Professional Documents
Culture Documents
Bản sao của ÔN TẬP TRIẾT HỌC 3 1
Bản sao của ÔN TẬP TRIẾT HỌC 3 1
CÂU: NHÂN TỐ CHỦ QUAN GIỮ VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH BẢO ĐẢM CHO GIAI
CẤP CÔNG NHÂN HOÀN THÀNH SỨ MỆNH LỊCH SỬ.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Việc
phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại của C. Mác. “Giai
cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và pháttriển cùng với quá trình phát triển của nền
công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao;
là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc
gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại
biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay
Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể
nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song, để biến khả năng khách
quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy,
việc thành lập ra đảng cộng sản trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là
yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Bản thân giai cấp công nhân
Ngay từ khi mới hình thành trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bản thân giai cấp công nhân đã không
ngừng hoạt động và trưởng thành từng bước về số lượng và chất lượng.
Về số lượng, chẳng những ngày càng tăng lên rất rõ rệt ở tất cả các nước, kể cả trong "kinh tế tri
thức" hiện nay, mà còn đa dạng hơn về cơ cấu các loại công nhân với nhiều ngành nghề ngày càng
phong phú, phát triển, tinh vi hơn.
Về chất lượng, bản thân giai cấp công nhân luôn có sự nâng cao về học vấn, về khoa học công nghệ và
tay nghề; từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước mắt, đã từng bước hoạt động chính trị, đấu tranh
chính trị, thông qua các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, từng bước có ý thức giai cấp, giác ngộ giai cấp
và cao nhất là dẫn đến hình thành đảng tiên phong là đảng cộng sản. Khi đó, theo chủ nghĩa Mác-Lênin,
giai cấp công nhân đã từ chỗ là "giai cấp tự nó" (tức là chưa có ý thức giác ngộ giai cấp) đến chỗ là "giai
cấp vì nó" (tức giai cấp tự giác).
Vì thế, giai cấp công nhân trở thành cơ sở chính trị căn bản nhất của đảng cộng sản. Tính tất yếu và
quy luật hình thành, phát triển chính đảng của giai cấp công nhân Trong thực tế lịch sử, phong trào
công nhân chống giai cấp từ sản đã xuất hiện ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Mặc dù quy mô ngày
càng mở rộng nhưng đều bị thất bại. Khi chưa có đảng lãnh đạo, phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân chỉ mang tính tự phát, rời rạc, chưa có tổ chức và hệ thống, chưa có lý luận dẫn đường. Khi Đảng
Cộng sản ra đời và trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng và với tư cách là đội tiên phong chính trị của
giai cấp công nhân và toàn xã hội, Đảng Cộng sản có nhiệm vụ đề ra cương lĩnh, mục tiêu, phương hướng,
đường lối, chiến lược, sách lược, các chính sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước,
với quy luật vận động khách quan của thế giới; với quyền lợi của đại đa số nhân dân lao động.
Chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát lên tự giác, sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản trở thành điều kiện để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Để giữ được vai trò lãnh đạo của mình, Đảng phải luôn luôn hướng mọi hoạt động vì lợi ích chung của dân
tộc, luôn tổ chức, giáo dục toàn đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu, yêu cầu
CÂU: TÍNH TẤT YẾU CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – LIÊN HỆ
VỚI VIỆT NAM.
Để chuyển từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa – xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển
trên chính cơ sở vật chất – kỹ thuật của nó, cần phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định. Quá độ là thời kì
cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ khi giai cấp công nhân
giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng kinh tế
của thời kì quá độ lên CNXH là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong thời
kì quá độ, một mặt là phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân lao động, chuyên chính với mọi hoạt
động chống chủ nghĩa xã hội, mặt khác từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Thời kỳ quá độ cũng là một thời kỳ tất yếu trong lịch sử.
Tính tất yếu đó được quy định bởi những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, bản chất khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, một cái dựa trên cơ sở chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, một cái dựa trên cơ sở tư hữu về tư liệu sản xuất. Trong xã hội chủ nghĩa
cộng sản không tồn tại giai cấp và bóc lột còn tư bản chủ nghĩa phân chia xã hội thành hai giai cấp có sự
khác biệt sâu sắc: giai cấp vô sản và giai cấp tư sản và luôn tồn tại sự áp bức bóc lột đối với giai cấp vô
sản. Sau cuộc cách mạng vô sản giai cấp công nhân đã dành được chính quyền nhưng ngay thời điểm đó
trong xã hội vẫn còn tồn tại tư hữu và giai cấp. Mà tư hữu và giai cấp là hai yếu tố hoàn
CÂU: NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA – LIÊN HỆ
VỚI VIỆT NAM
Xã hội xã hội chủ nghĩa hay chủ nghĩa xẫ hội là gai đoạn thập của hình thái kinh - tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Nó có sự khác nhau về chất và nguyên tắc xây dựng so với chủ nghĩa tư bản. Dựa vào cơ sở
lý luận khoa học của các nhà lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mac – lênin và thực tiển xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chúng ta có thể nêu ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau :
Thứ nhất, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội hay xã hội xã hội chủ nghĩa là nền sản xuất công
nghiệp hiện đại. Xã hội xã hội chủ nghĩa là sự kế tiếp chủ nghĩa tư bản có nhiệm vụ giải quyết mâu thuẫn
mà chủ nghĩa tư bản không thể giải quyết triệt để, đặc biệt là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày
càng có tính xã hội hoá cao với chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng xuất lao động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều của
cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng
nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. Nền công nghiệp hiện đại đó được phát triển dựa trên lực lượng
sản xuất đã phat triên cao.ở những nước thực hiện sự quá độ”bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”, trong đó có Việt Nam thì đương nhiên phải có quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa để từng bước xây dựng cơ sở vật chât kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, xã hội xã
hội chủ nghĩa xoá bỏ hình thức tư hữu về tư liệu sản xuất, thực hiện công hữu về tư liệu sản xuất. Chủ
nghĩa Mác lênin cho rằng xã hội xã hội chủ nghĩa không xoá bỏ chế độ tư hữu nói chung mà chỉ xoá bỏ
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
Thu tiêu chế độ tư hưu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của công cuộc cải tạo xã hội
theo lập trường của gccn.tuy nhiên ko phai xóa bỏ chế độ tư hưu nói chung mà là xóa bỏ chế độ TBCN.
