You are on page 1of 922

Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam 1930-2007 (Nhà

xuất bản Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội 2011)

BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN VIỆT NAM

TÔ HUY RỨA Trƣởng Ban


PHÙNG HỮU PHÚ Phó Trƣởng ban
ĐÀO VIỆT TRUNG Thành viên
NGUYỄN KHÁNH TOÀN Thành viên
PHẠM XUÂN SƠN Thành viên
PHÙNG TRẦN HƢƠNG Thành viên
NGUYỄN VĂN THẠO Thành viên
NGUYỄN HUY CƢỜNG Thành viên
TRƢƠNG VĂN ĐOAN Thành viên
TRẦN CHIẾN THẮNG Thành viên
NGUYỄN THÀNH BIÊN Thành viên
NGUYỄN ĐĂNG THÀNH Thành viên
HOÀNG PHONG HÀ Thành viên
NGUYỄN TUẤN DŨNG Thành viên

BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN LÀO


XÁ MẢN VINHAKỆT Trƣởng Ban
PHĂN ĐUÔNG CHÍT VÔNGXẢ Phó Trƣởng ban
CHĂN XA MỎN CHĂNNHALẠT Thành viên
BO SENG KHĂM VÔNGĐALA Thành viên
THOONG SỈ INTHAPHÔN Thành viên
SU VĂN ĐI SIXÁVẮT Thành viên
THONG SẢ PĂNNHAXÍT Thành viên

HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN VIỆT NAM


PGS. TS. TÔ HUY RỨA Chủ tịch
GS.TS. PHÙNG HỮU PHÚ Phó Chủ tịch
TS NGUYỄN DUY HÙNG Phó Chủ tịch
PGS.TS. PHẠM VĂN LINH ủy viên
TS. HOÀNG PHONG HÀ ủy viên
TS. LÊ MINH NGHĨA ủy viên

HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN LÀO


XÁ MẢN VINHAKỆT Chủ tịch
TS. PHĂN ĐUÔNG CHÍT VÔNGXẢ Phó Chủ tịch
Trung tƣớng CHĂN XA MỎN CHĂNNHALẠT Ủy viên
GS. TS. BO SENG KHĂM VÔNGĐALA Ủy viên
THOONG SỈ INTHAPHÔN Ủy viên
SU VĂN ĐI SIXÁVẮT Ủy viên
THONG SẢ PĂNNHAXÍT Ủy viên
VIÊNG KẸO PHÔMMAHẢXÂY Ủy viên
BAN BIÊN SOẠN VIỆT NAM

GS. TS. TRỊNH NHU Trƣởng Ban


TS. TRẦN TRỌNG THƠ Thƣ ký khoa học
TS. Đại tá TRẦN VĂN THỨC Thành viên
PGS. TS. Đại tá NGUYỄN MINH ĐỨC Thành viên
Đại tá VŨ TRỌNG HOAN Thành viên
Đại tá PHẠM HỮU THẮNG Thành viên
PGS.TS. TRẦN THỊ THU HƢƠNG Thành viên
Th.S. NGUYỄN XUÂN ỚT Thành viên
ThS. NGUYỄN HÀO HÙNG Thành viên

BAN BIÊN SOẠN LÀO


TS. PHĂN ĐUÔNG CHÍT VÔNGXẢ Trƣởng Ban
VIÊNG KẸO PHÔMMAHẢXÂY Thƣ ký khoa học
THONG SẢ PĂNNHAXÍT Thành viên
VI XẨY CHĂNTHAMẠT Thành viên
SU LI VĂN SẺNGCHĂN Thành viên
TS. SỈNG THOONG SỈNGHẢPĂNNHA Thành viên
KHĂM PHON ĐUNNAĐI Thành viên
VIÊNG XAY XỔMVICHÍT Thành viên
BUA NGÂN ĐALAXẺN Thành viên
LỜI GIỚI THIỆU
CÔNG TRÌNH BIÊN SOẠN
"LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT
VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM (1930 - 2007)"

Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xƣa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào,
Lào – Việt Nam là một điển hình, một tấm gƣơng mẫu mực hiếm có về sự gắn
kết bền chặt, thủy chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh
vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam phát triển từ quan hệ truyền
thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng và chính Ngƣời cùng Chủ
tịch Cayxỏn Phômvihản, Chủ tịch Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai
Đảng, hai Nhà nƣớc, nhân dân hai nƣớc dày công vun đắp; mối quan hệ ấy đặt
dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, Đảng Cộng sản Việt Nam
và Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào -
Việt Nam trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt, đầy hy sinh, gian khổ vì độc
1ập, tự do, hạnh phúc của hai dân tộc và nhân dân hai nƣớc, đã trở thành quy
luật sống còn và sức mạnh kỳ diệu đƣa tới những thắng lợi vĩ đại của Việt Nam
và Lào trong đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lƣợc tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới đƣa hai nƣớc
cùng phát triển theo con đƣờng xã hội chủ nghĩa.
Đối với nhân dân hai nƣớc Việt Nam và Lào, quan hệ đặc biệt đƣợc coi là lẽ
sống, là tình nghĩa ruột thịt thân thiết, trƣớc sau nhƣ một, dù gian nan nguy
hiểm đến chừng nào cũng không thể chia tách đƣợc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu rõ: “Việt – Lào, hai nước chúng ta. Tình sâu như nước Hồng Hà,
Cửu Long". Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản cũng khẳng định: “Trong lịch sử
cách mạng thế giới cũng đã có những tấm gương sáng chói về tinh thần quốc
tế vô sản nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết, liên minh chiến
đấu đặc biệt, lâu dài, toàn diện như vậy".
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự nghiệp đổi mới, mở cửa, hội nhập
quốc tế mà nhân dân hai nƣớc đang tiến hành đã tạo ra những xung lƣợng mới,
đồng thời đặt ra những yêu cầu khách quan tăng cƣờng mối quan hệ đặc biệt
Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam với những phƣơng thức mới và những nội
dung mới.
Nhằm giữ gìn, vun đắp và phát huy vai trò của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam
– Lào, Lào - Việt Nam trong hiện tại và tƣơng lai vì sự trƣờng tồn và phát triển
của hai dân tộc, Bộ Chính trị, Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt
Nam và Bộ Chính trị, Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng Nhân dân cách mạng Lào
đã quyết định tổ chức hợp tác cùng biên soạn công trình “Lịch sử quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007)".
Công trình gồm có sáu sản phẩm, sản phẩm chính “Lịch sử quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 – 2007)” (gọi tắt là Sản phẩm chính);
Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007) - Văn
kiện , Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007) -
Biên niên sự kiện; Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
(1930 - 2007) - Hồi ký (gồm Bài viết của lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc, Hồi ký các
chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam giúp Lào qua các thời kỳ), Lịch sử
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 – 2007) - Sách ảnh và
bộ phim “Bản anh hùng ca quan hệ Việt - Lào”.
Sau hơn bốn năm khẩn trƣơng triển khai thực hiện, đƣợc sự quan tâm sát sao
của Bộ Chính trị và Ban Bí thƣ Trung ƣơng của hai Đảng, cùng với sự lao
động miệt mài, nghiêm túc của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và sự
đóng góp tích cực của các thế hệ chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam
giúp cách mạng Lào… trên tinh thần cộng đồng trách nhiệm, bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau của cả hai bên, công trình đã hoàn thành. Trong quá trình thực
hiện, Ban Chỉ đạo và các Ban Biên soạn đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực,
trong đó tổ chức sáu sự kiện lịch sử quan trọng về hai cuộc kháng chiến của
nƣớc Lào trên các địa danh từ Sầm Nưa - căn cứ địa cách mạng đầu tiên của
Lào, đến các chiến khu cách mạng quan trọng nhƣ Áttapƣ và các tỉnh Nam
Lào; Xaynhabuli và các tỉnh Bắc Lào; đƣờng 9 - Nam Lào và các tỉnh Trung
Lào; căn cứ chiến lƣợc Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng;… Mỗi sự kiện đều
tổ chức hội thảo khoa học gặp gỡ nhân chứng và thăm lại chiến trƣờng xƣa,
góp phần làm sinh động, phong phú thêm nguồn tƣ liệu lịch sử phục vụ cho
công tác biên soạn. Công trình đã dƣợc Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào phê duyệt, cho phép xuất bản, phục vụ
công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống đoàn kết, đấu tranh cách mạng,
gìn giữ hòa bình của hai nƣớc và phục vụ bạn đọc trên thế giới.
Với tinh thần và phƣơng pháp nghiên cứu, biên soạn công phu, nghiêm túc,
khoa học nguồn tƣ liệu, tài liệu lịch sử phong phú, đa dạng, có độ tin cậy cao,
trong đó có những tƣ liệu lần đầu đƣợc công bố, các sản phẩm đã trình bày có
hệ thống, sâu sắc, toàn diện và khách quan quá trình xây dựng và phát triển của
mối quan hệ đặc biệt, liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam qua
các thời kỳ lịch sử, trên các lĩnh vực từ năm 1930 đến 2007; nêu bật đƣợc
nhƣng thành quả, vai trò to lớn của mối quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc đối
với tiến trình cách mạng mỗi nƣớc; tổng kết phân tích và đánh giá những đặc
điểm của mối quan hệ đặc biệt, những thắng lợi, thành tựu nhân dân hai nƣớc
đã đạt đƣợc trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng cũng nhƣ trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay dƣới sự lãnh dạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào.
Các sản phẩm đã nêu bật những nhân tố tạo nên mối quan hệ đặc biệt, liên
minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam; đặc biệt là vai trò của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nƣớc, những hy
sinh cao cả của nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ các lực lƣợng vũ trang
nhân dân hai nƣớc. Đồng thời, cũng thể hiện tinh phần nhất quán, xuyên suốt
tƣ tƣởng hai nƣớc cùng tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ, giải phóng dân
tộc, giành độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc, tiến lên xây dựng đất nƣớc theo
định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở mỗi nƣớc trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau, hợp tác
giúp đỡ nhau một cách trong sáng về mọi mặt, từ cấp Trung ƣơng đến các địa
phƣơng.
Các sản phẩm đã làm sáng tỏ quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
thủy chung, son sắt, là tài sản vô giá, là nguồn sức mạnh, nhân tố bảo đảm
thắng lợi sự nghiệp cách mạng của mỗi nƣớc; đồng thời đúc kết các bài học
kinh nghiệm, gợi mở những vấn đề vận dụng vào hiện tại và tƣơng lai.
Sản phẩm chính đƣợc thu thập xử lý qua 645 đầu mục tài liệu tiếng Việt, tiếng
Lào và các tiếng nƣớc ngoài khác, trong đó phần lớn là các tài liệu, tƣ liệu gốc
có độ tin cậy cao. Số tƣ liệu, tài liệu trên đƣợc xử lý, thẩm định, sử dụng vào
việc biên soạn tác phẩm với tinh thần cẩn trọng. Ban Biên soạn đã tổ chức trên
30 cuộc hội thảo, bao gồm hội thảo đề cƣơng, hội thảo nội dung từng chƣơng
và toàn bộ bản thảo, hội thảo những vấn đề tồn đọng, hội thảo xin ý kiến
chuyên gia, nhân chứng. Ban Biên soạn phía Việt Nam và Ban Biên soạn phía
Lào thƣờng xuyên trao đổi thống nhất với nhau về nguồn tƣ liệu khi đánh giá,
nhận định các nhân vật, sự kiện dƣợc trình bày trong Sản phẩm chính. Đặc biệt,
hai bên đã tiến hành ba cuộc hội thảo quốc tế: tổ chức tại Thanh Hóa (tháng 11
năm 2009), Viêng Chăn (tháng 8 năm 2010) và Vinh – Nghệ An (tháng 8 năm
2010) để thu thập tài liệu và cùng nhau đóng góp ý kiến vào các chƣơng bản
thảo. Các nhà khoa học hai bên trao đổi trên tinh thần tôn trọng sự thật lịch sử,
đồng thời tuân thủ nghiêm túc những quy định của hai Ban Chỉ đạo Việt Nam
và Lào về hợp tác nghiên cứu, biên soạn Sản phẩm chính. Tất cả các vấn đề
nêu ra đều đƣợc hai bên thảo luận thẳng thắn, tôn trọng ý kiến của nhau và đi
đến nhất trí cao, đƣợc văn bản hoá thành Biên bản ghi nhớ đã trình hai Ban Chỉ
đạo.
Sản phẩm đƣợc Hội đồng nghiệm thu quốc tế do hai Bộ Chính trị của hai Đảng
quyết định, các đồng chí Thƣờng trực Ban Bí thƣ Trung ƣơng của hai Đảng là
đồng chủ tịch, đã đánh giá cao chất lƣợng nội dung sản phẩm.
Sau hội nghị nghiệm thu, tập thể Ban Biên soạn đã nghiêm túc tiếp thu các ý
kiến đóng góp của Hội đồng và tích cực sửa chữa, hoàn thiện bản thảo. Kết quả
bản thảo cuốn cùng gồm 4 phần, 10 chƣơng:
Phần thứ nhất: Dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, nhân dân
hai nƣớc Việt Nam và Lào phát huy truyền thống đoàn kết đặc biệt, đấu tranh
giành độc lập, tự do (1930 – 1945).
Phần thứ hai: Liên minh Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam chiến đấu chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lƣợc (1945 – 1975).
Phần thứ ba: Quan hệ đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam từ năm 1976 đến 2007.
Phần thứ tư: Thành quả, bài học và triển vọng.
Sản phẩm có giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, góp phần quan trọng
vào việc giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa hai
Đảng, nhân dân hai nƣớc Việt Nam và Lào.
Bộ Văn kiện là bộ sách mang ý nghĩa lý luận chính trị sâu sắc, thể hiện mối
quan hệ đặc biệt, thủy chung, son sắt giữa hai Đảng, hai Nhà nƣớc, hai Mặt
trận, hai quân đội và nhân dân hai nƣớc Việt Nam và Lào. Cả hai dân tộc đều
cùng chiến đấu kiên cƣờng, bất khuất, chống kẻ thù chung giành độc lập, tự do
cho mỗi nƣớc. Hai Đảng đều có chung một đƣờng lối bắt nguồn từ đƣờng lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng - đƣờng lối cách mạng dân tộc,
dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quá trình đấu tranh cách mạng
hai nƣớc đã trải qua nhiều chặng đƣờng với biết bao hy sinh, gian khổ, vƣợt
qua mọi thử thách, trƣớc nhiều biến động và thay đổi to lớn, kề vai, sát cánh
bên nhau chiến đấu và giành thắng lợi vẻ vang.
Bộ Văn kiện gồm 5 tập:
- Tập I: 1930 - 1945
- Tập II: 1946 - 1955
- Tập III: 1956 - 1975
- Tập IV: 1976 – 1985
- Tập V: 1986 - 2007
Bộ Biên niên sự kiện có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt, nhằm làm sáng tỏ
những sự kiện lịch sử về tình đoàn kết giữa hai nƣớc trong tháng năm đấu tranh
giành độc lập dân tộc cũng nhƣ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
ngày nay. Hàng ngàn sự kiện đƣợc trình bày trong Biên niên sự kiện đã khái
quát, phục dựng lại tiến trình lịch sử của tình đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam, giúp độc giả hiểu rõ thêm một giai đoạn lịch sử hào hùng nhất
của hai dân tộc Việt - Lào anh em. Tình đoàn kết đó đƣợc Chủ tịch Hồ Chí
Minh, chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, Chủ tịch Xuphanuvông đặt nền móng,
đƣợc các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân hai nƣớc dày công vun
đắp trong gần một thế kỷ đã lập nên kỳ tích, đem lại độc lập, hòa bình, ấm no
hạnh phúc cho nhân dân hai nƣớc.
Để phù hợp với phân kỳ lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam, bộ Biên niên sự kiện đƣợc kết cấu thành hai tập:
- Tập I bao gồm những sự kiện diễn ra từ năm 1930 đến 1975
- Tập II bao gồm những sự kiện diễn ra từ năm 1976 đến 2007.
Bộ Hồi ký trong quá trình thực hiện, Ban Biên soạn phía Việt Nam và Ban
Biên soạn phía Lào đã phối hợp chặt chẽ với nhau, liên hệ với tác giả đặt bài
theo yêu cầu đã đƣợc thông qua trong đề cƣơng do Ban Chỉ đạo phê duyệt tổ
chức các để khảo sát tại Lào và Việt Nam để sƣu tầm tƣ liệu. Hai Ban Biên
soạn cũng tổ chức hai cuộc hội thảo chính thức tại Viêng Chăn và Hà Nội để
thống nhất nội dung sản phẩm và giải quyết những vấn đề còn vƣớng mắc; tổ
chức các hội thảo chuyên gia, xin ý kiến các nhà khoa học và cựu chuyên gia
quân tình nguyện Việt Nam giúp Lào.
Nội dung các bài viết đã phản ánh chân thực, sinh động, sâu sắc về mối quan
hệ đặc biệt giữa hai Đảng, hai Nhà nƣớc, hai Mặt trận cùng các tổ chức đoàn
thể nhân dân, các ngành các địa phƣơng của Việt Nam và Lào; phản ánh những
tình cảm sâu sắc của các cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam, các
chuyên gia Việt Nam tại Lào và cán bộ, chiến sĩ vào cùng kề vai sát cánh trong
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ...
Bộ sản phẩm gồm:
Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam (1930 – 2007) - Hồi
ký Tập I (Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lƣợc).
- Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam (1930 – 2007) - Hồi
ký, Tập II (Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào – Việt Nam trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nƣớc).
Ngoài ra trong bộ sách này còn có cuốn sách Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt
Nam – Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007) - Bài viết của lãnh đạo Đảng, Nhà
nước bao gồm những bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc, Mặt
trận, các tổ chức đoàn thể và một số địa phƣơng của Việt Nam và Lào. Các bài
viết đều toát lên tầm tƣ tƣởng lớn về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam thể hiện quan điểm, đƣờng lối và hoạt động thực tiễn rất hiệu quả
của hai Đảng, hai Nhà nƣớc, hai Mặt trận và nhân dân hai nƣớc trong mối quan
hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam.
Tập Sách ảnh là sản phẩm chung, công trình hợp tác đầu tay về sách ảnh giữa
Việt Nam và Lào. Thông qua các hình ảnh và tƣ liệu đƣợc chọn lựa kỹ, sách
ảnh đã phản ánh một cách khách quan, có hệ thống và tiêu biểu về mối quan hệ
đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu và hợp tác toàn diện giữa hai nƣớc Việt
Nam và Lào qua tác thời kỳ lịch sử. Cuốn sách gồm hơn 300 ảnh, đƣợc chú
thích bằng ba thứ tiếng: tiếng Việt Nam, tiếng Lào và tiếng Anh, có ba phần
chính:
- Phần thứ nhất: Dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, nhân dân
hai nƣớc Việt Nam và Lào đoàn kết giúp đỡ nhau đấu tranh giành độc lập tự do
(1930 - 1945)
- Phần thứ hai: Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào Chống thực dân, đế quốc
xâm lƣợc (1945 - 1975).
- Phần thứ ba: Quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nƣớc Cộng hòa
xà hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào (1975 – 2007).
Trong quá trình biên soạn, Ban Biên soạn Sách ảnh đã cố gắng kế thừa những
thành quả của công trình sách ảnh “Quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp
tác toàn diện Việt Nam - Lào đƣợc xuất bản vào dịp kỷ niệm 45 năm thiết lập
quan hệ ngoại giao Việt Nam - Lào (5-9-1962 - 5-9- 2007) và 30 năm ký Hiệp
ƣớc hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào (18-7-1977 - 18-7-2007). Tập Sách
ảnh đƣợc đánh giá cao, phản ánh trực quan, khoa học là tài liệu tuyên truyền,
giáo dục sâu rộng cho nhân dân hai nƣớc, đặc biệt là thế hệ trẻ về mối quan hệ
và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trên mọi lĩnh vực.
Ngoài năm sản phẩm bằng cho viết và hình ảnh, công trình còn có bộ phim tài
liệu "Bản anh hùng ca quan hệ Việt - Lào gồm 10 tập (100 phút). Nội dung, độ
dài và bố cục của phim phù hợp với các sự kiện lịch sử phản ánh khá toàn diện,
phong phú và sinh động những hoạt động trong tiến trình phát triển quan hệ
đặc biệt của hai nƣớc Việt Nam - Lào từ liên minh đến đấu chống kẻ thù
chung, nhằm giải phóng dân tộc của một nƣớc đến quan hệ hợp tác toàn diện
nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai nƣớc, hai Nhà nƣớc và nhân dân hai
nƣớc.
Công trình Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 –
2007) là công trình quy mô lớn nhất từ trƣớc tới nay về mối quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, đƣợc nghiên cứu, biên soạn công phu, tƣơng
xứng với tầm vóc lớn lao của mối quan hệ đúng tinh thần mà Bộ Chính trị
Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã thỏa thuận.
Công trình cũng có ý nghĩa to lớn khi hoàn thành và xuất bản đúng dịp Đại hội
lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam và Đại hội lần thứ IX Đảng Nhân dân
cách mạng Lào. Công trình có giá trị khoa học, chính trị, tƣ tƣởng cao, góp
phần tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân
dân và thế hệ trẻ hai nƣớc về mối quan hệ hữu nghĩ đặc biệt, thủy chung, trong
sáng giữa hai nƣớc về mối quan hệ hữu nghị đặc biệt, thủy chung, trong sáng
giữa hai nƣớc. Trên cơ sở đó nâng cao ý thức giữ gìn, củng cố, vun đắp và phát
triển mãi mãi mối quan hệ tốt đẹp, hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà
nƣớc và nhân dân hai nƣớc Việt Nam và Lào; đồng thời, giới thiệu với bạn bè
quốc tế về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, đấu tranh
chống lại sự bóp méo, xuyên tạc lịch sử của các thế lực thù địch chia rẽ tình
đoàn kết của nhân dân hai nƣớc.
Nhân dịp công trình ra mắt bạn đọc hai nƣớc, Ban Chỉ đạo xin chân thành cảm
ơn Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị Đảng Nhân dân
cách mạng Lào, xiN chân thành cám ơn và đánh giá cao các Ban Biên soạn,
các nhà khoa học, nhà nghiên cứu Việt Nam và Lào đã hết sức cố gắng dành
nhiều thời gian và công sức hoàn thành công trình theo đúng kế hoạch và bảo
đảm chất lƣợng; chân thành cảm ơn các cựu chuyên gia, quân tình nguyện Việt
Nam giúp cách mạng Lào, các cựu chiến binh và các nhân chứng lịch sử, các
cơ quan và địa phƣơng hai nƣớc Việt Nam, Lào đã có nhiều đóng góp quý báu
cho sự thành công của công trình đặc biệt này.
Hà Nội – Viêng Chăn, tháng 5 năm 2011

BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN
CHƢƠNG TRÌNH CÔNG TRÌNH
“LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT “LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT
LÀO – VIỆT NAM, VIỆT NAM – VIỆT NAM – LÀO, LÀO – VIỆT
LÀO (1930 – 2007) NAM (1930 – 2007)
1

PHÇN THø NHÊT

D¦íI Sù L·NH §¹O CñA §¶NG CéNG S¶N


§¤NG D¦¥NG, NH¢N D¢N HAI N¦íC VIÖT NAM
Vµ LµO PH¸T HUY TRUYÒN THèNG §OµN KÕT
§ÆC BIÖT, §ÊU TRANH GIµNH §éC LËP, Tù do
(1930 - 1945)
2
3

Chương I

NH÷NG C¥ Së H×NH THµNH QUAN HÖ §OµN KÕT


§ÆC BIÖT VIÖT NAM - LµO, LµO - VIÖT NAM

Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng gần gũi trên bán đảo
Đông Dương, có truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau lâu đời.
Quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam hình
thành nên không phải do ý muốn chủ quan của bất kỳ bên nào,
cũng không phải là một hiện tượng nhất thời, mà bắt nguồn từ vị trí
địa - chiến lược của hai nước, từ bản chất nhân văn, nương tựa lẫn
nhau của hai dân tộc, được nâng lên thành quan hệ đặc biệt từ khi
lãnh tụ Nguyễn ái Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930 và đổi tên thành Đảng
Cộng sản Đông Dương tháng 10 năm 1930.

I. C¸c ®iÒu kiÖn tù nhiªn, ®Þa - chiÕn l-îc, ®Þa - qu©n sù


chi phèi quan hÖ ViÖt Nam - Lµo, Lµo - ViÖt Nam

Việt Nam và Lào nằm ở trung tâm bán đảo ấn - Trung, thuộc
vùng Đông Nam á lục địa. Trong phạm vi của bán đảo Đông
Dương, Việt Nam nằm ở phía đông dãy Trường Sơn, như một bao
lơn nhìn ra biển; Lào nằm ở sườn tây dãy Trường Sơn, lọt sâu vào
đất liền của bán đảo. Như vậy, dãy Trường Sơn có thể ví như cột
sống của hai nước, tạo thành biên giới tự nhiên trên đất liền giữa
Việt Nam và Lào.
4 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Địa hình tự nhiên này đã quy định hệ thống giao thông ở Việt
Nam và Lào cùng chạy dài theo trục Bắc - Nam: ở Việt Nam là trục
quốc lộ 1A và ở Lào là trục quốc lộ 13. Về mặt tự nhiên, bên cạnh
con đường 13 nối Pạc Xê1 - Cratié (Campuchia) - thành phố Hồ Chí
Minh, Lào có thể thông thương ra biển gần nhất bằng hệ thống các
đường xương cá chạy ngang trên lãnh thổ hai nước như: đường 6
Sầm Nưa2 - Thanh Hoá, đường 7 Xiêng Khoảng - Nghệ An, đường
8 Khăm Muộn - Hà Tĩnh, đường 9 Xavẳnnakhệt3 - Đông Hà, đường
12 Khăm Muộn - Quảng Bình...
Cùng nằm trong vùng nhiệt đới châu á gió mùa, nóng ẩm, mưa
nhiều, lượng bức xạ mặt trời lớn, nhưng khí hậu hai nước cũng có
điểm khác biệt, bởi Việt Nam chịu sự điều tiết của biển nên ít khô
hanh như khí hậu Lào ở sâu trong đất liền, trong khi địa hình Lào,
nhờ dãy Trường Sơn che chắn, lại hầu như không bị những cơn bão
biển tàn phá. Lãnh thổ Việt Nam trải dài theo chiều dọc của bán đảo,
mặt hướng ra biển Đông với bờ biển dài trên 3.400 km, tiếp giáp với
vịnh Bắc Bộ, biển Đông và vịnh Thái Lan, có nhiều cảng biển lớn,
nhất là các cảng nước sâu ở miền Trung.
Việt Nam và Lào là những nước thuộc loại “vừa” và “tương
đối nhỏ” sống bên cạnh nhau, chiếm vị trí địa - chiến lược quan
trọng ở vùng Đông Nam á do nằm kề con đường giao thương hàng
hải hàng đầu thế giới, nối liền Đông Bắc á, Nam á qua Tây Thái

1
. Pạc Xê (còn gọi là Pắc Xế): tỉnh lỵ của tỉnh Chămpaxắc. Pạc có nghĩa là
cửa, Xê là sông: thành phố cửa sông (BT).
2
. Sầm Nưa: thị xã của tỉnh Hủa Phăn. Sầm Nưa đọc đúng âm Lào là Sâm
Nửa: Sâm là tên của sông Sâm, Nặm Sâm, Nửa là phía trên hoặc phía thượng
nguồn của sông. Sâm Nửa là vùng đất nằm ở thượng nguồn của (sông) Nặm Sâm
(BT).
3
. Xavẳnnakhệt: tỉnh lỵ của tỉnh Xavẳnnakhệt. Xavẳnnakhệt: đọc đúng là
Xávẳnnákhệt có nghĩa là thiên đường (BT).
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 5

Bình Dương và ấn Độ Dương. Về quốc phòng, do bờ biển Việt


Nam ở phía đông tương đối dài, nên việc bố phòng về mặt biển
gặp không ít trở ngại. Trong khi đó, dựa vào địa thế hiểm trở, nhất
là với dãy Trường Sơn - một “lá chắn chiến tranh” hùng vĩ, một
lợi thế tự nhiên che chở cho cả Việt Nam và Lào, nên chẳng
những hai nước có thể khắc phục được những điểm yếu “hở sườn”
ở phía đông, mà còn phát huy được sự cần thiết phải dựa lưng vào
nhau, tạo ra vô vàn cách đánh của chiến tranh du kích, chiến tranh
nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân hai nước có thể lấy ít đánh
nhiều, lấy yếu chống mạnh, giành thắng lợi từng bước, tiến lên
đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Về địa - quân sự, Cánh đồng Chum
- Xiêng Khoảng; hay cao nguyên Bôlavên của Lào và Tây Nguyên
của Việt Nam; vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Đông Bắc
Lào... đều là những vị trí có tầm chiến lược hàng đầu trên bán đảo
Đông Dương. Nhiều nhà chiến lược và quân sự cho rằng: ai nắm
được những địa bàn chiến lược trên, người đó sẽ làm chủ toàn bộ
chiến trường Đông Dương.

II. C¸c nh©n tè d©n c-, x· héi, v¨n ho¸ vµ lÞch sö


t¸c ®éng ®Õn quan hÖ ViÖt Nam - Lµo, Lµo - ViÖt Nam

1. Nhân tố dân cư và xã hội


Trước hết, về mặt phân bố tộc người, Việt Nam và Lào đều là
những quốc gia đa dân tộc. Việt Nam có 54 dân tộc chia thành tám
nhóm ngôn ngữ1. Lào có 49 tộc người (phầu) xếp theo bốn nhóm

1
. Đó là các nhóm: Việt - Mường, Tày - Thái, Môn - Khơme, Mông - Dao,
Kađai, Nam Đảo, Hán, Tạng - Miến. Tham khảo: Tổng cục thống kê: Danh mục
các dân tộc Việt Nam, Ban hành theo Quyết định số 121-TCTK/PPCĐ ngày 2 tháng
3 năm 1979.
6 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

ngôn ngữ1. Hiện tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc
gia của hai nước hay nhiều nước là đặc điểm tự nhiên của sự phân
bố tộc người ở khu vực Đông Nam á nói chung, ở Việt Nam và Lào
nói riêng. Đặc điểm địa - tộc người này đến nay vẫn tiếp tục chi
phối mạnh mẽ các mối quan hệ khác trên đường biên giới quốc gia
Việt Nam - Lào.
Quá trình cộng cư, hoặc sinh sống xen cài của những cư dân
Việt Nam và cư dân Lào trên địa bàn biên giới hai nước xuất phát
từ nhiều lý do, liên quan đến việc cùng khai thác và chia sẻ nguồn
lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn lợi sinh thuỷ, có thể do tập quán sản
xuất du canh du cư, có thể do xung đột cộng đồng, tranh giành
quyền lực, cũng có thể do tránh dịch bệnh, thiên tai... Như vậy, các
quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc đã là những điều kiện lịch
sử và xã hội đầu tiên, tạo ra những mối dây liên hệ khó phai mờ và
sự giao thoa văn hoá nhiều tầng nấc giữa cư dân hai nước. Điều này
được phản ánh khá sâu đậm trong những ký ức và tâm thức dân
gian, cũng như được lưu giữ trong các nguồn tài liệu bia ký và sử
sách của cả Việt Nam và Lào.
Huyền thoại khởi nguyên nổi tiếng của người Lào còn nhắc đến
nguồn gốc chung từ một quả bầu của các nhóm dân cư Lào, Thái,
Khơmú, Việt và điều độc đáo kỳ diệu là lời dặn dò giàu tính nhân
bản của Khún Bulôm với các con cháu của Người: “Các con phải
luôn luôn giữ tình thân ái với nhau, không bao giờ được chia rẽ

1
. Đó là các nhóm: Lào - Thay, Môn - Khơme, Hán - Tạng và Mông - Iêu Miền.
Xem: Khăm Pheng Thip Muntaly: “Các tộc người Lào hiện nay”, Tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam á, số 3 (60), 2003, tr.45-51. Cũng xem: Lao National Front for
Construction: The Ethnic Groups in Lao PDR, Vientiane, Printed by Department of
Ethnics; Sponsored by Canada Fund for Local Initiatives, 2005 và Thongpheth
Kingsada: “Languages and Ethnic Classification in Lao PDR” trong Hội thảo quốc
tế ngôn ngữ học liên á lần thứ 6, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, tr.152-164.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 7

nhau. Các con phải làm cho mọi người noi gương các con và coi
nhau như anh em một nhà, người giàu phải giúp đỡ kẻ nghèo,
người mạnh giúp kẻ yếu. Các con phải bàn bạc kỹ trước khi hành
động và đừng bao giờ gây hấn xâm lăng lẫn nhau”1. Dưới dạng lời
căn dặn của thế hệ trước cho thế hệ sau, di chúc huyền thoại của
Khún Bulôm truyền tải nét đẹp chung về một loại hình văn hoá
pháp lý có tính chất luật tục, ngày nay còn thấy khá phổ biến trong
các cư dân Lào và Việt Nam sống ở hai bên dãy Trường Sơn. Đặc
trưng của nền văn hoá này là toàn thể cộng đồng được điều hành
theo phong tục tập quán (Hít Khoóng Pạ Phê Ni) để duy trì những
nền tảng đạo đức và quan hệ xã hội tích cực, coi đó là các giá trị
thiêng liêng do “ông bà xưa để lại”2.
Cùng một môtíp quả bầu mẹ, người B’ru thuộc ngữ hệ Môn -
Khơme ở miền tây Quảng Bình và miền tây Quảng Trị của Việt
Nam cũng có huyền thoại khởi nguyên giải thích một cách tự nhiên
nguồn gốc anh em giữa các dân tộc Tà Ôi, Êđê, Xơđăng, Bana,
Khùa, Sách, Mông, Dao, Tày, Khơme, Lào, Thái, Kinh (Việt)...3.
Hình tượng quả bầu mẹ hay quan niệm đồng nhất về nguồn gốc loài
người, phổ biến trong cư dân hai nước đã phản ánh một nền tảng
chung về môi trường địa - sinh thái, điều kiện phân bố dân cư xen
kẽ, cũng như cơ tầng chung của một nền sản xuất nông nghiệp lúa
nước ở cả Việt Nam và Lào.

