You are on page 1of 158

GIỚI THIỆU HỌC PHẦN

SINH LÝ HỌC
Đối tượng: Cao đẳng chính quy

- Số tín chỉ: 2(2/0)


- Phân bổ thời gian: 30 tiết (2 tiết / tuần )
- Thời điểm thực hiện: Học kỳ II
- Điều kiện tiên quyết: Sinh học di truyền, Lý sinh, Sinh hóa, Giải phẫu học.

MỤC TIÊU HỌC PHẦN:


1. Trình bày đầy đủ chức năng của các tế bào, các cơ quan và hệ thống cơ quan
trong cơ thể con người bình thường.
2. Giải thích được cơ chế và sự điều hòa hoạt động của tế bào, các cơ quan và hệ
cơ quan trong cơ thể.
3. Phân tích được mối liên hệ chặt chẽ về chức năng giữa các tế bào, các cơ quan
và hệ thống các cơ quan, coi cơ thể là một khối thống nhất và mối liên hệ giữa cơ thể người
với môi trường.
4. Có kỹ năng tìm kiếm và lựa chọn kiến thức, phân tích, tổng hợp, mô tả để dùng
vào những mục đích nghiên cứu môn học sinh lý cơ thể người.
5. Vận dụng được kiến thức sinh lý học trong các lĩnh vực lâm sàng, nghiên cứu
khoa học về thay đổi tâm lý và bệnh tật trong cơ thể người.
6. Có kỹ năng làm việc theo nhóm, phát huy khả năng tự học, tự nghiên cứu có hiệu
quả.
7. Xác định được tầm quan trọng của Sinh lý học đối với kiến thức y học của loài
người từ đó liên hệ với các ngành khoa học khác, các ngành khoa học khác và đối với cuộc
sống.
8. Xác định được Sinh lý học là môn học cơ sở cho các môn y học cơ sở khác và các
môn y học lâm sàng thực tiễn.
9. Hình thành thế giới quan khoa học về sinh lý cơ thể người một cách đúng đắn
và phù hợp.

NỘI DUNG HỌC PHẦN:


SỐ TIẾT
STT TÊN BÀI Lý Thực Trang
thuyết hành
1 Sinh lý đại cương. 2 3
2 Sinh lý tế bào và màng tế bào. 2 11
3 Sinh lý máu và các dịch cơ thể. 2 22
4 Sinh lý học chuyển hóa và điều nhiệt. 2 45
5 Sinh lý tuần hoàn. 2 55
6 Sinh lý hô hấp. 2 70
7 Sinh lý tiêu hóa. 4 83
8 Sinh lý tiết niệu. 2 97
9 Sinh lý hệ nội tiết. 4 105
1
10 Sinh lý sinh sản. 2 117
11 Sinh lý thần kinh. 2 126
12 Sinh lý các giác quan. 2 144
Tổng 30 0 158

ĐÁNH GIÁ:
- Hình thức thi: Trắc nghiệm trên máy
- Thang điểm: 10
- Cách tính điểm:
+ Điểm chuyên cần 10%
+ Điểm KT thường xuyên: 1 bài kiểm tra lý thuyết trong số 20%
+ Điểm thi kết thúc học phần: thi trắc nghiệm trên máy trọng số 70%

2
Bài 1
SINH LÝ ĐẠI CƯƠNG
MỤC TIÊU:
1. Trình bày được định nghĩa, đối tượng nghiên cứu của môn sinh lý học.
2. Trình bày được vị trí, lịch sử phát triển và phương pháp nghiên cứu môn sinh
lý học.
3. Trình bày được những đặc điểm về cơ thể sống.
4. Trình bày được chức năng điều hòa của cơ thể người

NỘI DUNG:
I. NHẬP MÔN SINH LÝ HỌC.
1. Định nghĩa, đối tượng nghiên cứu của sinh lý học.
1.1. Định nghĩa:
- Sinh lý học là một ngành của sinh học, nghiên cứu hoạt động chức năng của cơ
thể sống, tìm cách giải thích vai trò của các yếu tố vật lý, hóa học về nguồn gốc, sự phát
triển, sự tiến hóa của sự sống. Vì vậy sinh lý học được chia thành nhiều chuyên ngành khác
nhau như: Sinh lý học virus, sinh lý học vi khuẩn, sinh lý học thực vật, sinh lý học động
vật, sinh lý học cơ thể người.
1.2. Đối tượng nghiên cứu:
- Sinh lý học cơ thể người là môn học chuyên nghiên cứu về hoạt động chức năng
của các cơ quan, bộ máy, và hệ thống cơ quan bộ máy trong cơ thể trong trạng thái bình
thường, tìm ra qui luật hoạt động chung của cơ thể, và của riêng từng cơ quan, bộ máy,
đồng thời nghiên cứu sự điều hòa hoạt động chức năng của các cơ quan, bộ máy đó.
- Các cơ quan bộ máy trong cơ thể đều có sự liên hệ chặt chẽ với nhau, và chịu sự
điều hòa chung của hai cơ chế: thần kinh và thể dịch, trong điều kiện ấy, hoạt động chức
năng của mỗi cơ quan bộ máy đều có tác động đến cơ quan bộ máy khác, tạo nên mối liên
hệ hai chiều, ngày nay được gọi theo một thuật ngữ là “cơ chế điều hòa ngược” (feed back
mechanisms).
- Sinh lý học coi toàn bộ hoạt động của cơ thể như là một khối thống nhất và thống
nhất với môi trường sống, trên cơ sở đó làm cho cơ thể tồn tại và phát triển, nếu sự thống
nhất ấy bị phá vỡ, cơ thể sẽ lâm vào trạng thái bệnh lý.
2. Vai trò và vị trí của môn sinh lý học:
- Sinh lý học là một môn cơ sở rất quan trọng của y học, trong quá trình phòng bệnh,
chẩn đoán và điều trị, người thầy thuốc phải nắm vững những qui luật hoạt động và cơ chế
hoạt động của cơ thể nói chung, và các cơ quan bộ máy nói riêng trong trạng thái bình
thường, từ đó mới xác định được những rối loạn hoạt động chức năng của cơ thể trong
trạng thái bệnh lý. Do đó mặc dù sinh lý học đã được hình thành từ nhiều thế kỷ, nhưng nó
là một ngành khoa học vẫn đang phát triển, và luôn góp phần giải đáp những vấn đề mà y
học đặt ra. Ngược lại, y học lại cung cấp những tài liệu thực tế gặp trong lâm sàng, tạo điều
kiện cho sinh lý học phát triển.
- Sinh lý học góp phần nghiên cứu về sự phát triển dân số, hướng dẫn sinh đẻ có kế
hoạch. Kế hoạch hóa gia đình là một công việc có tầm quan trọng đặc biệt, và là quốc sách
của nước ta hiện nay.
- Sinh lý học là cơ sở khoa học cho việc chăm sóc sức khỏe nhân dân theo đường
lối chăm sóc sức khỏe ban đầu của ngành y tế.
3
- Sinh lý học là một ngành của sinh vật học, nó dựa trên kiến thức của các ngành
khoa học cơ bản khác như: toán, lý, hóa. Hầu hết những vấn đề mà sinh lý học nghiên cứu
là những vấn đề có liên quan đến lý sinh, hóa sinh, hóa mô học, sinh vật học phân tử
v…v… Trong bất kỳ một quá trình sống nào đều có liên quan đến sự chuyển hóa vật chất
và năng lượng, nghĩa là có liên quan đến những quá trình lý hóa.
- Sinh lý học có liên quan mật thiết với một số các môn cơ sở khác như mô - phôi
học và giải phẫu học, vì đó là các môn học hình thái, và hoạt động chức năng của các cơ
quan bộ máy quyết định hình thái cấu trúc của chúng.
- Sinh lý học là khoa học cơ sở cho một số môn học khác trong y học như: Sinh lý
bệnh học, Dược lý học, Bệnh học lâm sàng và điều trị học.
- Sinh lý học là cơ sở cho các ngành khoa học khác như: y học lao động và thể dục
thể thao, Sinh lý học đường, Sinh lý hàng hải hàng không, giáo dục học, tâm lý học, triết
học vv…
3. Lịch sử phát triển của ngành sinh lý học.
3.1. Thời cổ xưa:
- Khi khoa học tự nhiên chưa phát triển, từ thời kỳ Cổ Trung Hoa người ta vận dụng
thuyết âm – dương và 5 yếu tố ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) để giải thích các hoạt
động sinh lý của cơ thể người và động vật, cũng như sự sống nói chung.
Theo thuyết này thì sức khỏe của người và động vật phụ thuộc vào tình trạng cân
bằng giữa hai lực âm và dương và ngũ hành ấy. Trong các tạng phủ, thì phổi thuộc kim,
gan thuộc mộc, thận thuộc thủy, tim thuộc hỏa và lách thuộc thổ.
- Thời kỳ Cổ Ai Cập và Ấn Độ: đề ra thuyết “vật linh luân” giải thích mọi hoạt động
chức năng của cơ thể bằng linh hồn. Cơ thể hoạt động được là nhờ có linh hồn, linh hồn
còn hoạt động thì cơ thể còn sống. “Trút linh hồn” là chết, tức là hồn lìa khỏi xác.
- Trước công nguyên 5 thế kỷ, một thầy thuốc người Hy Lạp là Hippocrate, được
xem là ông tổ nghề y, có đề xướng “Thuyết hoạt khí”, thuyết này cho rằng hoạt khí trong
phổi chuyển sang máu rồi lưu thông khắp cơ thể, làm cơ thể hoạt động. Tắt thở là chết.
- Galien ở thế kỷ thứ II chia hoạt khí thành 3 phần:
 Linh khí trong não điều khiển tâm linh, ký ức
 Vật khí trong gan, mật chi phối dinh dưỡng, máu
 Hoạt khí trong tim, mạch chi phối sự gan dạ, phẫn nộ

3.2. Giai đoạn khoa học tự nhiên:


Từ thế kỷ XVI đến XIX, kinh tế các nước Tây Âu phát triển, chế độ tư bản ra đời,
khoa học tự nhiên có những tiến bộ quan trọng, tạo điều kiện cho sinh lý học phát triển.
- Michel Servet, một người thầy thuốc Tây Ban Nha (1511-1553) tìm thấy tuần
hoàn phổi trên người trong khi mổ tử thi, và bị phạt thiêu trên dàn hỏa.
- André Vésale, một thầy thuốc người Bỉ (1514-1564), tiến hành giải phẫu cơ thể
người, đã thấy rõ cấu trúc của cơ thể.
- William Harvey, một thầy thuốc người Anh (1578-1657) mổ tử thi quan sát thấy
toàn bộ tuần hoàn máu trong cơ thể. Ông viết một cuốn sách về tuần hoàn, bị phạt phải đốt
đi.
- René Descartes, một nhà toán học và triết gia Pháp (1596-1650), nghiên cứu phản
xạ, cho rằng phản xạ là một hoạt động của linh khí, và đưa ra quan niệm cơ học của sự
sống.
- Marcello Malpighi, một thầy thuốc người Ý (1628-1694), dùng kính hiển vi soi

4
thấy tuần hoàn mao mạch phổi.
- Boe de Sylvius (1614-1672) cho rằng hô hấp và tiêu hóa là những hoạt động men.
- Antoine Laurent de Lavoisier, một nhà hóa học người Pháp (1743-1794) chứng
minh rằng hô hấp là một quá trình thiêu đốt có tiêu thụ oxy (để con chim và ngọn nến trong
chuông, khi nến tắt thì chim chết).
- Luigi Galvani, thầy thuốc người Ý (1737-1798) phát hiện điện sinh vật.
- François Magendie, thầy thuốc người Pháp (1783-1855) phát hiện xung thần kinh.

- Flourens (1794-1864) cắt đại não chim bồ câu, con chim mất khả năng thích ứng.
- Thế kỷ XIX: Trong giai đoạn này khoa học tự nhiên phát triển mạnh, có 3 học
thuyết tác động lớn tới sự phát triển của sinh lý học:
 Định luật bảo tồn năng lượng: Lomonosov (1742-1786)
 Học thuyết tiến hóa: Darwin (1809-1882) viết quyển “nguồn gốc các loài chọn
lọc tự nhiên” (1859).
 Học thuyết tế bào: Scheiden (1804-1881) tìm ra tế bào thực vật; Schwann
(1810-1882) tìm ra tế bào động vật, tế bào thần kinh.
- Dubois Reymond, người Đức (1818-1896); Karl Ludwig, người Đức (1816-
1904); Etienne Marey, người Pháp (1830-1904) đã sáng chế nhiều dụng cụ đo đạc trong
sinh lý học.
- Bassov (1842), Heidenhein (1868) mo lỗ rò dạ dày thực nghiệm trường diễn trên
động vật để quan sát chức năng tiêu hóa.
- Claude Bernard (1813-1878), nhà sinh lý học lớn người Pháp, dùng phẫu thuật
ngoại khoa để nghiên cứu thực nghiệm trên động vật, và đưa ra quan niệm hằng định nội
môi, mà Cannon (1871-1945) gọi là “Homeostasis”.
- Sherrington (1859-1947); Setchenov (1829-1905) có nhiều cống hiến về sinh lý
học thần kinh.
- Broca (1861) tìm thấy trung tâm vận động lời nói ở vỏ não.
- Đầu thế kỷ XX, nhà sinh lý học lớn người Nga Pavlov (1849-1936) đã nghiên cứu
sinh lý hệ thần kinh, làm nhiều thí nghiệm trường diễn trên chó, để chứng minh hoạt động
thần kinh cao cấp dựa trên phản xạ có điều kiện, và đưa hoạt động tâm lý vào lĩnh vực thực
nghiệm. Pavlov đã chứng minh rằng cơ thể hoạt động như là một thể thống nhất và thống
nhất với môi trường sống.
3.3. Thời đại sinh học phân tử:
Trong giai đoạn này có những bước nhảy vọt về nghiên cứu sinh học phân tử, đem
lại một cuộc cách mạng về kiến thức và phương pháp nghiên cứu trong sinh lý học và y
học.
- Watson, Cricks, Wilkins tìm ra cấu trúc phân tử của nucleic acid, nhận được giải
Nobel 1962 về y học và sinh lý học.
- Jacob, Monod, Lwoff tìm thấy mRNA (RNA thông tin) đoạt giải Nobel năm 1965.
- Nirenberg, Holley, Khorana tìm thấy mã di truyền, và đoạt giải Nobel năm 1968.
- Sutherland tìm ra cơ chế tác dụng của hormone, và đoạt giải Nobel năm 1971.
- Albert Claude, George Palade, Christian de Duve phát hiện siêu cấu trúc và chức
năng của tế bào, đoạt giải Nobel năm 1974.
- Temin, Baltimore, Dulbecco, tìm ra enzyme sao chép ngược (reverse –
transcriptase) đoạt giải Nobel năm 1975.
- Khorana đã đi sâu vào bí ẩn của mã di truyền và tổng hợp được gene nhân tạo

5
(1977).
- Arber, Nathans, Smith tìm thấy enzyme cắt phân tử DNA, đoạt giải Nobel năm
1978.
- Dausset, Suell, Benaceraff tìm ra kháng nguyên HLA, đoạt giải Nobel năm 1980.
- Jerue, Kohler, Milstein, tìm ra nguyên tắc và kỹ thuật tạo kháng thể đơn dòng,
đoạt giải Nobel năm 1984.
- Bishop, Varmus, tìm ra chất sinh ung thư oncogen, đoạt giải Nobel năm 1989.
- Neher, Sakmann, phát hiện kênh ion, đoạt giải Nobel năm 1991.
- Rodbell, Gilman tìm ra “protein G” và vai trò của các protein này trong sự chuyển
tín hiệu trong tế bào; đoạt giải Nobel năm 1994.
- Doherty và Zinkernagen phát hiện tính đặc hiệu của sự bảo vệ miễn dịch trung
gian tế bào, đoạt giải Nobel năm 1996.
- Furchgott, Ignarro, Ferid Murad: nitric oxide như là một phân tử tín hiệu trong hệ
tim mạch, đoạt giải Nobel năm 1998.
- Carlsson, Greengard, Kandel: sự chuyển tín hiệu trong hệ thần kinh, đoạt giải
Nobel năm 2000.
- Brenner, Robert Horvitz, Sulston: sự điều hòa gene của sự phát triển cơ quan và
sự chết theo chương trình của tế bào, đoạt giải Nobel năm 2002.
- Lauterbur, Peter Mansfield: cộng hưởng từ, đoạt giải Nobel năm 2003.
- Marshall, Robin Warren: Bacterium Helicobacter pylori, vai trò của nó trong bệnh
viêm loét dạ dày – tá tràng, đoạt giải Nobel năm 2005.
- Fire, Mello: sự can thiệp của RNA – bất hoạt gene do RNA gây cản trở kép, đoạt
giải Nobel năm 2006.
Ở kỷ nguyên sinh học phân tử, người ta đã đi sâu nghiên cứu tế bào ở mức phân tử,
để làm sáng tỏ mọi chức năng của các cơ quan trong cơ thể, đi sâu vào mã di truyền, cấu
trúc của gene, tổng hợp gene, tìm ra nguyên nhân phân tử của một số bệnh bẩm sinh do sai
mã di truyền. Những phát hiện của Pauling và Itano (1949) về sự sai lạc của một vài amino
acid trong cấu trúc của huyết cầu tố, trong bệnh hồng cầu hình liềm đã mở đầu cho ngành
bệnh lý phân tử. Ngày nay người ta đã biết nhiều bệnh thuộc về bệnh lý phân tử, do rối
loạn mã di truyền.
Lịch sử phát triển khoa học sinh lý học cho ta thấy khoa học này phải trải qua nhiều
giai đoạn từ siêu hình, huyền bí, chủ quan đến khoa học tự nhiên và sinh học phân tử ngày
nay.
Nền văn minh nói chung, nền công nghiệp nói riêng càng phát triển, hệ sinh thái
càng biến đổi, loài người càng đông đúc trên hành tinh, nhiều bệnh tật mới phát sinh và
ngày càng hoành hành, y học và sinh lý học phải ứng phó với nhiều vấn đề mới, ví dụ:
AIDS, Ebola, Skaig. Hiện nay toàn thế giới đang tập trung nghiên cứu phân tử của virus
HIV, và hệ thống miễn dịch của cơ thể, để tìm ra cách giải quyết “bệnh của thế kỷ” là bệnh
AIDS.
Sinh lý học, một khoa học phát triển hàng nghìn năm nay, vẫn còn đang phát triển.
Hiện nay có thể nói, hàng ngày, trên thế giới đều có những thông tin mới về sinh lý học,
cho nên người thầy thuốc cần cập nhật những kiến thức về sinh lý học và y học.
4. Phương pháp nghiên cứu và học tập môn sinh lý học:
Có nhiều phương pháp để nghiên cứu sinh lý học
- Trên cơ thể toàn vẹn (in vivo): Cần các phương tiện máy móc hỗ trợ như ghi điện

6
tim, ghi điện não...
- Trên in vitro: Tách rời một cơ quan, cơ thể hoặc tế bào ra khỏi cơ thể và nuôi
dưỡng trong điều kiện dinh dưỡng và nhiệt độ giống như trong cơ thể để nghiên cứu.
- Insitu: Tách một phần của cơ quan hay bộ phận ra khỏi mối liên quan với các phần
khác để nghiên cứu nhưng vẫn để lại các mạch máu nuôi dưỡng
4.1. Phương pháp quan sát:
- Quan sát bằng các giác quan: nhìn toàn trạng; sờ nắn các cơ quan nội tạng đặc như
gan, lách; gõ các tạng phủ đặc và rỗng; nghe tim phổi bằng ống nghe; hỏi để biết tình trạng.
- Quan sát bằng những máy móc, dụng cụ, phương tiện, hóa chất đặc biệt như: xét
nghiệm máu, nước tiểu, dịch não tủy, dịch tiết, phân v…v…
4.2. Phương pháp thăm dò chức năng các cơ quan, bộ máy:
- Chức năng gan: thử các loại men gan
- Chức năng tuần hoàn: đo huyết áp, điện tim, siêu âm tim, chụp mạch
- Chức năng thận: phương pháp Clearance, đồng vị phóng xạ
- Chức năng thần kinh: điện não, chụp cắt lớp
- Chức năng hô hấp: đo các thể tích và dung tích khí phổi
- Chức năng tiêu hóa: nội soi
4.3. Phương pháp thực nghiệm:
Áp dụng trên động vật, tạo các mô hình bằng những thí nghiệm cấp diễn và
trường diễn, tăng giảm hoạt động của một cơ quan, bộ máy và theo dõi sự đáp ứng.
4.4. Phương pháp hóa – miễn dịch và hóa – mô học:
Dùng các kỹ thuật như: các thử nghiệm miễn dịch phóng xạ (RIA), miễn dịch men
(ELISA) miễn dịch huỳnh quang, v…v… Quan sát đại thể bằng phẩn tích, quan sát vi thể
bằng kính hiển vi quang học, hay kính hiển vi điện tử.
4.5. Kết hợp với lâm sàng:
Việc kết hợp với lâm sàng là quan trọng, vì đó là nơi diễn ra những hoạt động chức
năng của các cơ quan và bộ máy của cơ thể ở tình trạng không bình thường.
Nghiên cứu sinh lý học, chúng ta luôn phải trả lời 3 câu hỏi:
- Hiện tượng gì đã xảy ra?
- Nó diễn biến như thế nào?
- Tại sao nó xảy ra và diễn biến như vậy, tức là tìm ra cơ chế hoạt động chức năng
của các cơ quan, bộ máy?
Quan sát và phân tích hiện tượng phải dựa trên các kiến thức về khoa học cơ bản
và y học cơ sở, không được đưa ra các giả thuyết chủ quan.
4.6. Phương pháp học tập:
- Phải có những kiến thức về giải phẫu và mô học, sinh học, hoá sinh học và lý sinh
học.
- Luôn so sánh, liên hệ về những chức năng trong cơ thể thống nhất và đặt chúng
trong mối liên quan giữa cơ thể với môi trường.
- Áp dụng các kiến thức sinh lý học để giải thích một số hiện tượng, triệu chứng
lâm sàng.
II. ĐẶC ĐIỂM VỀ CƠ THỂ SỐNG:
1. Sự sống là gì?
Năm 1878 nhà triết học Eugels trong quyển sách “chống During” có định nghĩa
như sau: “Sự sống là một phương thức tồn tại của chất Albumin, mà chất này luôn thay

7
đổi tỷ lệ các thành phần hóa học cấu tạo ra nó”.
Ngày nay ta gọi Albumin là protein, hay chất đạm, bao gồm các nguyên tố C, H, O,
N, ngoài ra còn các yếu tố vi lượng như: Fe, Zn, Mg, Ca, Na, K v…v… Eugels còn nói:
“Ở đâu có sự sống là ở đó có protein, ngược lại ở đâu có protein chưa phân giải là ở đó có
sự sống”.
Cho đến nay, ta mới chỉ biết có trái đất là có sự sống và người ta đang tìm xem
trong vũ trụ có nơi nào khác có chất C, H, O, N để khẳng định ở đó có sự sống như chúng
ta không.
2. Nguồn gốc sự sống:
Chúng ta quan niệm sự sống xuất hiện do các nguyên tố C, H, O, N phản ứng với
nhau, dưới tác dụng của những yếu tố vật lý trong bầu khí quyển bao quanh địa cầu như:
phóng điện, các tia bức xạ mặt trời, áp suất khí quyển, nhiệt độ v…v…, đã tạo ra chất đạm.
Năm 1953, hai nhà khoa học Mỹ là S.Miller và H.Urey cho phóng một dòng điện
cực mạnh giữa hai điện cực đặt ở hai đầu một ống thủy tinh, trong đó có những chất khí
mà thành phần giống như khí quyển trái đất. Sau khi phóng điện, trong ống xuất hiện một
số chất đạm.
Theo nhà bác học Oparine, thì trong hàng triệu năm, các nguyên tố C, H, O, N trong
khí quyển, dưới tác dụng của nhiều yếu tố vật lý, đã kết hợp lại với nhau thành một chất
thô sơ, mà Oparine gọi là Coacervat. Chất này tổ chức lại, thích nghi với những điều kiện
của môi trường chung quanh, dần dần trở thành cơ thể đơn bào, sau đó tiến lên đa bào.
Trong quá trình tiến hóa này, chất sống đã tạo được cho mình tính chất chuyển hóa, và tự
sinh sản theo một phương thức, mà mãi cho đến những năm 60 của thế kỷ XX, người ta
mới biết được và gọi là “mã di truyền”.
3. Những đặc điểm của sự sống:
Vật sống khác với vật không sống ở 4 đặc điểm sau đây:
3.1. Thay cũ, đổi mới:
Còn gọi là chuyển hóa, tức là liên tục thu nhập vật chất từ bên ngoài vào qua bộ
máy tiêu hóa, và biến đổi vật chất theo hai hướng:
- Biến vật chất thu nhập vào thành ra các thành phần cấu tạo của cơ thể, đó là quá
trình đồng hóa.
- Biến vật chất thu nhập vào thành năng lượng để cơ thể hoạt động, đó là quá trình
dị hóa.
Hai quá trình này là hai mặt đối lặp, nhưng thống nhất của một quá trình chuyển
hóa, chuyển hóa ngừng là cơ thể chết. Quá trình chuyển hóa diễn ra ở trong tế bào.
3.2. Khả năng chịu kích thích:
Là khả năng đáp ứng với các kích thích đa dạng của môi trường bên ngoài và bên
trong cơ thể, như các kích thích vật lý, hóa học, tâm lý xã hội, ánh sáng làm co đồng tử,
nước chanh làm chảy nước bọt, sợ hãi làm tim đập nhanh, mạnh; hay các kích thích thuộc
các cơ chế thần kinh và thể dịch trong cơ thể …
3.3. Khả năng sinh sản giống mình:
Là khả năng tạo ra cơ thể mới giống mình, hoạt động sinh sản nằm trong “chương
trình của sự sống”, do mã di truyền quyết định nhằm mục đích duy trì nòi giống.
3.4. Khả năng thích nghi:
Là khả năng thay đổi một phần cấu trúc, hay hoạt động của các cơ quan, bộ máy,
để thích nghi với điều kiện môi trường sống thay đổi, đó là cơ sở để cơ thể tồn tại và phát

8
triển.
III. ĐIỀU HÒA CHỨC NĂNG.
1. Khái niệm về điều hòa chức năng:
Cơ thể sống là một chỉnh thể, mà các cơ quan, bộ máy đều có liên quan mật thiết với
nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, mỗi cơ quan trong cơ thể hoạt động theo một qui luật
riêng của nó, nhưng đồng thời phải tuân theo một qui luật hoạt động chung của toàn cơ
thể.
Trong một môi trường sống luôn luôn thay đổi (ngoại môi), cơ thể phải luôn điều
chỉnh hoạt động của các cơ quan, bộ máy và toàn bộ cơ thể, để thích nghi với môi trường
sống, nhưng đồng thời phải bảo đảm tình hằng định của môi trường bên trong cơ thể (nội
môi), một hiện tượng mà Claude Bernard gọi là “Hằng tính nội môi” như: các thành phần
của nội môi, thân nhiệt, độ pH, áp suất thẩm thấu v…v…
Cơ thể hoạt động thành một khối thống nhất, và thống nhất với môi trường sống là
nhờ vào sự điều hòa chức năng của cơ thể. Cơ thể điều hòa chức năng bằng hai phương
thức là thể dịch và thần kinh. Hoạt động của hai hệ thống này luôn hổ trợ lẫn nhau và bổ
sung cho nhau.
- Điều hòa bằng thể dịch: Là do nội môi phụ trách, bao gồm máu, bạch huyết, dịch
khe, dịch não tủy, dịch các cơ quan (dịch màng tim, màng phổi, màng bụng, dịch khớp,
nhãn dịch, nhĩ dịch v…v…). Trong nội môi, có những thành phần quan trọng góp phần
điều hòa các cơ quan, bộ máy như: các hormones, các khí O2 và CO2, các chất điện giải
Na+, K+, Ca++, Mg++, v…v…
- Điều hòa bằng thần kinh: Là do hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh thực vật
phụ trách, bao gồm các neurons và các sợi trục thần kinh đi đến từng tận các tế bào. Các
neurons thần kinh điều hòa các tế bào thông qua một số hóa chất trung gian, gọi là các chất
dẫn truyền thần kinh (Neurotransmitters), chất dẫn truyền phổ biến và điển hình là
acetylcholine. Còn các tế bào tiếp nhận các chất dẫn truyền thần kinh bằng các thụ thể
(receptors).
- Hoạt động điều hòa được tiến hành theo nguyên tắc hai chiều, gọi là “cơ chế
điều hòa ngược”: nghĩa là khi các cơ quan, bộ máy nhận các tín hiệu điều hòa, nó cũng
có những phản ứng ngược trở về các cơ quan mà đã phát tín hiệu đến nó. Đó là khả năng
tự điều chỉnh của cơ thể.
IV. KẾT LUẬN:
Sinh lý học là một môn cơ sở quan trọng của y học. Nghiên cứu hoạt động chức
năng bình thường của cơ thể, tìm ra qui luật hoạt động của cơ thể nói chung, và qui luật
hoạt động của từng cơ quan, bộ máy nói riêng là một công việc phức tạp, đòi hỏi những
kiến thức tổng hợp của các ngành khoa học cơ bản, y học cơ sở và lâm sàng.
Từ nhiều thế kỷ nay, sinh lý học phát triển qua nhiều giai đoạn, từ giai đoạn duy
tâm, thần bí, đến giai đoạn thực nghiệm khoa học, và cho đến nay giai đoạn sinh vật học
phân tử, chứng tỏ sinh lý học đã có những bước tiến dài, và còn tiếp tục phát triển.
Muốn nghiên cứu sinh lý học phải có phương pháp luận chính xác, và có quan điểm
duy vật biện chứng. Lịch sử phát triển sinh lý học cũng cho thấy những quan niệm duy tâm
thần bí chủ quan, bảo thủ, máy móc, tin vào định mệnh sẽ kìm hãm bước phát triển của
khoa học nói chung và sinh lý học nói riêng.
Người thầy thuốc muốn giỏi về chuyên môn phải cập nhật những thông tin mới về
sinh lý học và y học, phải có phương pháp suy luận đúng: tiếp nhận thông tin, chọn lọc xử

9
lý, và sử dụng thông tin một cách hiệu quả nhất.
Để trở thành một người thầy thuốc tốt, phải trung thực với người và với mình, phải
luôn luôn học tập, học nữa và học mãi (Lenin), trau dồi kiến thức để phục vụ tốt sức khỏe
nhân dân, làm việc theo lương tâm nghề nghiệp, đó là y đạo và y đức. Bác Hồ đã dạy chúng
ta “thầy thuốc như mẹ hiền”. Thầy thuốc dốt nát, không thể như mẹ hiền được, và không
ai có thể trao tính mạng của mình cho một thầy thuốc dốt.

LƯỢNG GIÁ:
1. Anh (chị) hãy trình bày định nghĩa và đối tượng nghiên cứu của sinh lý học?
2. Anh (chị) hãy trình bày vị trí của môn sinh lý học?
3. Anh (chị) hãy trình bày lịch sử phát triển của ngành sinh lý học?
4. Anh (chị) hãy trình bày phương pháp nghiên cứu và học tập môn sinh lý học?
5. Anh (chị) hãy trình bày đặc điểm thay cũ đổi mới của sự sống?
6. Anh (chị) hãy trình bày đặc tính chịu kích thích của cơ thể sống?
7. Anh (chị) hãy trình bày đặc điểm sinh sản giống mình của cơ thể sống?
8. Anh (chị) hãy trình bày chức năng điều hòa bằng đường thần kinh và thể dịch trong
cơ thể người?
9. Anh (chị) hãy trình bày chức năng điều hòa theo cơ chế ngược của cơ thể người?

10
Bài 2
SINH LÝ TẾ BÀO VÀ MÀNG TẾ BÀO
MỤC TIÊU:
1. Trình bày được cấu tạo chung của tế bào và màng tế bào trong cơ thể người.
2. Trình bày được chức năng chung của màng tế bào.
3. Trình bày được các hiện tượng điện thế màng tế bào.

NỘI DUNG:
I. CẤU TẠO CỦA TẾ BÀO.
- Mọi cơ thể sống đều gồm những đơn vị cơ bản là tế bào. Trong cơ thể đơn bào,
mọi quá trình sống đều diễn ra trong một tế bào. Trong quá trình tiến hóa, cơ thể đơn bào
trở thành cơ thể đa bào. Trong cơ thể đa bào có những nhóm tế bào chuyên chức hợp thành
các cơ quan, hệ thống trong cơ thể như: hệ tuần hoàn, hô hấp, tiết niệu…
- Những đặc tính cơ bản của tế bào cơ thể người
Đó là khả năng biệt hóa và phân chia. Đa số tế bào trong cơ thể đều phân chia sinh
tế bào con kết hợp lại với nhau thành tổ chức hay còn gọi là mô. Tuy nhiên, có một số tế
bào phát triển theo một cách thức riêng biệt. Ví dụ:
+ Tế bào cơ vân (cơ chi, cơ thân) không phân chia mà tăng trưởng theo chiều ngang
và dọc.
+ Tế bào thần kinh cũng không phân chia nhưng khi tổn thương thì phát triển
nhánh.
+ Các tế bào máu do tủy xương sản xuất lưu thông trong máu, không phân chia.
- Tế bào có kích thước, hình dáng thay đổi tùy theo vị trí và chức năng như hình
tròn (tế bào máu), hình trụ (biểu mô dạ dày và ruột), hình vuông (tế bào tuyến giáp),
hình sao (tế bào thần kinh)…dù hình dạng như thế nào, tế bào đều có một cấu tạo chung
bao gồm:
* Màng tế bào.
* Nhân tế bào.
* Bào tương (hay chất nguyên sinh) trong đó có các bào quan tham gia thực hiện
các chức năng của tế bào.
- Cơ thể người có từ 75 đến 100 triệu tế bào với nhiều hình dạng kích thước khác
nhau. Mỗi tế bào có màng, bào tương, các bào quan và nhân. Chức năng chủ yếu của tế
bào là:
+ Tạo ra hàng rào bảo vệ, tạo hình, ổn định cấu trúc cả trong và ngoài
+ Thông tin: Tiếp nhận, xử lý và truyền tin.
+ Tiếp nhận, tiêu hóa chất, tổng hợp chất mới, sinh năng lượng, sinh công
+ Dự trữ chất và năng lượng
+ Sinh sản để thay cũ đổi mới, phát triển cơ thể, hồi phục cơ thể, duy trì nòi giống

11
Hình 2.1. Sơ đồ cấu trúc tế bào.
1. Cấu tạo màng tế bào.
1.2. Thành phần hóa học của màng tế bào
Gồm chủ yếu là:
- Glucid.
- Protein: gồm glycoprotein và lipoprotein.
- Lipid: chủ yếu là phospholipid, chiếm trên 60% thành phần hóa học của màng
và một ít cholesterol.
1.2.1. Thành phần lipid của màng
- Phospholipid: Chiếm 75% thành phần lipid của màng. Các phân tử phospholidid
với
đặc điểm cấu trúc một đầu phân cực (đầu ưa nước do có chứa phosphat) và một đầu
không phân cực (đầu kỵ nước do chứa 2 đuôi acid béo) tạo thành một lớp lipid kép với 2
đầu kỵ nước quay vào nhau tạo thành bộ khung của màng bào tương. Các phân tử
phospholipid có
thể di chuyển dễ dàng giữa 2 lớp và thay đổi chỗ cho nhau tạo nên tính linh hoạt
cho lớp lipid kép. Màng này có khả năng tự hàn gắn khi bị thủng.
- Glycolipid: Chiếm khoảng 5% thành phần lipid của màng, cũng có cấu trúc phân
cực
nhưng chỉ có ở phần tiếp xúc với dịch ngoại bào của màng bào tương. Chức năng
chưa rõ, có lẽ liên quan đến việc ghi nhận và truyền đạt thông tin giữa các tế bào, tham gia
vào các cơ chế điều hòa sự sinh trưởng và phát triển của tế bào.
- Cholesterol: Chỉ chiếm 20% thành phần lipid của màng bào tương, loại
lipid này không có ở màng bào tương của tế bào thực vật. Cấu trúc dạng vòng của nhân

12
steroid trong cấu trúc hóa học của cholesterol tăng tính vững chắc nhưng lại làm giảm đi
tính mềm dẻo của màng tế bào động vật.
1.2.2. Thành phần protein của màng
* Phân loại:
- Dựa vào cách thức phân bố trên màng mà các protein được chia làm 2 loại:
+ Protein xuyên màng (integral protein): Nằm xuyên qua chiều dày của lớp lipid
kép,
hầu hết là các glycoprotein với thành phần đường nằm quay ra phía ngoài của màng
tế bào.
+ Protein ngoại vi (peripheral protein). Chỉ gắn lỏng lẻo với mặt ngoài hoặc mặt
trong
của màng lipid kép.

* Chức năng:

Hình 2.2: Các chức năng của protein trên màng


a: kênh; b: chất vận chuyển; c: receptor; d: enzyme; e: neo khung xương tế bào; f: dấu
nhận dạng tế bào. 1: dịch ngoại bào; 2 màng bào tương; 3: bào tương; 4:ligand; 5:cơ
chất; 6: sản phẩm; 7:vi sợi; 8: protein MHC.
- Các protein trên màng bào tương có những vai trò như sau trong hoạt động sống
của
tế bào (hình 2.2):
+ Các kênh: là những lỗ nằm xuyên qua các protein xuyên màng cho phép một số
chất
nhất định đi ra ngoài hoặc vào bên trong tế bào.
+ Chất vận chuyển: là những protein xuyên màng thực hiện việc vận chuyển các
chất từ
phía này sang phía khác của màng tế bào.
+ Các receptor: là các protein xuyên m àng có vai trò xác định các phân tử đặc hiệu
như horrmon, chất dẫn truyền thần kinh v.v..., gắn với chúng để qua đó khởi động một số
các hoạt động chức năng của tế bào.
+ Các enzyme: có thể là protein xuyên màng hay protein ngoại vi, xúc tác cho các
hoạt động sinh hóa diễn ra trên màng.

13
+ Các neo khung xương tế bào: là các protein ngoại vi ở mặt trong của màng bào
tương, đây là vị trí gắn của các vi sợi làm hình thành nên khung xương của tế bào.
+ Các dấu nhận dạng tế bào (cell identity markers: CIM): đóng vai trò của các dấu
nhận dạng tế bào, thường có cấu tạo glycoprotein hoặc glycolipid. Giúp tế bào của cơ thể
nhận biết được tế bào cùng loại trong quá trình tạo mô cũng như nhận dạng và đáp ứng với
các tế bào lạ.
1.3. Cấu trúc của màng tế bào
Nhìn dưới kính hiển vi điện tử thấy:
- Màng tế bào dày khoảng 75 Angstrom (Å).
- Hai lớp mặt trong và mặt ngoài bản chất là protein.
- Lớp giữa bản chất là phospholipid.

Hình 2.3. Mô hình màng tế bào của Danielli và Davson.


- Một tế bào điển hình có thể chia làm 4 phần cơ bản:
+ Màng bào tương: màng ngăn cách thành phần nội bào với thành phần vật chất và
môi trường bên ngoài tế bào.
+ Dịch tế bào (cytosol): là một dịch keo chứa nhiều loại protein, enzym, chất dinh
dưỡng, các ion và các phân tử nhỏ hòa tan khác nhau, tham gia vào các quá trình chuyển
hóa khác nhau của tế bào. Các bào quan và thể vùi nằm lơ lững trong dịch tế tương. Từ
bào tương (cytoplasm) dùng để bao hàm cả dịch tế bào, tất cả các bào quan (trừ nhân) và
các thể vùi.
+ Các bào quan: gồm các cấu trúc có hình dạng và chức năng đặc trưng, bao gồm
cả nhân.
+ Các thể vùi (inclusions): Các cấu trúc có mặt không thường xuyên trong dịch bào
tương, chứa các sản phẩm bài tiết hoặc các chất dự trữ của tế bào.

14
1.4. Bào tương và nhân tế bào.
1.4.1. Màng bào tương:

Hình 2.4: Cấu trúc của màng bào tương


1: kênh; 2: lỗ; 3: cholesterol; 4: protein ngoại vi; 5: protein xuyên màng; 6: lớp kép
phospholipid; 7: phần ưa nước của phospholipid; 8: glycoprotein;
9: glycolipid; 10: protein ngoại vi; 11: dịch ngoại bào; 12: bào tương;
13: phần kỵ nước của phân tử phospholipid;
- Cấu trúc của màng bào tương (hình 2.4) là một cấu trúc dạng khảm lỏng (fluid
mosaic
model) với các phân tử protein nằm xen kẻ trên một màng kép lipid.
- Màng bào tương của các tế bào động vật điển hình có tỉ lệ về mặt khối lượng giữa
protein và lipid xấp xỉ 1: 1 và tỉ lệ về mặt số lượng phân tử giữa chúng là 1 protein:
50 lipid.
- Thành phần lipid rất ít thay đổi giữa các loại màng bào tương khác nhau nhưng
thành phần protein có sự thay đổi rất lớn và đóng vai trò quyết định trong hoạt động chức
năng của tế bào.

Hình 2.5. Cấu trúc màng tế bào.


II. CHỨC NĂNG CỦA MÀNG TẾ BÀO.
15
Màng tế bào có 5 chức năng chính:
1. Chức năng chia ngăn:
- Mỗi tế bào là một đơn vị biệt hóa có những chức năng riêng biệt, chứa đựng
những vật chất riêng biệt. Các bào quan bên trong cũng có những chức năngriêng biệt và
cũng chứa những vật chất riêng biệt. Tế bào cũng như các bào quan cần được chia ngăn để
tiến hành chức năng riêng của mình.
2. Chức năng thấm qua:
Vật chất được vận chuyển qua lại màng tế bào theo nhiều phương thức: khuếch
tán đơn thuần, vận chuyển qua trung gian, vận chuyển qua “kênh ion”.

Hình 2.6. Các hình thức vận chuyển trong màng tế bào.
2.1. Khuếch tán đơn thuần
Các phân tử có ít hoặc không có nhóm phân cực thì thấm qua màng một cách dễ
dàng, nhanh chóng (các chất dầu và chất tan trong dầu). Các phân tử có nhóm phân cực
(nước và các chất tan trong nước) thì không thấm qua mạnh như các chất không phân
cực mà thấm qua các lỗ lọc hoặc thấm qua các phân tử protein của màng.
2.2. Vận chuyển qua trung gian
Đại bộ phận quá trình xuyên qua màng trong đó có quá trình xuyên qua màng của
glucose và amino acid là tiến hành theo phương thức hóa học, tức là theo phản ứng hóa
học giữa các phân tử xuyên màng và các phân tử cấu trúc của màng. Quá trình này gọi là
vận chuyển qua trung gian.
2.3. Vận chuyển qua “kênh ion”:
Màng tế bào có những đám glycoprotein xuyên qua 2 lớp phospholipid màng,
gọi là “kênh ion” có chức năng cho các ion xuyên qua lại màng. Các ion được vận chuyển
qua màng tế bào sẽ gây biến đổi chức năng của tế bào ảnh hưởng đến các cơ quan và toàn
cơ thể.
Ví dụ: Trong tế bào cơ tim và tế bào cơ trơn của các động mạch, có những kênh
Ca++ . Trong trạng thái bình thường, lượng Ca ++ trong tế bào rất thấp so với dịch kẽ bên
ngoài tế bào. Nếu ta tiêm adrenalin vào mạch máu, adrenalin sẽ mở kênh Ca ++, làm cho
các ion Ca++ bên ngoài tràn vào tế bào gây tăng huyết áp. Thuốc Adalate (Nifedipin) uống
vào sẽ đóng kênh Ca ++ làm cho Ca++ bên ngoài không vào được tế bào dẫn đến hạ huyết
áp.

3. Chức năng biến hình và hòa màng trong quá trình thực bào và bài tiết.

16
Màng tế bào là một cấu trúc vô cùng sinh động và có khả năng tạo hình rất cao. Khả
năng này biểu hiện rõ rệt trong các quá trình thực bào, ẩm bào và bài tiết sản phẩm.
Khi tế bào tiếp xúc với một vật lạ, màng tế bào có thể lõm vào bao bọc vật lạ rồi
khép miệng lại thành một túi chứa vật lạ, sau đó túi tách rời màng đi vào bào tương còn
màng thì khép kín lại như cũ. Túi chứa vật lạ đó là “bọc thực bào”. Bọc thực bào này khi
vào bào tương thì sẽ bị hấp dẫn đến tiếp xúc với một bọc enzym, gọi là lysosom. Hai bọc
đó hòa màng với nhau tại điểm tiếp xúc, pha trộn nội dung với nhau làm thành một túi lớn
là lysosom thực bào.

4. Chức năng dẫn truyền.


Điện thế màng: hai bên màng tế bào, bên trong và bên ngoài đều có những ion mang
điện dương (+) hoặc âm (-). Các chất quan trọng quyết định tích điện 2 bên màng là Na+,
K+, và Cl-; nồng độ của chúng ở 2 bên màng rất khác nhau:
Bảng 2.2. Nồng độ Ion trong và ngoài tế bào
Ion Nồng độ bên ngoài tế bào Nồng độ bên trong tế bào
Na+ 150 mmol/ lít 15 mmol/ lít
Cl- 125 mmol/ lít 10 mmol/ lít
K+ 5 mmol/ lít 150 mmol/ lít
Na+ 150 mmol/ lít 15 mmol/ lít

Tất cả các màng tế bào sống đều có tính chất như một pin điện mà cực dương
quay ra ngoài còn cực âm quay vào trong. Khi có kích thích, màng liền thay đổi tính thấm
và có sự vận chuyển ion Na + vào trong, K+ ra ngoài làm cho có trạng thái cân bằng ion
rồi tiếp sau đó là đảo ngược ion. Sự biến đổi số lượng ion gây biến đổi điện thế, gọi là
điện thế động. Một khi xuất hiện điện thế động ở một điểm kích thích, xung động điện
chạy trên màng (thường là màng sợi thần kinh). Màng tế bào đã làm chức năng dẫn truyền
xung động điện.
5. Chức năng thông tin:
Màng tế bào chứa đựng những glycoprotein đặc hiệu như các kháng nguyên
ghép giúp cho tế bào nhận dạng được các tế bào khác. Nếu kháng nguyên giống nhau thì
tế bào kết lại với nhau thành tổ chức, nếu không giống nhau thì có hiện tượng “tống ghép”.
Một trong những glycoprotein đó là một kháng nguyên có chức năng đặc biệt là nhận
dạng các tế bào và phân biệt tế bào quen, tế bào lạ.
Kháng nguyên này do Jean Dausset phát hiện và ông được tặng giải Nobel y học
năm 1980, gọi là HLA (Human Leucocyte Antigen: kháng nguyên bạch cầu người).
Thực ra, HLA không phải là kháng nguyên của riêng bạch cầu mà là của tất cả tế bào cơ
thể. Màng tế bào còn chứa đựng những enzym có vai trò nhận và truyền tin của các kích
thích tố nội tiết.
Màng tế bào cũng có khả năng sản xuất những chất có tác dụng kích thích tố như
prostaglandin khi màng tiếp nhận một kích thích đặc hiệu qua chuỗi phản ứng:

17
Hình 2.7. Sơ đồ chuỗi phản ứng truyền thông tin của màng tế bào.
6. Chức năng của các bào quan trong tế bào.
6.1. Lưới nội bào tương:
Là hệ thống ống và túi nhỏ thông với nhau, thông với nhân tế bào ở trong và thông
tế bào với môi trường ngoài. Lưới nội bào tương có vai trò quan trọng trong trao đổi chất
trong tế bào.
6.2. Hạt Ribosom:
Là những bào quan nhỏ chứa ARN nằm rải rác trong bào tương. Ribosom có vai
trò quan trọng trong tổng hợp protein của tế bào.
6.3. Phức hợp Golgi:
Là những túi dẹt có chức năng chế tiết các chất và đặc biệt phát triển ở những
tế bào có chức năng bài tiết như tế bào tuyến giáp.
6.4. Ti lạp thể:
Là những bào quan tương đối lớn của tế bào, thường có hình bầu dục, rất di động
trong bào tương. Ti lạp thể có vai trò quan trọng trong sản xuất năng lượng của tế bào.
6.5. Lysosom:
Là bào quan có chứa nhiều men tiêu hóa có tác dụng tiêu hóa những chất hữu cơ
lạ xâm nhập vào tế bào và giúp cho quá trình thực bào.
6.6. Nhân tế bào:
Thường nằm giữa tế bào, có hình cầu hay hình bầu dục, gồm có: màng
nhân và nhân tương. Nhân có 2 chức năng là rập khuôn DNA và tổng hợp các loại RNA.

* Màng nhân:
Bao bọc quanh nhân có những lổ thủng thông với bào tương tạo thành mối liên hệ
chặt chẽ giữa nhân với bào tương.
* Nhân tương:
Là phần chất lỏng trong nhân gồm có: hạt nhân và thể nhiễm sắc. Hầu hết DNA
của tế bào đều tập trung ở nhân tương.
III. ĐIỆN THẾ MÀNG TẾ BÀO.
1. Khái niệm về điện thế màng tế bào.
- Hầu như mọi tế bào của cơ thể đều có điện thế ở hai bên màng tế bào, ngoài ra tế
bào thần kinh và tế bào cơ có tính hưng phấn, tức là có khả năng phát sinh ra những xung
động điện hóa ở màng, những xung động đó truyền đạt tín hiệu dọc theo màng. Có những
18
tế bào tuyến, đại thực bào, tế bào lông có những biến đổi điện thế màng có các chức năng
khác.
1.1. Sự khuếch tán của các ion, điện thế khuếch tán
Điện thế khuếch tán là điện thế màng được tạo ra do sự khuếch tán ion qua màng

Hình 2.7. Điện thế khuếch tán được tạo ra do sự khuếch tán của ion kali và ion natri qua
màng tế bào.
1.2. Phương trình Nernst
Điện thế Nernst - hay điện thế khuếch tán - đối với một loại ion là điện thế màng
được tạo ra do sự khuếch tán của ion đó qua màng.

Trong đó: - Ci là nồng độ ion ở trong màng tế bào.


- Co là nồng độ ion ở ngoài màng tế bào.
1.3. Phương trình Goldman - Cách tính điện thế khuếch tán với nhiều loại ion.
Điện thế Nernst - hay điện thế khuếch tán - đối với một loại ion là điện thế màng
được tạo ra do sự khuếch tán của ion đó qua màng.

Trong đó: - EMF là điện thế bên trong màng.


- C là nồng độ của ion.
- P là tính thấm của màng đối với ion tương ứng.
1.4. Đo điện thế màng – Pathclamp
Pathclamp: dụng cụ gồm hai vi điện cực, điện cực hoạt động chọc qua màng vào
bên trong là một pipet siêu nhỏ ~ 1mm, chứa dung dịch điện ly mạnh (NaCl); điện cực
trung tính được đặt vào dịch ngoại bào. Hai vi điện cực này nối vào một dao động kế để
ghi ra những biến đổi điện thế màng.
2. Điện thế nghỉ (thần kinh và cơ).
- Điện thế nghỉ là sự chênh lệch về điện thế giữa hai bên màng tế bào khi tế bào
không bị kích thích, phía trong màng tích điện âm so với phía ngoài màng tế bào tích điện
dương
2.1. Định nghĩa
- Là điện thế màng tế bào ở trạng thái nghỉ (Resting membrane potential).
- Trị số điện thế nghỉ có thể khác nhau: thân nơron là - 65 mV, sợi thần kinh lớn và
sợi cơ vân là -90 mV, ở một số sợi thần kinh nhỏ là - 60 đến – 40 mV.
19
- Điện thế màng càng ít âm thì màng càng dễ bị kích thích và ngược lại (dễ hưng
phấn hay ức chế).
2.2. Các nguyên nhân gây ra điện thế màng lúc nghỉ
• Sự chênh lệch nồng độ ion giữa hai bên màng
Bơm Na+ - K+-ATPase và một số bơm khác như bơm calci hoạt động thường xuyên
trên màng tế bào tạo ra sự chênh lệch nồng độ ion giữa hai bên màng tế bào.
• Sự rò rỉ ion qua màng
Là hiện tượng một số ion như Na, K có thể đi qua các kênh đặc hiệu ngay ở trang
thái bình thường do sự đóng không chặt của các kênh này. Sự rò rỉ của ion K lớn gấp 100
lần ion Na do đó tính thấm của ion K lớn hơn ion Na cũng khoảng 100 lần.
• Sự tồn tại các ion âm, kích thước lớn (protein, phosphat) trong tế bào
2.3.Các yếu tố tham gia tạo điện thế nghỉ.
• Điện thế do khuếch tán ion K
Sự đóng góp vào điện thế màng lúc nghỉ do khuếch tán K+ là -94 mV.
• Điện thế do khuếch tán ion natri:
Sự đóng góp vào điện thế màng lúc nghỉ do khuếch tán Na+ là +61 mV.
Do tính thấm của màng đối với ion kali cao hơn đối với ion natri 100 lần, theo
phương trình Goldman, điện thế khuếch tán của cả Na+ và K+ là -86 mV.
• Điện thế do hoạt động của bơm Na+ - K+- ATPase
Đây là nguyên nhân chính tạo điện thế nghỉ của màng tạo ra điện thế nghỉ là -4 mV.
Cả ba yếu tố trên tạo nên điện thế màng lúc nghỉ là -90 mV
3. Điện thế hoạt động.
3.1. Định nghĩa và các giai đoạn của điện thế hoạt động
Điện thế hoạt động là những thay đổi điện thế nhanh, đột ngột mỗi khi màng bị
kích thích. Gồm hai giai đoạn khử cực và tái cực:
• Giai đoạn khử cực:
Khi bị kích thích màng đột nhiên trở nên có tính thấm rất cao đối với ion Na+ làm
cho một lượng lớn ion Na+ ùa vào bên trong tế bào, điện thế màng từ -90 mV chuyển
nhanh sang phía điện thế dương.
• Giai đoạn tái cực:
Vài phần vạn giây sau đó, kênh natri bắt đầu đóng, kênh kali mở, K+ khuếch tán
ra ngoài làm mặt trong màng bớt dương hơn, rồi lại trở về trạng thái nghỉ.
Ưu phân cực là hiện tượng các kênh kali vẫn tiếp tục mở trong vài ms sau khi điện
thế hoạt động chấm dứt, điện thế màng không chỉ trở về mức điện thế lúc nghỉ (-90 mV)
mà còn âm hơn nữa (-100 mV) rồi mới trở về bình thường.
3.2. Nguyên nhân của điện thế hoạt động
Nguyên nhân của điện thế hoạt động là sự thay đổi hoạt động của các kênh natri,
kênh kali và một vài kênh khác.
• Sự hoạt hóa kênh natri
Kênh natri là kênh đóng mở do điện thế hoặc chất kết nối : kích thích làm điện thế
màng trở nên bớt âm hơn, đạt tới ngưỡng, cổng hoạt hoá mở ra tối đa, các ion natri ùa
vào trong tế bào, tính thấm của màng đối với Na+ tăng 500 - 5000 lần.
Khử hoạt kênh natri : sự tăng điện thế bên trong màng đồng thời cũng làm đóng
cổng khử hoạt ngay sau khi mở cổng hoạt hóa một cách từ từ hơn ngăn Na+ vào trong tế
bào.

