You are on page 1of 18

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TRIẾT 3

CÂU: NHÂN TỐ CHỦ QUAN GIỮ VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH BẢO ĐẢM CHO GIAI
CẤP CÔNG NHÂN HOÀN THÀNH SỨ MỆNH LỊCH SỬ.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Việc
phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại của C. Mác. “Giai
cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và pháttriển cùng với quá trình phát triển của nền
công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao;
là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc
gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại
biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay
Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể
nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song, để biến khả năng khách
quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy,
việc thành lập ra đảng cộng sản trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là
yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Bản thân giai cấp công nhân
Ngay từ khi mới hình thành trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bản thân giai cấp công nhân đã không
ngừng hoạt động và trưởng thành từng bước về số lượng và chất lượng.
Về số lượng, chẳng những ngày càng tăng lên rất rõ rệt ở tất cả các nước, kể cả trong "kinh tế tri
thức" hiện nay, mà còn đa dạng hơn về cơ cấu các loại công nhân với nhiều ngành nghề ngày càng
phong phú, phát triển, tinh vi hơn.
Về chất lượng, bản thân giai cấp công nhân luôn có sự nâng cao về học vấn, về khoa học công nghệ và
tay nghề; từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước mắt, đã từng bước hoạt động chính trị, đấu tranh
chính trị, thông qua các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, từng bước có ý thức giai cấp, giác ngộ giai cấp
và cao nhất là dẫn đến hình thành đảng tiên phong là đảng cộng sản. Khi đó, theo chủ nghĩa Mác-Lênin,
giai cấp công nhân đã từ chỗ là "giai cấp tự nó" (tức là chưa có ý thức giác ngộ giai cấp) đến chỗ là "giai
cấp vì nó" (tức giai cấp tự giác).
Vì thế, giai cấp công nhân trở thành cơ sở chính trị căn bản nhất của đảng cộng sản. Tính tất yếu và
quy luật hình thành, phát triển chính đảng của giai cấp công nhân Trong thực tế lịch sử, phong trào
công nhân chống giai cấp từ sản đã xuất hiện ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Mặc dù quy mô ngày
càng mở rộng nhưng đều bị thất bại. Khi chưa có đảng lãnh đạo, phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân chỉ mang tính tự phát, rời rạc, chưa có tổ chức và hệ thống, chưa có lý luận dẫn đường. Khi Đảng
Cộng sản ra đời và trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng và với tư cách là đội tiên phong chính trị của
giai cấp công nhân và toàn xã hội, Đảng Cộng sản có nhiệm vụ đề ra cương lĩnh, mục tiêu, phương hướng,
đường lối, chiến lược, sách lược, các chính sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước,
với quy luật vận động khách quan của thế giới; với quyền lợi của đại đa số nhân dân lao động.
Chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát lên tự giác, sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản trở thành điều kiện để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Để giữ được vai trò lãnh đạo của mình, Đảng phải luôn luôn hướng mọi hoạt động vì lợi ích chung của dân
tộc, luôn tổ chức, giáo dục toàn đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu, yêu cầu

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 1


nhiệm vụ đặt ra để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng phải chăm lo xây dựng về tổ chức,
nâng cao năng lực lãnh đạo, vững mạnh về chính trị, gắn bó với nhân dân.
Quy luật hình thành và phát triển đảng của giai cấp công nhân
Bằng thực tiễn cách mạng ở nước Nga cùng với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế V.I. Lênin
đã khái quát và nêu lên một vấn đề có tính quy luật về sự ra đời của Đảng Cộng sản, đó là: Chủ nghĩa
Mác kết hợp với phong trào công nhân dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính phổ
biến đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản ở nhiều nước trên thế giới, nhất là châu Âu.
Vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vào tình hình cụ thể của Việt Nam,
Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930), đó là sản phẩm của sự kết hợp
giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là một sáng
tạo, một đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam.
Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản, là nguồn bổ sung lực lượng cho Đảng, nói
cách khác Đảng trước hết bao gồm những người ưu tú nhất trong giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản là đội
tiên phong chiến đấu, là lãnh tụ chính trị, là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. Vai trò của
đảng đối với giai cấp công nhân thể hiện ở chỗ:
Một là, không có một tổ chức chính trị nào hoạt động được mà lại không thông qua chính đảng của
giai cấp mình. Giai cấp công nhân cũng vậy, họ hoạt động, làm cách mạng thông qua đội tiên phong của
mình, đó là Đảng Cộng sản, đảng của giai cấp công nhân.
Hai là, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp công nhân cần phải có một chính đảng
chính trị vững vàng kiên định, sáng suốt, có đường lối chiến lược sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của
giai cấp hay toàn thể phong trào.
Ba là, với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo của giai cấp.
Đảng với giai cấp là thống nhất nhưng Đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp
và dân tộc, vì thế không thể lẫn lộn Đảng với giai cấp.
Ở nước ta, giai cấp công nhân trước hết phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân là phải lãnh đạo cuộc cách mạng đó thông qua đội tiên phong của mình là
Đảng Cộng sản Việt Nam, đấu tranh giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân.
Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân từng bước lãnh đạo nhân dân lao động
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, không có người bóc lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, đội ngũ công nhân Việt Nam
bao gồm những người lao động chân tay và lao động trí óc hoạt động sản xuất trong ngành công nghiệp và
dịch vụ thuộc các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, hay thuộc khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với
nước ngoài, tạo thành một lực lượng giai cấp công nhân thống nhất đại diện cho phương thức sản xuất tiên
tiến dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Họ là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà nước ta, là hạt nhân
vững chắc trong liên minh công nhân - nông dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 2


