Professional Documents
Culture Documents
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI MUA SẮM
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI MUA SẮM
net/publication/359256480
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CẤU TRÚC KỲ HẠN NỢ: BẰNG CHỨNG THỰC
NGHIỆM MỚI TỪ CÁC CÔNG TY PHI TÀI CHÍNH NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM
CITATIONS READS
0 12,636
3 authors, including:
All content following this page was uploaded by Toan Ngo Van on 16 March 2022.
QUẢN LÝ
VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
SỐ 141 2021
SỐ 141 2021
với tổ chức của cán bộ công chức tại cơ quan cung ứng dịch vụ công: Nghiên
cứu tại Tổng cục Thủy sản Việt Nam
Trường Đại học Ngoại thương
Lê Đăng Doanh - Hội Khoa học kinh tế Việt Nam, Việt Nam Mario Kafouros - University of Leeds, England
Lê Thái Phong - Trường Đại học Ngoại thương, Việt Nam Le Dang Doanh - Vietnam Economic Association, Vietnam
Lê Thị Thu Thủy - Trường Đại học Ngoại thương, Việt Nam Le Thai Phong - Foreign Trade University, Vietnam
Lê Văn Cường - Trường Đại học Paris 1, Pháp Le Thi Thu Thuy - Foreign Trade University, Vietnam
Nguyễn Bách Khoa - Trường Đại học Thương mại, Việt Nam
Le Van Cuong - University of Paris 1 Pantheon - Sorbonne, France
Nguyễn Đức Khương - Trường Đại học Kinh doanh IPAG, Pháp
Nguyen Bach Khoa - Thuongmai University, Vietnam
Nguyễn Hoàng Nhựt - Trường Đại học Massey, New Zealand
Nguyen Duc Khuong - IPAG Business University, France
Nguyễn Ngọc Anh - Trung tâm Nghiên cứu chính sách và phát triển, Việt Nam
Nguyen Hoang Nhut - Massey University, New Zealand
Nguyễn Thị Mơ - Viện Chính sách công và Pháp luật, Việt Nam
Nguyễn Thu Thủy - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Việt Nam Nguyen Ngoc Anh - Development and Policies Research Center, Vietnam
Nguyễn Văn Minh - Trường Đại học Ngoại thương, Việt Nam Nguyen Thi Mo - Institute of Public Policy and Law, Vietnam
Nguyễn Việt Dũng - Trường Đại học Ngoại thương, Việt Nam Nguyen Thu Thuy - Ministry of Education and Training, Vietnam
Andrea Prencipe - Trường Đại học LUISS, Italia Nguyen Van Minh - Foreign Trade University, Vietnam
Tăng Văn Nghĩa - Trường Đại học Ngoại thương, Việt Nam Nguyen Viet Dung - Foreign Trade University, Vietnam
Từ Thúy Anh - Trường Đại học Ngoại thương, Việt Nam
Andrea Prencipe - LUISS University, Italy
Jean-Laurent Viviani - Trường Đại học Rennes 1, Pháp
Tang Van Nghia - Foreign Trade University, Vietnam
Vũ Hoàng Nam - Trường Đại học Ngoại thương, Việt Nam
Tu Thuy Anh - Foreign Trade University, Vietnam
EDITOR-IN-CHIEF
THƯ KÝ TOÀ SOẠN
Tu Thuy Anh
Trần Thị Ngọc Quyên
ASSOCIATE EDITOR
CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢN Tran Thi Ngoc Quyen
Bùi Anh Tuấn
IN CHARGE OF PUBLICATION
Bui Anh Tuan
GIẤY PHÉP XUẤT BẢN
500/GP-BTTTT CẤP NGÀY 15/11/2019
PUBLICATION LICENSE
Nộp lưu chiểu tháng 10/2021
500/GP-BTTTT on November 15, 2019
QUẢN LÝ
VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu các yếu tố tác động đến cấu trúc kỳ hạn nợ của doanh
nghiệp trong giai đoạn 2007-2018, với mẫu là các công ty phi tài chính niêm yết trên
Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Hà Nội (HNX).
Nghiên cứu dựa trên lý thuyết đại diện, phát tín hiệu, rủi ro thanh khoản và nguyên
tắc phù hợp và không có bằng chứng về tác động của thuế. Phương pháp phân tích
hồi quy bình phương nhỏ nhất gộp (POLS), hiệu ứng cố định (FEM) và hiệu ứng
ngẫu nhiên (REM), hồi quy IV- GMM và hồi quy bình phương nhỏ nhất biến giả
(LSDV) được thực hiện để phân tích dữ liệu. Bằng chứng thực nghiệm mới về các
chỉ báo có ý nghĩa quan trọng trong phát triển tài chính bao gồm các biến đại diện
cho sự phát triển của khu vực ngân hàng cũng như thị trường chứng khoán của nền
kinh tế. Kết quả nghiên cứu cho thấy quyền của chủ nợ và hệ thống thông tin là
những giả thuyết được xác nhận ảnh hưởng cùng chiều đến kỳ hạn nợ công ty.
Từ khóa: Kỳ hạn nợ, Đặc điểm công ty, Phát triển tài chính, Chỉ báo có ý nghĩa
quan trọng
1
Tác giả liên hệ, Email: ngotoan@ufm.edu.vn
1. Giới thiệu
KModigliani & Miller (1958) đã trình bày những vấn đề cơ bản về cấu trúc vốn
công ty. Nghiên cứu này là một phần rất quan trọng của tài chính doanh nghiệp hiện
đại. Lý thuyết Modigliani & Miller (M&M) nhận định rằng trong trường hợp không
có thuế, chi phí phá sản, chi phí đại diện, thông tin bất cân xứng và thị trường hiệu
quả, giá trị của công ty không bị ảnh hưởng bởi cách thức tài trợ của công ty đó.
Trong các nghiên cứu sau đó (Miller, 1977; Miller & Modigliani, 1961; Modigliani
& Miller, 1963), các tác giả đã giải thích chi tiết về các điều kiện mà theo đó công
ty hầu như không quan tâm đến cấu trúc vốn hiệu quả của nguồn tài trợ. Rất nhiều
thảo luận tiếp theo cho rằng ngay cả trong điều kiện mà các khoản trả lãi được khấu
trừ hoàn toàn khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp, thì giá trị của công ty, ở trạng
thái cân bằng, vẫn sẽ độc lập với cấu trúc vốn (Miller, 1977). Nói cách khác, các
quyết định về kỳ hạn nợ không ảnh hưởng đến giá trị công ty.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam, nơi thị trường vốn hoạt động chưa hiệu
quả, việc lựa chọn cấu trúc kỳ hạn nợ phù hợp có thể ảnh hưởng đến giá trị của công
ty, tránh khỏi sự không khớp kỳ hạn bằng cách sắp xếp cấu trúc tài sản phù hợp với
nợ phải trả có thể giảm thiểu tác động xấu của chi phí sử dụng vốn, ngoài ra có thể
giải quyết vấn đề mâu thuẫn đại diện và có thể phát tín hiệu tin cậy về chất lượng
lợi nhuận của công ty (Cai & cộng sự, 2008). Cấu trúc vốn và chính sách cổ tức là
những chủ đề được nghiên cứu nhiều trong tài chính doanh nghiệp hiện đại. Tuy
nhiên, cấu trúc kỳ hạn nợ của công ty vẫn còn được chú ý cho đến nay, đặc biệt là
trong bối cảnh các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam. Vì vậy, bài viết này là sự tiếp
nối các nghiên cứu hiện có (Ngô & Phạm, 2015; Trần & Nguyễn, 2017; Ngô, 2018;
Liêm & cộng sự, 2018) về cấu trúc kỳ hạn nợ doanh nghiệp ở Việt Nam, mà trọng
tâm là tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm mới về các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc
kỳ hạn nợ của công ty.
Những yếu tố thuộc về đặc điểm doanh nghiệp (firm characteristics) đã được
nghiên cứu nhằm giải thích cấu trúc kỳ hạn nợ, bên cạnh đó những yếu tố vĩ mô
cũng được xem xét đến như sự phát triển của thị trường chứng khoán và phát
triển của khu vực ngân hàng (Liêm & cộng sự, 2018; Chung & Phan, 2020). Như
vậy, các yếu tố thuộc về đặc điểm doanh nghiệp đã được tiến hành nghiên cứu
9
Bảng 1. Mô tả các biến (tiếp theo)
10
Biến Ký hiệu Định nghĩa Nghiên cứu trước Kỳ vọng dấu
Các chỉ báo có ý nghĩa quan trọng của phát triển tài chính (The principal indicators of financial Development)
Các biến đại diện Private Chỉ báo giá trị: tín dụng nội địa cho khu Demirguc-Kunt & Maksimovic (1999); +
cho cả sự phát vực tư nhân (được thu thập từ WDI do Fan & cộng sự (2012); Deesomsak & cộng
triển của khu vực Ngân hàng Thế giới công bố) sự (2004); Antoniou & cộng sự (2006);
ngân hàng Guru & Yadav (2019)
Liq Chỉ báo giá trị: khả năng thanh khoản so Demirguc-Kunt & Maksimovic (1999); +
với GDP (được thu thập từ WDI do Ngân Fan & cộng sự (2012); Deesomsak & cộng
hàng Thế giới công bố) sự (2004); Antoniou & cộng sự (2006);
Guru & Yadav (2019)
Domescre Chỉ báo giá trị: tín dụng nội địa được cung Demirguc-Kunt & Maksimovic (1999); +
cấp cho khu vực tài chính (được thu thập Fan & cộng sự (2012); Deesomsak & cộng
từ WDI do Ngân hàng Thế giới công bố) sự (2004); Antoniou & cộng sự (2006);
Guru & Yadav (2019)
Các biến đại Sm_Trade Chỉ báo giá trị: tổng giá trị chứng khoán Demirguc-Kunt & Maksimovic (1999); +
diện cho cả sự đã giao dịch (được thu thập từ WDI do Fan & cộng sự (2012); Deesomsak & cộng
phát triển của Ngân hàng Thế giới công bố) sự (2004); Antoniou & cộng sự (2006);
thị trường chứng Guru & Yadav (2019)
khoán Sm_Turnover Chỉ báo giá trị: tỷ số vòng quay thị trường Demirguc-Kunt & Maksimovic (1999); +
Biến Quan sát Trung bình Độ lệch chuẩn Nhỏ nhất Lớn nhất
Debtmaturity 7.342 0,16963 0,219254 -0,01108 0,993706
Growth 6.626 0,246513 5,03291 -0,85893 406,3115
Size 7.351 27,06812 1,689895 20,97462 34,81112
Profitability 7.284 0,073698 0,109463 -5,24713 0,827633
Currentratio 7.146 2,864979 8,976074 0,031938 337,5161
Leverage 7.351 0,512148 0,232731 0,001981 1,748409
Assetmaturity 7.343 -0,2475 0,313793 -0,99658 1,481639
Taxes 7.117 -0,06191 0,072914 -0,95492 0,135305
Demetre 8.664 116,8009 18,21243 86,86342 141,8508
Private 8.664 106,6577 15,77786 82,87277 133,136
Liq 8.664 99,98002 35,61583 0 145,319
Sm_Capliz 8.664 13,95547 9,226597 0 31,13683
Sm_Turnover 8.664 57,57177 38,8555 0 148,378
Sm_Trade 8.664 23,092 10,31248 0 43,842
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
Bảng 2 trình bày thống kê tóm tắt của các biến được sử dụng trong phân tích của
nghiên cứu này. Như quan sát trong bảng này, biến phụ thuộc DebtMaturity thay đổi
từ 0 đến 0,9873, với giá trị trung bình là 0,51. Trong số các biến độc lập thuộc về
đặc điểm công ty và các biến vĩ mô được mô tả, gồm số quan sát và trung bình, độ
lệch chuẩn, nhỏ nhất và lớn nhất. Qua Bảng 2 cho thấy số liệu không có hiện tượng
bất thường của số liệu.