20
• Sự hoạt hoá kênh kali
Kênh kali cũng là loại kênh có cổng đóng mở do điện thế nhưng chỉ có một cổng
hoạt hoá phía trong màng. Khi điện thế màng tăng từ -90 mV lên phía 0 mV thì làm biến
đổi hình dạng của cổng, cổng mở từ từ và ion kali khuếch tán qua kênh ra ngoài tế bào
• Vai trò của kênh calci - natri
Kênh calci -natri có nhiều ở cơ tim và cơ trơn, đóng vai trò quan trọng trong tạo
điện thế hoạt động. Đây cũng là loại kênh có cổng đóng - mở do điện thế nhưng tốc độ
hoạt hóa chậm hơn kênh natri 10 - 20 lần
3.3. Cơ chế phát sinh điện thế hoạt động
Cơ chế phát sinh điện thế hoạt động: được khởi đầu (phát sinh) bằng một vòng
feedback dương mở kênh natri
3.4. Ngưỡng tạo điện thế hoạt động
Ngưỡng tạo điện thế hoạt động là mức tăng đột ngột điện thế màng làm phát sinh
điện thế hoạt động. Nếu điện thế màng tăng rất từ từ sẽ không tạo ra điện thế hoạt động
(sự thích nghi của màng đối với kích thích)
Nếu điện thế màng tăng về phía 0 gọi là điện thế kích thích còn nếu âm hơn gọi là điện
thế ức chế.
3.5. Sự lan truyền điện thế hoạt động
Sự lan truyền điện thế hoạt động bản chất là việc tạo nên một "mạch điện" tại chỗ
giữa vùng đang khử cực và phần màng ở vùng tiếp giáp.
Hướng lan truyền của điện thế hoạt động trên thực tế chỉ đi theo một chiều từ
ngoại vi về trung tâm (đối với xung cảm giác) hoặc từ trung tâm ra ngoại vi (đối với
xung vận động).
LƯỢNG GIÁ:
1. Anh (chị) hãy trình bày thành phần hóa học của màng tế bào?
2. Anh (chị) hãy trình bày cấu trúc màng tế bào?
3. Anh (chị) hãy trình bày cấu trúc của bào tương và nhân tế bào?
4. Anh (chị) hãy trình bày các chức năng chính của màng tế bào?
5. Anh (chị) hãy trình bày khái niệm về điện thế màng tế bào?
6. Anh (chị) hãy trình bày về điện thế nghỉ và điện thế hoạt động của tế bào?

21
Bài 3
SINH LÝ MÁU VÀ CÁC DỊCH CƠ THỂ
MỤC TIÊU:
1. Trình bày được chức năng của hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu.
2. Trình bày được đặc điểm kháng nguyên, kháng thể của hệ thống nhóm máu
ABO và ứng dụng trong truyền máu.
3. Trình bày được đặc điểm kháng nguyên, kháng thể của hệ thống nhóm máu
Rh, các tai biến trong sản khoa và truyền máu do bất đồng nhóm máu Rh.
4. Trình bày được các giai đoạn của quá trình cầm máu.
5. Trình bày được ý nghĩa của các xét nghiệm đánh giá chức năng các tế bào
máu.

NỘI DUNG:
I. ĐẶC TÍNH VÀ CHỨC NĂNG CHUNG CỦA MÁU.
- Máu là chất lỏng phức tạp được xem là một loại mô liên kết. Máu là phương tiện
để các phần khác nhau của cơ thể liên hệ với nhau, và với môi trường bên ngoài.
- Ngoài chức năng vận chuyển ô xy (hồng cầu), cacbonic, chất dinh dưỡng, chất
cặn bã, máu còn có chức năng bảo vệ (bạch cầu và kháng thể) và tạo nên môi trường cho
nhiều phản ứng sinh hóa của cơ thể.
- Đặc tính chung của máu:

Hình 3.1. Sơ đồ quy trình lấy máu và phân tích các thành phần có trong máu.
+ Có khoảng 70 ml máu /kg trọng lượng
+ Độ pH = 7,36
+ Màu sắc: máu nhiều ô xy (máu ở động mạch nói chung) có màu đỏ tươi, máu ít
ô xy (máu ở tĩnh mạch nói riêng) có màu đỏ thẫm
- Máu bao gồm:
+ Huyết tương (plasma) là một chất dịch màu vàng nhạt trong suốt trong đó chứa
nhiều chất hòa tan chiếm khoảng 55% thể tích máu.
+ Huyết cầu (blood cell) là các tế bào máu treo lơ lửng trong huyết tương, chiếm
khoảng 45% thể tích máu.
+ Huyết thanh (serum) là huyết tương đã loại bỏ các yếu tố đông máu.

22
1. Sinh lý học hồng cầu.
1.1. Hình thái và số lượng:
- Là những tế bào không có nhân,
ít các bào quan, bào tương chủ yếu chứa
chứa hemoglobin. Khung xương của tế
bào tạo hình đĩa lõm hai mặt, có đường
kính 7-7,5 mm, chiều dày là 1 mm ở trung
tâm và 2 mm ở ngoại vi.
- Hình đĩa lõm hai mặt làm tăng
diện tiếp xúc, tăng tốc độ trao đổi khí, dễ
biến dạng.
- Hồng cầu hình liềm bị phá huỷ
nhanh gây thiếu máu.
- Số lượng hồng cầu bình thường
trong máu ngoại vi:

Hình 3.2. Hình thái của hồng cầu


Nam giới: 5,05 ± 0,38 T/l (x1012 tế bào/lít).
Nữ giới: 4,66 ± 0,36 T/l (x1012 tế bào/lít).
1.2. Cấu tạo:
- 4 hem: vòng porphyrin có Fe2+ ở giữa, giống nhau giữa các loài
- globin: 4 chuỗi polypeptid giống nhau từng đôi một, đặc trưng cho loài.
- Nồng độ Hb trong máu của người trưởng thành là:
Nam giới: 15,1 ± 6 gam/100ml
Nữ giới: 13,5 ± 5 gam/100ml
- Hemoglobin của người trưởng thành bình thường có tỷ lệ như sau:
+ 96% HbA thuộc type A1 - gồm 2 chuỗi alpha và 2 chuỗi beta.
+ 2% HbA thuộc type A2 - gồm 2 chuỗi alpha và 2 chuỗi delta.
+ 2% Hb là HbF gồm 2 chuỗi alpha và 2 chuỗi gamma.

Hình 3.3. Mô hình phân tử HbA


1.3. Chức năng:
- Vận chuyển O2 và CO2.
- Ở phổi, Hb kết hợp với gắn với O2 thành HbO2, HbCO2 phân ly để thải CO2.
Máu tĩnh mạch phổi có màu đỏ tươi.
- 98% O2 ở dạng kết hợp với Hb, còn 80% CO2 ở dạng kết hợp muối kiềm.
- 1 phân tử Hb có thể gắn với 4 phân tử oxy. 1g Hb gắn với 1,34 ml oxy.

23
- Ở mô, HbO2 phân ly cung cấp O2 và kết hợp với CO2 , máu trở nên đỏ sẫm.
- Khả năng đệm của hồng cầu bằng khoảng 70% khả năng đệm của máu toàn
phần.
- Trên màng hồng cầu có kháng nguyên nhóm máu.
1.4. Quá trình sinh hồng cầu
● Nơi sinh hồng cầu
- Thời kỳ bào thai: nội mô mạch máu trong các tiểu đảo Wolff và Pander
- Từ tháng thứ ba: gan và lách
- Từ tháng thứ năm đến lúc trẻ ra đời: tuỷ đỏ xương
- Trưởng thành: Tủy xương dẹt

- Trưởng thành: Tủy xương


dẹt
- Tạo máu ngoài tủy trong
một số bệnh về máu: hồng cầu có
thể được tạo ra ở gan và lách.
● Nguồn gốc, các giai đoạn
tạo máu
- Các tế bào gốc sinh máu
vạn năng: Pluripotential
Hemopoietic Stem Cell

Hình 3.4. Các giai đoạn của quá trình sinh


hồng cầu.
- Các đơn vị tạo cụm: Colony Forming Unit(CFU)
- Đơn vị tạo cụm hồng cầu: Colony Forming Unit - Erythrocyte (CFU-E)
- Các cytokin (erythopoietin, thrombopoietin, interleukin 3) định hướng, kích
thích sự phát triển các dòng tế bào máu từ tế bào gốc.
Những chất cần cho quá trình sinh hồng cầu
Một số chất rất cần cho quá trình sinh hồng cầu và hemoglobin như acid amin, sắt,
đồng, vitamin B2 (riboflavin). Thiếu một trong những chất này có thể dẫn đến thiếu máu.
- Mỗi ngày có khoảng 4 mg sắt được bài tiết theo mồ hôi, phân và nước tiểu. Phụ
nữ bị mất nhiều hơn do có kinh nguyệt. Sắt được bù lại bằng thức ăn. Mỗi ngày nên ăn
khoảng 15 mg sắt mặc dù chỉ có khoảng 4 mg sắt được hấp thu ở ruột non.
- Nhu cầu vitamin B12 mỗi ngày vào khoảng 1 đến 3 microgam. Dự trữ B12 của
gan và các mô khác cao gấp 1000 lần số này.
- Thiếu acid folic có thể do cung cấp thiếu (suy dinh dưỡng, không ăn các loại rau
xanh, nghiện rượu) hoặc do tăng nhu cầu như trường hợp đa thai, thiếu máu tan máu, ung
thư hoặc do dùng các thuốc ức chế miễn dịch như methotrexat, hydantoin.
- Acid folic có nhiều trong rau xanh, hoa quả và thịt.
24
1.5. Các thành phần có trong hồng cầu.
1.5.1. Hemoglobin:
- Hemoglobin còn được gọi là huyết sắc tố.
- Hemoglobin có trên màng hồng cầu.
- Hemoglobin là một phức hợp gồm globin (một loại protein) và một chất chứa sắt
gọi là hem.
- Hemoglobin kết hợp với oxy tại phổi và tạo thành oxyhemoglobin.
Oxyhemoglobin sẽ phóng thích ô xy cho các tế bào.
- Hemoglobin kết hợp với cacbonic tạo thành carbohemoglobin. (Nhưng phần lớn
cacbonic trong máu ở dưới dạng hoà tan trong huyết tương.)
- Giảm Hemoglobin đồng nghĩa với việc giảm khả năng vận chuyển ô xy
(thiếu máu)
1.5.2. Các protein huyết tương:
- Albumin: Là loại protein có tỷ lệ cao nhất trong huyết tương. Được tạo nên ở
gan.
- Chức năng của albumin: Duy trì áp lực thẩm thấu của máu. Áp lực thẩm thấu
có chức năng giữ nước trong lòng mạch và vận chuyển các chất.
1.6. Sự phát triển và tuổi thọ hồng cầu:
- Hồng cầu được tạo trong tủy xương. Có hai quá trình: trưởng thành hồng cầu (cần
acid folic và vitamin B12) vào tạo hemglobin (cần sắt). Hồng cầu phát triển qua nhiều giai
đoạn, trong đó có giai đoạn hồng cầu lưới (hồng cầu non). Tủy xương sẽ giải phóng
hồng cầu trưởng thành và cả một số ít hồng cầu lưới vào máu. Hồng cầu lưới có mặt trong
máu ngoại vi chứng tỏ tủy xương còn tạo máu tốt.
- Khi cơ thể thiếu ô xy sẽ kích thích tăng tạo hồng cầu thông qua việc sản xuất
hocmone erythropoietin được thận tiết ra.
- Hồng cầu thọ khoảng 120 ngày.
1.7. Các rối loạn lâm sàng
● Thiếu máu:
- Thiếu máu là sự giảm khả năng vận chuyển oxy của máu do giảm số lượng hồng
cầu hoặc giảm số lượng Hb trong máu hoặc giảm cả hai. Theo Tổ chức Y tế Thế giới,
người bị thiếu máu là người có lượng Hb giảm dưới những giá trị sau:
Nam giới: < 13 gam/100ml máu.
Nữ giới: < 12 gam/100ml máu.
Trẻ sơ sinh: < 14 gam/100ml máu.
- Do khả năng vận chuyển oxy của máu giảm, bệnh nhân dễ bị mệt mỏi, thở nhanh
và khó thực hiện công việc trí óc. Mệt mỏi về thể chất và trí tuệ là hình ảnh điển hình của
người thiếu máu. Tiên lượng thiếu máu sẽ tốt nếu hồng cầu có kích thước và màu sắc
bình thường.
- Những nguyên nhân thiếu máu thường gặp:
 Thiếu máu do thiếu sắt.
 Thiếu máu do mất máu cấp
 Thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ (thiếu máu ác tính)
 Thiếu máu suy tuỷ
 Do bất thường hình dạng hồng cầu
Ví dụ:

25
+ Bệnh thiếu máu hồng cầu hình cầu: Hồng cầu có kích thước khác nhau và hình
cầu rất dễ bị vỡ khi qua lách. Đây là một bệnh di truyền.
+ Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm: Phân tử Hb của hồng cầu là HbS. Khi tiếp
xúc với phân áp oxy thấp, các HbS sẽ kết tủa thành những tinh thể dài bên trong hồng cầu
làm cho hồng cầu có hình lưỡi liềm và màng hồng cầu dễ bị vỡ. Khoảng 0,3-1% người Tây
Phi và người Mỹ da đen bị mắc bệnh này.
+ Hồng cầu cũng có thể bị vỡ do các chất độc, kháng thể hoặc ký sinh trùng sốt rét.
+Thiếu máu tan máu thường kèm theo vàng da và tăng bilirubin trong máu.
 Đa hồng cầu:
- Đa hồng cầu thứ phát: Khi các mô bị thiếu oxy sẽ kích thích thận và gan sản xuất
ra erythropoietin thúc đẩy quá trình tạo hồng cầu ở tuỷ xương.
- Đa hồng cầu thực sự (bệnh Vaquez): Do tuỷ xương sản xuất ra quá nhiều hồng
cầu giống như kiểu một khối u. Ngoài ra số lượng bạch cầu và tiểu cầu cũng tăng.
2. Nhóm máu và ứng dụng truyền máu.
- Máu của những người khác nhau có những đặc tính kháng nguyên và kháng thể
khác nhau vì thế kháng thể trong huyết tương của người này có thể phản ứng với kháng
nguyên trên hồng cầu người khác và gây tai biến.Có hai nhóm kháng nguyên quan trọng
có thể gây ra các phản ứng trong truyền máu, đó là hệ thống ABO và hệ thống Rh
2.1. Hệ thống nhóm máu ABO:
Hệ thống này do Karl Landsteiner tìm ra lần đầu tiên vào năm 1901. Ông đã phát
hiện ra sự có mặt của các kháng nguyên A và B; trên màng hồng cầu và các kháng thể
tương ứng anti-A và anti-B trong huyết tương.
● Các kháng nguyên A và B
- Dựa trên sự có mặt hay vắng mặt của kháng nguyên A và B người ta phân thành
4 loại nhóm máu chính:
Nhóm O không có kháng nguyên A và B trên hồng cầu.
Nhóm B có kháng nguyên B trên hồng cầu.
Nhóm A có kháng nguyên A trên hồng cầu.
Nhóm AB có cả kháng nguyên A và kháng nguyên B trên hồng cầu.
Bảng 3.1. Tần suất của các nhóm máu hệ ABO (%).
Nhóm máu Người da trắng Người Việt Nam
O 47 45
A 41 21,2
B 9 28,3
AB 3 5,5

- Gen quy định kháng nguyên: Do 2 gen đồng dạng nằm trên cặp nhiễm sắc thể số
9 qui định nhóm máu ABO. Chúng xuất hiện ở bào thai 37 ngày tuổi và đạt đến mức tối
đa ở lứa tuổi lên ba. Hai gen đồng dạng này có thể là một trong ba loại A, B, O trên mỗi
nhiễm sắc thể. Gen O hầu như không hoạt động, do đó không tạo được kháng nguyên trên
hồng cầu trong khi gen A và B tạo ra các kháng nguyên mạnh A và B.
- Các gen này tạo ra 6 khả năng kết hợp là: OO, OA, OB, AA, BB, và AB gọi là
các genotyp và mỗi người có 1 trong 6 genotyp này. Những người có genotyp OO không
có kháng nguyên trên hồng cầu thì có nhóm máu O; người có genotyp OA hoặc AA có

26
nhóm máu A; người có genotyp OB hoặc BB có nhóm máu B; người có genotyp AB có
nhóm máu AB.
- Ngoài ra, tuỳ theo cường độ của phản ứng ngưng kết hồng cầu nhóm A với kháng
thể anti-A, người ta lại chia nhóm A thành hai phân nhóm A1 (80%) và A2 (20%), do đó
nhóm AB cũng được chia thành hai phân nhóm A1B và A2B.
- Các kháng nguyên A và B cũng có thể khư trú ở những nơi khác ngoài hồng cầu
như trong nước bọt, trong các tế bào bạch cầu và tiểu cầu, tế bào biểu mô, tế bào nội mô
mạch máu. Khoảng 80% số người có kháng nguyên A và B trong nước bọt. Các kháng
nguyên này là những kháng nguyên tan trong nước.
● Các kháng thể của hệ thống ABO
- Trong huyết tương của người nhóm A có kháng thể anti-B; huyết tương của người
nhóm B có kháng thể anti-A; huyết tương của người nhóm O có cả kháng thể anti-A và
anti-B; huyết tương của người nhóm AB không có các kháng thể này.
- Khi đứa trẻ ra đời, nồng độ kháng thể của nó hầu như bằng 0. Ở giai đoạn 6 đến
8 tháng tuổi đứa trẻ bắt đầu sản xuất ra kháng thể và nồng độ kháng thể đạt mức tối đa ở
giai đoạn 8 dến 10 tuổi rồi giảm dần trong những năm còn lại. Các kháng thể của nhóm
ABO cũng được gọi là các ngưng kết tố, là những kháng thể tự nhiên thuộc loại IgM và
không qua được nhau thai. Chính những kháng thể này gây ra tai biến truyền máu khi
truyền nhầm nhóm máu.
- Một số ít người có trong huyết tương các kháng thể nhóm máu miễn dịch sau khi
truyền máu khác nhóm ví dụ truyền máu nhóm A cho người nhóm O hoặc không hoà hợp
nhóm máu mẹ con ở phụ nữ có thai ví dụ mẹ nhóm O, thai nhóm A hoặc B. Các kháng thể
miễn dịch này thuộc loại IgG có khả năng gây vỡ hồng cầu rất mạnh và qua được nhau
thai.
● Ứng dụng của nhóm máu
Những hiểu biết về nhóm máu đã được áp dụng rộng rãi trong lâm sàng ở các lĩnh
vực sau:
* Truyền máu:
- Nguyên tắc truyền máu: Để đảm bảo an toàn trong truyền máu phải truyền cùng
nhóm máu để tránh kháng nguyên và kháng thể tương ứng gặp nhau do vậy cần truyền
máu nhóm A cho người nhóm A, truyền máu AB cho người nhóm AB…
- Tai biến truyền máu: Truyền máu không hoà hợp, ví dụ truyền máu nhóm A, B
hoặc AB cho người nhóm O; truyền máu nhóm B cho người nhóm A… có thể gây ra các
tai biến cho người được truyền máu. Trong vòng hai giờ đầu bệnh nhân bị đau dữ dội ở
thắt lưng, khó thở, vã mồ hôi, rét run, nôn hoặc buồn nôn, tụt huyết áp, trụy mạch. Tuỳ
theo số lượng máu được truyền vào, các biến chứng nặng hơn bao gồm tổn thương thận,
tim, phổi, gan và não dẫn đến tử vong sau vài ngày.
- Cơ chế của tai biến truyền máu: Người nhận nhóm O có kháng thể anti-A. Nếu
nhận máu của người nhóm A thì các kháng thể anti-A này sẽ gây ngưng kết hồng cầu người
cho ngay trong mạch máu của người nhận và phá huỷ những hồng cầu này. Sự phá huỷ
hồng cầu giải phóng các protein màng, các lipid màng và hemoglobin vào mao mạch. Các
protein màng có thể gây đông máu rải rác trong mạch máu với những hậu quả nặng nề
trong khi hemoglobin có thể gây tắc mạch, gây sốc nặng hoặc suy thận. Tuy nhiên, sự
ngưng kết hồng cầu rộng rãi chỉ xảy ra khi có phản ứng giữa hồng cầu người cho với kháng
thể người nhận nên về mặt lý thuyết những người nhóm AB không có kháng thể anti-A và
anti-B trong huyết tương có thể nhận được máu của các nhóm máu O, A và B. Trước đây

27
người ta gọi nhóm AB là nhóm “nhận phổ thông”. Nhóm O không có kháng nguyên A và
B trên màng hồng cầu nên có thể cho được các nhóm khác và gọi là nhóm “cho phổ thông”.
Ngày nay khái niệm “cho phổ thông” và “nhận phổ thông” đã bị loại bỏ do sự có mặt của
những kháng nguyên thuộc các hệ thống nhóm máu khác ngoài kháng nguyên A và B trên
màng hồng cầu và những kháng thể khác chống hồng cầu trong huyết tương. Ví dụ 85%
người da trắng có kháng nguyên D (yếu tố Rh trên màng hồng cầu). Tuy nhiên trong những
trường hợp cấp cứu mà người cần truyền máu lại có nhóm máu thuộc loại hiếm, khi đó bắt
buộc phải truyền máu khác nhóm thì phải tuân theo nguyên tắc “kháng nguyên người cho
không bị ngưng kết bởi kháng thể người nhận” và chỉ được truyền ít, truyền từ từ.
- Hiện nay ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước trên thế giới, nhu cầu máu là rất lớn
trong khi sự cung cấp chỉ có hạn, một phần do số người cho máu quá ít, một phần do sự
không hoà hợp giữa máu người cho và máu người nhận. Để khắc phục tình trạng này,
người ta thay thế việc truyền máu toàn phần bằng truyền máu từng phần. Máu được tách
ra thành các thành phần riêng rẽ như hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, huyết tương và các sản
phẩm của huyết tương như albumin, immunoglobulin, các yếu tố đông máu, các yếu tố
chống đông. Như vậy một đơn vị máu có thể truyền cho nhiều bệnh nhân với những nhu
cầu khác nhau và cũng hạn chế được các tai biến truyền máu. Ví dụ truyền hồng cầu rửa
cho bệnh nhân thiếu máu, truyền huyết tương cho bệnh nhân bị bỏng, truyền tiểu cầu cho
bệnh nhân bị xuất huyết giảm tiểu cầu, truyền yếu tố VIII cho bệnh nhân bị hemophilia A.
Truyền máu toàn phần chỉ được chỉ định khi mất máu cấp tính với một khối lượng lớn
(30% lượng máu toàn phần) dẫn tới tình trạng choáng nặng.
* Ghép cơ quan:
- Các kháng nguyên của nhóm ABO có ở nhiều nơi trong cơ thể kể cả trên màng
nội mô của các mạch máu thận. Nếu ghép thận của người nhóm A cho người nhóm O thì
các kháng thể anti-A của người nhận sẽ cố định trên các kháng nguyên A của thận ghép và
lập tức gây thải ghép.
* Trong sản khoa:
- Khi có sự không hoà hợp giữa máu mẹ và máu con, ví dụ mẹ nhóm máu O có
trong huyết tương kháng thể miễn dịch anti-A và mang thai nhóm A. Các kháng thể miễn
dịch anti-A có thể qua được nhau thai để vào tuần hoàn thai nhi gây ngưng kết và vỡ hồng
cầu của thai. Hậu quả là đứa trẻ bị vàng da vài giờ sau khi sinh. Nhìn chung mức độ vàng
da thường nhẹ và có thể điều trị bằng quang liệu pháp mà không cần truyền máu thay thế.
 Cách xác định nhóm máu:

28
- Phương pháp Beth-Vincent
(phương pháp huyết thanh mẫu): Trộn
huyết thanh mẫu chứa kháng thể đã biết
với máu người thử. Dựa vào phản ứng
ngưng kết hồng cầu để xác định kháng
nguyên trên hồng cầu người thử và suy ra
nhóm máu (hình dưới - Cách xác định
nhóm máu).
- Phương pháp Simonin (phương
pháp hồng cầu mẫu): Trộn hồng cầu mẫu
đã biết rõ kháng nguyên với huyết tương
hoặc huyết thanh người thử. Dựa vào phản
ứng ngưng kết hồng cầu để xác định kháng
thể trong máu người thử và suy ra nhóm
máu của người thử.

Hình 3.5. Sơ đồ xác định nhóm máu.


Bảng 3.2. Phản ứng ngưng kết của nhóm máu
Nhóm máu Hồng cầu mẫu
A B
A - +
B + -
AB - -
O + +
+ : Phản ứng ngưng kết dương tính.
– : Phản ứng ngưng kết âm tính.
- Phản ứng chéo: Mặc dù đã biết nhóm máu của người nhận và người cho nhưng
trước khi truyền máu người ta vẫn phải làm phản ứng chéo ngay tại giường người bệnh để
đảm bảo an toàn trong truyền máu. Phản ứng chéo được thực hiện bằng cách lấy máu của
người cho và người nhận , chống đông rồi tách riêng lấy huyết tương và hồng cầu, rửa
hồng cầu. Trộn huyết tương của người nhận với hồng cầu rửa của người cho và ngược lại.
Truyền máu chỉ được phép thực hiện khi không có hiện tượng ngưng kết hồng cầu ở cả
hai trường hợp.
2.2. Hệ thống nhóm máu Rh:
- Năm 1940, Lansteiner và cộng sự tìm ra kháng nguyên của hệ thống Rh trên loài
khỉ Rhesus. Giống như kháng nguyên A và B của hệ thống ABO, sự có mặt hay vắng mặt
kháng nguyên Rh là do di truyền.
- Hầu hết kháng nguyên Rh (được ký hiệu bằng các chữ C, D, E, c, d, e) là kháng
nguyên yếu nên ít có ý nghĩa về mặt lâm sàng trừ kháng nguyên D. Kháng nguyên D cũng
được gọi là yếu tố Rh. Người có kháng nguyên D trên hồng cầu được gọi là người Rh
dương tính (Rh+). Người không có kháng nguyên D trên hồng cầu được gọi là Rh âm tính
(Rh-).

29
- Nếu kết hợp cả hai hệ thống ABO và Rh thì ta có các ký hiệu sau: A+, B+, AB+,
O+ và A-, B-, AB- và O-.
- Kháng thể anti-D là kháng thể miễn dịch, bình thường không có trong huyết tương
của cả người Rh+ và người Rh-. Khi truyền máu Rh+ cho người Rh- thì những người Rh-
sẽ sản xuất ra kháng thể anti-D. Sự tạo thành kháng thể anti-D xảy ra rất chậm, nghĩa là
khoảng 2 đến 4 tháng sau nồng độ kháng thể mới đạt đến mức tối đa. Nếu lần sau những
người Rh- này lại nhận máu Rh+ thì các kháng thể anti-D trong cơ thể họ sẽ làm ngưng
kết các hồng cầu cho Rh+ và sẽ xảy ra phản ứng truyền máu. Như vậy, không được truyền
máu Rh+ cho người nhận Rh- nhưng có thể truyền máu Rh- cho người nhận Rh+.
- Một hậu quả khác của nhóm Rh có thể xảy ra trong sản khoa khi không có sự hoà
hợp trong nhóm Rh giữa máu mẹ Rh- và máu thai nhi Rh+. Trong lần có thai đầu tiên
không có biến chứng về máu nào xảy ra nếu trước đó người mẹ chưa bao giờ nhận máu
của người Rh+. Trong lúc sinh, hàng rào nhau thai bị phá huỷ và có sự trộn lẫn máu mẹ và
máu thai nhi, hồng cầu Rh+ của thai đi vào tuần hoàn máu mẹ, kích thích hệ thống miễn
dịch của mẹ sản xuất kháng thể anti-D, những kháng thể này có thể tồn tại trong cơ thể mẹ
vài năm. Khi người mẹ có thai lần sau mà thai cũng có nhóm Rh+, các kháng thể anti-D
trong máu mẹ đi qua nhau thai vào máu bào thai làm cho hồng cầu bào thai ngưng kết gây
thiếu máu tan máu ở bào thai. Hậu quả là xảy thai, thai chết lưu hoặc đứa trẻ sinh ra bị
thiếu máu tan máu tăng hồng cầu non (erythroblastosis fetalis). Nếu không được truyền
máu thay thế, trẻ sơ sinh sẽ chết do thiếu oxy và các biến chứng khác. Nguy cơ thiếu máu
tan máu bào thai có thể được khắc phục nếu trong vòng 72 giờ sau khi sinh một đứa con
Rh+ người mẹ được tiêm kháng thể anti-D. Những kháng thể này sẽ phản ứng với những
hồng cầu Rh+ bào thai đi vào máu mẹ. Nghiệm pháp giải mẫn cảm này hạn chế sự sản xuất
kháng thể ở người mẹ và không gây nguy hiểm cho những thai Rh+ tiếp theo.
- Tỷ lệ Rh+ ở người da trắng là 85%. Những người Mỹ da đen có tỷ lệ Rh+ là 95%.
Tỷ lệ này ở người châu Phi là 100%. Ở người Việt Nam tỷ lệ Rh+ là 99,92% do đó những
tai biến do không hoà hợp của nhóm máu Rh rất hiếm gặp.
3. Sinh lý học bạch cầu.
Bạch cầu là những tế bào có chức năng chống lại các tác nhân lạ đi vào cơ thể.
Chúng là một phần của hệ thống bảo vệ cơ thể. Các tế bào này sẽ thực bào các chất hoặc
vi khuẩn, khử độc, sản xuất kháng thể, giải phóng các chất truyền tin hoá học, các enzym
và những chất khác. Trong quá trình bảo vệ cơ thể, mỗi loại bạch cầu thực hiện những
chức năng khác nhau, nhưng mỗi chức năng này đều cần thiết để cho sự bảo vệ được
thống nhất và có hiệu quả.
3.1. Phân loại bạch cầu:
- Bằng các phương pháp nhuộm đặc hiệu, người ta có thể nhận biết và đếm được
các loại bạch cầu. Người ta phân loại bạch cầu dựa trên hình dáng của nhân và sự có mặt
hay vắng mặt các hạt trong bào tương của tế bào. Các hạt này chủ yếu là các tiêu thể
(lysosome). Những bạch cầu chứa những hạt lớn trong bào tương được gọi là bạch cầu hạt
(granulocyte). Nhân của bạch cầu hạt chia làm nhiều thuỳ nên chúng còn được gọi là bạch
cầu đa nhân. Tuỳ theo sự bắt màu của các hạt trong bào tương, bạch cầu hạt lại được chia
thành bạch cầu hạt trung tính, bạch cầu hạt ưa acid, bạch cầu hạt ưa base.
- Những bạch cầu không có hạt trong bào tương là bạch cầu không hạt
(agranulocyte). Chúng có nhân không chia thành các thuỳ nên còn được gọi là bạch cầu
đơn nhân. Có hai loại bạch cầu không hạt là bạch cầu mono và bạch cầu lympho (hình
dưới - Các loại bạch cầu trong máu ngoại vi.).

30
Hình 3.6. Bạch cầu trong máu ngoại vi.
3.2. Số lượng bạch cầu và công thức bạch cầu:
● Số lượng bạch cầu trong máu ngoại vi
- Số lượng bạch cầu trong máu ngoại vi thay đổi trong khoảng 4,0 - 11,0 G/l
(Giga/lít).
 Nam 8,0 ± 2 G/l (x109 tế bào/lít).
 Nữ 8,1 ± 2 G/l (x109 tế bào/lít).
- Dùng phương pháp nhuộm đặc hiệu người ta có thể nhận biết và đếm được số
lượng của từng loại bạch cầu (BC) trong 100 bạch cầu, gọi là định công thức bạch cầu.
- Công thức bạch cầu của người trưởng thành:
 BC hạt trung tính: 57,4 ± 8,4%
 BC hạt ưa acid: 3,2 ± 2,6%
 BC hạt ưa base: rất hiếm gặp
 BC mono : 3,8 ± 0,5%
 BC lympho : 35 ± 7,2 %
- Không có sự khác biệt giữa công thức bạch cầu của nam và của nữ.
● Thay đổi sinh lý và bệnh lý của số lượng bạch cầu
Khi số lượng bạch cầu tăng trên 11,0 G/l thì gọi là tăng bạch cầu, giảm dưới 4,0 G/l
gọi là giảm bạch cầu.
* Thay đổi sinh lý:
- Số lượng bạch cầu thường tăng sau khi ăn, sau khi lao động, tập luyện, trong thời
kỳ kinh nguyệt. Bạch cầu cũng tăng trong những tháng cuối của thời kỳ có thai. Lúc sắp
sinh, bạch cầu có thể tăng tới 17,0 G/l. Số lượng bạch cầu của trẻ sơ sinh rất cao, khoảng
20,0 G/l. Sau 2 tuần số lượng bạch cầu giảm dần và bằng số bạch cầu của người lớn khi
đứa trẻ ở lứa tuổi 5 đến 10 tuổi.
* Thay đổi bệnh lý:
- Tăng bạch cầu bệnh lý thường gặp trong các bệnh nhiễm khuẩn cấp tính hoặc
nhiễm virus, các bệnh rối loạn chuyển hoá hoặc rối loạn hormon, dị ứng và một số bệnh
ác tính.
- Leukemia là một bệnh ác tính do sự tăng rất cao số lượng bạch cầu bất thường
trong máu ngoại vi. Có hai loại leukemia là leukemia thể lympho và leukemia thể tuỷ.
- Leukemia thể lympho là sự quá sản của bạch cầu lympho thường bắt đầu trong
các hạch bạch huyết hoặc các mô bạch huyết khác rồi lan khắp cơ thể. Leukemia thể tuỷ
là sự quá sản của các tuỷ bào non trong tuỷ xương rồi lan khắp cơ thể đến mức bạch cầu
có thể được sinh ra ở các cơ quan ngoài tuỷ. Trong leukemia thể tuỷ, quá trình ung thư có
thể tạo ra những tế bào đã biệt hoá một phần, do đó có thể có leukemia bạch cầu hạt trung
31
tính, leukemia bạch cầu hạt ưa acid, leukemia bạch cầu mono. Nhưng thông thường các tế
bào leukemia thường dị dạng, không biệt hoá và không giống bất kỳ loại bạch cầu nào. Tế
bào càng không biệt hoá leukemia càng cấp tính và bệnh nhân chết trong vài tháng nếu
không được điều trị. Nếu các tế bào đã biệt hoá, bệnh thường là mạn tính và có thể kéo dài
từ 10 đến 20 năm.
- Giảm bạch cầu: Xảy ra khi tuỷ xương giảm hoặc ngừng sản xuất bạch cầu. Trong
điều kiện này cơ thể không có khả năng chống đỡ lại sự xâm nhập của vi khuẩn và các tác
nhân khác.
Bình thường cơ thể người sống cộng sinh với nhiều loại vi khuẩn. Các vi khuẩn có
mặt ở mắt, miệng, đường hô hấp, đường tiêu hoá… Khi số lượng bạch cầu giảm, các vi
khuẩn này lập tức xâm nhập vào các mô. Hai ngày sau khi tuỷ xương ngừng sản xuất bạch
cầu, các vết loét có thể xuất hiện ở miệng, đại tràng hoặc bệnh nhân bị nhiễm khuẩn đường
hô hấp. Vi khuẩn từ những vết loét nhanh chóng xâm nhập vào các mô xung quanh và vào
máu. Nếu không được điều trị, bệnh nhân có thể chết trong vòng 3 đến 6 ngày sau khi giảm
bạch cầu hoàn toàn.
- Nguyên nhân của giảm bạch cầu là nhiễm tia g, dùng thuốc hoặc tiếp xúc với các
chất hoá học có nhân benzen hoặc nhân anthracen. Các thuốc chloramphenicol, thiouracil,
thuốc ngủ cũng có thể gây giảm bạch cầu.
3.3. Những đặc tính của bạch cầu:
- Bạch cầu không chỉ khư trú trong máu hoặc bạch huyết. Chúng cũng ở trong các
mô khác, đặc biệt là trong các mô liên kết lỏng lẻo.
- Bạch cầu là những tế bào có khả năng vận động. Chúng di chuyển theo kiểu amip:
Tế bào phóng ra các tua bào tương bám vào một điểm nào đó rồi kéo toàn bộ tế bào đi
theo. Bạch cầu hạt trung tính và bạch cầu mono có thể vận động theo kiểu amip trong các
mô với tốc độ 40 mm trong 1 phút. Bạch cầu có khả năng đi qua các lỗ của thành mao
mạch (cho dù các lỗ này nhỏ hơn kích thước của bạch cầu) bằng quá trình xuyên mạch để
vào các khoang quanh mạch máu khi cần thiết.
- Bạch cầu di chuyển đến các mô bị viêm nhiễm, bị tổn thương do chúng bị hấp dẫn
bởi các hoá chất của tế bào tổn thương hoặc của vi khuẩn giải phóng ra hoặc do các phức
hợp miễn dịch tạo ra trong đáp ứng miễn dịch. Bạch cầu di chuyển theo sự hấp dẫn của các
chất hoá học được gọi là hiện tượng hoá ứng động (chemotaxis)(hình dưới - Các đặc tính
của bạch cầu.). Hoá ứng động phụ thuộc vào bậc thang nồng độ của chất gây hoá ứng.
Nồng độ cao nhất ở gần nguồn sẽ hấp dẫn bạch cầu rời các mao mạch chuyển động về
hướng đó.
 Bạch cầu hạt trung tính:
Bạch cầu hạt trung tính tạo ra hàng rào bảo vệ đầu tiên chống lại sự xâm nhập của
các vi khuẩn sinh mủ. Chúng có khả năng vận động và thực bào rất mạnh. Quá trình thực
bào xảy ra như sau:
- Đầu tiên tế bào phải lựa chọn những chất hoặc vật để ăn. Có ba cách chọn vật bị
thực bào: (1) Nếu bề mặt của vật xù xì, chúng dễ bị thực bào; (2) các mô chết, các vật lạ
không có vỏ bọc và tích điện mạnh thường dễ bị thực bào; (3) cơ thể có những phương tiện
để nhận biết vật lạ - đó là chức năng của hệ thống miễn dịch. Hệ thống miễn dịch sản xuất
ra kháng thể. Các kháng thể này gắn vào màng vi khuẩn làm chúng dễ bị thực bào. Đó là
quá trình opsonin hoá.

32
- Sau đó bạch cầu trung tính gắn vào vật lạ rồi phóng chân giả bao vây tạo thành
một túi kín chứa vật lạ. Túi này xâm nhập vào khoang bào tương, tách khỏi màng ngoài
của tế bào tạo thành túi thực bào trôi tự do trong bào tương.
- Các hạt lysosom và các hạt khác trong bào tương sẽ đến tiếp xúc và hoà màng với
túi thực bào rồi trút các enzym tiêu hoá vào túi thực bào. Như vậy, túi thực bào trở thành
túi tiêu hoá và sự tiêu hoá của vật bị thực bào bắt đầu ngay lập tức. Các hạt của bạch cầu
trung tính cũng chứa những tác nhân giết vi khuẩn có khả năng giết hầu hết các vi khuẩn
ngay cả khi chúng không bị tiêu hoá bởi các enzym của lysosom. Điều này rất quan trọng
vì một số vi khuẩn có vỏ bọc bảo vệ hoặc có các yếu tố khác ngăn cản tác dụng của các
enzym tiêu hoá. Các chất này giết khuẩn gồm các tác nhân oxy hoá mạnh như superoxid
(O2-), hydrogen peroxid (H2O2), ion hydroxyl, chúng giết vi khuẩn với liều lượng rất nhỏ.
Ngoài ra enzym myeloperoxydase của lysosom có tác dụng xúc tác cho phản ứng giữa
H2O2 và ion Cl- để tạo ra hypoclorit là chất giết khuẩn rất mạnh. Lysozym của lysosom
cũng có tác dụng giết khuẩn vì nó làm tan màng lipid của vi khuẩn.
Mặc dù vậy, một số vi khuẩn, chủ yếu là vi khuẩn lao có vỏ bọc chống lại các enzym
của lysosom, đồng thời bài tiết những chất chống lại các tác nhân giết khuẩn của bạch cầu
trung tính. Các vi khuẩn này thường gây ra các bệnh mạn tính.
Bạch cầu trung tính có thể thực bào một số loại vi khuẩn, các tiểu hạt, các tơ fibrin
của cục máu đông. Trong quá trình bảo vệ cơ thể, một số bạch cầu hạt bị chết tạo thành
mủ ở nơi vi khuẩn xâm nhập. Các bạch cầu hạt bị chết cũng giải phóng những enzym tiêu
hoá vào mô liên kết xung quanh gây ra triệu chứng sưng và đau tại chỗ viêm. Sau khi yếu
tố xâm nhập và gây chấn thương đã được kiểm soát, nhiều bạch cầu trung tính ở lại tham
gia vào quá trình làm lành chỗ tổn thương.
● Bạch cầu hạt ưa acid:
- So với bạch cầu hạt trung tính, bạch cầu hạt ưa acid ít có khả năng vận động và
thực bào. Bình thường, bạch cầu ưa acid không thực bào vi khuẩn. Các hạt lysosom của
bạch cầu ưa acid chứa các enzym oxidase, peroxidase và phosphatase. Điều đó chứng tỏ
rằng chức năng đầu tiên của bạch cầu ưa acid là khử độc các protein lạ và các chất khác.
Bạch cầu ưa acid cũng có khả năng hoá ứng động nhưng yếu tố hấp dẫn chúng là sự có
mặt của các kháng thể đặc hiệu với các protein lạ. Phức hợp kháng nguyên - kháng thể hấp
dẫn bạch cầu ưa acid di chuyển từ máu vào các mô liên kết. Ở đó chúng thực bào và phá
huỷ các phức hợp này. Bạch cầu hạt ưa base và dưỡng bào (mastocyte) cũng giải phóng
yếu tố hấp dẫn bạch cầu ưa acid đến vùng mô tổn thương.
- Bình thường, bạch cầu ưa acid có nhiều ở mô liên kết hơn ở trong máu, đặc biệt
là ở phổi, tuyến vú, mạc treo, thành trong của ruột non. Số lượng bạch cầu ưa acid tăng
cao trong các phản ứng miễn dịch và tự miễn dịch, trong quá trình phân huỷ protein của
cơ thể và trong một số bệnh nhiễm ký sinh trùng. Mặc dù ký sinh trùng có kích thước rất
lớn so với bạch cầu hạt ưa acid nhưng bạch cầu hạt ưa acid tấn công được ký sinh trùng và
giải phóng ra nhiều chất để giết ký sinh trùng. Ví dụ trong bệnh sán lá máng là bệnh rất
phổ biến ở các nước nhiệt đới, ký sinh trùng xâm nhập khắp nơi trong cơ thể. Bạch cầu hạt
ưa acid tấn công ấu trùng của sán máng và diệt chúng bằng cách: (1) Giải phóng các enzym
thuỷ phân từ các hạt của tế bào; (2) giải phóng ra những dạng hoạt động của oxy có thể
giết ký sinh trùng; (3) giải phóng ra một polypeptid giết ấu trùng.
● Bạch cầu hạt ưa base:
Bạch cầu hạt ưa base là loại hiếm nhất trong các loại bạch cầu và thường khư trú
bên ngoài mạch máu, trong các mô liên kết lỏng lẻo với số lượng lớn hơn gọi là các dưỡng

33
bào. Chúng ít có khả năng vận động và không chứa các hạt lysosom. Các hạt của bạch cầu
ưa base thường chứa heparin và histamin. Cả bạch cầu ưa base và dưỡng bào đều giải
phóng heparin vào máu. Heparin là một chất chống đông máu có tác dụng làm tan các cục
máu đông rất nhỏ ở các mao mạch. Dưỡng bào và bạch cầu ưa base cũng giải phóng
histamin, một lượng nhỏ bradykinin và serotonin. Chính các dưỡng bào trong các mô bị
viêm đã giải phóng ra các chất kể trên. Dưỡng bào và bạch cầu ưa base đóng vai trò cực
kỳ quan trọng trong một số phản ứng dị ứng vì kháng thể IgE gây phản ứng dị ứng rất hay
gắn vào dưỡng bào và bạch cầu ưa base. Khi có kháng nguyên đặc hiệu phản ứng với kháng
thể, kháng nguyên sẽ gắn vào kháng thể làm cho dưỡng bào và bạch cầu ưa base vỡ ra và
giải phóng một lượng lớn histamin, bradykinin, serotonin, heparin, chất phản ứng chậm
của sốc phản vệ và một số enzym thuỷ phân của lysosom. Những chất này gây ra các phản
ứng của mạch và phản ứng mô tại chỗ để gây ra các biểu hiện của dị ứng.
 Bạch cầu limpho:
- Bạch cầu lympho T: bắt nguồn từ những tế bào gốc sinh máu vạn năng trong tuỷ
xương. Chúng đi vào máu và hoàn thành sự phát triển của chúng trong tuyến ức (một cơ
quan bạch huyết trong lồng ngực). Bạch cầu lympho T là loại bạch cầu lympho có nhiều
nhất trong máu. Chúng liên tục di chuyển giữa lách, hạch bạch huyết và các mô liên kết.
Khi các bạch cầu lympho T đi qua tuyến ức, những receptor bề mặt ký hiệu CD4 và CD8
được cài vào màng tế bào. Bạch cầu lympho T mang receptor CD4 được gọi là CD4+, bạch
cầu lympho T mang receptor CD8 được gọi là CD8+. Các recepor bề mặt này cho phép
bạch cầu lympho T nhận biết được các kháng nguyên peptid. Đó là những tế bào có thẩm
quyền (competent) miễn dịch hoặc các tế bào hoạt hoá. Các bạch cầu lympho T hoạt hoá
này đáp ứng với kháng nguyên bằng cách tấn công trực tiếp hoặc bằng cách giải phóng ra
các hoá chất gọi là lymphokin. Những lymphokin này hấp dẫn bạch cầu hạt đến vùng xâm
nhập và cũng kích thích bạch cầu lympho B và các bạch cầu lympho T khác. Thông qua
quá trình phân bào, các bạch cầu lympho T hoạt hoá này cũng tạo ra những dòng (clone)
bạch cầu lympho đáp ứng với sự hoạt hoá kháng nguyên. Bạch cầu lympho T cũng đóng
vai trò quan trọng trong hoạt động chức năng của bạch cầu lympho B.
- Bạch cầu lympho B: Bạch cầu lympho B phát triển trong tuỷ xương rồi theo máu
đến các mô bạch huyết trong lách, hạch amygdal, hạch bạch huyết và thành của ruột non.
Chúng ở lại đó một số thời gian trước khi trở lại máu và bạch huyết. Khi bị kích thích bởi
một kháng nguyên đặc hiệu, một số bạch cầu lympho B được hoạt hoá để thành nguyên
bào lympho. Một số nguyên bào lympho này tiếp tục biệt hoá thành nguyên tương bào
(plasmoblast). Các nguyên tương bào phân chia và biệt hoá rất nhanh thành tương bào là
những tế bào sản xuất ra kháng thể. Kháng thể được bài tiết vào bạch huyết rồi được đưa
vào máu tuần hoàn để phản ứng với kháng nguyên và phá hủy chúng. Các nguyên bào
lympho khác phân chia và biệt hoá thành bạch cầu lympho B hoạt hoá. Một số bạch cầu
lympho B được đặc hiệu hoá để nhận biết kháng nguyên nếu sau đó kháng nguyên này lại
xâm nhập cơ thể một lần nữa. Các bạch cầu lympho B này được gọi là tế bào nhớ. Bạch
cầu lympho B có thể sống nhiều năm và thực hiện chức năng miễn dịch dịch thể của cơ
thể hay còn gọi là miễn dịch qua trung gian kháng thể.
● Bạch cầu mono:
- Bạch cầu mono là một loại tế bào lớn nhất trong các loại bạch cầu. Một số bạch
cầu mono có kích thước gấp 3 lần kích thước hồng cầu. Bạch cầu mono được sinh ra trong
tuỷ xương và cần khoảng 3 ngày để phát triển trước khi được giải phóng vào máu. Chúng
ở lại trong máu tuần hoàn vài ngày rồi di chuyển đến các mô liên kết của các cơ quan khác
34
nhau. Tại đây chúng phát triển thành các đại thực bào của mô như đại thực bào trong gan
(tế bào Kupffer), đại thực bào trong phổi (đại thực bào phế nang), đại thực bào của lách và
tuỷ xương góp phần bảo vệ cơ thể chống lại vi khuẩn và các hoá chất độc hại.
- Một số các đại thực bào của mô không di chuyển nhiều như các đại thực bào trong
các mô liên kết lỏng lẻo, nhưng tất cả các đại thực bào đều có khả năng vận động và thực
bào rất mạnh. So với bạch cầu hạt trung tính, đại thực bào có thể thực bào nhiều vi khuẩn
hơn và ăn các phần tử có kích thước lớn hơn kể cả bản thân bạch cầu hạt trung tính và một
số lượng lớn các mô hoại tử. Do đó chúng có tác dụng dọn sạch các vùng mô tổn thương.
Ngoài ra đại thực bào còn đóng vai trò quan trọng trong sự khởi động quá trình sản xuất
kháng thể của bạch cầu lympho B. Khi các kháng nguyên xâm nhập vào các mô bạch
huyết, các đại thực bào có mặt ở đó sẽ thực bào và tiêu hoá kháng nguyên rồi chuyển các
tín hiệu của kháng nguyên cho các bạch cầu lympho B ở bên cạnh để các bạch cầu lympho
B này nhận biết được kháng nguyên và sản xuất ra các kháng thể đặc hiệu.
3.4. Quá trình sinh bạch cầu:
Bạch cầu có nguồn gốc từ các tế bào gốc sinh máu vạn năng (Pluripotential
Hemopoietic Stem Cell - PHSC) trong tuỷ xương. Các tế bào gốc sinh máu vạn năng phát
triển thành những tế bào tiền thân dòng lympho và các tế bào tiền thân dòng tuỷ.
- Các tế bào tiền thân dòng lympho sinh ra các tế bào tiền bạch cầu lympho T và
tiền bạch cầu lympho B. Hầu hết bạch cầu lympho rời khỏi tuỷ xương trước khi chín. Bạch
cầu lympho T trưởng thành trong tuyến ức, bạch cầu lympho B phát triển và trưởng thành
trong các mô bạch huyết ở ruột, lách và tuỷ xương. Sự tạo thành bạch cầu lympho được
điều hoà bởi các lymphokin (interleukin).
- Các tế bào tiền thân dòng tuỷ gồm:
+ Đơn vị tạo cụm - bạch cầu hạt, bạch cầu mono (Colony Forming Unit -
Granulocyte monocyte: CFU-GM).
+ Đơn vị tạo cụm bạch cầu ưa acid (Colony Forming Unit – Eosinophil: CFU-Eo).
+ Đơn vị tạo cụm dưỡng bào (Colony Forming Unit – Mastocyte: CFU - Ma).
- Những tế bào tiền thân này sẽ tăng sinh và biệt hoá qua các giai đoạn để tạo ra
bạch cầu hạt trung tính, bạch cầu hạt ưa acid, dưỡng bào và bạch cầu ưa base, bạch cầu
mono...
- Các bạch cầu hạt và bạch cầu mono phát triển và trưởng thành trong tuỷ xương.
Quá trình sinh bạch cầu hạt được kích thích bởi yếu tố gây tăng bạch cầu, một yếu tố đặc
hiệu được tìm thấy trong huyết tương khi có giảm bạch cầu. Nhiều chất hóa học khác được
giải phóng vào máu khi mô bị tổn thương cũng kích thích qúa trình sinh bạch cầu.
- Sự sinh bạch cầu hạt, bạch cầu mono, mẫu tiểu cầu cũng được điều hoà bởi các
chất hoá học gọi là yếu tố kích thích cụm (Colony Stimulating Factor - CSF), đó là những
glycoprotein do nhiều loại tế bào bên trong và bên ngoài tuỷ xương bài tiết.
3.5. Đời sống của bạch cầu:
- Đời sống của bạch cầu phụ thuộc vào vai trò của chúng trong quá trình bảo vệ cơ
thể. Bạch cầu trung tính và những bạch cầu có khả năng vận động và thực bào mạnh thường
chỉ sống từ vài phút đến vài ngày vì chúng liên tục bảo vệ cơ thể chống lại sự xâm nhập
của vi khuẩn và bị chết trong quá trình này.
- Ngược lại, các bạch cầu lympho B và một số bạch cầu lympho T có thể sống và
thực hiện chức năng liên tục một cách bình thường trong vài năm trước khi bị phá huỷ.
Các bạch cầu già bị phá huỷ ở gan, lách, tuỷ xương và các hạch bạch huyết.
4. Sinh lý học tiểu cầu:

35
4.1. Cấu trúc và chức năng của tiểu cầu:
Tiểu cầu là những mảnh tế bào không có nhân, hình đĩa, đường kính khoảng 2 đến
4mm, có màng bao bọc. Bên trong tiểu cầu có nhiều ống siêu vi tạo thành một khung xương
duy trì hình dáng tiểu cầu. Một hệ thống ống nhỏ do màng tiểu cầu luồn vào bên trong tạo
thành. Hệ thống này giúp cho sự trao đổi của tiểu cầu với môi trường bên ngoài. Trong bào
tương của tiểu cầu có:
- Những di tích của mạng nội bào tương và bộ máy Golgi có khả năng tổng hợp
nhiều enzym và dự trữ một lượng lớn ion calci.
- Ty thể và hệ thống enzym tạo ra ATP, ADP, serotonin.
- Hệ thống enzym tổng hợp prostaglandin, đó là thromboxan A2 (một chất gây co
mạch) và prostaglandin H2 (một chất gây kết tụ tiểu cầu).
- Một protein co (trombosthenin) có vai trò trong sự co cục máu đông.
- Yếu tố ổn định fibrin.
- Yếu tố tăng trưởng của tiểu cầu làm tăng sinh và phát triển tế bào nội mạc, tế bào
cơ trơn của thành mạch, các nguyên bào xơ… để sửa chữa thành mạch.
Trên bề mặt của màng tiểu cầu có một lớp glycoprotein. Lớp này ngăn cản tiểu cầu
kết dính vào nội mạc bình thường nhưng lại cho phép tiểu cầu dính vào các sợi collagen ở
lớp dưới nội mạc bộc lộ ra khi thành mạch bị tổn thương. Màng tiểu cầu chứa phospholipid
trong đó có yếu tố III của tiểu cầu có vai trò hoạt hoá quá trình đông máu.
Như vậy, tiểu cầu là một cấu trúc rất hoạt động và có vai trò quan trọng trong qúa
trình cầm máu. Số lượng tiểu cầu bình thường trong máu ngoại vi dao động trong khoảng
150,0 G/l đến 300,0 G/l.
 Nam: 263,0 ± 61,0 G/l .
 Nữ: 274,0 ± 63,0 G/l.
Đời sống của tiểu cầu vào khoảng 1 đến 2 tuần. Nếu không bị tiêu thụ trong quá
trình đông máu, tiểu cầu sẽ bị các đại thực bào tiêu hoá và phá huỷ ở gan và lách.
4.2. Quá trình sinh tiểu cầu:
- Tiểu cầu là những mảnh tế bào được tách ra từ một tế bào rất lớn là mẫu tiểu
cầu. Một mẫu tiểu cầu có thể sinh ra khoảng 6000 tiểu cầu.
- Mẫu tiểu cầu có nguồn gốc từ tế bào gốc sinh máu vạn năng trong tuỷ xương. Tế
bào gốc phát triển thành tế bào tiền thân của dòng tiểu cầu gọi là đơn vị tạo cụm mẫu tiểu
cầu (Colony Forming Unit-Megacaryocyte: CFU-Meg). Các CFU-Meg phát triển thành
những cụm mẫu tiểu cầu trưởng thành. Sự phát triển của mẫu tiểu cầu được điều hoà bởi
một số interleukin (IL): IL-3, IL-6, IL-11 và hormon thrombopoietin.