1
. “Le Testament de Khun Borom” (Di chúc của Khún Bulôm) trong Tạp chí
France-Asie, t.12, số 118, 119, 120. Số đặc biệt về Lào, Sài Gòn, 1956, tr.1053.
2
. Nhân dân Lào ngày nay vẫn giữ gìn phong tục tập quán được đúc kết thành
ngạn ngữ: “Hít Síp Soỏng, Khoóng Síp Si” (12 lễ hội chính và 14 luật tục ứng xử xã
hội của người Lào).
3
. Mai Văn Tấn: Truyện cổ Vân Kiều, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1974. Xem
truyện “Nguồn gốc loài người”. Người Bana và nhiều dân tộc ở Tây Nguyên
Việt Nam đều có những câu chuyện tương tự về nguồn gốc loài người.
8 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

2. Nhân tố văn hóa


Do quan hệ gần gũi và lâu đời, đặc biệt trên các vùng biên giới,
người Việt và người Lào đã am hiểu về nhau khá tường tận. “Dư
địa chí” là một trong những sách địa lý cổ nhất của Việt Nam (thế
kỷ XV), khi giới thiệu các tộc người sống ở vùng biên giới Cao,
Lạng (Việt Nam) và Quảng Tây (Trung Quốc) đã đưa ra những
nét mô tả khá ấn tượng về nền văn hoá độc đáo và phong tục
thuần phác của dân tộc Lào, cũng như hiện tượng giao thoa văn
hoá nở rộ giữa Đại Việt với các nước láng giềng Đông Nam á,
trong đó có Lào Lạn Xạng1.
Dưới thời Trần (thế kỷ XIII), các sản vật như gấm, chim ưng, cá
sấu, da dê, ngà voi, trầm hương, gỗ bạch đàn của Lào và Campuchia
đã có mặt trên thị trường Việt Nam qua cảng biển Vân Đồn: “không
thiếu thứ gì, đều là những thứ đời sau ít có”2. Phủ Ninh Biên (vùng
Tây Bắc Việt Nam) được thành lập từ năm 1775, dưới thời chúa
Trịnh, đã từng là địa điểm giao thương sầm uất. Những đoàn lái
thương từ Lào, Mianma, các miền Síp Loỏngphằnna, Mương La,
miền Khai Hoá, Vĩnh Xương (Vân Nam, Trung Quốc) kéo về buôn
bán rất đông. Phiên chợ ở đây có đến hàng chục đoàn voi và hai, ba
nghìn bò, ngựa, tải hàng đến bán: muối, chè, cánh kiến, đồ trang sức,
vật dụng hàng ngày; mua lại những sản phẩm địa phương như: sa
nhân, mật ong, cao thú, mộc nhĩ, nấm hương,... Sử của người Thái
(Tây Bắc Việt Nam) chép đây là thời kỳ thịnh vượng nhất ở miền
này3. Lê Quý Đôn dưới thời Lê mạt (thế kỷ XVIII) và Phan Huy Chú
1
. Xem Nguyễn Trãi: Toàn tập, Bản dịch, in lần thứ hai, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1976.
2
. Lê Quý Đôn: Vân đài loại ngữ, Bản dịch, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1961, t.1,
tr.157.
3
. Xem Quắm tố mướn (Kể chuyện bản mường) do Cầm Trọng và Cầm Quỳnh
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 9

dưới thời Nguyễn (thế kỷ XIX) đều ca ngợi sự buôn bán thịnh đạt
với Lào ở phủ Triệu Phong (Quảng Trị), một khu vực “trao đổi hàng
hoá, nguồn lợi và sản vật thường được thừa thãi”1.
Điều đáng chú ý là trong quan hệ giao thương với Đại Việt, Lào
Lạn Xạng đã không ít lần bộc lộ mối quan tâm hướng ra biển của
mình, trong khi Đại Việt lại tìm được không ít cơ hội để mở rộng
buôn bán vào sâu lục địa. Chỉ riêng những hoạt động ở cửa khẩu
Quy Hợp (Hương Khê, Hà Tĩnh)2 đã cung cấp những bằng chứng rõ
rệt cho việc: “cách đây 200 năm, nhiều đặc sản của Vương quốc
Viêng Chăn đã xuất khẩu ra thị trường quốc tế phía biển Đông qua
cửa khẩu Quy Hợp. Về phía tây, Quy Hợp thông thương dễ dàng
bằng đường bộ và đường voi với Thà Khẹc, Viêng Chăn, rồi từ đó
với Xiêm và xa hơn nữa. Hàng đặc sản của Việt Nam, của Trung
Quốc bằng con đường ấy đi sang Lào và các nước phía tây sông Mê
Công”3. Người tiêu dùng Việt Nam cũng từng bày tỏ mối thiện cảm
với chất lượng cao của mặt hàng vải dệt tài hoa từ xứ sở Lào: “Nay
nước Ai Lao bán các thứ phạ4 Lào ấy, phạ Lào dệt bằng các sợi ngũ
sắc sặc sỡ rất khéo, rất đẹp, một tấm dài đến hơn 20 thước, giá tiền
6-7 quan, dùng may màn rất tốt, còn thứ vải không có hoa cũng rất

dịch từ chữ Thái, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960.


1
. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Bản dịch, Nxb. Sử học, Hà Nội,
1960-1964, q.5, tr.132.
2
. Nay là cửa khẩu Bản Giàng (Hà Tĩnh) - Mắtca (Khăm Muộn).
3
. Theo Trần Văn Quý: “Tư liệu lịch sử về quan hệ Việt - Lào mới phát hiện ở
Quy Hợp, Hương Khê, Nghệ Tĩnh” trong Quan hệ lịch sử Việt - Lào qua tư liệu Quy
Hợp (TK. XVII-XIX), The Toyota Foundation tài trợ, Viêng Chăn, 2000, tr.34.
4
. Phạ: tiếng Lào có nghĩa là vải, thư tịch cổ Việt Nam đã dùng nguyên từ Lào
này chứ không dịch ra, một bằng chứng về sự giao thoa văn hoá Việt - Lào trên lĩnh
vực ngôn ngữ.
10 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

tốt (vải trắng)”1.


Chiêng đồng Lào rất nổi tiếng và được coi là đồ triều cống
dùng trong quan hệ bang giao, cũng có khi dùng để trao đổi các vật
phẩm quý khác. Nhiều dân tộc ít người ở Tây Nguyên (Việt Nam)
còn giữ được những chiếc chiêng Lào chuyên dùng đánh trong các
ngày hội của buôn làng2. Ghi chép về những đặc sản quý của nước
Lào, nhà bác học Lê Quý Đôn của Việt Nam nhận xét: “thật là một
nước đã giàu lại khéo”4.
Có thể khẳng định rằng, sự hài hoà giữa tình cảm nhân ái và
tinh thần cộng đồng là một nét đặc sắc của triết lý nhân sinh người
Việt Nam cũng như người Lào. Chính trong cuộc sống chan hoà
này, nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào đã ngày càng hiểu nhau
hơn và bày tỏ những tình cảm rất đỗi chân thành với nhau. Ngạn
ngữ Lào có câu: “Nói hợp lòng thì xin, cho cũng chả tiếc, nói trái lý
thì dẫu xin, mua cũng chẳng bán” (Vầu thức khỏ, khỏ kin bò thi (bò
khỉ thi), vầu bò thức khỏ kho xử cò bò khai). Chẳng khác nào với
những cảm xúc bình dị, nhưng đầy tinh tế mà người dân nước Việt
dành nhận xét về người bạn láng giềng của mình: “người Lào thuần
hậu chất phác”5, trong giao dịch buôn bán thì “họ vui lòng đổi
chác”3. Chứng kiến hiện tượng giao thoa văn hoá Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam, ngay từ thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã kịp ghi nhận
những chi tiết khá sát thực về những người khác với mình: “tiếng
Lào nói trong họng,” còn y phục thì “người Lào lấy vải lông quấn

1
, 4. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Bản dịch, Nxb. Khoa học, Hà Nội, 1964,
q.9, tr.156, 155.
2
. Xem Truyện cổ Bana (Tây Nguyên), Nxb. Văn học, Hà Nội, 1965.
5
. Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, Bản dịch, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, q.6,
tr.361.
3
. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Sđd, q.4, tr.225.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 11

vào mình như áo cà sa nhà Phật”1. Nhờ vào tinh thần khoan hoà văn
hoá, đó là sự tôn trọng những khác biệt của người khác, để người
khác tôn trọng những khác biệt của mình, mà người Việt Nam và
người Lào đã dễ dàng hoà đồng, ngày thêm xích lại gần nhau trong
quá trình lịch sử, để cùng tồn tại và phát triển.
Giống như nhiều nước trong khu vực lịch sử - văn hoá Đông
Nam á khác, sở dĩ có sự tương đồng giữa văn hoá Việt Nam và
văn hoá Lào, là vì hai nước đều có chung một cơ tầng của nền văn
minh lúa nước Đông Nam á.. Mô hình tổ chức xã hội cổ truyền của
người Việt là làng - nước có nhiều nét tương đồng với mô hình tổ
chức xã hội cổ truyền bản - mường của nhân dân Lào anh em.
ở Lào, văn hoá chùa từng là nền tảng cơ bản của văn hoá truyền
thống Lào với giáo lý của Đạo Phật: ở hiền gặp lành, chăm lo bố thí
và hạn chế sát sinh, thấm đẫm tinh thần nhân ái, hướng con người
tới phép xử thế nhún nhường, từ bi bác ái, lấy từ thiện tu thân để
khi qua đời được hưởng một cuộc sống sung sướng hơn ở kiếp sau.
ở Việt Nam, vào đầu thời kỳ tự chủ (thế kỷ XI - XIII), văn hoá Phật
giáo cũng từng giữ vai trò chủ đạo và sau này, khi Nho giáo trở
thành hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến Việt Nam (từ
cuối thế kỷ XIV trở đi), Phật giáo vẫn cùng Nho (Khổng), Đạo
(Lão) đồng hành trong đời sống văn hoá “tam giáo đồng nguyên”
của dân tộc. Nhờ lòng nhân ái bao la và đời sống tâm linh phong
phú của người Việt cũng như của người Lào, nhân dân hai nước
đã biết thực hành chuyển hoá những giận hờn, oán hận đời thường
thành hoà giải, yêu thương, thiện hạnh. Lịch sử cho thấy: hoà hiếu,
hoà giải, khoan dung, yêu thương đã trở thành những truyền thống
cao quý nhất của nhân dân Việt Nam cũng như của nhân dân Lào.
Trong quá trình phát triển lịch sử, Việt Nam và Lào có tiếng nói,

1
. Nguyễn Trãi: “Dư địa chí”, trong Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.243.
12 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

văn tự không giống nhau, mô phỏng và xây đắp nên các nền văn hoá,
cũng như mô thức tổ chức chính trị - xã hội khác nhau: Việt Nam chịu
ảnh hưởng nhiều của văn hoá Khổng giáo Trung Hoa, trong khi Lào
chịu tác động nhiều của văn hoá Phật giáo và Bàlamôn giáo ấn Độ.
Đứng trên bình diện so sánh loại hình, người ta dễ dàng nhận ra những
nét tương đồng và khác biệt giữa văn hoá Lào với văn hoá Việt Nam.
Tuy nhiên, những nét tương đồng thì vẫn thấy phổ biến trong muôn
mặt đời sống văn hoá dân gian phong phú của cư dân Việt Nam và
Lào. Vì về bản chất, các nền văn hoá nghệ thuật truyền thống này
mang nhiều nét tương đồng, thích đề cao các giá trị cộng đồng, tôn
trọng luật tục và thượng tôn người già...

3. Nhân tố lịch sử
Nếu dãy Trường Sơn như bức rào thiên nhiên chắn ngang khiến
Việt Nam và Lào hầu như ít có va chạm, xung đột, thì không vì thế,
hai nước không nhận ra những giá trị phòng thủ an ninh đích thực
của bức trường thành này, mà ngược lại, không có thời nào, Việt
Nam và Lào lại bỏ lỡ các cơ hội để tìm gặp nhau, nương tựa vào
nhau và giúp đỡ lẫn nhau như anh em.
Các thư tịch cổ nổi tiếng của Việt Nam như “Việt điện u linh”,
“Lịch triều hiến chương loại chí”, đều ghi chép sự kiện đầu tiên về
quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là rất sớm: vào năm 550,
dưới thời nước Vạn Xuân của nhà tiền Lý. Lúc đó bị quân Lương ở
phương Bắc đàn áp, Lý Nam Đế buộc phải lánh nạn và anh ruột của
vua là Lý Thiên Bảo đã chạy sang đất Lào lập căn cứ chống giặc
ngoại xâm1. Còn hai bộ chính sử khác là “Đại Việt sử ký toàn thư”,
“Khâm định Việt sử thông giám cương mục” thì ghi nhận sự kiện

1
. Xem Lý Tế Xuyên: Việt điện u linh, Bản dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1972,
tr.43-44, và Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.1, q.6, tr.156.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 13

quan hệ ngoại giao, thông hiếu đầu tiên giữa nước Đại Việt và Lào
là vào năm 10671.
Về phía Đại Việt, việc đề xuất phương hướng dựa lâu dài vào
Lào ở phía tây, để ngăn cản sức ép của phương Bắc là một thành
tựu đỉnh cao về mặt nhận thức đối ngoại của vương triều Trần trong
việc xác lập quan hệ với các nước láng giềng, một hệ quả tất yếu
của những yêu cầu tập hợp lực lượng chung vượt ra ngoài biên giới
từ nhiều thế kỷ trước đó. Vả chăng, “Đại Việt sử ký toàn thư” đã
tổng kết rất rõ ý kiến khẳng định sự cần thiết phải liên kết lực
lượng đồng minh phía tây tại triều đình Trần vào năm 1335 bằng
một câu hỏi chứa đầy sức nặng của thực tiễn lịch sử: “Lỡ ra giặc
phương Bắc xâm lấn thì ta nhờ cậy vào đâu?”2.
Vào giữa thế kỷ XIV (năm 1353), Chạu Phạ Ngừm lần lượt
chinh phục các mường Lào, lập nên Vương quốc Lạn Xạng thống
nhất đầu tiên của người Lào, dường như ngay lập tức, những quy
ước hoà bình đầu tiên về biên giới quốc gia đã được xác lập giữa
Đại Việt và Lạn Xạng3.
Bàn về quan hệ giữa nhà Lê sơ với Lạn Xạng dưới thời Chạu
Xảmxẻnthai (1373 - 1416) và Lạn Khăm Đeng (1416 - 1428), sách
“Đại Nam chính biên liệt truyện” nhắc lại: “Thời Lê Thái Tổ mới khởi
nghĩa thường cùng nước này kết hảo”4. Trong suốt quá trình của cuộc

1
. Xem Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê: Đại Việt sử ký toàn thư (gọi tắt là
Toàn thư), Bản dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972, q.1, tr.232, và Quốc sử
quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục (gọi tắt là Cương
mục), Bản dịch, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1957, t.3, tr.85. Xem thêm: Quốc sử
quán triều Nguyễn: Đại Nam chính biên liệt truyện, phần Vạn Tượng, Bản dịch lưu ở
Viện Sử học, Hà Nội.
2
. Ngô Sĩ Liên: Toàn thư, Sđd, q.2, tr.128.
3
. Mission Pavie: Histoire du pays de Lan Chang Hom Khao (Lịch sử nước Lạn
Xạng Lọng Trắng), études diverses, Paris, 1898, t.2, tr.19.
4
. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam chính biên liệt truyện, Sđd, tr.1.
14 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427), nghĩa quân Lê Lợi luôn nhận
được sự tiếp sức của các tộc trưởng và nhân dân Lào vùng biên giới
như truy đuổi quân Minh trốn sang Lào, giúp đỡ lương thực, voi
chiến...
Tinh thần lấy hoà hiếu làm trọng xuyên suốt thế kỷ XIV và XV
trong quan hệ bang giao Đại Việt - Lạn Xạng, Lạn Xạng - Đại Việt,
cho dù không phải không có những thời khắc gặp nguy nan khi xảy ra
biến cố đụng chạm lợi ích giữa các tập đoàn phong kiến dưới thời Vua
Lê Thánh Tông. Đó là sự kiện nhà Lê tiến hành cuộc chinh phạt Lạn
Xạng vào năm 1479. Nhưng hai nước thật sáng suốt và công bằng khi
cả Lào và Việt đều có ý thức đề cao không thù hận, biết chủ động vun
đắp tình thân ái và hữu nghị lâu dài giữa hai dân tộc. Phôngxavađan
(dã sử) Lạn Xạng đã kể lại những cử chỉ cao đẹp của nhân dân và các
nhà sư Lạn Xạng khi băng bó và chăm sóc vết thương cho binh lính
người Việt. Được cảm hoá trước những hành vi độ lượng và đầy lòng
vị tha của nhân dân Lạn Xạng mà nhiều người Việt đã xin ở lại đất
Lào làm ăn kể từ đó. Phôngxavađan Lạn Xạng còn nhấn mạnh rằng,
sau cuộc chiến tranh trên: “nhà vua nước Việt đã hối hận sâu sắc vì
làm sai lời giáo huấn của Khún Bulôm và cam kết rằng từ nay về sau
sẽ không bao giờ gây chiến tranh với những người anh em của mình
nữa”1.
Có thể nói, tinh thần hoà bình, nhân bản dựa trên nền tảng cao
đẹp của một nền văn hoá pháp lý có tính chất luật tục để duy trì đạo
đức và quan hệ xã hội cộng đồng khá phổ biến của nhân dân Lào,
gắn với những ảnh hưởng khoan dung, bác ái sâu rộng của Đạo Phật
dân gian Lào đã làm nên âm hưởng chủ đạo, chi phối quan hệ Lạn
Xạng - Đại Việt, Đại Việt - Lạn Xạng trong suốt thời kỳ cổ, trung
đại. Vượt qua hậu quả của một cuộc chiến tranh thông thường, nền
1
. Xem Mission Pavie: Histoire du pays de Lan Chang Hom Khao (Lịch sử
nước Lạn Xạng Lọng Trắng), Sđd, tr.51.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 15

văn hoá yêu chuộng hoà bình của nhân dân Lạn Xạng thật sự đã đạt
đến tầm cao của phép xử thế tinh tế, thấm đẫm tính nhân văn qua
việc khắc phục tận gốc nguyên nhân và hậu quả của những va chạm
trong quan hệ hai nước. Đây không những là bài học lịch sử mẫu
mực trong việc tháo gỡ xung đột quốc gia, thực hiện hoà giải, khoan
dung giữa Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, mà trên hết còn là ý
thức chung sống hoà bình hiếm thấy trong lịch sử quan hệ bang giao
giữa các quốc gia trong thời kỳ cổ, trung đại1.
Sang thế kỷ XVII là thời kỳ toàn thịnh của Lạn Xạng dưới Vương
triều Xulinhavôngsả (1637 - 1694). Nhà vua Lào cũng đích thân cầu
hôn công chúa con Vua Lê Duy Kỳ2. Tuy nhiên, đây cũng là lúc chế
độ phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng, với việc
phân tranh Nam - Bắc kéo dài suốt hơn hai thế kỷ (1533 - 1788), nên
quan hệ giữa hai vương triều hậu Lê và Lạn Xạng không phát triển
được nhiều. Cuối thế kỷ XVII, nội bộ hoàng tộc Lào rối ren, cháu nội
của Xulinhavôngsả là Say Ông Vẽ (có vương hiệu là Xâynha
Xệtthảthilạt 2, “Biên niên sử” Việt Nam chép là Sài Ông Huế), năm
1696 sang Huế cư trú để xin trợ giúp của triều đình Việt Nam. Năm
1707, Say Ông Vẽ lại sang cầu cứu quân đội Ayuthaya nhằm chống
lại các phe phái đối lập trong hoàng tộc. Phong kiến cầm quyền
Ayuthaya đã không bỏ qua cơ hội này để thực hiện ý đồ bành trướng