CÂU: NỘI DUNG – ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN QUY ĐỊNH SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA
GIAI CẤP CÔNG NHÂN.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Việc
phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại của C. Mác. Giai
cấp công nhân là một tập đoàn người ổn định hình thành tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của nền
đại công nghiệp với phương thức sản xuất và quan hệ sản xuất hiện đại. Là lực lượng sản xuất chính tạo ra
của cải chủ yếu cho xã hội và cải tạo xã hội
Hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân: Trực tiếp sử dụng các công cụ sản xuất hiện đại và
không có tư liệu sản xuất, bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư của sức lao động Các đặc điểm của giai
cấp công nhân hiện đại: Có một ít tư liệu sản xuất và xu hướng trí thức hoá Nội dung sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân
Trong mỗi thời kỳ chuyển biến cách mạng lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn luôn có một giai
cấp đứng ở vị trí trung tâm của lịch sử, đóng vai trò là động lực chủ yếu và là lực lượng lãnh đạo quá
trình cách mạng đó. Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp, lực lượng sản xuất tiên
tiến, phương thức sản xuất tiên tiến, đại biểu cho xu hướng phát triển của xã hội tương lai, do vậy về mặt
khách quan nó có nhiệm vụ xoá bỏ xã hội cũ, tổ chức,lãnh đạo, xây dựng xã hội mới phù hợp với quy luật
phát triển của lịch sử. Nhiệm vụ này do chính địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó quyết định.
Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể
nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Ph. Ăngghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô
sản hiện đại”
Đó là nội dung cơ bản bao trùm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Lịch sử phát triển của xã hội
loài người chính là lịch sử của đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực cơ bản phát triển của
lịch sử.
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải tập hợp các tầng lớp nhân dân lao
động xung quanh mình, tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng nhằm xoá bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội
mới về mọi mặt. Con đường để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình đó chính là phải
tiến hành cuộc cách mạng không ngừng và triệt để qua hai giai đoạn:
Một là, lật đổ giai cấp tư sản giành lấy chính quyền, thiết lập nền chuyên chính cách mạng của giai
cấp công nhân.
Hai là, sử dụng chính quyền mới làm công cụ cải tạo xã hội cũ, tập hợp quần chúng nhân dân lao động
xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa cộng sản Trong tác
phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ các điều kiện khách quan
quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
- Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa: Xét một cách tổng
quát chúng ta có thể khẳng định rằng, địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân quy định một cách
khách quan vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Bởi vì: Thứ nhất, giai cấp công nhân là bộ
phận quan trọng nhất, cách mạng nhấttrong các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư
bản. Trong nền sản xuất hiện đại, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp, vừa là sản phẩm căn bản nhất
của nền sản xuất đó. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với đại công nghiệp, còn giai
cấp công nhân lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại có xu hướng
ngày càng được tri thức hóa. Điều này có được

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 3


là do yêu cầu khách quan của sự phát triển công nghiệp trong thời đại mà khoa học và công nghệ đã và
đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Thứ hai, do không có tư liệu sản xuất nên giai cấp công nhân phải bán sức lao động của mình cho nhà
tư bản và bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, họ bị lệ thuộc hoàn toàn trong quá trình phân phối các
kết quả lao động của chính mình. Do vậy, về mặt lợi ích giai cấp công nhân là giai cấp đối kháng trực tiếp
với giai cấp tư sản. Xét về bản chất, họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột
tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, giai cấp công nhân chỉ có thể tự
giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ
không mất gì ngoài xiềng xích mà lại được cả thế giới.
Thứ ba, giai cấp công nhân có lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của toàn thể nhân dân lao động
nên họ có thể tập hợp, đoàn kết, lãnh đạo đông đảo quần chúng đi theo làm cách mạng, đồng thời họ cũng
là người đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
- Đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
Địa vị kinh tế - xã hội khách quan còn tạo ra những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công
nhân. Chính những đặc điểm này đã tạo ra khả năng để giai cấp công nhân hoàn thành thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của mình. Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân gồm: Thứ nhất, giai
cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân là đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất, chế độ xã hội tiên tiến nhất, do đó,
họ đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công
nhân luôn phát triển và lớn mạnh không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng cùng với sự phát triển của
khoa học và công nghệ hiện đại. Chính điều kiện làm việc ở thành thị và các khu công nghiệp giúp cho
giai cấp công nhân mở rộng các quan hệ xã hội, mở mang trí tuệ. Cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột vì
dân sinh dân chủ, cải thiện điều kiện làm việc đã tôi luyện cho giai cấp công nhân có những phẩm chất cần
thiết cho cuộc đấu tranh. Lợi ích căn bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích căn bản của nhân
dân lao động nên họ có đủ khả năng và điều kiện tập hợp quần chúng nhân dân làm cách mạng.
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tính cách mạng triệt để. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì
chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng, tất cả các giai cấp khác đều là những tầng lớp trung
đẳng ... Đó là do giai cấp công nhân không gắn với tư hữu, do vậy, họ kiên định trong cuộc đấu tranh xóa
bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới”
Thứ ba, giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Môi trường làm việc của giai cấp công nhân là
sản xuất tập trung cao và có trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, có cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ,
làm việc theo dây chuyền buộc giai cấp công nhân phải luôn tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động. Do
yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản - là một giai cấp có tiềm lực về
kinh tế - kỹ thuật nên giai cấp công nhân phải đấu tranh bằng phẩm chất kỷ luật của mình. Thứ tư, giai cấp
công nhân có bản chất quốc tế. Giai cấp công nhân ở tất cả các nước đều có chung một mục đích là giải
phóng mình đồng thời giải phóng xã hội khỏi áp bức bóc lột và họ đều có chung một kẻ thù là giai cấp tư
sản bóc lột. Và cũng do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, để chống lại chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản
khi mà chúng đã liên kết với nhau thành tập đoàn tư bản, chủ nghĩa đế quốc, vì vậy mà giai cấp công nhân
càng phải nêu cao tinh thần quốc tế của giai cấp mình. Dựa vào đặc điểm này, C.Mác - Ph.Ăngghen nhấn
mạnh: trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”. V.I. Lênin sau
này cũng khẳng định: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 4


Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam:
Ở nước ta, giai cấp công nhân trước hết phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân là phải lãnh đạo cuộc cách mạng đó thông qua đội tiên phong của mình là
Đảng Cộng sản Việt Nam, đấu tranh giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân.
Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân từng bước lãnh đạo nhân dân lao động
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, không có người bóc lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.
Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, ngoài ra, họ còn
mang những đặc điểm riêng như :
+ giai cấp công nhân Việt Nam kế thừa được truyền thống yêu nước; sớm tổ chức ra chính đảng của
mình (ĐCS lãnh đạo) nên không bị phân hóa tư tưởng bởi những trào lưu TS
+ gắn bó mật thiết với giai cấp nông dân và tầng lớp trí hình thành khối liên minh vững chắc giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân quốc tế và đã nhận được sự giúp đỡ mọi mặt của giai cấp công nhân quốc tế.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam chịu sự áp lực bóc lột nặng nề của phong kiến, TS, trong nước và
Pháp. Vì vậy cuộc đấu tranh trở nên quyết liệt hơn và triệt để hơn.
+ Việt Nam xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ chịu tư tưởng nền sx nhỏ chi phối nên g/c công nhân VN
còn hạn chế về trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cũng như chưa tác phong, tâm lý làm việc công nghiệp
Trong giai đoạn hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam đã có bước phát triển lớn mạnh, trưởng thành
về chất và có những đóng góp to lớn vào quá trình đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, giai cấp
công nhân Việt Nam vẫn còn yếu kém về chuyên môn tay nghề, tác phong công nghiệp chưa cao,...
Hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành TW khoá VII: cùng với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá phải
xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về chính trị, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có khả năng tiếp thu sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất hiệu quả cao, làm tròn sứ mệnh của
mình.