36
Hormon này kích thích sự phát triển mẫu tiểu
cầu và giải phóng tiểu cầu ra máu ngoại vi. Hầu hết
mẫu tiểu cầu ở lại tuỷ xương và giải phóng tiểu cầu
vào máu. Một số mẫu tiểu cầu vào máu rồi đến khư
trú ở các cơ quan khác đặc biệt là phổi. Chúng ở lại
đó và sản xuất ra tiểu cầu. Lách cũng là một cơ quan
dự trữ tiểu cầu.
- Trong một số trường hợp bị stress như chảy
máu, bỏng, sự kích thích giao cảm làm lách giải
phóng một số lượng lớn tiểu cầu dự trữ vào máu.
- Cầm máu là những cơ chế hạn chế hoặc
ngăn cản sự mất máu khi thành mạch bị tổn thương.
Cầm máu có tính chất sinh mạng bởi vì sự chảy máu
nếu không được kiểm soát sẽ dẫn đến truỵ tim mạch
và chết. Có 4 cơ chế tham gia vào quá trình cầm máu
hay người ta còn gọi là 4 giai đoạn: Co mạch tại chỗ,
tạo nút tiểu cầu, tạo cục máu đông, co cục máu đông
và tan cục máu đông.

Hình 3.7. Quá trình sinh tiểu


cầu.
4.3. Tạo nút tiểu cầu:
- Các tế bào tổn thương của thành mạch giải phóng ra ADP. ADP hấp dẫn tiểu cầu
đến tiếp xúc với các sợi collagen được bộc lộ ở thành mạch. Các tiểu cầu trở nên hoạt hoá
và khử hạt, giải phóng ADP, serotonin và những yếu tố tiểu cầu cần cho sự đông máu. Sự
giải phóng ADP của tiểu cầu hấp dẫn thêm các tiểu cầu khác, làm chúng phồng lên và trở
nên kết dính (tiểu cầu hoạt hoá). Một số lớn tiểu cầu kết tụ ở chỗ tổn thương tạo thành nút
tiểu cầu để bịt miệng vết thương và tạo ra một bộ khung cho cục máu đông hình thành.
Các tiểu cầu hoạt hoá cũng giải phóng ra thromboxan A2, một chất gây co mạch rất mạnh
và prostaglandin H2, một chất kết tụ tiểu cầu. Khi nút tiểu cầu được tạo ra máu sẽ ngừng
chảy đối với những tổn thương nhỏ và tạo điều kiện để hình thành cục máu đông.
4.4. Tạo cục máu đông:
- Đông máu phát triển trong vòng 15 đến 20 giây nếu là tổn thương nặng và trong
1 đến 2 phút nếu là tổn thương nhẹ. Những chất hoá học do thành mạch tổn thương và do
tiểu cầu giải phóng ra sẽ cùng với các yếu tố đông máu trong huyết tương khởi động quá
trình đông máu. Nếu vết thương không quá rộng, trong vòng 3 đến 6 phút, cục máu đông
sẽ bịt kín chỗ tổn thương một cách vững chắc.
- Đông máu là một quá trình trong đó một số máu từ thể lỏng biến thành thể đặc
(cục đông) do sự chuyển fibrinogen, một protein hoà tan của huyết tương thành các sợi
fibrin không hoà tan dưới tác dụng của trombin. Các sợi fibrin kết lại với nhau thành một
mạng lưới giam giữ các tế bào máu và huyết tương tạo ra cục máu đông.

37
- Đông máu là một chuỗi các phản ứng hoá học của các yếu tố đông máu có trong
huyết tương, các mô tổn thương và tiểu cầu.
● Các yếu tố đông máu
- Hầu hết các yếu tố đông máu có trong huyết tương dưới dạng tiền chất không hoạt
động. Một khi được hoạt hoá nó sẽ đóng vai trò của một enzym xúc tác cho sự hoạt hoá
của yếu tố đông máu khác làm cho các phản ứng của đông máu xảy ra theo kiểu dây chuyền
cho đến khi mạng lưới fibrin được tạo ra.
- Theo danh pháp Quốc Tế, các yếu tố đông máu được đặt tên bằng các chữ số La
Mã, ngoài những tên gọi thông thường của chúng.
Bảng 3.3. Các yếu tố đông máu.
Danh pháp Quốc Tên thông thường Nơi khư trú
Tế
Yếu tố I Fibrinogen Huyết tương
Yếu tố II Protrombin Huyết tương
Yếu tố III Tromboplastin của mô Mô
Yếu tố IV Ion calci Huyết tương
Yếu tố V Proaccelerin Huyết tương
Yếu tố VII Yếu tố không bền Huyết tương
Yếu tố VIII Proconvertin Huyết tương
Yếu tố IX Yếu tố bền vững Huyết tương
Yếu tố X Yếu tố chống hemophilia A Huyết tương
Yếu tố XI Yếu tố Christmas Huyết tương
Yếu tố XII Yếu tố chống hemophilia B Huyết tương
Yếu tố XIII Yếu tố Stuart Huyết tương
Yếu tố tiểu cầu Yếu tố Stuart - Prower Tiểu cầu

● Các giai đoạn của quá trình đông máu.


Các chuỗi phản ứng hoá học của đông máu được chia thành ba giai đoạn (hình dưới
- Sơ đồ đông máu):
Giai đoạn tạo protrombinase (cũng được gọi là tromboplastin hoạt động hoặc
yếu tố chuyển protrombin): Giai đoạn này bắt đầu khi máu tiếp xúc với mô tổn thương
(con đường ngoại sinh) hoặc được khởi động khi không có tổn thương mô (con đường nội
sinh).
- Đông máu ngoại sinh: Khi máu tiếp xúc với mô tổn thương, yếu tố III của mô
được giải phóng ra sẽ tương tác với yếu tố VII có trong huyết tương và ion calci tạo thành
một tác nhân hoạt hoá yếu tố X. Yếu tố X hoạt hoá (Xh) với sự có mặt của ion calci, tương
tác với yếu tố V trên các hạt mixen phospholipid của mô tạo ra phức hợp protrombinase.
- Đông máu nội sinh: Có thể xảy ra bên trong hoặc bên ngoài cơ thể với bước đầu
tiên là sự hoạt hoá của yếu tố XII. Trong cơ thể, sự hoạt hoá của yếu tố XII xảy ra khi tiếp
xúc với collagen, fibrin, màng tiểu cầu trong quá trình kết tụ tiểu cầu. Yếu tố XII cũng có
thể được hoạt hoá trong một số trạng thái như stress, lo lắng, sợ hãi…Ở bên ngoài cơ thể
(trong ống nghiệm) yếu tố XII được hoạt hoá khi máu tiếp xúc với bề mặt lạ. Yếu tố XIIh
xúc tác cho sự hoạt hoá của yếu tố XI. Với sự có mặt của ion calci, yếu tố XIh sẽ hoạt hoá
yếu tố IX. Yếu tố IXh tương tác với yếu tố VIIIh trên bề mặt các hạt mixen phospholipid
của tiểu cầu, với sự có mặt của ion calci tạo ra một phức hợp enzym để hoạt hoá yếu tố X.

38
Yếu tố Xh, với sự có mặt của ion calci, tương tác với yếu tố V trên bề mặt các hạt mixen
phospholipid tiểu cầu tạo ra phức hợp protrombinase như con đường ngoại sinh.

Hình 3.8. Sơ đồ cầm máu con đường nội sinh và ngoại sinh.
● Mối liên quan giữa đông máu nội sinh và đông máu ngoại sinh
- Khi mạch máu bị tổn thương, đông máu được khởi động đồng thời bởi cả hai con
đường: Tromboplastin của mô khởi động con đường ngoại sinh trong khi sự tiếp xúc của
yếu tố XII và tiểu cầu với các sợi collagen của thành mạch khởi động con đường nội sinh.
- Mối liên quan giữa hai con đường thể hiện ở tác dụng của trombin làm hoạt hoá
các yếu tố trong cơ chế nội sinh. Khi trombin hoạt hoá yếu tố VIII nó cũng tác dụng trực
tiếp trên tiểu cầu làm cho tiểu cầu kết tụ với nhau và giải phóng ra các hạt chứa những yếu
tố gây đông ở dạng chưa hoạt động. Như vậy sự khởi động của con đường đông máu ngoại
sinh cũng gây hoạt hoá con đường nội sinh.
- Khi máu được lấy vào trong ống nghiệm thì đông máu trong ống nghiệm chỉ thực
hiện theo cơ chế nội sinh do yếu tố XII và tiểu cầu được hoạt hoá khi tiếp xúc với thành
ống nghiệm. Nếu thành ống nghiệm được tráng silicon, thời gian đông máu sẽ kéo dài tới
1 giờ hoặc hơn nữa.
- Đông máu trong lòng mạch đôi khi là do một số yếu tố làm hoạt hoá con đường
nội sinh. Ví dụ các phản ứng kháng nguyên - kháng thể có thể phát động quá trình đông
máu. Một số thuốc khi được đưa vào hệ tuần hoàn cũng gây đông máu.
- Sự khác nhau quan trọng giữa con đường nội sinh và ngoại sinh là ở chỗ con
đường ngoại sinh một khi được phát động có bản chất bùng nổ, tốc độ của phản ứng đông

39
máu chỉ bị giới hạn bởi lượng tromboplastin của mô do các mô tổn thương giải phóng và
bởi số lượng của các yếu tố XII, VII, V trong máu. Với những chấn thương nặng của các
mô, đông máu xảy ra chỉ trong vòng 15 giây trong khi con đường nội sinh diễn ra với tốc
độ chậm hơn rất nhiều, thường là cần thời gian từ 1 đến 6 phút mới gây ra đông máu.
● Co cục máu đông
- Ít phút sau khi cục đông được hình thành, nó bắt đầu co lại và giải phóng hầu hết
các dịch trong cục đông trong vòng 20 đến 60 phút. Dịch đó gọi là huyết thanh. Huyết
thanh chính là huyết tương đã bị lấy đi fibrinogen và hầu hết các yếu tố đông máu khác,
do đó huyết thanh không đông được.
- Tiểu cầu rất cần cho sự co cục máu. Nếu cục đông không co lại được chứng tỏ số
lượng tiểu cầu trong máu ngoại vi giảm. Vai trò của tiểu cầu như sau: Tiểu cầu làm cho
các sợi fibrin gắn chặt vào nhau. Ngoài ra tiểu cầu bị giam trong mạng lưới fibrin tiếp tục
giải phóng ra yếu tố ổn định fibrin. Yếu tố này tạo ra nhiều dây nối bắt chéo giữa các sợi
fibrin ở cạnh nhau. Bản thân tiểu cầu tham gia trực tiếp vào sự co cục máu bằng cách hoạt
hoá trombosthenin. Các protein co này làm co các gai tiểu cầu đang gắn vào fibrin. Tất cả
các hiện tượng trên có tác dụng ép mạng lưới fibrin lại làm cho nó nhỏ hơn và huyết thanh
bị tiết ra ngoài. Sự co cục máu đông được hoạt hoá bởi trombin và các ion calci. Ion calci
do tiểu cầu giải phóng.
- Sự co cục máu đông kéo các bề mặt vết thương lại làm lòng mạch máu được mở
ra nếu trước đó nó bị tắc nghẽn bởi cục đông làm cho sự lưu thông của máu trở lại bình
thường, kích thích sự sửa chữa các mô tổn thương và làm tan cục máu đông.
4.5. Tan cục máu đông - Vai trò của plasmin:
Trong huyết tương có một euglobulin gọi là plasminogen. Khi được hoạt hoá nó sẽ
trở thành plasmin. Plasmin là enzym tiêu protein giống như trypsin có tác dụng tiêu hoá
các sợi fibrin và tiêu hoá cả các chất khác ở chung quanh như fibrinogen, yếu tố V, yếu tố
VIII, yếu tố II và yếu tố XII. Khi plasmin được hình thành bên trong cục máu đông nó có
thể làm tan cục đông và cũng phá huỷ nhiều yếu tố đông máu có thể gây chảy máu.
 Sự hình thành plasmin và sự tan cục máu đông
- Khi cục đông được hình thành, một lượng lớn plasminogen bị giam giữ trong cục
đông cùng với những protein khác của huyết tương. Các mô tổn thương và nội mô mạch
máu giải phóng ra một chất hoạt hoá rất mạnh gọi là chất hoạt hoá plasminogen của mô.
Khoảng một ngày sau khi máu đông, chất hoạt hoá này có tác dụng chuyển plasminogen
thành plasmin và làm tan cục đông. Nhiều mạch máu nhỏ bị tắc nghẽn do các cục đông có
thể được khai thông trở lại nhờ cơ chế này. Ngày nay các chất hoạt hoá plasminogen đã
được tổng hợp bằng kỹ thuật tái tổ hợp gen và được dùng để điều trị huyết khối mạch vành.
 Chất ức chế plasmin: a2-antiplasmin
- Plasmin không chỉ tiêu hoá fibrin mà còn tiêu hoá fibrinogen và một số yếu tố
đông máu khác. Tuy nhiên, máu cũng chứa một yếu tố khác gọi là a2-antiplasmin, yếu tố
này gắn với plasmin và ức chế tác dụng của plasmin.

 Ý nghĩa của hệ thống plasmin


- Sự tan cục máu đông cho phép làm sạch những cục máu đông hình thành ở các
mô trong một số ngày. Tuy nhiên, đôi khi nó cũng làm cho vết thương của mạch máu đã
được bịt bằng cục đông mở miệng trở lại. Một chức năng đặc biệt quan trọng của hệ thống

40
plasmin là lấy đi những cục đông rất nhỏ từ hàng ngàn mao mạch ngoại vi có thể gây tắc
mạch nếu như không có cơ chế dọn sạch chúng đi.
4.6. Tác dụng chống đông của fibrin và antitrombin III:
- Khi cục đông được hình thành, khoảng 85-90% trombin được hấp phụ vào mạng
lưới fibrin. Điều này ngăn cản sự lan truyền của trombin vào máu xung quanh và như thế
ngăn cản sự lan rộng của cục đông. Phần trombin không bị hấp phụ sẽ nhanh chóng kết
hợp với antitrombin III và trở thành không hoạt động sau 12 đến 20 phút.
4.7. Tác dụng chống đông của heparin:
- Heparin là một chất chống đông mạnh, tuy nhiên nồng độ của nó trong máu bình
thường rất thấp nên chỉ trong một số điều kiện bệnh lý nó mới có tác dụng chống đông.
Heparin cũng được sử dụng rộng rãi trong lâm sàng để ngăn cản đông máu trong lòng
mạch.
- Phân tử heparin là một polysaccarid kết hợp tích điện âm rất mạnh. Bản thân
heparin không có tác dụng chống đông nhưng khi kết hợp với antitrombin III nó làm tăng
tác dụng chống đông của phân tử này lên hàng trăm thậm chí hàng ngàn lần. Vì vậy với sự
có mặt của một lượng lớn heparin, sự bất hoạt của trombin xảy ra ngay lập tức.
- Phức hợp heparin - antitrombin III cũng làm cho một số yếu tố đông máu khác
như yếu tố XII, XI, IX và X trở thành không hoạt động.
- Heparin do nhiều loại tế bào của cơ thể sản xuất đặc biệt là các dưỡng bào khư trú
trong các mô liên kết ở chung quanh mao mạch trên toàn cơ thể. Các tế bào này liên tục
bài tiết một lượng nhỏ heparin và heparin sẽ khuếch tán vào hệ tuần hoàn.Các dưỡng bào
tập trung rất nhiều trong các mô ở xung quanh các mao mạch ở phổi và ở một số mao mạch
của gan. Mao mạch ở các vùng này luôn phải nhận rất nhiều cục đông được hình thành
trong máu tĩnh mạch chảy rất chậm, vì vậy chúng cần một lượng lớn heparin để ngăn cản
sự phát triển của các cục đông này.
4.8. Tác dụng chống đông của a2 – macroglobulin:
a2 – macroglobulin là một phân tử globulin lớn có trọng lượng phân tử là 360.000.
Nó giống phức hợp heparin - antitrombin III ở chỗ có thể kết hợp với các yếu tố gây đông
và làm bất hoạt các yếu tố này. Tuy nhiên, hoạt tính chống đông của a2 - macroglobulin
không tăng lên khi có mặt heparin.
a2 - macroglobulin tác dụng như một tác nhân gắn với một số yếu tố đông máu và
ngăn cản tác dụng tiêu protein của các yếu tố này cho đến khi chúng bị phá huỷ bởi những
con đường khác chứ không phải bởi bản thân a2 - macroglobulin.
4.9. Chống đông trong cơ thể:
Hai chất thường hay được sử dụng để chống huyết khối hoặc đông máu trong lòng
mạch là heparin và coumarin.
- Heparin chiết xuất từ các mô động vật hoặc từ một số cơ quan. Ngày nay người
ta đã tổng hợp được heparin.
Tiêm heparin với liều 0,5 - 1 mg/kg trọng lượng cơ thể có thể kéo dài thời gian
đông máu tới trên 30 phút. Heparin có tác dụng tức thời nên nhanh chóng ngăn cản sự phát
triển của huyết khối. Tác dụng của heparin kéo dài trong 3 - 4 giờ rồi bị phá huỷ bởi enzym
heparinase có trong máu.
Điều trị cho bệnh nhân quá nhiều heparin có thể dẫn đến chảy máu nặng. Trong
trường hợp này phải dùng protamin là một antiheparin để khôi phục lại cơ chế đông máu.
- Coumarin: Khi điều trị cho bệnh nhân bằng coumarin, nồng độ của các yếu tố II,
VII, IX, X trong huyết tương bệnh nhân bắt đầu giảm vì coumarin ức chế gan tổng hợp các

41
yếu tố đông máu trên. Cơ chế như sau: Coumarin tác dụng cạnh tranh với vitamin K những
vị trí hoạt động trong các phản ứng enzym để dẫn đến sự tạo thành bốn yếu tố trên. 12 giờ
sau khi cho coumarin, hoạt tính đông máu giảm xuống còn 50% và sau 24 giờ chỉ còn bằng
20% so với bình thường. Như vậy, coumarin không có tác dụng chống đông ngay tức thời
vì còn phải đợi cho các yếu tố đông máu có sẵn trong huyết tương bị tiêu thụ hết. Ba ngày
sau khi chấm dứt điều trị bằng coumarin thời gian đông máu mới trở lại bình thường.
4.10. Chống đông trong ống nghiệm:
Khi lấy máu ra khỏi cơ thể người ta có thể chống đông bằng những cách sau:
- Ống nghiệm hoặc lọ chứa máu được tráng silicon. Silicon sẽ ngăn cản sự hoạt hoá
do tiếp xúc của yếu tố XII và tiểu cầu, do đó ức chế đông máu nội sinh.
- Heparin là chất chống đông máu cả ở bên trong và bên ngoài cơ thể. Người ta
thường dùng heparin trong phẫu thuật trong đó máu phải đi qua máy tim phổi nhân tạo
hoặc thận nhân tạo rồi lại trở về cơ thể.
- Các chất làm giảm nồng độ ion calci như kali oxalat hoặc amoni oxalat khi trộn
với máu sẽ tạo ra calci oxalat. Máu bị mất ion calci nên không đông được.
Natri citrat hoặc amoni citrat khi trộn với máu sẽ tạo ra calci citrat và làm mất ion
calci của máu. Các hợp chất citrat thường được sử dụng rộng rãi hơn vì chúng không độc
như oxalat. Người ta cũng có thể tiêm một lượng citrat vào tĩnh mạch. Sau khi vào máu
citrat được chuyển đến gan và được chuyển hoá thành glucose hoặc được chuyển hoá trực
tiếp thành năng lượng vì thế người ta dùng natri citrat làm chất chống đông trong các túi
máu lưu trữ.
Những rối loạn cầm máu ở lâm sàng
● Giảm phức hệ protrombin (II, VII, IX, X) do thiếu hụt vitamin K
- Hầu như các yếu tố đông máu đều được tạo ra ở gan. Vì vậy các bệnh ở gan như
xơ gan, viêm gan, teo gan vàng da cấp tính sẽ làm giảm hệ thống đông máu đến mức bệnh
nhân có thể bị chảy máu.
- Một nguyên nhân nữa gây giảm các yếu tố đông máu là sự thiếu hụt vitamin K.
Vitamin K rất cần cho sự tạo thành 4 yếu tố đông máu quan trọng là yếu tố II, VII, IX, X.
Vitamin K liên tục được các vi khuẩn đường ruột tổng hợp nên rất hiếm khi xảy ra thiếu
vitamin K cho dù không có sinh tố này trong thức ăn. Tuy nhiên thiếu hụt vitamin K lại
xảy ra khi quá trình hấp thu mỡ ở ruột non bị giảm vì vitamin K hoà tan trong mỡ và thường
được hấp thu vào máu cùng với mỡ. Một trong những nguyên nhân thiếu vitamin K là gan
không bài tiết mật vào ống tiêu hoá (do tắc ống dẫn mật, các bệnh của gan). Thiếu mật, sự
tiêu hoá và hấp thu của mỡ bị giảm và kéo theo sự giảm hấp thu vitamin K. Như vậy bệnh
của gan gây giảm sản xuất phức hệ protrombin vì cả hai nguyên nhân: Giảm hấp thu
vitamin K và tế bào gan bị tổn thương. Trước khi mổ cho bệnh nhân bị bệnh gan hoặc tắc
đường dẫn mật từ 4 đến 8 giờ người ta tiêm cho bệnh nhân vitamin K để giúp cho sự tổng
hợp các yếu tố đông máu và hạn chế sự chảy máu trong lúc mổ. Cần chú ý thêm là lúc mới
sinh, trẻ không có dự trữ vitamin K vì vitamin K thường do các vi khuẩn đường ruột sản
xuất mà trẻ lại sinh ra với một ống tiêu hoá vô trùng. Vì thế giảm protrombin trong máu
có thể phát triển ở trẻ sơ sinh gây chảy máu.
II. CÁC DỊCH TRONG CƠ THỂ.
Dịch trong cơ thể phân thành hai loại chính: dịch nội bào, chứa trong các tế bào và
dịch ngoại bào, nằm ngoài.
Dịch ngoại bào bao gồm: huyết tương, dịch kẽ, dịch bạch huyết, dịch não tủy, dịch

42
trong ổ mắt, các dịch tiêu hóa. Dịch ngoại bào lưu thông trong hệ mạch máu, bạch huyết
và có sự trao đổi giữa máu và dịch của các mô qua thành mao mạch. Hệ quả là tất cả mọi
tế bào đều sống trong cùng một môi trường là dịch ngoại bào, nên dịch ngoại bào còn được
gọi là nội môi.
1. Dịch nội bào:
2. Dịch ngoại bào:
2.1. Huyết tương
Gồm nước và các chất hòa tan.
2.1.1. Các protein huyết tương
 Albumin:
- Là loại protein có tỷ lệ cao nhất trong huyết tương được tạo nên ở gan.
- Chức năng của albumin.
+ Duy trì áp lực thẩm thấu của máu.
+ Áp lực thẩm thấu có chức năng giữ nước trong lòng mạch.
+ Vận chuyển các chất.
 Các globulin:
Một số globulin được tạo ở gan, một số được tạo ở mô bạch huyết.
Có 3 loại -globulin; -globulin; và -globulin.
- globulin còn được gọi là globullin miễn dịch (Ig: immuno globulin), là
các kháng thể có nhiệm vụ chống lại các kháng nguyên. Có 5 loại: IgG, IgM, IgA, IgD
và IgE.
2.1.2. Dịch kẽ:
Là dịch nằm ở khoảng giữa các tế bào và nằm ngoài hệ thống mạch. Dịch kẽ cung
cấp ô xy và các chất dinh dưỡng cho tế bào, đồng thời thu nhận CO 2 và các sản phẩm
chuyển hóa.
Ở các mao mạch phía tiểu động mạch thì dịch bị đẩy ra khỏi lòng mạch, ngược lại
ở các mao mạch ở phía tĩnh mạch thì dịch kẽ bị đẩy vào lòng mạch, phần dịch kẽ còn lại
sẽ đi vào hệ bạch mạch.
2.1.3. Dịch bạch huyết:
Là dịch kẽ chảy vào hệ thống bạch mạch. Hệ bạch mạch sẽ đưa bạch huyết trở lại
tĩnh mạch qua ống ngực và ống bạch huyết phải. Trước khi đi tới tĩnh mạch dịch bạch
huyết đi qua một số hạch bạch huyết. Hạch bạch huyết là nơi chứa nhiều lympho và đại
thực bào.
Dịch bạch huyết tương tự như dịch kẽ. Ngoài ra nó còn chứa các chất kích thước
lớn như vi khuẩn, tế bào bị tổn thương ở vùng bị viêm, chất cặn bã… và sẽ bị tiêu hủy ở
các hạch bạch huyết.
Đặc biệt các mạch bạch huyết dẫn lưu bạch huyết từ ruột non chứa nhiều chất dinh
dưỡng và có bề ngoài như sữa, nên được gọi là nhũ trấp.
* Lách và tuyến ức được xem là nằm trong hệ bạch huyết.

LƯỢNG GIÁ:
A. Câu hỏi tự luận:
1. Anh (chị) hãy trình bày chức năng và dặc tính chung của máu?
2. Anh (chị) hãy trình bày cấu tạo và chức phận của hồng cầu?
43
3. Anh (chị) hãy trình bày quá trình sản sinh ra hồng cầu?
4. Anh (chị) hãy trình bày cấu tạo và chức năng của bạch cầu?
5. Anh (chị) hãy trình bày các loại bạch cầu trong cơ thể người, chức năng của từng loại
bạch cầu đó?
6. Anh (chị) hãy trình bày những biểu hiện rối loạn của hồng cầu và bạch cầu?
7. Anh (chị) hãy trình bày cấu tạo và chức năng của tiểu cầu?
8. Anh (chị) hãy trình bày quá trình đông máu và cầm máu?
9. Anh (chị) hãy trình bày một số yếu tố ảnh hưởng tới quá trình đông máu và cầm máu?
10. Anh (chị) hãy trình bày các dịch nội bào và ngoại bào trong cơ thể người?

44
Bài 4
SINH LÝ CHUYỂN HÓA VÀ ĐIỀU NHIỆT
MỤC TIÊU:
1. Trình bày được nhu cầu, vai trò và điều hòa chuyển hóa carbohydrat, lipid và
protein đối với cơ thể.
2. Trình bày được các dạng năng lượng, nguyên nhân tiêu hao năng lượng của
cơ thể.
3. Trình bày được cơ chế điều hoà chuyển hoá năng lượng.
4. Trình bày được các nguyên nhân sinh nhiệt và các phương thức thải nhiệt.
5. Trình bày được cung phản xạ điều nhiệt, các cơ chế chống nóng và chống
lạnh.
6. Trình bày được cơ sở sinh lý của một số biện pháp điều khiển thân nhiệt
trong chữa bệnh.

NỘI DUNG:
I. CHUYỂN HÓA CHẤT TRONG CƠ THỂ.
1. Năng lượng vào cơ thể.
Năng lượng vào cơ thể dưới dạng thức ăn. Nói chung tất cả các loại thức ăn đều
chứa 6 chất dinh dưỡng: protit, lipit, gluxit, vitamin, muối khoáng, nước; trong đó chỉ có
3 chất cung cấp năng lượng cho cơ thể: protit, lipit, và gluxit gọi là những chất sinh năng
lượng. Giá trị năng lượng của thức ăn phụ thuộc vào hàm lượng của chất dinh dưỡng sinh
năng lượng.

Hình 4.1. Sơ đồ chuyển hóa năng lượng trong cơ thể.


1.1. Chuyển hóa Glucid:
1.1.1. Vai trò của gluxit trong cơ thể
- Là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu của cơ thể. Khi oxy hóa 1gam gluxit giải
phóng 4,1 KCal.
- Là thành phần cấu tạo của máu. Hàm lượng glucoza trong máu từ 80 -120mg%.
Khi lượng glucozơ trong máu giảm xuống bao giờ cũng đi kèm với các triệu chứng suy
nhược về thể lực, giảm thân nhiệt và cảm giác mệt mỏi. Nếu lượng glucozơ trong máu
giảm dưới mức 40 mg% thì cơ thể bị co giật, hôn mê và mất ý thức. Ngược lại, nếu lượng
45
glucozơ trong máu tăng từ 150 -180 mg% thì thận không tái hấp thụ được toàn bộ đường,
sẽ bị tiểu đường.
- Là thành phần cấu tạo tế bào dưới dạng polysaccarit, hoặc kết hợp với protein như
glucoprotein, với lipit như glucolipit.
- Là thành phần cấu tạo của axit nucleic như đường C5H10O5 trong ARN,đường
C5H10O4 trong ADN.
- Gluxít có nhiều trong các loại ngũ cốc như tinh bột gao, khoai, sắn; trong các loại
trái cây , trong mía, kẹo mạch nha, sữa, gan động vật
1.1.2. Chuyển hóa gluxit trong cơ thể
* Tổng hợp glucose và dự trữ glycogen.
- Glucose là sản phẩm của quá trình tiêu hóa, được hấp thu vào trong máu đi đến
gan. Ở gan dưới tác dụng của insulin, một phần glucoza được chuyển thành glycogen dự
trữ. Lượng glucose còn lại phần lớn sẽ được chuyển đến các mô để tổng hợp thành
glycogen dự trữ, nhất là ở cơ vân. Một lượng nhỏ glucose được để lại trong huyết tương.
* Phân giải glucose.
Quá trình phân giải gluxit trong cơ thể được thực hiện theo 2 giai đọan
- Giai đoạn yếm khí (còn gọi là chặng đường phân) : phân giải glucoza thành axit
pyruvic, đôi khi thành axit lactic, giải phóng 1/10 năng lượng giữ trữ
- Giai đoạn hiếu khí : chuyển axit pyruvic thành CO2 và H2O trong chu trình
Krebs. Một phân tử glucoza sau một vòng chu trình Krebs giải phóng được 36 ATP, mỗi
ATP khoảng 10 KCal/mol.
1.2. Điều hòa chuyển hóa gluxit
Quá trình chuyển hóa gluxit cũng chính là quá trình điều hòa lượng gluxit trong
máu, hay còn gọi là đường huyết,. Quá trình đó được điều hòa bởi cơ chế thần kinh và cơ
chế thể dịch
Trung khu điều hòa đường huyết nằm ở hành tủy. Khi trung khu này bị kích thích,
xung động thần kinh truyền đến gan, làm tăng chuyển hóa glycogen thành glucose, làm
tăng đường huyết. Đồng thời xung động từ hành tủy cũng truyền đến miền tủy của tuyến
trên thận, gây tiết adrenalin, adrenalin theo máu đến gan, làm tăng quá trình chuyển hóa
glycogen thành glucose.
Hoocmon glucocorticoit làm giảm mức sử dụng glucoza trong mô, làm tăng quá
trình tổng hợp glucoza mới nên làm tăng đường trong máu.
Hoocmon glucagon của tuyến tụy có tác dụng tăng đường huyết.
Hoocmon ACTH, STH và thyroxin cũng tham gia vào quá trình chuyển hóa gluxit.
Hoocmon insulun làm tăng tính thấm của màng tế bào đối với glucoza, làm hoạt
hóa enzym hexokinaza, làm tăng quá trình oxy hóa gluxit trong tế bào, làm giảm đường
huyết.
2. Chuyển hóa lipit.
2.1. Vai trò của lipit trong cơ thể
- Lipit được dùng làm nguyên liệu kiến tạo, xây dựng tế bào chất và màng tế bào.
Đặc biệt trong thành phần của mô thần kinh có rất nhiều.
- Lipit là cung cấp năng lượng cho cơ thể: 1g lipit bị oxy hóa cung cấp 9,3 KCal
- Là nguồn cung cấp các axit béo cho cơ thể.
- Là dung môi hòa tan các vitamin tan trong chất béo như A, D, E, K.
- Mô mỡ bao quanh cơ quan và dưới da có vai trò bảo vệ và cách nhiệt

46
Nhu cầu mỗi ngày một người trưởng thành cần khoảng 100 gam lipit. Khi lao
độngnặng thì nhu cầu lipit cao hơn. Lipit trong cơ thể được dữ trữ trong các lớp mô mỡ.
2.2. Chuyển hóa lipit trong cơ thể
2.2.1. Tổng hợp lipit trong cơ thể:
- Sản phẩm tiêu hóa lipit là glyxerin và axit béo, khi đến biểu mô màng nhầy của
ruột được tổng hợp thành lipit trung tính được hấp thụ vào máu và bạch huyết, sau đó được
sử dụng hoặc chuyển tới các kho dự trữ dưới da, xoang bụng, quanh nội tạng và trong các
mô liên kết của cơ.
- Cơ thể có thể tổng hợp lipit từ gluxit và protein qua các khâu trao đổi trung gian,
tùy thuộc vào tỷ lệ các chất chứa trong thức ăn có nitơ và không có nitơ.
2.2.2. Sự phân giải lipit trong cơ thể
Sự phân giải lipit, trước hết được diễn ra ở gan, tạo thành glyxerin và axít béo rồi
lại được máu đưa đến các cơ quan sử dụng. Tại đây một phần gylxerin được ôxihóa thành
CO2, H2O và năng lượng, còn phần khác được chuyển thành glycozen dự trữ. Các axit
béo thì được phân giải theo con đường beta oxy hóa thành axit lactic, rồi thành axetyl-CoA
, vào chu trình Krebs và giải phóng năng lượng.
2.3. Điều hòa chuyển hóa lipit
Sự chuyển hóa lipit chịu ảnh hưởng của thần kinh, nội tiết, chức năng của gan và
liên quan đến chuyển hóa gluxit.
Trung khu điều hòa chuyển hóa lipit nằm ở vùng dưới đồi
Hoocmon của tuyến yên, tuyến giáp, tuyến tụy, tuyến trên thận, tuyến sinh dục…có
tác dụng chuyển hóa lipit. Khi insulin nhiều trong máu, quá trình chuyển hóa gluxit thành
lipit dự trữ tăng cường và ngược lại khi insulin trong máu giảm thì lipit dự trữ sẽ được huy
động để tạo ra năng lượng.
Gan là nơi phân giải và tổng hợp các axit béo, photpholipit, colesterol. Một số bệnh
có thể gây rối loạn chuyển hóa lipit trong gan như giang mai, sốt rét, nghiện rượu dẫn đến
xơ gan, nhiễm độc các chất photpho…Quá trình chuyển hóa lipit cũng có thể rối loạn do
trong thức ăn có nhiều mỡ, nhiều cholesterol, biotin, thiamin…, hoặc do thiếu gluxit hay
không đủ các axit béo cần thiết.
3. Chuyên hóa protid.
3.1. Vai trò của protein trong cơ thể
- Protein có vai trò kiến tạo vì là thành phần kiến tạo tế bào, cấu trúc của enzim,
hoocmon, kháng thể, vitamin. Là nguồn nguyên liệu cấu tạo chính của hệ cơ.
- Protein có chức năng xúc tác, điều hòa trao đổi chất.
- Protein cung cấp năng lượng cho cơ thể, 1g protein khi bị oxy hóa cung cấp 4,1
KCal
- Protein có thể chuyển hóa thành gluxit và lipit.
3.2. Chuyển hóa protein trong cơ thể
3.2.1. Tổng hợp protein trong cơ thể
Sản phẩm tiêu hóa của protein là các axit amin, được hấp thụ vào máu đến gan.
Ở gan, một phần axit amin được giữ lại và được tổng hợp thành protein của huyết tương
như albumin, globulin và fribrinogen. Phần lớn các axit amin được chuyển tới tế bào để
tổng hợp các protein đặc trưng như hemoglobin, các hoocmon của tuyến nội tiết, protein
của các mô cơ, của các kháng thể và các enzim…
Trong 20 axit amin có 10 axit amin thiết yếu là lơxin, izolơxin, valin, metionin,
treonin, phenylalanin, histidin, acginin, lizin và tryptophan cơ thể không tự tổng hợp được

47
phải lấy từ thức ăn. Khi cơ thể thiếu một hoặc một số axit amin thiết yếu thì quá trình tổng
hợp protein bị rối loạn.
Cơ thể có thể tổng hợp các axit amin còn lại từ các sản phẩm chuyển hóa gluxit,
lipit, protein.
3.2.2. Sự phân giải protein trong cơ thể
Protein được phân giải ở gan, tế bào và mô thành các axit amin. Tất cả các axit
amin ở tế bào và mô sẽ được chuyển tới gan để tiếp tục phân giải thành NH3 đi vào chu
trình ornithin để tạo thành ure, axit uric và creatin. Phần còn lại là axit xetonic có thể biến
đổi thành glucoza và glycogen, hoặc oxy hóa để tạo thành CO2, H2O và giải phóng năng
lượng. Axit xetonic cũng có thể kết hợp với NH2 để tạo thành các axit amin mới.
3.3. Điều hòa chuyển hóa protein
- Điều hòa theo cơ chế thần kinh:
Trung khu điều hòa nằm ở vùng dưới đồi thị. Khi trung khu này bị tổn thương, quá
trình phân giải protein tăng lên.
- Điều hòa theo cơ chế thể dịch: được thực hiện thông qua một số hoocmon
+ Hoocmon insulin của tuyến tụy làm tăng quá trình sử dụng glucoza ở tế bào, giảm
phân giải protein, tăng tổng hợp protein.
+ Hoocmon tăng trưởng GH của tuyến yên làm tăng quá trình tổng hợp protein ở tế
bào, tăng tích lũy protein ở mô.
+ Testosterol và estrogen làm tăng tích lũy protein ở mô.
+ Glucocorticoit có tác dụng huy động các axit amin vào quá trình chuyển hóa để
tạo ra gluxit và giải phóng năng lượng, giảm tăng tích lũy protein ở mô.
+ Thyroxin tăng cường phân giải protein giải phóng năng lượng trong trường hợp
thiếu gluxit và lipit. Khi gluxit và lipit dư thừa thì thyroxin làm tăng tổng hợp protein.
II. CHUYÊN HÓA NĂNG LƯỢNG.
1. Các dạng năng lượng trong cơ thể.
Cơ thể không có một cơ quan chuyển hóa năng lượng riêng mà các chất được vận
chuyển từ máu đến tế bào, ở tế bào các chất tham gia vào các phản ứng chuyển hóa để
chuyển hóa thành năng lượng cần thiết cho cơ thể.
Chuyển hóa năng lượng đi kèm với chuyển hóa chất diễn ra theo 3 bước ở 3 khu
vực của tế bào:
1. 2. Ở bào tương: Các chất biến đổi thành các chất chuyển hóa trung gian.
Phần lớn năng lượng của các chất ở dạng năng lượng của các chất trung gian, một
phần thành hợp chất giàu năng lượng ATP.
1.3. Ở ti lạp thể: Các chất trung gian phân giải thành CO 2 và H 2 O, và năng
lượng ATP.
1.4. Ở các bào quan khác: ATP tham gia vào:
- Cung cấp năng lượng cho vận chuyển vật chất qua màng.
- Cung cấp năng lượng cho co rút sợi cơ, vận động cơ quan, cơ thể.
- Cung cấp năng lượng cho phản ứng tổng hợp chất, dự trữ, bài tiết.
2. Tiêu hao năng lượng của cơ thể
2.1. Tiêu hao năng lượng cho duy trì cơ thể.
Đây là năng lượng cần cho cơ thể tồn tại bình thường, không thay đổi thể trọng,
không sinh sản.

48
2.1.1. Chuyển hóa cơ sở:
Chuyển hóa cơ sở là chuyển hóa cơ thể trong điều kiện cơ sở: không tiêu hóa, không
vận cơ, không điều nhiệt. Chuyển hóa cơ sở là nguyên nhân tiêu hao nhiều năng lượng.
Năng lượng cho chuyển hóa cơ sở 1 người/ 1 ngày khoảng 1400kcalo trong tổng số
tiêu hao năng lượng của cơ thể là 2200kcalo.
Chuyển hóa cơ sở thay đổi theo:
- Tuổi: Tuổi càng cao chuyển hóa cơ sở càng giảm.
- Giới: Ở cùng một độ tuổi chuyển hóa cơ sở ở nữ thấp hơn ở nam.
- Nhịp ngày đêm: Chuyển hóa cơ sở cao nhất lúc 13 – 14 giờ, thấp nhất lúc 1 - 4
giờ, khi ngủ chuyển hóa cơ sở giảm.
- Bệnh lý: Khi sốt, ưu năng tuyến giáp chuyển hóa cơ sở tăng, suy dinh dưỡng
chuyển hóa cơ sở giảm.
2.1.2. Vận cơ:
Trong năng lượng tiêu hao do vận cơ, khoảng 25% chuyển thành công co cơ,
75% tỏa ra dưới dạng nhiệt.
2.1.3. Điều nhiệt:
Điều nhiệt là hoạt động để thân nhiệt không thay đổi theo môi trường bên ngoài,
cần thiết cho cơ thể tồn tại và hoạt động.
Trong môi trường lạnh, tiêu hao năng lượng bù cho lượng nhiệt khuếch tán ra môi
trường xung quanh. Trong môi trường nóng, tiêu hao năng lượng cũng tăng lên cho điều
nhiệt nhưng sau đó giảm đi do giảm chuyển hóa trong môi trường nóng.
2.1.4. Tiêu hóa
Tiêu hóa thức ăn để cung cấp năng lượng cho cơ thể, nhưng bản thân việc tiêu hóa
thức ăn cũng cần năng lượng. Tiêu hao năng lượng cho tiêu hóa tùy theo từng chất dinh
dưỡng:
- Protit làm tiêu hao năng lượng thêm 30%.
- Lipit làm tiêu hao năng lượng thêm 14%.
- Gluxit làm tiêu hao năng lượng thêm 6%.
- Chế độ ăn hỗn hợp của người 10%
2.2. Tiêu hao năng lượmg cho phát triển cơ thể
Để phát triển cơ thể, tăng chiều cao và tăng trọng lượng đều cần tăng kích thước,
số lượng tế bào. Cơ thể phải tổng hợp các chất, phải tăng tiêu hao năng lượng.
2.3. Tiêu hao năng lượng cho sinh sản
2.3.1. Thời kỳ mang thai
Thời kỳ mang thai, mẹ cần năng lượng cho tạo thai, thai phát triển, tạo các phần
nuôi thai, tăng khối lượng tuần hoàn, phát triển tuyển vú, phát triển khung chậu… Tổng
năng lượng khoảng 60000 kcalo.
2.3.2. Thời kỳ nuôi con
Thời kỳ nuôi con, mẹ bài tiết sữa mỗi ngày khoảng 500 – 600ml sữa. Năng lượng
tiêu hao cho bài tiết sữa mỗi ngày khoảng 450kcalo.
3. Điều hòa chuyển hóa năng lượng
3.1. Điều hòa chuyển hóa năng lượng ở mức độ tế bào
Ở mức độ tế bào, chuyển hóa năng lượng được điều hòa bằng cơ chế điều hòa
ngược. Yếu tố điều hòa là ADP. Khi hàm lượng ADP trong tế bào tăng thì phản ứng sinh
năng lượng tăng , khi ADP giảm thì phản ứng sinh năng lượng giảm đi. Kết quả là trong

49
điều kiện bình thường, hàm lượng ADP trong tế bào ở mức độ nhất định đảm bảo cho tế
bào hoạt động bình thường.
3.2. Điều hòa chuyển hóa năng lượng ở mức độ cơ thể
Trong cơ thể nhu cầu về năng lượng thay đổi theo từng cơ quan, phụ thuộc vào
điều kiện bên trong và bên ngoài cơ thể. Vì vậy chuyển hóa năng lượng thường
xuyên được điều hòa.
3.2.1. Điều hòa chuyển hóa năng lượng bằng cơ chế thần kinh:
- Thần kinh giao cảm: Kích thích hệ giao cảm làm tăng chuyển hóa năng lượng.
- Vùng dưới đồi: Là trung tâm cao cấp của hệ thần kinh thực vật nên ảnh hưởng
đến chuyển hóa năng lượng.
3.2.2. Điều hòa chuyển hóa năng lượng bằng cơ chế thể dịch:
Nhiều hormone tham gia vào chuyển hóa năng lượng
- Hormone tuyến giáp: Tăng chuyển hóa tế bào bằng thúc đẩy oxy hóa ở ti lạp thể
làm tăng chuyển hóa năng lượng.
- Hormone tủy thượng thận: Adrenalin thúc đẩy phân giải glycogen thành glucose,
thiêu đốt glucose làm tăng chuyển hóa năng lượng.
- Hormone vỏ thượng thận: Hormone vỏ thượng thận thúc đẩy biến đổi axít amin
thành gluxit.
- Hormone GH tuyến yên: GH làm giảm gluxit, huy động mỡ dự trữ.
- Hormone sinh dục: Hormone sinh dục nam làm tăng đồng hóa protit, estrogen
cũng làm tăng đồng hóa protit nhưng yếu hơn, progesteron tăng chuyển hóa năng lượng.
III. ĐIỀU NHIỆT.
- Điều hòa thân nhiệt gọi tắt là điều nhiệt là một hoạt động có tác dụng giữ cho thân
nhiệt hằng định trong khi nhiệt độ của môi trường sống thay đổi. Nó đảm bảo cho các phản
ứng chuyển hóa diễn ra trong cơ thể tương đối hằng định, làm cho quá trình sống tương
đối hằng định trong môi trường luôn thay đổi.
- Hoạt động điều nhiệt được thực hiện trên cơ sở một trung tâm điều hòa nhiệt độ
nằm ở vùng dưới đồi. Một tổn thương của trung tâm này cũng như mọi biến đổi quá lớn
hoặc quá nhanh của môi trường đều dẫn tới rối loạn thân nhiệt.
1. Thân nhiệt
Thân nhiệt là nhiệt độ của cơ thể. Thân nhiệt được chia thành hai loại là thân nhiệt
ngoại vi và thân nhiệt trung tâm.
1.1. Thân nhiệt trung tâm:
Là nhiệt độ ở những vùng nằm sâu bên trong cơ thể, có ảnh hưởng trực tiếp tới phản
ứng chuyển hóa trong cơ thể, ít thay đổi theo nhiệt độ của môi trường.
Người ta đo thân nhiệt trung tâm ở:
- Trực tràng: Hằng định nhất.
- Ở miệng: Thấp hơn ở trực tràng 0,2 – 0,5oC.
- Ở nách: Thấp hơn trực tràng 0,5 – 1o C, dao động nhiều hơn nhưng tiện nhất dùng
để theo dõi thân nhiệt bình thường.
1.2. Thân nhiệt ngoại vi:
Đo ở da, chịu ảnh hưởng của môi trường nhiều hơn, ở trán 33,5o C, ở lòng bàn tay
32 o C, ở mu bàn chân 28oC.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thân nhiệt:
- Tuổi: Tuổi càng cao thân nhiệt càng giảm.

50
- Nhịp ngày đêm: Thân nhiệt cao nhất thường vào lúc 14 – 17 giờ, thấp nhất lúc 3
– 6 giờ.
- Kinh nguyệt và mang thai: Phụ nữ sau chu kỳ kinh nguyệt thân nhiệt tăng 0,3 –
0,5oC, tháng cuối thời kỳ mang thai thân nhiệt tăng 0,5 – 0,8oC.
- Vận cơ: Làm tăng thân nhiệt; trong vận cơ 25% năng lượng tiêu hao cho công cơ
học, 75 % tỏa ra dưới dạng nhiệt.
- Bệnh lí: Các bệnh nhiễm khuẩn làm tăng thân nhiệt, tả làm giảm thân
nhiệt, cường giáp làm tăng thân nhiệt.
3. Thân nhiệt là kết quả của hai quá trình đối lập nhau sinh nhiệt và tỏa nhiệt.
3.1. Sinh nhiệt:
- Các phản ứng chuyển hóa: Là nguồn sinh nhiệt chủ yếu của cơ thể.
- Co cơ: Trong co cơ 75% năng lượng tiêu hao dưới dạng nhiệt. Lao động nặng thân
nhiệt có thể tăng lên 38 – 40o C, đặc biệt run là nguyên nhân sinh nhiệt quan trọng. Khi cơ
thể run vì lạnh, mức sinh nhiệt có thể tăng lên 200 – 400%.
3.2. Tỏa nhiệt:
Năng lượng sinh ra trong cơ thể đến đâu lại tỏa ra khỏi cơ thể đến đấy, nhờ vậy
thân nhiệt không tăng lên trong khi quá trình sinh nhiệt xảy ra liên tục. Cơ thể tỏa nhiệt
bằng hai cách:
3.2.1. Truyền nhiệt:
Là cơ thể truyền nhiệt ra môi trường xung quanh với điều kiện là nhiệt độ của da,
của môi trường bên ngoài, những vật bên ngoài thấp hơn nhiệt độ cơ thể.
Trong trường hợp ngược lại, cơ thể không tỏa được nhiệt mà có nguy cơ bị truyền
nhiệt từ môi trường bên ngoài vào.
3.2.2. Tỏa nhiệt bằng bay hơi nước:
- Nước khi chuyển từ thể lỏng sang thể khí thì lấy đi nhiệt: Một lít nước khi bay hơi
khỏi cơ thể lấy đi một nhiệt lượng là 580 kcalo.
Khi nhiệt độ môi trường tăng phản ứng tỏa nhiệt này hiệu quả nhiều hơn. Trong
môi trường có nhiệt độ 15 – 20oC, nhiệt lượng tỏa ra bằng hơi nước chiếm 16,7% tổng số
lượng nhiệt tỏa ra khỏi cơ thể.
25 – 30oC ----------------------------------------- 30,6%.
35 – 40oC ------------------------------------------100%.
- Bay hơi nước qua đường hô hấp: Lượng nhiệt bay hơi qua đường hô hấp phụ thuộc
vào thể tích thông khí phổi, tuy thể tích thông khí phổi có tăng lên trong môi trường nóng
nhưng ít, nên không có ý nghĩa trong phản ứng chống nóng ở người.
- Tỉ lệ tỏa nhiệt bằng bay hơi nước qua đường hô hấp lần lượt chiếm: tổng
số lượng nhiệt tỏa ra khỏi cơ thể ở nhiệt độ không khí 10 oC, 20oC, 30oC.
- Bay hơi nước qua da: Có hai hình thức: nước thấm qua da và qua bài tiết mồ hôi
* Nước thấm qua da: Trung bình 0,5 lít/ 24 giờ và không thay đổi theo nhiệt độ
không khí, do đó không có ý nghĩa trong chống nóng ở người.
* Qua bài tiết mồ hôi: Là phương thức tỏa nhiệt chủ yếu. Lượng mồ hôi bài
tiết có thể thay đổi từ 0 – 2,5lít/ giờ, như vậy nó có ý nghĩa rất lớn trong tỏa nhiệt
hay chống nóng ở người.
4. Cơ chế điều nhiệt
Thân nhiệt điều hòa nhờ hoạt động của cung phản xạ.

51
Hình 4.2. Sơ đồ đáp ứng của phản xạ điều nhiệt
4.1. Cung phản xạ:
Gồm 5 bộ phận:
4.1.1. Bộ phận kích thích: Các cảm thụ thần kinh (receptor) nằm trong da, nội tạng, thành
mạch máu, đặc biệt là mạch máu của cơ.
4.1.2. Bộ phận dẫn truyền đi vào: Là sợi thần kinh từ nơi cảm thụ về tủy sống, rồi theo
tủy sống lên vùng dưới đồi và lên vỏ não.
4.1.3. Vùng dưới đồi: Là trung tâm của phản xạ điều nhiệt. Ở đó các xung thần kinh kích
thích được phân tích, tổng hợp, từ đó xuất hiện những tín hiệu điều hòa đi ra gây những
biến đổi đáp ứng.
- Nửa trước của vùng dưới đồi: Là trung tâm chống nóng. Khi bị kích thích gây ra
những biểu hiện chống nóng, ngược lại khi trung tâm này bị tê liệt thì phản ứng chống
nóng không xuất hiện làm cho thân nhiệt tăng lên.
- Nửa sau của vùng dưới đồi: Là trung tâm chống lạnh. Ngoại độc tố của nhiều vi
khuẩn gây bệnh tác động lên vùng dưới đồi gây tăng thân nhiệt và biểu hiện triệu chứng
sốt. Các thuốc hạ sốt aspirin, acetaminophen kích thích trung tâm chống nóng của vùng
dưới đồi. Ngoài ra, vùng dưới đồi cũng như tất cả các trung tâm dưới vỏ khác chịu tác dụng
điều hòa của vỏ não nên tổn thương vỏ não có thể gây sốt cao.
4.1.4. Bộ phận dẫn truyền đi ra: Truyền tín hiệu từ trung tâm đến cơ quan đáp ứng qua 2
con đường thần kinh và thể dịch:
- Thần kinh: Dẫn truyền thần kinh từ vùng dưới đồi đến:
* Trung tâm giao cảm: Ở sừng bên tủy sống gây co, giãn mạch, thay đổi cường độ
chuyển hóa tế bào.
* Nơ ron vận động: Ở sừng trước tủy sống làm thay đổi trương lực cơ như run và
thay đổi thông khí phổi.
- Thể dịch: Đi từ vùng dưới đồi đến thùy trước tuyến yên làm thay đổi bài tiết các
hormone của tuyến thượng thận, tuyến giáp và như vậy điều hòa chuyển hóa tế bào.