1
. Nghiên cứu những sự kiện quan hệ Việt - Lào trong thời kỳ này, chính ngòi
bút của học giả thực dân cũng phải công nhận rằng: “Quan hệ giữa hai dân tộc được
nổi bật hẳn lên sau cuộc va chạm dữ dội năm 1479, và nhiều người An Nam đã ở lại
Lạn Xạng sau khi quân đội Vua Lê Thánh Tông rút lui. Hai vị quốc vương đã trao
đổi lễ vật và quan hệ láng giềng giữa hai nước đượm một tình thân mật hữu nghị từ
trước đến nay chưa từng có, ngay cả trước thời Lê Lợi và Lạn Khăm Đeng cũng
vậy”. (Xem Paul Le Boulanger: Histoire du Laos franỗais, (Lịch sử Lào thuộc
Pháp), Librairie Plon, Paris, 1931, tr.75).
2
. Paul Le Boulanger: Histoire du Laos franỗais, Sđd, tr.58. Vua Lê Duy Kỳ có
tên hiệu là Lê Thần Tông, lên ngôi hai lần vào các năm 1619 -1643 và 1649 - 1662.
16 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

và thôn tính sang phía đông. Đến năm 1713, khi kinh đô Chămpaxắc
tuyên bố tách ra thì nước Lạn Xạng bị chia thành ba tiểu vương quốc:
Viêng Chăn, Luổng Phạbang và Chămpaxắc1.
Bất chấp hoàn cảnh bất lợi của chế độ phong kiến ở Đại Việt và
Lạn Xạng, quan hệ nương tựa vào nhau giữa nhân dân hai nước vẫn
tiếp tục được nuôi dưỡng. Nửa cuối thế kỷ XVIII, khu vực Mương
Phuôn (Xiêng Khoảng) đã trở thành một căn cứ đề kháng quan
trọng của nghĩa quân Tây Sơn chống lại thế lực Nguyễn ánh được
phong kiến Xiêm trợ giúp. “Biên niên sử” Lào còn dành một đoạn
trình bày cuộc tấn công năm 1788 của hai viên tướng Tây Sơn là
Chiêng Ba (?) và Chiêng Viên (?)2. Trong trận này, 3.000 quân Tây
Sơn đã phối hợp với 3.000 quân Xiêng Khoảng đánh thẳng vào
thành Viêng Chăn, buộc chính quyền do Xiêm dựng nên phải thả
Chạu Xủmphu và thừa nhận chức Chạu mương Xiêng Khoảng của
ông.
Sang thế kỷ XIX, quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đã
có bước trưởng thành sâu hơn về phương diện nhận thức chủ quyền
quốc gia, quan điểm bạn thù cũng như phương cách xây dựng đồng
minh giữa nhân dân hai nước. Ngoài các cuộc kết hôn thường thấy
giữa các tầng lớp vua chúa và các thủ lĩnh địa phương với nhau,
quan hệ bang giao giữa các nhà nước phong kiến Việt Nam và Lào,

1
. Theo Mahả Xila Viravông: Lịch sử Lào từ thượng cổ đến giữa thế kỷ
XIX, Nxb. Bộ Giáo dục, Viêng Chăn, 1957, tr.66 (Bản dịch lưu tại Thư viện
Viện Nghiên cứu Đông Nam á).
2
. Mahả Xila Viravông: Lịch sử Lào từ thượng cổ đến thế kỷ XIX, Sđd,
tr.76. Theo sách “Đại Nam chính biên liệt truyện” của Quốc sử quán triều
Nguyễn, thì cuộc tấn công này xảy ra vào năm Tân Hợi 1791 chứ không phải
năm 1788, quyển 33 chép là hơn 1 vạn quân, quyển 30 chép là 5 nghìn quân.
Thư của Le Labousse ngày 16 tháng 6 năm 1792 viết là 3 vạn quân. (Dẫn theo:
Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng: Tìm hiểu thiên tài quân sự của
Nguyễn Huệ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1966, tr.328).
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 17

trong mọi hoàn cảnh, luôn được duy trì và được đặt ở vị trí ưu tiên
đối với nhau. Quốc sử quán triều Nguyễn còn ghi lại những quy
định ngoại giao cụ thể như: sứ giả của Vạn Tượng (Viêng Chăn),
Nam Chưởng (Luổng Phạbang) được phép đến thẳng kinh đô Huế
theo đường trạm Nghệ An; trong nghi lễ yến tiệc ngoại giao, sứ
Nam Chưởng được xếp ở vị trí cao nhất1. Ngay tại hoàng cung, nhà
Nguyễn còn cho mở nhiều lớp phiên dịch tiếng Lào, Thái để phục
vụ cho quan hệ bang giao2. Vua Chạu Anúvông (1766 - 1828), vị
anh hùng kiệt xuất của Lào, đã chủ trương dựa hẳn vào Việt Nam
để xây dựng lực lượng kháng chiến chống Xiêm. Sự kiện này được
kể lại trân trọng trong “Phưn Viêng”, một truyện thơ khuyết danh
nổi tiếng của Lào ở thế kỷ XIX3.
Biên niên sử triều Nguyễn cũng dành nhiều trang phản ánh mối
quan hệ đồng minh giữa Nhà vua Lào Chạu Anúvông (thư tịch cổ
Việt Nam ghi phiên âm là Chiêu A Nỗ) với triều đình Việt Nam
vào những năm 1827 - 18284. Có thể nói rằng: nhận thức phải
nương tựa vào nhau và cùng nhau tồn tại bắt nguồn từ yêu cầu sống
còn của hai dân tộc, hai quốc gia. Chính việc nương tựa vào nhau,
cùng nhau đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mình là nội dung
cơ bản của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong suốt thời
kỳ cổ, trung đại.

1
. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Bản dịch của Bộ Giáo dục, Sài
Gòn, 1965, phần Nhu viễn, chương Triều cận, tr.29.
2
. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Bản dịch của Bộ Giáo dục, Sài
Gòn, 1965, phần Nhu viễn, chương Tượng dịch, tr.121-123.
3
. Xem Houmphanh Rattanavong: “Na Kay - Quy Hợp một con đường
lịch sử của mối quan hệ Lào - Việt Nam”, trong Quan hệ lịch sử Việt - Lào
qua tư liệu Quy Hợp (TK. XVII-XIX), Sđd, tr.27.
4
. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục chính biên, Bản
dịch, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1964, t.VIII, q.45, tr.239, 247-249.
18 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

III. TruyÒn thèng chèng giÆc ngo¹i x©m vµ sù tù nguyÖn


phèi hîp cña nh©n d©n hai n-íc ViÖt Nam vµ Lµo trong cuéc
®Êu tranh chèng thùc d©n Ph¸p x©m l-îc

Trong khi chế độ phong kiến phương Đông đang rơi vào khủng
hoảng thì chủ nghĩa tư bản phương Tây bước vào giai đoạn phát
triển, đang tích cực bành trướng thế lực, tìm kiếm thị trường và
thuộc địa. Từ thế kỷ XVI, các nước tư bản phương Tây đã dùng vũ
lực trắng trợn xâm lược nhiều nước châu á.
Bán đảo Đông Dương nằm ở ngã ba đường giao thông qua lại
từ đông sang tây, từ bắc xuống nam của khu vực, lại trấn giữ bao
lơn Thái Bình Dương, nên có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng
trong thời kỳ phát triển cạnh tranh tư bản và đế quốc chủ nghĩa thế
giới. Chiếm được bán đảo Đông Dương sẽ có khả năng khống chế
được sự đi lại cũng như việc giao lưu kinh tế, văn hoá với thị
trường Trung Quốc rộng lớn. Ngoài ra, bán đảo Đông Dương còn
là bàn đạp để tiến sâu vào lục địa Đông Nam á, một vùng tài
nguyên nhiệt đới dồi dào.
Để xâm lược bán đảo Đông Dương, đế quốc Pháp đã tiến đánh
Việt Nam đầu tiên. Đây là một quốc gia mặt hướng ra biển Đông,
nên được coi là “lá chắn” án ngữ hướng tiến vào lục địa từ phía
biển. Thôn tính xong Việt Nam (1883) và Campuchia (1863), Pháp
không muốn dừng lại mà tiếp tục bành trướng đến tận bờ đông
sông Mê Công để cạnh tranh ảnh hưởng với đế quốc Anh, đẩy lùi
quyền lực của phong kiến Xiêm, thôn tính nốt Vương quốc Lào
Lạn Xạng (1893).
Thực hiện chính sách “chia để trị”, đế quốc Pháp đã chia Việt
Nam thành ba xứ (Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ) cùng với Cao Miên
(Campuchia) lập thành Liên bang Đông Dương theo sắc lệnh ngày
17 tháng 10 năm 1887 của Tổng thống Pháp và tiếp đến là sắc lệnh
ký ngày 19 tháng 4 năm 1899, có thêm Lào. Bộ máy cai trị thực dân
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 19

được tạo lập trên cơ sở có sự câu kết chặt chẽ giữa bọn thống trị tư
bản Pháp với giai cấp phong kiến bản xứ, chủ yếu nhằm xây dựng
các công cụ đàn áp, bóc lột và chia rẽ nhân dân các nước Đông
Dương. Việc sáp nhập cưỡng bức ba nước Việt Nam, Lào,
Campuchia vốn có nền văn hoá, ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập
quán khác nhau thành một thực thể “Đông Dương thuộc Pháp”,
chẳng những đã huỷ bỏ tính chất quốc gia của mỗi nước, mà còn
biến Đông Dương thực sự trở thành một nhà tù của các dân tộc.
Trên thực tế, chủ nghĩa tư bản Pháp đã duy trì những tàn tích
lạc hậu của nền văn minh nông nghiệp ở thuộc địa Đông Dương để
nuôi dưỡng tâm lý biệt lập với thế giới bên ngoài và thực hiện triệt
để chính sách “chia để trị”. Mặt khác, bọn thực dân đế quốc còn
triệt để lợi dụng đặc trưng của khu vực này đều là các quốc gia đa
dân tộc và một tộc người lại sống trên nhiều lãnh thổ quốc gia, để
từ đó khoét sâu vào những vấn đề biên giới do lịch sử để lại.
Do cùng chung một kẻ thù và chung cảnh ngộ bị xâm lược và
đô hộ, nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia dễ dàng
đồng cảm, liên kết tự nhiên với nhau và tự nguyện phối hợp với
nhau trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. ở Việt Nam,
phong trào hưởng ứng chiếu Cần Vương chống Pháp của Vua Hàm
Nghi (1885 - 1895) lan rộng và sôi sục. Nhiều căn cứ và đơn vị
nghĩa quân của Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng,
Cao Đạt, Hà Văn Mao, Tống Duy Tân... đã dựa vào các vùng rừng
núi giáp biên giới Việt Nam - Lào để hoạt động, được nhân dân
Lào và Việt Nam ở đây đùm bọc, nuôi dưỡng.
Cũng như ở Việt Nam, phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất
chống giặc ngoại xâm, phong trào chống Pháp ở áttapư do ông Khi
Volảlạt lãnh đạo (1900 - 1901) hoà chung với phong trào Phùmibun ở
Trung Lào của Phò Càđuột (1901 - 1902) và cuộc khởi nghĩa Hạ Lào
do ông Kẹo, ông Cômmađăm lãnh đạo (1901 - 1937), đã có sự liên kết
20 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

với các cuộc nổi dậy chống Pháp của bộ tộc Xơđăng ở Kon Tum (Việt
Nam). Đặc biệt, năm 1918, phong trào chống Pháp của người Mông ở
Tây Bắc Việt Nam do Chạu Phạpắtchây lãnh đạo, lan rộng trên địa
bàn nhiều tỉnh Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam, kéo dài đến tận năm
1922, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Tuy nhiên, các cuộc đấu
tranh trên còn nặng tính cục bộ, chưa liên kết được rộng rãi tất cả các
địa phương nên đã bị kẻ địch đàn áp đẫm máu.
Trong thập niên đầu của thế kỷ XX, phong trào giải phóng dân
tộc Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều văn thân, sĩ
phu phong kiến yêu nước đã anh dũng, mưu lược trong việc tập hợp
lực lượng ở trong nước để đấu tranh chống Pháp và đi ra nước
ngoài cầu viện, tìm chỗ dựa. Các xu hướng giải phóng dân tộc theo
lập trường dân chủ tư sản, tiêu biểu là Phan Châu Trinh, hoặc theo
xu hướng quân chủ lập hiến, tiêu biểu là Phan Bội Châu, hay theo
con đường cách mạng vô sản đã xuất hiện. Song, cứu nước và giải
phóng dân tộc theo con đường nào thì vẫn chưa được định đoạt rõ
ràng, trong quan hệ với Lào thì chưa chú ý đầy đủ, trong hoạt động
thực tiễn thì chưa xây dựng được mối liên kết lực lượng.
Đặc trưng của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
là vơ vét nguyên liệu và bóc lột nhân công rẻ mạt, đồng thời duy trì
tình trạng lạc hậu, trì trệ, chia cắt các xứ Đông Dương thuộc Pháp.
Chúng luôn luôn nhấn mạnh: “Một chính sách hướng tới công
nghiệp hoá xứ này (tức Đông Dương) sẽ là một sai lầm và là một
tội lỗi!”1. Tuy nhiên, hệ quả khách quan về mặt kinh tế - xã hội qua
hai đợt khai thác thuộc địa (trước và sau Chiến tranh thế giới thứ
nhất 1914 - 1918) của thực dân Pháp ở Đông Dương là việc thương
mại hoá nền nông nghiệp. Sự phân hoá giai cấp, xã hội diễn ra ngày
một sâu sắc ở Việt Nam, còn Lào và Campuchia mới có sự phân
hoá xã hội. Tất nhiên, đối đầu với chế độ thuộc địa, dù là người Lào

1
. Paul Bernard: Nouveaux aspects du problème économique indochinois, Fernand,
Paris, 1937, tr.113.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 21

hay người Việt Nam ở Đông Dương đều là đồng minh tự nhiên của
nhau và cái cần thiết đối với họ là tìm kiếm, xây dựng khối đoàn
kết các lực lượng đấu tranh và chướng ngại lớn cần vượt qua của
họ là sự chia rẽ, phân tán và những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc
cực đoan.

