến một cách thấm thía. Đoàn tàu giống như
một tia chớp, một ngôi sao băng rạch qua bầu trời nơi phố huyện nghèo rồi mất hút vào
đêm tối. Liên và An đứng lặng người dù chuyến tàu đã đi qua, hai chị em nhìn theo cái
chấm đỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa mỗi rồi khuất sau rặng tre. Đêm nào
cũng vậy, cả phố huyện đều khắc khoải mong ngóng, kiên nhẫn chờ đợi chuyến tàu đi qua
rồi mới chìm vào bóng tối thăm thẳm quen thuộc của mình: chị Tí và bác Siêu về làng, gia
đình bác xẩm ngủ ngục trên manh chiếu rách bên đường còn chị dần ngập vào giấc ngủ yên
tĩnh. Rồi chi tiết cuối cùng gây ám ảnh đến người đọc về một cuộc sống bế tắc “Liên thấy
mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng
một vùng đất nhỏ”, dường như những cảnh đời nơi phố huyện chứa đầy bóng tối. Bóng tối
ấy không phải là của vũ trụ mà là bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó. Cuộc sống ấy là
vậy, đơn điệu, tẻ nhạt, kém sức sống và lặp đi lặp lại như cỗ máy được lập trình sẵn giống
như thơ Huy Cận từng viết:

“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu


Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện”

Chuyến tàu đêm khẳng định một khát vọng chân chính của con người. Với chị em Liên,
đoàn tàu như một kí ức vui, một khát vọng mơ hồ, nó chẳng khác nào ảo ảnh nhưng lại
mang niềm vui trong sáng cho những đứa trẻ ngây thơ. Với người dân phố huyện, chuyến
tàu như một ước mơ cổ tích giúp họ thêm niềm tin để cho họ tiếp tục chờ đợi để sống. Suy
cho cùng, chuyến tàu mà nơi phố huyện nghèo ấy mong đợi tựa chiếc phao tinh thần để
cứu rỗi cuộc sống nghèo nàn, bế tắc trong tăm tối. Dưới ngòi bút Thạch Lam, chuyến tàu
tường chừng bình thương nhưng ẩn sâu trong đó là tấm lòng nhân đạo của nhà văn. Ông
nâng niu, trân trọng niềm vui nhỏ bé, hiếm hoi của con người và đó chính là điểm sáng trong
giá trị nhân đạo của tác phẩm. Tuy bức tranh phố huyện được vẽ lên từ những gam màu
hiện thực song Thạch Lam không quên điểm tổ vào bức tranh của mình những khát vọng
cao đẹp hướng tới cuộc sống, giúp con người dần tự ý thức giá trị bản thân, qua đó để họ
vươn tới cuộc sống có nghĩa và xứng đáng hơn cũng như nhà văn Nga Sôlôkhôp: “Đối với
con người,sự thực đôi khi nghiệt ngã,nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng
người đọc niềm tin ở tương lai.Tôi mông muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con
người tốt hơn,tâm hồn trong sạch hơn,thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích
cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người”.

Quả thực ta đã từng day dứt trước một lối văn sắc lạnh, khách quan, tỉnh táo của Nam Cao,
hả hê bất ngờ trước những trang viết châm biếm của Nguyễn Công Hoan và khóc cùng
những giọt nước mắt trong văn Nguyên Hồng. Giời đây đọc văn Thạch Lam, ta thấy yêu cái
nét đẹp nhã nhăn, bình dị, đượm buồn phảng phất phát chút gì đó tựa bài thơ trữ tình
“thoang thoảng hương hoàng lan được chưng cất từ nỗi đời đau khổ”.

Có người từng nói rằng: “ Thạch Lam là nhà văn ngắt câu bằng màu, chấm câu bằng nốt
nhạc, chuyển đoạn bằng hình” bởi lẽ vậy “Hai đứa trẻ” hiện lên như một bức tranh dệt bằng
cảm giác”, giản dị mà sâu lắng, man mác mà thấm thía. Câu chuyện soi tỏ những bí ẩn thi vị
mà cao đẹp trong tâm hồn cô bé Liên để rồi bộc lộ những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu
sắc. Thạch Lam không có tham vọng tạo ra những tình huống truyện éo le, nghịch cảnh.
Vậy nhưng ông vẫn đạt đến độ toàn thiện, toàn mĩ của một truyện ngắn nhiều dư âm. Người
đọc được dẫn đi trong một thế giới nhân vật và không gian bàn bạc nỗi buồn, lặng lẽ suy
ngẫm nhưng triết lý nhân sinh và những thông điệp cuộc sống giàu ý nghĩa. Đặc biệt, cảnh
đợi chuyến tàu đêm đã ánh lên những tia hy vọng rất đời, rất người mà Thạch Lam bằng cả
tài năng, tâm huyết xây dựng!

You might also like