52
4.1.5. Cơ quan đáp ứng: Gồm tất cả các tế bào đặc biệt là tế bào cơ, mạch máu, tuyến mồ
hôi.
4.2. Cơ chế chống nóng:
Trong môi trường nóng cơ thể bị kích thích, thông qua phản xạ điều nhiệt làm giảm
quá trình sinh nhiệt và tăng quá trình tỏa nhiệt.
4.2.1. Giảm quá trình sinh nhiệt
Là giảm cường độ chuyển hóa chất trong cơ thể. Nhưng phản ứng chuyển hóa không
thể giảm nhiều được và giảm phản ứng chuyển hóa chất không quan trọng bằng tăng tỏa
nhiệt trong cơ chế chống nóng.
4.2.2. Tăng quá trình tỏa nhiệt:
Bằng giãn mạch da làm tăng nhiệt độ ngoại vi, tăng truyền nhiệt ra khỏi cơ thể,
quan trọng hơn là giãn mạch da gây tăng tiết mồ hôi.
Khi cơ chế chống nóng bị rối loạn do ở lâu ngoài nắng hoặc trong môi
trường nóng, trung tâm chống nóng bị kích thích, rồi tê liệt, rối loạn thân nhiệt xảy ra, thân
nhiệt tăng lên, nạn nhân sốt cao, da tía không có mồ hôi.
4.3. Cơ chế chống lạnh:
Trong môi trường lạnh, cơ thể bị kích thích gây phản xạ điều nhiệt làm giảm quá
trình tỏa nhiệt và làm tăng quá trình sinh nhiệt.
- Giảm quá trình tỏa nhiệt: bằng phản xạ co mạch ở da, tỏa nhiệt sẽ giảm đi;
nhưng co mạch da gây thiếu dinh dưỡng ở da. Do đó, trong môi trường quá lạnh da bị dày
lên, nổi mẫn ngứa, có thể có các nốt phỏng hoại tử.
- Tăng quá trình sinh nhiệt: Là chủ yếu trong cơ chế chống lạnh. Tăng quá trình
sinh nhiệt bằng:
*Tăng chuyển hóa tế bào: Dưới tác dụng của các hormone tuyến giáp, tuyến
thượng thận.
* Tăng trương lực cơ: Có hiện tượng cóng sau đó là phản ứng run.
5. Cơ sở sinh lý của một số biện pháp điều khiển thân nhiệt trong chữa bệnh.
Thân nhiệt ảnh hưởng đến cường độ chuyển hóa, do đó thay đổi thân nhiệt làm thay
đổi hoạt động chức năng của cơ thể. Tác dụng này có thể được dùng trong công tác chữa
bệnh. Có hai phương pháp điều khiển thân nhiệt trong chữa bệnh là hạ nhiệt nhân tạo và
tăng nhiệt nhân tạo.
5.1. Hạ nhiệt nhân tạo:
- Khi thân nhiệt giảm thì nhu cầu chất dinh dưỡng cũng giảm, do đó có thể ngừng
cung cấp máu trong một thời gian mà không nguy hại. Đồng thời thân nhiệt giảm thì cơ
thể chịu stress tốt hơn, từ đó người ta đưa ra phương pháp hạ nhiệt để chữa bệnh .
- Phương pháp hạ nhiệt nhân tạo dùng trong những phẫu thuật lớn như mổ tim, gan,
não…đòi hỏi ngừng tuần hoàn trong thời gian dài, đồng thời đó là những phẫu thuật gây
chấn thương lớn.
- Phương pháp hạ nhiệt nhân tạo còn dùng trong điều trị sốc, uốn ván, nhiễm độc…
5.2. Tăng nhiệt nhân tạo:
Khi sốt, (tăng thân nhiệt) chuyển hóa tăng, tiêu thụ O2, đường máu, số lượng bạch
cầu, khả năng thực bào, sức đề kháng cơ thể tăng…nên người ta đưa ra phương pháp tăng
thân nhiệt để chữa một số bệnh mạn tính.
Tăng thân nhiệt bằng cách tiêm protein lạ (sữa hoặc vi khuẩn) hoặc thuốc. Tăng
thân nhiệt chữa các bệnh thấp khớp, dạ dày, sốt rét, lậu…

53
● Sốt: Sốt là trạng thái thân nhiệt cao hơn bình thường, do nhiều nguyên nhân nên.
Các chất gây sốt tác động lên trung tâm điều nhiệt làm tăng “nhiệt độ chuẩn” ở vùng dưới
đồi, là phản ứng có lợi làm tăng tốc độ các phản ứng hoá học để bảo vệ cơ thể tuy nhiên
nếu sốt cao quá và kéo dài lại gây ra nhiều hậu quả xấu đối với cơ thể nên cần phải dùng
thuốc hoặc các biện pháp giảm thân nhiệt như đắp khăn ướt lên trán, bỏ bớt lớp áo quần...
● Say nắng, say nóng: Khi sống trong môi trường quá nắng, nóng cùng với độ ẩm
quá cao, cơ thể không thải được nhiệt, gây tình trạng hoa mắt, chóng mặt, choáng váng, da
nóng, mê sảng và bất tỉnh, shock tuần hoàn do mất nước và điện giải.

LƯỢNG GIÁ:
1.Anh (chị) hãy trình bày nhu cầu, vai trò và điều hòa chuyển hóa Glucid, lipid và protein
đối với cơ thể?
2. Anh (chị) hãy trình bày các dạng năng lượng, nguyên nhân tiêu hao năng lượng của cơ
thể?
3. Anh (chị) hãy trình bày cơ chế điều hoà chuyển hoá năng lượng?
4. Anh (chị) hãy trình bày các nguyên nhân sinh nhiệt và các phương thức thải nhiệt.
5. Anh (chị) hãy trình bày cung phản xạ điều nhiệt
6. Anh (chị) hãy trình bày các cơ chế chống nóng và chống lạnh?
7. Anh (chị) hãy trình bày các biện pháp điều nhiệt riêng của loài người?

54
Bài 5
SINH LÝ TUẦN HOÀN
MỤC TIÊU:
1. Trình bày được các đặc tính sinh lý của cơ tim.
2. Mô tả được chu kỳ hoạt động của tim, những biểu hiện bên ngoài và cơ chế
của chu kỳ tim.
3. Trình bày được cơ chế điều hòa hoạt động tim
4. Trình bày được các đặc tính sinh lý của động mạch, các loại huyết áp
động mạch, các yếu tố ảnh hưởng và các cơ chế điều hoà huyết áp động mạch.
5. Trình bày được chức năng của mao mạch và điều hòa tuần hoàn mao mạch.
6. Trình bày được nguyên tắc, ý nghĩa của một số kỹ thuật thăm dò chức năng
tim thường dùng trên lâm sàng.

NỘI DUNG:
I. ĐẠI CƯƠNG:
Hệ tuần hoàn quan trọng trong việc duy trì sự sống. Hệ tuần hoàn làm
nhiệm vụ lưu thông máu khắp cơ thể. Ngừng tuần hoàn thì tính mạng bị đe dọa nghiêm
trọng, ngừng quá 4 phút, tế bào não tổn thương không hồi phục.
Bộ máy tuần hoàn gồm tim và các mạch máu: động mạch, tĩnh mạch và mao
mạch. Tim hút máu từ tĩmh mạch về và đẩy máu vào động mạch. Động mạch dẫn máu từ
tim đến các mô, cơ quan. Tĩnh mạch dẫn máu từ các mô, cơ quan về tim. Mao mạch là
những mạch máu nối động mạch cuối cùng và tĩnh mạch cuối cùng, là nơi thực hiện quá
trình trao đổi chất giữa máu và mô, cơ quan.

Hình 5.1. Sơ đồ lưu thông máu trong cơ thể.

II. SINH LÝ TIM.


Tim là động lực chính của hệ tuần hoàn, tim hút máu từ tĩnh mạch về và đẩy máu
vào động mạch. Trong 24 giờ tim co bóp khoảng 10.000 lần, đẩy hút hàng ngàn lít
máu.

55
1. Đặc điểm giải phẫu và mô học của tim:
1.1. Sơ lược cấu tạo:
Tim chia thành hai nửa riêng biệt là tim trái và tim phải. Mỗi nửa lại chia thành
hai buồng, trên là tâm nhĩ, dưới là tâm thất, giữa tâm nhĩ và tâm thất có các van: van hai lá
ở bên trái, van ba lá ở bên phải, giữa tâm thất và động mạch có van tổ chim. Các van đảm
bảo cho máu chảy một chiều từ nhĩ xuống thất, từ thất vào động mạch.

Hình 5.2. Cấu tạo của tim.


1.2. Cơ tim
- Cơ tim vừa có cấu trúc của cơ vân vừa có cấu trúc của cơ trơn, nên cơ tim có
tính chất của cả cơ vân và cơ trơn là co bóp khỏe và co bóp tự động.
- Cơ tim gồm có hai loại:
+ Các sợi cơ co bóp: chiếm đa số, bám vào bốn vòng sợi quanh bốn lỗ lớn của tim
là hai lỗ nhĩ thất và hai lỗ động mạch.
+ Các sợi cơ kém biệt hoá: tạo nên hệ thống dẫn truyền của tim, có nhiệm vụ duy
trì sự co bóp tự động của tim. Hệ thống này gồm một số nút, bó sau: nút xoang nhĩ ở thành
phải tâm nhĩ phải, là nút tạo nhịp; nút nhĩ thất ở thành trong tâm nhĩ phải; bó nhĩ thất bắt
đầu từ nút nhĩ thất, chạy ở mặt phải vách nhĩ thất, đến phần cơ của vách gian thất. Bó nhĩ
thất chia thành hai trụ là trụ phải và trụ trái chạy vào hai tâm thất.

56
Hình 5.3. Hình thể trong của tim
1. Vách gian thất; 2. Cơ vách gian thất; 3. Vách van hai lá; 4. Thừng gân; 5. Trụ cơ.
- Nội tâm mạc: Hay màng trong tim, mỏng, bóng; phủ và dính chặt lên bề mặt của
các buồng tim, liên tiếp với nội mạc các mạch máu.
1.3. Hệ thống nút
Hệ thống nút là một cấu trúc đặc biệt có khả năng phát xung động. Hệ thống nút
gồm:
- Nút xoang nằm ở cơ tâm nhĩ nơi tĩnh mạch chủ trên đổ vào tâm nhĩ
phải.
- Nút nhĩ thất nằm ở cơ tâm nhĩ cạnh lỗ xoang tĩnh mạch vành.
- Bó His đi từ nút nhĩ thất tới vách liên thất thì chia làm hai nhánh phải và trái chạy
dưới nội tâm mạc tới hai tâm thất, ở đó chia thành những nhánh nhỏ tạo thành lưới
Purkinje.

Hình 5.4. Hệ thống dân truyền của tim.


57
2. Tính chất sinh lý của tim
2.1. Tính hưng phấn:
Tính hưng phấn của cơ tim là khả năng đáp ứng với kích thích, thể hiện bằng co
cơ. Tính hưng phấn của cơ tim theo quy luật không hoặc tất của Ranvier: “Cơ tim hoặc là
không đáp ứng với kích thích hoặc là đáp ứng ngay với mức tối đa”
2.2. Tính trơ có chu kỳ:
Trong giai đoạn tâm thu, tim có tính trơ tức là không đáp ứng với kích
thích, giai đoạn này lặp đi lặp lại nên gọi là trơ có chu kỳ.
2.3. Tính nhịp điệu:
Đó là khả năng phát xung động nhịp nhàng của hệ thống nút. Nút xoang 120-150
ck/phút, nút nhĩ thất: 50 ck/phút, bó His: 30 – 40 ck/phút.
2.4. Tính dẫn truyền:
Đó là khả năng dẫn truyền xung động thần kinh của cơ tim và hệ thống nút
* Nhờ có tính nhịp điệu, tính dẫn truyền, tính hưng phấn và tính trơ có chu kỳ, tim
có khả năng co bóp nhịp nhàng, đều đặn.
3. Chu kỳ tim
Hoạt động của tim gồm nhiều giai đoạn, lặp đi lặp lại đều đặn tạo nên chu kỳ
tim.
3.1. Các giai đoạn của chu kỳ tim
3.1.1. Giai đoạn tâm nhĩ thu:
Khi tâm nhĩ co bóp, áp suất tâm nhĩ tăng lên, lúc này van nhĩ thất đang mở, tâm
nhĩ co bóp đẩy lượng máu còn lại xuống tâm thất (35 % lượng máu từ nhĩ xuống thất).
Thời kỳ tâm nhĩ thu kéo dài 0,1s sau đó tâm nhĩ giãn ra suốt thời kỳ còn lại của chu kỳ tim.
3.1.2. Giai đoạn tâm thất thu:
Khi tâm nhĩ giãn ra thì tâm thất bắt đầu co bóp, áp suất tâm thất tăng lên làm đóng
van nhĩ thất, rồi sau đó làm mở van động mạch, máu phun vào động mạch. Thời kỳ
tâm thất thu kéo dài 0,3s.
3.1.3. Tâm trương toàn bộ:
Tâm thất giãn ra trong khi tâm nhĩ đang giãn, tâm thất giãn làm áp suất tâm thất
giảm xuống van động mạch đóng lại. Áp suất tâm thất giảm đến khi áp suất tâm thất nhỏ
hơn áp suất tâm nhĩ thì van nhĩ thất mở ra, máu từ nhĩ xuống thất. Giai đoạn tâm trương
toàn bộ kéo dài 0,4 s.
3.2. Vai trò của hệ thống nút:
Từng khoảng thời gian nhất định nút xoang phát xung động, xung động lan ra tâm
nhĩ làm tâm nhĩ co bóp tức là tâm nhĩ thu. Đồng thời xung động lan truyền đến nút nhĩ
thất, bó His, các nhánh của bó His rồi theo lưới Purkinje lan ra tâm thất làm tâm thất co
bóp tức là tâm thất thu.
Sau khi co bóp, tâm thất giãn ra thụ động trong khi tâm nhĩ đang thụ động giãn ra
tức là giai đoạn tâm trương toàn bộ, cho đến khi nút xoang phát xung động mới khởi động
chu kỳ tiếp theo. Bình thường chỉ có nút xoang phát xung động điều khiển hoạt động tim,
khi nút xoang tổn thương nút nhĩ thất hoặc bó His phát xung động thay thế.
3.3. Lưu lượng tim
Lưu lượng tim còn gọi là thể tích phút, là lượng máu tim bơm vào động mạch trong
một phút. (Thể tích tâm thu là lượng máu một lần tim co bóp phun vào động mạch. Bình
thường khoảng 60ml ở người trưởng thành). Lưu lượng tim ở người trưởng thành trung
bình là:

58
Lưu lượng tim = Thể tích tâm thu x tần số tim
60ml x 75 lần/ phút = 4,5 l/ phút
4. Những biểu hiện bên ngoài chu kỳ tim.
4.1. Tiếng tim
Khi tim co bóp ta nghe được hai tiếng tim:
- Tiếng thứ nhất: trầm và dài nghe rõ ở mõm tim. Nguyên nhân do đóng van nhĩ
thất, ngoài ra còn do máu phun vào động mạch, co cơ tâm thất.
- Tiếng thứ hai: cao và ngắn, nghe rõ ở đáy tim. Nguyên nhân do đóng van tổ chim.
Ngoài ra thỉnh thoảng nghe được tiếng thứ ba do máu đập vào thành tâm thất trong kỳ tâm
trương. Khi van tim bị tổn thương, lá van đóng không kín hoặc lỗ van hẹp, huyết động rối
loạn tạo ra những tiếng bệnh lý như tiếng thổi, tiếng rung.
4.2. Dòng điện tim
Khi tim hoạt động, cơ tim phát sinh dòng điện, dòng điện này lan ra khắp cơ thể.
Người ta có thể đo dòng điện này bằng cách nối hai cực của máy ghi với hai điểm bất kỳ
nào của cơ thể. Đường ghi đó gọi là điện tâm đồ. Trong thực tế người ta quy ước lấy một
số điểm của cơ thể để đặt máy ghi, mỗi cách mắc cực máy ghi vào cơ thể là một đạo trình.
Các loại đạo trình:
Đạo trình song cực: Gọi là đạo trình chuẩn, gồm:
- Đạo trình D1: Hai cực nối với cổ tay phải và cổ tay trái.
- Đạo trình D2: Hai cực nối với cổ tay phải và cổ chân trái.
- Đạo trình D3: Hai cực nối với cổ tay trái và cổ chân trái.
Đạo trình đơn cực:
Gồm có đạo trình đơn cực chi và đạo trình đơn cực trước tim. Trong
những đạo trình này một cực nối với một điểm ở chi hoặc trước tim gọi là cực thăm dò.
Còn cực kia nối với hai điểm còn lại qua một điện trở 50000 Ohm gọi là cực trung tính (
điện thế ở cực này triệt tiêu).
● Đạo trình đơn cực chi
- aVR cực thăm dò ở cổ tay phải.
- aVL cực thăm dò ở cổ tay trái.
- aVF cực thăm dò ở cổ chân trái.
● Đạo trình đơn cực trước tim
- V1 cực thăm dò đặt ở khoảng liên sườn 4 sát bờ phải xương ức.
- V2 cực thăm dò đặt ở khoảng liên sườn 4 sát bờ trái xương ức.
- V3 cực thăm dò đặt ở giữa V2 và V4.
- V4 cực thăm dò đặt ở mõm tim.
- V5 cực thăm dò đặt ở đường cách trước trái.
- V6 cực thăm dò đặt ở đường nách giữa trái.
● Sau đây là hinh ảnh điện tâm đồ bình thường:

59
Hình 5.5. - Đường ghi các sóng điện tim ở DII.
5. Điều hòa hoạt động tim
Hoạt động tim thường xuyên được điều hòa để phù hợp với nhu cầu cung cấp máu cho cơ
thể. Đó là những yếu tố điều hòa từ bên ngoài và yếu tố tại tim.

Hình 5.6. Sơ đồ hoạt động điều hòa của tim.

5.1. Điều hòa từ bên ngoài tim


5.1.1.Yếu tố thần kinh
 Hệ thần kinh thực vật
* Hệ thần kinh phó giao cảm: Trung tâm phó giao cảm nằm ở hành não. Các sợi
trước hạch theo dây X đến hạch phó giao cảm ở cơ tim, các sợi sau hạch đến nút xoang,
nút nhĩ thất. Kích thích phó giao cảm làm:
- Giảm lực co bóp của tim.
- Giảm dẫn truyền (chậm nhịp tim).
- Giảm trương lực cơ tim.
* Hệ thần kinh giao cảm: Trung tâm ở sừng bên chất xám tủy đoạn sống cổ 1-7 và
thắt lưng 1- 3. Các sợi trước hạch đến hạch sao, các sợi sau hạch đến nút xoang, nút nhĩ
thất và bó His. Kích thích giao cảm gây tác dụng ngược lại với kích thích hệ phó giao cảm
- Tăng co bóp

60
- Tăng dẫn truyền (tăng nhịp tim)
- Tăng trương lực cơ tim
Những sợi thần kinh thực vật tác dụng lên tim không phải trực tiếp mà qua những
hóa chất do đầu tận cùng của sợi thần kinh tiết ra, đối với hệ giao cảm là adrenalin, đối với
hệ phó giao cảm là acetylcholin
 Vai trò của các phản xạ:
- Phản xạ giảm áp: Tăng áp suất ở quai động mạnh chủ, xoang động mạch cảnh gây
xung động truyền về hành não kích thích dây X làm tim đập chậm, huyết áp giảm. Các
phản xạ này có tác dụng điều chỉnh huyết áp khi huyết áp cao
- Phản xạ tim – tim: Khi máu về tim nhiều, gốc tĩnh mạch chủ đổ vào nhĩ phải bị
căng phát sinh xung động về hành não ức chế dây X làm tim đập nhanh, làm giảm ứ đọng
máu ở tâm nhĩ.
- Phản xạ mắt tim: Ép mạnh vào hai nhãn cầu xung động về hành não kích thích
dây X làm tim đập chậm.
- Phản xạ Goltz: Đánh mạnh vào vùng thượng vị xung động truyền về hành não
kích thích dây X làm tim ngừng đập
 Ảnh hưởng vỏ não:
Trong những trạng thái hoạt động của vỏ não như cảm xúc, sợ hãi, lo lắng… bao
giờ cũng có sự thay đổi hoạt động tim .
5.1.2. Yếu tố thể dịch
- Ảnh hưởng của hormone tuyến nội tiết :
+ Hormone tủy thượng thận: Adrenalin làm tim đập mạnh, nhanh
+ Hormone tuyến giáp Thyroxin làm tim đập nhanh
- Ảnh hưởng của nồng độ O 2 và CO 2 trong máu:
+ Nồng độ CO 2 máu tăng, O 2 máu giảm làm tim đập nhanh và ngược lại
Ảnh hưởng của các Ion
+ Ca++ máu tăng làm tăng trương lực cơ tim
+ K+ máu tăng làm giảm trương lực cơ tim
+ pH máu giảm làm tim đập nhanh
5.2. Điều hòa ngay tại tim
Tim hoạt động theo định luật Starling: lực co bóp của tim tỉ lệ với chiều dài của
sợi cơ tim trước khi co.
III. SINH LÝ ĐỘNG MẠCH.
Động mạch là những mạch máu vận chuyển máu từ tim đến các mô. Từ động
mạch chủ, động mạch chia thành những nhánh nhỏ dần, càng xa tim thiết diện một động
mạch càng nhỏ, thiết diện tổng động mạch càng lớn, vận tốc càng giảm.

61
Hình 5.7. Cấu trúc của động mạch.
1. Tính chất sinh lý của động mạch
1.1. Tính đàn hồi:
- Đó là khả năng trở về trạng thái ban đầu khi bị biến dạng. Khi máu vào động mạch
thì nó giãn to ra, khi ra khỏi động mạch thì nó co nhỏ trở lại
- Tính đàn hồi cao ở những động mạch lớn vì thành mạch có nhiều sợi đàn hồi.
- Tính đàn hồi làm cho:
+ Máu chảy liên tục trong mạch máu mặc dù tim co bóp phun máu vào động mạch
từng đợt
+ Làm tăng lưu lượng máu đối với mỗi lần co bóp tim
1.2. Tính co thắt:
- Đó là khả năng động mạch co nhỏ lại làm cho lòng mạch hẹp đi, giảm lượng máu
đi qua. Tính chất này làm cho động mạch thay đổi thiết diện, điều hòa lượng máu đến cơ
quan.
- Tính co thắt cao ở những động mạch nhỏ, vì thành mạch nhỏ chứa nhiều sợi cơ
trơn
2. Huyết áp động mạch
2.1. Định nghĩa:
Tim co bóp tạo nên lực đẩy máu chảy trong động mạch. Máu chảy trong động mạch
lại chịu lực cản của mạch máu. Tuần hoàn máu là kết quả của hai lực đối lập nhau: lực đẩy
máu của tim và lực cản của động mạch , trong đó lực đẩy của tim đã thắng nên máu chảy
trong động mạch với một áp suất nhất định đó là huyết áp. Như vậy huyết áp là áp lực máu
chảy tác động lên thành mạch

62
Hình 5.8. Lực tác động của máu lên động mạch.
2.2. Các thông số về huyết áp
- Huyết áp tối đa: Do lực co bóp của tim tạo nên, gọi là huyết áp tâm thu. Huyết áp
tối đa phụ thuộc vào lực tâm thu và thể tích tâm thu. Bình thường huyết áp tối đa từ 90 –
110 mmHg
- Huyết áp tối thiểu: Đó là huyết áp trong giai đoạn tâm trương còn gọi là huyết áp
tâm trương. Huyết áp tối thiểu phụ thuộc vào trương lực mạch máu. Bình thường huyết áp
tối thiểu từ 50 – 70 mmHg
- Huyết áp hiệu số: Đó là mức chênh lệch giữa huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu,
là điều kiện cho tuần hoàn máu. Khi huyết áp hiệu số bị giảm hay gọi là huyết áp kẹp thì
tuần hoàn máu bị ứ trệ
- Huyết áp trung bình: còn gọi là huyết áp hữu hiệu, là trung bình của tất cả áp suất
máu được đo trong một chu kỳ thời gian, nó thể hiện sức làm việc thực sự của tim. Huyết
áp trung bình gần với huyết áp tâm trương hơn huyết áp tâm thu trongchu kỳ hoạt động
của tim.
HA trung bình = HA tâm trương + 1/3 HA hiệu số
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến huyết áp
3.1. Yếu tố của tim:
- Lực co bóp: Tim co bóp mạnh thì máu vào động mạch nhiều hơn huyết áp tăng
- Nhịp tim: Khi tim đập chậm, máu vào động mạch ít, huyết áp giảm. Khi tim đập
nhanh máu vào động mạch nhiều huyết áp tăng, tuy nhiên nếu tim đập quá nhanh (> 140
lần/ phút), giai đoạn tâm trương quá ngắn, máu về tim ít nên lượng máu vào động mạch
cũng giảm, huyết áp giảm.
3.2. Yếu tố của mạch máu:
- Mạch máu co thì huyết áp tăng và ngược lại
- Mạch máu kém đàn hồi thì sức cản tăng , huyết áp tăng
3.3. Yếu tố của máu:
- Độ quánh tăng thì huyết áp tăng và ngược lại.
- Thể tích máu tăng thì lưu lượng máu tăng do đó huyết áp tăng và ngược lại.
4. Điều hòa tuần hoàn động mạch.
Động mạch có một hệ thần kinh nội tại có khả năng co giãn mạch (vận mạch).
Khả năng này được điều hòa bằng hai cơ chế:
4.1. Thần kinh: Đó là các trung tâm co giãn mạch ở não và tủy sống
- Thần kinh nội tại: Luật Starling
- Hệ thần kinh tự chủ
63
* Hệ thần kinh giao cảm:
- Trung tâm: hai bên chất lưới của hành não, 1/3 dưới của cầu não, sừng bên chất
xám tuỷ sống lưng 1 đến thắt lưng 3.
- Trung tâm của hệ giao cảm điều hoà hoạt động tim nên cũng có tác dụng điều hoà
huyết áp động mạch nằm ở sừng bên chất xám tuỷ sống đốt lưng 1 đến lưng 3 và đốt cổ 1
đến cổ 7.
- Các sợi vận mạch giao cảm đi từ tuỷ sống đến dãy hạch giao cảm, rồi đi tới hệ
thống tuần hoàn qua hai con đường là: (1) Qua các dây thần kinh giao cảm đến các mạch
tạng và đến tim, (2) qua các dây thần kinh đến mạch máu ở ngoại vi. Các sợi giao cảm đi
đến hầu hết các mạch máu, trừ mao mạch và cơ thắt trước mao mạch.
- Kích thích hệ thần kinh giao cảm chi phối tuần hoàn gây ra các tác dụng sau:
+ Co các động mạch nhỏ và các tiểu động mạch nên làm tăng sức cản, làm tăng
huyết áp và giảm lưu lượng máu đến mô.
+ Co các mạch máu lớn, đặc biệt là các tĩnh mạch, do đó dồn máu về tim. Đây là
một khâu quan trọng điều hoà lưu lượng máu, nhằm đưa máu đến những cơ quan cần thiết
(đang hoạt động) từ những nơi ít cần cung cấp máu hơn.
+ Các sợi giao cảm đến tim làm tăng tần số tim, tăng lực co cơ tim nên làm tăng
huyết áp. Tất cả các tác dụng trên dẫn đến kết quả là huyết áp tăng.
* Hệ thần kinh phó giao cảm:
- Đối với điều hoà huyết áp động mạch, vai trò của hệ thần kinh phó giao cảm ít
quan trọng. Trung tâm thần kinh phó giao cảm điều hoà hoạt động tim nằm ở hành não -
đó là nhân dây X. Thông qua điều hoà hoạt động tim , dây X cũng có tác dụng điều hoà
huyết áp động mạch. Dây X có tác dụng chủ yếu tại tim, làm giảm tần số tim và giảm nhẹ
lực co cơ tim, do đó làm giảm huyết áp.
- Các phản xạ điều hoà huyết áp:
+ Phản xạ điều hoà huyết áp xuất phát từ các receptor nhận cảm áp suất: Khi huyết
áp tăng làm căng thành mạch, sức căng, sức nén sẽ tác động vào các receptor này, tạo xung
động truyền về hệ thần kinh trung ương theo dây Hering kích thích trung tâm dây X ở hành
não. Xung động truyền ra theo dây X đến hệ thống tuần hoàn để làm giảm huyết áp về mức
bình thường, bằng cách làm giảm nhịp tim, giảm lực co bóp cơ tim, gây giãn mạch, có tác
dụng giảm huyết áp.
+ Phản xạ điều hoà huyết áp xuất phát từ các receptor nhận cảm hoá học: Receptor
nhận cảm hóa học chủ yếu khư trú ở thân động mạch cảnh và một ít ở động mạch chủ. Khi
huyết áp giảm, nồng độ oxy trong máu giảm hoặc nồng độ CO2 và ion hydro trong máu
tăng sẽ kích thích các receptor nhận cảm hoá học, phát sinh xung động truyền về hành não
theo dây Hering kích thích trung tâm co mạch, làm tăng huyết áp. Phản xạ này chỉ có tác
dụng khi huyết áp giảm dưới 80 mm Hg.
+ Phản xạ điều hoà huyết áp do tình trạng thiếu máu tại trung tâm vận mạch: Khi
máu cung cấp cho trung tâm vận mạch bị giảm, gây thiếu dinh dưỡng cho các nơron tại
đây thì những nơron này bị hưng phấn rất mạnh, làm cho tim đập nhanh, mạnh và co mạch
làm huyết áp tăng. Nguyên nhân của hiện tượng này có lẽ vì thiếu máu làm tăng khí CO2
, acid lactic và một số acid khác, chính các yếu tố này đã kích thích trung tâm vận mạch
và hệ thần kinh giao cảm .
4.2. Thể dịch:
 Các chất gây co mạch:
- Adrenalin và noradrenalin:
64
+ Adrenalin được bài tiết ra ở tuyến tuỷ thượng thận, có tác dụng làm co mạch dưới
da, nhưng làm giãn mạch vành, mạch não và mạch cơ vân nên chủ yếu làm tăng huyết áp
tối đa.
+ Noradrenalin cũng được bài tiết chủ yếu ở tuyến tuỷ thượng thận, có tác dụng làm co
mạch toàn thân, nên làm tăng cả huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu.
- Hệ thống renin - angiotensin: Khi huyết áp giảm, máu đến thận cũng giảm, làm
các tế bào của tổ chức cạnh cầu thận bài tiết renin vào trong máu. Dưới tác dụng của renin,
một protein của huyết tương là angiotensinogen chuyển thành angiotensin I. Sau khi hình
thành, dưới tác dụng của converting enzym (có trong mao mạch phổi) angiotensin I được
chuyển thành angiotensin II, angiotensin II bị phân giải rất nhanh dưới tác dụng của
angiotensinase. Angiotensin II làm tăng huyết áp rất mạnh do các tác dụng sau:
+ Co tiểu động mạch sát với mao mạch. Tác dụng co mạch của angiotensin II mạnh
gấp 30 lần so với noradrenalin.
+ Kích thích lớp cầu của tuyến vỏ thượng thận bài tiết aldosteron để tăng tái hấp thu ion
natri.
+ Kích thích trực tiếp lên ống thận làm tăng tái hấp thu ion natri.
+ Kích thích vùng Postrema ở nền não thất IV làm tăng trương lực mạch máu.
+ Kích thích các cúc tận cùng thần kinh giao cảm tăng bài tiết noradrenalin.
+ Làm giảm tái nhập noradrenalin trở lại các cúc tận cùng.
+ Làm tăng tính nhậy cảm của noradrenalin đối với mạch máu.
Tất cả các tác dụng trên dẫn đến kết quả tăng huyết áp rất mạnh do làm tăng lưu
lượng máu và tăng sức cản ngoại vi.
- Vasopressin: Khi huyết áp giảm, vùng dưới đồi bài biết nhiều vasopressin vào
máu. Vasopressin có tác dụng co mạch trực tiếp, do đó làm tăng huyết áp. Khi huyết áp
giảm quá thấp thì tác dụng làm tăng huyết áp của vasopressin là rất quan trọng (khi huyết
áp giảm xuống đến mức 50 mmHg).
Ngoài tác dụng co mạch, vasopressin còn có tác dụng làm tăng tái hấp thu nước
(tức là chống bài niệu) ở ống thận, làm tăng thể tích máu nên cũng có tác dụng làm tăng
huyết áp. Do có tác dụng chống bài niệu nên vasopressin còn có tên là ADH (Anti-Diuretic-
Hormone).
 Các chất gây giãn mạch:
- Bradykinin: Là một peptid có 9 acid amin, có nhiều trong máu và dịch thể,
bradykinin lưu hành trong máu dưới dạng chưa hoạt động, được chuyển thành dạng hoạt
động dưới tác dụng của kalikrein có sẵn trong máu.
Tác dụng của bradykinin là gây giãn mạch mạnh và làm tăng tính thấm của mao
mạch, nên làm huyết áp giảm.
- histamin: Là sản phẩm khử carboxyl của histidin, có ở hầu hết các mô trong cơ
thể. Histamin có tác dụng giãn mạch và tăng tính thấm của mao mạch, do đó làm giảm
huyết áp.
- Prostaglandin: Là một acid béo có vòng 5 cạnh và 2 mạch nhánh. Dựa vào sự khác
nhau của vòng 5 cạnh mà chia ra nhiều loại prostaglandin như A, B, E, F, I. Các
prostaglandin khác nhau có tác dụng khác nhau, một số có tác dụng co mạch, nhưng nhìn
chung chúng có tác dụng giãn mạch và làm tăng tính thấm mao mạch, gây giảm huyết áp.
 Các yếu tố khác:
- Nồng độ ion Ca2+ tăng gây co mạch, do Ca2+ kích thích co cơ trơn thành mạch.
- Nồng độ ion K+ tăng gây giãn mạch, do K+ ức chế co cơ trơn thành mạch.
65
- Nồng độ ion Mg2+ tăng gây giãn mạch, do Mg2+ ức chế co cơ trơn thành mạch.
- Nồng độ khí oxy giảm, CO2 tăng gây giãn mạch.
Các cơ chế thể dịch điều hoà huyết áp vừa có tác dụng điều hoà tại chỗ, vừa có tác
dụng điều hoà chung trên toàn cơ thể.
IV. SINH LÝ TĨNH MẠCH.
1. Đặc điểm hình thái.
- Tĩnh mạch bắt nguồn từ mao mạch: Khi ở mao mạch bắt đầu xuất hiện các sợi cơ
trơn thì đó là tiểu tĩnh mạch.
- Thiết diện của mỗi tĩnh mạch càng về gần tim càng lớn. Nhưng tổng thiết diện của
cả hệ tĩnh mạch thì giảm đi khi về gần tim. Tổng thiết diện của hệ tĩnh mạch lớn hơn hệ
động mạch. Mỗi động mạch lớn thường có hai tĩnh mạch đi kèm.
- Trên đường đi của tĩnh mạch có những chỗ phình ra tạo thành các xoang tĩnh
mạch.
Thành của tĩnh mạch mỏng hơn thành động mạch, cũng được cấu tạo bởi 3 lớp.
Lớp trong cùng là lớp nội mạc, ở từng đoạn lại nhô ra những nếp gấp hình bán nguyệt, làm
thành những van tĩnh mạch. Hệ thống van tĩnh mạch phát triển ở phần dưới của cơ thể,
hướng cho máu chảy theo một chiều từ dưới lên tim. Lớp giữa gồm các sợi liên kết và sợi
cơ trơn, trong đó các sợi cơ vòng và cơ dọc đan lẫn với sợi liên kết. Lớp ngoài mỏng, gồm
toàn các sợi liên kết.
2. Đặc điểm chức năng.
- Hệ tĩnh mạch có khả năng chứa máu lớn vì số lượng tĩnh mạch nhiều hơn động
mạch, thiết diện của tĩnh mạch lớn, khả năng giãn lớn và có nhiều xoang tĩnh mạch. Thể
tích máu trong hệ thống tĩnh mạch chiếm khoảng 64% tổng lượng máu của cơ thể. Khi thể
tích tuần hoàn tăng đột ngột, tĩnh mạch sẽ giãn ra để chứa máu, tránh được gánh nặng cho
tim.
- Tĩnh mạch có tính đàn hồi yếu, nhưng tĩnh mạch cũng có khả năng co lại nhờ các
sợi cơ trơn của thành tĩnh mạch.
- Một số cơ quan đặc biệt có khả năng chứa máu:
+ Lách có khả năng chứa khoảng 150ml máu.
+ Gan: Các xoang gan có thể chứa hàng trăm ml máu.
+ Các tĩnh mạch lớn ở bụng có thể đóng góp khoảng 300 ml máu cho hệ tuần hoàn.
- Các đám rối tĩnh mạch dưới da có thể chứa hàng trăm ml máu.
3. Nguyên nhân tuần hoàn tĩnh mạch
Máu trong tĩnh mạch chảy về tim được là nhờ những yếu tố sau:
3.1. Sức bơm của tim:
Tim bơm máu vào động mạch tạo nên một áp suất, càng xa tim áp suất càng giảm
dần, ra khỏi mao mạch áp suất vẫn cao hơn ở nhĩ phải nên máu về tim.
3.2. Sức hút của tim:
- Giai đoạn tâm thu: Khi tâm thất co bóp, máu phun vào động mạch, van nhĩ thất
hạ xuống về phía mõm tim, buồng nhĩ giãn làm áp suất tâm nhĩ giảm xuống, máu chảy về
tim.
- Giai đoạn tâm trương: Tâm thất giãn, tạo sức hút từ tâm nhĩ xuống tâm thất, từ
tĩnh mạch về tâm nhĩ

3.3. Sức hút của lồng ngực:

66
- Thời kỳ hít vào: Khi hít vào lồng ngực giãn ra, áp suất âm trong lồng ngực tăng
thêm, tâm nhĩ và tĩnh mạch lớn giãn ra hút máu về tim.
- Do tâm thu: Khi co bóp tim nhỏ lại, áp suất âm trong lồng ngực tăng thêm, tâm
nhĩ và tĩnh mạch lớn giãn ra hút máu về tim.
3.4. Vận động của cơ:
Cơ co đè lên tĩnh mạch với sự phối hợp của các van tĩnh mạch đẩy máu dần về tim.
3.5. Ảnh hưởng của động mạch
Một động mạch lớn thường có hai tĩnh mạch đi kèm nằm chung trong một bao xơ.
Khi động mạch đập với sự phối hợp của các van tĩnh mạch, đẩy máu về tim.
3.6. Ảnh hưởng của trọng lực
Ở tư thế đứng, tuần hoàn tĩnh mạch phía trên tim thuận lợi hơn tuần hoàn tĩnh mạch
phía dưới tim.
4. Điều hòa tuần hoàn tĩnh mạch.
Tĩnh mạch có khả năng co giãn, nhưng giãn nhiều hơn co vì tĩnh mạch có ít sợi cơ
trơn. Các yếu tố ảnh hưởng đến tuần hoàn tĩnh mạch là:
- Nhiệt độ: Khi lạnh tĩnh mạch co, khi nóng tĩnh mạch giãn.
- Nồng độ các chất khí trong máu: Nồng độ oxy giảm làm co tĩnh mạch nội trạng
và giãn tĩnh mạch ngoại vi. Nồng độ CO2 tăng làm giãn tĩnh mạch ngoại vi.
- adrenalin làm co tĩnh mạch.
- Histamin làm co tĩnh mạch lớn.
- Một số thuốc và hoá chất:
+ Pilocacpin, nicotin, CaCl2, BaCl2 làm co tĩnh mạch.
+ Cocain, amylnitrit, cafein làm giãn tĩnh mạch.
V. SINH LÝ MAO MẠCH.
1. Đặc điểm cấu trúc - chức năng.
- Mỗi cơ quan có một mạng vi tuần hoàn riêng, có cấu trúc phù hợp với nhu cầu
của cơ quan đó.
- Máu từ tiểu động mạch, qua tiểu động mạch tận cùng, rồi vào mao mạch. Máu
chảy theo chiều dài của mao mạch sang tiểu tĩnh mạch, các tiểu tĩnh mạch tập trung lại
thành tĩnh mạch, cuối cùng máu về tim.

Hình 5.9. Sơ đồ cấu trúc mao mạch.


- Có hai loại mao mạch. Loại mao mạch thứ nhất là mao mạch thực sự, là những
mao mạch có cơ thắt trước mao mạch. Cơ thắt trước mao mạch là một sợi cơ trơn bao
67
quanh mao mạch ở chỗ tiểu động mạch tận cùng nối với mao mạch. Loại mao mạch thứ
hai là kênh ưu tiên, là những mao mạch luôn mở, không có cơ thắt trước mao mạch, nối
giữa tiểu động mạch và tiểu tĩnh mạch (hình dưới - Sơ đồ mao mạch).
- Toàn bộ cơ thể có khoảng 10 tỷ mao mạch. Chiều dài mỗi mao mạch chừng 0,4 –
2 mm, tổng chiều dài khoảng 100.000 km. Đường kính mao mạch rất nhỏ, dưới 20 mm,
thường từ 4 - 9 mm , đủ cho một hồng cầu ép mình kéo dài ra để đi qua. Đường kính mao
mạch không cố định, có thể tự động thay đổi kích thước. Tổng diện tích trao đổi chất của
mao mạch khoảng 5000 – 7000 m2.
- Thành mao mạch rất mỏng, chỉ khoảng 0,5 mm , gồm một lớp tế bào nội mô, bên
ngoài được bao bọc bởi màng đáy. Thành mao mạch có các lỗ để các chất có kích thước
nhỏ có thể qua lại. Có hai loại lỗ ở thành mao mạch là khe và kênh. Khe là một khe hẹp
giữa hai tế bào nội mô tiếp giáp nhau. Các khe này hẹp khoảng 6 - 7 nm, nên không cho
các chất có phân tử lượng lớn hơn 35.000 đi qua, phân tử albumin hơi lớn hơn các khe này.
Thành mao mạch còn có các kênh, các kênh này được hình thành từ các bọc bào tương ở
tế bào nội mô. Các bọc này vận chuyển các chất qua thành mao mạch bằng cách hoà vào
nhau tạo thành những kênh xuyên qua thành mao mạch để dịch và các phân tử to đi qua.
Vai trò của các bọc và kênh ít quan trọng trong quá trình trao đổi chất qua mao mạch.
- Mao mạch dẫn máu từ động mạch sang tĩnh mạch, là nơi diễn ra quá trình trao đổi
chất giữ máu và dịch kẽ.
2. Chức năng trao đổi chất.
- Khi máu đến mao mạch, O 2 và các chất dinh dưỡng trong máu vận chuyển qua
thành mao mạch vào dịch kẽ. Ngược lại CO 2 và các chất cặn bã vận chuyển từ dịch kẽ
qua thành mạch vào máu.

Hình 5.10. Sơ đồ trao đổi chất tại mao mạch.


- Quá trình trao đổi chất ở mao mạch chịu ảnh hưởng của những yếu tố:
2.1. Áp suất thủy tĩnh của máu (huyết áp): Có tác dụng đẩy nước và các chất hòa tan từ
máu sang dịch kẽ.
2.2. Áp suất keo của protein huyết tương: Có tác dụng giữ nước và các chất hòa tan ở lại
trong mao mạch.Tùy theo áp suất nào lớn hơn thì quá trình trao đổi chất theo chiều của áp

68
suất đó. Như vậy trao đổi chất ở mao mạch theo cơ chế khuếch tán do chênh lệch về áp
suất.
2.3. Quá trình trao đổi chất cụ thể như sau:
- Ở phần mao động mạch: Huyết áp là 35mmHg, áp suất keo là 25mmHg, chiều
trao đổi chất là chiều từ mao mạch sang dịch kẽ. Máu và các chất hòa tan từ máu vận
chuyển sang dịch kẽ.
- Ở phần mao tĩnh mạch: Huyết áp là 15mmHg, trong khi đó áp suất keo vẫn là 25
mmHg, chiều trao đổi chất từ dịch kẽ sang mao mạch. Máu và các chất từ dịch kẽ vào mao
mạch.
3. Điều hòa tuần hoàn mao mạch
Tuần hoàn mao mạch được điều hoà bởi các yếu tố sau:
- Nồng độ khí oxy trong dịch kẽ: Đây là yếu tố quan trọng nhất điều hoàn tuần hoàn
mao mạch. Trong hệ mao mạch, các mao mạch thực sự thay nhau đóng mở là do nồng độ
khí oxy trong dịch kẽ chi phối. Khi nồng độ oxy giảm ở dịch kẽ sẽ làm giãn cơ thắt trước
mao mạch và mao mạch mở ra, máu chảy vào mao mạch tăng lên, làm cho nồng độ oxy
trong mao mạch tăng lên và khuếch tán ra dịch kẽ, nên oxy trong dịch kẽ cũng tăng lên.
Nồng độ oxy trong dịch kẽ tăng lên lại có tác dụng làm co cơ thắt trước mao mạch, nên
lượng máu chảy vào mao mạch lại giảm đi. Cứ lặp đi lặp lại như thế gây ra hiện tượng các
mao mạch thay nhau đóng mở, làm máu chảy giật cục trong mao mạch.
- Nồng độ khí CO2 tăng, pH giảm và tăng các chất chuyển hoá trung gian ở dịch
kẽ có tác dụng làm giãn cơ thắt trước mao mạch, dẫn đến tăng dòng máu tới mao mạch.
Khi nồng độ các chất này thay đổi ngược lại sẽ làm giảm dòng máu vào mao mạch, kết
quả là các mao mạch thay nhau đóng mở.
- Adrenalin và noradrenalin có tác dụng làm co cơ thắt trước mao mạch, do cơ này
có receptor.
- Acetylcholin, histamin và các kinin (bradykinin) có tác dụng làm giãn các mao
mạch ưu tiên (kênh ưu tiên).
- Nhiệt độ: Khi nhiệt độ tại mô mà mao mạch chi phối tăng có tác dụng làm giãn
cơ thắt trước mao mạch, ngược lại thì làm co cơ thắt trước mao mạch.

LƯỢNG GIÁ:
1. Anh (chị) hãy trình bày các đặc tính sinh lý của cơ tim?
2. Anh (chị) hãy trình bày chu kỳ hoạt động của tim, những biểu hiện bên ngoài và cơ
chế của chu kỳ tim?
3. Anh (chị) hãy trình bày cơ chế điều hòa hoạt động tim?
4. Anh (chị) hãy trình bày các đặc tính sinh lý của động mạch, các loại huyết áp
động mạch, các yếu tố ảnh hưởng và các cơ chế điều hoà huyết áp động mạch?
5. Anh (chị) hãy trình bày chức năng của mao mạch và điều hòa tuần hoàn mao mạch.
6. Anh (chị) hãy trình bày các nguyên nhân của tuần hoàn tĩnh mạch?
7. Anh (chị) hãy trình bày nguyên tắc, ý nghĩa của một số kỹ thuật thăm dò chức năng
tim thường dùng trên lâm sàng?

Bài 6
SINH LÝ HÔ HẤP
69
MỤC TIÊU:
1. Trình bày được đặc điểm hình thái-chức năng của bộ máy hô hấp
2. Trình bày được chức năng thông khí phổi, nêu được ý nghĩa của một số thông
số thăm dò chức năng thông khí phổi.
3. Trình bày được chức năng trao đổi khí ở phổi.
4. Trình bày được quá trình vận chuyển khí O2 và CO2
5. Mô tả được hoạt động của trung tâm hô hấp và các yếu tố tham gia điều hoà
hô hấp

NỘI DUNG:
I. ĐẠI CƯƠNG.
Bộ máy hô hấp gồm: Đường dẫn khí, phổi, lồng ngực và các cơ hô hấp.
Chức năng hô hấp gồm: Thông khí, vận chuyển khí, hô hấp tế bào, phát âm, ngửi,
điều hòa pH, huyết áp, bảo vệ, tan cục máu đông. Mục tiêu của bài này chủ yếu tập trung
vào chức năng thông khí và chức năng trao đổi khí.
1. Nhắc lại giải phẫu sinh lý của bộ máy hô hấp:

Hình 6.1. Cấu tạo bộ máy hô hấp.


Bộ máy hô hấp có những chức năng sau:
- Chức năng hô hấp.
- Chức năng điều hòa nhiệt.
- Chức năng thăng bằng kiềm toan.
- Chức năng nội tiết và một số chức năng khác...
- Trong đó chức năng chính và quan trọng nhất là chức năng hô hấp. Chức năng hô
hấp là chức năng đưa oxy từ môi trường ngoài vào cơ thể để cung cấp cho các tế bào hoạt
động đồng thời đào thải khí CO2 từ trong cơ thể ra ngoài.
- Để nghiên cứu chức năng này chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu ba quá trình sau:
+ Quá trình thông khí.
+ Quá trình trao đổi và vận chuyển khí.
+ Quá trình điều hòa hô hấp.
70
2. Lồng ngực:

Hình 6.2. Khoang lồng ngực


- Lồng ngực có vai trò rất quan trọng trong quá trình thông khí. Nó được cấu tạo
như một khoang kín.
+ Phía trên là cổ, gồm các bó mạch thần kinh lớn, thực quản, khí quản, các cơ và
mô liên kết vùng cổ.
+ Phía dưới là cơ hoành là một cơ hô hấp rất quan trọng ngăn cách với ổ bụng.
+ Xung quanh là cột sống, xương sườn, xương ức, xương đòn và các cơ bám vào,
trong đó quan trọng là các cơ hô hấp (cơ ngực lớn, cơ ngực bé, cơ liên sườn..).
- Khi các cơ hô hấp giãn, xương sườn sẽ chuyển động theo kích thước của lồng
ngực thay đổi và phổi sẽ co giãn theo, nhờ đó mà ta thở được.
3. Các đường dẫn khí:

Hình 6.3. Đường dẫn khí trong phổi.


Đường dẫn khí là một hệ thống ống, đi từ ngoài vào trong gồm: mũi, hầu, thanh
quản, khí quản và các tiểu phế quản.
Ngoài chức năng dẫn khí, đường dẫn khí còn có những chức năng khác.
+ Điều hòa lượng không khí đi vào phổi.
+ Làm tăng tốc độ trao đổi khí ở phổi.
71
+ Bảo vệ phổi.
Sở dĩ như vậy là nhờ đường dẫn khí có những đặc điểm cấu tạo sau:
+ Niêm mạc có hệ thống mao mạch phong phú để sưởi ấm cho không khí đi vào,
đồng thời có nhiều tuyến tiết nước để bão hòa hơi nước cho không khí. Không khí
được sưởi ấm và bão hòa thì tốc độ trao đổi khí ở phổi tăng lên.
+ Niêm mạc mũi có hệ thống lông để cản trở hạt bụi lớn, niêm mạc phía trong có
những tuyến tiết chất nhầy, để giữ lại các hạt bụi nhỏ. Mặt khác, đường dẫn khí càng vào
trong càng hẹp, gấp khúc nên bụi dễ bị giữ lại hơn. Ngoài ra các tế bào khí quản còn có
một hệ thống lông rung động phe phẩy theo chiều từ trong ra ngoài có tác dụng đẩy bụi và
các chất dịch ứ đọng trong đường hô hấp ra ngoài. Hoạt động của hệ thống lông rung giảm
ở người hút thuốc lá nhiều.
+ Khí quản và phế quản được cấu tạo bởi những vòng sụn, nhờ đó đường dẫn khí
luôn được giãn rộng làm cho không khí lưu thông dễ dàng. Ở các phế quản nhỏ còn có một
hệ thống cơ trơn, chúng tự động co giãn làm thay đổi khẩu kính đường dẫn khí để điều hòa
lượng không khí đi vào phổi.
4. Phổi:
- Phổi là một tổ chức rất đàn hồi, được cấu tạo bởi các phế nang. Đây là nơi chủ
yếu xẩy ra quá trình trao đổi khí. Tổng diện tích mặt bên trong của phế nang chừng khoảng
50- 100m2 ở người trưởng thành.

Hình 6.4. Hình thể ngoài của phổi.


- Xung quanh các phế nang được được bao bọc bởi một mạng mạch máu rất phong
phú. Thành phế nang và thành mạch máu bao quanh tạo nên cấu trúc đặc biệt đóng vai trò
quan trọng trong việc khuếch tán khí giữa máu và phế nang gọi là màng hô hấp. Màng này
rất mỏng, trung bình 0,5 µm, nơi nhỏ nhất khoảng 0,2µm.

72
Hình 6.5. Cấu trúc phế nang của phổi.
Như vậy: Cấu tạo của phổi có những đặc điểm phù hợp với chức năng của nó, diện
trao đổi lớn, mạch máu phân bố phong phú, màng hô hấp rất mỏng. Mặt khác bên trong
lòng phế nang được lót bởi một chất đặc biệt có bản chất là lipoprotein gọi là chất hoạt
diện (surfactant). Chất này có chức năng rất quan trọng thông qua ba cơ chế:
- Ngăn cản các chất dịch từ mạch máu tràn vào lòng phế nang, nếu không có chất
surfactant, các phế nang sẽ bị tràn dịch dẫn đến suy hô hấp và có khả năng chết.
- Làm giảm sức căng mặt ngoài của các phế nang, giúp cho các phế nang giãn ra dễ
dàng trong hô hấp.
- Ổn định áp suất bên trong lòng phế nang để tránh hiện tượng xẹp và làm vỡ phế
nang.
Chất surfactant này giảm ở những người hút thuốc lá, những bệnh nhân bị
tắc mạch máu phổi, đặc biệt là ở những trẻ em bị đẻ non, phổi không có surfactant,
các phế nang sẽ bị xẹp, vỡ, tràn dịch gây suy hô hấp nặng dẫn đến tử vong.