CÂU: TÍNH TẤT YẾU CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – LIÊN HỆ
VỚI VIỆT NAM.
Để chuyển từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa – xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển
trên chính cơ sở vật chất – kỹ thuật của nó, cần phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định. Quá độ là thời kì
cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ khi giai cấp công nhân
giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng kinh tế
của thời kì quá độ lên CNXH là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong thời
kì quá độ, một mặt là phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân lao động, chuyên chính với mọi hoạt
động chống chủ nghĩa xã hội, mặt khác từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Thời kỳ quá độ cũng là một thời kỳ tất yếu trong lịch sử.
Tính tất yếu đó được quy định bởi những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, bản chất khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, một cái dựa trên cơ sở chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, một cái dựa trên cơ sở tư hữu về tư liệu sản xuất. Trong xã hội chủ nghĩa
cộng sản không tồn tại giai cấp và bóc lột còn tư bản chủ nghĩa phân chia xã hội thành hai giai cấp có sự
khác biệt sâu sắc: giai cấp vô sản và giai cấp tư sản và luôn tồn tại sự áp bức bóc lột đối với giai cấp vô
sản. Sau cuộc cách mạng vô sản giai cấp công nhân đã dành được chính quyền nhưng ngay thời điểm đó
trong xã hội vẫn còn tồn tại tư hữu và giai cấp. Mà tư hữu và giai cấp là hai yếu tố hoàn

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 5


toàn trái ngược với nền tảng của chủ nghĩa xã hội (công hữu và phi giai cấp). Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội từ một xã hội có khác biệt về bản chất quá lớn như vậy cần có thời gian. Thứ hai, nền sản xuất của chủ
nghĩa xã hội là nền sản xuất đại công nghiệp trình độ cao. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đóng góp cho
nhân loại những tiến bộ vượt bậc về năng suất, kỹ thuật và sản lượng. Nó tạo nên một tiền đề về vật chất kỹ
thuật có thể sử dụng để xs chủ nghĩa xã hội. Ví dụ như sự phát triển khoa học kỹ thuật, các nhà máy nhà
xưởng hiện đại, đội ngũ công nhân tay nghề cao. Tuy nhiên ban đầu những yếu tố này chưa hẳn đã có thể
phục vụ cho chủ nghĩa xã hội. Như nhà máy nhà xưởng còn thuộc sở hữu cá nhân hay của một tập đoàn
người, phong cách quản ý con người trong sản xuất còn mang nặng tính tư bản,… để có thể tận dụng được
các yếu tố đã nêu trên cần có thời gian. Đối với các nước có nền kinh tế càng chưa phát triển, tức là cách
càng xa cái nền sản xuất đại công nghiệp trình độ cao, thì thời gian quá độ càng dài. Các nước nông nghiệt
cần thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, xây dựng cho mình một tiền đề về kinh tế kỹ thuật cơ sở vật
chất để tiến vào chủ nghĩa xã hội, hình thái kinh tế xã hội mà của cải tạo ra dư thừa.
Thứ ba, mặc dù mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản chính là nguồn gốc của xã hội mới, mặc dù giai
cấp công nhân đã dành được chính quyền về tay mình sau các cuộc cách mạng nhưng trong xã hội vẫn
chưa hình thành các quan hệ của chủ nghĩa xã hội. Trong lòng chủ nghĩa tư bản không thể nảy sinh ra
những quan hệ của chủ nghĩa xã hội, sự phát triển trình độ dù cao đến đâu của chủ nghĩa tư bản cũng chỉ
tạo được cái tiền đề, cái điều kiện mà thôi. Muốn có được điều đó cần phải có thời gian, cần một quá tình
lịch sử.
Nguyên nhân cuối cùng, tuy là hình thái kinh tế xã hội xuất hiện ngay sau chủ nghĩa tư bản nhưng
chủ nghĩa xã hội mang những đặc trưng, nền tảng bản chất hoàn toàn khác thậm chí trái ngược chủ nghĩa
tư bản. Một xã hội phát triển hơn bao giờ cũng bao hàm tính phức tạp hơn, xây dựng chủ nghĩa xã hội
trước nay chưa có tiền lệ, công cuộc xây dựng đầy sự mới mẻ, khó khăn, giai cấp công nhân cũng cần
thời gian để phát triển và thích ứng theo từng bước.
Thời kỳ quá độ ở các nước khác nhau kéo dài khác nhau. Các nước mà chủ nghĩa tư bản phát triển ở
trình dộ càng cao thì thời kỳ này diễn ra càng ngắn, ngược lại, các nước mà chủ nghĩa tư bản còn chưa
phát triển hay còn có nên kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ kéo dài và khó khăn hơn.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại
những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối
quan hệ vừa thông nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế
- xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế: thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần
trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất. Nền kinh tế nhiều thành phần được xác lập trên cơ sở
khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa
dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó, hình thức
phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức chủ đạo.
Trên lĩnh vực chính trị: do kết câu kinh tế của thời lỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp,
nên kết cấu giai cấp xã hội thời kỳ này cũng đa dạng, phức tạp. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác,
vừa đấu tranh với nhau. Trong cùng một giai cấp, tầng lớp cũng có nhiều bộ phận có trình độ, có ý thức
khác nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố
tư tưởng và văn hóa khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư
sản,… Trên lĩnh vực văn hóa cũng tồn tại các yếu tố văn hóa cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh
với nhau.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện, từ xã hội cũ
sang xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó diễn ra từ khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 6


vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào việc xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành
công các cơ sở của xã hội xã hội chủ nghĩa về vật chất - kỹ thuật, kinh tế, văn hoá, tư tưởng. Nói cách
khác, kết thúc thời kỳ quá độ khi đã xây dựng xong cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả cơ
sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến sâu sắc toàn
diện trên mọi lĩnh vực tư tưởng, văn hoá kinh tế xã hội nhằm xây dựng tiền đề vật chất tinh thần cho
sự ra đời xã hội xã hội chủ nghĩa.
Đặc điểm thực chất thời kỳ quá độ ở Việt Nam:
- Lịch sử: Sau thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1954, đất nước ta tạm thời chia cắt làm
hai miền. Theo yêu cầu lúc bấy giờ miền Nam tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân còn
miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi thống nhất đất nước đến 1985, đảng và
nhà nước ta đã gặt hái được những thành công bước đầu nhưng cũng vấp phải nhiều sai lầm khiến cho
khủng hoảng nền kinh tế. Thời kỳ 1986 đến nay là giai đoạn đổi mới, kinh tế xã hội đã thoát khỏi khủng
hoảng và bắt đầu có sức tăng trưởng. Trong năm 2005 sức tăng trưởng đã đạt được 8,5 %
- Đặc điểm: đặc điểm lớn nhất và chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một
nước có nền công nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Bù lại ta có đảng
Cộng Sản Việt Nam có đường lối sáng tạo có bản lĩnh chính trị vững vàng nhạy bén. Chúng ta có nhà
nước của nhân dân lao động với những cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu. Nhân dân ta vốn có tinh thần yêu
nước yêu chủ nghĩa xã hội, lao động cần cù sáng tạo
- Thực chất: thực chất thời kỳ quá độ ở Việt Nam là thời kỳ quá độ đặc biệt của đặc biệt, thời kỳ quá
độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản, mà thực chất là bỏ qua sự xác lập vị trí thống trị quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, tiếp thu kế thừa thành quả đạt được trong Chủ nghĩa tư bản nhất là
khoa học công nghệ để phát huy tiềm năng của dân tộc
- Nội dung: nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là đẩy mạnh công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước tiến tới xây dựng xã hội công bằng dân chủ văn minh - Động lực: động lực của quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là đại đoàn kết toàn
dân tộc dựa trên nền tảng giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức với sự lãnh đạo của đảng, kết hợp
hài hoà 3 lợi ích cá nhân, tập thể, xã hội nhằm phát huy tiềm năng của đất nước và nguồn lực của toàn xã
hội.
Quán triệt tư tưởng cơ bản đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: "Xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. -
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới"
- Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng
sản lãnh đạo
- Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 7


Kết luận:
Thời lý quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời lỳ lịch sử tất yếu trên con đường phát triển của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử có đặc điểm riêng với những nội dung kinh
tế, chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù mà giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể có được trên cơ sở hoàn thành các nội dung đó.

CÂU: NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA – LIÊN HỆ
VỚI VIỆT NAM
Xã hội xã hội chủ nghĩa hay chủ nghĩa xẫ hội là gai đoạn thập của hình thái kinh - tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Nó có sự khác nhau về chất và nguyên tắc xây dựng so với chủ nghĩa tư bản. Dựa vào cơ sở
lý luận khoa học của các nhà lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mac – lênin và thực tiển xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chúng ta có thể nêu ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau :
Thứ nhất, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội hay xã hội xã hội chủ nghĩa là nền sản xuất công
nghiệp hiện đại. Xã hội xã hội chủ nghĩa là sự kế tiếp chủ nghĩa tư bản có nhiệm vụ giải quyết mâu thuẫn
mà chủ nghĩa tư bản không thể giải quyết triệt để, đặc biệt là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày
càng có tính xã hội hoá cao với chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng xuất lao động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều của
cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng
nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. Nền công nghiệp hiện đại đó được phát triển dựa trên lực lượng
sản xuất đã phat triên cao.ở những nước thực hiện sự quá độ”bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”, trong đó có Việt Nam thì đương nhiên phải có quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa để từng bước xây dựng cơ sở vật chât kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, xã hội xã
hội chủ nghĩa xoá bỏ hình thức tư hữu về tư liệu sản xuất, thực hiện công hữu về tư liệu sản xuất. Chủ
nghĩa Mác lênin cho rằng xã hội xã hội chủ nghĩa không xoá bỏ chế độ tư hữu nói chung mà chỉ xoá bỏ
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
Thu tiêu chế độ tư hưu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của công cuộc cải tạo xã hội
theo lập trường của gccn.tuy nhiên ko phai xóa bỏ chế độ tư hưu nói chung mà là xóa bỏ chế độ TBCN.
CNXH được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiêt lập chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất,
bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ
dần những mẫu thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho mọi thành viên trong xh gắn bó với nhau vì lợi ích
căn bản
Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa tạo ra cách tổ chức lao động mới và kỷ luật lao động mới. Quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân vì quyền lợi của đại
đa số nhân dân. Chính bản chất và mục đích đó cần phải tổ chức lao động và kỷ luật mới phù hợp với địa
vị làm chủ của người lao động, đồng thời khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong
xã hội cũ.
Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là cơ sở cho mọi quan hệ
trong xã hội. Nguyên tắc phân phối này phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa
CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động nguyên tắc phân phối cơ bản nhất CNXH bảo
đảm cho mọi người có quyền bình đẳng trong lao động, sáng tạo và hưởng thụ. Mọi người có sức lao

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 8


động đều có việc làm và được hưởng thù lao theo nguyên tắc” làm theo lăng lực hưởng theo lao động”. đó
là một trong những cơ sở của công bằng xã hội ở giai đoạn này.
Thứ năm, nhà nước và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân tính
nhân dân rộng rãi tính dân tộc sâu sắc, thực hiện quyền lợi và lợi ích của dân. Nhà nước do đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo, nhân dân lao động tổ chức ra. Thông qua nhà nước đảng lãnh đạo xã hội về mọi
mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội.
Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. đây là một” nhà nước nửa nhà nước”, với
tính tự giác tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình
ngày càng rõ hơn
Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa giải phóng con người giải phóng xã hội. Thực hiện quyền tự do dân
chủ, bình đẳng tiến bộ xã hội, tao những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện. Mục tiêu cao
nhất của CNXH là giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức về kinh tế và nô dịch về tinh thần, bảo đảm
sự phát triển toàn diện cá nhân, hình thành và phát triển lối sống xhcn, làm cho mọi người phát huy tính
tích cực của mình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sự đối kháng giai cấp, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người, tình trạng nô dịch
và áp bức dân tộc, thực hiện được sự công bằng và bình đẳng xã hội. Những đặc trưng trên phản ánh bản
chất của chủ nghĩa xã hội, nói lên tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và do đó, chủ nghĩa xã hội là một xã
hội tốt đẹp lý tưởng ước mơ của toàn thể nhân loại, những đặc trưng đó có mối quan hệ với nhau.
Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
Việt Nam.
Quán triệt tư tưởng cơ bản đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội:
- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở
kế thừa quan điểm Marx-Lenin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh…là công bằng, hợp lý,
mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc…
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc hiện thực hóa đầy
đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Tư tưởng xuyên suốt của
cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có
chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự. Đây là khát
vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt chính trị
của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin sự
nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư tưởng truyền thống của dân tộc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân là chủ, dân làm chủ.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong nhận thức của
Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc bảo đảm tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực).