IV. NguyÔn ¸i Quèc - Hå ChÝ Minh ®Æt nÒn mãng cho quan hÖ
®Æc biÖt ViÖt Nam - Lµo, Lµo - ViÖt Nam

Tháng 6 năm 1911, Nguyễn ái Quốc rời Đông Dương đi tìm


đường cứu nước giữa lúc cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở cả
Việt Nam, Lào, Campuchia đang lâm vào cuộc khủng hoảng bế tắc
về đường lối, ngọn cờ lãnh đạo phong trào yêu nước chưa tìm được
đại diện xứng đáng.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) đã mở ra một
cao trào cách mạng mới trên thế giới, thúc đẩy phong trào công nhân
và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển
mạnh mẽ. Đặc biệt, điều có sức cổ vũ lớn lao là việc Quốc tế III do
lãnh tụ thiên tài V.I. Lênin thành lập (ngày 4 tháng 3 năm 1919) đã
bổ sung vào khẩu hiệu nổi tiếng của phong trào cộng sản do Mác -
Ăngghen đề ra trước đó trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là:
“Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!” bằng khẩu hiệu chiến lược:
“Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”.
Việc Quốc tế Cộng sản coi vấn đề dân tộc, thuộc địa, vấn đề tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo giúp đỡ toàn diện, phối hợp hành động
giữa cách mạng chính quốc với cách mạng thuộc địa là một trong
những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất, đã định hướng cho các lực
lượng yêu nước và cách mạng Việt Nam, đoàn kết họ lại với nhau
để tìm ra một con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam,
thoát khỏi tư tưởng đi tìm chỗ dựa từ bên ngoài của những người
yêu nước đương thời.
Với tư cách là một nhà yêu nước Việt Nam và là một trong
22 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn ái Quốc đã
tham gia sáng lập Hội Nông dân quốc tế - một tổ chức của nông
dân quốc tế trực thuộc Quốc tế Cộng sản - trên cương vị là ủy viên
Hội đồng và uỷ viên Đoàn Chủ tịch Hội đồng vào năm 1923.
Tháng 7 năm 1924, tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V,
lần đầu tiên Nguyễn ái Quốc có dịp trình bày một cách súc tích
những hoài bão sâu sắc của Người về con đường cứu nước và giải
phóng dân tộc: “Trong tất cả các thuộc địa của Pháp, nạn nghèo đói
đều tăng, sự phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi dậy của nông dân
bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi
dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nông dân
vẫn còn trong tình trạng tiêu cực, thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu
tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ
họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ
cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng”1.
Trong quá trình nghiên cứu lý luận, hoạch định con đường
giải phóng dân tộc theo học thuyết khoa học và cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn ái Quốc nhận thức rất sớm sức
mạnh dân tộc, nhưng Người luôn đặt cách mạng Việt Nam trong
mối quan hệ với cách mạng thế giới, với các dân tộc bị áp bức,
nhất là đối với hai nước Lào, Campuchia trên bán đảo Đông
Dương. Chính vì thế, ngay trong những bài báo đầu tiên viết về
Đông Dương vào năm 1921, Người luôn đặt niềm tin vào sức
mạnh quật khởi tiềm tàng của quần chúng nhân dân: “Đằng sau sự
phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi
sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ
đến... Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ
nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công

1
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.1, tr.289.
(Chữ in nghiêng là do chúng tôi nhấn mạnh - BBS).
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 23

cuộc giải phóng nữa thôi”1. Người nhận thức rất rõ những điều
kiện vật chất khách quan do thời đại tư bản chủ nghĩa đem lại so
với bất cứ thời đại nào trước đó: “Đời sống xã hội hiện nay phụ
thuộc trước hết vào những trung tâm công nghiệp lớn mạnh và
vào những đường giao thông”2. Điều dự báo này dường như trùng
hợp với hoàn cảnh xã hội của Việt Nam và Lào khi Pháp mở cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ hai, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914 - 1918). Kể từ đó, Người bắt tay vào quá trình chuẩn bị
công phu cho việc xây dựng, bồi đắp những nhân tố chủ quan cho
công cuộc giải phóng nhân loại bị áp bức nói chung, nhân dân các
nước Đông Dương nói riêng.
Nhưng Nguyễn ái Quốc không chỉ là con người hiệu triệu mà
trước hết và trên hết là con người hành động. Người chỉ ra:
“Nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc
phương Đông, đó là Sự BIệT LậP. Không giống như các dân tộc
phương Tây, các dân tộc phương Đông không có những quan hệ và
tiếp xúc giữa các lục địa với nhau. Họ hoàn toàn không biết đến
những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó
họ THIếU Sự TIN CậY LẫN NHAU, Sự PHốI HợP HàNH ĐộNG
Và Sự Cổ Vũ LẫN NHAU”3. Người rút ra kết luận: Cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Ai làm cách
mạng thế giới đều là đồng chí của cách mạng Việt Nam. Đã là đồng
chí thì sung sướng và cực khổ phải có nhau. Đây là những nhận
thức đặt tiền đề cho sự nghiệp xây dựng khối đoàn kết giữa các dân
tộc bị áp bức, bị xâm lược nói chung, trong đó có tình đoàn kết của
nhân dân ba nước Đông Dương, tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp.
Tháng 11 năm 1924, Nguyễn ái Quốc đến Trung Quốc và tại
Quảng Châu, Người mở các lớp huấn luyện chính trị để đào tạo cán

1
, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.28, 263.
2
. Hồ Chí Minh: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.26.
24 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

bộ cách mạng nhằm chuẩn bị cho việc thành lập một đảng vô sản ở
Việt Nam. Cũng tại đây, tháng 6 năm 1925, Người thành lập Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhằm tập hợp những thanh niên
yêu nước có xu hướng cộng sản và dùng tổ chức này để truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin về nước. Do nắm chắc được hoạt động của
Việt kiều yêu nước ở Xiêm, Lào, Nguyễn ái Quốc đã thông qua
Việt kiều yêu nước ở đây để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng cứu nước mới vào Lào và Việt Nam từ phía tây1. Từ Xiêm
qua Lào vào Việt Nam, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã tổ
chức một đường dây liên lạc nhằm vận chuyển tài liệu, sách báo
cách mạng và đưa thanh niên yêu nước ra nước ngoài học tập và
huấn luyện. Điều này cho thấy, ngay từ buổi đầu của cuộc vận động
cách mạng, Nguyễn ái Quốc đã sớm xác định Lào là một bộ phận
của cách mạng Đông Dương.
Với các hình thức truyền bá rất sáng tạo, đa dạng và hiệu quả,
Nguyễn ái Quốc và những lớp học trò xuất sắc của Người đã vượt
qua mọi sự kiểm duyệt gắt gao bằng lưỡi lê và song sắt nhà tù của
chính quyền thực dân, từng bước vũ trang cho các tầng lớp nhân
dân lao động ở Việt Nam, ở Lào một hệ thống khá hoàn chỉnh về lý
luận cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới. Hệ thống lý
luận đó bao gồm những nội dung cơ bản sau đây:
Trước hết, bằng những cứ liệu xác thực và tiêu biểu, Nguyễn
ái Quốc đã bóc trần luận điệu lừa bịp của bọn thực dân, đế quốc về
cái gọi là “sứ mệnh khai hoá văn minh” của các đế quốc nói chung
và thực dân Pháp nói riêng. Tập trung tố cáo chủ nghĩa thực dân
bằng những lý lẽ rất đanh thép, Nguyễn ái Quốc đã khơi dậy trong

1
. Xem Lê Mạnh Trinh: “Những ngày ở Quảng Châu và ở Xiêm” trong cuốn
Bác Hồ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975, tr.71-98 và Lê Mạnh Trinh: Nhớ lại và suy
nghĩ về những hoạt động cách mạng của người Việt ở Lào, Thái Lan, tài liệu đánh
máy, 94 trang, lưu tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 25

nhân dân lao động bị áp bức lòng căm thù giặc sâu sắc, khích lệ
lòng yêu nước, thương nòi, ý chí độc lập tự cường và từng bước
hình thành trong họ lập trường quan điểm về bạn, thù... để từ đó
có quyết tâm và biện pháp cụ thể nhằm mục tiêu cứu nước, giải
phóng dân tộc. Tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân là cơ sở thực
tiễn quan trọng của lý luận cách mạng giải phóng dân tộc Hồ Chí
Minh.
Hai là, trong thời đại mới được mở đầu bằng thắng lợi của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại thì cách mạng giải
phóng dân tộc trở thành bộ phận khăng khít, hữu cơ của cách mạng
vô sản; giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công
nhân và toàn thể nhân dân lao động. Tư tưởng này trở thành nền
tảng và nội dung đường lối chiến lược của cách mạng giải phóng
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam và Lào đang thực
hiện.
Ba là, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
và cuộc cách mạng vô sản ở các nước “chính quốc” có mối quan hệ
hữu cơ, thúc đẩy lẫn nhau. Một mặt, Người phê phán suy nghĩ cho
rằng: cách mạng của các nước thuộc địa và các nước chậm tiến phải
phụ thuộc vào cuộc cách mạng của các nước tiên tiến. Mặt khác,
Người đưa ra nhận định: người châu á có thể sẽ giúp đỡ người anh
em châu Âu trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn nhân loại. Như
vậy tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ đặt ngang hàng cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cuộc cách mạng vô sản
ở “chính quốc”, mà Người còn chỉ rõ tính năng động tích cực của
cách mạng giải phóng dân tộc đối với cách mạng vô sản ở “chính
quốc”; nó có thể giành thắng lợi trước và tác động tích cực trở lại
cách mạng vô sản ở “chính quốc”.
Bốn là, về đường lối chiến lược của cách mạng giải phóng
dân tộc, trước hết phải tiến hành đấu tranh đánh đuổi bọn đế quốc
xâm lược và bọn phong kiến tay sai của chúng để giành lại độc lập
26 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

cho dân tộc và các quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân.
“Đây chính là luận điểm ba cuộc giải phóng, giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người quyện vào nhau, thống
nhất với nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước khi
gặp chủ nghĩa Mác - Lênin thì dần dần vươn tới ba cuộc giải phóng
của loài người”1.
Năm là, cách mạng là một sự nghiệp vĩ đại. Hoàn thành công
việc ấy phải là kết quả công sức của cả một dân tộc, chứ không
phải việc của một, hai người. Phải bền gan vững chí, phải có “mưu
chước” mới làm được. Trước hết phải lấy công nông là gốc, là
người chủ của cách mạng. Phải xây dựng khối liên minh chặt chẽ
giữa hai giai cấp cơ bản và đông đảo ấy dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân, vì công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ
mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến cùng.
Trên cơ sở khối liên minh công nông chặt chẽ, phải không ngừng
củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm thu hút
tất cả các tầng lớp nhân dân như “học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ
vì họ là bầu bạn cách mạng của công nông”. Chỉ có sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân mới có thể hoàn thành được sự nghiệp
“Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội mới”2.
Sáu là, cách mạng của mỗi nước là một bộ phận hữu cơ, khăng
khít của cách mạng thế giới. Ai làm cách mạng trên thế giới nhằm
chống đế quốc, phong kiến, chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ
hoà bình, xoá bỏ mọi ách áp bức bóc lột, bất công đều là bạn bè,
đồng chí của nhau. Do đó phải đoàn kết và giúp đỡ nhau vì sự
nghiệp giải phóng của dân tộc mình và sự nghiệp cách mạng của
nhân dân lao động trên toàn thế giới. Song, muốn người ta giúp

1
. Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời đại,
một sự nghiệp, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990, tr.26.
2
. Nguyễn ái Quốc: “Đường cách mệnh” trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.2, tr.267.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 27

mình thì trước hết “mình phải tự giúp lấy mình”.


Bảy là, phải không ngừng củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của
đảng Mác - Lênin chân chính, nhân tố cơ bản hàng đầu bảo đảm thắng
lợi cho sự nghiệp cách mạng nói chung và cách mạng giải phóng dân
tộc nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: muốn làm cách mệnh,
“Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công... Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”1.
Tuy nhiên, để khắc phục tình trạng cách mạng chỉ bó hẹp phạm
vi trong cộng đồng người Việt tại Lào, vấn đề đào tạo nguồn nhân
lực cho cách mạng Lào đã được Nguyễn ái Quốc đặt ra rất sớm và
niềm trăn trở này còn đi theo suốt cả cuộc đời hoạt động sau này của
Người. Ngay trong những báo cáo đầu tiên gửi Quốc tế Cộng sản
vào năm 1925, chúng ta bắt gặp hàng loạt những mối quan tâm của
Người về đào tạo nguồn nhân lực cho cách mạng Lào2.
Khoảng giữa năm 1925, chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên đầu tiên ở Xiêm được nhen nhóm tại Phi Chịt. Từ đông bắc
Xiêm, các cơ sở cách mạng Việt kiều khác thuộc các tỉnh trên bờ
sông Mê Công, đối diện với Lào, là những bàn đạp thuận lợi cho
công tác truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Lào và Việt Nam.
Tháng 2 năm 1927, tại bản Noỏng Bua, tỉnh Uđon (Xiêm) đã diễn ra
Hội nghị đại biểu thanh niên Việt kiều yêu nước và chuẩn bị thành

1
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.267-268.
2
. Xem “Thư gửi một đồng chí ở Quốc tế Cộng sản” ngày 5 tháng 1 năm 1925, và
các thư ngày 10 tháng 1 năm 1925, ngày 19 tháng 2 năm 1925. (Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t.2, tr.18, 19, 141).
28 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

lập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào. Sau đó,
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào đã vận động tổ chức
Hội ái hữu, Hội Việt kiều yêu nước, mở lớp huấn luyện cách mạng.
Mùa Thu năm 1928, Nguyễn ái Quốc đến Xiêm để hướng
dẫn phong trào cách mạng. Theo lời kể của Nguyễn Tài, trong
dịp này, Nguyễn ái Quốc đã đến bản Xiêng Vảng, huyện Noỏng
Bốc, tỉnh Khăm Muộn trực tiếp truyền bá cách mạng tại Lào1. Về
những công tác ở Xiêm, Lào năm 1928 - 1929, Nguyễn ái Quốc
đã trình bày rõ trong “Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18
tháng 2 năm 1930”2.
Khoảng tháng 8 năm 1928, trong chuyến thị sát Noỏng Khai
(Xiêm) sát với biên giới Lào, Người đã gặp một số cán bộ hoạt

1
. Nguyễn Tài kể, Thế Tập ghi: “Nhớ lại ngày đưa Bác Hồ từ Thái Lan sang
gây dựng cơ sở cách mạng ở Lào”, Tạp chí Cộng sản số 372, tháng 12 năm 1986,
tr.80. Nguyễn Tài (1897 - 1989) tức đồng chí Lê Ngôn Vệ, hay Vệ - Tài Ngôn (Vệ
là bí danh hoạt động ở Xiêm), năm 1927 được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên, năm 1930 vào Đảng Cộng sản Xiêm, năm 1934: ủy viên Đông
Dương viện trợ Bộ đồng thời là thông tấn viên của Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản
Đông Dương ở nước ngoài. Cuốn “Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào” của
Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân cách
mạng Lào, xuất bản năm 2005 cũng xác nhận sự kiện trên. Thực hiện Nghị quyết
của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, nhân dịp kỷ niệm
120 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2010), đồng chí
Bun Nhăng Volachít, ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Phó Chủ tịch
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và đồng chí Hồ Đức Việt, ủy viên Bộ
Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam đã dự lễ động thổ xây dựng Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh
tại bản Xiêng Vảng, huyện Noỏng Bốc, tỉnh Khăm Muộn. Ngày 19 tháng 7 năm
2010, Ban biên soạn bộ “Lịch sử quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam (1930 - 2007)”đã có chuyến khảo sát thực địa tại bản Xiêng Vảng,
huyện Noỏng Bốc, tỉnh Khăm Muộn. Đoàn chúng tôi đã có dịp tiếp xúc với các
nhân chứng địa phương, đặc biệt nghe cụ Đặng Văn Hồng, 78 tuổi, người Lào
gốc Việt kể những hồi ức lịch sử mà các thế hệ trước đã truyền lại về hoạt động
gây dựng cơ sở cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại bản Xiêng Vảng này
(BBS).
2
. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.11-12.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 29

động ở Viêng Chăn sang để tìm hiểu phong trào Lào. Theo lời kể
lại của một bậc lão thành cách mạng Lào, Người còn trực tiếp tới
Viêng Chăn khảo sát và ẩn trú tại Chùa In Peng1. Nhờ vậy, Người
đã có điều kiện tìm hiểu tình hình Lào kỹ hơn, nhất là Viêng Chăn.
Các sự kiện quan trọng trên khẳng định rõ mối quan hệ mật thiết
giữa cách mạng Lào và cách mạng Việt Nam, và Lào trở thành một
trong những địa điểm đầu tiên trên hành trình trở về Đông Dương
của Nguyễn ái Quốc.
Năm 1928, một số chi bộ Tân Việt cũng ra đời ở Viêng Chăn,
Thà Khẹc, Xavẳnnakhệt. Đảng viên phần lớn là công chức, giáo
học, nhân viên sở dây thép, thư ký các hãng buôn và một số học
sinh. Các chi bộ ở Lào trực thuộc sự lãnh đạo của Đảng bộ Tân
Việt ở Huế. Cũng trong năm này, chi bộ Thanh niên cộng sản đầu
tiên được thành lập tại Viêng Chăn, đồng thời đường dây liên lạc
giữa các thị trấn ở Lào với Việt Nam được tổ chức.
Như vậy, từ giữa thập niên 20 thế kỷ XX, hàng loạt những
hoạt động sôi nổi chưa từng thấy trong việc truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng cứu nước mới của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc và
các vị cách mạng tiền bối trên đất Trung Quốc, Xiêm, Lào và Việt
Nam, báo hiệu những điều kiện khách quan và chủ quan cho việc
thành lập đảng của giai cấp công nhân ở khu vực này đã chín muồi.
*
* *

1
. Cố nhà văn Xuvănthon có kể lại cho con gái là bà Xuvănphêng, đại biểu
Quốc hội Lào nghe về việc năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến giảng tại lớp
học cho cán bộ chủ chốt Lào mà ông có vinh hạnh được tham dự ở Tuyên Quang
(Việt Bắc) trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp cùng với Hoàng thân
Xuphanuvông và các đồng chí Phumi Vôngvichít, Thạo Xột Phệtlaxỉ... Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói rằng: Người đã đến Viêng Chăn, ngủ ở chùa In Peng. Ngôi chùa này
nay thuộc bản Mixây, mường Chănthabuli, thành phố Viêng Chăn, cách Mè Nặm
Khoỏng 200 m, cách chùa Phạ Kẹo 1 km về phía bắc.
30 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Nhìn lại lịch sử, có thể rút ra một số nhận định cơ bản dưới đây
về mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam:
Do những điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử gần gũi,
quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam hình thành từ rất sớm, có
thể nói ngay từ khi xuất hiện những cư dân Việt Nam và Lào trên
khu vực địa lý lịch sử này. Điều kiện địa - nhân văn hay sự gặp gỡ
về những phẩm chất nhân văn cao quý của hai dân tộc Việt Nam và
Lào, từ người cầm quyền đến người dân, đã là mảnh đất vô cùng
màu mỡ để kết tinh thành quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Bởi vì quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam ấy, được nảy sinh trực tiếp từ trái tim
đến với trái tim của cả hai dân tộc. Hợp lòng người là yếu tố căn
cốt, quyết định tính trường tồn của mối quan hệ đoàn kết đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Trong thời kỳ cổ, trung đại, quan hệ giữa hai nhà nước phong
kiến Việt Nam và Lào về cơ bản là quan hệ bang giao láng giềng
hoà hiếu. Trong lịch sử thế giới, hiếm có quan hệ láng giềng nào
thánh thiện như hai dân tộc Việt Nam và Lào. Giữa hai nước không
hề có cuộc chiến tranh nào nhằm thôn tính lẫn nhau, không có hiềm
khích và thù hằn dân tộc, lại có cả ngàn năm giúp đỡ, đùm bọc lẫn
nhau, là láng giềng tốt của nhau.
Trong thời kỳ cận, hiện đại, khi các nước Đông Dương còn
chìm trong đêm tối của chủ nghĩa thực dân và phong kiến, với việc
tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn ái Quốc chẳng
những có công đầu trong việc chấm dứt cuộc khủng hoảng về vai
trò lãnh đạo sự nghiệp cứu nước ở Việt Nam, mà còn là người đầu
tiên góp phần giải quyết cuộc khủng hoảng đó ở Lào, đưa sự
nghiệp đấu tranh cách mạng của Việt Nam và Lào ngày càng hoà
quyện vào nhau, nương tựa lẫn nhau, mở ra một trang mới trong
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 31

quan hệ giữa nhân dân hai nước, cùng hướng tới mục tiêu chung là
độc lập dân tộc và tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Quá trình chuẩn bị công phu về mọi mặt: chính trị, tư tưởng và
tổ chức cho cách mạng Việt Nam, đồng thời với việc quan tâm xây
dựng nhân tố bên trong cho cách mạng Lào, cả về phương diện tổ
chức lẫn chỉ đạo thực tiễn của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã thật sự
tạo ra nền tảng hoàn toàn mới về chất cho lớp người cộng sản Đông
Dương đầu tiên, bất luận họ là người Việt Nam, người Lào hay
người Campuchia. Đây chính là nền móng vững chắc của quan hệ
đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam mà Nguyễn ái
Quốc là kiến trúc sư vĩ đại của tình đoàn kết đặc biệt đó.
32 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Ch-¬ng II