CNXH được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiêt lập chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất,
bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ
dần những mẫu thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho mọi thành viên trong xh gắn bó với nhau vì lợi ích
căn bản
Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa tạo ra cách tổ chức lao động mới và kỷ luật lao động mới. Quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân vì quyền lợi của đại
đa số nhân dân. Chính bản chất và mục đích đó cần phải tổ chức lao động và kỷ luật mới phù hợp với địa
vị làm chủ của người lao động, đồng thời khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong
xã hội cũ.
Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là cơ sở cho mọi quan hệ
trong xã hội. Nguyên tắc phân phối này phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa
CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động nguyên tắc phân phối cơ bản nhất CNXH bảo
đảm cho mọi người có quyền bình đẳng trong lao động, sáng tạo và hưởng thụ. Mọi người có sức lao
CÂU: QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC – LÊNIN VỀ QUYỀN DÂN TỘC BÌNH ĐẲNG – RÚT RA Ý
NGHĨA TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY.
Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn luôn là một nội dung quan trọng có ý nghĩa chiến lược
của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết
định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một quốc gia dân tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ phận của những vấn đề chung về
cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản. Do đó, giải quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô
sản và trên cơ sở của cách mạng xã hội chủ nghĩa. chủ nghĩa Mác-Lênin cũng nhấn mạnh rằng, khi xem
xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân. Điều đó có nghĩa là
phải trên cơ sở và vì lợi ích cơ bản lâu dài của dân tộc.
Trên cơ sở tư tưởng của Mác, Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai cấp; cùng với sự phân tích hai xu
hướng của quá trình dân tộc, Lêninđã nêu ra “cương lĩnh dân tộc” với ba nội dung cơ bản: các dân tộc
hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại. Đây
được coi là cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin, của Đảng Cộng sản.
Trong đó, nội dung các dân tộc hoàn toàn bình đẳng là quyền thiêng liêng của mọi dân tộc, là mục tiêu
phấn đấu của các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Quyền bình đẳng giữa
các dân tộc là quyền thiêng liêng của các dân tộc. Tất cả các dân tộc dù đông người hay ít người, có trình
độ phát triển cao hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền đặc lợi về kinh tế,
chính trị, văn hóa, ngôn ngữ cho bất kì dân tộc nào. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng
giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế, trong đó việc khắc phục
về chênh lệch trong trình độ phát triển kinh tế văn hóa giữa các dân tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trong quan hệ giữa các quốc gia – dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản
phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều bình đẳng trong quan hệ
quốc tế.
Để thực hiện tốt quyền bình đẳng dân tộc đòi hỏi chúng ta phải chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc, chủ nghĩa dân tộc lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan và chủ nghĩa phát xít mới. Liên hệ Việt
Nam:
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất, đa dân tộc. Việc thực hiện
bình đẳng dân tộc là một đòi hỏi bức thiết trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Đồng thời, đó còn
là nhân tố quan trọng đảm bảo cho xã hội Việt Nam ổn định và phát triển. Quyền bình đẳng dân tộc ở nước
ta được khẳng định về pháp lý và đã được thể hiện đúng đắn trong cuộc sống của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam hiện nay là kết quả của một quá trình hình thành và phát triển lâu dài
trong lịch sử.
Vào thời điểm tổng điều tra dân số toàn quốc ngày 1/4/2009 cả nước có 85.875.828 người với 54 dân tộc
anh em. Đặc điểm của quốc gia Việt Nam đa dân tộc là tính đa dạng của các dân tộc luôn gắn liền với tính
thống nhất của cộng đồng. Những đặc điểm chủ yếu của các dân tộc ở Việt Nam là:
- Các dân tộc ở Việt Nam có tỷ lệ số dân rất không đều nhau. Qua thống kê trên đây cho thấy người Kinh
(Việt) là dân tộc đa số chiếm tỷ lệ lớn nhất (86,2% dân số của cả nước), là lực lượng đoàn
CÂU: TÔN GIÁO CÓ CÒN TỒN TẠI TRONG TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI VÀ TRONG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA NỮA HAY KHÔNG? VÌ SAO? Tôn giáo là một
hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn
giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí. Tôn giáo là sản phẩm của con
người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn
giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
ở một mức độ nhất định tôn giáo có vai trò tích cực trong văn hoá, đạo đức xã hội như: đoàn kết,
hướng thiện, quan tâm đến con người….Tôn giáo là niềm an ủi, chỗ dựa tinh thần của quần chúng lao
động.
Về phương diện thế giới quan, thế giới quan tôn giáo là duy tâm, hoàn toàn đối lập với hệ tư tưởng và
thế giới quan Mác - Lênin khoa học và cách mạng.