4.2 Kết quả ước lượng mô hình
Trong phần này, nghiên cứu trình bày tác động của phát triển tài chính và các
yếu tố thuộc về đặc điểm công ty lên cấu trúc kỳ hạn nợ với hồi quy POLS và hồi
quy tác động cố định (FE) và ngẫu nhiên (RE). Ngoài ra, do mô hình có sử dụng các
biến số chỉ báo vĩ mô, nên nghiên cứu sử dụng thêm các hồi quy như IV-GMM và
LSDV. Các hệ số phản ánh mức độ ảnh hưởng trong Bảng 4. Kết quả này chỉ ra rằng
phát triển tài chính có ảnh hướng một cách có ý nghĩa thống kê đến kỳ hạn nợ công
ty. Ngoài ra, một số yếu tố thuộc về công ty cũng xác nhận giả thuyết nghiên cứu.
Bảng 3. Kết quả phân tích hồi quy
Như vậy, Bảng 5 giúp có cách nhìn tổng quan về kết quả nghiên cứu. Từ đó,
có thể xác nhận các kết quả nghiên cứu này như sau: Lý thuyết chi phí đại diện
xác nhận với biến quy mô (Size) nhưng không được xác nhận với biến cơ hội tăng
trưởng (Growth). Tuy kết, quả cho thấy sự không rõ ràng hay kết quả không như kỳ
QUẢN LÝ
VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
Tóm tắt: Dựa trên dữ liệu hàng tháng từ tháng 01 năm 2012 đến tháng 12 năm 2019,
sử dụng mô hình tự động hồi quy vectơ cấu trúc (SVAR), nghiên cứu được thực hiện
nhằm phân tích mối quan hệ của chính sách tiền tệ, hoạt động ngân hàng ngầm và
giá nhà ở thương mại tại Trung Quốc. Kết quả cho thấy việc thắt chặt chính sách tiền
tệ có thể kiềm chế đà tăng mạnh của giá nhà, nhưng do hoạt động ngân hàng ngầm
không bị hạn chế bởi các chính sách tài chính truyền thống nên nó đã trở thành một
kênh tài trợ khác cho các công ty bất động sản (BĐS), thúc đẩy giá nhà ở một mức
độ nhất định, làm suy yếu đồng tiền và giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ; mặt
khác sự thay đổi của chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô của hệ
thống ngân hàng ngầm. Ngoài ra, bài viết đưa ra các đề xuất liên quan nhằm ổn định
giá nhà ở thương mại, tăng cường hiệu lực của chính sách tiền tệ và tiêu chuẩn hóa
sự phát triển của hoạt động ngân hàng ngầm tại Trung Quốc.
Từ khóa: Ngân hàng ngầm, Chính sách tiền tệ, Giá nhà ở thương mại, Trung Quốc
THE RELATION BETWEEN MONETARY POLICY, SHADOW
BANKING AND COMMERCIAL HOUSING PRICE IN CHINA
Abstract: Based on monthly data from January 2012 to December 2019, using the
Structural Vector Auto Regression (SVAR) model, the paper analyzes the relation
between monetary policy, shadow banking and commercial housing prices in
China. The results suggest that tightening monetary policy may curb the sharp
rise in commercial housing prices, while shadow banking is not constrained by
traditional financial policies and, therefore, has become another funding channel
for real estate companies, promoting housing prices to a certain extent, weakening
the currency and reducing the effectiveness of monetary policy. On the other
hand, changes in monetary policy directly affect the size of the shadow banking
system. In addition, the article offers related proposals to stabilize commercial
housing prices, enhance the effectiveness of monetary policy and standardize the
development of China’s shadow banking system.
Keywords: Shadow Banking, Monetary Policy, Commercial Housing Prices, China
1
Tác giả liên hệ, Email: t25p11111@gmail.com
Vào thời điểm ban đầu, mức giá cân bằng của thị trường ở điểm A. Với mức thu
nhập của người dân tăng lên và sự thuận tiện trong việc tiếp cận nguồn vốn từ các
hình thức huy động khác nhau, đường cầu của thị trường nhà ở thương mại chuyển
từ D1 sang D2. Do nhu cầu tăng làm tăng giá nhà, các chủ đầu tư có lãi sẽ đẩy cung
của thị trường nhà ở thương mại tăng, nhưng do chính sách tiền tệ thắt chặt, các chủ
đầu tư chỉ có thể tìm nguồn tài trợ từ thị trường tài chính ngầm, dẫn đến mức độ di
chuyển của đường cung chậm hơn đường cầu, giá cân bằng lúc này trở thành điểm
B. Với suy luận tương tự, giá cân bằng cũng sẽ dần di chuyển đến điểm C; và ba
điểm A, B, C tạo thành đường thay đổi giá cân bằng của nhà ở thương mại.
Ngược lại, chính sách tiền tệ nới lỏng một mặt cung cấp vốn đầu tư cho các nhà
phát triển BĐS, mặt khác cũng cung cấp các khoản vay lãi suất thấp cho người
mua nhà, điều này cùng tác động đến giá nhà ở thương mại từ cả phía cung và cầu.
Tại thời điểm này, các nhà phát triển BĐS có thể tìm nguồn tài trợ từ cả ngân hàng
chính thống và ngân hàng ngầm, dẫn đến chi phí tài trợ của các nhà phát triển BĐS
thấp hơn so với chính sách tiền tệ thắt chặt, do đó nguồn cung trên thị trường nhà
ở thương mại tăng nhanh hơn. Đồng thời, người dân sẽ thuận tiện hơn khi vay vốn
mua nhà từ ngân hàng, lúc này sự thay đổi giá cân bằng trên thị trường nhà ở thương
mại được thể hiện trong Hình 2.
Sự phát triển của ngân hàng ngầm đã mở rộng kênh tài trợ cho các nhà phát
triển BĐS ở một mức độ nhất định, có thể giảm bớt những hạn chế về vốn và trực
tiếp thúc đẩy sự phát triển của thị trường BĐS. Trong khi các NHTM không sẵn
sàng cho vay đối với các nhà phát triển BĐS quy mô vừa và nhỏ (Allen & cộng sự,
2005), khiến nhu cầu vốn của nhiều nhà phát triển BĐS không thể được đáp ứng từ
hệ thống ngân hàng chính thống, thì ngân hàng ngầm có xu hướng chấp nhận rủi ro
cao hơn để được bù đắp nhiều hơn (Qiu & Zhou, 2014), sẵn sàng cung cấp tín dụng
Hình 2. Sự thay đổi giá cân bằng trên thị trường nhà ở thương mại
(trong điều kiện chính sách tiền tệ nới lỏng)
Nguồn: Ren & cộng sự (2019)
Từ những phân tích trên, bài viết đề xuất giả thuyết nghiên cứu sau:
H1: Cả chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng ngầm đều có tác động nhất
định đến giá nhà ở thương mại.
Mặt khác, trong Giả thuyết lý thuyết (4) giả định rằng chỉ có hai kênh tài trợ cho
các nhà phát triển BĐS là tài trợ từ ngân hàng chính thống và tài trợ từ ngân hàng
ngầm. Chính sách tiền tệ nới lỏng khiến nguồn cung tiền dồi dào, dẫn đến khả năng
tiếp cận vốn với chi phí thấp từ các ngân hàng chính thống trở nên dễ dàng hơn (Li
& Wu, 2011) sẽ khiến nhu cầu vốn từ hệ thống ngân hàng ngầm giảm đi. Ngược
lại, chính sách tiền tệ thắt chặt làm tăng lãi suất và hạn chế quy mô tín dụng (Qiu
& Zhou, 2014), để duy trì chuỗi vốn và đáp ứng nhu cầu đầu tư, các nhà phát triển
BĐS sẽ tìm nguồn tài trợ từ hệ thống ngân hàng ngầm khiến quy mô hệ thống ngân
hàng ngầm tăng lên. Từ đó bài viết đề xuất giải thuyết nghiên cứu sau:
H2: Những thay đổi trong chính sách tiền tệ có tác động đến quy mô của hệ
thống ngân hàng ngầm.
Về lý thuyết, chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ thông qua kênh tín dụng và lãi suất
để tác động tăng chi phí tài trợ của các nhà phát triển BĐS, từng bước giảm quy mô
đầu tư trên thị trường BĐS. Tuy nhiên, do hoạt động ngân hàng ngầm không chịu sự
giám sát và điều tiết của NHTW, nên trong giai đoạn thắt chặt chính sách tiền tệ, các
ngân hàng ngầm có thể cung cấp vốn cho các nhà phát triển BĐS không thể vay vốn
thông qua các NHTM truyền thống. Mặt khác, chi phí tài trợ vốn bình quân của các
công ty BĐS không chỉ được xác định bởi lãi suất tín dụng mà còn chịu ảnh hưởng
lớn bởi lãi suất vay thế chấp. Khi cho vay, để bù đắp rủi ro, các ngân hàng ngầm với
i = 1, 2, 3, …, p.
Đối với mô hình này, số lượng tham số được ước tính là k2p + k. Để có được các
tham số ước lượng duy nhất của mô hình cấu trúc, cần áp đặt k(k-1)/2 ràng buộc
đối với công thức cấu trúc của mô hình SVAR (p) với k biến nội sinh. Những ràng
buộc này có thể là ngắn hạn hoặc dài hạn. Công thức (1) được viết dưới dạng toán
tử trễ như sau:
C(Q)yt = μt; (2)
C(Q) = C0 - Γ1Q - Γ2Q2 - … -ΓpQp (3)
yt = D(Q)μt; (4)
Lãi suất bình IBOR Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc
quân gia http://www.pbc.gov.cn/
quyền cho
vay liên ngân
hàng (%)
Cung tiền mở M2 Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc
rộng (NDT) http://www.pbc.gov.cn/
Quy mô hệ SB Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc Quy mô hệ thống tài chính
thống tài http://www.pbc.gov.cn/ ngầm được xác định bằng
chính ngầm Trung tâm dữ liệu Viện nghiên tổng số tiền cho vay ủy
(NDT) cứu Bộ Thương mại thác, cho vay tín chấp, tín
http://data.mofcom.gov.cn/ chấp ngân hàng không
chiết khấu, trái phiếu doanh
nghiệp và tài trợ vốn cổ
phần của các doanh nghiệp
phi tài chính trong nước
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
5. Kết quả phân tích thực nghiệm
5.1 Thống kê mô tả
Bảng 2. Bảng thống kê mô tả
LHP_SA IBOR_SA LM2_SA LSB_SA
Trung vị 8,8931 2,6626 14,1299 12,8569
Trung bình 8,8716 2,6749 14,1555 12,9363
Lớn nhất 9,1676 4,0692 14,5060 13,1790
Nhỏ nhất 8,6262 1,4591 13,6602 12,0960
Độ lệch chuẩn 0,1503 0,5560 0,2466 0,3126
Quan sát 96 96 96 96
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Các quan sát hàng quý, hàng tháng của chuỗi thời gian cho thấy sự thay đổi theo chu
kỳ hàng tháng hoặc hàng quý, những thay đổi theo chu kỳ như vậy thường che giấu
các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế, do đó, số liệu của chuỗi thời gian cần
được điều chỉnh theo mùa. Phương pháp Census X12 có thể phân tách tốt ảnh hưởng
của dữ liệu trong các ngày lễ lên toàn bộ dữ liệu chuỗi thời gian và tăng tính ổn định
trong toàn bộ khoảng thời gian của chuỗi. Do đó, phương pháp Census X12 được chọn
Để thực hiện xác định độ trễ của mô hình SVAR, trước tiên phải xác định độ trễ
của mô hình VAR tương ứng. Có rất nhiều kiểm định khác nhau để xác định độ trễ
phù hợp của mô hình (Bảng 4), các giá trị LR, FPE, AIC của mô hình VAR trong
khoảng từ 0-8 cho thấy đỗ trễ tối ưu nên được chọn là 4.