73
5. Màng phổi và áp suất âm màng phổi:

Hình 6.6. Cơ chế hình thành áp suất âm trong màng phổi.


Màng phổi gồm hai lá: lá thành dính sát vào lồng ngực và lá tạng dính sát vào phổi.
Hai lá không dính vào nhau tạo nên một khoang ảo kín gọi là khoang màng phổi, trong
khoang chỉ có chứa ít dịch nhờn làm cho hai lá có thể trượt lên nhau một cách dễ dàng.
Bằng thí nghiệm người ta thấy áp suất trong khoang màng phổi thấp hơn áp suất
của khí quyển và gọi là áp suất âm (nếu quy ước áp suất khí quyển bằng không).
Sở dĩ khoang màng phổi có áp suất âm là do hai cơ chế:
+ Do tính chất đàn hồi của nhu mô phổi.
+ Do sự thay đổi kích thước của lồng ngực trong quá trình hô hấp.
Áp suất âm của khoang màng phổi có ý nghĩa về mặt sinh lý rất quan trọng:
+ Nhờ có áp suất âm này, trong lồng ngực luôn có áp suất lớn hơn các vùng khác
vì vậy máu từ các nơi trở về tim một cách dễ dàng.
+ Áp suất âm làm cho tuần hoàn phổi có áp suất rất thấp tạo thuận lợi cho tim phải
bơm máu lên phổi, đặc biệt là lúc hít vào áp suất càng âm hơn máu lên phổi nhiều hơn
cùng lúc đó oxy đi vào phổi cũng nhiều hơn, sự trao đổi khí diễn ra tối đa.
+ Nhờ có áp suất âm nên khi kích thước của lồng ngực thay đổi, phổi sẽ co giãn
theo để thực hiện một động tác hô hấp. Khi áp suất âm này mất đi, phổi sẽ không co giãn
theo lồng ngực nữa dẫn đến rối loạn hô hấp.
II. QUÁ TRÌNH THÔNG KHÍ CỦA PHỔI.
Quá trình thông khí được thực hiện thông qua các động tác hô hấp.

74
Hình 6.7. Sơ đồ thông khí và các chỉ số của phổi.
1. Động tác hít vào:
Hít vào là động tác chủ động, tốn năng lượng do co các cơ hít vào làm tăng thể
tích lồng ngực theo ba chiều: chiều thẳng đứng, chiều trước sau và chiều ngang.
Khi bắt đầu hít vào, cơ hoành co làm hạ thấp vòm hoành, tăng đường kính thẳng
đứng của lồng ngực. Đồng thời các cơ liên sườn ngoài co làm xương sườn nâng lên, tăng
đường kính ngang của lồng ngực. Khi đó xương ức cũng nâng lên và nhô ra phía trước làm
tăng kích thước chiều trước sau của lồng ngực.
Khi lồng ngực tăng thể tích làm phổi tự động nở theo, phổi nở, phế nang nở, làm
giảm áp suất của phế nang xuống trị số âm, có tác dụng hút không khí từ ngoài trời vào
đường hô hấp đến phế nang.
2. Động tác thở ra:
Thở ra là một động tác thụ động thường là vô ý thức và không dùng năng lượng,
các cơ hô hấp không co nữa mà giảm mềm ra, lực co đàn hồi của phổi và lồng ngực làm
cho lồng ngực trở về vị trí ban đầu. Các cơ xương sườn hạ thấp và thu vào trong, xương
ức hạ thấp và lui về, cơ hoành lại nhô lên cao về phía ngực.
Ngực thu nhỏ lại làm phổi thu nhỏ lại, áp suất phế nang tăng lên đẩy không khí ra
ngoài.

75
Hình 6.8. Cử động hô hấp của lồng ngực và cơ hoành.
3. Khoảng chết và thông khí phế nang:
- Khi ta hít một lượng không khí vào, không phải toàn bộ không khí này đều tham
gia trao đổi với máu mà chỉ có phần không khí bình thường mới thực hiện tham gia trao
đổi, phần còn lại nằm trong đường dẫn khí hoặc trong các phế nang bất thường thì không
tham gia trao đổi. Thể tích không khí không tham gia trao đổi này gọi là khoảng chết. Có
hai loại khoảng chết:
+ Khoảng chết giải phẫu: Là thể tích không khí chứa trong đường dẫn khí, bình
thường khoảng 150ml.
+ Khoảng chết sinh lý: Bằng khoảng chết giải phẫu cộng với thể tích không khí
chứa ở các phế nang bất thường mất khả năng trao đổi khí như bị xơ hóa, thuyên tắc
mao mạch quanh phế nang.
III. CÁC THỂ TÍCH VÀ CÁC DUNG TÍCH CỦA HÔ HẤP.

Hình 6.9. Các thể tích và dung tích của phổi.


1. Các thể tích của thông khí:
Một thể tích (V) là một lượng khí tính bằng lít được huy động trong một động tác
thở cơ bản có các thể tích và dung tích như sau:
- Thể tích lưu thông (TV: Tidal Volume): Là số lít khí ra vào phổi trong một lần
thở bình thường. Bình thường khoảng 500ml, nam lớn hơn nữ.
- Thể tích dự trữ hít vào (IRV: Inspiratory Reserved Volume): Là thể tích không
khí ta có thể cố gắng hít vào được thêm nữa sau khi đã hít vào bình thường, còn được gọi
là thể tích bổ sung. Bình thường khoảng 1500ml- 2000ml.
76
- Thể tích dự trữ thở ra (ERV: Expiratory Reserved Volume): Là thể tích không
khí ta có thể cố gắng thở ra thêm nữa sau khi đã thở ra bình thường, còn gọi là thể tích dự
trữ của phổi. Bình thường khoảng 1100ml- 1500ml.
- Thể tích cặn ( RV: Residual Volume): Là thể tích không khí còn lại trong phổi
sau khi đã thở ra hết sức. Bình thường khoảng 1000ml- 1200ml.
- Thể tích thở ra tối đa trong giây đầu tiên (FEV1 : Fored Expiratory Volume):
Đây là thể tích hô hấp quan trọng thường được dùng để đánh giá chức năng thông khí.
2. Các dung tích của hô hấp:
Theo qui ước, một thể tích không khí được gọi là dung tích hô hấp khi nó gồm
tổng của hai hay nhiều thể tích hô hấp.
2.1. Dung tích sống (VC):
Là một chỉ số thường dùng để đánh giá thể lực, nó gồm ba thể tích:
- Thể tích lưu thông.
- Thể tích dự trữ hít vào.
- Thể tích dự trữ thở ra.
2.2. Dung tích toàn phổi (TV):
Là tổng số lít khí tối đa có được trong phổi bao gồm:
- Thể tích lưu thông
- Thể tích dự trữ thở ra
- Thể tích dự trỡ hít vào
- Thể tích cặn

2.3. Dung tích cặn chức năng (FRC):


Là tổng hai thể tích, bao gồm:
- Thể tích dự trữ thở ra
- Thể tích cặn.
IV. QUÁ TRÌNH TRAO ĐỔI VÀ VẬN CHUYỂN KHÍ.
- Nhờ quá trình thông khí, không khí trong phế nang sẽ có phân áp O2 cao, CO2
thấp so với máu tĩnh mạch, sự chênh lệch phân áp đó là động lực chính cho sự trao đổi O2
và CO2 ở phổi. Sau khi trao đổi máu tĩnh mạch trở thành máu động mạch có phân áp O2
cao, CO2 thấp so với các tổ chức, đó là động lực cho sự trao đổi khí ở các tổ chức.
- Trong quá trình trao đổi và vận chuyển khí, máu đóng vai trò quan trọng, bên
cạnh lượng khí hòa tan, máu còn chứa các chất cần thiết cho sự vận chuyển khí
Hemoglobin, protein, muối, kiềm...
- Cùng với máu, hệ tuần hoàn cũng đóng vai trò quyết định đối với quá trình vận
chuyển khí. Khi chức năng tuần hoàn bị rối loạn dẫn đến rối loạn chức năng hô hấp.
1. Quá trình trao đổi và vận chuyển O 2 :
Các dạng oxy được vận chuyển:

77
Hình 6.10. Các dạng oxy vận chuyển trong máu.

1.1. Dạng hòa tan:


Chiếm khoảng 0,3ml/100ml máu ở trong máu động mạch, tạo nên một phân áp
của O 2 khoảng 95mmHg, lượng oxy hòa tan tuy nhỏ nhưng đóng vai trò rất quan trọng,
vì nó tạo nên phân áp O 2 của máu, vì đây là dạng trực tiếp trao đổi với tổ chức.
1.2. Dạng Hemoglobin vận chuyển:
Đây là dạng vận chuyển chủ yếu của oxy ở trong máu. Hemoglobin vận chuyển
Oxy bằng cách gắn Oxy vào Fe2+ của nhân Hem, tạo nên Oxy-Hemglobin (HbO 2 ). Các
yếu tố ảnh hưởng đến sự kết hợp và phân ly HbO 2
- Phân áp Oxy
- Phân áp CO 2
- Các yếu tố khác như nhiệt độ, pH...

Hình 6.11. Sơ đồ quá trình vận chuyên oxy từ phổi đến các tổ chức.

78
Khi máu tĩnh mạch đến phổi, do có sự chênh lệch phân áp của oxy
(100mmHg/ 40mmHg), Oxy từ phế nang sẽ khuếch tán qua màng hô hấp đi vào huyết
tương dưới dạng hòa tan làm phân áp O 2 tăng lên khoảng 95mmHg. O 2 sẽ tiếp tục
khuếch tán vào màng hồng cầu kết hợp với Hb tạo thành HbO 2 Khi đó dung tích của Oxy
tăng lên, trở thành máu động mạch rời phổi đến tổ chức.
Khi máu động mạch đến tổ chức, do chênh lệch phân áp O 2 , Oxy hòa tan trong
huyết tương sẽ khuếch tán qua màng mao mạch đi vào tổ chức làm cho phân áp oxy trong
huyết tương giảm xuống chỉ còn 40mmHg, khi đó HbO2 sẽ phân ly và Oxy sẽ đi ra huyết
tương rồi đi vào tổ chức.
2. Quá trình trao đổi và vận chuyển khí CO2 :
CO2 được vận chuyển trong máu dưới ba dạng:
2.1. Dạng hòa tan:
Dạng này chỉ chiếm một lượng nhỏ 3ml/100ml máu, tạo nên một phân áp trong
máu tĩnh mạch khoảng chừng 46mmHg, dạng hòa tan quan trọng vì nó tạo nên phân áp
CO2 ở trong máu và sẽ là dạng trực tiếp trao đổi ở phổi.
2.2. Dạng Hemoglobin vận chuyển (dạng carbamin).
- Kết hợp với hemoglobin trong hồng cầu (chiếm 13%). CO2 gắn với -NH2 của 2
chuỗi beta, alpha theo phản ứng sau:
Hb + CO2 HbCO2 (carbaminohemoglobin)
CO2 có hệ số khuếch tán lớn gấp 20 lần so với oxy do đó dù chỉ chênh lệch phân
áp rất thấp cũng dễ dàng được khuếch tán vào phổi để thải ra ngoài.
- Kết hợp với muối kiềm (chiếm 78% ) dạng bicarbonat
CO2 +H2O CA H2CO3 H+ +HCO3¯ > huyết tương: HCO3¯
+ Na+ > NaHCO3
CA: enzym carbonic anhydrase trong hồng cầu trong huyết tương phản ứng chậm
hơn khoảng 5000 lần vì có rất ít enzym CA.
- Kết hợp với protein huyết tương (chiếm một tỷ lệ rất ít) theo phản ứng carbamit
2.3. Dạng Bicarbonat.
Khi máu từ động mạch đến tổ chức do sự chênh lệch phân áp của CO2 , CO2 từ
tổ chức sẽ khuếch tán qua mao mạch đi vào huyết tương dưới dạng hòa tan làm phân áp
CO 2 trong huyết tương tăng lên đạt giá trị khoảng 46mmHg và CO 2 sẽ đi vào hồng cầu.
Ở đó khoảng 20% CO 2 sẽ kết hợp với Hb tạo thành HbCO 2 , còn khoảng 75% kết hợp
với nước dưới tác dụng của enzym carbonic anhydrase tạo thành H2 CO3 , H2 CO3 sẽ
phân ly tạo thành HCO3 rời hồng cầu đi ra huyết tương, HCO3 sẽ kết hợp với các ion
Na +và K+ để tạo nên dạng vận chuyển chủ yếu Bicarbonat. Dung tích của CO 2 tăng
lên, chứa khoảng 51ml/100ml máu. Trở thành máu tĩnh mạch rời tổ chức đến phổi.

79
Hình 6.12. Sơ đồ quá trình vận chuyển CO2 từ tổ chức đến phổi.
Máu nhả CO 2 ở phổi:
Khi máu tĩnh mạch đến phổi, do chênh lệch phân áp CO2 , CO2 hòa tan trong
huyết tương sẽ khuếch tán qua màng hô hấp đi vào phế nang làm phân áp CO2 trong huyết
tương giảm xuống, lúc đó HbCO 2 sẽ phân ly và CO 2 đi ra huyết tương rồi đến phế nang,
đồng thời trong huyết tương có Bicarbonat sẽ phân ly và HCO3 đi vào hồng cầu. Ở đó
HCO3 kết hợp với H+ tạo nên H2CO3 , H2CO3 bị khử nước và CO 2 đi ra huyết tương
để vào phế nang.
V. QUÁ TRÌNH ĐIỀU HÒA HÔ HẤP.
Nói chung, hô hấp là một quá trình tự động do một trung tâm thần kinh đặc biệt
điều khiển, đó là trung tâm hô hấp.
Tuy nhiên để hoạt động của hô hấp đủ nhu cầu về oxy của cơ thể trong những
trạng thái khác nhau, hoạt động của trung tâm hô hấp cần phải được điều chỉnh. Quá trình
điều chỉnh hoạt động của trung tâm hô hấp để hô hấp phù hợp với từng hoàn cảnh gọi là
quá trình điều hòa hô hấp.
Điều hòa hô hấp được thực hiện theo hai cơ chế đó là: cơ chế thể dịch và cơ chế
thần kinh.
1. Trung tâm hô hấp:
Trung tâm hô hấp là những nhóm tế bào thần kinh đối xứng hai bên và nằm rãi rác
ở hành não và cầu não. Mỗi bên có 3 nhóm điều khiển hô hấp của nửa lồng ngực cùng bên.

80
Hình 6.13. Cấu tạo và hoạt động của trung tâm hô hấp.
2. Điều hòa hô hấp theo cơ chế thể dịch
Yếu tố tham gia điều hòa hô hấp bằng thể dịch quan trọng nhất là CO 2 , kế đến là
ion H+, còn oxy không có tác động trực tiếp lên trung tâm hô hấp mà gián tiếp qua các
cảm thụ hoá ở ngoại vi.
- Điều hoà hô hấp do nồng độ CO2 máu:
Nồng độ CO2 máu đóng vai trò rất quan trọng. Khi nồng độ CO2 máu tăng sẽ tác
dụng kích thích hô hấp theo 2 cơ chế:
- CO2 kích thích trực tiếp lên các receptor hóa học ở ngoại vi, từ đây có luồng
xung động đi lên kích thích vùng hít vào làm tăng hô hấp.
- CO2 thích thích gián tiếp lên receptor hoá học ở hành não thông qua H+ : CO2
đi qua hàng rào máu não vào trong dịch kẽ. Ở đó CO2 hợp với nước tạo thành H2CO3
, H2CO3 sẽ phân ly và H+ sẽ kích thích lên trung tâm nhận cảm hóa học nằm ở hành não,
từ đây có luồng xung động đi đến kích thích vùng hít vào làm tăng thông khí. Vì CO2 đi
qua hàng rào máu não rất dễ dàng nên cơ chế gián tiếp này đóng vai trò quan trọng.
Nồng độ CO2 bình thường ở trong máu có tác dụng duy trì hoạt động của trung
tâm hô hấp.
Khi nồng độ CO2 giảm thấp dưới mức bình thường sẽ ức chế vùng hít vào gây
giảm thông khí và có thể ngừng thở. Điều hoà hô hấp của CO 2 thông qua H+.
Khi nhiễm toan, nồng độ CO2 máu tăng sẽ kích thích gây tăng cường hô hấp, mục
đích để tăng thải CO2 . Khi nhiễm kiềm, nồng độ CO2 máu giảm sẽ ức chế làm giảm hô
hấp, mục đích để giữ CO2 lại.
- Điều hoà hô hấp do nồng độ H+ máu. Khi H+ tăng lên sẽ kích thích làm tăng hô
hấp theo 2 cơ chế :
+ Kích thích trực tiếp lên các receptor hóa học ở ngoại vi.
+ Kích thích trực tiếp lên receptor hóa học ở hành não, tuy nhiên, tác dụng này của
H+ yếu hơn so với CO2 vì ion H+ khó đi qua hàng rào máu dịch não tuỷ.
Tác dụng của H+ cũng giúp cho bộ máy hô hấp có chức năng điều hòa thăng bằng
toan kiềm cho cơ thể.
81
- Điều hoà hô hấp do nồng độ O2 máu: Bình thường, nồng độ O2 máu không có
tác dụng điều hòa hô hấp, chỉ tác động đến hô hấp khi phân áp trong máu giảm rất thấp (<
60 mm Hg ) trong một số điều kiện bệnh lý hoặc vận cơ mạnh, khi đó, nó sẽ tác động vào
các receptor hóa học ở ngoại vi làm tăng thông khí.
3. Điều hòa hô hấp theo cơ chế thần kinh
3.1. Xung động thần kinh từ cảm thụ quan ngoại biên
Khi kích thích ngoài da như vỗ nước lạnh, gây đau có thể làm tăng thông khí. Các
receptor nhận cảm bản thể ở khớp, gân, cơ cùng với những kích thích từ vỏ não đã kích
thích trung tâm hô hấp làm tăng thông khí rất sớm và mạnh.
3.2. Xung động từ các trung tâm cao hơn
3.2.1. Trung tâm nuốt ở hành não:
Khi trung tâm nuốt hưng phấn sẽ phát xung động đến ức chế vùng hít vào. Vì vậy,
khi nuốt chúng ta không thở, mục đích để thức ăn không đi lạc vào đường hô hấp.

3.2.2. Vùng dưới đồi:


Khi thân nhiệt tăng lên sẽ kích thích vào vùng dưới đồi, từ đây sẽ phát sinh luồng
xung động đi đến kích thích vùng hít vào làm tăng thông khí, giúp thải nhiệt.
3.2.3. Vỏ não:
Vỏ não có thể điều khiển được trung tâm hô hấp, vì vậy ta có thể hô hấp chủ động.
Điều này có ý nghĩa quan trọng trong luyện tập. Khi vỏ não bị ức chế (ngủ, gây mê...), hoạt
động hô hấp giảm xuống. Xúc cảm, sợ hãi cũng làm thay đổi hô hấp, có khi gây ngừng
thở.
3.3. Dây thần kinh X
Phản xạ thở ra do các cảm thụ căng giãn nằm ở thành tiểu phế quản và phế quản
truyền về qua dây X chỉ xảy ra khi thể tích khí lưu thông trên 1,5 lít do đó đây là một phản
xạ bảo vệ phế nang khỏi bị căng phồng hơn là cơ chế điều hoà nhịp bình thường.

LƯỢNG GIÁ:
1. Anh (chị) hãy trình bày đặc điểm hình thái-chức năng của bộ máy hô hấp?
2. Anh (chị) hãy trình bày chức năng thông khí phổi?
3. Anh (chị) hãy trình bày ý nghĩa của một số thông số thăm dò chức năng thông khí
phổi?
4. Anh (chị) hãy trình bày chức năng trao đổi khí ở phổi?
5. Anh (chị) hãy trình bày quá trình vận chuyển khí O2 và CO2
6. Mô tả được hoạt động của trung tâm hô hấp và các yếu tố tham gia điều hoà hô hấp?

82
Bài 7
SINH LÝ TIÊU HÓA
MỤC TIÊU:
1. Trình bày được chức năng sinh lý của bộ máy tiêu hóa.
2. Trình bày được quá trình tiêu hóa của bộ máy tiêu hóa.
3. Trình bày được quá trình hấp thu của bộ máy tiêu hóa.
4. Trình bày được chức năng sinh lý học của gan.

NỘI DUNG:
I. CẤU TẠO CHUNG CỦA HỆ TIÊU HÓA.
Bộ máy tiêu hoá gồm ống tiêu hoá và các tuyến tiêu hoá. Ống tiêu hoá bao gồm
miệng, họng, thực quản, dạ dày, ruột non (tá tràng, hỗng tràng, hồi tràng), ruột già (manh
màng, đại tràng lên, đại tràng ngang, đại tràng xuống, đại tràng sigma, trực tràng và ống
hậu môn). Các tuyến tiêu hoá gồm các tuyến nước bọt, tuyến tụy ngoại tiết và hệ thống
mật (gan, ống mật, túi mật).
Bộ máy tiêu hoá cung cấp cho cơ thể các chất dinh dưỡng thiết yếu. carbohydrat,
protein và mỡ trong thức ăn được phân giải thành những phân tử đơn giản. Các phân tử
này cùng với nước, các chất điện giải và vitamin được hấp thu qua các tế bào biểu mô của
niêm mạc ruột non vào máu hoặc bạch huyết, sau đó được máu đưa đến tất cả các tế bào
của cơ thể. Bộ máy tiêu hoá có một số chức năng sau:
- Chức năng vận động: Là những vận động cơ học trong hệ thống tiêu hoá chủ yếu
do sự co và giãn của các cơ trơn ở thành ống. Vận động đẩy có tác dụng đẩy thức ăn từ
miệng xuống hậu môn. Vận động nhào trộn có tác dụng nghiền nát thức ăn thành những
hạt nhỏ để dễ dàng được tiêu hoá và hấp thu. Co và giãn trương lực của các cơ thắt chia
ống tiêu hoá thành các ngăn và giữ cho thức ăn chỉ đi theo một chiều.
- Chức năng bài tiết: Các tế bào của ống tiêu hoá và các tuyến tiêu hoá bài tiết các
dịch gồm nước, các chất điện giải, chất nhày, enzym và nhiều chất khác vào lòng ống tiêu
hoá. Sự bài tiết này vừa có tác dụng tiêu hoá thức ăn vừa có tác dụng bảo vệ ống tiêu hoá.
- Chức năng tiêu hoá: Tiêu hoá là sự phân giải thức ăn thành những phân tử đơn
giản có thể hấp thu được. Dưới tác dụng của các enzym tiêu hoá, carbohydrat được phân
giải thành monosaccarid, protein thành tripeptid, dipepid và các acid amin; triglycerid
thành acid béo và monoglycerid.
- Chức năng hấp thu: Là sự vận chuyển của thức ăn đã được tiêu hoá qua các tế bào
biểu mô của ống tiêu hoá (chủ yếu là ruột non) vào máu và bạch huyết theo những cơ chế
khác nhau.
- Tất cả chức năng trên được điều hòa theo cơ chế thần kinh và hormone. Trong
từng đoạn ống tiêu hóa, ba chức năng trên cùng phối hợp hoạt động để vận
chuyển, tiêu hóa và hấp thu thức ăn.

83
Hình 7.1. Giải phẫu hệ tiêu hóa.
- Bộ máy tiêu hóa gồm ống tiêu hóa và các tuyến tiêu hóa. Ống tiêu hóa bắt đầu từ
miệng rồi đến thưc quản, dạ dày, ruột non, ruột già, và kết thúc là hậu môn. Các tuyến tiêu
hóa gồm tuyến nước bọt, tuyến tụy ngoại tiết và gan bài tiết mật.
- Bộ máy tiêu hóa cung cấp liên tục cho cơ thể các chất dinh dưỡng, vitamin, chất
điện giải và nước thông qua các chức năng sau đây:
+ Chức năng cơ học: vận chuyển, nghiền nát và nhào trộn thức ăn với các dịch
tiêu hóa.
+ Chức năng hóa học: Các tuyến tiêu hóa bài tiết các dịch để tiêu hóa thức ăn
thành các dạng đơn giản.
+Chức năng hấp thu: Đưa thức ăn được tiêu hóa từ ống tiêu hóa vào máu tuần
hoàn.
- Tất cả chức năng trên được điều hòa theo cơ chế thần kinh và hormone. Trong
từng đoạn ống tiêu hóa, ba chức năng trên cùng phối hợp hoạt động để vận
chuyển, tiêu hóa và hấp thu thức ăn.
II. QUÁ TRÌNH TIÊU HÓA.
1. Tiêu hóa ở miệng và thực quản
Miệng và thực quản là hai đoạn đầu của ống tiêu hóa, chúng có chức năng tiêu hóa
sau:
- Tiếp nhận và nghiền xé thức ăn thành nhiều mảnh nhỏ.
84
- Đưa thức ăn xuống đoạn cuối của thực quản sát ngay phía trên tâm vị của dạ dày.
- Phân giải tinh bột chín.
Để thực hiện các chức năng đó, miệng và thực quản có các hoạt động chức năng
sau:
- Nhai
- Bài tiết nước bọt
- Nuốt .
Các hiện tượng cơ học ở miệng: Nhai và nuốt
1.1. Nhai:
- Răng cửa để cắt, răng hàm để nghiền. Các cơ hàm khi cùng làm việc sẽ làm cho
hai hàm răng khít lại (cắn răng). Hầu hết các cơ nhai đều do nhánh vận động của dây V chi
phối. Trung tâm nhai nằm ở thân não.
- Phản xạ nhai diễn ra như sau: Thức ăn ép vào miệng gây ức chế các cơ nhai làm
hàm dưới trễ xuống và làm căng các cơ hàm, các cơ hàm co lại, hàm dưới nâng lên làm
hai hàm răng khít lại đồng thời ép viên thức ăn vào miệng, các cơ nhai lại bị ức chế…, cứ
như thế động tác nhai được lặp đi lặp lại.
- Nhai rất quan trọng đối với sự tiêu hoá của thức ăn vì các enzym tiêu hoá chỉ tác
dụng trên bề mặt của các phần tử thức ăn. Sự nghiền thức ăn thành những phần tử nhỏ rồi
trộn lẫn với nước bọt vừa làm tăng diện tích tiếp xúc của thức ăn với enzym tiêu hoá vừa
làm cho thức ăn được vận chuyển dễ dàng mà không làm tổn thương ống tiêu hoá. Riêng
đối với rau quả, nhai còn quan trọng ở chỗ nó phá vỡ màng bọc cellulose để những phần
dinh dưỡng ở bên trong có thể được tiêu hoá và hấp thu. Những người không có răng
thường không thể ăn được thức ăn khô.
1.2. Nuốt:
Nuốt là một động tác nửa tuỳ ý, nửa tự động có cơ chế phức tạp, được chia làm ba
giai đoạn:
- Giai đoạn nuốt có ý thức: Viên thức ăn được đặt trên lưỡi, lưỡi cử động lên trên
và ra sau để đẩy thức ăn vào họng. Bắt đầu từ đây, nuốt trở thành phản xạ tự động.
- Giai đoạn họng không có ý thức: Viên thức ăn kích thích vùng nhận cảm nuốt ở
quanh vòm họng, đặc biệt trên các cột hạnh nhân. Xung động truyền về trung tâm nuốt ở
hành não theo các sợi cảm giác của dây tam thoa, dây IX. Từ trung tâm, xung động theo
các dây thần kinh V, IX, X và XII đến họng và thực quản gây co các cơ của họng theo
trình tự sau:
+ Họng mềm bị kéo lên trên để đóng lỗ mũi sau, ngăn sự trào ngược thức ăn
vàokhoang mũi.
+ Các nếp gấp của vòm họng ở hai bên được kéo vào giữa tạo thành một rãnh dọc
để thức ăn qua đó vào họng sau. Rãnh này không cho những thức ăn hoặc vật có kích thước
lớn đi qua.
+ Các dây thanh âm nằm sát cạnh nhau, thanh quản bị kéo lên trên và ra trước bởi
các cơ cổ. Động tác này cùng với sự có mặt của các dây chằng làm cho nắp thanh quản bị
đưa ra sau che kín thanh môn, ngăn không cho thức ăn đi vào khí quản.
+ Thanh quản bị kéo lên trên cũng làm mở rộng khe thực quản, cơ thắt họng, thực
quản giãn ra, đồng thời toàn bộ cơ thành họng co lại đẩy thức ăn từ họng vào thực quản.
Toàn bộ giai đoạn này kéo dài từ 1 đến 2 giây.
- Giai đoạn thực quản: Chức năng chủ yếu của thực quản là đưa thức ăn từ họng
vào dạ dày nhờ các sóng nhu động. Thời gian thức ăn di chuyển trong thực quản khoảng 8

85
đến 10 giây. Nếu người ta ăn ở tư thế đứng thì thức ăn sẽ được chuyển nhanh hơn (chỉ mất
khoảng 5 đến 8 giây) do tác dụng của trọng lực kéo thức ăn xuống.
- Các sóng nhu động của thực quản được kiểm soát bởi dây thần kinh số IX, dây X
và đám rối thần kinh Auerbach ở thực quản.
- Khi sóng nhu động của thực quản đến gần dạ dày, cơ thắt dạ dày – thực quản giãn
ra, đồng thời với sự giãn của phần trên dạ dày, sóng nhu động ở phía sau viên thức ăn đẩy
nó vào dạ dày. Bình thường cơ thắt dạ dày – thực quản ở trạng thái co trương lực để ngăn
cản sự trào ngược của thức ăn acid từ dạ dày lên thực quản.
1.3. Vai trò của nước bọt:
Nước bọt có nhiều tác dụng:
- Tác dụng tiêu hoá: Enzym amylase nước bọt có tác dụng phân giải tinh bột chín
thành đường maltose, maltotriose và oligosaccarid. pH tối thuận của amylase nước bọt là
7. Khi thức ăn vào dạ dày, do một lượng lớn thức ăn không thể được trộn lẫn ngay với acid
của dạ dày nên amylase nước bọt vẫn có tác dụng trong dạ dày và enzym này có thể thuỷ
phân tới 75% lượng tinh bột chín ăn vào.
- Nước bọt làm ẩm ướt, bôi trơn miệng và thức ăn tạo điều kiện cho việc nuốt và
nếm được thực hiện dễ dàng.
- Vệ sinh răng miệng: Trong miệng có rất nhiều loại vi khuẩn, chúng dễ dàng huỷ
hoại các mô và có thể gây sâu răng. Nước bọt chống lại quá trình huỷ hoại này vì nước bọt
chảy sẽ cuốn đi vi khuẩn gây bệnh cũng như nguồn thức ăn cung cấp cho sự chuyển hoá
của chúng. Nước bọt cũng chứa một số chất giết vi khuẩn (như ion thyocyanat, lysozym)
và chứa kháng thể tiêu diệt vi khuẩn ở miệng, kể cả những vi khuẩn gây sâu răng. Nước
bọt còn có tác dụng trung hoà acid do vi khuẩn ở miệng giải phóng ra hoặc acid trào ngược
từ dạ dày lên miệng.
- Nước bọt giúp cho sự nói vì nó làm cho môi, lưỡi cử động dễ dàng.
1.4. Điều hoà bài tiết nước bọt:
- Tuyến nước bọt là loại tuyến tiêu hoá duy nhất không chịu ảnh hưởng của các
hormon tiêu hoá. Chúng chỉ chịu sự điều hoà của thần kinh tự chủ chủ yếu là thần kinh
phó giao cảm. Trung tâm kiểm soát sự bài tiết nước bọt là các nhân nước bọt nằm ở giữa
cầu não và hành não. Các kích thích gây tăng bài tiết nước bọt là nhai, ngửi hoặc nếm thức
ăn (phản xạ không điều kiện). Bài tiết nước bọt cũng tăng lên khi ta nghĩ đến một món ăn
nào đó (phản xạ có điều kiện). Bài tiết nước bọt giảm khi ngủ, mệt mỏi, sợ hãi hoặc bị mất
nước. Vị chua làm nước bọt tăng bài tiết gấp 8 đến 20 lần bình thường. Sự có mặt của các
vật trơn nhẵn trong miệng cũng làm tăng tiết nước bọt. Nước bọt cũng được bài tiết nhiều
khi ta nuốt phải những chất kích thích để giúp pha loãng hoặc trung hoà các chất đó trong
ống tiêu hoá.
- Kích thích các sợi thần kinh phó giao cảm (dây VII, dây IX) làm tăng bài tiết nước
bọt loãng giầu chất điện giải và amylase nước bọt.
- Nếu cắt các dây phó giao cảm đi đến tuyến nước bọt, các tuyến nước bọt sẽ bị teo
đi. Nhưng cắt dây thần kinh giao cảm không làm ảnh hưởng đến kích thước của tuyến.
- Kích thích sợi giao cảm làm tăng bài tiết nước bọt giầu chất nhày, khối lượng
nước bọt tăng ít hơn so với kích thích thần kinh phó giao cảm. Ngay sau khi kích thích
giao cảm, lưu lượng máu giảm nhưng dần dần lưu lượng máu sẽ tăng lên do sự ứ đọng của
các chất chuyển hoá gây giãn mạch.
1.5. Kết quả tiêu hoá ở miệng:

86
- Nhờ nhai và bài tiết nước bọt, thức ăn được cắt, nghiền và trộn lẫn với nước bọt
thành viên thức ăn mềm, trơn rồi được lưỡi đưa xuống họng vào thực quản. Về mặt hoá
học, dưới tác dụng của amylase nước bọt, một số tinh bột được chuyển thành đường
maltose và maltotriose, vì thế khi ăn chất bột nếu ta nhai kỹ sẽ thấy có vị ngọt. Amylase
nước bọt tiếp tục thuỷ phân tinh bột ở dạ dày cho đến khi thức ăn ngấm acid dưới tác dụng
của dịch vị.
- Ngoài ra cũng nên lưu ý là do nồng độ ion K+ trong nước bọt cao gấp nhiều lần
so với trong huyết tương nên trong một số tình trạng bệnh lý nước bọt bị mất khỏi cơ thể
trong một thời gian dài, người ta bị mất nhiều ion K+ làm cho nồng độ ion K+ huyết tương
giảm có thể gây liệt.
- Chứng khô miệng (xerostomia) là triệu chứng do giảm hoặc không bài tiết nước
bọt. Một số thuốc, đặc biệt là thuốc chống trầm cảm với tác dụng anticholinergic có thể
gây chứng khô miệng. Bệnh nhân bị khô miệng thường nuốt khó, nói khó và bị rối loạn vị
giác, dễ bị viêm niêm mạc miệng và sâu răng.
2. Tiêu hóa ở dạ dày.
Dạ dày là đoạn giữa của ống tiêu hóa, phía trên thông với thực quản qua tâm vị,
phía dưới thông với ruột non thông qua môn vị, được chia làm ba phần: đáy, thân
và hang vị.

Hình 7.2. Cấu tạo của dạ dày.


Dạ dày có hai chức năng: chứa đựng thức ăn, tiếp tục tiêu hóa sơ bộ thức ăn.
2.1. Chức năng chứa đựng thức ăn của dạ dày:
- Do dạ dày là đoạn phình to nhất của ống tiêu hóa và cơ của nó rất đàn hồi, nên dạ
dày có khả năng chứa đựng rất lớn đến vài lít.
- Đến cuối bữa ăn, thức ăn được chứa ở vùng thân dạ dày một cách có thứ tự. Thức
ăn vào trước nằm xung quanh và tiếp xúc với niêm mạc của dạ dày, thức ăn vào sau nằm
ở chính giữa.

87
- Do cách sắp xếp thức ăn như vậy nên giai đoạn đầu sau khi ăn, trong dạ dày có
hai quá trình tiêu hóa thức ăn:
+ Thức ăn nằm xung quanh đã ngấm dich vị và được dịch vị tiêu hóa.
+ Thức ăn ở giữa chưa ngấm dịch vị, pH còn trung tính nên amylase nước bọt còn
tiếp tục phân giải tinh bột chín thêm một thời gian nữa cho đến khi thành phần thức ăn ở
giữa cũng ngấm dịch vị thì amylase nước bọt mới ngừng hoạt động.
2.2. Hoạt động cơ học của dạ dày:
- Nhu động dạ dày: Khi thức ăn vào dạ dày thì nhu động bắt đầu xuất hiện, đó là
những làn sóng co bóp lan từ vùng thân đến vùng hang vị, khoảng 15-20 giây có một lần,
càng đến vùng hang nhu động càng mạnh. Nhu động của dạ dày có hai tác dụng:
+ Nghiền nhỏ thức ăn thêm nữa và trộn đều thức ăn với dịch vị để tạo thành nhũ
trấp.
+ Đẩy nhũ trấp nằm ở xung quanh xuống hang vị và ép vào khối nhũ trấp này một
áp suất lớn để mở môn vị, đẩy nhũ trấp xuống tá tràng.
2.3. Bài tiết dịch vị:

Hình 7.3. Sơ đồ quá trình bài tiết của dạ dày.

- Dịch vị là dịch tiêu hóa của dạ dày do các tuyến niêm mạc của dạ dày bài tiết, tùy
thành phần dịch tiết có thể chia tuyến này thành hai nhóm:
+ Tuyến ở vùng tâm vị và môn vị bài tiết chất nhầy.e
+ Tuyến ở vùng thân là tuyến tiêu hóa chính của dạ dày gồm ba loại tế bào sau:
 Tế bào chính bài tiết pepsinogen và lipase.
 Tế bào viền bài tiết HCl và yếu tố nội.
 Tế bào cổ tuyến bài tiết chất nhầy.
2.4. Thành phần và tác dụng của dịch vị:
- Pepsin: Là men tiêu hóa protid được bài tiết dưới dạng chưa hoạt hóa là
pepsinogen.
- Lipase dịch vị: Là men tiêu hóa lipid hoạt động trong môi trường acid, có tác
dụng thủy phân triglycerid đã được nhũ tương hóa sẵn trong thức ăn thành
glycerol và acid béo.
88
- Chymosin (Prezure): Là men tiêu hóa sữa, có vai trò quan trọng ở những trẻ em
bú mẹ.
- HCl: Không phải là men tiêu hóa nhưng đóng vai trò rất quan trọng trong quá
trình tiêu hóa vì nó có các tác dụng sau đây:
+ Làm tăng hoạt tính của men pepsin.
+ Thủy phân cellulose của rau non.
+ Sát khuẩn, tiêu diệt các vi khuẩn từ ngoài vào theo thức ăn để tránh nhiễm trùng
đường tiêu hóa.
+ Ngoài ra còn góp phần vào cơ chế đóng mở tâm vị và môn vị.
- Các yếu tố nội: Do tế bào viền bài tiết, là một chất cần thiết cho sự hấp thu
VitaminB12 trong ruột non.
- HCO3: Do tế bào niêm mạc dạ dày bài tiết, có tác dụng bảo vệ niêm mạc dạ dày
thông qua hai cơ chế:
+ Trung hòa một phần HCl trong dịch vị khi có tình trạng tăng tiết acid.
+ Liên kết với chất nhầy tạo thành hàng rào bảo vệ niêm mạc dạ dày.
- Chất nhầy: Có bản chất là glycoprotein được tiết ra từ các tuyến môn vị, tâm vị,
tế bào cổ tuyến của các tuyến vùng thân và từ toàn bộ tế bào niêm mạc dạ dày. Chất nhầy
liên kết với HCO3 nhằm bảo vệ niêm mạc dạ dày.
2.5. Điều hòa bài tiết dịch vị:
Dịch vị được bài tiết do hai cơ chế điều hòa: thần kinh và thể dịch
- Cơ chế thần kinh: Có hai hệ thống điều hòa tiết dịch vị:
+ Thần kinh nội tại: Là các sợi thần kinh của đám rối Meissner nằm ngay dưới niêm
mạc dạ dày, đám rối này làm bài tiết dịch vị dưới tác dụng kích thích của thức ăn vào dạ
dày hoặc từ những kích thích của thần kinh trung ương.
+ Thần kinh trung ương: Là dây thần kinh X, làm bài tiết dịch vị dưới tác dụng kích
thích của hai loại phản xạ, phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện.
- Cơ chế thể dịch: Thông qua một số chất sau:
Có nhiều yếu tố điều hòa bài tiết dịch vị qua cơ chế thể dịch:
+ Gastrin: Là một hormon do tế bào G vùng hang dạ dày bài tiết dưới tác dụng kích
thích của dây X hoặc của các sản phẩm tiêu hóa protid trong dạ dày (pepton, proteose).
Ngoài ra, khi sức căng của thành dạ dày tăng lên cũng kích thích bài tiết gastrin. Sau khi
bài tiết, gastrin theo máu đến vùng thân dạ dày, kích thích các tuyến bài tiết acid
HCl và pepsinogen. Khi thức ăn trong vùng hang quá acid sẽ ức chế bài tiết gastrin [feed
back (-)]
Trong điều trị ngoại khoa bệnh loét dạ dày, người ta thường cắt kèm thêm vùng
hang (nơi tiết gastrin), để làm giảm bài tiết acid HCl.
+ Gastrin-like: Là một hormon do niêm mạc tá tràng và tụy nội tiết bài tiết, tác dụng
tương tự gastrin. Khi bệnh nhân bị u tụy, các tế bào khối u tăng cường bài tiết gastrin-like
dẫn đến tăng bài tiết acid HCl và pepsin gây ra loét dạ dày tá tràng ở nhiều chỗ (hội chứng
Zollinger-Ellison). Để điều trị, phải cắt bỏ khối u.
+ Histamin: Là một sản phẩm chuyển hóa từ histidin của tế bào niêm mạc dạ dày.
Histamin kích thích các thụ thể H2 của tế bào viền (H2-receptor) làm tăng tiết acid
HCl. Vì vậy, trong điều trị loét dạ dày, người ta sử dụng các loại thuốc ức chế H2-
receptor để làm giảm tác dụng tiết acid HCl của histamin (ví dụ: cimetidin, ranitidin,
famotidin...).
+ Glucocorticoid: Là hormone của vỏ thượng thận có tác dụng kích thích bài tiết

89
acid HCl và pepsin đồng thời ức chế bài tiết chất nhầy. Vì vậy, ở những người có
tình trạng căng thẳng thần kinh kéo dài (stress tâm lý) do có tình trạng tăng tiết
glucocorticoid nên thường bị loét dạ dày. Trong điều trị, chống chỉ định dùng các thuốc
thuộc nhóm glucocorticoid (Dexamethason, Prednisolon...) cho những bệnh nhân bị loét
dạ dày hoặc có tiền sử loét dạ dày.
+ Prostaglandin E2: Là một hormon của tế bào niêm mạc dạ dày có tác dụng ức chế
bài tiết acid HCl và pepsin đồng thời kích thích bài tiết chất nhầy, nó được xem là một
yếu tố bảo vệ niêm mạc dạ dày.Vì vậy, trong điều trị loét dạ dày, người ta sử dụng các
loại thuốc dẫn xuất từ prostaglandin (ví dụ: cytotec) hoặc các thuốc có tác dụng làm tăng
bài tiết prostaglandin E2 của dạ dày (ví dụ: colloidal bismuth subcitrate).
Ngược lại, các tác nhân ức chế bài tiết prostaglandin sẽ gây ra loét dạ dày, đó là
các thuốc giảm đau, chống viêm như: aspirin, voltaren, piroxicam, ibuprofen... Các
thuốc này chống viêm mạnh thông qua cơ chế giảm tổng hợp prostaglandin là một
tác nhân gây viêm tại ổ viêm nhưng cũng làm giảm tiết prostalandin E2 tại dạ dày
gây ra loét dạ dày. Các thuốc này phải chống chỉ định ở những bệnh nhân loét dạ dày.
2.6. Kết quả tiêu hóa ở dạ dày:
Nhờ hoạt động cơ học và hóa học của dạ dày, thức ăn được nghiền và trộn lẫn với
dịch vị thành một chất bán lỏng gọi là vị trấp trong đó có phần nhỏ protein được tiêu hóa
dở dang thành proteose (chuỗi dài) và pepton (chuỗi ngắn), một phần tinh bột chín
được tiêu hóa thành maltose, mỡ hầu như chưa bị phân giải.
3. Tiêu hóa ở ruột non:
Ruột non có chức năng hoàn tất việc tiêu hóa thức ăn, vì vậy đóng vai trò quan
trọng nhất.
Đặc điểm cấu tạo của ruột non rất thuận lợi cho quá trình tiêu hóa:
- Là đoạn dài nhất của ống tiêu hóa.
- Có nhiều dịch tiêu hóa đổ vào. Hệ thống men rất phong phú có khả năng phân
giải tất cả thức ăn thành dạng có thể hấp thu được.

Hình 7.4. Cấu tạo và quá trình tiêu hóa ở ruột non.
90
Để hoàn tất quá trình tiêu hóa, ruột non có các hoạt động chức năng sau:
3.1. Hoạt động cơ học của ruột non:
Ruột non có 4 hình thức hoạt động cơ học.
- Hoạt động co thắt: Có tác dụng chia nhũ trấp ra thành nhiều mảnh nhỏ để dễ ngấm
dịch tiêu hóa.
- Cử động quả lắc: Có tác dụng trộn đều nhũ trấp với dịch ruột để tăng tốc độ tiêu
hóa.
- Nhu động: Là những làn sóng co bóp lan từ đoạn đầu đến đoạn cuối của ruột non,
có tác dụng đẩy thức ăn di chuyển trong ruột.
- Phản nhu động ruột: Là những làn sóng co bóp ngược chiều với nhu động
nhưng xuất hiện thưa và yếu hơn nhu động. Phản nhu động có tác dụng phối hợp
với nhu động đẩy nhũ trấp di chuyển với tốc độ chậm để quá trình tiêu hóa và hấp
thu triệt để hơn.
3.2. Hoạt động bài tiết dịch ở ruột non:
- Dịch tiêu hóa ở ruột non rất phong phú vì được tiết ra từ ba nơi: tụy, mật và ruột
non.
- Bài tiết dịch tụy: Dịch tụy là sản phẩm của tụy ngoại tiết. Sau khi bài tiết, dịch
tụy theo ống tụy đổ vào tá tràng, số lượng khoảng 1lít - 1,5lít/ 24h. Trong dịch tụy có
những nhóm men tiêu hóa protid, lipid, glucid.
+ Nhóm men tiêu hóa protid: chymotrypsin, carboxypeptidase, trypsin
+ Nhóm men tiêu hóa lipid: lipase dịch tụy, phospholipase…
+ Nhóm men tiêu hóa glucid: amylase dịch tụy, maltase.
Bài tiết muối mật: Là muối kali hoặc natri của acid mật glycocholic và
taurocholic có nguồn gốc từ cholesterol. Muối mật là thành phần duy nhất trong
dịch mật có tác dụng tiêu hóa:
+ Nhũ tương hóa triglycerid để lipase trong ruột non có thể phân giải tất cả các
triglycerid trong thức ăn.
+ Giúp hấp thu các sản phẩm của lipid như acid béo, monoglycerid, qua đó cũng
giúp hấp thu các vitamin tan trong lipid như vitamin A, D, E, K. Thiếu muối mật sự hấp
thu của các chất này giảm rõ rệt.
+ Ngoài ra muối mật còn giúp cho cholesterol tan dễ trong dịch mật để
chống hình thành sỏi mật.
- Bài tiết của dịch ruột: Do các tế bào niêm mạc ruột và các tuyến nằm ngay trên
thành ruột bài tiết:
+ Tuyến Brunner: Bài tiết chất nhầy và HCO3 .
+ Tuyến Liberkuhn: Bài tiết nước.
+ Tế bào niêm mạc: Bài tiết men tiêu hóa.
Như vậy các tế bào niêm mạc ruột đóng vai trò rất quan trọng trong việc bài tiết
dịch ruột, còn các tuyến ruột chỉ bài tiết các chất phụ. Số lượng dịch ruột được bài tiết
khoảng 2-3lít/ 24h bao gồm:
+ Nhóm men tiêu hóa protid gồm: aminopeptidase, dipeptidase, tripeptidase.
+ Nhóm men tiêu hóa glucid gồm: amylase dịch ruột, maltase, sucrase,
lactase.
4. Tiêu hóa ở ruột già:
Chức năng chủ yếu của ruột già là hấp thu nước, các chất điện giải và giữ phân
trong ruột già cho đến khi phân được đẩy ra ngoài.

91
Mỗi ngày có khoảng 1000 đến 2000 ml nhũ trấp đẳng trương từ hồi tràng đi vào
ruột già. Ruột già hấp thu trên 90% lượng dịch để tạo ra khoảng 200 đến 250 ml chất phân
nửa rắn. Một số vitamin cũng được hấp thu ở ruột già, một số vitamin khác được các vi
khuẩn ruột già tổng hợp.
4.1. Các co bóp của ruột già:
Các co bóp của ruột già gồm co bóp nhào trộn và co bóp đẩy.
- Co bóp nhào trộn của ruột già tương tự như co bóp phân đoạn ở ruột non và diễn
ra như sau: Các cơ vòng của một đoạn ruột dài khoảng 2,5 cm co lại đồng thời với sự co
của ba dải cơ dọc của đoạn ruột đó. Sự co bóp phối hợp của cả cơ vòng và cơ dọc làm cho
các đoạn ruột không co phình ra phía ngoài giống như hình ảnh các túi nhỏ.
- Trên phim Xquang của ruột già người ta gọi đó là các rãnh ngang ruột già
(haustration). Co bóp rãnh ngang đạt cường độ mạnh trong vòng 30 giây rồi mất đi trong
60 giây tiếp theo, sau đó một co bóp rãnh ngang mới lại xuất hiện. Các co bóp này làm cho
thức ăn được nhào trộn và tiếp xúc với niêm mạc ruột già để làm tăng hấp thu.
- Co bóp đẩy (co bóp khối).
+ Ở ruột già, các sóng nhu động hiếm khi xảy ra. Tác dụng đẩy thức ăn ở manh
tràng và đại tràng lên là do co bóp rãnh ngang. Co bóp này cần khoảng thời gian từ 8 đến
15 giờ mới đẩy được nhũ trấp từ manh tràng đến đại tràng ngang. Từ đại tràng ngang đến
đại tràng sigma, tác dụng đẩy thức ăn do các co bóp khối đảm nhiệm.
+ Co bóp khối là một hình thức đặc biệt của nhu động diễn ra như sau: Đầu tiên
một vòng co bóp xuất hiện ở một điểm bị căng ra của đại tràng ngang rồi một đoạn ruột
dài khoảng 20 cm ở ngay phía dưới sẽ co bóp như một đơn vị ép chất phân bên trong thành
một khối và đẩy nó dọc theo ruột già.
- Co bóp khối mạnh lên trong khoảng 30 giây rồi giãn ra trong hai, ba phút tiếp
theo, sau đó một co bóp mới xuất hiện. Chuỗi co bóp khối chỉ hoạt động trong khoảng 10
phút đến nửa giờ. Nửa ngày hay một ngày sau chúng lại xuất hiện. Khi co bóp khối đẩy
phân vào trực tràng người ta có cảm giác muốn đại tiện.
- Sau bữa ăn, các co bóp khối được gia tăng nhờ các phản xạ dạ dày-ruột già hoặc
tá tràng - ruột già thông qua dây X. Sự kích thích của ruột già cũng có thể làm xuất hiện
các co bóp khối. Những người bị loét ruột già lúc nào cũng có co bóp khối làm họ luôn có
cảm giác muốn đại tiện.
4.2. Động tác đại tiện:
- Thông thường, ở trực tràng không có phân vì giữa đại tràng sigma và trực tràng
có một cơ thắt ở cách hậu môn khoảng 20 cm. Khi các co bóp khối đẩy phân vào trực tràng,
người ta muốn đại tiện do sự co phản xạ của trực tràng và sự giãn cơ thắt hậu môn.
- Sự đẩy liên tục của phân qua hậu môn bị cản lại do các cơ thắt hậu môn ở trạng
thái co trương lực. Có hai cơ thắt hậu môn: Cơ thắt trong là cơ trơn và cơ thắt ngoài (nằm
bao quanh cơ thắt trong) là cơ vân. Cơ này do dây thần kinh thẹn chi phối, tức là cơ chịu
sự kiểm soát có ý thức.
- Các phản xạ đại tiện gồm:
+ Phản xạ nội sinh: Khi phân vào trực tràng, thành trực tràng bị căng ra, các tín hiệu
kích thích truyền vào đám rối Auerbach, các sóng nhu động đi đến gần hậu môn ức chế cơ
thắt trong làm cơ này giãn ra. Nếu lúc ấy cơ thắt ngoài cũng giãn ra thì sẽ xẩy ra động tác
đại tiện. Những phản xạ nội sinh thường yếu và phải được tăng cường bằng phản xạ ngoại
sinh gọi là phản xạ tống phân phó giao cảm.

92
+ Phản xạ tống phân phó giao cảm: Khi dây thần kinh đến trực tràng bị kích thích,
các tín hiệu được truyền về tuỷ sống rồi theo các sợi phó giao cảm trong dây thần kinh
chậu đến đại tràng xuống, đại tràng sigma, trực tràng và hậu môn. Các tín hiệu phó giao
cảm này làm tăng các co bóp của ruột già và làm giãn các cơ thắt hậu môn, kết quả là
chuyển phản xạ nội sinh từ một phản xạ yếu, không hiệu quả thành một quá trình tống
phân rất mạnh. Những tín hiệu thần kinh truyền vào tuỷ sống còn gây ra các tác dụng khác
như hít sâu, đóng thanh môn, co cơ thành bụng để đẩy phân xuống đồng thời đẩy đáy chậu
xuống dưới và kéo cơ vòng hậu môn ra ngoài để tống phân ra (động tác rặn).
4.3. Sự bài tiết ở ruột già:
4.3.1. Bài tiết chất nhày:
- Niêm mạc ruột già không có nhung mao nhưng có nhiều hốc Lieberkuhn. Các tế
bào biểu mô chủ yếu là các tế bào nhày bài tiết chất nhày. Dịch ruột già cũng chứa một số
lượng lớn bicarbonat, ion này được vận chuyển tích cực từ máu qua các tế bào biểu mô
nằm giữa những tế bào nhày để vào ruột. Chất nhày được bài tiết khi thức ăn chạm vào các
tế bào nhày hoặc do tế bào nhày bị kích thích bởi phản xạ ruột tại chỗ hoặc do dây thần
kinh chậu (phó giao cảm).
- Chất nhày bảo vệ thành ruột khỏi bị trầy xước, khỏi tác hại của các vi khuẩn có
rất nhiều trong phân và làm cho phân dính lại với nhau. Bicarbonat làm cho dịch ruột càng
thêm kiềm, tạo ra một hàng rào chống lại các acid được hình thành trong phân.
4.3.2. Bài tiết nước và các chất điện giải:
- Khi một đoạn của ruột già bị kích thích (ví dụ như viêm ruột cấp), niêm mạc ruột
già bài tiết một số lượng lớn nước và các chất điện giải để pha loãng các yếu tố gây kích
thích và đẩy nhanh phân về phía trực tràng. Kết quả là bệnh nhân bị ỉa chảy, mất nước và
các chất điện giải. Nhưng ỉa chảy cũng giúp đẩy hết các yếu tố gây kích thích khỏi cơ thể
và làm bệnh nhân chóng khỏi bệnh.