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 9


Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản
chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải
được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà
nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp…”.
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang
xây dựng so với các chế độ xã hội khác.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu thuẫn vốn có của chủ
nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc.
Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế.
Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội mà
chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế. - Đặc trưng
thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tính ưu việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái quát, nhân
văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự
cường dân tộc...).
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu những giá trị
của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người Việt Nam,
xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến
với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta
đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể hiện trong đặc
trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn được thể hiện qua đặc trưng
về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với
chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Để
có con người xã hội chủ nghĩa phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của
con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong xã
hội xã hội chủ nghĩa, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã xác định hệ giá trị phản ánh nhu cầu,
nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay là: có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội thể hiện trong đặc

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 10


trưng này là quan điểm nhân văn, vì con người, chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con
người (đức, trí, thể, mỹ) của Đảng và Nhà nước ta.
- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển.
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân tộc
(theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Thực hiện 25 năm
đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta,
chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó
đã và đang phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc
anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch. - Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân
dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực
hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát
của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân…
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Chủ
nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt trong các lĩnh vực: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối ngoại, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta.
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và nhân dân các nước
trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế…Đảng và Nhà
nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-
xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc
tế.
Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu
vực đã chứng minh một cách sinh động tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng,
thể hiện trong đặc trưng về quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 11
CÂU: TRONG CƯƠNG LĨNH VỀ DÂN TỘC CỦA C.MÁC – LÊNIN, NỘI DUNG QUAN
TRỌNG NHẤT:
Dân tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng người có tính chất ổn định được hình thành trong lịch sử,
là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã
trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến
nhất :
Thứ nhất, dân tộc là cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững,có sinh hoạt kinh tế chung,
có ngôn ngữ riêng và những nét văn hoá đặc thù;xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn
những nhân tố tộc ngườiở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng
đó.
Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia,
nền kinh tế thống nhất, sử dụng ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó
với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt
quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin đã
phát hiện ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc như sau:
Xu hướng thứ nhất: Khi mà các tộc người, cộng đồng dân cư có sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý
thức về quyền sống của mình, thì các cộng đồng dân cư đó muốn tách ra thành lập các dân tộc độc lập.
Trên thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các
quốc gia dân tộc độc lập.
Xu hướng thứ hai: Sự liên hiệp lại của các dân tộc trong một quốc gia, các dân tộc của nhiều quốc gia
nhằm mở rộng, tăng cường quan hệ kinh tế, phá bỏ ngăn cách về kinh tế giữa các dân tộc. Hai xu thế này
vận động trong một thể thống nhất, mỗi nước vừa có nhu cầu độc lập, tự chủ… nhưng đồng thời vừa phải
mở rộng quan hệ với bên ngoài,hòa nhập với cộng đồng quốc tế và ngày càng xích lại gần nhau trên các
lĩnh vực. Đây là hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc và ngày nay, nó đang có những biểu
hiện rất phong phú và đa dạng.
Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc: Xu hướng thứ nhất biểu hiện trong
sự nỗ lực của từng dân tộc để đi đến sự tự chủ và phồn vinh của bản thân dân tộc mình. Xu hướng thứ
hai, tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn, hòa hợp
với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội,
hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong
cả cộng đồng quốc gia trên cơ sở hợp tác bình đẳng giữa các dân tộc, tôn trọng và hữu nghị.
Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện rất nổi bật. Trong thời đại
ngày nay, các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy đấu tranh xoá bỏ sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc để giành
lấy quyền quyết định vận mệnh của dân tộc mình, đó là quyền tự lựa chọn chế độ chính trị, quyền bình
đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những mục tiêu chính trị chủ yếu của thời đại - mục tiêu độc
lập dân tộc.
Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn luôn là một nội dung quan trọng có ý nghĩa chiến lược
của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết
định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một quốc gia dân tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ phận của những vấn đề chung về cách
mạng vô sản và chuyên chính vô sản. Do đó, giải quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản và
trên cơ sở của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng nhấn mạnh rằng, khi

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 12


xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân. Điều đó có
nghĩa là phải trên cơ sở và vì lợi ích cơ bản lâu dài của dân tộc.
Trên cơ sở tư tưởng của Mác, Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai cấp; cùng với sự phân tích hai xu
hướng của quá trình dân tộc, Lêninđã nêu ra “cương lĩnh dân tộc” với ba nội dung cơ bản: các dân tộc
hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại. Đây
được coi là cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin, của Đảng Cộng sản.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một bộ phận không thể tách rời trong cương lĩnh cách
mạng của giai cấp công nhân, là tuyên ngôn về vấn đề dân tộc của Đảng Cộng sản trong sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc. cương lĩnh đã trở
thành cơ sở lý luận cho chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc của các Đảng Cộng sản và nhà nước
xã hội chủ nghĩa.
Nội dung của Cương lĩnh gồm:
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc. Tất cả các dân tộc, dù đông hay ít người, có trình độ phát
triển cao hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính
trị, văn hóa, ngôn ngữ cho bất cứ dân tộc nào.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và trong
thực tế phải được thực hiện, trong đó việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa
giữa các dân tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trong quan hệ giữa các quốc gia – dân tộc, quyền bình đăng dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sôvanh nước lớn, chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản
phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều bình đẳng trong quan hệ
quốc tế.
- Các dân tộc được quyền tự quyết.
Về thực chất, quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền tự quyết định con đường
phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc mình. Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân
lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập ( vì lợi ích của các dân tộc, chư không phải vì mưu đồ và lợi
ích của một nhóm người nào ) và quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
Khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công
nhân: ủng hộ các phong trào tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại những mưu toan lợi dụng quyền dân
tộc tự quyết làm chiêu bài để can thiệp vào công việc nội bộ các nước, đòi ly khai chia rẽ dân tộc. - Liên
hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Đây là tư tưởng, nội dung cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Lênin. Tư tưởng này là sự thể hiện
bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự
nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp.
Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nó có
vai trò quyết định đến việc xem xét, thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng
thời, đây cũng là yếu tố tạo nên sức mạnh đảm bảo cho thắng lợi của giai cấp công nhân và các dân tộc bị
áp bức trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
Giải quyết vấn đề dân tộc, thực chất là xác lập quan hệ công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc trong
một quốc gia, giữa các quốc gia dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và ngôn ngữ.
Trong thời đại ngày nay, các dân tộc có xu hướng xích lại gần nhau thành những liên minh trên cơ sở
lợi ích chung nhất định của các dân tộc. Hơn nữa sự liên minh đó còn tạo nên sức hút trên toàn cầu