Bảng 4. Kết quả phán đoán độ trễ mô hình VAR
Độ trễ LogL LR FPE AIC SC HQ
0 294,9779 NA 3,63E-09 -8,0827 -7,9562 -8,0323
1 722,6105 795,8717 3,93E-14 -19,5169 -18,8845* -19,2652*
2 736,3518 24,0472 4,20E-14 -19,4542 -18,3159 -19,0010
3 751,0073 24,0187 4,41E-14 -19,4168 -17,7726 -18,7623
4 775,6523 37,6521* 3,54e-14* -19,6570* -17,5068 -18,8010
5 788,8823 18,7424 3,95E-14 -19,5800 -16,9240 -18,5227
6 795,2531 8,3174 5,43E-14 -19,3125 -16,1506 -18,0538
7 799,7011 5,3129 8,06E-14 -18,9917 -15,3237 -17,5315
8 821,8203 23,9624 7,52E-14 -19,1616 -14,9878 -17,5000
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Tuy nhiên, kết quả của các kiểm định AIC và SC là không đồng nhất, tiếp tục sử
dụng kiểm định LM để kiểm định tính ổn định của độ trễ tối ưu trong mô hình (Bảng
Ngoài ra, như trong Hình 3, có thể thấy rằng tất cả các giá trị riêng đều nằm trong vòng
tròn đơn vị, do đó tính ổn định của VAR (4) là tốt, và có thể nghiên cứu bước tiếp theo.
Hình 3. Kết quả kiểm định nghịch đảo đơn vị gốc đa thức AR
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
trong đó εt = (εt, ε2t,…, ε4t )’; μt = (μt, μ2t, …, μ4t); εt là nhiễu trắng của mô hình
VAR, các vectơ con của μt tương ứng đại diện cú sốc tác động đến bốn biến số lần
lượt là giá nhà ở thương mại (DLHP), lãi suất bình quân gia quyền cho vay liên
ngân hàng (IBOR_SA), cung tiền mở rộng (LM2_SA) và quy mô hệ thống ngân
hàng ngầm (LSB_SA). Mô hình SVAR 4 biến được thiết lập với ít nhất k(k-1)/2 = 6
ràng buộc. Giả sử rằng: Mặt bằng lãi suất không bị ảnh hưởng bởi cung tiền và giá
nhà ở trong cùng kỳ, nghĩa là a21 = 0, a23 = 0; cung tiền không bị ảnh hưởng bởi giá
nhà ở trong cùng kỳ, nghĩa là a31 = 0; quy mô hệ thống ngân hàng ngầm không bị
ảnh hưởng bởi sự thay đổi của cung tiền, lãi suất và giá nhà ở trong kỳ, nghĩa là a41
= 0, a42 = 0, a43 = 0. Khi đó, mô hình SVAR (4) 4 biến có dạng như sau:
Kết quả kiểm tra nhân quả Granger cho thấy, thứ nhất, quy mô của hệ thống ngân
hàng ngầm và chính sách tiền tệ (mở rộng hay thắt chặt) là những nguyên nhân gây
(1) Phản ứng của DLHP đối với LSB_SA (2) Phản ứng của DLHP đối với LM2_SA (3) Phản ứng của DLHP đối với IBOR_SA
Hình 4. Phản ứng của giá nhà ở thương mại đối với
quy mô ngân hàng ngầm và chính sách tiền tệ
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Hình 4(1) cho thấy dưới tác động của sự gia tăng quy mô hệ thống ngân hàng ngầm
sẽ thúc đẩy giá nhà ở tăng liên tục. Ngân hàng ngầm không chịu sự điều chỉnh trực tiếp
của các chính sách tiền tệ do đặc điểm nằm ngoài hệ thống giám sát truyền thống, nên
khi chính sách tiền tệ thắt chặt, quy mô của hệ thống ngân hàng ngầm vẫn mở rộng,
đồng thời bơm vốn cho các công ty BĐS với lãi suất cao hơn, sự gia tăng chi phí vốn
này cuối cùng lại được phản ánh trong việc tăng giá nhà ở. Hình 4(2) và 4(3) cho thấy
(1) Phản ứng của LSB_SA đối với IBOR_SA (2) Phản ứng của LSB_SA đối với LM2_SA
Hình 5. Phản ứng của quy mô ngân hàng ngầm đối với chính sách tiền tệ
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Hình 5 phản ánh mức độ tác động của chính sách tiền tệ lên quy mô ngân hàng
ngầm. Khi chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất tăng và cung tiền
giảm, người cần tiền giảm khả năng tiếp cận vốn thông qua ngân hàng chính thống,
dẫn đến nhu cầu tiếp cận vốn thông qua hệ thống ngân hàng ngầm tăng lên (Hình 5(1)).
Ngược lại, với chính sách tiền tệ mở rộng, cung tiền tăng, khả năng tiếp cận vốn từ hệ
thống các ngân hàng chính thống dễ dàng hơn với chi phí vay vốn thấp hơn, dẫn đến
quy mô ngân hàng ngầm giảm đi (Hình 5(2)). Điều này chứng tỏ những thay đổi trong
chính sách tiền tệ có tác động đáng kể đến quy mô của hệ thống ngân hàng ngầm.
(1) Phản ứng của IBOR_SA đối với LSB_SA (2) Phản ứng của LM2_SA đối với LSB_SA
Hình 6. Phản ứng xung của cung tiền và lãi suất đối với
quy mô hệ thống ngân hàng ngầm
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
(1) Phản ứng của DLHP đối với LM2_SA (2) Phản ứng của DLHP đối với LM2_SA
(có xét LSB_SA trong mô hình) (không xét LSB_SA trong mô hình)
(3) Phản ứng của DLHP đối với IBOR_SA (4) Phản ứng của DLHP đối với IBOR_SA
(có xét LSB_SA trong mô hình) (không xét LSB_SA trong mô hình)
Hình 7. Phản ứng của giá nhà ở đối với chính sách tiền tệ
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
QUẢN LÝ
VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
Tóm tắt: Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đang bùng phát tại nhiều quốc gia
trên thế giới, sự biến động trong hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư là vấn đề
được nhiều nhà quản lý quỹ và các chủ thể tham gia thị trường quan tâm bởi vai trò
quan trọng không thể thiếu của quỹ đầu tư trong thị trường tài chính của một quốc
gia. Bài viết đánh giá hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư trên thị trường chứng
khoán (TTCK) Việt Nam trong giai đoạn COVID-19 sử dụng thước đo hệ số Sharp
điều chỉnh và tỷ lệ phần bù rủi ro trên giá trị rủi ro RVaR. Kết quả nghiên cứu cho
thấy phần lớn các quỹ đầu tư có kết quả biến động khá mạnh trong làn sóng dịch
bệnh đầu tiên ở Việt Nam với hai chỉ số đo lường đều nhận giá trị âm lớn và sự biến
động này giảm ở các làn sóng dịch bệnh tiếp theo. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động
của các quỹ đầu tư khác nhau biến động không giống nhau trong bối cảnh dịch bệnh
COVID-19. Cụ thể, quỹ hoán đổi danh mục trong các làn sóng dịch bệnh có kết quả
hoạt động tốt hơn so với các quỹ mở trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Từ khóa: Hiệu quả hoạt động, COVID-19, Quỹ đầu tư, Việt Nam
1
Tác giả liên hệ, Email: anhttx@hvnh.edu.vn
1. Đặt vấn đề
Báo cáo rủi ro toàn cầu quý I năm 2020 của Diễn đàn Kinh tế thế giới đã xếp sự
lây lan của dịch bệnh truyền nhiễm ở vị trí thứ 10 trong số các rủi ro khác nhau có
thể làm suy yếu hệ thống kinh tế. Ngay sau khi Báo cáo được công bố, rủi ro tưởng
như rất khó xảy ra này đã xuất hiện và đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hệ thống tài chính toàn cầu (Rizvi & cộng sự, 2020).
Sự bùng phát COVID-19 đã làm tê liệt các nền kinh tế lớn với cú sốc cả về cung
và cầu và nhiều thị trường tài chính đã suy giảm tới 20% (Rizvi & cộng sự, 2020).
Hầu hết các thị trường tài chính đều đã trải qua những đợt ngừng hoạt động đột
ngột và biến động mạnh. Thị trường tín dụng cũng hỗn loạn do người vay phải chịu
nhiều áp lực từ sự gia tăng rủi ro kinh doanh. Trên thế giới, do tổng số nợ vay của
hộ gia đình và doanh nghiệp đang ở mức cao kỷ lục nên khi hoạt động của nền kinh
tế và thị trường trở nên xấu đi có thể dẫn đến tỷ lệ vỡ nợ rất cao (Blundell-Wignall,
2011; Lannoo & cộng sự, 2013; Zabai, 2017). Vì vậy, nhiều ngân hàng trung ương
đang can thiệp liên tục để hỗ trợ cho các bên tham gia. Bên cạnh đó, suy thoái kinh
tế đang là mối quan tâm hàng đầu, do đó thúc đẩy các cơ quan quản lý và nhà đầu tư
(NĐT) có những phản ứng nhanh chóng. Để hỗ trợ và hồi phục nền kinh tế, chính
phủ các nước đã sử dụng các gói hỗ trợ khác nhau, từ đó gây áp lực lớn lên nền tài
chính công. Kết quả là lợi suất tín phiếu kho bạc giảm mạnh và tỷ suất sinh lời của
các công cụ đầu tư trên thị trường bị ảnh hưởng (Baele & cộng sự, 2019).
Các khoản đầu tư vào quỹ đầu tư thường được lựa chọn bởi vì các NĐT không
thích rủi ro, những người không có kinh nghiệm, am hiểu thị trường hoặc muốn
thực hiện uỷ thác tài sản cho quỹ đầu tư thực hiện trên TTCK (Carhart, 1997; Fama
& French, 2010). Các quỹ đầu tư quản lý chủ động được kỳ vọng mang lại tỷ suất
sinh lời cao hơn so với tỷ suất sinh lời của chứng khoán riêng lẻ hoặc so với chỉ số
chứng khoán, đặc biệt là trong các giai đoạn thị trường đang suy giảm hoặc trải qua
những cú sốc lớn (Chevalier & Ellison, 2017; Golec, 1996). Điều này hàm ý rằng
sự thay đổi trong tỷ suất sinh lời của quỹ đầu tư có khả năng phản ánh tác động của
một cú sốc mang tính hệ thống như COVID-19 rõ ràng hơn so với các chỉ số chứng
khoán hoặc tỷ suất sinh lời cổ phiếu khác. Hơn nữa, vì các loại hình quỹ đầu tư khác
nhau về cơ cấu danh mục đầu tư, hình thức đầu tư cũng như phong cách đầu tư nên
việc phân tích tỷ suất sinh lời của quỹ thường đặt trọng tâm vào việc định lượng tác
động cơ cấu danh mục đầu tư (thông qua quyết định phân bổ vốn và lựa chọn chứng
khoán đầu tư) và phong cách đầu tư của nhà quản lý quỹ (Naqvi & cộng sự, 2018;
Reddy & cộng sự, 2017).
trong đó SRi là hệ số Sharpe cho quỹ i; sk là giá trị skewness; kr là giá trị kurtosis.