4.3.3. Tác dụng của vi khuẩn ở ruột già


Rất nhiều vi khuẩn có mặt ở phần đầu ruột già. Dưới tác dụng của vi khuẩn, một số
vitamin được tạo ra như vitamin K, vitamin B12, thiamin, riboflavin. Một số khí cũng sinh
hơi trong ruột già. Vitamin K đặc biệt quan trọng vì lượng vitamin K trong thức ăn không
đủ để duy trì một quá trình đông máu thích hợp.
5. Vai trò và chức năng của màng bụng. (phúc mạc).
Phúc mạc là một màng liên tục gồm 2 phần:
- Phúc mạc thành: là phần phúc mạng lót mặt trong thành bụng.
- Phúc mạc tạng: là phần phúc mạc bao bọc mặt ngoài các tạng.
- Phần phúc mạc:
+ Nối giữa phúc mạc thành và phúc mạc tạng, treo các tạng thuộc ống tiêu hoá
vào thành bụng, trong có chứa cuống mạch máu, thần kinh của tạng gọi là mạc treo (mạc
treo dài, tạng rất di động)
+ Nối giữa tạng với tạng là mạc nối. (Mạc nối nhỏ nối từ mặt tạng của gan đến bờ
cong nhỏ của dạ dày và phần trên tá tràng, mạc nối lớn nối từ bờ cong lớn dạ dày đến đại
tràng ngang).
+ Nối giữa phúc mạc thành và phúc mạc tạng, chằng hay buộc các tạng không
thuộc ống tiêu hoá vào thành bụng, thường chứa ít mạch máu, thần kinh hơn mạc treo,
gọi là mạc chằng (mạc chằng ngắn, tạng kém di động).

93
+ Nối giữa phúc mạc thành và phúc mạc tạng lúc đầu, nhưng sau đó áp sát và dính
một phần phúc mạc tạng vào phúc mạc thành gọi là mạc dính.
- Vai trò và chức năng:
+ Bao phủ, che trở các tạng.
+ Nhờ đặc tính trơn láng giúp các tạng di động dễ dàng, làm giảm ma sát.
+ Đề kháng với sư nhiễm trùng; khi có ổ nhiễm trùng, phúc mạc có khuynh hướng
làm tường vây quanh để khu trú ổ nhiễm trùng.
+ Có khả năng hấp thu nhanh nhờ có diện tích rộng.
+ Chức năng phụ; dự trữ mỡ.
+ Phúc mạc là màng bán thấm hai chiều.
III. QUÁ TRÌNH HẤP THU.
1. Hấp thu ở miệng:
Miệng không hấp thu thức ăn nhưng có thể hấp thu thuốc, đặc biệt là các loại thuốc
giãn mạch vành để chống cơn đau thắt ngực như: Nitroglycerin, Nifedipin...
2. Hấp thu ở dạ dày:
Dạ dày có thể hấp thu đường, sắt, rượu và nước.
3. Hấp thu ở ruột non:
Quá trình tiêu hóa ở ruột non có vai trò rất quan trọng trong tiêu hóa. Hầu hết các
chất cần thiết cho cơ thể đều được đưa vào lòng ống tiêu hóa vào máu qua ruột non. Sở dĩ
như vậy là như do ruột non có những đặc điểm cấu tạo rất thuận lợi cho sự hấp thu:
+ Ruột non rất dài khoảng 3m, niêm mạc có nhiều nếp gấp, nhiều nhung mao và
vi nhung mao tạo nên diềm bàn chải có diện tích tiếp xúc lớn khoảng 300m2, bên
trong nhung mao có hệ thống mạch máu, bạch huyết và thần kinh rất thuận lợi cho sự hấp
thu.
+ Tế bào niêm mạc ruột non chứa nhiều yếu tố cần thiết cho sự hấp thu vật chất qua
màng như men, chất tải và năng lượng.
+ Tất cả các thức ăn đi xuống đến ruột non đều đươc phân giải thành những chất
dễ hấp thu được. Các chất được hấp thu ở ruột non bao gồm: glucid, protid, lipid, các
vitamin, các ion và nước.
IV. SINH LÝ TUYẾN TIÊU HÓA.
1. Sinh lý học gan:
1.1. Nhắc lại giải phẫu sinh lý của gan:
Gan là một cơ quan có nhiều chức năng quan trọng:
- Chức năng chuyển hóa
- Chức năng tạo mật
- Chức năng chống độc
- Chức năng nội tiết và một số chức năng khác.
- Chức năng bảo vệ.
Những chức năng này có liên quan mật thiết một cách chặc chẽ với đặc điểm
giải phẫu và tổ chức học của gan.
Gan là tạng lớn nhất trong cơ thể, nặng khoảng 2,4kg. Tế bào gan có nhiều ty lạp
thể và một hệ thống men rất hoàn chỉnh. Vì vậy, chúng hoạt động chuyển hóa rất mạnh.
1.2. Chức năng của gan:
1.2.1. Chức năng chuyển hóa:
- Chuyển hóa glucid: Glucid theo tĩnh mạch cửa về gan chủ yếu là glucose, còn
fructose, galactose sẽ được gan chuyển hóa thành glucose trước khi sử dụng.

94
- Chuyển hóa lipid: Gan tổng hợp acid béo từ glucid, protid và các sản phẩm thoái
hóa của lipid.
- Chuyển hóa protid: Gan vừa là cơ quan chuyển hóa cũng như dự trữ protid.
Chuyển hóa protid của gan diễn ra rất mạnh mẽ bao gồm hai quá trình: chuyển hóa axít
amin và tổng hợp protein.
1.2.2. Chức năng dự trữ:
Gan dự trữ cho cơ thể nhiều chất quan trọng như: máu, glucid, sắt và một số
vitamin A, D, B12 , trong đó quan trọng nhất là vitamin B12 .
1.2.3. Chức năng tạo mật:

Hình 7.5. Chu trình gan mật.


Mật là sản phẩm bài tiết của tế bào gan. Sau khi bài tiết, mật theo ống mật li ti đổ
vào ống mật của khoảng chủ. Từ đây mật theo ống gan phải và ống gan trái đổ vào ống
mật chung rồi theo ống túi mật đi đến chứa ở túi mật. Tại đây mật được cô đặc lại và dưới
tác dụng của một số kích thích, túi mật sẽ co bóp đưa mật vào tá tràng qua cơ vòng Oddi.
Trước khi vào tá tràng, mật được trộn lẫn với dịch tụy trong ống tụy chính.
1.2.4. Chức năng chống độc:
Gan được xem như là hàng rào bảo vệ cơ thể chống lại các sản phẩm độc xâm
nhập qua đường tiêu hóa, đồng thời làm giảm độc tính và thải trừ một số chất được tạo ra
trong quá trình chuyển hóa của cơ thể. Cơ chế chống độc của gan do cả tế bào Kupffer và
tế bào gan đảm nhiệm.
1.2.5. Chức năng nội tiết:
- Bài tiết hormone erythroprotein.
- Tham gia vào quá trình tạo dạng hoạt tính của Vitamine D.
1.2.6. Chức năng bảo vệ của gan:
Gan tham gia bảo vệ cơ thể bằng cách:
+ Bằng các phản ứng liên hợp nghĩa là gắn một chất có hại hoặc dẫn chất của nó
với một phân tử hoặc một nhóm hoá học khác để tạo thành một hợp chất bài xuất qua
nước tiểu.
* Liên hợp với sulfat (sulfoconjugaison): Nhiều hợp chất phenol kết hợp với
sulfat và được bài xuất dưới dạng sulfat ester.
* Liên hợp với glycin: Nhiều acid nhân thơm không được chuyển hoá trong cơ thể, phải
kết hợp với glycin để được bài xuất. Ví dụ acid benzoic được gan chuyển thành acid
hippuric; acid phenolacetic kết hợp với glutamin...
95
* Liên hợp với acid glucuronic: Thuốc hoặc hormon có nhóm OH- (alcohol hoặc phenol)
kết hợp với acid glucuronic để tạo thành glucuronid. Ví dụ, pregnanediol được gan
chuyển thành pregnanediol glucuronid và bài xuất ra nước tiểu.
* Liên hợp với acid acetic: Các acid amin nhân thơm kết hợp với acid acetic để tạo ra các
dẫn xuất acetyl tương ứng rồi được bài xuất, ví dụ sulfanilamid thành acetylsulfanilamid.
+ Bằng cách phá huỷ hoàn toàn: Nhiều chất lạ đối với cơ thể bị phá huỷ hoàn toàn
ở gan bằng phản ứng oxy hoá, ví dụ các alkaloid, strychnin, nicotin, các barbiturat tác
dụng ngắn bị oxy hoá một phần bị khử ở gan.

LƯỢNG GIÁ:
1. Anh (chị) hãy trình bày chức năng tiêu hóa ở miệng và thực quản?
2. Anh (chị) hãy trình bày chức năng tiêu hóa ở dạ dày?
3. Anh (chị) hãy trình bày chức năng tiêu hóa ở ruột non?
4. Anh (chị) hãy trình bày chức năng tiêu hóa ở ruột già?
5. Anh (chị) hãy trình bày chức năng hấp thu ở miệng và thực quản?
6. Anh (chị) hãy trình bày chức năng hấp thu của dạ dày, ruột non và ruột già?
7. Anh (chị) hãy trình bày chức năng của tuyến tiêu hóa chính (gan)?

96
Bài 8
SINH LÝ TIẾT NIỆU
MỤC TIÊU:
1. Trình bày được cấu tạo và chức năng của nephron.
2. Trình bày được quá trình lọc của cầu thận.
3. Trình bày được quá trình hấp thu và bài tiết một số chất ở ống thận.
4. Trình bày được chức năng nội tiết của thận.

NỘI DUNG:
I. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO HỆ TIẾT NIỆU.
1. Nhắc lại giải phẫu sinh lý của thận
Thận có nhiều chức năng quan trọng như: Điều hoà hằng tính nội môi bằng cách
điều hoà thể tích và thành phần dịch ngoại bào và điều hoà thăng bằng acid – base thông
qua chức năng bài tiết nước tiểu; Điều hòa sản sinh hồng cầu do bài tiết erythropoietin,
tham gia điều hoà huyết áp do tác dụng của renin; Thận còn tham gia vào quá trình chuyển
hoá vitamin D3 và chuyển hoá glucose.

Hình 8.1. Cấu tạo của thận


Hệ thống tiết niệu gồm hai thận, hai niệu quản, bàng quang và niệu đạo.
Thận bài tiết nước tiểu, qua hệ thống niệu quản, nước tiểu được dự trữ trong bàng
quang rồi được đào thải ra khỏi cơ thể qua niệu đạo.
Quá trình bài tiết nước tiểu bao gồm: Lọc, tái hấp thu, bài tiết và bài xuất.
- Đơn vị giải phẫu và chức năng của thận là nephron. Mỗi nephron đều có chức
năng tạo nước tiểu. Do đó khi mô tả chức năng của một nephron cũng là mô tả chức năng
của thận. Mỗi thận chứa khoảng từ 1- 1,3 triệu nephron.
- Nephron gồm cầu thận và ống thận.

97
- Máu đi vào cầu thận qua tiểu động mạch
đến và rời khỏi cầu thận bằng tiểu động
mạch đi. Cầu thận là một búi mao mạch
gồm trên 50 nhánh mao mạch song song.
Các mao mạch nối thông nhau và được
bao bọc trong bao Bowman. Ống thận gồm
ống lượn gần, quai Henle, ống lượn xa và
ống góp.
- Cầu thận và ống lượn gần nằm ở vùng vỏ
thận. Quai Henle nằm sâu trong khối thận. Một
số quai Henle đi vào tận đáy của vùng tủy thận.
Quai Henle gồm hai nhánh, nhánh xuống và
nhánh lên. Hình 8.2. Cấu tạo của nephon.
Thành của nhánh dưới và phần dưới của nhánh lên rất mỏng gọi là đoạn mỏng của
quai. Khi nhánh lên của quai Henle quay trở lại vùng vỏ thận thì nhánh ống trở nên dày
như phần khác của ống, đó là đoạn dày của quai. Ống lượn xa cũng nằm trong vùng vỏ
thận.Tại đây có khoảng tám ống lượn xa hợp lại thành ống góp vùng vỏ. Rồi ống góp rời
vùng vỏ đi sâu vào vùng tủy thận để trở thành ống góp vùng tủy. Sau đó các ống góp họp
lại thành những ống góp lớn hơn đi suốt qua vùng tủy song song các quai Henle. Các ống
góp lớn đổ vào tủy bể thận. Mỗi ống này nhận nước tiểu của 4000 nephron.

Hình 8.3. Chức năng hoạt động của nephon


2. Chức năng của nephron:
- Chức năng cơ bản của nephron là lọc sạch những chất có hại hoặc vô ích ra khỏi
huyết tương khi máu chảy qua thận. Đó là những sản phẩm cuối cùng của chuyển hóa như
urê, creatinine, acid uric... Nephron cũng lọc lượng ion thừa ra khỏi huyết tương.

98
- Khi máu qua cầu thận, khoảng 1/5 lượng huyết tương được lọc qua cầu
thận. Trong hệ thống ống, những sản phẩm có hại, không những không được hấp thu mà
còn được bài tiết từ huyết tương ra tế bào biểu mô rồi vào dịch ống. Ngược lại nước và
các chất điện giải, các chất chuyển hóa được tái hấp thu vào các mao mạch quanh ống.
3. Lưu lượng máu và áp suất tuần hoàn trong tuần hoàn thận
3.1. Lưu lượng máu qua thận:
- Ở người nặng 70kg, lưu lượng máu qua cả hai thận khoảng 1200ml/phút, lưu
lượng tim 5600ml/ phút, nên phân số lọc của cầu thận bình thường khoảng 21%.
3.2. Áp suất trong tuần hoàn thận:
Áp suất trong các động mạch nhỏ và tiểu động mạch đến vào khoảng
100mmHg giảm xuống còn 60mmHg trong mao mạch cầu thận, khi đến mao mạch quanh
ống thận, áp suất chỉ còn 13mmHg.
II. CHỨC NĂNG CỦA THẬN.
1. Quá trình lọc ở cầu thận.
1.1. Màng cầu thận và tính thấm của màng:
Màng cầu thận có cấu tạo gồm ba lớp:
+ Lớp tế bào nội mô mao mạch.
+ Màng đáy.
+ Lớp tế bào biểu mô phủ trên mặt ngoài của mao mạch.
- Tuy có nhiều lớp như vậy, nhưng tính thấm của màng cầu thận lớn hơn mao
mạch ở nơi khác từ 100- 500 lần, do cấu trúc đặc biệt của nó như sau:

Hình 8.4. Cấu tạo của màng lọc cầu thận.


- Lớp tế bào nội mô có hàng ngàn lỗ nhỏ gọi là các “cửa sổ”.
- Màng đáy là một mạng lưới của các sợi collagen và proteoglycan, lưới nay cũng
có những khoang rộng cho phép dịch lọc qua dễ dàng.
- Lớp tế bào biểu mô không liên tục và có hàng ngàn, hàng triệu chỗ lồi ra hình
ngón tay phủ trên mặt đáy. Những “ngón tay” này tạo ra những khe hở để dịch lọc qua.
1.2. Thành phần của dịch lọc:
Dịch lọc có thành phần tương tự như của huyết tương, nhưng có rất ít protein (vào
khoảng 0,03% protein, nghĩa là bằng 1/24 protein trong huyết tương).
Do nồng độ protein mang điện tích âm rất thấp nên nồng độ những anion không
phải protein như Cl¯, HCO3 trong dịch lọc cao hơn trong huyết tương khoảng 5%.
1.3. Lưu lượng lọc của cầu thận:
Lưu lượng lọc cầu thận là lượng dịch được tạo ra trong một phút của toàn bộ
nephron của cả hai thận. Ở người bình thường, lưu lượng này khoảng 125ml/phút.

99
Như vậy toàn bộ dịch lọc của cầu thận mỗi ngày vào khoảng 180lít, gấp hơn hai lần trọng
lượng của cơ thể.
2. Quá trình tái hấp thu và bài tiết ở ống thận
2.1. Tái hấp thu và bài tiết các chất ở ống lượn gần
2.1.1. Tái hấp thu ion Na +:
Na+ được hấp thu khoảng 65% ở ống lượn gần theo cơ chế như sau: Ở bờ bên và
bờ đáy của tế bào, Na+ được vận chuyển theo cơ chế tích cực nguyên phát vào dịch kẽ
nhờ Na+-K+-ATPase, điều này dẫn đến 2 hiện tượng:
 Nồng độ Na+ trong tế bào giảm xuống so với dịch trong lòng ống thận
 Do nồng độ Na+ trong tế bào giảm xuống nên điện thế trong tế bào cũng giảm
xuống thấp hơn điện thế dịch trong lòng ống.
2.1.2. Tái hấp thu glucose
Glucose được tái hấp thu hoàn ở phần đầu của ống lượn gần theo cơ chế
vận
chuyển tích cực thứ cấp cùng protein mang với Na+ như sau:
- Khi Na+ được vận chuyển theo cơ chế khuếch tán dễ dàng xuôi chiều bậc thang
điện hóa từ lòng ống thận vào trong tế bào, protein mang gắn với Na+ nhưng đồng thời nó
cũng gắn với glucose và vận chuyển đồng thời cả 2 chất đi qua bờ bàn chải vào bên trong
tế bào. Năng lượng vận chuyển glucose sinh ra từ cơ chế vận chuyển xuôi theo
chiều bậc thang nồng độ của Na+. Nhờ đó, glucose được vận chuyển ngược bậc thang nồng
độ vào trong tế bào.
- Khi nồng độ glucose thấp hơn 180 mg/100 ml huyết tương (180 mg%), ống lượn
gần sẽ tái hấp thu hết glucose trong dịch lọc. Vì vậy, glucose không xuất hiện trong nước
tiểu. Nhưng khi nồng độ glucose tăng cao hơn 180 mg%, ống lượn gần không thể hấp thu
hết glucose và glucose bắt đầu xuất hiện trong nước tiểu. Vì vậy, nồng độ glucose 180
mg% được gọi là ngưỡng đường của thận.
2.1.3. Tái hấp thu protein và acid amin
Acid amin được tái hấp thu theo cơ chế vận chuyển tích cực thứ cấp cùng với Na+
tương tự như tái hấp thu glucose.
Riêng protein được hấp thu theo cơ chế ẩm bào như sau: protein trong dịch lọc tiếp
xúc với tế bào biểu mô tại bờ bàn chải, màng tế bào lõm vào và đưa phân tử protein vào
bên trong tế bào. Tại đó, protein được phân giải thành các acid amin rồi đi vào dịch kẽ qua
màng đáy theo cơ chế khuếch tán dễ dàng. Quá trình vận chuyển này cũng cần năng lượng
nên đây cũng là một hình thức vận chuyển tích cực.
2.1.4. Tái hấp thu nước
Ống lượn gần có tính thấm đối với nước rất cao. Khi Na+ và glucose được tế bào
ống lượn gần tái hấp thu, nước cũng được tái hấp thu thụ động theo cơ chế thẩm thấu.
Khoảng 65% nước được tái hấp thu ở đây, tương đương 117 lít/24 giờ.
Còn lại khoảng 63 lít tiếp tục đi vào quai Henle, do nước được hấp thu tương ứng
với Na+ nên dịch đi vào quai Henle là dịch đẳng trương.
2.1.5. Tái hấp thu Cl - và urê
Khi nước được tái hấp thu thụ động theo Na+ và glucose, nồng độ Cl- và ure trong
dịch lòng ống tăng lên. Vì thế, 2 chất này sẽ được tái hấp thu thụ động theo cơ chế khuếch
tán đơn thuần. Tuy nhiên, do tế bào biểu mô ống lượn gần kém thấm với ure nên chỉ khoảng
50% ure trong dịch lọc được tái hấp thu. Còn Cl-, ngoài chênh lệch nồng độ còn có sự
chênh lệch điện thế do Na+ tái hấp thu làm dịch lòng ống tích điện (-) nên được tái hấp thu

100
thụ động khá mạnh. Ngoài ra, ở phần sau của ống lượn gần, Cl- còn được tái hấp thu theo
cơ chế tích cực thứ cấp cùng với Na+. Khoảng 65% Cl- được tái hấp thu ở ống lượn gần.
2.1.6. Tái hấp thu HCO3 và bài tiết H+
Khi protein mang vận chuyển Na+ từ lòng ống vào tế bào xuôi theo chiều bậc
thang điện hóa, nó cũng vận chuyển ngược chiều H+ từ trong tế bào đi ra lòng ống (vận
chuyển ngược chiều).
Khi H+ đi ra lòng ống, nó sẽ kết hợp với HCO3 tạo ra H2CO3 và giúp hấp thu
HCO3 . Cứ 1 H+ bài tiết thì ống lượn gần tái hấp thu 1 HCO3 . Quá trình này xảy ra mạnh
khi cơ thể bị nhiễm acid và góp phần quan trọng vào cơ chế điều hòa thăng bằng acid -
base của cơ thể.
2.1.7. Tái hấp thu K+
Khoảng 65% K+ trong dịch lọc được tái hấp thu tích cực tại ống lượn gần.
2.2. Sự tái hấp thu và bài tiết ở ống góp, ống lƣợn xa và quai Henle
Quá trình tái hấp thu nước và các ion ở quai Henle diễn ra như sau:
- Ở nhánh lên, ion Natri được vận chuyển tích cực từ lòng ống vào dịch kẽ, cộng
thêm sự đồng vận chuyển các ion Cl¯, K+ và một số ion khác vào dịch kẽ làm cho nồng
độ các ion tăng dần trong dịch kẽ vùng tủy ngoài.
- Ở nhánh xuống, do sự chênh lệch của áp suất thẩm thấu giữa lòng ống và dịch kẽ
và cũng có tính thấm cao ở đoạn này đối với nước, nước sẽ khuếch tán vào dịch kẽ làm
cho nồng độ các ion tăng dần và tăng cao nhất ở chóp quai, tạo điều kiện thuận lợi cho
sự vận chuyển tích cực của các ion nhánh lên.
- Khoảng 27% các ion Na +, K+, Cl ¯ trong dịch lọc cầu thận được tái hấp thu ở
đoạn dày nhánh lên của quai Henle trong khi chỉ có 15% nước được tái hấp thu, nên dịch
ống đi vào ống lượn xa là dịch nhược trương.
2.3. Sự tái hấp thu và bài tiết của ống lượn xa
2.3.1. Sự tái hấp thu ở đoạn pha loãng
Đoạn pha loãng là nửa đầu của ống lượn xa và có đặc tính như đoạn dày của nhánh
lên quai Henle. Tại đây ion được tái hấp thu nhưng màng ống không thấm nước và urê, do
đó đoạn này cũng góp phần pha loãng dịch ống.
2.3.2. Sự tái hấp thu và bài tiết ở đoạn cuối ống lƣợn xa và ống góp vùng vỏ:
- Sự tái hấp thu ion Na +:
Tốc độ tái hấp thu của ion Na + được kiểm soát bởi aldosteron trong máu.
Nếu nồng độ aldosteron rất cao, natri sẽ tái hấp thu hết và không có Na + trong
nước tiểu. Ngược lại nếu không có aldosteron, hầu hết Na+ đi vào đoạn cuối của ống lượn
xa sẽ không được tái hấp thu và đi vào nước tiểu. Như vậy sự bài xuất Na+ có thể thay đổi
từ rất ít đến rất nhiều tùy theo nồng độ của aldostetron trong máu.
- Sự bài tiết K +:
Ở đoạn cuối của ống lượn xa và ống góp vùng vỏ có những tế bào gọi là tế bào
chính, chiếm khoảng 90% tế bào biểu mô ở hai đoạn này. Các tế bào chính có khả năng
bài tiết một lượng lớn ion K + vào lòng ống khi nồng độ K + trong dịch ngoại bào cao hơn
bình thường. Ở màng đáy - bên của tế bào chính, bơm Na +, K+
- ATPase hoạt động bơm Na+ từ tế bào vào dịch kẽ, đồng thời bơm K + vào bên
trong tế bào. Màng ống của tế bào chính rất thấm K + . Do đó khi nồng độ K + tăng cao
trong tế bào thì K + sẽ nhanh chóng khuếch tán vào trong lòng ống.
Như vậy sự bài tiết K + phụ thuộc chủ yếu vào bơm Na +

101
-K+ ở màng đáy bên và chịu điều hòa của hormone aldosteron vì aldosteron hoạt
hóa bơm Na +, K+ -ATPase.
- Sự bài tiết ion H + :
Ở đoạn ống lượn xa và ống góp cũng có một loại tế bào đặc biệt gọi là tế bào xen
kẽ. Các tế bào này có khả năng bài tiết ion H + theo cơ chế vận chuyển tích cực nguyên
phát.
Cơ chế vận chuyển tích cực nguyên phát của ion H + xảy ra ở màng ống của tế
bào biểu mô nhờ một protein mang đặc hiệu gọi là “Protein mang H + -ATPase”.
- Sự hấp thu nước:
Khoảng 10% nước của dịch lọc cầu thận được tái hấp thu ở ống lượn xa.
2.4. Tái hấp thu và bài tiết ở ống góp
Ở ống góp, sự tái hấp thu nước cũng phụ thuộc vào nồng độ ADH huyết tương.
Khi nồng độ ADH của huyết tương cao, nước được tái hấp thu vào dịch kẽ vùng tủy làm
cho thể tích nước tiểu giảm và làm cô đặc hầu hết các chất được hòa tan trong nước tiểu.
Có khoảng 9% nước của dịch lọc cầu thận được tái hấp thu ở ống góp. Một phần nhỏ của
urê cũng được tái hấp thu ở ống góp.
3. Chức năng nội tiết của thận
Thận có chức năng bài tiết và tham gia vào quá trình hình thành một số hormone
trong cơ thể:
- Bài tiết Renin
- Bài tiết Erythropoietin
- Tham gia quá trình tạo vitamin D (cũng là 1 loại hormone)
3.1.Thận bài tiết renin để điều hoà huyết áp
Thận tham gia điều hòa huyết áp thông qua hệ thống R-A-A (Renin - Angiotensin
- Aldosteron) theo cơ chế như sau:
Khi lưu lượng máu đến thận giảm hoặc Na+ máu giảm, nó có tác dụng kích thích
tổ chức cạnh cầu thận bài tiết ra một hormone là renin. Dưới tác dụng của renin, một loại
protein trong máu là angiotensinogen biến đổi thành angiotensin I. Angiotensin I
đến phổi, do tác dụng của men chuyển (converting enzyme), biến đổi thành angiotensin
II.
Angiotensin II có tác dụng làm tăng huyết áp mạnh theo cơ chế như sau:
- Co mạch Angiotensin II gây co mạch làm huyết áp tăng (co mạch mạnh nhất
ở các tiểu động mạch). Tác dụng co mạch mạnh ở người bình thường. Tác dụng co
mạch giảm ở người có Na+ giảm, bệnh nhân xơ gan, suy tim và thận nhiểm mỡ vì ở
những bệnh nhân này, các receptor của Angiotensin II ở cơ trơn mạch máu bị
giảm.
- Gây cảm giác khát:
Angiotensin II kích thích trung tâm khát ở vùng dưới đồi gây cảm giác khát để bổ
sung nước cho cơ thể .
- Tăng tiết ADH:
Angiotensin II kích thích nhân trên thị tăng bài tiết ADH để tăng tái hấp thu nước
ở ống lượn xa và ống góp.
- Tăng tiết aldosteron:
Angiotensin II kích thích vỏ thượng thận bài tiết aldosteron để tăng tái hấp thu
Na+ và nước ở ống lượn xa và ống góp.

102
Như vậy, angiotensin II gây co mạch và tăng thể tích máu nên làm tăng huyết áp.
Huyết áp tăng ảnh hưởng trở lại làm thận giảm tiết renin. Cơ chế điều hòa huyết áp của
thận theo nguyên lý: nguyên nhân gây hậu quả, hậu quả tạo nguyên nhân.
3.2. Thận bài tiết erythropoietin để tăng tạo hồng cầu
Thận tham gia điều hòa sản sinh hồng cầu nhờ hormone erythropoietin. Khi bị mất
máu, thiếu máu hoặc thiếu O 2 , thận sẽ sản xuất ra hormone erythropoietin.
Erythropoietin có tác dụng kích thích tế bào đầu dòng sinh hồng cầu (erythroid stem cell)
chuyển thành tiền nguyên hồng cầu (proerythroblast) và làm tăng sinh hồng cầu. Vì vậy,
erythropoietin được dùng để điều trị bệnh thiếu máu.
3.3. Thận tham gia tạo dạng hoạt tính của vitamin D
Theo quan điểm mới, vitamin D được xem là một hormone. Trong quá trình hình
thành dạng hoạt tính của vitamin D, có sự tham gia của thận theo cơ chế như sau:
- Cả 2 chất 25-Hydroxycholecalciferol và 1,25-Dihydroxycholecalciferol đều

hoạt tính sinh học nhưng 1,25-Dihydroxycholecalciferol mạnh hơn 25
Hydroxycholecalciferol 100 lần. Chúng có tác dụng sau:
− Tại xương: tăng tế bào tạo xương, tăng hoạt động tạo xương, tăng nhập và huy
động Calci và Phospho ở xương
− Tại ruột: tăng hấp thu Calci và Phospho
− Tại thận: tăng tái hấp thu Calci ở ống thận.

Hình 8.5. Sơ đồ tái hấp thu calci ở ống thận.


III. NHỮNG RỐI LOẠN LÂM SÀNG CỦA THẬN.
Về mặt sinh lý người ta chia bệnh thận thành 5 loại:
- Suy thận cấp: thận ngừng hoạt động hoàn toàn.
- Suy thận mãn: Các nephone bị phá hủy cho đến khi thận không thực hiện được
các chức năng.
- Bệnh thận kèm theo tăng huyết áp.
- Hội chứng thận hư.
- Những bất thường khi rối loạn một số chất tái hấp thu.
103
Các loại bệnh thận kể trên thường gây ra một số triệu chứng chung như trong nước
tiểu có protein, bạch cầu, hồng cầu... thận mất khả năng cô đặc hoặc pha loãng nước tiểu,
ure huyết, nhiễm toan và tăng tái hấp thu Na+ một cách bất thường.
1. Protein niệu.
- Do tính thấm mao mạch cầu thận tăng lên làm cho protein xuất hiện trong nước
tiểu.
- Hầu hết protein này là Albumin.
- Thường xuất hiện trong các bệnh viêm thận, hội chứng thận hư...
2. Tăng ure huyết.
- Khi các sản phẩm phân giải chuyển hóa protein tích lại trong máu, hội chứng ure
huyết cao xuất hiện.
- Triệu chứng ure huyết cao gồm; mệt mỏi, chán ăn, buồn nôn, nôn mửa, rối loạn
tâm thần, hay nhầm lẫn, co giật và hôn mê.
- Người ta dùng kỹ thuật thẩm phân máu cho những bệnh nhân ure huyết cao để lấy
đi chất độc và kéo dài đời sống cho bệnh nhân.
3. Thận nhân tạo.
- Là phương pháp lọc máu với thận nhân tạo được áp dụng .khi khả năng loại bỏ
chất phế thải và nước dư trong máu của thận chỉ còn khoảng từ 5 tới 10% so với mức độ
bình thường.
- Suy thận cấp tính không đáp ứng với điều trị thì lọc máu có thể được áp dụng
trong một thời gian ngắn cho tới khi thận hoạt động trở lại. Suy thận kinh niên thì phải lọc
máu suốt đời, nếu không được thay ghép thận.
- Mục đích của thận nhân tạo là để mang lại sức khỏe cho cơ thể, bằng cách:
+ Loại bỏ chất thải, muối khoáng và nước dư trong máu, tránh ứ đọng trong cơ thể
+ Duy trì huyết áp ở mức bình thường
+ Giữ thăng bằng một số hóa chất trong máu..
- Hệ thống lọc máu thận nhân tạo đầu tiên được thành hình trong thế chiến thứ II.
Máu được dẫn qua một ống làm bằng màng bán thấm, nhúng trong dung dịch nước rửa
máu. Màng bán thấm để các phân tử nhỏ như chất thải ure chạy qua và máu sạch được
truyền trở lại cơ thể.
LƯỢNG GIÁ:
1. Anh (chị) hãy trình bày cấu tạo đại thể, vi thể của thận?
2. Anh (chị) hãy trình bày cấu trúc và chức năng của nephrone?
3. Anh (chị) hãy trình bày quá trình lọc ở cầu thận?
4. Anh (chị) hãy trình bày quá trình tái hấp thu và bài tiết ở ống thận?
5. Anh (chị) hãy trình bày những rối loạn lâm sàng của thận?

104
Bài 9
SINH LÝ HỆ NỘI TIẾT
MỤC TIÊU:
1. Trình bày được chất tiếp nhận hormon, cơ chế tác dụng và cơ chế điều hoà
bài tiết của hormon.
2. Trình bày được bản chất hoá học, tác dụng và điều hoà bài tiết từng hormon
của vùng dưới đồi, tuyến yên, tuyến giáp, tuyến cận giáp, tuyến tụy, tuyến thượng thận.
3. Trình bày được bản chất hoá học, tác dụng của các hormon tại chỗ.
4. Giải thích được các triệu chứng của các bệnh nội tiết thường gặp dựa trên
các tác dụng của các hormon.

NỘI DUNG:
I. CẤU TẠO CHUNG VỀ HỆ NỘI TIẾT VÀ HORMON.
- Hoạt động của cơ thể phải được điều hòa. Sự điều hòa này được bảo đảm bởi hai
cơ chế: thần kinh và thể dịch. Cơ chế thể dịch bao gồm nhiều yếu tố là thành phần của máu
và dịch như nồng độ các ion, các loại khí và đặc biệt là các hormone.
- Hormone, còn gọi là nội tiết tố, là các chất được tuyến nội tiết tiết ra, chúng ảnh
hưởng đến quá trình phát triển, sự hoạt động và dinh dưỡng của các cơ quan khác. Tuyến
nội tiết là các tuyến sản xuất ra các hormone. Tuyến nội tiết không có ống dẫn, hormone
được đổ thẳng vào máu sau đó được vận chuyển và tác động đến các tế bào, cơ quan khác.
Gọi là nội tiết vì chúng khác với tuyến ngọai tiết, có ống dẫn, ví dụ tuyến nước bọt, tuyến
tụy ngoại tiết…
1. Đặc điểm tuyến nội tiết.
- Khác với tuyến ngoại tiết như tuyến nước bọt, tuyến tụy ngoại tiết, tuyến dạ dày…
là những tuyến có ống dẫn, chất bài tiết được đổ vào một cơ quan nào đó qua ống tuyến,
tuyến nội tiết lại là những tuyến không có ống dẫn, chất bài tiết được đưa vào máu rồi được
máu đưa đến các cơ quan, các mô trong cơ thể và gây ra các tác dụng ở đó.
- Các tuyến nội tiết chính của cơ thể gồm vùng dưới đồi, tuyến yên, tuyến giáp,
tuyến cận giáp, tuyến tụy nội tiết, tuyến thượng thận, tuyến sinh dục nam và nữ, rau thai....

105
Hình 9.1. Các tuyến nội tiết trong cơ thể.
2. Đặc điểm của hormone.
- Hormon là những chất hoá học do một nhóm tế bào hoặc một tuyến nội tiết bài
tiết vào máu rồi được máu đưa đến các tế bào hoặc mô khác trong cơ thể và gây ra các tác
dụng sinh lý ở đó.
- Phân loại hormone:
Dựa vào nơi bài tiết và nơi tác dụng người ta phân các hormon thành hai loại đó là
hormon tại chỗ (hormon địa phương) và hormon của các tuyến nội tiết.
2.1. Hormon tại chỗ:
Hormon tại chỗ là những hormon do một nhóm tế bào bài tiết vào máu rồi được
máu đưa đến các tế bào khác ở gần nơi bài tiết để gây ra các tác dụng sinh lý.
Ví dụ: Secretin, cholecystokinin, histamin, prostaglandin …
2.2. Hormon của các tuyến nội tiết
Khác với các hormon tại chỗ, các hormon của các tuyến nội tiết thường được máu
đưa đến các mô, các cơ quan ở xa nơi bài tiết và gây ra các tác dụng sinh lý ở đó. Các
hormon do các tuyến nội tiết bài tiết lại được phân thành hai loại khác nhau:
- Một số hormon có tác dụng lên hầu hết các mô ở trong cơ thể như hormon GH
của tuyến yên, T3, T4 của tuyến giáp, cortisol của tuyến vỏ thượng thận, insulin của tuyến
tụy nội tiết …
- Một số hormon chỉ có tác dụng đặc hiệu lên một mô hoặc một cơ quan nào đó như
hormon ACTH, TSH, FSH, LH … của tuyến yên. Các mô hoặc cơ quan chịu tác dụng đặc
hiệu của những hormon này được gọi là mô hoặc cơ quan đích.
Các hormon của tuyến nội tiết chính của cơ thể là:
- Vùng dưới đồi: Bài tiết các hormon giải phóng và ức chế, hai hormon khác được
chứa ở thuỳ sau tuyến yên là ADH (vasopressin) và oxytocin.
- Tuyến yên: Bài tiết GH, ACTH, TSH, FSH, LH, prolactin.
- Tuyến giáp: Bài tiết T3, T4, Calcitonin.
- Tuyến cận giáp: Bài tiết parathormon (PTH).
- Tuyến tuỵ nội tiết: Bài tiết insulin, glucagon.
- Tuyến vỏ thượng thận: Bài tiết cortisol, aldosteron.
- Tuyến tuỷ thượng thận: Bài tiết adrenalin, noradrenalin.
- Tuyến buồng trứng: Bài tiết estrogen, progesteron.
- Tuyến tinh hoàn: Bài tiết testosteron, inhibin.
- Rau thai: Bài tiết hCG, estrogen, progesteron, HCS, relaxin.
2.3. Bản chất hoá học của hormon
Các hormon thường có bản chất hoá học thuộc một trong ba loại sau đây:
- Steroid: Đây là những hormon có cấu trúc hoá học giống cholesterol và hầu hết
được tổng hợp từ cholesterol như hormon của tuyến vỏ thượng thận (cortisol, aldosteron),
từ tuyến sinh dục (estrogen, progesteron, testosteron).
- Dẫn xuất của acid amin là tyrosin: Hai nhóm hormon được tổng hợp từ tyrosin đó
là hormon của tuyến tuỷ thượng thận (adrenalin, noradrenalin) và hormon của tuyến giáp
(T3, T4).
- Protein và peptid: Hầu như tất cả các hormon còn lại của cơ thể là protein, peptid,
hoặc dẫn xuất của hai loại này như các hormon vùng dưới đồi, hormon tuyến yên, hormon
tuyến cận giáp, hormon tuyến tụy nội tiết và hầu hết các hormon tại chỗ.
Chất tiếp nhận hormon tại tế bào đích (receptor)

106
Khi đến tế bào đích, các hormon thường không tác dụng trực tiếp vào các cấu trúc
trong tế bào để điều hoà các phản ứng hoá học ở bên trong tế bào mà chúng thường gắn
với các chất tiếp nhận – các receptor ở trên bề mặt hoặc ở trong tế bào đích. Phức hợp
hormon – receptor sau đó sẽ phát động một chuỗi các phản ứng hoá học ở trong tế bào. Tất
cả hoặc hầu như tất cả receptor đều là những phân tử protein có trọng lượng phân tử lớn.
Mỗi tế bào đích thường có khoảng 2.000 – 100.000 receptor.
Mỗi receptor thường đặc hiệu với một hormon, chính điều này quyết định tác dụng
đặc hiệu của hormon lên mô đích. Mô đích chịu tác dụng của hormon chính là mô có chứa
các receptor đặc hiệu tiếp nhận hormon đó. Các receptor tiếp nhận các loại hormon khác
nhau có thể nằm ở các vị trí sau.
- Ở trên bề mặt hoặc ở trong màng tế bào: Đây là các receptor tiếp nhận hầu hết các
hormon protein, peptid và catecholamin.
- Ở trong bào tương: Các receptor nằm trong bào tương là những receptor tiếp nhận
các hormon steroid.
- Ở trong nhân tế bào: Đây là những receptor tiếp nhận hormon T3 – T4 của tuyến
giáp. Người ta cho rằng các receptor này có thể nằm trên một hoặc nhiều chromosom trong
nhân tế bào đích.
Số lượng các receptor ở tế bào đích có thể thay đổi từng ngày thậm chí từng phút
bởi vì các phân tử protein receptor tự nó có thể bị bất hoạt hoặc bị phá huỷ trong quá trình
hoạt động nhưng rồi chúng lại có thể được hoạt hoá trở lại hoặc hình thành các phân tử
mới nhờ cơ chế tổng hợp protein trong tế bào.
2.4. Cơ chế tác dụng của hormon
Sau khi hormon gắn với receptor tại tế bào đích, hormon sẽ hoạt hoá receptor, nói
cách khác là làm cho receptor tự nó thay đổi cấu trúc và chức năng. Chính những receptor
này sẽ gây ra các tác dụng tiếp theo như làm thay đổi tính thấm màng tế bào (mở kênh
hoặc đóng các kênh ion), hoạt hoá hệ thống enzym ở trong tế bào do hormon gắn với
receptor trên màng tế bào, hoạt hoá hệ gen do hormon gắn với receptor ở nhân tế bào.
Tuỳ thuộc vào bản chất hoá học của hormon mà vị trí gắn của hormon với receptor
sẽ xảy ra trên màng, trong bào tương hoặc trong nhân tế bào và do đó chúng cũng có những
con đường tác động khác nhau vào bên trong tế bào hay nói cách khác, chúng có những cơ
chế tác dụng khác nhau tại tế bào đích.
2.4.1. Cơ chế tác dụng của các hormon gắn với receptor trên màng tế bào
Hầu hết các hormon có bản chất hoá học là protein, peptid, dẫn xuất của acid amin
khi đến tế bào đích đều gắn với các receptor nằm ngay trên màng tế bào. Phức hợp hormon
- receptor này sẽ tác động vào hoạt động của tế bào đích thông qua một chất trung gian
được gọi là chất truyền tin thứ hai.

107
Hình 9.2. Cơ chế tác dụng thông qua AMP vòng
Sau khi gắn với receptor trên màng tế bào, phức hợp hormon - receptor sẽ hoạt hoá
một enzym nằm trên màng tế bào là adenylcyclase. Sau khi được hoạt hóa, enzym này lập
tức xúc tác phản ứng tạo ra các phân tử cyclic 3’-5’ adenosin monophosphat (AMP vòng)
từ các phân tử ATP. Phản ứng này xảy ra ở bào tương. Sau khi được tạo thành, ngay lập
tức AMP vòng hoạt hoá một chuỗi các enzym khác theo kiểu dây truyền. Ví dụ enzym thứ
nhất sau khi được hoạt hoá sẽ hoạt hoá tiếp enzym thứ hai, rồi enzym thứ hai lại hoạt hoá
tiếp enzym thứ ba, cứ thế tiếp tục enzym thứ tư, thứ năm … Với kiểu tác dụng như vậy,
chỉ cần một lượng rất nhỏ hormon tác động trên bề mặt tế bào đích cũng đủ gây ra một
động lực hoạt hoá mạnh cho toàn tế bào. Hệ thống enzym đáp với AMP vòng ở tế bào đích
có thể khác nhau giữa tế bào này với tế bào khác nhưng chúng có cùng một họ chung là
proteinkinase. Các tác dụng mà hormon gây ra ở tế bào đích có thể là tăng tính thấm của
màng tế bào, tăng tổng hợp protein, tăng bài tiết, co hoặc giãn cơ (Hình - Cơ chế tác dụng
thông qua AMP vòng).
Sau khi gây ra các tác dụng sinh lý tại tế bào đích, AMP vòng bị bất hoạt để trở
thành 5’AMP dưới tác dụng của enzym phosphodiesterase có trong bào tương tế bào đích.
Các hormon tác dụng tại tế bào đích thông qua AMP vòng bao gồm: ACTH, TSH, LH,
FSH, vasopressin, parathormon, glucagon,catecholamin, secretin, hầu hết các hormon giải
phóng của vùng dưới đồi.
2.4.2. Cơ chế tác dụng thông qua chất truyền tin thứ hai là ion calci và calmodulin
Một số trường hợp khi hormon hoặc chất truyền đạt thần kinh gắn với receptor
(protein kênh) trên màng tế bào đích nó sẽ làm mở kênh ion calci và calci được vận chuyển
vào trong tế bào.
Tại bào tương, calci gắn với một loại protein là calmodulin. Loại protein này có 4
vị trí để gắn với ion calci. Khi có 3 hoặc 4 vị trí gắn với calci thì phân tử calmodulin được
hoạt hoá và gây ra một loạt tác dụng trong tế bào tương tự như tác dụng của AMP vòng,
đó là một chuỗi phản ứng dây truyền hoạt hoá một loạt các enzym xảy ra (những enzym
này khác với enzym đáp ứng với AMP vòng) trong tế bào. Một trong những tác dụng đặc
hiệu của calmodulin là hoạt hoá enzym myosinkinase là enzym tác dụng trực tiếp lên sợi
myosin của cơ trơn để làm co cơ trơn.
2.4.3. Cơ chế tác dụng thông qua chất truyền tin thứ hai là các “mảnh” phospholipid.
Một số hormon khi gắn với receptor trên màng tế bào lại hoạt hoá enzym
phospholipase C trên màng tế bào. Enzym này có tác dụng cắt các phân tử phospholipid
108
thành các phân tử nhỏ và hoạt động như những chất truyền tin thứ hai để gây ra các tác
dụng tại các tế bào đích như co cơ trơn, thay đổi sự bài tiết, thay đổi hoạt động của nhung
mao, thúc đẩy sự phân chia và tăng sinh tế bào.
Những hormon tác dụng theo con đường này chủ yếu là các hormon tại chỗ, đặc
biệt là các hormon được giải phóng do các phản ứng miễn dịch và dị ứng.
2.4.4. Cơ chế tác dụng của các hormon gắn với receptor trong tế bào
Các hormon vỏ thượng thận và hormon sinh dục sau khi gắn với receptor trong bào
tương để tạo thành phức hợp hormon – receptor, phức hợp này sẽ được vận chuyển từ bào
tương vào nhân tế bào. Tại nhân tế bào, phức hợp hormon – receptor sẽ gắn vào các vị trí
đặc hiệu trên phân tử DNA của nhiễm sắc thể và hoạt hoá sự sao chép của gen đặc hiệu để
tạo thành RNA thông tin. Sau khi được tạo thành, RNA thông tin sẽ khuếch tán ra bào
tương và thúc đẩy quá trình dịch mã tại ribosom để tổng hợp các phân tử protein mới.
Những phân tử protein này có thể là các phân tử enzym hoặc phân tử protein vận tải hoặc
protein cấu trúc (Hình - Cơ chế tác dụng thông qua hoạt hoá hệ gen).
Ví dụ: Aldosteron là hormon của tuyến vỏ thượng thận được máu đưa đến tế bào
ống thận. Tại đây aldosteron khuếch tán vào bào tương và gắn với receptor. Phức hợp
aldosteron – receptor sẽ thúc đẩy một chuỗi các sự kiện nói trên tại tế bào ống thận. Sau
45 phút, các protein vận tải bắt đầu xuất hiện ở tế bào ống thận, nhằm làm tăng tái hấp thu
ion natri và tăng bài xuất ion kali.
Chính vì kiểu tác dụng của hormon steroid có đặc điểm như đã trình bày ở trên nên
tác dụng thường xuất hiện chậm sau vài chục phút đến vài giờ, thậm chí vài ngày nhưng
tác dụng kéo dài, điều này thường trái ngược với tác dụng xảy ra tức khắc của các hormon
tác dụng thông qua AMP vòng.
Hormon T3, T4 của tuyến giáp cũng tác động tại tế bào đích theo cơ chế này chỉ có
khác là T3, T4 khuếch tán vào nhân tế bào và gắn trực tiếp vào receptor nằm trên phân tử
DNA chứ không qua bước trung gian là gắn với receptor của bào tương.

Hình 9.3. Cơ chế tác dụng thông qua hoạt hoá hệ gen
2.5. Cơ chế điều hoà bài tiết hormon
Các hormon được bài tiết theo cơ chế điều khiển từ tuyến chỉ huy đến tuyến đích
và theo cơ chế điều hoà ngược (feedback) từ tuyến đích đến tuyến chỉ huy. Ngoài cơ chế
này, sự bài tiết hormon còn được điều hoà theo nhịp sinh học và chịu sự tác động của một
số chất truyền đạt thần kinh (neurotransmitters). Tuy nhiên, cơ chế điều hoà ngược là cơ

109
chế chủ yếu, nhanh và nhạy để duy trì nồng độ hormon luôn hằng định và thích ứng được
với hoạt động của cơ thể khi sống trong môi trường luôn thay đổi.

2.5.1. Điều hoà ngược âm tính


Là kiểu điều hoà mà khi nồng độ hormon tuyến đích giảm, nó sẽ kích thích tuyến
chỉ huy bài tiết nhiều hormon để rồi hormon tuyến chỉ huy lại kích thích tuyến đích nhằm
đưa nồng độ tuyến đích tăng trở lại mức bình thường. Ngược lại, khi nồng độ hormon
tuyến đích tăng lại có tác dụng ức chế tuyến chỉ huy làm giảm bài tiết hormon tuyến chỉ
huy.
Ví dụ: Nồng độ hormon T3, T4 giảm thì ngay lập tức nó sẽ kích thích vùng dưới
đồi, tuyến yên tăng bài tiết TRH và TSH. Chính hai hormon này quay trở lại kích thích
tuyến giáp tăng bài tiết để đưa nồng độ T3, T4 trở về mức bình thường (Hình - Điều hòa
ngược âm tính).
Điều hoà ngược âm tính là kiểu điều hoà thường gặp trong cơ thể nhằm duy trì nồng
độ hormon nằm trong giới hạn bình thường.
Rối loạn cơ chế điều hoà ngược âm tính sẽ dẫn đến rối loạn hoạt động của hệ thống
nội tiết. Trong thực hành điều trị các bệnh do rối loạn hoạt động của hệ thống nội tiết nếu
không lưu ý đến đặc điểm này thì có thể dẫn từ rối loạn này sang rối loạn khác. Ví dụ để
điều trị bệnh nhược năng tuyến vỏ thượng thận (bệnh Addison) người ta thường dùng
cortisol. Nếu sử dụng cortisol với liều lượng cao và kéo dài, nó sẽ gây tác dụng điều hoà
ngược âm tính lên tuyến yên và làm tuyến yên giảm bài tiết ACTH, hậu quả là tuyến vỏ
thượng thận vốn đã hoạt động kém nay lại càng nhược năng hơn.

Hình 9.4. Sơ đồ điều hòa ngược âm tính.

2.5.2. Điều hoà ngược dương tính


Khác với kiểu điều hoà ngược âm tính, trong một số trường hợp người ta thấy nồng
độ hormon tuyến đích tăng lại có tác dụng kích thích tuyến chỉ huy và càng làm tăng
hormon tuyến chỉ huy.
Ví dụ: Khi cơ thể bị stress, định lượng nồng độ hormon thấy nồng độ cortisol tăng
cao đồng thời nồng độ ACTH cũng tăng cao (Hình - Điều hoà ngược dương tính trong tình
trạng stresss.

110
Hình. 9.5. Điều hoà ngược dương tính trong tình trạng stress
Như vậy kiểu điều hoà ngược dương tính không những không làm ổn định nồng độ
hormon mà ngược lại còn làm tăng thêm sự mất ổn định. Tuy nhiên, sự mất ổn định này là
cần thiết nhằm bảo vệ cơ thể trong trường hợp này.
Mặc dù kiểu điều hoà ngược dương tính trong điều hoà hoạt động hệ nội tiết ít gặp
nhưng lại rất cần thiết bởi vì nó thường liên quan đến những hiện tượng mang tính sống
còn của cơ thể như để chống stress, chống lạnh hoặc gây phóng noãn.
Tuy vậy, kiểu điều hoà này thường chỉ xảy ra trong thời gian ngắn, sau đó lại trở
lại kiểu điều hoà ngược âm tính thông thường. Nếu kéo dài tình trạng này chắc chắn sẽ dẫn
đến tình trạng bệnh lý.
II. CHỨC NĂNG SINH LÝ CƠ BẢN CÁC TUYẾN NỘI TIẾT TRONG CƠ THỂ
NGƯỜI.
1. Sinh lý vùng dưới đồi
Hypothalamus. Vùng hạ đồi. Là một cấu trúc thuộc não trung gian, nằm quanh não
thất ba. Vùng dưới đồi có liên hệ mật thiết với tuyến yên. Các hormone của vùng dưới đồi
có tác động trực tiếp (điều hòa) hoạt động của tuyến yên.
Vùng dưới đồi tiết ra các hormone sau:
1.1. GHRH và GHIH
Ảnh hưởng đến việc sản xuất GH của tuyến yên. GHRH (GH releasing hormone)
làm tăng bài tiết và GHIH (GH inhibitor hormone) ức chế bài tiết GH ở tuyến yên.
1.2. TRH
Thyrotropin Releasing Hormone. Làm tăng bài tiết TSH của tuyến yên. (TSH là
hormone kích thích tuyến giáp bài tiết Thyroxin).
1.3. CRH
Corticotropin Releasing Hormone. Làm tăng bài tiết ACTH của tuyến thượng
thận.

1.4. GnRH
Gonadotropin Releasing Hormone.
2. Sinh lý tuyến yên.

111
- Tuyến yên nằm trong hố yên của xương bướm và dính vào vùng hạ đồi bằng 1
cuống.
- Tuyến yên có thùy trước và thùy sau. Chúng có cấu tạo tế bào khác hẳn nhau.
Thùy sau nối với vùng hạ đồi bằng một mạng lưới thần kinh, thùy trước lại nối bằng một
mạng mạch máu.