NH¢N D¢N VIÖT NAM Vµ NH¢N D¢N LµO


N¦¥NG TùA LÉN NHAU §ÊU TRANH
GIµNH §éC LËP, Tù DO
(1930 - 1945)

I. §¶ng Céng s¶n §«ng D-¬ng l·nh ®¹o nh©n d©n ViÖt Nam
vµ nh©n d©n Lµo ®oµn kÕt ®Êu tranh
chèng chÕ ®é thuéc ®Þa (1930 - 1939)

1. Đảng Cộng sản Việt Nam - tiền thân của Đảng Cộng sản
Đông Dương - thành lập, đánh dấu việc thiết lập quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
Cuối những năm 20 thế kỷ XX, do kết quả trực tiếp của quá
trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng giải phóng dân tộc
của Nguyễn ái Quốc, cùng với sự phát triển của phong trào công
nhân và phong trào yêu nước, những điều kiện khách quan và chủ
quan cho việc thành lập Đảng của giai cấp công nhân ở Đông
Dương, trước hết là ở Việt Nam, đã chín muồi. Cuối năm 1929 đầu
năm 1930 ở Việt Nam lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản là
Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn.
Sự ra đời và hoạt động của ba tổ chức cộng sản trên thể hiện
sự phát triển của phong trào cách mạng, đặt ra yêu cầu bức thiết
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 33

về việc thành lập một chính đảng cộng sản ở Việt Nam và Đông
Dương.
Nắm bắt được yêu cầu bức thiết về thống nhất lực lượng lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, với tư cách là đại biểu của Quốc tế
Cộng sản, Nguyễn ái Quốc đã chủ động triệu tập hội nghị hợp
nhất các nhóm cộng sản thành chính đảng vô sản duy nhất ở Việt
Nam.
Vào những ngày đầu năm 1930, Hội nghị hợp nhất thành lập
Đảng do Nguyễn ái Quốc chủ trì đã diễn ra tại bán đảo Cửu Long
(Hương Cảng, Trung Quốc). Về vấn đề đặt tên Đảng, Hội nghị tán
thành chủ trương của Nguyễn ái Quốc và quyết định lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất thảo luận và thông qua các văn kiện
“Chánh cương vắn tắt của Đảng”, “Sách lược vắn tắt của Đảng”,
“Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng” do Nguyễn ái
Quốc soạn thảo.
“Chánh cương vắn tắt” xác định rõ con đường giải phóng và
phát triển của dân tộc Việt Nam là “làm tư sản dân quyền c.m (cách
mạng - BBS) và thổ địa c.m để đi tới xã hội cộng sản”46. Nhiệm vụ
của cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng thổ địa, tức cách
mạng dân tộc dân chủ là thực hiện quyền độc lập dân tộc, quyền tự
do, dân chủ, trong đó nông dân nghèo được chia ruộng đất, phát
triển kinh tế của đất nước. Hướng phát triển của cách mạng Việt
Nam là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi tới xã hội cộng sản mà
chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của nó.
“Sách lược vắn tắt” và “Chương trình tóm tắt” xác định rõ
Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, thực hiện vai trò lãnh
đạo cách mạng của giai cấp đó. Đảng chủ trương “thu phục cho

46
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr.2.
34 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm
thổ địa c.m đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”47. Đảng xây
dựng khối đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân dân
yêu nước và các tổ chức cách mạng, chỉ đánh đổ những lực lượng
và đảng phái phản cách mạng. Sự đoàn kết rộng rãi đó vì mục tiêu
thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng
đồng bào, không hề sa vào lý thuyết thoả hiệp giai cấp, bỏ rơi lợi
ích của đại đa số nhân dân lao động là công nhân và nông dân:
“Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi
nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường
thoả hiệp”2.
“Sách lược vắn tắt” và “Chương trình tóm tắt” còn chứa đựng
tinh thần yêu nước chân chính kết hợp với tinh thần quốc tế trong
sáng, được thể hiện ở chỗ trong khi tuyên truyền khẩu hiệu nước
An Nam độc lập, đồng thời Đảng cũng tuyên truyền và xây dựng
quan hệ đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế
giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
“Điều lệ vắn tắt” cũng nhấn mạnh: Cách mạng muốn giành
thắng lợi, trước hết phải có sự lãnh đạo của Đảng, Đảng phải là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, là lãnh tụ chính trị và bộ
tham mưu chiến đấu của giai cấp và dân tộc, đấu tranh vì sự
nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và toàn thể những người lao
động bị áp bức thoát khỏi ách nô lệ. Nếu xa rời hoặc thiếu sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, thì không thể có thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng nói chung và cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nói
riêng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu một bước
ngoặt lịch sử trọng đại, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về lý luận,

, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.2, tr.4.
47
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 35

đường lối và lực lượng lãnh đạo phong trào đấu tranh vì độc lập tự
do và phát triển của dân tộc Việt Nam, đồng thời mở ra một thời kỳ
mới, một sự chuyển biến về chất mối quan hệ vốn có giữa hai dân
tộc Việt Nam và Lào. Với chính cương cách mạng và khoa học,
chứa đựng tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, thấm đượm tư tưởng
Nguyễn ái Quốc về mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng Việt
Nam với cách mạng thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo ra
một xung lượng mới cho mối quan hệ của nhân dân Việt Nam và
nhân dân Lào trên con đường đoàn kết đấu tranh, hoà mình và gắn
kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.
Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, cùng
với sự bùng lan mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân Bắc
Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ (Việt Nam), bộ phận ưu tú trong các tổ
chức cách mạng, như Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân
Việt được xây dựng trong cộng đồng Việt kiều ở Viêng Chăn,
Phôn Tịu, Bò Nèng, Thà Khẹc, Na Pê, Xavẳnnakhệt, Pạc Xê (Lào)
đã lần lượt tiếp nhận quan điểm, chủ trương và đường lối cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua bộ phận này, chủ
trương, đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam do Đảng
Cộng sản Việt Nam xác lập bắt đầu lan truyền trong bộ phận
người Việt sống ở Lào.
Với hoàn cảnh lịch sử tương đồng, có cùng mục tiêu và khát
vọng độc lập, tự do, con đường giải phóng của dân tộc Việt Nam
theo tư tưởng Nguyễn ái Quốc cũng là con đường phù hợp để giải
phóng dân tộc Lào khỏi ách nô lệ. Tuân thủ nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của một chính đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời
và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam (trong đó có một bộ
phận hoạt động ở Lào) đã tác động mạnh mẽ, là một nhân tố quyết
định sự chuyển biến của phong trào cách mạng Lào. Ngay từ
tháng 4 năm 1930, ảnh hưởng mạnh mẽ của Đảng Cộng sản Việt
36 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Nam đối với phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương, trong
đó có nhân dân Lào, đã làm chính quyền thuộc địa quan ngại48.
Được sự thôi thúc và tác động của phong trào cách mạng Việt
Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, phong trào cách mạng
Lào chuyển biến, đòi hỏi phải có ánh sáng mới soi đường, ngọn cờ
mới dẫn dắt và một gắn kết mới với dân tộc láng giềng Việt Nam
đồng hành trên con đường giành độc lập dân tộc, tự do và phát triển
của mỗi nước.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở đầu cho những
trang sử quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc Việt Nam và Lào

2. Đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản
Đông Dương, xác định đường lối cách mạng Đông Dương
Tám tháng sau Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
trong khi phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam diễn ra
mạnh mẽ và quyết liệt, nhất là ở Nghệ An, Hà Tĩnh, phong trào
cách mạng Lào đang có những chuyển biến theo khuynh hướng
cách mạng vô sản, thì một sự kiện lịch sử quan trọng đối với phong
trào cách mạng Việt Nam, phong trào cách mạng Lào và mối quan
hệ hai dân tộc diễn ra. Tháng 10 năm 1930, thực hành “án nghị
quyết và Thơ chỉ thị của Q.T.C.S”49, Hội nghị Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam tiến hành tại Hương Cảng vào tháng 10 năm
1930 đã thảo luận và thông qua “Luận cương chánh trị” và nhiều

48
. Thống sứ Bắc Kỳ René Robin cho rằng với việc mở rộng ra tất cả các xứ
trong Liên bang Đông Dương, Đảng Cộng sản Việt Nam tỏ ra rất nguy hiểm cho
nền thống trị của Pháp ở Đông Dương, Xem: Le Résident Superieur au Tonkin
(1930): Note No 126-SCB, A.S manifestations communistes pour le 1er Mai 1930,
Hanoi. Lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
49
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.2, tr.112-
113.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 37

văn kiện quan trọng như: “án nghị quyết của Trung ương toàn thể
Đại hội về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần
kíp của Đảng”, “Điều lệ Đảng”, “Công nhơn vận động”, “Nông
dân vận động”, “án nghị quyết về Cộng sản thanh niên vận
động của T.Ư toàn thể hội nghị”, ...
Với những văn kiện trên, nhất là “Luận cương chánh trị”
của Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội nghị xác định cụ thể,
toàn diện hơn về mặt lý luận cho mối quan hệ giữa phong trào
cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng Lào.
Việt Nam, Lào và Cao Miên tuy là ba nước nhưng đều nằm
trong một xứ, đều bị thực dân Pháp thống trị và áp bức. Giai cấp vô
sản và nhân dân lao động bị áp bức trong ba nước muốn đánh đổ chủ
nghĩa đế quốc Pháp, giành lại độc lập, đánh đổ chế độ phong kiến để
giải phóng cho mình thì không thể đấu tranh riêng lẻ được. án nghị
quyết của Hội nghị viết: “vô sản An Nam, Cao Miên và Lào tuy
tiếng nói, phong tục và nòi giống khác nhau, nhưng về mặt chánh trị
và kinh tế thì cần phải liên lạc mật thiết với nhau”50.
Kẻ thù chung của phong trào cách mạng ở Việt Nam, Lào và
Cao Miên là “một thế lực tập trung, thống nhất”, do đó, Đảng Cộng
sản, đội tiền phong của giai cấp công nhân và là tổ chức dẫn đường
của tất cả quần chúng làm cách mạng không thể chỉ lãnh đạo riêng
cho một xứ, mà phải là một Đảng Cộng sản tập trung lực lượng giai
cấp cho toàn xứ Đông Dương. Trên cơ sở đó, Hội nghị quyết nghị
đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông
Dương.
Phạm vi lãnh đạo của Đảng mở rộng ra toàn Đông Dương,
Hội nghị đã xác lập các quan điểm chính trị, xác định đường lối và
những nhiệm vụ cơ bản cho phong trào cách mạng của ba dân tộc ở

50
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.2, tr.111.
38 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Đông Dương với những nét chính yếu như sau:


- Cách mạng Đông Dương trong lúc đầu “là một cuộc cách
mạng tư sản dân quyền”51 với tính chất thổ địa và phản đế. Khi
cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi, dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân, sự giúp đỡ của cách mạng thế giới sẽ “bỏ qua thời
kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”2.
- Vấn đề căn cốt của cách mạng tư sản dân quyền là chống đế
quốc và chống phong kiến, hai mặt đó quan hệ chặt chẽ với nhau và
tác động tích cực tới nhau trong một cuộc cách mạng.
- Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cuộc cách mạng ở Đông
Dương là đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp, phong kiến, địa chủ, lập
chính quyền Xôviết công nông, lấy đó làm “khí cụ” thực hiện các
quyền dân chủ cơ bản cho nhân dân lao động bằng cách tịch thu hết
ruộng đất của địa chủ ngoại quốc và trong nước, giao cho trung
nông và bần nông, quyền sở hữu ruộng đất thì thuộc chính phủ
công nông; sung công những sản nghiệp lớn của tư bản ngoại quốc,
công nhân lao động tám giờ một ngày, cải thiện đời sống cho thợ
thuyền và quần chúng lao khổ, vô sản có pháp luật bảo hộ quyền
lợi; thừa nhận quyền dân tộc tự quyết và quyền bình đẳng nam, nữ.
- Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương, giai
cấp vô sản và giai cấp nông dân là hai động lực chính, trong đó,
giai cấp công nhân vừa là động lực chính rất mạnh của cách mạng,
vừa là giai cấp lãnh đạo nông dân và các tầng lớp nhân dân nghèo
khổ làm cách mạng, “vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng
mới thắng lợi được”3.
- Muốn giành được thắng lợi, cách mạng Đông Dương phải
liên hệ mật thiết với cách mạng vô sản thế giới, nhất là vô sản

, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.2, tr.93,
51

94.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 39

Pháp và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và
bán thuộc địa.
- Cách mạng Đông Dương muốn giành được thắng lợi “phải có
một Đảng Cộng sản có một đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập
trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà
trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ
nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu
dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản
giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng
của vô sản là chủ nghĩa cộng sản”52. Muốn làm tròn được nhiệm vụ
của mình trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, Đảng cần phải
dựa hẳn vào lực lượng quần chúng công nông, tổ chức ra những
đoàn thể cách mạng như công hội, nông hội.
Về công tác xây dựng đảng, căn cứ vào nguyên tắc tổ chức
của chính đảng vô sản và tình hình Đông Dương, Hội nghị thông
qua Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương. Theo Điều lệ, toàn
Đảng sẽ xây dựng tổ chức đều khắp ở Đông Dương, hình thành
năm xứ bộ do năm xứ uỷ chỉ đạo. Ba xứ bộ ở Việt Nam sẽ do ba
xứ uỷ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ phụ trách; Xứ bộ Ai Lao sẽ do
Xứ uỷ Ai Lao chỉ đạo.
Hội nghị yêu cầu các cấp bộ đảng phải quán triệt Nghị quyết của
Đảng và Quốc tế Cộng sản để nâng cao trình độ chính trị cho đảng
viên, thực hiện nhiệm vụ theo đúng đường lối cách mạng của Đảng;
phân công đảng viên về các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ... để tập
hợp, lãnh đạo quần chúng; chú trọng xây dựng chi bộ ở nông thôn,
quan tâm bồi dưỡng cán bộ nữ; thành lập hệ thống tổ chức đảng cấp
xứ theo điều lệ mới của Đảng; các cấp bộ đảng liên hệ chặt chẽ với
Trung ương Đảng trong mọi hoạt động. Quan hệ mật thiết với các

52
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.2, tr.100.
40 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