Thước đo thứ hai được sử dụng trong bài nghiên cứu là tỷ lệ phần bù rủi ro trên
giá trị rủi ro (Value at risk - VaR). Nghiên cứu của Assaf (2015), Iglesias (2015) và
Su (2015) cho thấy các mô hình dựa trên VaR vượt trội hơn về mặt thống kê trong
việc định lượng rủi ro thị trường. Tương tự, nghiên cứu của Deng & cộng sự (2013)
đã chứng minh mức độ phù hợp của giá trị rủi ro trong tối ưu hóa danh mục đầu tư.
Ngoài ra, nghiên cứu Reddy & cộng sự (2017) cũng lưu ý rằng các phương pháp đo
trong đó RP và VARP đại diện cho tỷ suất sinh lời và giá trị rủi ro cho mỗi quỹ (dựa
trên giá trị tài sản ròng NAV).
4. Kết quả nghiên cứu
4.1 Giới thiệu về hệ thống quỹ đầu tư tại Việt Nam
Ngành quản lý quỹ tại Việt Nam bắt đầu hình thành từ tháng 07 năm 2003 với sự
ra đời của Công ty Quản lý quỹ đầu tư Việt Nam và quỹ đầu tư đầu tiên hình thành
vào năm 2004. Giai đoạn 1991-2001 trên thị trường chủ yếu là hoạt động của các
quỹ đầu tư nước ngoài. Sau gần 20 năm hình thành và phát triển, ngành quản lý quỹ
đã có nhiều sự thay đổi cả về số lượng quỹ đầu tư chứng khoán, quy mô tài sản quản
lý cũng như loại hình quỹ đầu tư.
Quỹ đầu tư trong nước đầu tiên ra đời ở Việt Nam vào ngày 20/05/2004 là quỹ
VF1, quỹ đóng, được cấp phép thành lập và được niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán thành phố Hồ Chí Minh với số vốn ban đầu là 300 tỷ đồng. Trong thời gian
đầu, quỹ đóng là loại quỹ phổ biến với số lượng tăng lên nhanh chóng và chiếm
phần lớn trong tổng số quỹ đầu tư tại Việt Nam. Năm 2008, số lượng quỹ đóng là
18 chiếm 85% tổng số quỹ đầu tư (Dự án Việt, 2021).
Đơn vị: quỹ, tỷ đồng
Biểu đồ 1. Thống kê các loại quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán
và giá trị tài sản ròng của các quỹ đầu tư
Nguồn: Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (2021)
Biểu đồ 2. Tổng tài sản quản lý AUM tại các công ty quản lý quỹ
Nguồn: Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (2021)
Tổng tài sản quản lý tại các công ty quản lý quỹ cũng có sự gia tăng qua các năm.
Giai đoạn 2012- 2013, tổng tài sản quản lý AUM tại các công ty quản lý quỹ chỉ
khoảng 90000 tỷ đồng, đến năm 2019 đã tăng lên hơn 320000 tỷ đồng và giữa năm
2020 tăng lên gần 360000 tỷ đồng, gấp gần 4 lần năm 2012. Sự tăng trưởng này đến
từ sự tăng trưởng trong quy mô thị trường và nỗ lực của các công ty quản lý quỹ.
Trong quá trình phát triển ngành quỹ đầu tư, nhiều loại quỹ mới được giới thiệu
như quỹ mở, quỹ bất động sản, quỹ ETF. Trong đó, sự tham gia của các quỹ ETF
đã đóng góp rất lớn vào tính thanh khoản của thị trường, cung cấp lựa chọn đầu tư
đa dạng cho NĐT. Quy mô tổng tài sản của các quỹ ETF quản lý trên toàn cầu tăng
mạnh giai đoạn 2009-2019 với mức tăng gần 400% lên 11,4 nghìn tỷ USD vào ngày
19/11/2019 cho thấy vai trò của ETF. Tại Việt Nam, số lượng các quỹ ETF đã tăng
đáng kể, bao gồm cả các quỹ ETF nước ngoài và các quỹ ETF trong nước.
FTSE Vietnam ETF và VNM ETF là hai quỹ ETF nước ngoài đầu tiên đầu tư
vào TTCK Việt Nam, được thành lập vào năm 2008 và 2009 với giá trị tài sản ban
đầu lần lượt là 5,1 triệu USD và 14 triệu USD. Quỹ ETF trong nước đầu tiên tại
Biểu đồ 3. Tổng giá trị NAV của các quỹ ETF trong nước
Nguồn: Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (2021)
Tuy đã có sự phát triển nhất định qua các năm nhưng hoạt động của các quỹ đầu
tư tại Việt Nam vẫn còn hạn chế so với tiềm năng của thị trường. Các quỹ đầu tư
cũng chưa thực sự phát huy được vai trò trong thu hút vốn đầu tư, dẫn dắt các NĐT
cá nhân và đóng góp vào sự ổn định trong hoạt động của TTCK. Số lượng các quỹ
niêm yết chứng chỉ quỹ trên Sở giao dịch chứng khoán còn ít, khối lượng giao dịch
thấp so với tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường (tính cho cả cổ phiếu, chứng
quyền và trái phiếu). Điều này cản trở ngành quỹ đầu tư tiếp cận với các NĐT tiềm
năng trên thị trường thứ cấp.
Hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư có tác động nhất định lên TTCK Việt
Nam. Trong đó, các quỹ đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng khá lớn do có quy mô
đầu tư lớn, khả năng phân tích thị trường tốt, có ảnh hưởng đến thanh khoản của thị
trường. Luồng vốn trực tiếp và gián tiếp của các quỹ đầu tư ngoại được các NĐT
quan tâm để đưa ra chiến lược đầu tư phù hợp. Các quỹ đầu tư nước ngoài trước đây
có xu hướng đầu tư vào các doanh nghiệp lớn niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh nhằm hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, khi làn sóng khởi
Biểu đồ 4. Số lượng quỹ đầu tư chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch
Nguồn: Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (2021)
Bên cạnh đó, các quỹ đầu tư nước ngoài trước những tác động của yếu tố toàn
cầu có thể rút vốn ồ ạt ra khỏi thị trường Việt Nam. Trong quý I năm 2020, dưới tác
động của dịch COVID-19, giá trị dòng vốn ETF rút khỏi các thị trường mới nổi và
Biểu đồ 6. Độ lệch (skewness) của tỷ suất sinh lời theo ngày các quỹ đầu tư
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
Trước tiên, độ lệch cuộn (rolling skewness) và độ nhọn cuộn (rolling kurtusis)
với khoảng thời gian 1 tháng (trung bình 24 ngày) được tính toán và biểu diễn trong
Biểu đồ 7. Độ nhọn (kurtusis) của tỷ suất sinh lời theo ngày các quỹ đầu tư
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
Trong khi tỷ số Sharp thông thường rất nhạy cảm với những biến động của thị
trường (Scholz, 2007) thì tỷ số Sharp điều chỉnh không yêu cầu phân phối của tỷ
suất sinh lời là chuẩn và được điều chỉnh theo độ lệch và độ nhọn của tỷ suất sinh
Biểu đồ 8. Hệ số Sharp điều chỉnh (ASR) tổng hợp cho từng giai đoạn nghiên cứu
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
Trong cả giai đoạn nghiên cứu, nhìn chung các quỹ đều có ASR âm, ngoại trừ
quỹ ETF nước ngoài IshareMSCI, quỹ mở đầu tư cổ phiếu và trái phiếu VCBF-
TBF, và quỹ mở đầu tư cổ phiếu VFMVSF. Tương tự, tỷ lệ phần bù rủi ro trên giá
trị rủi ro RVAR của phần lớn các quỹ đều âm, chỉ có số lượng rất ít các quỹ có giá
trị dương (Biểu đồ 9). Điều này là do lợi nhuận trung bình nhỏ hơn lãi suất phi rủi
ro trong giai đoạn lấy mẫu.
Kết quả ASR và RVAR trong từng giai đoạn có sự khác biệt đáng kể. Làn sóng
COVID-19 đầu tiên tác động mạnh mẽ đến lợi nhuận của tất cả các quỹ, hầu hết các
Biểu đồ 9. RVAR của các quỹ đầu tư trong từng giai đoạn nghiên cứu
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
Giai đoạn sau đó TTCK có những diễn biến tích cực cùng với những chính sách
của Chính phủ như giảm lãi suất. Biến động tỷ suất sinh lời của các quỹ đầu tư cũng
giảm dần ở làn sóng dịch bệnh thứ 2, không còn phản ứng quá mạnh với những
thông tin bùng phát dịch ở Việt Nam. Đây là giai đoạn thành công của nhiều quỹ
đầu tư lớn tại Việt Nam. Hầu hết các quỹ đều có hệ số Sharp điều chỉnh dương ở
mức nhỏ. Kết quả này cũng tương tự với chỉ số RVAR (trung bình ở mức 0,04). So
với các quỹ đầu tư trong nước thì các quỹ đầu tư nước ngoài và quỹ ETF có kết quả
tốt hơn với mức tăng ASR và RVAR lớn hơn như VNM, FTSE, iShareMSCI.... Rõ
Biểu đồ 10. Hệ số Sharp điều chỉnh liên tục (Rolling ASR) của các quỹ ETF
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
Bên cạnh những diễn biến chung thì hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư khác
nhau cũng rất khác nhau. Trong tất cả các giai đoạn, phần lớn các quỹ ETF đều cho
thấy khả năng chống đỡ trước những diễn biến phức tạp của thị trường khi chỉ số
ASR không có biến động quá mạnh, ngoại trừ quỹ IshareMSCI. Điều này chứng
tỏ các quỹ ETF hoạt động khá hiệu quả và có khả năng thích ứng với các điều kiện
bất lợi của thị trường. Các quỹ ETF không những đã không làm tăng sự biến động
Biểu đồ 11. Hệ số Sharp điều chỉnh liên tục (Rolling ASR) của các quỹ mở
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
5. Kết luận
Đại dịch COVID-19 xảy ra và nhanh chóng lây lan ra nhiều quốc gia trên thế giới
cũng như tạo ra các làn sóng dịch bệnh ở Việt Nam đã có những tác động nghiêm
trọng đến hệ thống tài chính, tạo ra những thách thức không nhỏ đối với các NĐT,
nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu này là một
đánh giá sơ bộ về hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư khác nhau trên TTCK Việt
Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Hệ số lợi nhuận được điều chỉnh theo rủi
ro của các quỹ đầu tư có sự biến động khác nhau. Giai đoạn nghiên cứu từ tháng 01
năm 2020 đến tháng 06 năm 2021 có 4 làn sóng dịch bệnh diễn ra. Đầu năm 2020
khi làn sóng dịch bệnh đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam, TTCK biến động mạnh, hiệu
suất của hầu hết các quỹ đầu tư đều không tốt khi phần lớn đều có tỷ suất sinh lời
QUẢN LÝ
VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
Tóm tắt: Các nước trên thế giới đang hướng tới một xã hội không dùng tiền mặt
và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Tại Việt Nam, việc phát triển dịch vụ thanh
toán di động (TTDĐ) góp phần đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt đang
có nhiều tiềm năng, tuy nhiên, thực trạng sử dụng tiền mặt vẫn còn khá phổ biến
trong các giao dịch. Nghiên cứu được thực hiện với mục đích xác định các nhân tố
tác động đến ý định sử dụng dịch vụ TTDĐ của các cá nhân dựa trên phân tích lợi
ích - chi phí và ảnh hưởng xã hội. Nghiên cứu áp dụng mô hình cấu trúc tuyến tính
SEM để phân tích 201 mẫu quan sát thu thập được thông qua khảo sát. Kết quả
thực nghiệm chỉ ra rằng giá trị cảm nhận, chuẩn mực xã hội và hình ảnh xã hội có
tác động tích cực tới ý định sử dụng dịch vụ TTDĐ. Cụ thể, giá trị cảm nhận chịu
ảnh hưởng bởi lợi ích cảm nhận (lợi thế tương đối), chi phí cảm nhận (chi phí phải
trả) và hình ảnh xã hội. Ngoài ra, chuẩn mực xã hội cũng tác động tích cực đến
hình ảnh xã hội. Dựa trên kết quả kết quả này, nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị
dành cho các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán di động tại Việt Nam.