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 13


nhằm tập trung giải quyết những vấn đề chung của cả nhân loại như: phòng chống nguy cơ chiến tranh hạt
nhân,chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh thái, phòng chống dịch bệnh, khủng bố...

CÂU: QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC – LÊNIN VỀ QUYỀN DÂN TỘC BÌNH ĐẲNG – RÚT RA Ý
NGHĨA TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY.
Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn luôn là một nội dung quan trọng có ý nghĩa chiến lược
của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết
định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một quốc gia dân tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ phận của những vấn đề chung về
cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản. Do đó, giải quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô
sản và trên cơ sở của cách mạng xã hội chủ nghĩa. chủ nghĩa Mác-Lênin cũng nhấn mạnh rằng, khi xem
xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân. Điều đó có nghĩa là
phải trên cơ sở và vì lợi ích cơ bản lâu dài của dân tộc.
Trên cơ sở tư tưởng của Mác, Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai cấp; cùng với sự phân tích hai xu
hướng của quá trình dân tộc, Lêninđã nêu ra “cương lĩnh dân tộc” với ba nội dung cơ bản: các dân tộc
hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại. Đây
được coi là cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin, của Đảng Cộng sản.
Trong đó, nội dung các dân tộc hoàn toàn bình đẳng là quyền thiêng liêng của mọi dân tộc, là mục tiêu
phấn đấu của các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Quyền bình đẳng giữa
các dân tộc là quyền thiêng liêng của các dân tộc. Tất cả các dân tộc dù đông người hay ít người, có trình
độ phát triển cao hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền đặc lợi về kinh tế,
chính trị, văn hóa, ngôn ngữ cho bất kì dân tộc nào. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng
giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế, trong đó việc khắc phục
về chênh lệch trong trình độ phát triển kinh tế văn hóa giữa các dân tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trong quan hệ giữa các quốc gia – dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản
phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều bình đẳng trong quan hệ
quốc tế.
Để thực hiện tốt quyền bình đẳng dân tộc đòi hỏi chúng ta phải chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc, chủ nghĩa dân tộc lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan và chủ nghĩa phát xít mới. Liên hệ Việt
Nam:
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất, đa dân tộc. Việc thực hiện
bình đẳng dân tộc là một đòi hỏi bức thiết trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Đồng thời, đó còn
là nhân tố quan trọng đảm bảo cho xã hội Việt Nam ổn định và phát triển. Quyền bình đẳng dân tộc ở nước
ta được khẳng định về pháp lý và đã được thể hiện đúng đắn trong cuộc sống của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam hiện nay là kết quả của một quá trình hình thành và phát triển lâu dài
trong lịch sử.
Vào thời điểm tổng điều tra dân số toàn quốc ngày 1/4/2009 cả nước có 85.875.828 người với 54 dân tộc
anh em. Đặc điểm của quốc gia Việt Nam đa dân tộc là tính đa dạng của các dân tộc luôn gắn liền với tính
thống nhất của cộng đồng. Những đặc điểm chủ yếu của các dân tộc ở Việt Nam là:
- Các dân tộc ở Việt Nam có tỷ lệ số dân rất không đều nhau. Qua thống kê trên đây cho thấy người Kinh
(Việt) là dân tộc đa số chiếm tỷ lệ lớn nhất (86,2% dân số của cả nước), là lực lượng đoàn

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 14


kết, đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong quá trình đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước, góp phần
to lớn vào việc hình thành, củng cố và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam. Còn 53 dân tộc thiểu số chỉ
chiến 13,8%. Tỷ lệ số dân giữa các dân tộc thiểu số cũng rất không đồng đều.
Tuy dân số không đồng đều, song các dân tộc coi nhau như anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Ở nước ta không có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng hóa, thôn tính các tộc người thiểu số. Do đó,
cũng không có tình trạng các dân tộc thiểu số chống lại dân tộc đa số.
- Các dân tộc ở nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh chinh phục thiên nhiên và chống giặc
ngoại xâm, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất.
Thực tế lịch sử nước ta đã cho thấy các dân tộc cùng đoàn kết trong đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh
với giặc ngoại xâm suốt hàng ngàn năm. Đoàn kết các dân tộc là đặc điểm lớn nhất của các dân tộc ở nước
ta. Đoàn kết đã trở thành truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nó là yếu tố quan trọng
tạo nên sức mạnh của cộng đồng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Các dân tộc ở Việt Nam cư
trú phân tán và xen kẽ nhau.
Người Kinh có mặt trên khắp cả nước, nhưng địa bàn cư trú chủ yếu là đồng bằng, ven biển và trung du.
Còn hầu hết các tộc người thiểu số cư trú trên các vùng rừng núi, cao nguyên, biên giới, những vị trí rất
quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng,…
Tình trạng cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, một mặt là điều kiện để tăng cường hiểu biết lẫn
nhau, đoàn kết xích lại gần nhau, mặt khác, cần đề phòng trường hợp có thể do chưa thật hiểu nhau, khác
nhau về phong tục, tập quán… làm xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn tới
khả năng va chạm giữa những người thuộc các dân tộc cùng sinh sống trên một địa bàn.
- Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Có những dân tộc thiểu
số có trình độ thấp kém, đời sống nhiều khó khăn.
- Từng dân tộc ở Việt Nam có bản sắc văn hóa riêng góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng của văn
hóa Việt Nam.
Về ngôn ngữ, các tộc người ở Việt Nam có tiếng nói riêng của mình, thuộc các ngữ hệ khác nhau. Văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần giữa các tộc người ở Việt Nam có nhiều nét khác nhau và hết sức phong
phú.
- Quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, ngay từ
đầu, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nguyên tắc và định hướng chiến lược về
chính sách dân tộc ở Việt Nam, đó là đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc. Có thể
khẳng định chính sách dân tộc của Đảng ta luôn được quán triệt và triển khai thực hiện nhất quán
trong mọi thời kỳ. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, chính sách dân tộc của Đảng
luôn được bổ sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển của đất nước.
Với quan điểm cách mạng là sáng tạo không ngừng, trong thời kỳ đổi mới, chính sách dân tộc của Đảng
ta vừa đảm bảo tính nhất quán, vừa đổi mới trước yêu cầu phát triển và hội nhập nhằm giải quyết thành
công vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay và trong tương lai.
Đảng ta xác định rõ: Các nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc
Bình đẳng giữa các dân tộc: là một nguyên tắc cơ bản về chính sách dân tộc của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Nguyên tắc này đã được thể hiện rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và các Hiến pháp ở nước ta.
Hiến pháp đầu tiên ở nước ta năm 1946 đã khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo’’. Các Hiến pháp
tiếp theo đã thể hiện rõ nguyên tắc quan trọng này.
Bình đẳng giữa các dân tộc là bình đẳng trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Bình đẳng còn
thể hiện trong quyền phát triển, được đảm bảo và tạo mọi điều kiện để các dân tộc thực hiện và