Hình 9.6. Cấu trúc tuyến yên.


2.1. Thùy trước:
2.1.1. GH: Growth Hormone: Hormone phát triển cơ thể.
- Hormone làm phát triển hầu hết các mô: nó vừa làm tăng kích thước tế bào vừa
tăng quá trình phân chia tế bào do đó vừa làm tăng khối lượng vừa làm tăng kích thước
các cơ quan.
- Đặc biệt GH kích thích mô sụn và xương phát triển. Nhưng khi đầu xương và thân
xương hợp nhất thì GH không còn tác dụng nữa (quá tuổi dậy thì).
- Việc tiết GH chịu sự tác động của GHRH (kích thích) và GHIH (ức chế) của vùng
hạ đồi. Nồng độ GH ở trẻ em lớn hơn người lớn.
- Rối loạn: Tăng tiết GH gây ra hội chứng khổng lồ, chứng to đầu chi. Giảm tiết
GH gây ra hội chứng lùn, gọi là lùn yên. Người mắc bệnh có tầm vóc bé nhỏ nhưng cân
đối.
2.1.2. TSH: Thyroid Stimulating Hormone: Hormone kích thích giáp. Tác động lên tuyến
giáp làm tuyến giáp tăng sản xuất T3 và T4. Việc tiết TSH chịu sự tác động của TRH của
vùng hạ đồi.
2.1.3. ACTH: Adreno Corticotropin Hormone: Hormone kích thích vỏ thượng thận.
Tác động lên tuyến thượng thận làm tăng tiết Glucocorticoid. Chịu sự tác động
của CRH của vùng dưới đồi và nồng độ của Glucocorticoid. ACTH cũng được điều hòa
theo nhịp sinh học. Tăng lên vào buổi sáng và giảm dần đến tối.
2.1.4. FSH: Follicle Stimulating Hormone: Hormone kích thích buồng trứng. Là một
hormone sinh dục.
Ở nam: Có vai trò quan trọng trong việc phát triển tinh trùng ở tinh hoàn (cùng
với
hormone testosteron)
Ở nữ: phát triển nang trứng ở buồng trứng.
2.1.5. LH: Luteinezing Hormone: Hormone kích thích hoàng thể.
Ở nam: Kích thích tế bào Leydig ở tinh hoàn phát triển và kích thích tế bào Leydig
tiết testosteron.

112
Ở nữ: Cùng với FSH làm phát triển nang tiến tới chín (chuẩn bị cho sự thụ tinh)
đồng thời gây phóng noãn.
- Tạo hoàng thể.
- Kích thích nang trứng và hoàng thể tiết progesteron và estrogen.
* FSH và LH chỉ được tiết từ lứa tuổi 9-10 và cao nhất ở tuổi dậy thì.
2.1.6. PRL: Prolactin: Hormone kích thích bài tiết sữa. PRL kích thích bài tiết sữa trên
tuyến vú. Bình thường PRL được tiết với lượng rất thấp, khi mang thai thì được tiết gấp
nhiều lần nhưng vẫn không làm bài tiết sữa vì có sự tác động của progesteron và estrogen.
Sau khi sinh thì progesteron và estrogen giảm đột ngột thì PRL mới phát huy tác dụng.
* Ngoài GH và PRL ta thấy tuyến yên là tuyến nội tiết nhưng chủ yếu các hormone
của nó lại dùng để tác động lên các tuyến nội tiết khác.
2.2. Thùy sau
2.2.1. Oxytocin:
- Tăng co tử cung.
- Bài xuất sữa.
2.2.2. ADH: Antidiuretic hormone: hormone bài niệu. Còn gọi là Vasopressin. Làm giảm
quá trình tạo nước tiểu ở thận.
- Rối loạn:
Nếu lượng ADH thấp (do tổn thương dưới đồi hoặc tuyến yên) sẽ gây ra bệnh đái
tháo nhạt: người bệnh tiểu nhiều nhưng nồng độ điện giải thấp. (Thực chất, thùy sau chỉ là
nơi chứa và sau đó giải phóng các hormone trên, chính các tế bào ở hạ đồi mới là nơi sản
xuất các hormone này.)
3. Tuyến giáp.
Tuyến giáp nằm ngay dưới thanh quản, ở trước khí quản, gồm hai thùy phải và
trái.
Tuyến giáp tiết T3, T4 có vai trò quan trọng trong chuyển hóa các chất và
calcitonin có vai trò trong chuyển hóa calci.

Hình 9.7. Cấu tạo tuyến giáp.


3.1. T3, T4
- Kích thích sự phát triển cơ thể, thể hiện chủ yếu ở thời kỳ đang lớn của trẻ.
- Làm tăng chuyển hóa của hầu hết các mô, tăng tốc độ phản ứng hóa học, tăng
tiêu thụ và thoái hóa thức ăn để cung cấp năng lượng.
- Làm tăng nhịp tim, giãn mạch.
113
- Thúc đẩy sự phát triển của não, gây hưng phấn.
- Kích thích cơ.
* Sự tổng hợp T3, T4 của tuyến giáp cần có Iod.
Rối loạn Cường giáp: Nồng độ T3 và T4 cao. Bướu cổ, tay run, nhịp nhanh, kích
thích, mất ngủ, sút cân, chuyển hóa cơ sở tăng, lồi mắt. Chỉ trừ lồi mắt, các triệu chứng
đều do T3 và T4 gây ra.
- Nhược giáp: Nồng độ T3 và T4 thấp. Nhịp tim chậm, chậm chạp, ngủ
nhiều, chuyển hóa cơ sở giảm, phù niêm.
3.2. Calcitonin
Làm tăng lắng đọng calci để tạo xương, có ý nghĩa quan trọng ở trẻ em. Ở xương
việc phát triển xương dựa vào hai loại tế bào: loại hủy cốt bào và tạo cốt bào. Loại hủy có
tác dụng tiết ra những chất làm hòa tan calci và phosphat và phá hủy mô xương, ngược lại
loại tạo làm tăng lắng đọng calci trên bề mặt xương cũ. Khi mức lắng đọng tăng hơn mức
phá hủy thì xương dày lên.
4. Tuyến cận giáp.
Có 4 tuyến cận giáp nhỏ, ấn vào mặt sau của hai thùy tuyến giáp. Tuyến cận giáp
tiết ra PTH (parathormone). PTH duy trì nồng độ ion calci trong máu ở mức bình thường.
Nếu nguồn calci hấp thu từ ruột và tái hấp thu từ thận không đủ thì PTH huy động calci
từ xương vào máu.
Như vậy, calcitonin và PTH là hai hormone cùng nhau duy trì sự cân bằng nồng
độ calci trong máu và calci dùng để tạo xương.
5. Tuyến thượng thận
Có 2 tuyến thượng thận nằm ở trên 2 thận.
Tuyến thượng thận có hai phần khác biệt về giải phẫu và sinh lý: tủy và vỏ.
5.1. Vỏ thượng thận
Vỏ thượng thận tiết ra 3 nhóm hormone:
Các Glucocorticoid: là các hormone chuyển hóa đường.
Các Minerocorticoid: là các hormone chuyển hóa muối-nước. Đặc biệt là
Aldosteron.
Các Androgen: là các hormone sinh dục.
5.1.1. Các glucorticoid
- Điều hòa chuyển hóa carbonhydrat.
- Tân tạo glucose từ protein, làm tăng glucose máu.
- Giảm các phản ứng viêm và dị ứng.
- Tăng tái hấp thu natri và nước ở thận.
* Tính kháng viêm và chống dị ứng khiến glucocorticoid được sử dụng trong việc
điều trị nhiều bệnh.
5.1.2. Các minerocorticoid
Chủ yếu là Aldosteron.
Aldosteron duy trì cân bằng điện giải. Nó kích thích sự tái hấp thu natri ở các ống
thận. Khi tăng tái hấp thu natri thì lượng kali bài tiết tăng lên. Qua việc điều chỉnh các điện
giải, lượng nước trong cơ thể cũng được điều hòa. Nếu lượng natri trong máu giảm thì
Aldosteron bài tiết nhiều hơn do đó việc tái hấp thu natri từ thận tăng lên để đưa nồng độ
natri (và do đó là nước) trở lại bình thường.
Hệ thống Renin-Angiotensin: Khi lưu lượng máu qua thận giảm, thận tiết ra renin.
Renin biến Agiotensinogen thành Angiotensin. Angiotensin kích thích vỏ thượng thận tiết

114
Aldosteron khiến natri được tái hấp thu nhiều hơn khiến thể tích máu tăng lên, qua đó làm
lưu lượng máu qua thận tăng trở lại.
5.1.3. Các androgen
Có vai trò thứ yếu đối với hệ sinh dục so với các hormone sinh dục do các tuyến
sinh dục sản xuất.
5.2. Tủy thượng thận
Tủy thượng thận là mô có nguồn gốc như hệ thần kinh. Các hormone của chúng
được gọi chung là các Catecholamin gồm: Adrenalin, Noradrenalin và Dopamin. Chúng
có tác dụng như hệ thần kinh giao cảm, làm:
- Tim đập nhanh, tăng lực co bóp của tim.
- Co mạch dưới da, giãn mạch các tạng, làm tăng huyết áp.
- Giãn cơ trơn.
- Tăng mức chuyển hóa, tăng hoạt động và gây hưng phấn.
Receptor của các catecholamin có nhiều loại: 1, 2, 1, 2. Ví dụ ở cơ tim có receptor
là 1, và ở phế quản là 2.
6. Tuyến tụy nội tiết.

Hình 9.8. Cấu trúc tuyến nội tiết.


- Các đảo Langerhans còn gọi là tụy nội tiết, phân biệt với tụy ngoại tiết. Tụy ngoại
tiết tiết dịch tụy để đổ vào ruột và tiêu hóa thức ăn, tụy nội tiết là các đảo Langerhans. Mỗi
đảo Langerhans có 3 loại tế bào: tiết Insulin, : tiết glucagon và : tiết somatostatin.
6.1. Insulin
Có vai trò quan trọng trong điều hòa lượng glucose trong máu.
- Glucose được hấp thụ từ ruột sau khi ăn dưới tác động của Insulin sẽ
chuyển vào gan nhanh chóng và dự trữ dưới dạng glycogen, vì vậy nồng độ Glucose trong
máu không tăng quá cao. Lúc đói thì lượng glucose lại giảm và làm tụy tiết Insulin ít hơn,
glycogen trong gan lại được phân giải thành glucose khiến nồng độ glucose không giảm
quá thấp. (Trường hợp quá nhiều glucose thì ngoài glycogen, gan sẽ chuyển thành acid
béo và đưa đến các mô thành lipid).
- Tăng vận chuyển glucose vào tế bào cơ và dự trữ dưới dạng glycogen trong tế
bào cơ.
- Ức chế tạo đường mới.
Tóm lại Insulin là hormone gây giảm glucose máu.
* Bệnh đái tháo đường: Nồng độ glucose trong máu quá cao vượt quá ngưỡng lọc
của thận và làm xuất hiện đường trong nước tiểu. Nguyên nhân do tổn thương tế bào
Langerhans loại nên giảm tiết Insulin hoặc do việc giảm các receptor tiếp nhận Insulin tại
tế bào đích.
115
6.2. Glucagon
Glucagon làm tăng nồng độ glucose trong máu bằng cách phân giải glycogen, tăng
tạo đường mới ở gan (ngược lại với Insulin).
6.3. Somatostatin
- Làm giảm tiết Insulin và Glucagon.
- Giảm nhu động và giảm tiết dịch dạ dày-ruột.
- Ức chế bài tiết gastrin…
Như vậy, somastotin kéo dài thời gian đưa chất dinh dưỡng từ hệ tiêu hóa vào
máu.
LƯỢNG GIÁ:
1. Anh (chị) hãy trình bày đặc điểm cấu tạo của các tuyến nội tiết trong cơ thể?
2. Anh (chị) hãy trình bày đặc điểm cơ bản của hormone?
3. Anh (chị) hãy trình bày chất tiếp nhận hormon, cơ chế tác dụng và cơ chế điều hoà bài
tiết của hormon?
4. Anh (chị) hãy trình bày bản chất hoá học, tác dụng và điều hoà bài tiết từng hormon
của vùng dưới đồi, tuyến yên, tuyến giáp, tuyến cận giáp, tuyến tụy, tuyến thượng thận?
5. Anh (chị) hãy trình bày bản chất hoá học, tác dụng của các hormon tại chỗ?
6. Anh (chị) hãy trình bày các bệnh nội tiết thường gặp dựa trên các tác dụng của các
hormon?

116
Bài 10
SINH LÝ SINH SẢN
MỤC TIÊU:
1. Trình bày được đặc điểm cấu trúc chức năng của sinh lý sinh sản nam.
2. Trình bày được chức năng sinh lý điều hòa chức năng tinh hoàn và vai trò
của testosteron.
3. Trình bày được đặc điểm cấu trúc chức năng của sinh lý sinh sản nữ.
4. Trình bày được chức năng sinh lý sản sinh noãn, phóng noãn, chu kỳ kinh
nguyệt, đáp ứng hệ thống sinh dục nữ và vai trò của estrogen, progesteron.
5. Trình bày được các giai đoạn của chu kỳ kinh nguyệt và kể được các biện
pháp tránh thai hiện nay.

NỘI DUNG:
I. SINH LÝ SINH SẢN NAM.
1. Giải phẫu của tinh hoàn.

Hình 10.1. Cấu tạo bộ máy sinh dục nam.


- Tinh hoàn có tổ chức xơ bao quanh, có nhiều vách, chia nhiều ngăn, mỗi ngăn có
một số ống sinh tinh dài ngoằn ngoèo, gấp khúc.
- Thành ống sinh tinh có những tế bào mầm nguyên thủy, tiền thân của tinh trùng.
Những ống sinh tinh đổ vào một mạng nhiều ống ở mào tinh, từ đó tinh trùng được đổ
vào ống dẫn tinh, rồi đổ vào túi tinh.
- Khi phóng tinh, tinh trùng đổ vào ống phóng, tiếp nối với niệu đạo tuyến tiền liệt.
Giữa những ống sinh tinh là những tế bào kẽ (tế bào Leydig). Tế bào kẽ bài tiết hormone
sinh dục nam testosteron.

117
Hình 10.2. Cấu tạo của tinh hoàn.
2. Chức năng của tinh hoàn.
2.1.Chức năng ngoại tiết.
2.1.1. Sản xuất tinh trùng:
- Những tế bào mầm nguyên thủy ở ống sinh tinh phát triển thành tinh bào I, tinh
bào I phân chia giảm nhiễm thành tinh bào II, rồi thành tiền tinh trùng rồi thành tinh trùng.
Quá trình phát triển từ tế bào mầm nguyên thủy thành tinh trùng mất khoảng 74 ngày. Tinh
trùng là tế bào di động được.
- Tinh hoàn bắt đầu sản xuất tinh trùng từ tuổi dậy thì và sản xuất liên tục suốt đời
(khác với buồng trứng hoạt động có giai đoạn).
- Sản sinh tinh trùng cần nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ cơ thể, trường hợp tinh hoàn
ẩn, tức là không di chuyển xuống bìu, còn nằm trong ổ bụng sẽ không có khả năng sản
sinh tinh trùng.
- Tinh trùng có hai loại mang nhiễm sắc thể giới tính khác nhau, loại mang nhiễm
sắc thể Y, loại mang nhiễm sắc thể X (tế bào trứng chỉ có một loại nhiễm sắc thể X ).
Giai đoạn đầu: tinh nguyên bào A phân chia 4 lần thành tinh nguyên bào B. Là tế
bào biểu mô của thành ống sinh tinh. Có 2-3 lớp. Tăng sinh liên tục.
Sự phân chia giảm nhiễm: Tinh nguyên bào --> tinh bào I --> tinh bào II --> tiền
tinh trùng.

118
Hình 10.3. Các giai đoạn sản sinh ra tinh trùng.
Khi thụ thai nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y gặp trứng mang nhiễm sắc thể X
sẽ thành cặp nhiễm sắc thể XY như vậy là sinh con trai, nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể
X gặp trứng mang nhiễm sắc thể X sẽ thành cặp nhiễm sắc thể XX như vậy là sinh con gái.
2.1.2. Sự phát triển của tiền tinh trùng:
- Mất một ít bào tương, tổ chức lại chromatin của nhân để tạo ra đầu tinh trùng.
Phần bào tương và màng tế bào còn lại thay đổi hình dạng để tạo đuôi tinh trùng.
- Cấu tạo vi thể của tinh trùng gồm đầu, cổ, và đuôi (hình 10.4).
+ Đầu: chứa nhân nằm sát với cổ, túi cực đầu phủ 2/3 nhân chứa hyaluronidase
(phân giải proteoglycan của mô) và enzym phân giải protein, giúp tinh trùng đi vào bào
tương, thụ tinh với noãn.
+ Cổ: có 9 sợi cột chia đoạn, trung thể.
+ Đuôi: có 9 sợi đặc tiếp nối cột chia đoạn được quấn quanh bởi các ti thể
- Sự thành thục của tinh trùng ở mào tinh hoàn: Ở mào tinh hoàn 18-24 giờ, tinh trùng mới
có khả năng vận động mạnh nhờ đuôi và lấy năng lượng từ ATP.

119
Hình 10.4. Cấu tạo của tinh trùng.
2.1.3. Tinh dịch:
- Tinh dịch là chất dịch chứa tinh trùng và những chất tiết của các tuyến sinh dục
phụ như túi tinh, tuyến tiền liệt, tuyến của niệu đạo…
- Số lượng tinh trùng trung bình khoảng 100 triệu / 1ml tinh dịch. Để thụ thai chỉ
cần 1 tinh trùng, nhưng nếu người có lượng tinh trùng < 20 triệu / 1ml tinh dịch thì sẽ bị
vô sinh.
2.2. Chức năng nội tiết của tinh hoàn.
Tinh hoàn sản xuất nội tiết tố sinh dục nam testosteron do tế bào kẽ Leydig chịu
trách nhiệm. Tác dụng của testosteron:
- Phát triển cơ quan sinh dục phụ: Tuyến tiền liệt, túi tinh, giới tính thứ phát như
mọc lông, râu, giọng nói trầm, khung chậu hẹp.
- Cùng với FSH chuyển tiền tinh trùng thành tinh trùng.
- Tác dụng chuyển hóa: đồng hóa protit và kích thích sự tăng trưởng
- Ở nữ giới: Testosteron có tác dụng ức chế nang trứng phát triển, ức chế bài tiết
sữa, gây nam tính hóa.
- Estrogen: Do tế bào Sertoli ở ống sinh tinh bài tiết, có tác dụng tăng sinh làm cho
tuyến tiền liệt, túi tinh, ống dẫn tinh phát triển.
2.2.1. Testosteron
- Nguồn gốc: do tế bào Leydig bài tiết
- Bản chất hóa học: hợp chất steroid có 19C, tổng hợp từ cholesterol hoặc acetyl-
CoA.
- Vận chuyển và chuyển hoá: 97% gắn lỏng lẻo với albumin huyết tương hoặc gắn
chặt hơn với bêta globulin.
- Lưu hành trong máu khoảng 30 -60 phút. Đến mô đích hoặc thoái hoá thành dạng
bất hoạt rồi bài xuất khỏi cơ thể.
2.2.2. Tác dụng
- Thời kỳ bào thai:
+ Từ tuần thứ 7 thời kỳ bào thai : Kích thích phát triển cơ quan sinh dục ngoài và
trong theo kiểu nam (dương vật, bìu, tuyến tiền liệt, túi tinh, đường dẫn tinh, ống dẫn tinh).
120
2-3 tháng cuối của thai kỳ, đưa tinh hoàn từ bụng xuống bìu. Nếu không đủ testosteron,
tinh hoàn nằm ở ổ bụng sẽ khó sản sinh tinh trùng vì yếu tố nhiệt độ.
- Từ tuổi dậy thì:
Làm xuất hiện và bảo tồn đặc tính sinh dục nam thứ phát (phát triển dương vật,
tuyến tiền liệt, túi tinh, đường dẫn tinh; mọc lông mu, lông nách, mọc râu; gây hói đầu;
giọng nói trầm do thanh quản mở rộng; da dày thô; mọc trứng cá).
+ Kích thích sản sinh tinh trùng.
+ Kích thích sự hình thành tinh nguyên bào và sự phân chia giảm nhiễm lần hai.
+ Kích thích sự tổng hợp protein và bài tiết dịch từ tế bào Sertoli.
- Tác dụng lên chuyển hoá protein và cơ:
+ Đồng hoá protein: khối cơ tăng, tăng lắng đọng protein ở da làm da dày hơn, phì
đại niêm mạc thanh quản, phì đại dây thanh âm làm giọng nói trầm hơn nữ.
- Tác dụng lên xương:
+ Tăng tổng hợp khung protein của xương.
+ Phát triển và cốt hoá sụn liên hợp ở đầu xương dài.
+ Làm dày xương.
+ Tăng lắng đọng muối calci phosphat ở xương do đó làm tăng sức mạnh của
xương.
+ Làm hẹp đường kính, tăng chiều dài và tăng sức mạnh của khung chậu (khung
chậu nam có hình ống khác với khung chậu mở rộng của nữ).
+ Tăng chuyển hoá cơ sở từ 5-10%
- Tăng sinh hồng cầu
- Tăng nhẹ sự tái hấp thu Na+ ở ống lượn xa.
2.2.3. Điều hoà bài tiết testosteron
- Thời kỳ bào thai : HCG do rau thai bài tiết.
- Thời kỳ trưởng thành : LH do tuyến yên bài tiết.
- Inhibin: Là glycoprotein, do tế bào Sertoli bài tiết. Khi số lượng tinh trùng tăng,
kích thích bài tiết inhibin, tạo feedback (-) ức chế bài tiết FSH và GnRH.
II. SINH LÝ SINH SẢN NỮ.
1. Đặc điểm cấu trúc bộ máy sinh lý sinh sản nữ
- Hệ sinh dục nữ bao gồm; Buồng trứng, đường dẫn trứng, tử cung, âm đạo, âm hộ
và tuyên vú.

Hình 10. 5. Thiết đồ đứng dọc chậu hông nữ.


2. Cấu tạo và chức năng của buồng trứng.
121
- Buồng trúng chứa nhiều nang trứng, mỗi nang chứa 1 trứng. Ở bé gái có khoảng
30.000 – 300.000 nang trứng, lúc dậy thì còn vài trăm nang trứng có thể chín và hàng
tháng được phóng ra khi rụng trứng.
- Ở người, trứng thường rụng vào ngày thứ 14 của chu kỳ kinh nguyệt. Trứng rụng
rơi vào loa vòi trứng rồi di chuyển vào vòi trứng di chuyển đến tử cung. Nếu
không thụ thai thì trứng sẽ bị tiêu đi.

Hình 10.6. Các giai đoạn phát triển của nang trứng trong buồng trứng
- Nang vỡ khi rụng trứng tạo thành hoàng thể, tế bào hoàng thể bài tiết progesteron
và estrogen. Nếu thụ thai, hoàng thể tồn tại đến lúc sinh. Nếu không thụ thai,
hoàng thể tồn tại đến 2 - 3 ngày trước chu kỳ kinh nguyệt mới.
- Buồng trứng hoạt động như vậy trong suốt thời kỳ hoạt động của sinh dục nữ.
3. Cấu tạo và chức năng của tử cung.

Hình 10.7. Cấu tạo vòi trứng và tử cung.


Niêm mạc tử cung thay đổi theo các giai đoạn của chu kỳ kinh nguyệt.
- Sau khi rụng trứng thì giai đoạn bài tiết bắt đầu: niêm mạc tử cung phù nề, những
tuyến bài tiết mạnh, ngoằn ngoèo. Giai đoạn bài tiết là chuẩn bị cho trứng làm tổ.
Nếu không thụ thai niêm mạc tử cung bong đi gây ra hiện tượng kinh nguyệt và
chu kỳ mới lại bắt đầu.
- Sau kỳ kinh nguyệt, niêm mạc tử cung phục hồi lại hoàn toàn vào ngày thứ 5, 6
và giai đoạn tăng sinh bắt đầu, niêm mạc dày dần lên, tăng sinh mạch máu, các tuyến dài
ra.
122
4. Âm đạo
- Dưới tác dụng của hormone buồng trứng, âm đạo cũng biến đổi theo chu kỳ,
estrogen làm liên bào âm đạo sừng hóa, progesteron làm tăng sinh tế bào, bài tiết niêm
dịch quánh và có tế bào lympho xâm nhập.
- Các hormone buồng trứng: Buồng trứng bài tiết hai loại hormone là estrogen và
progesteron:
*Estrogen: Estrogen là một steroit do nang trứng và hoàng thể bài tiết. Tác dụng:
+ Làm nang trứng phát triển; làm dày niêm mạc tử cung, tăng sinh tuyến, mạch
máu; biến đổi tế bào âm đạo.
+ Tạo đặc tính sinh dục thứ phát: hình dáng nữ: vai hẹp, khung chậu rộng, giọng
nói thanh...
+ Tác dụng chuyển hóa: giữ muối, nước.
* Progesteron: Progesteron là steroit do tế bào hoàng thể, rau thai bài tiết là chủ yếu, một
lượng nhỏ do vỏ thượng thận, tinh hoàn bài tiết.Tác dụng:
+ Là hormone trợ thai quan trọng nhất: chuẩn bị cho trứng làm tổ, thai phát triển.
Thiếu progesteron thai không phát triển được.
+ Làm cơ tử cung phát triển, mềm không co bóp, niêm mạc phát triển mạnh tuyến
dài ra, ngoằn ngoèo.
+ Ức chế tuyến yên bài tiết LH ( cơ chế tác dụng của thuốc tránh thai), tăng
cường tác dụng bài tiết prolactin.
+ Đối với tuyến vú: phát triển thùy, nang tuyến vú.
5. Chu kỳ kinh nguyệt:
Chu kỳ kinh nguyệt là sự chảy máu tử cung có chu kỳ. Chu kỳ kinh nguyệt ở phụ
nữ trung bình là 28 ngày. Chu kỳ kinh nguyệt có 3 giai đoạn:
5.1. Giai đoạn nang tố hay giai đoạn tăng sinh: 10 ngày
- Tuyến yên bài tiết FSH.
- Buồng trứng: dưới tác dụng của FSH nang trứng phát triển, bài tiết estrogen và
estrogen tăng dần.
- Niêm mạc tử cung: Estrogen kích thích sự tăng sinh niêm mạc tử cung, tử cung
dày lên tăng sinh tuyến, mạch máu.
- Cuối giai đoạn nang tố estrogen tăng cao, tuyến yên sản xuất LH kích thích trứng
chín và rụng. Sản xuất estrogen chấm dứt.
5.2. Giai đoạn hoàng thể hay giai đoạn bài tiết: 14 ngày
- Tuyến yên bài tiết LH
- Buồng trứng: dưới tác dụng của LH, hoàng thể bài tiết progesteron và estrogen.
- Niêm mạc tử cung: progesteron làm tử cung phát triển mạnh, tuyến cong queo, bài
tiết dịch nhầy.
* Cuối giai đoạn này lượng progesteron tăng cao ức chế tuyến yên bài tiết LH, LH
giảm, hoàng thể teo lại progesteron và estrogen giảm dần.
5.3. Giai đoạn chảy máu: 4 ngày
Hoàng thể teo, progesteron, estrogen giảm, động mạch co lại, niêm mạc bị thiếu máu
bong ra chảy máu. Máu chảy ra đông lại sau đó tan ra nên máu kinh nguyệt là máu không
đông. Thời gian chảy máu trung bình 3 – 5 ngày. Một lần kinh nguyệt mất khoảng 40 -
200ml máu.
* Cuối giai đoạn này, khi progesteron giảm thấp nhất thì tuyến yên sản xuất FSH kích
thích nang trứng mới phát triển và chu kỳ tiếp theo bắt đầu.

123
Hình 10.8. Các giai đoạn chu kỳ rụng trứng và chu kỳ kinh nguyệt.
6. Các hormone thời kỳ có thai
6.1. Kích dục tố rau thai HCG (Human Chorionic Gonadotropin):
- HCG là một glucoprotein có tác dụng kích thích hoàng thể tố , kích nhũ tố. Sự có
mặt của HCG trong nước tiểu dùng để chẩn đoán có thai sớm. Vào ngày thứ 8 sau khi thụ
thai đã có HCG trong nước tiểu, HCG tăng cao nhất vào ngày thứ 50 – 60 của thai kỳ.
- HCG tăng rất cao trong chữa trứng, ung thư rau thai.
6.2. Estrogen và progesteron:
- Hai hormone này bình thường do hoàng thể bài tiết, khi có thai thì thêm rau thai
bài tiết. Từ tháng thứ 4 trở đi chỉ còn rau thai bài tiết. Các hormone tăng dần cao nhất vào
tháng thứ 9 và giảm khi gần sinh.
- Hai hormone này làm phát triển tử cung, hệ thống cơ xương, tăng lượng máu,
tăng tuyến vú và chuẩn bị cho tác dụng của prolactin.
6.3. Prolactin:
Là hormone của tuyến yên được sản xuất trong cơ thể mẹ mang thai từ
tháng thứ 8 của thai kỳ. Dưới sự chuẩn bị của estrogen và progestron, prolactin làm bài tiết
sữa.
7. Các biện pháp tránh thai.
7.1. Thuốc tránh thai:
Chủ yếu là dùng hormone.
- Viên thuốc tránh thai kết hợp progesteron và estrogen có tác dụng ức chế tuyến
yên bài tiết FSH và LH gây ức chế phát triển trứng và rụng trứng.
- Viên progesteron liều thấp: Làm giảm tiết dịch nhầy, ngăn cản tinh trùng vào âm
đạo, làm mỏng niêm mạc tử cung ảnh hưởng đến làm tổ của trứng.
- Viên thuốc ngày hôm sau: Ethyl estrogen gây phù nề tổ chức đệm làm cho các
tuyến không có khả năng chế tiết. Do đó ngăn cản quá trình làm tổ ở niêm mạc tử cung.

124
- GnRH tổng hợp (Gonadotropin – releasing – hormone): GnRH là hormone của
vùng dưới đồi, có tác dụng kích thích tuyến yên bài tiết FSH và LH, do đó được dùng để
chữa vô sinh do nguyên nhân không rụng trứng.
Tuy nhiên với liều thích hợp GnRH có tác dụng có tác dụng ức chế rụng trúng.
7.2. Phương pháp Ogino – Knauss:
- Tránh giao hợp vào ngày trứng rụng. Thời gian an toàn là khoảng thời gian không
có trứng rụng khoảng 1 tuần trước ngày có kinh lần sau.
7.3. Dùng bao su, mũ tử cung, màng ngăn âm đạo
7.4. Phóng tinh ngoài âm đạo
7.5. Đặt vòng tránh thai
7.6. Thắt ống dẫn tinh ở nam giới, thắt ống dẫn trứng ở nữ giới.

Hình 10.9. Các biện pháp tránh thai.

LƯỢNG GIÁ:
1. Anh (chị) hãy trình bày đặc điểm cấu trúc chức năng của hệ thống sinh dục và sinh sản
nam (tinh hoàn, dương vật, tuyến sinh dục phụ, tinh dịch)?
2. Anh (chị) hãy trình bày chức năng sinh lý của hệ thống sinh dục – sính sản nam (sản
sinh tinh trùng, đáp ứng hệ thống sinh dục nam, điều hòa chức năng tinh hoàn và vai trò
của testosteron)?
3. Anh (chị) hãy trình bày đặc điểm cấu trúc chức năng của hệ thống sinh dục và sinh sản
nữ (buồng trứng, tử cung, âm đạo, )?
4. Anh (chị) hãy trình bày chức năng sinh lý của hệ thống sinh dục – sính sản nữ (sản
sinh noãn, phóng noãn, chu kỳ kinh nguyệt, đáp ứng hệ thống sinh dục nữ và vai trò của
estrogen, progesteron)?
5. Anh (chị) hãy trình bày nguyên nhân và những thay đổi trong giai đoạn dậy thì, mãn
kinh?
6. Anh (chị) hãy trình bày các biện pháp tránh thai?

Bài 11
SINH LÝ THẦN KINH
MỤC TIÊU:
125
1. Trình bày được đặc điểm cấu tạo của neuron thần kinh, dẫn truyền xung động
thần kinh trên sợi trục.
2. Trình bày được quá trình dẫn truyền xung động thần kinh qua synape, chất
truyền đạt và các yếu tố ảnh hưởng đến dẫn truyền xung động thần kinh qua synape.
3. Trình bày được hình thái và cấu tạo của tủy sống.
4. Trình bày được chức năng của tủy sống và một số rối loạn do tổn thương của
tủy sống.
5. Trình bày được đặc điểm hình thái và chức năng của hành não, cầu não,
trung não, gian não, tiểu não và vỏ não.
6. Trình bày được đặc điểm hình thái và chức năng của thần kinh thực vật.

NỘI DUNG:
I. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ CHỨC NĂNG CỦA TẾ BÀO THẦN KINH.
1. Đặc điểm cấu tạo của neuron.
- Hệ thần kinh trung ương được tạo thành bởi một số lượng lớn tế bào riêng biệt gọi
là nơron, là đơn vị chức năng cơ bản.
- Cấu tạo của nơron gồm có thân và nhiều tua bào tương chia 2 loại: đuôi gai và sợi
trục.
1.1. Thân neuron:
Hình sao, có những cấu trúc riêng ngoài những bào quan thông thường của một tế
bào.
- Thể Nissl là những hạt màu xám chứa nhiều RNA có chức năng tổng
hợp protein.
- Tơ thần kinh là những sợi đường kính 90 Å tạo thành một màng lưới trong thân
nơron

Hình 11.1. Cấu tạo neuron thần kinh


126
1.2. Đuôi gai:
Thường là những tua bào tương ngắn. Mỗi nơron có nhiều đuôi gai.
1.3. Sợi trục:
Thường dài, đầu tận cùng chia thành nhiều nhánh, mỗi nhánh tận cùng bằng cúc
tận cùng. Trong cúc tận cùng có những bong nhỏ chứa Acetylcholin. Có 2 loại sợi trục là
sợi có myelin và sợi không có myelin.
Bao quanh sợi trục là vỏ Schwann gồm những tế bào xếp cạnh nhau chỉ để một
khe hở gọi là eo Ranvier. Bào tương của tế bào này cuộn thành nhiều lớp xung quanh
sợi trục. Đối với những sợi có myelin giữa các lớp đó có myelin bản chất là phospholipids
có tính chất cách điện.
1. 4. Synapse thần kinh :
Là nơi tiếp xúc của sợi trục một nơron với thân và đuôi gai nơron khác hoặc
với tế bào hiệu ứng (cơ, tuyến).
2. Đặc điểm dẫn truyền thần kinh trên sợi trục.
- Sợi trục dài từ vài mm - vài chục cm, vùng gò Hillock có nhiều kênh Na+ đóng
mở do điện thế, chia thành các nhánh tận cùng, đầu nhánh tận cùng là cúc tận cùng chứa
nhiều bọc nhỏ có chất truyền đạt thần kinh. Gồm hai loại sợi là sợi có myelin và sợi không
có myelin.

Hình 11.2. Cấu trúc dẫn truyền trên sợi trục.


Sợi có myelin được bọc bởi các tế bào Schwann bài tiết myelin (lipoprotein), có
tính cách điện. Bao myelin không liên tục, bị đứt quãng thành đoạn 1-1,5mm ở các eo
Ranvier.
Cúc tận cùng có các bọc nhỏ chứa chất truyền đạt thần kinh (neurotransmitter).
Theo quy luật "tất cả hoặc không".
Dẫn truyền xung động thần kinh là dẫn truyền điện thế hoạt động: khi tổng đại số
các kích thích, ức chế tại vùng gò Hillock đạt tới ngưỡng làm xuất hiện điện thế hoạt động
lan truyền toàn bộ màng sợi trục
Dẫn truyền theo cả hai chiều
Tốc độ dẫn truyền ở sợi trục có myelin nhanh hơn sợi không có myelin (xung động
nhảy cách qua eo Ranvier).
Tốc độ dẫn truyền tỷ lệ với đường kính sợi trục
3. Quá trình dẫn truyền xung động thần kinh qua synape.
127
Synap là chỗ tiếp nối giữa sợi trục của một nơron với một tế bào thần kinh khác
hoặc với một tế bào đáp ứng khác (cơ, tuyến). Có hai loại synap là synap điện và synap
hóa học.
Tại các synap điện, dòng điện (dòng ion) lan truyền trực tiếp, nhanh từ tế bào này
sang tế bào khác qua các khe nối giữa hai tế bào
Các synap hóa học bao gồm màng trước synap, khe synap và màng sau synap. Tín
hiệu được dẫn truyền từ tế bào trước synap đến tế bào sau synap qua các hóa chất trung
gian là các chất truyền đạt thần kinh

Hình 11.3. Giải phóng chất truyền đạt thần kinh


- Xung động thần kinh khử cực màng trước synap > mở các kênh Ca2+.
- Ca2+ vào bào tương cúc tận cùng, gắn với receptor ở màng trong cúc tận cùng, tăng ái
lực và kéo các túi chứa chất truyền đạt thần kinh về màng trước synap.
- Các túi chứa chất truyền đạt thần kinh hoà màng với màng trước synap, giải phóng chất
truyền đạt thần kinh.
Mỗi điện thế hoạt động chỉ làm cho một vài bọc nhỏ giải phóng chất truyền đạt
thần kinh.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến dẫn truyền xung động thần kinh.
- Oxy: Ngừng cung cấp oxy trong vài giây thì nơron sẽ ngừng hoạt động (phù
não, nhũn não).
- pH tối thuận là 7,35-7,4.
+ Nhiễm kiềm (pH>7,4): Làm tăng tính hưng phấn nơron, tăng tốc độ dẫn truyền
xung động, gây ra những cơn co giật (khi ghi EEG, nghiệm pháp thở tăng cường- tăng
thải CO2 có thể làm xuất hiện các sóng bệnh lý).
+ Nhiễm toan (pH<7,2): Làm giảm hưng phấn nơron, giảm hoạt động nơron gây
biểu hiện quên, lẫn, hôn mê... (bệnh nhân đái tháo đường hay có biểu hiện hôn mê do bị
nhiễm toan ceton)
- Nhiệt độ tăng gây tăng chuyển hóa và co giật
- Các thuốc
+ Tăng tính hưng phấn do giảm ngưỡng kích thích: cafein, theophillin,
theobromin.
+ Tăng hưng phấn do ức chế chất truyền đạt thần kinh: strychnin.
+ Tăng ngưỡng kích thích, giảm tính dẫn truyền qua synap: thuốc mê, thuốc tê.
5. Một số chất truyền đạt thần kinh.
128
* Các chất được coi là chất dẫn truyền thần kinh nhất thiết phải đạt các tiêu
chuẩn:
- Là chất được tổng hợp trong các neuron.
- Là chất từ neuron tiền synapse, sẽ được giải phóng vào khe synapse khi có sự khử
cực.
- Khi được đưa vào cơ thể như một loại thuốc, chúng sẽ bắt chước tác dụng của
chất dẫn truyền thần kinh nội sinh.
- Có một cơ chế cho sự chuyển thải bay lên làm mất hoạt tính của chất dẫn truyền
đó tại các neuron và khe synapse.
- Sự dẫn truyền các xung đột thần kinh bao gồm sự giải phóng một chất dẫn truyền
từ 1 neuron và sự gắn kết phân tử chất dấn truyền đó vào receptor các neuron khác.
* Quá trình dẫn truyền hoá học này đã bị tác động bởi hầu hết các thuốc được sử dụng
trong tâm thần:
- Tất cả các thuốc chống loạn thần (ngoại trừ Clozapine) đều phát huy tác dụng
bằng việc ức chế các receptor D2 của Dopamine.
- Tất cả các thuốc chống trầm cảm đều có tác dụng làm tăng cường số lượng
serotonin, norepine (hoặc cả 2 loại) ở khe synapse.
- Tất cả các thuốc giải lo âu đều có tác dụng làm tăng cường số lượng serotonin,
norepine (hoặc cả 2 loại) trên các receptor GABA.
II. SINH LÝ TỦY SỐNG.
1. Hình thái và cấu tạo của tủy sống.
Tủy sống là một bộ phận của hệ thần kinh trung ương nằm trong ống sống, có hai
chức năng: chức năng phản xạ và chức năng dẫn truyền.
Tủy sống chia thành 31 đoạn, mỗi đoạn tương ứng với một đốt sống. Từ mỗi đoạn
và ở mỗi bên xuất phát một đôi rễ dây thần kinh sống: rễ trước chi phối vận động, rễ sau
chi phối cảm giác một vùng nhất định của cơ thể. Như vậy cũng có thể nói mỗi đoạn tủy
chi phối vận động và cảm giác một vùng nhất định của cơ thể.

129
Hình 11.4. Nơron sừng
trước của tủy sống Hình 11.5. Các chặng đường dẫn truyền tủy sống.
Sự phân phối thần kinh theo từng đoạn của tủy sống rất thuận tiện cho việc thăm
dò chức năng tủy sống.

2. Chức năng dẫn truyền của tủy sống


Tủy sống dẫn truyền cảm giác từ ngoại vi về trung ương và dẫn truyền vận động
từ trung ương ra ngoại vi.
2.1. Dẫn truyền vận động

130
Hình 11.7. Sơ đồ dẫn truyền vận động của tủy sống – bó tủy- đồi thị.
Tủy sống dẫn truyền vận động theo 2 đường:
- Đường tháp: xuất phát từ vỏ não vùng trán (hồi trán lên), sau đó đi xuống tủy
sống rồi theo rễ trước đến chi phối vận động chủ động cho cổ, thân và tứ chi.
Một đặc điểm quan trọng của đường tháp là bắt chéo: đường tháp xuất phát từ vỏ
não bên này sẽ chi phối vận động cho nửa thân bên kia. Vì vậy, khi não bị tổn thương (u,
chấn thương, xuất huyết…), ta có thể dựa vào vị trí liệt nửa người để chẩn đoán não bị tổn
thương bên nào.
- Đường ngoại tháp: xuất phát từ các nhân vận động dưới vỏ (nhân tiền đình, nhân
đỏ, củ não sinh tư…), sau đó đi xuống tủy sống rồi theo rễ trước đến chi phối vận động tự
động (trương lực cơ, phản xạ thăng bằng, phối hợp động tác…). Ví dụ: động tác tay đánh
đàng xa khi bước đi là vận động tự động do đường ngoại tháp chi phối.
2.2. Dẫn truyền cảm giác
Đường này dẫn truyền các loại cảm giác từ các bộ phận nhận cảm ngoại vi sau đó
theo tủy sống đi lên não. Gồm có các đường sau:
- Đường cảm giác sâu có ý thức
Xuất phát từ các bộ phận nhận cảm ở gân, cơ, khớp theo rễ sau đi vào tủy sống rồi
theo 2 bó Goll và Burdach đi lên vỏ não, cho vỏ não cảm giác về áp lực, trọng lượng, vị trí
không gian và tình trạng hoạt động của các bộ phận trong cơ thể để vỏ não có thể điều hòa
chính xác các động tác chủ động mà không cần nhìn bằng mắt.
Ngoài ra, đường này còn dẫn truyền cảm giác xúc giác tinh tế.
Trong bệnh Tabès, 2 bó Goll và Burdach bị tổn thương, bệnh nhân mất cảm giác sâu có
ý thức. Muốn thực hiện chính xác các động tác chủ động, bệnh nhân phải dùng mắt để điều
131
khiển, nếu nhắm mắt, các động tác sẽ bị rối loạn và dễ bị ngã (dấu hiệu Romberg dương
tính).
- Đường cảm giác sâu không có ý thức
Cũng xuất phát từ các bộ phận nhận cảm ở gân, cơ, khớp (tương tự đường cảm giác
sâu có ý thức), theo rễ sau đi vào tủy sống rồi theo 2 bó Gowers và Flechsig đi lên tiểu
não, cho tiểu não cảm giác về trương lực cơ để tiểu não tham gia điều hòa các động tác tự
động thông qua đường ngoại tháp.
- Đường dẫn truyền xúc giác
Xuất phát từ các bộ phận nhận cảm xúc giác trên da và niêm mạc (tiểu thể Meissner
và tiểu thể Pacini) rồi theo rễ sau vào tủy sống, sau đó đi lên đồi thị và tận cùng ở vỏ não
đối bên. Đường này dẫn truyền cảm giác xúc giác thô sơ, còn gọi là bó Dejerin trước.
Còn cảm giác xúc giác tinh tế được dẫn truyền theo 2 bó Goll và Burdach.
- Đường dẫn truyền cảm giác nóng lạnh và cảm giác đau
Xuất phát từ các bộ phận nhận cảm nóng lạnh trên da (tiểu thể Ruffini, tiểu thể
Krause) và các bộ phận nhận cảm đau ở ngoại vi rồi theo rễ sau vào tủy sống, sau đó đi lên
đồi thị và tận cùng ở vỏ não đối bên, còn gọi là bó Dejerin sau.
3. Chức năng phản xạ của tủy sống
Để nghiên cứu chức năng này, người ta thường dùng ếch đã cắt bỏ não chỉ còn lại
tủy sống gọi là con vật tủy.
3.1. Quy luật phản xạ tủy
Làm thí nghiệm: dùng một ếch tủy treo trên giá. Đặt lên bàn chân sau của nó một
mẩu giấy thấm đã nhúng vào dung dịch acid để kích thích. Thay đổi nồng độ dung dịch
để có những kích thích với cường độ tăng dần thì thấy:
- Khi cường độ kích thích yếu thì chỉ chân bị kích Phản xạ theo quy luật một
thích co: bên.
- Khi cường độ kích thích vừa thì cả chân bên kia Phản xạ theo quy luật đối
cũng co: xứng.
- Khi cường độ kích thích cao thì cả chân trước cùng Phản xạ theo quy luật
bên cũng co: khuếch tán.
- Khi cường độ kích thích quá cao, thì cả 4 chân đều Phản xạ theo quy luật toàn
co, con vật giãy giụa: thể.
3.2. Cung phản xạ tủy
Các bộ phận của cung phản xạ tủy gồm:
- Bộ phận nhận cảm là da và cân
- Đường truyền về là các sợi thần kinh cảm giác.
- Trung tâm của cung phản xạ là chất xám của tủy sống.
- Đường truyền ra là các sợi thần kinh vận động.
- Bộ phận đáp ứng là cơ và tuyến.

132
Hình 11.8. Cung phản xạ của tủy sống.
3.3. Các phản xạ tuỷ sống
- Tuỷ sống là trung tâm của nhiều phản xạ đơn synap và đa synap. Phản xạ đơn
synap được thực hiện thông qua một tiếp nối giữa nơron cảm giác và vận động. Phản xạ
đa synap được thực hiện qua các nơron trung gian.
- Cung phản xạ gồm 5 bộ phận: Bộ phận nhận cảm, đường truyền về là sợi cảm
giác, trung tâm của phản xạ nằm ở chất xám tuỷ, đường truyền ra là sợi vận động và cơ
quan đáp ứng là các cơ, tuyến. Phản xạ chỉ thực hiện trên cơ sở cung phản xạ còn nguyên
vẹn về cấu trúc và chức năng.
* Phản xạ căng cơ: Khi suốt cơ bị kéo dài ra, kích thích sợi cảm giác của suốt cơ,
kích thích nơron alpha gây co cơ

Hình 11.9. Cung phản xạ căng cơ.

* Phản xạ gân - cơ:


- Khi co cơ, gân bị kéo căng kích thích thụ cảm thể Golgi ở giữa các sợi gân.
- Đường dẫn truyền về: Theo các sợi A alpha có tốc độ nhanh về tủy, cho biết sức
căng của cơ.
133
- Trung tâm là tủy sống: Xung động được truyền về tuỷ sống ức chế gián tiếp nơron
vận động alpha qua các nơron trung gian, tế bào Renshaw
- Đường vận động đi ra: Nơron alpha bị ức chế, ngăn không cho cơ căng quá mức.
- Điều hòa: Sợi cơ nào đã co mạnh thì bị ức chế và ngược lại làm sức tải được phân
bố đồng đều, tránh được một số sợi phải chịu tải quá mức dẫn đến bị tổn thương. Thụ cảm
thể Golgi thường xuyên thông báo cho các trung tâm vận động cao hơn về những thay đổi
tức thời độ căng ở các cơ.
- Phản xạ gân-cơ: gõ vào gân làm cơ bị kéo căng gây phản xạ co cơ đồng vận và
giãn cơ đối vận
Bảng 11.1. Các đáp ứng của phản xạ khi bị kích thích
Tên Kích thích Đáp ứng Trung
tâm
Phản xạ nhị đầu Gõ lên gân cơ nhị đầu Gấp cẳng tay C5 - C6

Phản xạ châm quay Gõ vào trước mỏm châm Co cơ ngửa C5 - C6


quay dài

Phản xạ tam đầu cánh Gõ vào gân cơ tam đầu cánh Duỗi cẳng tay C7 - C8
tay tay

Phản xạ gân cơ tứ đầu Gõ vào gân cơ tứ đầu Duỗi cẳng L3 - L5


chân

Phản xạ gót Gõ vào gân Achille Duỗi bàn S1


chân

- Phản xạ gấp (rút lui). Khi một vùng da của chi bị kích thích bởi tác nhân có hại
thì gây phản xạ làm gấp chi đó lại, những nơi khác xuất hiện phản xạ giúp cơ thể hoặc một
phần cơ thể tránh xa tác nhân có hại.
- Kích thích vào receptor đau ở da, theo các sợi thần kinh A delta và C về tủy sống,
tạo cung phản xạ đa synap với nhiều mạng nơron trung gian lan tỏa tới các cơ cần thiết
khác, mạng ức chế các cơ đối lập, mạng lặp lại kích thích sau khi kích thích đã chấm dứt
cùng với kích thích nơron alpha gây co cơ bị kích thích.
- Phản xạ duỗi chéo khi có kích thích, chi cùng bên sẽ gấp lại còn chi đối bên sẽ
duỗi ra do xung động bắt chéo sang bên đối diện qua nhiều nơron trung gian tạo ra sự co-
duỗi các cơ đồng vận-đối vận chi bên đối diện, phối hợp vận động của các chi để đưa cả
cơ thể ra xa tác nhân gây đau.
* Phản xạ da- niêm mạc:
Kích thích trên da-niêm mạc gây co cơ ở vùng cung phản xạ chi phối.
Bảng 11.2. Các đáp ứng khi kích thích tại các vùng da trên cơ thể.
Tên Kích thích Đáp ứng Trung tâm
Phản xạ niêm Quệt ít sợi Chớp mắt. Cầu não
mạc mắt bông vào giác
mạc

134
Phản xạ da bìu Gãi kim vào Co cơ bìu, tinh hoàn bị S1-2
mặt trong da đùi kéo lên trên.
Phản xạ da bụng Vạch kim đầu Co cơ thành bụng, rốn D8-D9;
tù trên da bụng rúm lại, lệch sang phía D10; D11-
bên bị kích thích. D12
Phản xạ hậu môn Kích thích bằng Co cơ vòng hậu môn, S2 - S4
kim vào vùng hậu lỗ hậu môn khít lại.
môn
Phản xạ da gan bàn Gãi dọc da bàn Các ngón chân cụp S1
chân-dấu hiệu Babinski chân xuống, chân rụt lại tránh
kích thích.

4. Rối loạn do đứt ngang tủy hoàn toàn: hiện tượng sốc tủy
Hiện tượng sốc tủy: ngay sau khi tủy bị đứt ngang hoàn toàn, ở phần cơ thể phía
dưới tổn thương:
- Mất vận động hoàn toàn.
- Mất cảm giác hoàn toàn.
- Mất trương lực cơ hoàn toàn.
- Mất hết các phản xạ.
Thời gian sốc tủy dài hay ngắn tùy theo động vật, động vật càng cao cấp thì thời
gian sốc tủy càng dài (ếch choáng 1 phút, chó choáng vài giờ, người choáng 2-3 tuần).
Sau một thời gian, các phản xạ và trương lực cơ hồi phục, cuối cùng các phản xạ
và trương lực cơ lại tăng nhưng vận động vẫn mất hoàn toàn.
Giải thích hiện tượng sốc tủy
- Hiện tượng sốc tủy xuất hiện do tủy sống mất kiểm soát của não.
- Sau đó, tủy phát huy chức năng phản xạ độc lập của nó làm cho các phản xạ và
trương lực cơ hồi phục.
- Do mất sự ức chế của não, tủy tăng hoạt động làm cho các phản xạ và trương lực
cơ lại trở nên quá mức bình thường.
III. SINH LÝ NÃO BỘ.
1. Hình thái và chức năng hành não – cầu não.
Hành não cũng như tủy sống có hai chức năng: chức năng phản xạ, và chức năng
dẫn truyền nhưng chức năng phản xạ của hành não quan trọng hơn vì liên quan mật thiết
với tính mạng.
1.1. Chức năng phản xạ của hành não
Ở hành não có trung tâm của nhiều phản xạ.
1.1.1. Phản xạ điều hòa hô hấp
Ở hành não có trung tâm hít vào và trung tâm thở ra. Qua 2 trung tâm này và trung
tâm điều chỉnh hô hấp ở cầu não thực hiện được những phản xạ điều hòa hoạt động của bộ
máy hô hấp.
1.1.2. Phản xạ điều hòa hoạt động tim
Ở hành não có nhân của dây X và qua dây thần kinh này thực hiện những phản xạ
điều hòa hoạt động tim.