Từ khóa: Dịch vụ thanh toán di động, Ý định sử dụng, Phân tích lợi ích - chi
phí, Ảnh hưởng xã hội, SEM
1
Tác giả liên hệ, Email: ha.nguyen@ftu.edu.vn
1. Phần mở đầu
Sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng Công nghiệp 4.0 đã và đang làm thay
đổi toàn diện mọi mặt của các nền kinh tế trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng. Công nghệ giúp xóa bỏ rào cản về khoảng cách không gian và thời gian, từ
đó tạo điều kiện phát triển những sản phẩm và dịch vụ tài chính với ưu điểm chi phí
thấp, dễ dàng tiếp cận và mang lại trải nghiệm tốt hơn cho người tiêu dùng. Đồng
thời, sự phát triển bùng nổ của các giao dịch thương mại điện tử làm cho dịch vụ
TTDĐ trở thành nền tảng thanh toán ngày càng được ưa chuộng. Trong nghiên cứu
này, dịch vụ TTDĐ được hiểu là bất kỳ dịch vụ thanh toán nào có sử dụng thiết bị
di động (mobile device) để thực hiện, ủy quyền và xác nhận một giao dịch thương
mại (Kim & cộng sự, 2010).
Việt Nam được đánh giá là một thị trường đầy tiềm năng cho dịch vụ TTDĐ.
Theo khảo sát của Statista (2021), Việt Nam nằm trong danh sách 10 quốc gia sử
dụng điện thoại di động nhiều nhất thế giới với khoảng 61,3 triệu người sử dụng.
Số liệu thống kê của Vụ Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước (2021) cho thấy đến cuối
năm 2020, số lượng giao dịch thanh toán qua điện thoại di động đạt hơn 1.044 tỷ
lượt giao dịch với giá trị đạt gần 10,9 triệu tỷ đồng (tăng 118,5% về số lượng và
121% về giá trị so với cùng kỳ năm 2019). Tuy nhiên, tỷ trọng tiền mặt trên tổng
số các phương tiện thanh toán vẫn còn cao, thậm chí có xu hướng tăng lên. Cụ thể,
cuối năm 2020, tỷ trọng tiền mặt trên tổng số các phương tiện thanh toán là 11,05%
nhưng đến hết tháng 04/2021 lại tăng lên mức 11,53%, tương ứng khoảng 1,43 triệu
tỷ đồng (Vụ Thanh toán - Ngân hàng Nhà nước, 2021), cao hơn mục tiêu được đưa
ra trong Quyết định số 2545/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
30/12/2016 là dưới 10%.
Với mong muốn đẩy mạnh hơn nữa dịch vụ TTDĐ, góp phần phát triển thanh toán
không dùng tiền mặt theo định hướng của Chính phủ, nghiên cứu được thực hiện
nhằm xác định các nhân tố tác động đến quyết định sử dịch vụ TTDĐ của khách hàng
dựa trên phân tích lợi ích - chi phí và ảnh hưởng xã hội. Mặc dù chủ đề nghiên cứu
về dịch vụ TTDĐ gần đây đã thu hút sự chú ý của nhiều học giả trong và ngoài nước,
nhưng các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng
Trong các biến liên quan đến phân tích lợi ích – chi phí, giá trị cảm nhận được
hiểu là sự đánh đổi bù đắp giữa lợi ích nhận được và chi phí phát sinh (Cocosila &
Igonor, 2015; Hernandez-Ortega & cộng sự, 2017). Theo mô hình nghiên cứu đề
xuất, giá trị cảm nhận và ảnh hưởng xã hội là những yếu tố quan trọng quyết định
Số lượng Tỷ trọng
Biến nhân khẩu học
(người) (%)
Giới tính Nam 52 25,9
Nữ 149 74,1
Độ tuổi Dưới 18 tuổi 12 6,0
18-23 tuổi 121 60,2
24-30 tuổi 20 10,0
31-50 tuổi 38 18,9
Trên 50 tuổi 10 5,0
Trình độ học vấn Phổ thông 18 9,0
Cao đẳng/Đại học 148 73,6
Sau đại học 35 17,4
Thu nhập hàng Dưới 5 triệu VND 84 41,8
tháng Từ 5 triệu VND đến dưới 10 triệu VND 45 22,4
Từ 10 triệu VND đến dưới 20 triệu VND 38 18,9
Từ 20 triệu VND đến dưới 30 triệu VND 19 9,5
Từ 30 triệu VND đến dưới 50 triệu VND 10 5,0
Trên 50 triệu VND 5 2,5
Kinh nghiệm Dưới 1 tháng 10 5,0
sử dụng dịch vụ 1-3 tháng 12 6,0
TTDĐ
4-6 tháng 11 5,5
7 tháng-1 năm 26 12,9
Trên 1 năm 135 67,2
Chưa từng sử dụng 7 3,5
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả
Chỉ số đo lường Giá trị chấp nhận Tham khảo Kết quả
χ2/df ≤3 Hayduck (1987) 2,033
GFI ≥ 0,8 Baumgartner & Homburg (1996); 0,800
Doll & cộng sự (1994)
AGFI ≥ 0,8 Baumgartner & Homburg (1996); 0,856
Doll & cộng sự (1994)
NFI ≥ 0,8 Hair & cộng sự (2010) 0,837
CFI ≥ 0,9 Bagozzi & Yi (1988) 0,909
RMSEA ≤ 0,08 Bagozzi & Yi (1988) 0,072
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả
Kiểm định độ tin cậy và phù hợp của các nhóm biến gồm các kiểm định: tính
nhất quán nội bộ, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt.
Kết quả ở Bảng 3 cho thấy tất cả các thang đo nhóm yếu tố trong mô hình nghiên
cứu đều có hệ số Cronbach’s Alpha (CA) và chỉ số độ tin cậy tổng hợp (Composite
Reliability - CR) có giá trị lớn hơn 0,7 (Fornell & Larcker, 1981; Nunnally, 1978).
Ngoài ra, biến quan sát trong mô hình đều có giá trị tương quan biến tổng thoả mãn
2
Nghiên cứu sử dụng 31 biến quan sát, như vậy kích thước mẫu tối thiểu cần đạt là N = 5*31 = 155
QUẢN LÝ
VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
Tóm tắt: Nghiên cứu được thực hiện bằng phương pháp định lượng thông qua dữ
liệu 218 khách hàng thường xuyên tập luyện tại các Trung tâm của Elite Fitness
phản hồi bằng bảng hỏi trực tiếp. Dữ liệu thu thập được xử lý thông qua các bước
phân tích độ tin cậy, phân tích khám phá nhân tố, phân tích khẳng định nhân tố
và mô hình cấu trúc tuyến tính SEM. Kết quả cho thấy trải nghiệm thương hiệu
về hành vi, cảm giác, cảm xúc và trí tuệ nhận thức có tác động tương đồng đến
tính cách thương hiệu. Nghiên cứu cũng đã cho thấy rằng, đối với dịch vụ có tính
tương tác cao thì trải nghiệm thương hiệu về mặt hành vi tác động mạnh nhất tới
tính cách thương hiệu, trong khi đó đối với hàng hóa hữu hình thì trải nghiệm
về mặt cảm giác có tác động mạnh nhất. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp thêm
một bằng chứng nữa về mối tương quan giữa trải nghiệm thương hiệu, tính cách
thương hiệu và sự thỏa mãn thương hiệu.
Từ khóa: Trải nghiệm thương hiệu, Tính cách thương hiệu, Sự thỏa mãn thương
hiệu, Dịch vụ thể thao cao cấp
Abstract: The study was performed by quantitative methods through data of 218
regular trainers at Elite Fitness Centers using direct questionnaires. Collected data
are processed by software SPSS 22.0, AMOS 22.0 through steps of reliability
analysis, factor discovery analysis, factor confirmation analysis and linear
structural model SEM. The results show that brand experience in behavioral,
sensory, affective and intelligence has an impact on brand personality. Research
has also shown that, for highly interactive services, behavioral brand experience
has the strongest impact on brand personality, while for tangible goods, sensory
experience has the strongest impact on brand personality. Research results have
1
Tác giả liên hệ, Email: quannh@ftu.edu.vn
1. Giới thiệu
Ngày nay, vấn đề thương hiệu đang được rất nhiều doanh nghiệp, khách hàng
cũng như các nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm. Keller (2001) cho rằng một thương
hiệu mạnh ẩn chứa bên trong rất nhiều sức mạnh, có thể khiến một doanh nghiệp trở
nên khác biệt và nổi trội so với các đối thủ cạnh tranh, ảnh hưởng đến quyết định
mua sắm của khách hàng theo chiều hướng có lợi cho doanh nghiệp, xây dựng lực
lượng khách hàng trung thành và thúc đẩy doanh nghiệp phát triển cả về quy mô lẫn
lợi nhuận. Muốn duy trì sự thành công và phát triển trong kinh doanh, doanh nghiệp
cầnchú ý đến các yếu tố mang lại giá trị thương hiệu (Aaker, 1996; Keller, 2013).
Tuy nhiên, cần phải có cách tiếp cận toàn diện về sự ảnh hưởng của thương hiệu
đến sự thỏa mãn, xu hướng tiêu dùng hay ý định mua cũng như ý định mua lặp lại
của khách hàng chứ không phải hiểu xây dựng và phát triển thương hiệu trong một
cách nhìn hạn chế chỉ là một chiến dịch thay đổi logo công ty, thiết kế phong cách
hay là cách phối hợp màu sắc sản phẩm (Brakus & cộng sự, 2009).