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 15


có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc khác. Để thực hiện bình đẳng dân tộc thì phải làm giảm,
tiến tới từng bước xóa bỏ khoảng cách giữa các dân tộc do các điều kiện lịch sử quy định trên thực tế
mang lại ấm no hạnh phúc của nhân dân.
Đoàn kết dân tộc: là một nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc mà Đảng ta xác định. Phát triển
nguyên tắc đoàn kết giai cấp công nhân tất cả các dân tộc của Lênin, trên nền tảng truyền thống Việt Nam,
Đảng ta coi đoàn kết dân tộc có ý nghĩa then chốt đối với sự phát triển đất nước. Hồ Chí Minh đã nói:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công’’. Đại hội lần thứ X của Đảng
đã khẳng định: Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng
nước ta.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đoàn kết các dân tộc đã tạo nên sức mạnh to lớn để giành
lại nền độc lập dân tộc, tự do cho Tổ quốc. Trong công cuộc đổi mới, đoàn kết các dân tộc nhằm hướng tới
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các dân
tộc ở nước ta được làm chủ vận mệnh của mình trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó chính là cơ sở để
chúng ta thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách dân tộc của Đảng.
Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc: Nguyên tắc này xuất phát từ một thực tế
lịch sử là sự phát triển không đều giữa các dân tộc khi chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước trong cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta cho thấy, sự
chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội là một đặc điểm lớn. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau là sự giúp đỡ của
dân tộc này với dân tộc khác, không phải là sự giúp đỡ một chiều. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau vừa là yêu
cầu, vừa là mục tiêu của sự phát triển, vì sự phát triển bền vững của cộng đồng quốc gia dân tộc. Đó cũng
chính là bản chất của chính đảng vô sản. Để thực hiện vấn đề này, vai trò của nhà nước và hệ thống chính
trị rất quan trọng. Trong các văn kiện của Đảng, nguyên tắc tương trợ được bổ sung các thành tố tôn
trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng tiến bộ. Có thể coi đây là một nguyên tắc đối với vấn đề dân tộc
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Bình đẳng là cơ sở để đoàn kết, đoàn kết là biểu hiện thực hiện bình đẳng và tương trợ giúp đỡ nhau là
điều kiện để thực hiện bình đẳng và đoàn kết. Các nguyên tắc cơ bản trên có mối quan hệ mật thiết với
nhau, được xác định và triển khai đồng bộ trong quá trình xây dựng và triển khai thực hiện chính sách dân
tộc ở nước ta.
Chính sách dân tộc của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới chính là sự kế thừa và phát triển chính sách dân
tộc của Đảng đã được vạch ra cùng với sự ra đời và trưởng thành của Đảng; là sự vận dụng sáng tạo các
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Đó chính là tiền đề, là
điều kiện quan trọng nhất để giải quyết thành công vấn đề dân tộc ở nước ta trên hành trình đổi mới.

CÂU: TÔN GIÁO CÓ CÒN TỒN TẠI TRONG TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI VÀ TRONG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA NỮA HAY KHÔNG? VÌ SAO? Tôn giáo là một
hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn
giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí. Tôn giáo là sản phẩm của con
người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn
giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
ở một mức độ nhất định tôn giáo có vai trò tích cực trong văn hoá, đạo đức xã hội như: đoàn kết,
hướng thiện, quan tâm đến con người….Tôn giáo là niềm an ủi, chỗ dựa tinh thần của quần chúng lao
động.
Về phương diện thế giới quan, thế giới quan tôn giáo là duy tâm, hoàn toàn đối lập với hệ tư tưởng và
thế giới quan Mác - Lênin khoa học và cách mạng.

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 16


Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và thiên đường mà các tôn giáo thường hướng tới là ở
chỗ trong quan niệm tôn giáo thiên đường không phải là hiện thực mà là ở thế giới bên kia. Còn những
người cộng sản chủ trương và hướng con người vào xã hội văn minh, hành phúc ngay ở thế giới hiện thực,
do mọi người xây dựng và vì mọi người.
Có thể nói, tôn giáo còn tồn tại lâu dài, cả trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Nếu như tôn giáo
không mất đi bằng con đường “tự tiêu vong” thì cũng không thể xóa bỏ tôn giáo bằng các
sắc lệnh hay bằng biện pháp bạo lực. Các tôn giáo vẫn tồn tại lâu dài trong các nước xã hội
chủ nghĩa là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây.
- Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong chế độ xã hội chủ
nghĩa trình độ dân trí của nhân dân chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học
chưa giải thích được.
Hiện nay, nhân loại đã đạt được những thành tựu to lớn về khoa học và công nghệ, với những tiến bộ
vượt bậc của công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới... đã giúp con người có thêm những khả năng để
nhận thức xã hội và làm chủ tự nhiên.
Song, thế giới khách quan là vô cùng, vô tận, tồn tại đa dạng và phong phú, nhận thức của con người là
một quá trình và có giới hạn, thế giới còn nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể làm rõ. Những sức
mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng còn tác động và chi phối đời sống con người.
Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào Thần, Thánh, Phật... chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức
của con người trong xã hội, trong đó có nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa.
- Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu vào trong tiềm thức
của nhiều người dân. Trong m ối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, thì ý thức xã hội bảo thủ hơn
so với tồn tại xã hội, trong đó tôn giáo lại là một trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất.
Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống
của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệđến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hoá tinh thần không
thể thiếu của cuộc sống. Cho nên, dù có thể có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội... thì tín
ngưỡng, tôn giáo cũng không thayđổi ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản
ánh.
- Nguyên nhân chính trị - xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo có những điểm còn phù hợp với
chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Đó là mặt giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân. Dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu hướng "đồng hành
với dân tộc" sống "tốt đời, đẹp đạo", "sống phúc âm giữa lòng dân tộc"... Nhà nước không ngừng nâng cao
địa vị, tính tích cực xã hội của những người có đạo bằng cách tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng
nhiều vào các hoạt động thực tiễn.
Trên cơ sở đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa làm cho người có đạo hiểu rằng, niềm tin tôn giáo chân chính
không đối lập với chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, và chủ nghĩa xã hội đang hiện thực hoá lý tưởng
của chủ nghĩa nhân đạo trong cuộc sống của mỗi người dân. Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới
nhiều hình thức vô cùng phức tạp; trong đó, các thế lực chính trị vẫn lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mưu
đồ chính trị của mình. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, khủng
bố, bạo loạn, lật đổ... còn xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo... cùng với
những mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.
- Nguyên nhân kinh tế: Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ còn nhiều thành
phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích khác nhau của các giai tầng xã hội, sự bất
bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... vẫn là một thực tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân chưa cao, thì con người càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên,