135
1.1.3. Các phản xạ tiêu hóa
- Phản xạ nhai, nuốt.
- Phản xạ làm bài tiết nước bọt, dịch vị, dịch tụy, dịch mật.
- Phản xạ vận động của dạ dày.
- Phản xạ nôn.
1.1.4. Phản xạ hô hấp
Có tính chất bảo vệ như phản xạ ho, phản xạ hắt hơi.
1.1.5. Phản xạ giác mạc
Được dung để theo dõi gây mê, hôn mê.
1.2. Chức năng dẫn truyền của hành não
Hành não là trạm mà tất cả những đường dẫn truyền lên xuống giữa não và tủy đi
qua, ngoài ra hành não còn dẫn truyền:
2.2.1. Cảm giác:
Hành não dẫn truyền cảm giác từ da mặt, niêm mạc mắt, tai mũi họng, từ các tạng
của lồng ngực và ổ bụng.
2.2.2. Vận động:
Hành não dẫn truyền vận động theo các dây thần kinh sọ não V, VII, IX, X, XI,
XII.
1.3. Chức năng cầu não.
- Phần nền cầu phía trước có các sợi chạy dọc, ngang và các nhân cầu.
- Các sợi cầu ngang đi đến tiểu não bên đối diện theo bó cầu-tiểu não.
- Các sợi cầu dọc chứa bó vỏ- cầu, vỏ-nhân.
- Phần trần cầu gồm các nhân cảm giác và vận động V, nhân vận động dây VI, nhân
dây VII, VIII, nhân trám trên, nhân lưới.
- Chất trắng của trần cầu chứa các sợi bó liềm bên từ nhân ốc tai đi lên, liềm tủy từ
tủy sống và liềm sinh ba từ nhân cảm giác dây V.
- Chức năng cầu não liên quan tới tư thế, dáng đi, thính giác, cân bằng, khứu giác,
điều chỉnh nét mặt, hơi thở và nuốt.
2. Hình thái và chức năng của trung não – gian não.
2.1. Trung não (não giữa)
- Não giữa gồm cuống đại não ở trước và mái trung não ở sau. Cuống đại não là
phần chất trắng nằm trước chất đen ngăn với phía sau là trần trung não, chứa các sợi đi qua
nền cuống là sợi vỏ-tủy, vỏ nhân của dải tháp và các sợi vỏ-cầu. Chất xám của trần trung
não gồm chất xám trung tâm, nhân vận động dây IV, III, nhân phó giao cảm của vận nhãn
phụ, nhân dây V, nhân đỏ, nhân của cấu tạo lưới. Chất trắng trần trung não chứa các sợi
như ở phần nền cuống và thêm các dải từ nhân đỏ, mái trung não xuống tủy (nhân đỏ-tủy,
mái-tủy). Mái trung não chứa các nhân gò dưới và gò trên.
- Nhân đỏ nhận thông tin từ vùng 4, 6 của vỏ não, nhân bụng bên của đồi thị, nhân
răng, nhân mái của tiểu não, đưa thông tin xuống tuỷ sống qua bó nhân đỏ-tủy có tác dụng
làm giảm trương lực cơ.
- Nhân gò trên và dưới nhận các sợi vận động từ vỏ não xuống, là nơi xuất phát của
bó mái-tủy, chi phối vận động của đầu, mắt, thân. Nhân gò trên là trung tâm của phản xạ
định hướng với ánh sáng (quay đầu đưa mắt về phía nguồn sáng). Nhân gò dưới là trung
tâm của phản xạ định hướng với âm thanh (quay đầu hướng tai về phía nguồn âm).

2.2. Não trung gian (gian não)

136
- Gồm đồi thị, trên đồi (tuyến tùng), sau đồi (thể gối trong, ngoài), dưới đồi (nhân
dưới đồi thị), hạ đồi (nằm trên tuyến yên).
- Chức năng chung dẫn truyền cảm giác, vận động, điều hòa, tích hợp các hoạt động
của hệ thần kinh tự chủ, thần kinh – nội tiết, điều nhiệt, hành vi ăn, uống…
* Đồi thị:
- Đồi thị là cấu trúc chất xám lồi vào trong não thất bên và não thất ba, gồm 23 nhân
nhận thông tin cảm giác trên đường dẫn truyền của nó tới vỏ não, truyền thông tin từ tiểu
não tới vùng vỏ não vận động, trí nhớ.
- Cấu tạo lưới của đồi thị có tác dụng tập hợp các tín hiệu cảm giác từ dưới lên cùng
với các tín hiệu vận động từ các nhân dưới vỏ gây ra kích thích truyền xuống tuỷ sống qua
bó lưới- tuỷ, làm tăng trương lực cơ và các phản xạ tuỷ.
* Vùng hạ đồi (Hypothalamus)
- Vùng hạ đồi (Hypothalamus) gồm nhóm trước, nhóm giữa và nhóm sau. Liên hệ
mật thiết với thuỳ trước tuyến yên qua hệ mạch cửa, với thuỳ sau tuyến yên bằng đường
thần kinh. Từ vùng dưới đồi có nhiều đường liên lạc thần kinh với các cấu trúc khác của
vỏ não, não giữa, não sau, đặc biệt là đến hệ limbic.
- Chức năng của vùng dưới đồi gồm
+ Chức năng nội tiết
+ Chức năng biệt hoá thể thức hoạt động sinh dục ở thời kỳ bào thai
+ Chức năng chống bài niệu: hormon ADH
+ Chức năng chuyển hoá carbohydrat, lipid, nước
+ Chức năng tự chủ
+ Chức năng điều nhiệt: Vùng trước là trung tâm chống nóng, vùng sau là trung
tâm chống lạnh.
+ Chức năng dinh dưỡng: Nhân bụng giữa được xem là trung tâm no
+ Chức năng khác liên quan đến trạng thái thức ngủ, xúc cảm, hành vi.
3. Hình thái và chức năng của tiểu não – vỏ não.
3.1. Đặc điểm cấu trúc của tiểu não:
- Tiểu não là một phần của hệ thần kinh trung ương, nằm trên đường qua
lại giữa tuỷ sống và các cấu trúc trên tuỷ sống.

Hình 11.10. Hình thái bên ngoài tiểu não.


- Cắt ngang qua tiểu não thấy chất xám tạo thành vỏ và các nhân tiểu não, còn
chất trắng nằm ở phía trong. Vùi trong chất trắng là các nhân tiểu não như nhân răng,
nhân xen, nhân đỉnh.
3.2. chức năng của tiểu não:
- Dựa vào chức năng có thể chia tiểu não thành ba phần: Nguyên tiểu não, tiểu não
cổ, tiểu não mới.
+ Nguyên tiểu não: giữ thăng bằng cho cơ thể
+ Tiểu não cổ: giảm trương lực cơ cùng bên, là trung tâm của phản xạ tư thế và
137
chỉnh thế.
+ Tiểu não mới: tăng trương lực cơ, điều hoà phối hợp động tác phức tạp
- Chức năng: Tiểu não có vai trò quan trọng trong việc giữ thăng bằng, điều hòa
trương lực cơ, điều hoà và phối hợp các động tác mang tính kỹ năng cao đòi hỏi giữa
phối hợp giữa học tập và thực hành (ví dụ đánh tenis, bóng rổ) bằng cách:
+ Giám sát chủ động các vận động qua bó vỏ cầu tiểu não đối với các vận động
được chương trình hóa
+ Giám sát hoạt động tại chỗ qua tiếp nhận thông tin từ receptor bản thể , bộ máy
tiền đình, mắt.
+ So sánh các tín hiệu đã được ra lệnh với thông tin cảm giác để điều chỉnh các
động tác đúng tầm , đúng hướng và đúng đích.
+ Điều chỉnh động tác nếu xảy ra sự không tương ứng giữa vận động dự kiến và
thực tế, tiểu não sẽ gửi tín hiệu đến nơron trung ương > đồi thị > UMN ở vỏ não và thân
não làm động tác ít sai sót, thuần thục hóa.
- Hội chứng tiểu não:
+ Hội chứng tiểu não có thể gặp trong các tổn thương trực tiếp của tiểu não hoặc
tổn thương các đường liên hệ đến và đi khỏi tiểu não, có thể đối bên hoặc cùng bên.
+ Tổn thương tiểu não nói chung gây giảm trương lực cơ, rối loạn thăng bằng, rối
loạn điều hòa phối hợp động tác và một số rối loạn khác.
3.3. Đặc điểm cấu trúc vỏ não.
-Vỏ não là lớp chất xám bao quanh hai bán cầu đại não, nhận thông tin cảm giác
thị giác, thính giác, mùi, vị và xúc giác; điều khiển vận động, trí nhớ, xúc cảm, trí tuệ,
ngôn ngữ. Vỏ não có 6 lớp tế bào, ngoài cùng là lớp tế bào tháp.
- Trên vỏ não có những rãnh và nếp chia vỏ não thành các hồi và thuỳ. Brodmann
đã chia vỏ não thành 50 vùng đánh số từ 1 đến 50: vận động, cảm giác, phối hợp.

Hình 11.11. Vùng chức năng vận động của vỏ não.


3.3.1. Các vùng giác quan
* Vùng thị giác:
Có 2 vùng:

138
- Vùng thị giác thông thường là vùng 17 thùy chẩm cho ta cảm giác ánh sáng, nhìn
thấy vật. Nếu tổn thương thì mù.
- Vùng thị giác nhận thức là vùng 18, 19 thùy chẩm cho ta nhận thức được vật nhìn
thấy. Nếu tổn thương thì vẫn nhìn thấy vật nhưng không biết vật gì.
* Vùng thính giác:
Có 2 vùng:
- Vùng thính giác thông thường là vùng 41, 42 thùy thái dương cho ta cảm giác âm
thanh, nghe được tiếng.
- Vùng thính giác nhận thức là vùng 22 thùy thái dương cho ta nhận thức được âm
thanh nghe thấy. Nếu tổn thương thì vẫn nghe được nhưng không biết tiếng gì.
* Vùng vị giác:
Ở phần dưới của hồi đỉnh lên, cùng một chỗ với vùng cảm giác của lưỡi. Nếu tổn
thương thì không biết vị của thức ăn đồng thời lưỡi không biết nóng, lạnh, đau.
* Vùng khứu giác:
Ở hồi hải mã, thùy thái dương. Nếu tổn thương thì không biết mùi (điếc mũi).
* Vùng cảm giác
Bao gồm cảm giác sờ, nóng, lạnh và đau, chiếm hồi đỉnh lên thùy đỉnh.
- Nếu vùng này bị tổn thương thì mất cảm giác sờ, nóng, lạnh và đau ở nửa thân
bên kia.
- Phần nào của cơ thể có cảm giác tinh vi thì vùng cảm giác tương ứng ở não rộng,
ví dụ vùng cảm giác của bàn tay.
3.3.2. Vùng vận động và tiền vận động
*Vùng vận động
Chiếm hồi trán lên là nơi xuất phát của các bó tháp, chi phối vận động tự chủ.
- Bộ phận nào của cơ thể có những cử động tinh vi thì vùng cử động tương ứng ở
vỏ não rộng, ví dụ các ngón tay.
- Nếu vùng này bị tổn thương thì sẽ mất vận động ở nửa thân bên kia.
- Nếu kích thích ở một điểm của vùng này thì tùy theo cường độ kích thích sẽ gây
nên co giật một số cơ ở nửa thân bên kia hoặc co giật toàn thân.
- Nếu kích thích là do một tổn thương bệnh lý thì co giật đó gọi là động kinh.
*Vùng tiền vận động
Là nơi xuất phát những sợi đi đến các nhân của các bó ngoại tháp chi phối vận
động không tự chủ.
3.3.3. Vùng lời nói
* Vùng Broca
Là vùng vận động của lời nói tức là chi phối các cơ tham gia phát âm. Nếu tổn
thương vùng này thì không nói được (câm) nhưng hiểu lời, hiểu chữ. Vùng Broca là vùng
44, 45.
* Vùng Wernicke
Là vùng nhận thức của lời nói, chiếm hồi nếp cong. Nếu tổn thương vùng này thì
câm nhưng đồng thời không hiểu lời, hiểu chữ.
3.4. Hiện tượng điện ở não
Khi tế bào vỏ não hoạt động thì xuất hiện dòng điện hoạt động của vỏ não. Dòng
điện này có thể ghi được bằng cách đặt 2 điện cực lên da đầu và nối với máy ghi. Đường
ghi gọi là điện não đồ gồm 4 loại sóng:

139
3.4. 1. Sóng anpha ( α )
Xuất hiện đều đặn tạo thành nhịp với tần số 8-12 chu kỳ/ giây, biên độ có thể đến
80 microvon, thường thấy ở phần sau não.
3.4.2. Sóng beta ( β )
Xuất hiện khá đều đặn tạo thành nhịp với tần số 13-35 chu kỳ/ giây, biên độ 20
microvon, thường thấy ở phần trước não.
3.4.3. Sóng beta ( β )
Xuất hiện đơn độc ở người lớn nhiều hơn ở trẻ em với tần số 4-7 chu kỳ/ giây, biên
độ 40 microvon.
3.4.4. Sóng denta ( δ)
Xuất hiện đơn độc ở trẻ em, người lớn không có, tần số 1-3 chu kỳ/ giây, biên độ
20 microvon.
4. Sinh lý thần kinh thực vật.
4.1. Đặc điểm cấu trúc chức năng thần kinh thực vật.
- Đường thần kinh của tạng: Gồm 3 nơron: một nơron truyền về và hai nơron
truyền ra. Nơron truyền ra thứ nhất, thân nằm ở trung tâm thực vật, sợi trục đi đến
một hạch và được gọi là sợi trước hạch. Nơron truyền ra thứ hai thân nằm ở hạch,
sợi trục đi đến tạng và được gọi là sợi sau hạch.
- Hệ thần kinh thực vật gồm 2 hệ: giao cảm và phó giao cảm.
4.1.1. Hệ giao cảm
Gồm những sợi xuất phát từ các trung tâm ở sừng bên chất xám tủy thuộc đoạn lưng
1 đến thắt lưng 3.
4.1.2. Hệ phó giao cảm
Gồm: - Những sợi xuất phát từ các nhân ở cuống não, nhân nước bọt trên, nhân
nước bọt dưới, nhân lưng ở hành não lần lượt đi theo các dây thần kinh sọ não III, VII, IX,
X.

Hệ giao cảm

Hình 11.12. Cấu trúc hệ thần kinh thực vật.


- Những sợi xuất phát từ các trung tâm ở sừng trước chất xám tủy thuộc các
đoạn tủy cùng 2 – 4.
140
- Đối với hệ giao cảm thì hạch ở gần trung tâm, xa tạng, còn đối với hệ phó giao
cảm thì hạch xa trung tâm, gần tạng và có khi ở ngay trên tạng. Hầu hết các tạng
nhận sợi của cả hai hệ trừ tụy chỉ nhận sợi phó giao cảm, tử cung chỉ nhận sợi giao
cảm.
4.2. Chức năng hệ giao cảm
4.2.1. Đối với các tạng:
Bảng 11.3. Tác dụng hệ giao cảm lên các cơ quan phủ tạng.

4.2.2. Đối với cơ vân:


Các sợi giao cảm có tác dụng phục hồi khả năng co cơ khi cơ đã bị mỏi do khi
kích thích sợi giao cảm thì mạch máu đến cơ giãn, máu đến cơ nhiều hơn việc cung cấp
oxy và các chất dinh dưỡng tốt hơn.
4.3. Chức năng hệ phó giao cảm.
Bảng 11.4. Tác dụng thần kinh phó giao cảm lên các cơ quan.

141
4.4. Sự dẫn truyền trong hệ thần kinh thực vật
4.4.1. Chất dẫn truyền
Hệ giao cảm và hệ phó giao cảm tác dụng lên các tạng không phải trực tiếp mà
thông qua những hóa chất do đầu mút sợi sau hạch tiết ra gọi là hóa chất trung gian. Đối
với hệ giao cảm là Noradrenalin, đối với hệ phó giao cảm là Acetylcholin.
4.4.2. Thụ thể (Receptor) anpha và beta (α & β)
- Đối với các chất dẫn truyền thần kinh của dây giao cảm và tủy thượng thận là
adrenalin và noradrenalin, trên màng tế bào đích có 2 loại thể tiếp nhận là α và β.
+ Adrenalin được tiếp nhận với cả 2 loại thụ thể α và β.
+ Noradrenalin chỉ được tiếp nhận bởi thụ thể α.
- Thụ thể α có chủ yếu trên màng tế bào cơ trơn mạch máu ngoại biên và các cơ
quan nội tạng. Khi chịu tác dụng của adrenalin và noradrenalin nó gây co mạch..
- Thụ thể chia làm 2 loại: 1 và 2 phân bố ở mắt, não, tạng, mạch vành,…Thụ
thể β có chủ yếu ở cơ tim, mạch vành, cơ trơn phế quản, ruột, tử cung, cơ xương… Thụ
thể β chia 2 loại:
+ β 1 : phân phối ở cơ tim, nút xoang, nút nhĩ thất. Khi hưng phấn, β 1 sẽ gây
tăng co bóp cơ tim, tăng tốc độ dẫn truyền.
+ β 2 : khi hưng phấn sẽ gây giãn mạch vành, giãn phế quản, giãn tử cung.
4.4.3. Thụ thể Acetylcholin
Chia 2 loại:
- Thụ thể Muscarinic bị ức chế bởi Atropin.
- Thụ thể Nicotinic bị ức chế bởi curare.
4.5. Điều hòa hoạt động của hệ thần kinh thực vật
Hoạt động của hệ thần kinh thực vật chịu ảnh hưởng của:
4.5.1. Vùng dưới đồi
Ở phần trước của vùng dưới đồi có những trung tâm phó giao cảm. Nếu kích thích
thì xuất hiện những dấu hiệu cường phó giao cảm (tim đập chậm, yếu, co bóp dạ dày
tăng,…)
Ở phần sau của vùng dưới đồi có những trung tâm giao cảm.
4.5.2. Vỏ não
Trong các trạng thái hoạt động của vỏ não như cảm xúc, lo lắng, sợ hãi,… bao giờ
cũng có hoạt động của hệ thần kinh thực vật như co, giãn mạch ngoại biên, thay đổi nhịp
tim…
4.5.3. Một số hormone
Thyroxin của tuyến giáp thúc đẩy hoạt động của hệ giao cảm, adrenalin và
noradrenlin cũng thúc đẩy hoạt động của hệ giao cảm.

LƯỢNG GIÁ:
1. Anh (chị) hãy trình bày đặc điểm cấu tạo của neuron thần kinh, dẫn truyền xung động
thần kinh trên sợi trục?
2. Anh (chị) hãy trình bày quá trình dẫn truyền xung động thần kinh qua synape, chất
truyền đạt?
3. Anh (chị) hãy trình bày các yếu tố ảnh hưởng đến dẫn truyền xung động thần kinh qua
synape?
4. Anh (chị) hãy trình bày hình thái và cấu tạo của tủy sống?
5. Trình bày được Chức năng của tủy sống và một số rối loạn do tổn thương của tủy sống?

142
6. Trình bày được đặc điểm hình thái và chức năng của hành não, cầu não, trung não, gian
não, tiểu não và vỏ não?
7. Trình bày được đặc điểm hình thái và chức năng của thần kinh thực vật?

143
Bài 12
SINH LÝ CÁC GIÁC QUAN
MỤC TIÊU:
1. Trình bày được đặc điểm cấu tạo và chức năng của cảm giác thị giác.
2. Trình bày được đặc điểm cấu tạo và chức năng của cảm giác thính giác.
3. Trình bày được đặc điểm cấu tạo và chức năng của cảm giác khứu giác.
4. Trình bày được đặc điểm cấu tạo và chức năng của cảm giác vị giác.
5. Trình bày được đặc điểm cấu tạo và chức năng của cảm giác xúc giác.

NỘI DUNG:
I. CẢM GIÁC THỊ GIÁC.
1. Cấu tạo của mắt:

Hình 12.1. Cấu tạo trong của mắt.


Cơ quan thị giác gồm có mắt và các cơ quan mắt phụ. Mắt gồm có nhãn cầu và dây
thần kinh thị giác. Nhãn cầu nằm trong một hốc xương gọi là ổ mắt.
1.1. Ổ mắt
Ổ mắt là một hốc xương sâu, chứa nhãn cầu, các cơ, thần kinh, mạch máu, mỡ và
phần lớn bộ lệ, có hình tháp 4 thành, nền ở trước, đỉnh ở sau thông với hộp sọ qua ống thị
giác và khe ổ mắt trên.
1.2. Nhãn cầu
Nhãn cầu hình khối cầu, cực trước là trung tâm võng mạc, cực sau là trung tâm của
củng mạc. Đường thẳng nối hai cực là trục nhãn cầu. Đường vòmg quanh nhãn cầu, thẳng
góc với trục, chia nhãn cầu hai nữa bằng nhau gọi là xích đạo. Nhãn cầu cấu tạo gồm ba
lớp vỏ và các môi trường trong suốt.
* Các lớp vỏ của nhãn cầu
Từ ngoài vào trong gồm ba lớp là lớp xơ, lớp mạch và lớp trong.
- Lớp xơ: lớp xơ là lớp bảo vệ nhãn cầu gồm hai phần là giác mạc phía trước và
củng mạc phía sau.
144
- Lớp mạch: từ sau ra trước gồm có ba phần là màng mạch, thể mi và mống mắt:
+ Màng mạch là một màng mỏng ở 2/3 sau của nhãn cầu. Chức năng chính là dinh
dưỡng, đồng thời lớp này có chứa hắc tố có tác dụng làm thành phòng tối cho nhãn cầu.
+ Thể mi là phần dày lên của màng mạch, nối liền màng mạch với mống mắt. Có
tác dụng điều thiết cho thấu kính.
+ Mống mắt còn gọi là tròng đen. Là phần trước của lớp mạch, có hình vành
khăn1.3.
- Lớp võng mạc hay lớp trong: có các tế bào thần kinh thị giác, trên bề mặt có hai
vùng đặc biệt là:
+ Vết võng mạc hay còn gọi là điểm vàng là một vùng nằm ngay cạnh cực sau của
nhãn cầu. Trong vết có lõm trung tâm, là một vùng vô mạch và để nhìn được các vật chi
tiết và rõ nhất. Ðường nối liền vật nhìn và lõm trung tâm gọi là trục thị giác của nhãn cầu.
+ Ðĩa thần kinh thị hay điểm mù là vùng tương ứng nơi đi vào của thần kinh thị
giác. Ở đây không có cơ quan cảm thụ ánh sáng. Ðĩa thần kinh thị nằm ở phía trong và
dưới so với lõm trung tâm và cực sau của nhãn cầu. Ở giữa đĩa thị có hố đĩa là nơi có mạch
trung tâm võng mạc đi vào.
2. Cơ quan cảm nhận thị giác.
* Chức năng: Thu nhận hình ảnh từ môi trường để truyền về vùng thị giác ở vỏ não
tại thùy chẩm. - Nhìn là sự phối hợp của cả hai cơ chế hoá học và vật lý có sự tham gia của
nhiều bộ phận như hệ thống thấu kính hội tụ của mắt, đồng tử, các receptor ở võng mạc,
đường dẫn truyền thần kinh và trung tâm nhận cảm thị giác ở vỏ não.
* Đặc điểm của cảm giác thị giác:
- Cơ chế quang hoá học do tế bào que đảm nhận thông qua phân giải chất rhodopsin
và scotopsin và retinal.
- Cơ chế nhìn màu do tế bào nón đảm nhận qua phức hợp của retinal và các
photopsin.
- Cơ chế hoá học phối hợp vật lý với sự tham gia của hệ thống thấu kính hội tụ của
mắt, đồng tử, võng mạc, các receptor, đường dẫn truyền thần kinh và trung tâm nhận cảm
cảm giác của vỏ não.
- Sự kết hợp hình ảnh của vật trên hai võng mạc và trên hai vùng chẩm của vỏ não
giúp nhận cảm được hình ảnh nổi của vật.
- Sự phối hợp giữa nhìn - sờ và cử động của nhãn cầu giúp nhận biết khoảng cách
và sự chuyển động của các vật.

145
Hình 12.2. Đường dẫn truyền thần kinh thị giác tới vỏ não.
Mắt là cơ quan ngoại vi của thị giác quan gồm 2 nhãn cầu (màng xơ, màng mạch,
màng thần kinh) với các môi trường triết quang (thủy tinh thể, thủy dịch, dịch kính) và các
bộ phận phụ thuộc như mi mắt, kết mạc, bộ lệ.
Mắt có thể được ví với một cái máy quay phim có khả năng thay đổi, điều chỉnh sao cho
ảnh của vật nằm trên võng mạc. Hình ảnh từ bên ngoài đi vào võng mạc qua một hệ thống
kính hội tụ (giác mạc, thủy dịch, nhân mắt-thủy tinh thể, dịch kính) và một khe có thể điều
chỉnh được độ rộng (đồng tử) theo cường độ ánh sáng.

Hình 12.3. Sơ đồ cắt ngang của mắt


Hệ thống thấu kính hội tụ của mắt giúp ánh sáng tập trung vào một điểm trên võng
mạc

146
2.1. Các giao diện khúc xạ:
Ánh sáng được tạo ra do những bước sóng khác nhau kích thích các photoreceptor
qua các lượng tử ánh sáng. Mắt người chỉ nhìn thấy ánh sáng nằm trong dải 400-700nm.
- Thị lực: Thị lực của mắt là khả năng phân biệt các nguồn sáng nằm sát nhau.
Trong điều kiện được chiếu sáng đủ, mắt bình thường có thể phân biệt được hai điểm mà
các tia sáng từ hai điểm này đến mắt tạo thành góc a = 1 phút (1phút = 1/60o).
- Khả năng điều tiết để nhìn xa – gần chủ yếu do co-giãn cơ thể mi và thay đổi kích
thước đồng tử.
- Thủy tinh thể:
+ Khi nhìn xa, các sợi cơ thể mi giãn làm căng dây chằng, thủy tinh thể dẹt, độ hội
tụ giảm.
+ Khi nhìn gần, các sợi cơ thể mi co, làm các sợi dây chằng chùng xuống và thủy
tinh thể phồng lên, độ hội tụ tăng.
2.2. Các tật khúc xạ của mắt:
Rối loạn khả năng điều tiết của mắt gây các tật khúc xạ (cận thị, viễn thị, lão thị,
loạn thị).
- Lão thị: giảm khả năng đàn hồi của thủy tinh thể, chỉ có một tiêu cự ứng với một
khoảng cách tùy theo từng cá thể, mắt không thích nghi với nhìn gần cũng như với nhìn xa
và phải dùng các thấu kính hội tụ hai tròng hoặc có độ hội tụ tăng dần từ trên xuống dưới
để nhìn được rõ.
- Viễn thị: Do nhãn cầu ngắn hoặc do độ hội tụ của mắt kém nên bệnh nhân nhìn rõ
vật ở xa, không nhìn rõ vật ở gần, ảnh của vật rơi ra phía sau võng mạc. Để sửa tật này cần
đeo thấu kính hội tụ.
2.3. Các dịch của mắt.
- Thủy dịch. Thủy dịch do thể mi bài tiết theo cơ chế tích cực
- Nước mắt. Nước mắt do các tuyến lệ nằm ở góc ngoài mi mắt trên sản xuất. Nước
mắt chảy trên bề mặt của mắt và đổ vào khoang mũi qua ống lệ và túi lệ. Chớp mắt giúp
dàn trải nước mắt. Nước mắt có tác dụng lấp các chỗ không đều trên giác mạc, ngăn khô
giác mạc, làm sạch bụi, khí độc, ngăn nhiễm khuẩn (nhờ có lysozym và immunoglobulin
A)… Chảy nước mắt nhiều là một đáp ứng nhằm bảo vệ mắt và còn là một biểu hiện cảm
xúc.
3. Cảm giác võng mạc.
- Cấu trúc võng mạc gồm có 10 lớp do nhiều tế bào xếp với nhau (tế bào biểu mô
hắc tố, tế bào nón và que cảm nhận ánh sáng, tế bào ngang, tế bào hai cực, tế bào Amacrine,
tế bào hạch…)

147
Hình 12.4. Các lớp tế bào võng mạc thị giác.
- Lớp biểu mô sắc tố chứa nhiều melanin, ngăn không cho ánh sáng phản xạ trong
nhãn cầu. Vitamin A trong lớp sắc tố được trao đổi với các tế bào nón và tế bào que.
- Phần trung tâm võng mạc chỉ có tế bào nón, càng ra ngoài rìa võng mạc thì mật
độ tế bào que càng dày. Điểm vàng là nơi tập trung nhiều tế bào nón nằm trên trục quang
học của mắt nên nhìn vật rõ nhất. Điểm mù là nơi tụ hợp sợi trục các tế bào hạch nên không
nhìn thấy vật
- Đáy mắt là hình ảnh võng mạc quan sát được bằng đèn soi đáy mắt. Gai thị có
màu hồng nhạt hơi ngả sang màu da cam, nổi bật trên màu hồng tươi của võng mạc hình
tròn, bờ rõ nét nhất là phía thái dương. Từ giữa trung tâm của gai thị có hai nhánh động
mạch trung tâm võng mạc đi ra, tỏa phân nhánh ra khắp võng mạc, đồng thời có hai tĩnh
mạch thu máu từ các nhánh tĩnh mạch võng mạc đi vào. Trong trường hợp tăng áp lực nội
sọ (u, áp xe não, máu tụ...), gai thị sẽ có hình ảnh mờ, phù gai, xuất huyết võng mạc, teo .
- Vùng thị giác sơ cấp ở thuỳ chẩm (vùng 17 trên bản đồ vỏ não của Brodman) nhận
biết về độ tương phản, màu và chiều sâu. Tổn thương vùng này làm mất cảm giác thị giác
có ý thức nhưng vẫn còn những đáp ứng vô thức đối với thay đổi cường độ ánh sáng,
chuyển động của ánh sáng như quay mắt, quay đầu, tránh nguồn sáng mạnh...
- Vùng thị giác thứ cấp (còn được gọi là vùng thị giác liên hợp) nằm ở phía trên,
trước và dưới vùng thị giác sơ cấp (vùng 18 trên bản đồ vỏ não của Brodman). Vùng này
nhận các tín hiệu từ vùng 17 và có chức năng phân tích ý nghĩa của cảm giác thị giác (hình
thể, hình dạng 3 chiều, chuyển động của vật; chi tiết và màu sắc của vật...) và từ các tính
chất đó nhận thức được vật là vật gì và ý nghĩa của nó. Vùng thị giác thứ cấp có liên quan
đến việc nhận biết chữ viết, đọc.

148
Hình 12.5. Các vùng thị giác trên vỏ não.
Vỏ não còn tham gia chi phối cử động các cặp cơ vận nhãn (cơ thẳng giữa, cơ thẳng
bên, cơ thẳng trên, cơ thẳng dưới, cơ chéo trên, cơ chéo dưới) thông qua các dây thần kinh
sọ số II, IV, VI.
II. CẢM GIÁC THÍNH GIÁC.
1. Cảm giác âm thanh.
- Cơ quan nhận cảm cảm giác thính giác gồm 3 phần : phần ngoại vi là tai, phần
dẫn truyền và trung ương. Tai được chia làm tai ngoài, tai giữa và tai trong. Tai ngoài giúp
định hướng, thu nhận âm thanh. Tai giữa truyền âm, tai trong bắt đầu nhận cảm, phân tích
âm thanh.
- Kích thích thính giác có bản chất vật lý (sóng âm). Tai người nhận cảm được các
âm có tần số từ 16 đến khoảng 20.000 Hz. Giới hạn trên có thể bị giảm xuống còn 5000
Hz ở người có tuổi.
- Sóng âm qua ống tai ngoài vào tới màng nhĩ, làm rung màng nhĩ. Vành tai và ống
tai ngoài tạo thành một cái phễu có tác dụng định hướng nguồn âm và khuếch đại sóng âm
do cộng hưởng. Rung động của màng nhĩ được chuỗi xương nhỏ trong hòm màng nhĩ (tai
giữa) truyền tới cửa sổ bầu dục. Tai giữa đảm bảo truyền âm từ môi trường khí (cản âm
kém) sang môi trường dịch (cản âm nhiều). Năng lượng của sóng âm không bị giảm vì âm
được truyền từ màng nhĩ có diện tích lớn (50 mm2) sang cửa sổ bầu dục có diện tích nhỏ
hơn (3 mm2) và nhờ các xương nhỏ hoạt động như một hệ thống đòn bẩy (khuếch đại lên
1,3 lần). Hai cơ căng màng nhĩ và cơ căng xương bàn đạp ở tai giữa có tác dụng điều chỉnh
việc truyền các âm có tần số thấp, bảo vệ tai khỏi các âm có cường độ lớn, giảm các tạp
âm, giảm sự cộng hưởng trong tai giữa và làm các âm trầm không che lấp các âm cao.

149
Hình 12.6. Đường dẫn truyền và khuếch đại sóng âm.
Từ cửa sổ bầu dục vào trong là tai trong (hay mê cung). Tai trong có tiền đình
tai nhận cảm thăng bằng và ốc tai nhận cảm âm. Ốc tai gồm ba ống nằm chồng lên nhau:
Trên cùng là thang tiền đình (chứa ngoại dịch), ở giữa là thang giữa (chứa nội dịch có
nhiều kali hơn ngoại dịch) và dưới cùng là thang hòm nhĩ (chứa ngoại dịch). Thang tiền
đình và thang giữa được ngăn cách bởi màng tiền đình (màng Reissner); thang giữa và
thang hòm nhĩ được ngăn cách bởi màng đáy.

Hình 12.7. Đường đẫn truyền và thăng bằng âm thanh.


2. Cảm giác thăng bằng.
Khi cơ thể vận động thay đổi vị trí trong không gian hoặc thay đổi tư thế, ở bộ máy
tiền đình (gồm phần tiền đình và các vòng bán khuyên của tai trong) sẽ xuất hiện các cảm
giác thăng bằng để hình thành những phản xạ vận động phối hợp, nhằm duy trì sự thăng
bằng của cơ thể.

150
2.1 Thụ quan thăng bằng
Ở phần trên đã biết, cấu tạo của tai trong gồm mê lộ xương, mê lộ màng và được
chia làm ba bộ phận: các vòng bán khuyên, tiền đình và ốc tai. Trừ ốc tai là cơ quan cảm
giác thính giác, tiền đình và các vòng bán khuyên họp lại thành bộ máy tiền đình.
Ở phần khoang tiền đình, mê lộ màng làm thành hai túi: túi cầu và túi bầu (còn gọi
túi bé và túi lớn). Trong hai túi này có các tế bào thụ cảm thăng bằng, thu nhận những kích
thích cơ học, nằm xen với các tế bào nâng đỡ.
2.2. Cảm giác thăng bằng:
- Các cảm giác thăng bằng xuất hiện khi có sự thay đổi (tăng hay giảm) các vận
động quay hoặc thẳng của cơ thể. Còn các chuyển động đều đều với tốc độ không đổi thì
không gây hưng phấn ở các tế bào thụ cảm. Hưng phấn phát sinh chủ yếu ở bộ phận tiền
đình hay ở các vòng bán khuyên là tuỳ thuộc vào tính chất của vận động.
- Trung tâm nhận cảm giác thính giác ở vỏ não.
+ Vùng nghe trên vỏ não nằm chủ yếu ở hồi thái dương trên
+ Vùng nghe sơ cấp là vùng nhận tín hiệu từ thể gối giữa tới; tổn thương vùng này
thì không nhận cảm được âm mặc dù cơ quan nghe là bình thường.
+ Vùng nghe liên hợp nhận các thông tin từ vùng nghe sơ cấp và từ các vùng của
đồi thị, gần thể gối trong. Tổn thương vùng nghe liên hợp thì vẫn nhận cảm được âm nhưng
không nhận thức tính chất, ý nghĩa của âm.
Từ các vùng nghe của vỏ não có các đường đi xuống ốc tai, ức chế cơ quan Corti,
có tác dụng hướng sự chú ý vào các âm nhất định nào đấy mà bỏ qua các âm khác.

Hình 12.8. Các vùng chức năng trên vỏ não não


- Tai có thể nhận biết các tính chất của âm như cường độ, độ cao, âm sắc, hoà âm,
phản âm trong dải tần số từ 16 Hz đến 20.000 Hz .
- Nghe có bản chất là truyền âm và khuếch đại âm của ống tai ngoài, màng nhĩ,
chuỗi xương nhỏ, cửa sổ bầu dục, tai trong, đường dẫn truyền và trung tâm cảm giác thính
giác…
- Sự chênh lệch về thời gian, cường độ âm đến từng tai rồi đến hai trung tâm thính
giác khác nhau ở vỏ não nên có thể xác định được nguồn âm và âm thanh nổi.
- Ngoài tai ra, hệ thống xương cũng dẫn truyền âm ở một mức độ nhất định, nhất là
các xương đầu mặt.

151
- Cảm giác thính giác và thị giác có sự bù trừ về chức năng, liên quan chặt chẽ với
chức năng phát triển và hoàn thiện ngôn ngữ.
III. CẢM GIÁC KHỨU GIÁC.
1. Cấu trúc bộ phận nhận cảm khứu giác.
Niêm mạc mũi và receptor khứu giác: Các tế bào khứu giác (tế bào Schultz) là
những neuron song cực có 50 loại receptor tiếp nhận các mùi cơ bản. Các phân tử mùi hoà
tan trong lớp niêm dịch, gắn với receptor làm mở kênh ion gây khử cực màng receptor.

Hình 12.9. Niêm mạc mũi và receptor khứu giác


2. Cơ chế nhận cảm khứu giác.
- Cảm giác khứu giác xuất hiện khi các tế bào thụ cảm nhận được kích thích thông
qua sự tiếp xúc với các thể hơi (do vật chất bốc hơi) hoặc các hạt rất nhỏ được mang theo
không khí hô hấp qua đường mũi.
- Khi thở ra không khí tác động vào khoang sau của mũi cũng gây kích thích, nhưng
khi hít vào rất nhẹ qua mũi hay qua miệng không gây ra cảm giác khứu giác.
3. Đường dẫn truyền cảm giác khứu giác và trung tâm cảm giác khứu giác
- Neuron 1: sợi trục tế bào khứu xuyên qua xương sàng lên hành khứu tạo synap
với tế bào mũ ni ở hành khứu (tiểu cầu khứu).
- Sợi trục các tế bào mũ ni tạo bó khứu (cổ, cũ, mới) > vùng khứu giác (giữa, bên,
vỏ não) tạo các phản xạ khứu giác sơ cấp, thứ cấp, giúp nhận biết và phân biệt một cách
có ý thức các mùi khác nhau.
- Đặc điểm của cảm giác khứu giác:
+ Cảm giác khứu giác có ngưỡng kích thích rất thấp, tính thích nghi cao, mang tính
chủ quan, tâm lý, giới, bệnh lý tại chỗ và toàn thân.
+ Cách khám: Dùng các chất có mùi rõ ràng, quen thuộc, không gây hại như nước
hoa, xà phòng, dầu chanh ... Có thể phát hiện giảm, mất khả năng ngửi, loạn cảm, ảo khứu
do viêm màng nhện vùng xương sàng, u xương sàng, chấn thương, giang mai thần kinh,
bệnh phong.
IV. CẢM GIÁC VỊ GIÁC.
152
1. Cơ quan nhận cảm vị giác và đường dẫn truyền vị giác.
- Vị giác cùng với khứu giác là hai cơ quan cảm giác hóa học. Vị giác là cơ quan
cảm giác các tính chất của vật chất (vị) tác động lên niêm mạc lưỡi và khoang miệng.
- Lưỡi nằm trong khoang miệng. Các thể thụ cảm vị giác nằm trên các gai lưỡi, nhất
là loại gai vòng và gai lá còn gọi là núm vị giác. Ngoài ra còn có các thụ cảm thể vị giác ở
vách hầu vòm miệng và một số sụn thanh quản. Nơi tập trung nhiều gai trên lưỡi là đầu
mút, hai bên rìa và gốc lưỡi. Mặt dưới và khoảng giữa mặt trên của lưỡi không có các thể
thụ cảm vị giác.
- Dẫn truyền vị giác: các Receptor vị giác là các nụ vị giác nằm trên các nhú vị giác
ở lưỡi. Các nụ vị giác phân bố gồm 40 – 60 tế bào (gồm tế bào vị giác, tế bào biểu mô và
các tế bào chống đỡ). Mỗi nụ vị giác có một lỗ nhỏ cho các phân tử hóa học trong thức ăn
đi vào bên trong nụ vị giác, kích thích các receptor của các tế bào vị giác hướng về các lỗ
nhỏ. Mỗi nụ vị giác có thể đáp ứng với từ hai vị khác nhau trở lên tuy nhiên có loại chỉ
nhạy cảm 1-2 vị.
2. Cảm giác vị giác cơ bản.
- Hiện nay sinh lý học cho rằng có 4 vị chính gây nên cảm giác vị giác là mặn, ngọt,
chua và đắng. Các vị khác chỉ là sự kết hợp của 4 vị cơ bản nói trên.
- Cảm giác vị giác nói chung là đơn giản. Tuy nhiên khi ăn uống, cảm giác vị giác
được tăng cường nhờ sự tham gia của các cảm giác khác như thị giác, khứu giác, cảm giác
nhiệt, cảm giác cơ học... Do vậy khi ăn uống cần có sự chú ý chung của hệ thần kinh, nếu
nhắm mắt và bịt mũi khi ăn, cảm giác vị giác sẽ trở nên đơn điệu.
- Cảm giác vị giác còn phụ thuộc nhiệt độ của dung dịch có chất hoà tan khi tác
động vào lưỡi. Ở người nhiệt độ thuận lợi nhất cho sự nếm là 20-300C. Khi nhiệt độ tăng
cảm giác vị ngọt và chua tăng. Khi nhiệt độ giảm cảm giác vị đắng và mặn tăng. Nhiệt độ
quá cao hoặc quá thấp làm mất cảm giác vị giác.

Hình 12.10. Các tế bào thần kinh vị giác.


Dẫn truyền vị giác và trung tâm nhận cảm vị giác

153
Hình 12.11. Dẫn truyền vị giác
- Đặc điểm của cảm giác vị giác:
+ Cảm giác vị giác có tính thích nghi rất nhanh, do khả năng của receptor, hệ thần
kinh.
+ Sự thích hay không thích một vị nào đó có liên quan đến nhu cầu, trí nhớ cần có
vị đó (ví dụ thèm và ưa vị ngọt khi đường huyết hạ, thèm và thích vị mặn khi thiếu
muối), kinh nghiệm và là phản xạ thần kinh trung ương.
+ Cảm giác vị giác chịu ảnh hưởng của các cảm giác khác: Cảm giác khứu giác, thị
giác làm tăng cảm giác vị giác, cảm giác lạnh làm tăng cảm giác ngọt, sự có mặt của ít
muối làm tăng cảm giác ngọt của glucose. Thức ăn thô ráp, quá cay gây đau.
III. CẢM GIÁC XÚC GIÁC.
1. Các thụ cảm thể xúc giác.
- Một số đầu dây thần kinh tự do.
- Các tiểu thể Meissner ở đỉnh các gai da, nhiều nhất ở đầu ngón tay, ngón chân,
lòng bàn tay, đầu lưỡi, môi, núm vú.
- Các đĩa Merkel ở dưới lớp biểu bì da.
- Các tận cùng có myelin và không có myelin ở chân lông.
- Các tiểu thể Pacini ngay dưới da, lớp sâu của da, trong mô liên kết rất nhạy cảm
với sự biến dạng và sự rung động.

154
Hình 12.12. Đường dẫn truyền các thụ cảm thể xúc giác
- Vùng cảm giác thân thể : nằm tại thuỳ đỉnh, sau rãnh trung tâm bao gồm:
+ Vùng S-I (vùng 1, 2, 3): nhận cảm giác của hầu hết các phần thân thể
+ Vùng S-II (vùng 40): ít quan trọng, chỉ nhận cảm giác của cẳng chân, cánh tay và
mặt.
- Vùng thị giác nằm ở thuỳ chẩm: gồm vùng thị giác sơ cấp (vùng 17) và vùng thị
giác thứ cấp (vùng 18, 19).
- Vùng thính giác nằm ở thuỳ thái dương: gồm thính giác sơ cấp (vùng 41, 42) và
vùng thính giác thứ cấp (vùng 22).
- Vùng vị giác nằm ở hồi đỉnh lên (vùng 43)
- Vùng khứu giác (vùng 28)
- Vùng liên hợp cảm giác nhận các tín hiệu từ các vùng cảm giác sơ cấp và các
vùng khác của não. Tích hợp, phân tích, lưu giữ trí nhớ cảm giác, tạo đáp ứng thích hợp
Tổn thương vùng này sẽ mất nhận thức về đồ vật, người, bản thân mình (mất nhận thức về
hình thể, không nhận biết được cảm giác ở nửa người bên đối diện), gương mặt người
quen.
Vùng phối hợp cảm giác thân thể và tích hợp chung: vùng 5, 7, 39, 40
Vùng phối hợp thị giác: vùng 18, 19
Vùng phối hợp thính giác: vùng 22

155
Hình 12.13. Sơ đồ các vùng phối hợp cảm giác xúc giác.

Vùng Wernicke: nằm ở bán cầu không ưu thế, phân tích ngôn ngữ, phối hợp lời nói
và cảm xúc…
- Cảm giác xúc giác của da thuộc loại cảm giác nông, được phân chia thành cảm
giác xúc giác thô sơ và cảm giác xúc giác tinh vi.
* Cảm giác thô sơ:
- Cảm giác thô sơ ma sát (tiếp xúc) do các thể Meissner thu nhận, chúng phân bố
trên da và một số niêm mạc ở miệng, hốc mũi... Mật độ các thể Meissner cao nhất ở vùng
môi, ngón tay. Ở các vùng có lông như râu, tóc... khả năng nhận cảm đối với các kích
thích xúc giác rất nhạy, do ở quanh nang lông có các đám rối thần kinh.
- Đường dẫn truyền hướng tâm của các cảm giác xúc giác thô sơ theo các dây thần
kinh tủy. Sau khi vào sừng xám sau tủy sống, chúng tập trung thành bó Dejérine trước để
chạy lên hành tủy, đồi não và vỏ não. Trung khu chính là đồi não (thalamus).
* Cảm giác tinh vi:
- Loại cảm giác này được coi là cảm giác nông có ý thức, bởi vì nhờ nó mà ta nhận
biết và phân biệt được các kích thích xúc giác tinh tế như lần biết chữ nổi, hướng chuyển
động trên da...
- Loại cảm giác này cũng do các tiểu thể như của cảm giác thô sơ thu nhận. Nhưng
sau khi theo các dây thần kinh tủy vào sừng xám của tủy sống, chúng được truyền lên thuỳ
đỉnh của đại não qua bó Goll và Burdach.
2. Cảm giác nhiệt độ.
- Vấn đề về thụ cảm nhiệt còn đang được nghiên cứu tiếp tục. Nhiều ý kiến cho
rằng thể thụ cảm Ruffini tiếp nhận kích thích nóng và thể thụ cảm Krause tiếp nhận kích
thích lạnh.
- Tuy nhiên, một số vùng da không có các thể thụ cảm này nhưng vẫn nhận được
kích thích nhiệt độ. Như vậy, có thể đầu mút tận cùng các nhánh thần kinh đã nhận kích
thích trực tiếp.
- Thụ cảm thể lạnh Krause phân bố ở độ sâu 0,17mm, còn thụ cảm thể nóng Ruffini
thì ở độ sâu 0,3mm tính từ bề mặt da. Do vậy, thường kích thích nhiệt độ thấp gây phản
ứng nhanh hơn nhiệt độ cao.
156
- Thể thụ cảm nhiệt độ lại có thể tiếp nhận kích thích không chuyên biệt, chẳng hạn
thụ cảm thể lạnh nhận kích thích nóng. Do vậy, có những trường hợp có thể nhận được
cảm giác trái ngược: kích thích nóng gây cảm giác lạnh và ngược lại.
- Cảm giác nhiệt của cơ thể còn phụ thuộc vào hiện tượng "tương phản nhiệt", đó
là mối tương tác giữa nhiệt độ cơ thể, môi trường và kích thích trực tiếp. Ví dụ khi nhúng
tay vào chậu nước có nhiệt độ 30oC, có thể gây ra hai cảm giác: Khi nhiệt độ môi trường
thấp (ví dụ mùa đông nhiệt độ không khí khoảng 18-20oC) ta sẽ có cảm giác ấm nóng,
nhưng nếu nhiệt độ môi trường cao khoảng 35 - 36oC của mùa hè thì lại gây cảm giác mát.
- Từ các thụ cảm thể nhiệt độ, xung hướng tâm theo dây thần kinh tủy về sừng xám
sau tủy sống, rồi sau đó tập trung thành bó Dejérine sau để dẫn truyền lên qua hành tủy
đến đồi não và vỏ não.
3. Cảm giác đau
- Các thể thụ cảm tiếp nhận kích thích gây đau là các đầu mút sợi thần kinh không
có bao myelin phân bố ở nhiều nơi của cơ thể.
+ Phía ngoài: trong mô bì của da, màng cứng và màng liên kết của mắt, màng nhầy
trong miệng, mũi...
+ Phía trong: tại các nội quan như màng xương, mạch máu, màng bụng, màng phổi,
màng ruột, dạ dày, tai giữa, màng não...
- Các kích thích gây đau không đặc hiệu. Trong thực tế cảm giác đau xuất hiện với
tất cả kích thích mạnh trên ngưỡng. Các kích thích quá mạnh dẫn đến sự phá hủy cấu trúc
của cơ thể, do vậy cảm giác đau xuất hiện là một cơ chế tự vệ, có ý nghĩa sinh học quan
trọng của các hệ thống sống. Phản ứng trả lời cảm giác đau là một loạt các phản xạ tự vệ
của nhiều hệ cơ quan trong cơ thể như sự vận động, tăng trương lực cơ, tăng nhịp tim, nhịp
hô hấp, co mạch, tăng huyết áp, tiết mồ hôi, giảm tiết dịch tiêu hóa và nước tiểu, giảm nhu
động ruột, tăng phân hủy glycogen, co đồng tử, chảy nước mắt...
- Như vậy, cảm giác đau có liên quan đến sự hưng phấn mạnh của hệ thần kinh giao
cảm,
đồng thời với sự tăng cường hoạt động các tuyến nội tiết như tuyến yên, tuyến
thượng thận...
- Một số tác giả cho rằng cảm giác đau còn làm các mô tăng tiết histamin, serotonin,
các enzym phân giải protein. Các enzym tham gia phân giải γ-globulin để tạo ra các chuỗi
polypeptid. Các chuỗi này có tác dụng làm giãn mạch, gây đau, ví dụ chuỗi bradykinin.
- Các cảm giác đau của da có định khu rõ rệt, còn cảm giác đau nội tạng thường mơ
hồ không rõ rệt và âm ỉ, kéo dài. Từ các mút thần kinh ở da, xung cảm giác truyền về tủy
sống theo các sợi thuộc nhóm A-delta với tốc độ trung bình. Còn từ nội tạng về tủy sống
theo các sợi mảnh không có bao myelin thuộc nhóm C với tốc độ chậm. Từ tủy sống các
xung được dẫn truyền lên não qua bó Dejérine sau đến đồi não (Thalamus) và vỏ não.
- Trung khu đau chính nằm ở thalamus thuộc não trung gian, ngoài ra còn nằm ở
hệ limbic, thể lưới thân não. Các tế bào thần kinh tiết của hypothalamus tiết ra
chất endorphin, enkephalin có tác dụng giảm đau.
- Các dây thần kinh tủy và thần kinh giao cảm của tủy sống dẫn truyền xung cảm
giác đau với tốc độ khác nhau từ các vùng khác nhau (từ da hay nội tạng) nhưng lại cùng
tập trung về tủy sống. Do vậy có nhiều trường hợp cảm giác đau từ trong nội tạng (ví dụ
cơn đau co thắt động mạch vành) nhưng vùng hình chiếu của da bên ngoài cũng
xuất hiện cảm giác đau.
- Thường lúc đầu gây cảm giác đau dữ dội, xác định rõ vị trí. Về sau lại có cảm giác

157
đau râm ran, không xác định và kéo dài:
+ Cảm giác đau dữ dội: thường xảy ra ở những trường hợp bị thương các chi và
gây tổn thương dây thần kinh. Bệnh nhân có cảm giác đau rất mạnh kèm với hiện tượng
da nóng và khô, sau lạnh và tiết nhiều mồ hôi. Khi quá nặng bệnh nhân không thể chịu
được những va chạm rất nhẹ, ngay cả một làn gió. Nếu thần kinh giao cảm bị kích thích,
cảm giác đaucàng tăng lên. Cắt đứt dây giao cảm sẽ làm giảm cảm giác đau.
+ Cảm giác ngứa: cảm giác ngứa thường kèm theo phản xạ gãi. Các cảm giác ngứa
xuất hiện chậm, kéo dài sau khi kích thích như sờ mó, đụng chạm, nóng lạnh, áp lực (tất
cả có cường độ vừa phải) đã chấm dứt. Cảm giác ngứa sẽ mất khi cảm giác đau mất (như
khi tiêm thuốc gây tê cục bộ). Có thể các kích thích gây tiết Histamin làm tăng cảm giác
ngứa.
- Cảm giác buồn cũng liên quan với cảm giác đau, kích thích cơ học yếu gây buồn
(khi bị
cù), nhưng cù mạnh lại gây đau. Cơ chế cảm giác này còn đang được nghiên cứu.
- Cảm giác nội tạng: Các nội quan của cơ thể cũng có các thụ cảm thể. Các thụ cảm
thể này tiếp nhận những kích thích về nhiệt độ, ma sát, áp lực, thành phần hóa học... và tạo
nên các xung cảm giác nội tạng. Các xung cảm giác nội tạng có ý nghĩa sinh học quan
trọng trong việc tự điều chỉnh và điều hoà các hoạt động của nội quan.
- Từ các thụ cảm thể, những xung động hướng tâm qua hệ thần kinh giao cảm, phó giao
cảm truyền về tủy sống, hành tủy và phần cao của não bộ như thể lưới thân não,
hypothalamus, hệ limbic và vỏ não. Các xung ly tâm đi trực tiếp qua các dây thần kinh
hoặc qua con đường thể dịch tới các cơ quan đó. Các phản xạ nội tạng là các phản xạ thực
vật, giúp cho từng cơ quan hoạt động, đồng thời phối hợp giữa các cơ quan tạo nên sự
thống nhất bên trong.
LƯỢNG GIÁ:
1. Anh (chị) hãy trình bày cấu tạo và chức năng của cơ quan thị giác?
2. Anh (chị) hãy trình bày chức năng của cơ quan cảm nhận thị giác?
3. Anh (chị) hãy trình bày cấu tạo và chức năng của võng mạc thị giác?
4. Anh (chị) hãy trình bày cấu tạo và chức năng của cơ quan thính giác?
5. Anh (chị) hãy trình bày chức năng cảm giác âm thanh và thăng bằng âm thanh?
6. Anh (chị) hãy trình bày cấu tạo và chức năng cảm giác khứu giác?
7. Anh (chị) hãy trình bày cơ chế cảm nhận khứu giác và đường dẫn truyền cảm giác khứu
giác?
8. Anh (chị) hãy trình bày cấu tạo và chức năng cảm giác vị giác?
9. Anh (chị) hãy trình bày chức năng cảm giác của xúc giác?
10. Anh (chị) hãy trình bày các thụ cảm thể của xúc giác? Cảm giác về nhiệt độ và cảm
giác đau?

158

You might also like