Nhu cầu chăm sóc sức khỏe là nhu cầu cơ bản của con người để đảm bảo nâng
cao chất lượng cho cuộc sống. Khi kinh tế ngày càng phát triển cũng là lúc mà nhu
cầu làm đẹp và chăm sóc sức khỏe của con người cũng tăng lên. Tại Việt Nam trong
những năm gần đây, đời sống người dân đã được cải thiện, thu nhập bình quân đầu
người là 3.521 USD, GDP đạt khoảng 343 tỷ USD năm 2020 (Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, 2020). Từ đó, nhu cầu về tập luyện thể dục, thể thao làm đẹp ngày càng được
nhiều người quan tâm, các trung tâm thể dục thể thao cũng ngày một nhiều hơn để
đáp ứng nhu cầu tập luyện của người dân. Hoạt động từ năm 2010, Elite Fitness là
hệ thống phòng tập thể thao đạt 5 sao tiêu chuẩn quốc tế hàng đầu tại Việt Nam với
14 địa điểm dịch vụ trên toàn quốc. Được thiết kế với tiêu chuẩn chất lượng với các
dịch vụ thể thao đa chức năng luyện tập theo cá nhân, theo nhóm hoặc câu lạc bộ
với huấn luyện viên chuyên nghiệp ở phân khúc cao cấp nên khía cạnh thương hiệu
được xây dựng có nhiều điểm đặc trưng so với các thương hiệu ở phân khúc khác
(Elite Fitness, 2021). Mặc dù, đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới đề cập tới vấn đề
thương hiệu dịch vụ, trải nghiệm thương hiệu và sự hài lòng thương hiệu dịch vụ,
tuy nhiên, xem xét mối quan hệ giữa trải nghiệm thương hiệu dịch vụ cao cấp với
cá tính thương hiệu và lòng trung thành thương hiệu vẫn chưa có nhiều nghiên cứu,
đặc biệt ở Việt Nam. Hơn nữa, khi xem xét đối với dịch vụ có tính tương tác với
khách hàng như dịch vụ thể thao cao cấp liệu có điểm gì khác biệt so với trải nghiệm
với hàng hóa và dịch vụ đóng gói thông thường hay không? Do vậy, việc nghiên
cứu mối quan hệ giữa trải nghiệm thương hiệu thông qua cá tính thương hiệu đến sự
Tương Cronbach’s Hệ số
Nhân tố Ký hiệu/tóm tắt quan sát quan biến Alpha nếu Cronbach’
- tổng loại biến Alpha
Trải nghiệm CG1: Ấn tượng mạnh với các giác quan 0,516 0,652 0,715
về mặt cảm CG2: Thú vị về mặt cảm quan 0,559 0,596
giác (CG)
CG3: Không hấp dẫn với giác quan 0,530 0,630
Trải nghiệm CX1: Mang lại cảm xúc và tình cảm 0,520 0,813 0,813
về mặt tình CX2: Không mang lại cảm xúc mạnh 0,691 0,735
cảm (CX)
CX3: Giàu cảm xúc 0,686 0,738
CX4: Nhiều cảm xúc 0,636 0,763
Tính cách TC1: Mang lại sự chân thành 0,520 0,703 0,749
thương hiệu TC2: Mang lại sự tinh tế 0,625 0,666
(TC)
TC3: Có độ bền (dụng cụ) 0,592 0,674
TC4: Mang lại sự thú vị 0,456 0,726
TC5: Mang lại hiệu quả cao 0,394 0,748
Hài lòng HL1: Hài lòng về dịch vụ của thương hiệu 0,586 0,693 0,763
thương hiệu HL2: Đáp ứng được các yêu cầu 0,549 0,713
(HL)
HL3: Quyết định đúng đắn khi lựa chọn 0,532 0,722
HL4: Hạnh phúc khi sử dụng thương hiệu 0,578 0,698
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Bảng 3. Ma trận xoay nhân tố
Biến 1 2 3 4 5
CG1 0,866
CG3 0,866
CG2 0,844
HV2 0,837
HV3 0,735
HV4 0,722
HV1 0,719
CX3 0,836
CX4 0,761
CX1 0,723
CX2 0,686
Yếu tố cần đánh giá Kết quả phân tích So sánh với lý thuyết
Giá trị Sig. trong kiểm định Bartlett 0,000 0,000 < 0,05
Hệ số KMO 0,807 0,5 < 0,807< 1
Phương sai trích 63,337% 63,337% < 100%
Giá trị Eigenvalue 1,573 1,573 > 1
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Chú thích: ***: P-value nhận giá trị bé hơn 0.001 (rất tốt)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Chú thích: ***: P-value nhận giá trị bé hơn 0.001 (rất tốt)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Trong bốn biến tác động đến tính cách thương hiệu Elite Fitness, thì nhân tố trải
nghiệm thương hiệu hành vi có trọng số hồi quy chuẩn hóa cao (0,358), tiếp sau
là trải nghiệm thương về mặt trí tuệ, nhận thức (0,239), trải nghiệm thương hiệu
về mặt cảm giác (0,234) và cuối cùng là trải nghiệm thương hiệu về mặt cảm xúc
(0,208). Ngoài ra, nhân tố cá tính thương hiệu cũng tác động tới sự thỏa mãn thương
hiệu với trong số hồi qui (0,280).
Qua kết quả tổng hợp tác động của các nhân tố có thể giải thích cụ thể như sau:
Sau khi phân tích mô hình cấu trúc tổng thể phù hợp được đánh giá và kiểm định,
xem xét giá trị ước lượng để kiểm tra các mối quan hệ nhân quả. Kết quả ước lượng
chuẩn hóa trên hình cho thấy tất cả trọng số ước lượng đều mang dấu dương (+) nên
các giả thuyết đều được chấp nhận trong mô hình nghiên cứu lý thuyết. Trong đó
trải nghiệm thương hiệu tác động trực tiếp đến tính cách thương hiệu và gián tiếp
tới sự thỏa mãn khách hàng như ở Hình 3.
Giả thuyết H1, H2, H3, H4 được chấp nhận, đã khẳng định trải nghiệm thương
hiệu về mặt cảm giác, tình cảm, hành vi, trí tuệ và nhận thức có ảnh hưởng tích cực
đến tính cách thương hiệu. Kết quả SEM cho thấy hệ số hồi quy chuẩn hóa mang
giá trị dương với giá trị lần lượt 0,208, 0,234, 0,358 và 0,239 với p = 0,000 chứng
tỏ cả 04 nhân tố trải nghiệm thương hiệu có mối quan hệ thuận chiều với sự thỏa
mãn của khách hàng với độ tin cậy 99%.
Giả thuyết H5 cũng được chấp nhận đã cho thấy tính cách thương hiệu ảnh
hưởng tích cực đến sự thỏa mãn thương hiệu của khách hàng với hệ số hồi quy
chuẩn hóa mang giá trị dương bằng 0,280 và p = 0,000, chứng tỏ sự thỏa mãn của
khách hàng có mối quan hệ thuận chiều với ý định mua lặp lại với độ tin cậy 99%.
5. Kết luận và hàm ý quản trị
5.1 Kết luận
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được rằng, các biến quan sát thuộc trải nghiệm
thương hiệu có tác động mạnh mẽ tới tính cách thương hiệu của Elite Fitness với
các hệ số hồi quy như hình trên. Đối với các tác động này, trải nghiệm về mặt hành
vi có tác động lớn nhất đến tính cách thương hiệu của trung tâm thể thao này với
QUẢN LÝ
VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
Tóm tắt: Đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi đáng kể hành vi mua sắm trực tuyến
của người tiêu dùng Việt Nam. Nghiên cứu này nhằm khám phá các nhân tố ảnh
hưởng tới hành vi mua sắm trực tuyến của sinh viên các trường đại học Hà Nội trong
bối cảnh đại dịch COVID-19. Bài viết phân tích ảnh hưởng của 7 yếu tố gồm: thái
độ, chuẩn mực chủ quan, nhận thức kiểm soát hành vi, rủi ro cảm nhận, niềm tin,
chất lượng của trang web và giá cả đến hành vi mua sắm trực tuyến của giới trẻ. Số
liệu nghiên cứu được thu thập qua mạng Internet từ 270 sinh viên đang học tại các
trường đại học của Hà Nội trong tháng 1 năm 2021. Kết quả nghiên cứu cho thấy
ngoài yếu tố rủi ro cảm nhận, 6 yếu tố còn lại có tác động cùng chiều tới hành vi mua
sắm trực tuyến của người tiêu dùng. Nghiên cứu cung cấp một số hàm ý về chính
sách nhằm phát triển hoạt động bán lẻ trực tuyến tại Việt Nam.
Từ khóa: Covid-19, Hành vi mua sắm trực tuyến, Sinh viên, Hà Nội
FACTORS AFFECTING ONLINE SHOPPING BEHAVIOR OF
HANOI UNIVERSITY STUDENTS IN
THE CONTEXT OF COVID-19
Abstract: The COVID-19 outbreak has considerably changed the online
shopping behavior of Vietnamese consumers. This study aims to explore the
factors influencing the online shopping behavior of Hanoi university students in
the context of Covid-19 pandemic. The study analyzed the effect of seven factors:
attitude, subject norm, perceived behavioral control, perceived risk, belief,
1
Tác giả liên hệ, Email: hanhvt@ftu.edu.vn
1. Đặt vấn đề
Với sự bùng nổ của thị trường thương mại điện tử, mua sắm trực tuyến được
nhận định là một phương thức giao dịch hiệu quả. Đối với doanh nghiệp, bán hàng
qua mạng được coi là một kênh phân phối hiệu quả, giúp xóa bỏ các rào cản về mặt
địa lý, mở rộng nhóm khách hàng tiềm năng, cũng như giảm thiểu các chi phí kinh
doanh như thuê mặt bằng, nhân sự, tiếp thị. Đối với người tiêu dùng, mua sắm trực
tuyến đem lại nhiều lợi ích như tiết kiệm thời gian và công sức mua tại các cửa hàng
truyền thống, có thể mua sắm mọi lúc mọi nơi và có nhiều sự lựa chọn về các mặt
hàng, dễ dàng tìm kiếm thông tin về sản phẩm, có thể so sánh giá của các nhà cung
cấp khác nhau. Vì vậy, mua sắm trực tuyến đang là một xu hướng mới của hành vi
mua sắm và đã thực sự bùng nổ trong thế kỷ 21 (Bùi, 2018).
Trong thời kỳ đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng COVID-19, khi nhiều quốc
gia trên thế giới áp dụng các biện pháp phong tỏa, giá trị giao dịch tại phân khúc
thương mại số đạt khoảng 4,2 triệu USD trong năm 2021, tương đương với mức
tăng trưởng là 8,76% so với năm 2020. Lưu lượng truy cập thương mại diện tử bán
lẻ toàn cầu đạt mức kỷ lục 22 tỷ lượt/tháng, với nhu cầu đặc biệt cao đối với các mặt
hàng thời trang, điện tử, đồ chơi và sách (Statista, 2021).
Tại Việt Nam, thị trường mua bán trực tuyến đã phát triển trong những năm
gần đây nhưng hình thức mua sắm truyền thống vẫn còn được nhiều người dân ưa
chuộng. Tuy nhiên, tình hình đã hoàn toàn thay đổi kể từ đại dịch COVID-19. Với
số ca lây nhiễm trong cộng đồng không ngừng gia tăng, Chính phủ đã áp dụng biện
pháp giãn cách xã hội để đảm bảo an toàn sức khỏe cho nhân dân, người tiêu dùng
cũng hạn chế đi mua tại các cửa hàng truyền thống nhằm giảm thiểu nguy cơ lây
nhiễm. Tỷ lệ người dùng Internet tham gia mua sắm trực tuyến đã tăng từ 77% trong
năm 2019 lên 88% năm 2020 (Sách trắng thương mại điện tử Việt Nam, 2021).