đảng cộng sản trên thế giới (như Đảng Cộng sản Pháp, Trung
Quốc...), với Quốc tế Cộng sản. Lựa chọn những quần chúng giác
ngộ giai cấp và hăng hái đấu tranh để kết nạp vào Đảng.
Về công tác quần chúng, Hội nghị thảo luận và thông qua các
nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên cộng sản,
phụ nữ..., các Điều lệ Công hội, Tổng Công hội Đông Dương,
Nông hội làng, Ban Chấp hành nông hội xã, Tổng Nông hội Đông
Dương, Phụ nữ liên hiệp hội, Hội Cứu tế đỏ, Hội đồng minh phản
đế... Hội nghị chỉ rõ Đảng phải tăng cường vận động công nhân,
lãnh đạo công nhân đấu tranh; tổ chức công hội trong các nhà máy,
đồn điền, hầm mỏ..., tổ chức đội tự vệ công nhân; công hội phải tổ
chức có hệ thống theo quy tắc Quốc tế Công hội đỏ; chuẩn bị lập
Tổng Công hội Đông Dương; mở rộng phong trào đấu tranh của
nông dân, tổ chức đội tự vệ nông dân, chỉnh đốn hệ thống tổ chức
nông hội theo điều lệ mới, chuẩn bị lập Tổng Nông hội Đông
Dương; phân công các đồng chí phụ trách Hội đồng minh phản đế,
Hội Cứu tế và Thanh niên cộng sản Đoàn; lập Bộ quân sự của
Đảng...
Hội nghị đã thông qua Điều lệ Tổng Công hội Đông Dương,
Điều lệ Tổng Nông hội Đông Dương, Điều lệ Phụ nữ liên hiệp hội,
án nghị quyết về Cộng sản thanh niên vận động, Điều lệ Hội Cứu tế
đỏ,... Theo đó, cùng với các xứ khác ở Đông Dương, Xứ bộ Ai Lao
sẽ tổ chức ra Tổng Công hội Ai Lao, Tổng Nông hội Ai Lao, Ban
Xứ chấp uỷ Phụ nữ Hiệp hội Ai Lao, Uỷ hội Thanh niên cộng sản
Đoàn Ai Lao, Phân hội Cứu tế đỏ Ai Lao.
Hội nghị thông qua Điều lệ của Đại đồng minh phản đối đế
quốc chủ nghĩa và mưu dân tộc độc lập - Phân bộ Đông Dương
(gọi tắt là Đồng minh phản đế. Đảng bộ Ai Lao sẽ tổ chức một
Phân hội Đồng minh phản đế xứ.
Với những chủ trương và công tác đề ra trên đây, Hội nghị đã
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 41

quán triệt và vận dụng quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng” của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Đông
Dương, làm cho các tầng lớp nhân nhân của hai dân tộc Việt Nam
và Lào sát cánh bên nhau đấu tranh dưới ngọn cờ lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Đông Dương.
Hội nghị xác lập con đường phát triển của cách mạng Đông
Dương khi chưa có tình thế cách mạng thì lãnh đạo nhân dân đấu
tranh đòi quyền lợi hằng ngày để tập hợp dân chúng theo cách
mạng. Khi có tình thế cách mạng, Đảng phải lãnh đạo quần chúng
vũ trang nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.
Hội nghị đề ra nhiệm vụ cần kíp của Đảng là mở rộng phong
trào đấu tranh khắp Đông Dương nhằm làm cho phong trào đấu
tranh cách mạng ngày càng sâu rộng; đấu tranh chống khủng bố
trắng, chống sưu, thuế và địa tô; chống các chính sách lừa bịp
của đế quốc Pháp; chống những xu hướng bạo động non và manh
động. Đảng phải tập hợp đông đảo lực lượng các tầng lớp nhân
dân đấu tranh giành thắng lợi.
Hội nghị cử ra Trung ương Đảng Cộng sản chính thức gồm bảy
đồng chí, đồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Với việc thảo luận và thông qua Luận cương chính trị - cương
lĩnh xác định các nguyên tắc, các phương hướng chính trị và
đường lối cách mạng, án nghị quyết về tình hình hiện tại ở Đông
Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng cùng các văn kiện quan
trọng khác, Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
tháng 10 năm 1930 đã hoạch định những vấn đề căn bản và cốt lõi
của cách mạng Đông Dương; đặt phong trào cách mạng Việt Nam
và phong trào cách mạng Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Đông Dương.
Sau Hội nghị, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra
42 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Thông cáo chỉ đạo tổ chức đảng trong các xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ, Ai Lao, Cao Miên tiến hành hội nghị, cử ra các xứ uỷ để
lãnh đạo phong trào. Ngày 19 tháng 12 năm 1930, Ban Thường vụ
Trung ương tiếp tục gửi thư cho các cấp bộ đảng kêu gọi: “Nhiệm
vụ chánh của chúng ta bây giờ là phải khuếch trương phong trào
cách mạng kịch liệt chống lại với khủng bố trắng để làm cho cách
mạng mau thành công”53.
Những chỉ đạo trên của Trung ương giúp cho các cấp bộ, đảng
viên ở Việt Nam và Lào tuân thủ nghiêm túc chủ trương của Trung
ương Đảng về việc đổi tên Đảng, nhận thức rõ trách nhiệm trong
việc tăng cường đoàn kết thống nhất, giúp đỡ nhau trong nội bộ
Đảng, cũng như trong phối hợp lãnh đạo phong trào đấu tranh của
nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào.
Trong suốt quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng, Đảng
Cộng sản Đông Dương còn bổ sung và đề ra những chỉ đạo cụ thể
đối với các cấp bộ đảng và phong trào cách mạng Đông Dương,
cũng như tăng cường quan hệ mật thiết, nương tựa lẫn nhau của hai
dân tộc Việt Nam và Lào trên tiến trình đấu tranh giành tự do, độc
lập cho mỗi nước.

3. Nhân dân Lào cùng Việt kiều đấu tranh chống chế độ
thuộc địa, phối hợp và ủng hộ cách mạng Việt Nam (1930 -
1939)
a) Xây dựng và khôi phục phong trào cách mạng, ủng hộ
phong trào cách mạng Việt Nam (1930 - 1935)
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản
Đông Dương, chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Viêng
Chăn, các chi bộ Đảng Tân Việt ở Thà Khẹc, Xavẳnnakhệt, Pạc Xê

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.2, tr.242.
53
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 43

lần lượt chuyển đổi thành chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương.
Cũng trong thời gian này, Tỉnh ủy Quảng Trị tiến hành bắt mối,
xây dựng một số chi bộ đảng trong Việt kiều ở địa bàn Trung Lào;
đường dây liên lạc giữa các chi bộ đảng ở đây với Tỉnh ủy Quảng
Trị được thiết lập54. Sự ra đời của các chi bộ đảng trên thể hiện sự
phát triển của phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao
động Lào cũng như vai trò rất lớn của Việt kiều.
Bên cạnh đó, các tổ chức quần chúng như Liên minh chống
chủ nghĩa đế quốc, Tổ chức thanh niên, Hội Chữ thập đỏ, Hội Phụ
nữ, Hội Cứu tế, Hội Bóng đá..., bắt đầu được gây dựng và phát
triển trong các đô thị ở Lào. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 3 năm 1931, về việc
thành lập Công hội vận tải Lào, tổ chức công hội bắt đầu thành
lập ở Viêng Chăn.
Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ đảng, sự vận động của các
đoàn thể quần chúng, những hoạt động chống Pháp có tính chất lẻ
tẻ trong phạm vi bộ tộc, bộ lạc, mang tính chất địa phương và tự
phát ở Lào dần dần chuyển lên mang tính tổ chức, hoà nhịp với
phong trào đấu tranh của ba nước Đông Dương. Những hoạt động
yêu nước và cách mạng ở Việt Nam và Lào có sự phối hợp và ngày
càng gắn kết chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ nhau.
Từ giữa năm 1930, phong trào đấu tranh của nhân dân Việt
Nam bùng lan trong cả nước, diễn ra mạnh mẽ ở Trung Kỳ, nhất là
ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Khi cuộc nổi dậy của nhân dân Nghệ An diễn
ra, tuy không đồng ý với chủ trương “bạo động địa phương, bạo
động non, sớm” mang tính chất “manh động” của các cấp uỷ đảng
ở Trung Kỳ, song trước sự đánh phá, khủng bố dã man của kẻ thù,
54
. Xem Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị: Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.77-78 và Sỉng Thoong Sỉnghảpănnha: Sự
giúp đỡ của Việt Nam đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Lào (1945-1954),
Luận án Phó tiến sĩ lịch sử Thư viện Quốc gia, Hà Nội, 1991, ký hiệu L-3587.
44 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Trung ương Đảng ra thông cáo cho các cấp bộ đảng trong toàn xứ
“hết sức bênh vực Nghệ An đỏ, mở rộng phong trào thị uy biểu tình
phản kháng lại thủ đoạn gian ác của đế quốc chủ nghĩa”55. Tiếp đó,
Trung ương lâm thời ra lời kêu gọi thợ thuyền, dân cày, binh lính
liên hiệp đấu tranh bảo vệ công nông Nghệ An với khẩu hiệu
“Không được động tới công nông Nghệ An”2.
Do sự cận kề về mặt địa lý, phong trào đấu tranh của nhân dân
Việt Nam, nhất là ở Trung Kỳ, đã nhanh chóng tác động và ảnh
hưởng đến phong trào đấu tranh của nhân dân các dân tộc Lào.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, do sự thôi thúc
của phong trào đấu tranh ở Nghệ - Tĩnh, cùng với sự phát triển của
phong trào cách mạng và tổ chức đảng ở các địa phương Việt Nam,
các chi bộ đảng và đoàn thể quần chúng ở Lào đã tiến hành một số
cuộc đấu tranh với những hình thức từ công khai, hợp pháp đến bán
công khai, bán hợp pháp. Tháng 12 năm 1930, công nhân bến tàu
Viêng Chăn, công nhân mỏ Bò Nèng, Phôn Tịu (tỉnh Khăm Muộn)
đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm và phản đối chủ mỏ sa thải
công nhân. Cũng trong thời gian cuối năm 1930, chị em buôn bán
nhỏ ở chợ Viêng Chăn tiến hành bãi thị, đòi giảm thuế và chống
chính sách ngược đãi của nhà cầm quyền.
Đặc biệt, trước tình hình cao trào đấu tranh của nhân dân Việt
Nam, nhất là ở Trung Kỳ, bị thực dân Pháp và tay sai dìm trong
máu, mặc dù bị bộ máy cai trị hà khắc của Pháp kìm kẹp, mạng
lưới mật vụ, cảnh sát, chỉ điểm ngày đêm lùng sục, bắt bớ, khủng
bố, nhưng phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao
động Lào vẫn liên tiếp nổ ra trong các tháng 4 và 5 năm 1931.
Nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động (ngày 1 tháng 5), công nhân
Lào làm đường Lắc Xao đấu tranh, đình công, đòi tăng lương và
ủng hộ phong trào Xôviết Nghệ - Tĩnh (Việt Nam). Các tổ chức

, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.2, tr.56, 59.
55
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 45

cách mạng ở Viêng Chăn, ở các đô thị gần trục giao thông quốc lộ
13 ven sông Mê Công đã rải truyền đơn, treo cờ đỏ búa liềm hưởng
ứng cuộc đấu tranh56.
Với những hành động ngày càng mạnh mẽ, phong trào đấu
tranh ở Việt Nam và Lào đã gây tiếng vang lớn trên trường quốc tế,
giành được sự ủng hộ to lớn của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Trước sự trưởng thành của giai cấp công nhân, trước sức
đấu tranh cách mạng của nhân dân Đông Dương, nhất là của nhân
dân Việt Nam và nhân dân Lào, Hội nghị Quốc tế Cộng sản tháng 4
năm 1931 ra Nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là
“chi bộ độc lập thuộc Quốc tế Cộng sản”57. Đây là điều kiện quan
trọng để Quốc tế Cộng sản tăng cường chỉ đạo, giúp đỡ Đảng Cộng
sản Đông Dương cả trên phương diện xây dựng và thực hiện đường
lối chiến lược, sách lược; xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức,
các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, các lực lượng tiến bộ trên thế giới, nhất là ở Pháp, diễn ra
mạnh mẽ, phản đối chính sách khủng bố trắng của chính quyền
thực dân đối với cách mạng Đông Dương. Đó là niềm cổ vũ lớn lao
cho nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào.
Hoảng sợ trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh
của nhân dân Đông Dương, nhất là phong trào Xôviết Nghệ - Tĩnh,
thực dân Pháp và chính quyền thuộc địa Đông Dương đã câu kết
với các thế lực phản động quốc tế và trong khu vực đàn áp cách
mạng hai nước Việt Nam và Lào.
Trước sức khủng bố và đánh phá ác liệt của đối phương, phong
trào cách mạng ở Việt Nam và Lào chịu nhiều tổn thất. Trong hai
56
. Tham khảo Nguyễn Hùng Phi - Bua Xỉ Chalơnxúc: Lịch sử Lào hiện đại,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.I, tr.67.
57
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.3, tr.309. Đại
hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (1935) đã chính thức công nhận Đảng Cộng sản
Đông Dương là chi bộ trực thuộc Quốc tế Cộng sản.
46 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

năm 1930 - 1931, toàn Đông Dương có tới hơn 15.000 chiến sĩ
cách mạng bị tù đày58. Trong thời gian sáu tháng cuối năm 1931 và
cả năm 1932, trong các nhà tù ở Đông Dương có gần 16.000 tù
chính trị59. Trong ba năm 1931 - 1933, có tới 164 bản án tử hình,
trong đó có 88 bản án đã được thi hành60, những người bị kết án
chủ yếu là các chiến sĩ yêu nước và cách mạng.
Hệ thống tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương bị phá vỡ. Tổng
Bí thư Trần Phú bị bắt vào tháng 4 năm 1931 ở Sài Gòn và hy sinh
ngày 6 tháng 9 năm 1931. Ngày 1 tháng 6 năm 1931, đồng chí
Nguyễn ái Quốc bị bắt ở Hồng Công. Nhiều cán bộ chủ chốt của
Đảng bị bắt. Ban Trung ương Đảng không còn.
Tại Lào, ngày 19 tháng 4 năm 1931, các chi bộ đảng ở
Xavẳnnakhệt, Pạc Xê, Thà Khẹc bị địch phát hiện. Hơn 10 đảng
viên bị bắt. Một số đảng viên người Việt Nam hoạt động tại các đô
thị ở Lào lần lượt bị địch bắt hoặc bị trục xuất về nước. Riêng chi
bộ ở mỏ thiếc (Thà Khẹc) và ở Viêng Chăn không bị lộ, song mất
liên lạc với Trung ương. Cũng như các địa phương ở Việt Nam,
phong trào cách mạng ở Lào gặp rất nhiều khó khăn và tạm thời
lắng xuống61.
Cuối năm 1931, trong hoàn cảnh bị địch khủng bố, ba đồng chí
trong Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Hà Tĩnh là Lê Lộc (tức Hiền), Trần

58
. Hồng Thế Công: Lược sử phong trào cộng sản Đông Dương, 1933, Bản
dịch, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
59
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5 , tr.371.
60
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.4, tr.456.
61
. Trong tài liệu “Tình hình hiện nay của Đảng Cộng sản Đông Dương và các
nhiệm vụ trước mắt” viết tháng 10 năm 1931, Quốc tế Cộng sản nhận định: “ở
Bắc Kỳ, Cao Miên và Lào chúng ta có một phong trào rất yếu thậm chí hầu như
không có gì” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.3,
tr.405).
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 47

Xu (tức Thành), Bùi Khương (tức Liễu Hán, tức Khương) cùng một
số đảng viên của Đảng bộ Hà Tĩnh, cán bộ của Xứ uỷ Trung Kỳ
lánh sang Xiêm bắt liên lạc với các cơ sở cách mạng của người Việt
ở Xiêm và Đảng Cộng sản Xiêm để hoạt động. Tháng 2 năm 1932,
được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Xiêm, các đồng chí đã thành
lập Ban Chấp uỷ Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Đông
Dương. Sau một thời gian ngắn, các đồng chí nhận thấy Ban Chấp
uỷ Trung ương không thể tồn tại ở ngoài nước, nên đã tổ chức lại
thành Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ nằm dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Xiêm62. Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ đặt trụ
sở tại Uđon (Xiêm).
Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ chủ trương đưa người từ
trong xứ sang Xiêm huấn luyện rồi cử về xứ hoạt động; kết nạp
những phần tử tiên tiến vào Đảng Cộng sản63; đề nghị Trung ương
Đảng Cộng sản Xiêm giúp đỡ bắt liên lạc với Quốc tế Cộng sản.
Trong những năm 1932 - 1933, Cơ quan Đông Dương viện trợ
bộ thực hiện các công tác bảo vệ, nuôi dưỡng cán bộ và giúp đỡ
người Việt Nam sang lánh nạn, liên tiếp cử nhiều cán bộ về nước
chắp nối lại cơ sở, gây dựng lại phong trào. Dưới sự giúp đỡ của
Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ, nhiều lớp huấn luyện về tình
hình, nhiệm vụ, về công tác xây dựng đảng, xây dựng đoàn thể

62
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.4, tr.182; t.5,
tr.397, 400.
63
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2002, t.5, tr.401.
Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ xác định các nhiệm vụ sau đây: xếp đặt chỗ ăn,
ở để ổn định đời sống, bồi dưỡng sức khỏe, bảo đảm bí mật và an toàn cho các
đảng viên ở trong nước vừa sang; mở lớp bồi dưỡng cho các đồng chí kém lý
luận và chưa có kinh nghiệm công tác nắm vững lý luận và phương pháp cách
mạng để hoạt động có hiệu quả; tạo mọi điều kiện cho các đồng chí về nước
càng sớm càng tốt để khôi phục và xây dựng lại cơ sở (Xem Lê Mạnh Trinh:
Cuộc sống chung và riêng của cuộc đời tôi 50 năm đầu thế kỷ XX).
48 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

quần chúng, về hình thức tổ chức và phương thức lãnh đạo đấu
tranh được mở ở Nakhon Phạnôm, Noỏng Khai (Đông Bắc Xiêm)
cho các đảng viên và quần chúng cốt cán ở Lào64. Tại những lớp
huấn luyện này, các đồng chí Lào được nghiên cứu “Luận cương
chánh trị” của Đảng Cộng sản Đông Dương, Điều lệ các tổ chức
quần chúng; các tài liệu: “Nhân loại tiến hoá sử”, “Nhật ký chìm
tàu” (do Nguyễn ái Quốc viết), “Cách mạng nhập môn”, “Gương
Nga”65. Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ còn sáng tác các bài hát
cách mạng theo lối ả đào, Xẩm xoan, Sa mạc... để phổ biến trong
Việt kiều ở Lào; tiến hành rải truyền đơn, treo cờ ở Lào; đặt các
nhân mối ở Lào để giúp đỡ những người hoạt động cách mạng ở
Việt Nam mới sang và chọn lọc đưa họ sang Xiêm huấn luyện66.
Đầu năm 1934, qua Ban Trung ương Chấp uỷ Đảng Cộng sản
Xiêm, Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ bắt liên lạc với Ban Chỉ
huy ở ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương. Hoạt động của Cơ quan
Đông Dương viện trợ bộ góp phần khôi phục tổ chức đảng và
phong trào cách mạng ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình
và ở Lào.
Bên cạnh Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ, Xứ uỷ Nam Kỳ
sau khi được lập lại cũng rất quan tâm đến công tác gây dựng tổ
chức đảng và phát triển phong trào cách mạng Lào. Trong Thông
cáo cho các đồng chí, ngày 4 tháng 7 năm 1933, Xứ uỷ Nam Kỳ