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 17


may rủi. Điều đó đã làm cho con người có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng
siêu nhiên.
- Nguyên nhân về văn hoá: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó
nhu cầu văn hoá tinh thần và có ý nghĩa nhất định vềgiáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối
sống.
Vì vậy, việc kế thừa, bảo tồn và phát huy văn hoá (có chọn lọc) của nhân loại, trong đó có đạo đức tôn
giáo là cần thiết. Mặt khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân
cư, và do đó sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một hiện
tượng xã hội khách quan.
Tín ngưỡng tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, do đó sự
tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một hiện tượng xã hội
khách quan.
Như vậy, từ những nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu
trên chúng ta có thể khẳng định rằng:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa không sử dụng tôn giáo như là công cụ thống trị về mặt tinh thần để
thống trị nhân dân; không dùng tôn giáo để củng cố địa vị thống trị của giai cấp công nhân. - Dưới chủ
nghĩa xã hội, tôn giáo còn là sinh hoạt tinh thần của một bộ phận dân cư được nhà nước tôn trọng.
- Đồng bào có đạo, không có đạo bình đẳng trước pháp luật.
Cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có những biến đổi cùng với sự thay đổi
của các điều kiện kinh tế - xã hội. Quần chúng nhân dân có đạo đã thực sự trở thành chủ thể của xã hội, đời
sống vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao. Trên cơ sở đó họ dần được giải thoát khỏi tình trạng mê
tín dị đoan, ngày càng có đời sống tinh thần lành mạnh. Đông đảo quần chúng nhân dân có tôn giáo ngày
càng có điều kiện tham gia đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước, tinh thần yêu nước xã hội chủ
nghĩa được khơi dậy, tạo nên sức mạnh cùng toàn dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Cùng với vấn đề dân tộc thì tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và đang có
những diễn biến phức tạp. Việc giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải hết
sức thận trọng, vừa đòi hỏi phải giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt
đúng như tinh thần của chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng ta là: tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dựa trên những quan điểm
sau:
Một là, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để khắc phục
mặt tiêu cực của tôn giáo, trước hết phải không ngừng phát triển khoa học - công nghệ. Trang bị thế giới
quan của chủ nghĩa vô thần khoa học cho nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần cho
nhân dân. Phải khắc phục những tiêu cực của tôn giáo bởi vì chủ nghĩa Mác Lênin và hệ tư tưởng tôn giáo
có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Mọi công dân
theo tôn giáo hay không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm
quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.
Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo
hợp pháp chân chính (tôn giáo hợp pháp và chân chính là những tôn giáo có tổ chức giáo hội được

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 18


Đảng và nhà nước ta thừa nhận, và nằm trong khối đại đoàn kết dân tộc), đoàn kết dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Bốn là, phân biệt rõ hai mặt
chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng tôn giáo,
khắc phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng.
Mặt chính trị thể hiện ở chỗ cần phải kiên quyết đấu tranh với những phần tử phản động, đội lốt tôn
giáo, lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Năm là, phải có quan diểm lịch sử cụ thể trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở những thời kỳ lịch sử
khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội cũng không giống nhau. Quan điểm
của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội thường không đồng nhất với nhau.
Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên
quan đến tôn giáo.
Liên hệ Việt Nam:
Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; có tôn
giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Thiên chúa giáo, Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam
như Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức
giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có những tôn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định; có
những tôn giáo chưa ổn định, đang trong quá trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp.
Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có
khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo đang hoạt động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Là một
nước đa tôn giáo, nhưng cộng đồng các tôn giáo hoạt động ở Việt Nam luôn gắn bó với dân tộc; đồng thời,
là nhân tố xã hội và văn hoá tích cực góp phần làm cho nền văn hoá Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc
sắc. Việt Nam còn là một đất nước rất ôn hoà trong quan hệ giữa các tôn giáo, có truyền thống đoàn kết tôn
giáo, đoàn kết toàn dân trong quá trình dựng nước và giữ nước. Việc chung sống hoà bình và bao dung
giữa các tôn giáo cùng với tính nhân ái, nhân bản của con người và xã hội Việt Nam đã tạo ra một bức
tranh sinh động về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam: thuần tuý nhưng phong phú, đan xen nhưng không
mâu thuẫn.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, quan hệ tích cực và mang tính xây dựng giữa các tôn giáo và Nhà
nước đã được thể hiện rất rõ và ngày càng được củng cố. Đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó có đoàn kết
hoà hợp các tôn giáo là nguồn sức mạnh và là nhân tố quyết định bảo đảm cho mọi thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng và BVTQ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên quan điểm cơ bản của học
thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng,
tôn giáo ở Việt Nam.
Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà
nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ khi
mới thành lập Đảng.
Cho đến nay, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ chức tôn giáo và tiếp tục xem xét
theo tinh thần của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể khẳng định, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã
và đang diễn ra bình thường ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam.

Nguyễn Văn Toàn – Khoa Địa lý_USSH 19

You might also like