Mua sắm trực tuyến càng phát triển, các yếu tố tác động lên hành vi mua sắm
trực tuyến của người tiêu dùng ngày càng đa dạng. Nghiên cứu về các yếu tố tác
động đến hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng đang được nhiều học giả
quan tâm (Hansen & cộng sự, 2004; Chiu & cộng sự, 2005; Javadi & cộng sự, 2012;
Jadhav & Khanna, 2016). Các nghiên cứu chủ yếu đươc thực hiện ở phạm vi quốc
gia (Meher & Burhan, 2020; Ariff & cộng sự, 2014; Ko & cộng sự, 2013; Arpita
NT3 Tôi tin rằng trang web tôi mua sắm trong thời kỳ COVID-19 đáp
ứng được đúng mong đợi của tôi.
NT4 Tôi tin rằng trang web tôi mua sắm trong thời kỳ COVID-19 đáng
tin cậy.
Đáng chú ý, do đây là đối tượng chưa đi làm nên có khá nhiều thời gian mua sắm
trực tuyến. Cụ thể, tần suất mua sắm trực tuyến trên 10 lần/tháng chiếm 39% tổng
số khách hàng.
Hình 1. Các sản phẩm giao dịch trực tuyến trong thời kỳ Covid-19
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả
Kết quả kiểm định KMO cho thấy hệ số KMO bằng 0,777 > 0,5 giúp ta kết luận
được rằng phân tích nhân tố hoàn toàn phù hợp với dữ liệu nghiên cứu. Đồng thời,
Kết quả kiểm định KMO theo Bảng 6 cho thấy hệ số KMO = 0,5, đồng thời kết
quả kiểm định Bartlett là 88,811 với mức ý nghĩa Sig = 0,000 < 0,005. Từ đó, ta kết
luận được dữ liệu về biến phụ thuộc được sử dụng trong mô hình dùng để phân tích
nhân tố là thích hợp.
Sau đó, ta tiếp tục sử dụng hệ số Eigenvalue và tổng phương sai trích để phân
tích. Theo kết quả phân tích SPSS, giá trị phương sai trích là 76,576% > 50%, và giá
trị Eigenvalue của duy nhất yếu tố đầu tiên = 1,532 > 1. Đồng thời, trong ma trận
xoay có thông báo “Chỉ có một yếu tố được trích xuất. Không thể xoay”. Từ đó, kết
luận rằng, các biến phụ thuộc đều hội tụ lại thành một nhân tố và ta có thể rút gọn
biến phụ thuộc xuống còn 1 biến.
4.3 Mô hình hồi quy và kiểm định giả thuyết nghiên cứu
Dựa trên kết quả phân tích nhân tố khám phá, mô hình được rút gọn từ 27 biến
độc lập và 2 biến phụ thuộc ban đầu xuống còn 7 nhân tố của biến độc lập và 1 nhân
tố biến phụ thuộc.
Kiểm định F trong phân tích phương sai ANOVA được sử dụng để nhận định độ
phù hợp của mô hình tổng thể, và kiểm định t được dùng để kiểm tra mức ý nghĩa
của các hệ số của các biến độc lập trong mô hình.
Bảng 7. Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính bội
Hệ số chưa Hệ số đã Thống kê đa
chuẩn hóa chuẩn hóa cộng tuyến
Mô hình T Sig.
B Sai số β Độ chấp VIF
chuẩn nhận
Hằng số 0,104 0,286 0,364 0,716
RR 0,048 0,036 0,066 1,318 0,189 0,809 1,236
NT 0,092 0,033 0,141 2,818 0,005 0,797 1,255
CM 0,121 0,034 0,161 3,559 0,000 0,974 1,027
TK 0,183 0,045 0,189 4,051 0,000 0,920 1,087
G 0,259 0,036 0,341 7,273 0,000 0,909 1,100
TD 0,148 0,026 0,261 5,660 0,000 0,941 1,062
KS 0,141 0,043 0,152 3,255 0,001 0,919 1,088
Nguồn: Số liệu phân tích được bằng SPSS
Kết quả Bảng 8 cho thấy hệ số VIF của tất cả các nhân tố độc lập đều < 2 nên
mô hình không mắc lỗi đa cộng tuyến. Trừ biến rủi ro cảm nhận có giá trị t ≥ 5%,
các biến độc lập còn lại đều có trị số thống kê t nhỏ hơn 5% nên mô hình hồi quy sẽ
phải loại bỏ biến rủi ro cảm nhận. Mô hình về các nhân tố tác động lên hành vi mua
sắm trực tuyến của sinh viên Hà Nội trong thời kỳ Covid sẽ là: HV = 0,161CM +
0,189TK + 0,341G +0,261TD + 0,152KS + 0,141NT
Ngoài ra, do hệ số của các biến độc lập trong mô hình đều mang giá trị dương,
nên các giả thuyết nghiên cứu H1, H2, H3, H5, H6, H7 được chấp nhận, trong khi
đó giả thuyết còn lại là H4 bị bác bỏ.
Thái độ, nhận thức kiểm soát hành vi và chuẩn mực chủ quan đều có tác động
cùng chiều lên hành vi mua sắm của sinh viên Hà Nội trong thời kỳ COVID-19
trong đó thái độ là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất lên hành vi mua sắm trực tuyến
(β=0,261). Kết quả phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn & Hoàng (2020). Mặc dù
hình thức mua sắm trực tuyến không phải là mới và thực sự phổ biến ở Việt Nam,
nhưng nó đặc biêt phát huy tác dụng khi dịch COVID-19 tiếp tục có những diễn
biến phức tạp. Trong thời gian này, số lượng người dân mua hàng trực tuyến qua các
website tăng đột biến do sự tiện lợi, đơn giản mà vẫn đảm bảo an toàn khi giao dịch.
Chuẩn mực chủ quan cũng được phát hiện là có sự ảnh hưởng tới hành vi mua sắm
trực tuyến trong thời kỳ COVID-19, đồng nghĩa với việc nếu những người xung
quanh và truyền thông báo chí có quan điểm tích cực về mua sắm trực tuyến trong
đợt dịch, sinh viên Hà Nội sẽ có khả năng thực hiện hành vi mua sắm trực tuyến
cao hơn. Điều này được lý giải do người tiêu dùng có xu hướng hỏi ý kiến và tham
khảo nhận xét của những người xung quanh và người đã từng mua sản phẩm trước
khi mua hàng (Phạm & cộng sự, 2020).
Giả thuyết H4 bị bác bỏ, rủi ro cảm nhận không có ảnh hưởng trực tiếp tới hành
vi mua sắm trực tuyến của sinh viên Hà Nội trong thời kỳ COVID-19. Trong khi
đó, Tạ & Đặng (2021) lại cho rằng rủi ro cảm nhận có ảnh hưởng đến ý định mua
sắm trực tuyến của thế hệ Z. Tuy nhiên, biến rủi ro cảm nhận lại có giá trị trung bình
khá cao (mean=3,74). Điều này đồng nghĩa với việc sinh viên Hà Nội có cảm nhận
về rủi ro khi mua sắm trực tuyến trong thời kỳ Covid-19 nhưng nó lại không ảnh
hưởng đến việc họ mua sắm trực tuyến. Có thể lý giải điều này là do sinh viên Hà
Nội đã quen thuộc với mua sắm trực tuyến từ trước khi dịch diễn ra dẫn đến họ có
thái độ tin tưởng với hành vi này bất kể những rủi ro có thể xảy ra.
Các giả thuyết H5, H6, H7 đều được chấp nhận. Các yếu tố niềm tin, chất lượng
của trang web và giá thấp đều có ảnh hưởng tới hành vi mua sắm trực tuyến của sinh
viên Hà Nội trong thời kỳ COVID-19. Trong số đó, giá thấp được phát hiện là yếu
tố có ảnh hưởng lớn nhất tới hành vi mua sắm trực tuyến của sinh viên Hà Nội. Giá
của sản phẩm hoặc dịch vụ được mua thấp hơn giá trung bình trên thị trường giúp
người mua cắt giảm chi tiêu. Hầu hết sinh viên đều còn chưa thể tự chủ tài chính mà
phải nhận trợ cấp hàng tháng từ người thân, vì vậy đối tượng này có xu hướng quan
tâm đến giá nhiều hơn các đối tượng khác. Do đó, giá thấp sẽ kích thích sinh viên
QUẢN LÝ
VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu ảnh hưởng của đặc điểm sử dụng truyền thông xã
hội (TTXH) đối với truyền miệng điện tử (eWOM) và tài sản thương hiệu của các
trường đại học (ĐH) tại Việt Nam. Nghiên cứu phân tích trên 600 đối tượng khảo
sát bao gồm học sinh lớp 12 và sinh viên năm thứ nhất. Kết quả phân tích mô hình
cấu trúc (SEM) chỉ ra đặc tính thông tin và vốn xã hội “vươn ra ngoài” có tác động
tích cực đến eWOM, trong khi vốn xã hội “co cụm vào trong” không ảnh hưởng
đến eWOM. Kết quả cũng đã khẳng định tầm quan trọng của thông tin và vốn xã
hội đến tài sản thương hiệu của trường ĐH thông qua eWOM làm trung gian. Các
tác giả cũng đưa ra một số hàm ý nghiên cứu nhằm gia tăng tài sản thương hiệu
của trường ĐH dựa trên kết quả nghiên cứu.
Từ khóa: Đặc điểm sử dụng truyền thông xã hội, Truyền miệng điện tử, Tài sản
thương hiệu, Vốn xã hội, Việt Nam
FACTORS AFFECTING JOB SATISFACTION AND
ORGANISATIONAL COMMITMENT OF CIVIL SERVANTS AT
PUBLIC SERVICE DELIVERY AGENCIES: A CASE STUDY OF
THE DIRECTORATE OF FISHERIES
Abstract: The study aims to analyse the factors affecting job satisfaction and
organisational commitment of civil servants at the Directorate of Fisheries. From
the data provided by 357 civil servants, the structural equation model (SEM)
was applied to assess the factors affecting job satisfaction and organisational
commitment of civil servants at the Directorate of Fisheries. The results show that
there are nine factors affecting job satisfaction and organisational commitment
of civil servants. The factor of training and advancement opportunities have
1
Tác giả liên hệ, Email: ndnam.dr.90@gmail.com
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, khu vực công đang phải đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến sự cam
kết gắn bó của đội ngũ cán bộ công chức với tổ chức. Điều này đang ảnh hưởng đến
mức độ phục vụ và việc đạt được lợi ích quốc gia. Tỷ lệ từ chức của các nhân viên
trong khu vực công trên thế giới có xu hướng tăng lên từ 10,5% đến 25,7% trong giai
đoạn 2018-2020, làm mất đi những nhân viên đã được đầu tư đào tạo (Imran & cộng
sự, 2020). Mặc dù đội ngũ nhân lực làm việc tại khu vực công được đảm bảo công
việc gần như trọn đời, nhưng họ vẫn chưa thực sự cảm thấy muốn gắn bó và hài lòng
với công việc hiện tại. Tình trạng chảy máu chất xám trong khu vực công trở nên phổ
biến khi ngày càng có nhiều cá nhân, cán bộ, công chức có năng lực chuyên môn cao
chuyển sang làm việc cho khu vực tư nhân. Điều này có thể xuất phát từ môi trường
làm việc tại khu vực công không phù hợp, ảnh hưởng đến sự hài lòng và sự gắn kết
của cán bộ công chức cùng với nhiều yếu tố cản trở khác (Imran & cộng sự, 2020).
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng trong công việc và sự cam kết
gắn bó của đội ngũ cán bộ công chức tại Tổng cục Thủy sản là một nghiên cứu mới
trong lĩnh vực dịch vụ công phục vụ ngư nghiệp. Trong quá trình hội nhập với nền
kinh tế toàn cầu và bắt kịp xu hướng quản lý công mới trên thế giới, mỗi cấp mỗi
ngành đều phải xác định cho mình phương hướng phát triển sao cho phù hợp và
đem lại hiệu quả cao nhất. Với vai trò là một ngành dịch vụ đặc biệt, quan trọng của
đất nước, dịch vụ công trong lĩnh vực ngư nghiệp góp phần phục vụ các lợi ích cần
thiết và đảm bảo cuộc sống cho người dân cũng như phát triển bền vững ngành ngư
nghiệp. Tổng cục Thủy sản là cơ quan cung ứng dịch vụ công cho người dân phục
vụ sản xuất ngư nghiệp. Hiện nay, Tổng cục Thủy sản đang phải đối mặt với những
áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa khu vực tư nhân và khu vực công do Nhà
nước đang tiến hành xã hội hóa một số dịch vụ công ngư nghiệp, bao gồm việc
chuyển giao một số dịch vụ công cho khu vực tư nhân đảm nhiệm (Tổng cục Thủy
sản, 2020). Do vậy, Tổng cục Thủy sản phải xem nguồn nhân lực là lợi thế cạnh tranh
tốt nhất bởi lẽ đội ngũ cán bộ công chức chính là tài sản giúp cho cơ quan nâng cao
năng lực cạnh tranh với khu vực tư nhân và góp phần làm hài lòng người dân. Đội
ngũ cán bộ công chức giỏi về chuyên môn, làm việc khoa học, gắn bó và trung thành
với tổ chức luôn là tiêu điểm để các cơ quan cung ứng dịch vụ công hướng đến.
Áp lực công việc: liên quan đến căng thẳng khi làm việc. Nhân viên luôn cảm
thấy có rất nhiều công việc cần giải quyết và không thể làm hết việc trong ngày
khiến đầu óc luôn căng thẳng, tinh thần và cơ thể luôn xuất hiện tình trạng mệt mỏi
không thể tập trung vào công việc. Một số nghiên cứu đã cho thấy mối quan hệ
ngược chiều giữa áp lực công việc với sự hài lòng trong công việc, sự cam kết gắn
bó đối với tổ chức (Hà, 2010; Thuỵ, 2015).
Mẫu khảo sát gồm 357 cán bộ công chức đang làm việc tại Tổng cục Thủy sản.
Kết quả thống kê mô tả cho thấy, đặc điểm nổi bật của cán bộ công chức tại Tổng
cục Thủy sản tham gia khảo sát là nam giới chiếm 61,2%, nữ giới chiếm 38,8%.
Số cán bộ công chức được hỏi đa phần ở độ tuổi từ 30 đến 50 (81,8%). Về thâm
niên công tác, từ 5 năm đến 15 năm chiếm 95,2%. Về trình độ học vấn, trình độ đại
học (89,7%), trình độ cao đẳng, trung cấp (7,2%) và trình độ sau đại học (3,1%).
Biến Nhân tố
quan
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
sát
DTTT5 0,888
DTTT1 0,875
DTTT3 0,873
DTTT2 0,868
DTTT6 0,855
DTTT4 0,782
TN1 0,898
TN6 0,875
TN3 0,856
TN2 0,842
TN4 0,899
TN5 0,845
PL2 0,811
PL1 0,799
PL3 0,782
DN1 0,879
DN2 0,864
DN3 0,843
DG3 0,888
DG5 0,879
DG4 0,862
DG1 0,851
DG2 0,845
DG6 0,795
CB1 0,857
CB2 0,851
CB4 0,799
CB3 0,783
CB5 0,752
AL4 0,887
AL1 0,876
AL2 0,865
AL3 0,854
AL5 0,850
Hình 2. Kết quả phân tích nhân tố khẳng định thang đo mô hình tổng thể
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả
QUẢN LÝ
VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
Tóm tắt: Bài viết phân tích thực trạng của thương mại xã hội (TMXH) tại Việt
Nam trên cơ sở đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức nhằm
khái quát và chỉ ra xu hướng phát triển của thị trường tương đối mới mẻ này.
Bằng phương pháp phân tích dữ liệu thứ cấp, nghiên cứu đã phân tích tổng quan
về hành vi người tiêu dùng và xu hướng phát triển của thị trường TMXH ở Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng cơ hội phát triển thị trường TMXH phát triển
ở Việt Nam là tương đối lớn, với số lượng người tham gia TMXH và xu hướng
mua sắm trực tuyến gia tăng nhờ vào tăng trưởng của thị trường thương mại điện
tử (TMĐT). Tuy nhiên, thách thức đặt ra cho TMXH cũng cần được cân nhắc khi
tồn tại nguy cơ rò rỉ dữ liệu cá nhân của người dùng và những bất cập về hành lang
pháp lý cho thị trường này ở Việt Nam.
Từ khóa: Thương mại điện tử, Thương mại xã hội, Mua hàng trực tuyến, Mạng
xã hội, Hành vi người tiêu dùng
THE DEVELOPMENT OF SOCIAL COMMERCE IN VIETNAM
Abstract: This study analyzes the current situation of social commerce in
Vietnam, on the basis of evaluating the strengths, weaknesses, opportunities and
challenges of this relatively new market with a major purpose of providing an
overview and projecting its development trend. Secondary data were collected to
1
Tác giả liên hệ, Email: nguyenngocdat@ftu.edu.vn
1. Đặt vấn đề
Ngành TMĐT của Việt Nam trong thời gian gần đây đã có những bước phát triển
đáng kể. Với 53% dân số tham gia mua bán trực tuyến, TMĐT Việt Nam trong năm
2020 đã tạo ra doanh thu hơn 11,8 tỷ USD, tức tăng 18% so với năm 2019, chiếm
5,5% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cả nước và nằm trong danh
sách 3 quốc gia có tốc độ tăng trưởng ngành TMĐT nhanh nhất tại khu vực Đông
Nam Á (Cục Thương mại Điện tử và Kinh tế số, 2020). Cùng với sự phát triển
nhanh chóng của thị trường TMĐT, thị trường TMXH cũng nhận được sự quan tâm
đặc biệt. Theo số liệu từ Sách trắng TMĐT Việt Nam 2020, tỷ lệ doanh nghiệp (DN)
đánh giá bán hàng qua mạng xã hội (MXH) đạt hiệu quả cao là 40% và đang trên đà
tăng trưởng. Với số lượng tài khoản MXH hoạt động thường xuyên ở Việt Nam là
72 triệu, tức tăng 10,8% so với năm 2019 và tương đương 73,7% tổng dân số Việt
Nam, MXH hiện đang là kênh tìm kiếm thương hiệu phổ biến nhất với 62,6% tổng
số lượng tìm kiếm thực hiện trên Internet, hứa hẹn một sự phát triển mạnh mẽ của
thị trường này (We Are Social & Hootsuite, 2021).
Với tiềm năng phát triển hiện tại, nghiên cứu về lĩnh vực TMXH là cấp thiết để
có thể đón đầu những cơ hội. Thực tế, chủ đề TMXH đã nhận được nhiều sự quan
tâm từ các học giả nước ngoài trong vòng một thập kỷ trở lại đây. Nhiều phát hiện
quan trọng về chủ đề này đã được công bố trong các nghiên cứu, ví dụ như phản hồi
trực tuyến đã trở thành một nguồn thông tin quan trọng trong quá trình ra quyết định
mua sắm của người tiêu dùng (Akar & Topçu, 2011; Hajli, 2015); hay MXH đã cho
phép người dùng kết nối với nhãn hàng theo một cách hoàn toàn mới, vì vậy các DN
nên thay đổi các chiến lược marketing từ thu hút sự chú ý của khách hàng trong giai
đoạn tiền mua sắm (Pre-Purchase Stage) sang chăm sóc khách hàng sau khi họ đã
thực hiện hoạt động mua sắm (After-Purchase Stage). Để có thể tối ưu hóa quyền
năng của MXH, các DN phải thực sự nắm bắt được quá trình và sự phân hóa trong
hành vi tiêu dùng của khách hàng (Henning-Thurau & cộng sự, 2013). Các nghiên
cứu học thuật về lĩnh vực này ở Việt Nam, theo các tác giả, còn tương đ\ối hạn chế.
Phần lớn các nghiên cứu tập trung phân tích một vài khía cạnh của TMXH như nhận
thức rủi ro trong việc chấp nhận thanh toán qua MXH (Nguyễn & Nguyễn, 2016),
Biểu đồ 1. Các kênh mua sắm trực tuyến của Việt Nam (2018-2019)
Nguồn: Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (2020)
MXH ảnh hưởng trực tiếp tới sức mua của người tiêu dùng TMĐT. Người tiêu
dùng đã hình thành thói quen tham khảo các nhận xét về sản phẩm trên các kênh
trực tuyến và MXH là nơi được đa số người tiêu dùng lựa chọn để đọc nhận xét về
sản phẩm trước khi đưa ra quyết định mua hàng, với 56% người tiêu dùng lựa chọn
địa chỉ mua hàng trực tuyến dựa vào nhận xét trên các MXH, trang web TMĐT
(Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, 2020). Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu cũng
đã chứng minh được sự ảnh hưởng của tương tác giữa cá nhân trên MXH đến quyết
định mua hàng của người tiêu dùng (Xiang & cộng sự, 2016; Hajli, 2014). Về phía
người bán, không ít DN đã nhận ra tầm quan trọng của công tác truyền thông trên
5. Đề xuất giải pháp phát triển thị trường TMXH tại Việt Nam
Dựa vào mục 3.2, thực trạng thị trường TMXH tại Việt Nam, có thể thấy sự phát
triển mạnh mẽ của thị trường TMĐT cũng như TMXH trên toàn thế giới và cụ thể
là Việt Nam. Tuy nhiên, như các nhược điểm và thách thức về TMXH đã được nêu
ra, vẫn còn nhiều bất cập cần khắc phục và cải thiện. Chính vì vậy, nhóm tác giả đề
xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn cho thị trường TMXH.
5.1 Thiết lập môi trường pháp lý chặt chẽ
Môi trường pháp lý về TMXH, cũng như các ngành khác được hình thành và
phát triển từ hệ thống lập pháp của hệ thống chính trị. Khuôn khổ pháp lý cần được
rà soát để có các điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với các giai đoạn phát triển của
đất nước, cũng như phù hợp với xu hướng công nghệ và luật pháp quốc tế. Có thể
thấy hiện nay do TMXH vẫn còn là ngành mới nên luật pháp chưa thực sự chặt chẽ
và còn những bất cập. Các chính sách nhằm hỗ trợ phát triển thị trường công nghệ
thông tin và TMXH cần được bổ sung và xây dựng, trong đó đặc biệt chú ý đến việc
hỗ trợ về chính sách thuế, lãi suất ưu đãi cho vay đối với các DN dịch vụ để thực
hiện ứng dụng TMXH. Các sở, cơ quan ban ngành cần thường xuyên tổ chức các
hoạt động thanh tra liên ngành về lĩnh vực TMXH; tại các địa phương cũng như
tổ chức các hoạt động rà soát, kiểm tra hàng năm để nắm vững tình hình phát triển