64
. Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân
cách mạng Lào: Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tóm lược), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.23.
65
. Xem Lê Mạnh Trinh: Cuộc sống chung và riêng của cuộc đời tôi 50 năm
đầu thế kỷ XX.
66
. Xem Lê Mạnh Trinh: Cuộc sống chung và riêng của cuộc đời tôi 50 năm
đầu thế kỷ XX và Nguyễn Chính Giao: Nhớ lại quãng đời 50 năm hoạt động cách
mạng (1929 - 1979).
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 49

nêu rõ: “ảnh hưởng của Đảng đã đâm sâu lan rộng tới Cao Miên và
Ai Lao”67. Tháng 8 năm 1933, Xứ uỷ Nam Kỳ mở hội nghị bàn về
công tác phát triển phong trào cách mạng trong xứ. Trước tình hình
Trung ương Đảng chưa được lập lại, Xứ uỷ Nam Kỳ chủ trương:
“Xứ uỷ phải tìm mối liên lạc với Cao Miên, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Ai
Lao đặng hợp nhất các xứ bộ, tổ chức (lại) Trung ương của Đảng
Cộng sản Đông Dương”2.
Được sự giúp đỡ của Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ, đến
năm 1933, ở Lào có một số đảng viên người Việt hoạt động3;
phong trào đấu tranh cách mạng ở Lào đã dần dần được nhen
nhóm và phát triển.
Năm 1933, dưới sự lãnh đạo của các đảng viên, chị em buôn
bán nhỏ ở chợ Viêng Chăn bãi thị đòi giảm thuế và phản đối sự
ngược đãi của nhà chức trách đối với những người buôn bán nhỏ ở
chợ. Tháng 11 năm 1933, Chi bộ Đoàn Thanh niên cộng sản
Trường Tiểu học Pháp - Việt ở Viêng Chăn lãnh đạo 50 học sinh
lớp nhất đến văn phòng đốc học người Pháp đấu tranh phản đối
việc nhà trường đuổi một số học sinh. Kết quả viên đốc học phải
nhận lại số học sinh trên.
Bước vào năm 1934, phong trào đấu tranh của nhân dân Lào có
bước phát triển mới. Đầu năm 1934, công nhân mỏ Phôn Tịu tiến
hành ba cuộc bãi công. Ngày 2 tháng 5 năm 1934, 60 công nhân
(đại đa số là người Lào) của Trường Kỹ nghệ thực hành Viêng Chăn
tiến hành bãi công, tuần hành bằng xe đạp chống giảm tiền công.
Tuy không đạt được kết quả, song cuộc đấu tranh đã gây tiếng vang

67
. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.4, tr.103,
118.
3
. Theo Báo cáo của Hải An (Lê Hồng Phong) gửi Quốc tế Cộng sản ngày 15
tháng 1 năm 1935 thì vào năm 1933 ở Lào có khoảng 5, 6 đảng viên (Đảng Cộng
sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.398).
50 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

lớn ở Viêng Chăn68. Ngày 22 tháng 6 năm 1934, 40 người làm nghề
kéo xe bò tiến hành bãi công đòi tăng tiền lương thắng lợi. Các
cuộc đấu tranh của công nhân Xưởng dệt Kapphạ ở Viêng Chăn,
công nhân làm đường 13, đường 9, công nhân vận tải thuỷ chống sa
thải thợ, chống cúp lương nổ ra liên tiếp. Nghị quyết Đại hội lần
thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3 năm 1935) viết:
“Vô sản kỹ nghệ Lào (...) đã biết nhiều phen bãi công bênh vực
quyền lợi thiết thực hằng ngày của mình”69.
Tiếp nối các cuộc đấu tranh trong năm 1933, ngày 3 tháng 6
năm 1934, các thương nhân ở Viêng Chăn tổ chức bãi thị chống
tăng thuế thành công70.
Bên cạnh các cuộc đấu tranh của công nhân, tiểu thương, năm
1934, nông dân trong nhiều tỉnh của Lào đã tiến hành đấu tranh
chống sưu; đòi chính quyền thuộc địa ở Lào thu thuế bằng đồng bạc
cũ và đồng bạc mới. Điều đặc biệt là, tuy còn nhiều hạn chế, như
chưa lôi kéo được đông đảo nông dân, nhất là thanh niên, phụ nữ
tham gia..., song các cuộc đấu tranh của nông dân Lào trên thực tế
đã “đồng liên hợp với nông dân Việt Nam chống kẻ thù chung, cố
trừ diệt lòng ác cảm của đế quốc”71; đồng thời, góp phần thúc đẩy

68
. Theo Báo cáo của Lê Hồng Phong gửi Quốc tế Cộng sản (1935) thì năm
1934, học sinh người An Nam và người Lào ở Trường Dạy nghề Viêng Chăn tổ
chức nhiều cuộc bãi khóa (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập,
Sđd, t.5, tr.293).
69
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.71.
70
. Nghị quyết Đại hội lần thứ I Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3 năm
1935) nhận định: “Địa vị chỉ đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc phụ nữ vận động
không phải là nhỏ, nhờ có Đảng khôn khéo chỉ đạo chị em lao động mà nhiều nơi
họ được hoàn toàn thắng lợi, hoặc thắng lợi từng phần như ở Viêng Chăn, Bà
Điểm” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.66).
71
, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.49, 16-
18.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 51

các tổ chức đảng trong xứ đẩy mạnh công tác vận động nông dân.
Nhận xét về phong trào đấu tranh ở Lào, trong báo cáo gửi
Quốc tế Cộng sản ngày 20 tháng 12 năm 1934, Ban Chỉ huy ở
ngoài viết: “Các đồng chí ở Ai Lao tính chiến đấu cao”, “Đảng đã
biết lôi cuốn những người Lào (...) vào phong trào”72. Nghị quyết
Đại hội lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương diễn ra tại Ma
Cao từ ngày 27 đến 31 tháng 3 năm 1935 cũng nhận xét: “Trong
khoảng hai năm sau này [1933-1934 - BBS] công nhân vận động
phát triển ở Lào (bãi công thợ mỏ trường bách công, culi xe bò) (...)
các cuộc tranh đấu của công nhân ở Lào, Bắc Kỳ do Đảng Cộng
sản tổ chức và chỉ huy (...) nhiều nơi đem các nguyên nhân thắng
lợi và thất bại giảng giải cho quần chúng hiểu (Lào, Bắc Kỳ). Cao
trào cách mạng mới đã lan khắp các miền hậu tiến (Lào, Cao Miên,
thượng du Bắc Kỳ, các địa phương Thượng), các lớp hậu tiến và
quần chúng lao động trong các miền dân tộc thiểu số chẳng phải chỉ
vào hàng ngũ cách mạng mà thôi mà lại còn tham gia trong công
tác chỉ đạo trong công cuộc tranh đấu (Lào, Bắc Kỳ)”3.
Trong khi các đảng viên cộng sản, các tổ chức đảng ở Việt Nam
và Lào chủ động liên hệ giúp nhau khôi phục tổ chức và các phong
trào cách mạng, Quốc tế Cộng sản rất quan tâm đến việc phục hồi
cách mạng Đông Dương.
Từ sau khi ra nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương
là “chi bộ độc lập thuộc Quốc tế Cộng sản” (tháng 4 năm 1931)4,
Quốc tế Cộng sản tăng cường chỉ đạo, giúp đỡ Đảng Cộng sản
Đông Dương cả trên phương diện xây dựng và thực hiện đường lối
chiến lược, sách lược. Đặc biệt, sau khi Đảng Cộng sản Đông
Dương bị đánh phá ác liệt, Trung ương Đảng không còn, Quốc tế
Cộng sản tăng cường chỉ đạo, giúp đỡ Đảng Cộng sản Đông Dương

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.4, tr.189, 193.
72

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.3, tr.309.
4
52 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

khôi phục và phát triển phong trào cách mạng, hệ thống tổ chức,
các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Ngày 5 tháng 6 năm 1931, Ban
Chấp hành Quốc tế Công hội đỏ ban hành tài liệu “Những nhiệm
vụ của cuộc Công hội cách mệnh ở Đông Dương”, trong đó kêu gọi
những người cộng sản Đông Dương tranh đấu lập “mặt trận thống
nhất của thợ thuyền các dân tộc (...) giúp đỡ về tinh thần và vật chất
cho những người thợ Trung Hoa, Lào, Cao Miên, v.v., tham dự
trong cuộc tranh đấu”73. Tiếp đó, ngày 27 tháng 6 năm 1931, Ban
Bí thư Chính trị Quốc tế Cộng sản gửi thư cho Đảng Cộng sản
Đông Dương, chỉ thị: “Một trong những nhiệm vụ quan trọng của
thời cục là mở rộng phong trào cách mạng ra tất cả mọi miền - Cao
Miên, Lào”2.
Để khôi phục hệ thống tổ chức đảng, các cơ quan lãnh đạo và
phong trào cách mạng Đông Dương, Quốc tế Cộng sản tổ chức cho
những sinh viên tốt nghiệp Đại học phương Đông lần lượt trở về xứ
hoạt động, gây dựng lại tổ chức đảng và phong trào cách mạng. Từ
năm 1932 đến 1935, Quốc tế Cộng sản đã cử về Đông Dương 35
học viên tốt nghiệp các trường đào tạo tại Liên Xô3.
Tháng 11 năm 1931, Lê Hồng Phong và Trần Đình Long nhận
nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản trở về Đông Dương tham gia Ban
Chấp uỷ Trung ương Đảng74. Đầu năm 1932, sau khi biết Ban Chấp
uỷ Trung ương không còn, đồng chí Lê Hồng Phong từ Pháp đến
Trung Quốc chắp nối liên lạc với các nơi trong xứ, chuẩn bị điều
kiện tái lập Ban Chấp uỷ Trung ương Đảng. Từ tháng 4 năm 1932,

73
, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.3, tr. 338,
353.
3
. Huỳnh Kim Khánh: Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, 1925 - 1945, Ithaka,
1982. Bản dịch, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
74
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.391.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 53

tại Nam Ninh (Quảng Tây, Trung Quốc), đồng chí Lê Hồng Phong
bắt liên lạc với các nơi trong xứ; bắt liên lạc với các đồng chí hoạt
động ở Xiêm để tìm hiểu tình hình Ai Lao và Trung Kỳ. Năm 1932,
đồng chí Lê Hồng Phong biên soạn tài liệu “Tình hình và nhiệm vụ
của Đảng Cộng sản Đông Dương”, trong đó nêu rõ Đảng phải có
trách nhiệm tuyên truyền, cổ động đấu tranh chống đế quốc Pháp
“đem lính chỗ này sang chỗ nọ hoặc Lào và Cao Miên sang Nam
Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và ngược lại”75 để đàn áp phong trào cách
mạng. Cũng trong năm 1932, những người cộng sản Đông Dương
ban hành tài liệu “Đảng Cộng sản Đông Dương và những yêu sách
chung cho các giai cấp và dân tộc ở Đông Dương”, trong đó chỉ rõ
giai cấp vô sản Đông Dương phải “tìm kiếm bạn đồng minh” trong
các dân tộc ở Đông Dương, trong đó có dân tộc Lào; thành lập
“mặt trận thống nhất của mọi dân tộc Đông Dương” nhằm lật đổ
chủ nghĩa đế quốc và tất cả bọn phong kiến, giải phóng hoàn toàn
các dân tộc, bảo đảm cho họ một sự phát triển kinh tế - xã hội và
văn hoá, thực hiện “Bình đẳng tuyệt đối giữa tất cả các dân tộc
Đông Dương”3. Năm 1933, những người cộng sản Đông Dương
ban hành tài liệu “Những nhiệm vụ hiện nay của Đảng Cộng sản
Đông Dương” đề ra những nhiệm vụ xây dựng lại bộ máy tổ chức
đảng và tổ chức quần chúng. Tài liệu có đoạn viết: “ở Cao Miên và
ở Ai Lao, phải làm cho những người dân bản xứ tham gia vào bộ
máy của Đảng. Công tác chuẩn bị các cán bộ bản xứ phải thu hút
được sự chú ý của tất cả những người cộng sản của các xứ đó”76.
Dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài
của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập vào tháng 3 năm

75
, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.4, tr.328,
362.
76
, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.4, tr.448; t.6,
tr.57.
54 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

1934 để tiến hành các công tác của Đảng. Ban Chỉ huy ở ngoài
gồm ba người, do đồng chí Lê Hồng Phong làm bí thư.
Sau khi thành lập, Ban Chỉ huy ở ngoài rất quan tâm lãnh đạo
phong trào cách mạng ở Lào. Ban Chỉ huy ở ngoài xuất bản tạp chí
Bônsơvích rồi gửi tới Xiêm để nhân bản gửi sang Lào, mỗi số
khoảng 50 bản2; tiến hành bắt liên lạc với Cơ quan Đông Dương
viện trợ bộ.
Ngày 1 tháng 5 năm 1934, sau khi bắt được liên lạc với Cơ
quan Đông Dương viện trợ bộ, Ban Chỉ huy ở ngoài đã chỉ thị cho
đầu mối này giúp đỡ khôi phục phong trào cách mạng ở Trung Kỳ
và Ai Lao, trong đó có việc xúc tiến thành lập Xứ bộ Ai Lao của
Đảng Cộng sản Đông Dương, thành lập Xứ uỷ lâm thời Ai Lao.
Từ ngày 16 đến 21 tháng 6 năm 1934, tại Ma Cao, Ban Chỉ huy
ở ngoài và đại diện của Ban Chấp uỷ Xiêm3 tiến hành hội nghị để
kiểm điểm việc thực hiện Chương trình hành động của Đảng ở
trong xứ. Hội nghị nhận định rằng cùng với các cuộc đấu tranh của
nhân dân Việt Nam, các cuộc đình công của công nhân Lào ở
Viêng Chăn, Bò Nèng,...; các cuộc bãi khoá của học sinh Lào ở
Viêng Chăn; các cuộc bãi thị ở Viêng Chăn, đã góp phần làm cho
cuộc đấu tranh cách mạng ở Đông Dương “tiếp diễn và được mở
rộng (...) ảnh hưởng và tổ chức đảng đang lan rộng đến Ai Lao”77.
3
. Đại diện của Ban Chấp ủy Xiêm dự hội nghị là Bí thư Đảng Cộng sản Xiêm
Trần Văn Chấn. Do những điều kiện lịch sử, Đảng Cộng sản Xiêm lúc đó có nhiều
người Việt tham gia và giữ vai trò lãnh đạo chủ chốt trong Đảng. Do đó, Đảng Cộng
sản Xiêm tuy liên hệ mật thiết với Đảng Cộng sản Ma Lai để qua đó liên hệ với
Đông Phương bộ Quốc tế Cộng sản, song rất quan tâm đến phong trào cách mạng
Đông Dương. Khi nhận nhiệm vụ trở về Đông Dương hoạt động, đồng chí Lê Hồng
Phong đã thông qua Đảng Cộng sản Xiêm để nắm bắt tình hình trong xứ. Trong
những năm 1934 - 1936, hầu hết sự lãnh đạo của Ban Chỉ huy ở ngoài, Ban Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương đối với Lào đều thông qua Đảng Cộng sản Xiêm.
77
, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.4, tr.159,
162, 163-164, 176, 182.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 55

Hội nghị cũng chỉ ra những hạn chế của phong trào đấu tranh ở
Lào, như: ở Viêng Chăn cuộc đấu tranh không được tổ chức; trong
cuộc bãi khoá của học sinh ở Viêng Chăn tổ chức đảng không lôi
kéo được người Lào tham gia2.
Hội nghị ra Nghị quyết nêu rõ: “Trong trường hợp Trung ương
Đảng bị vỡ và mất liên lạc và để tránh mất sự lãnh đạo thường
xuyên, các Xứ uỷ Đảng (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Lào, Cao
Miên) phải liên lạc với Ban Chỉ huy ở ngoài. Trong trường hợp
Trung ương bị vỡ, Ban Chỉ huy ở ngoài có thể thay thế Trung ương
lãnh đạo trực tiếp tất cả các tổ chức đảng trong nước”3. Do trên
thực tế Ban Chấp uỷ Trung ương chưa được lập lại nên Ban Chỉ
huy ở ngoài “đóng vai trò Ban Trung ương Chấp uỷ lâm thời và tập
hợp dưới sự lãnh đạo của mình tất cả các tổ chức của Đảng ở Trung
Kỳ, Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên và Ai Lao”4.
Hội nghị quyết định đến tháng 1 năm 1935 phải thành lập xong
tất cả các xứ uỷ và các xứ uỷ sẽ cử đại biểu đi dự Đại hội Đảng vào
mùa Xuân 1935; sau khi thành lập Xứ uỷ Trung Kỳ và Xứ uỷ Ai
Lao sẽ giải tán Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ thuộc Đảng Cộng
sản Xiêm, lập một cơ quan liên lạc giữa Đảng Cộng sản Đông
Dương và Đảng Cộng sản Xiêm5. Ban Chỉ huy ở ngoài đã thông
qua đại diện của Ban Chấp uỷ Xiêm giao cho Cơ quan Đông
Dương viện trợ bộ nhiệm vụ khôi phục tổ chức đảng ở Bắc Trung
Kỳ, lập Xứ uỷ Ai Lao; gửi cho đầu mối này một số tài liệu: tạp chí
Bônsơvích, mẫu truyền đơn kỷ niệm Xôviết Nghệ - Tĩnh (ngày 12
tháng 9)...
Sau khi chắp nối được liên lạc với Ban Chỉ huy ở ngoài qua Cơ
quan Đông Dương viện trợ bộ, cơ sở đảng ở Lào có bước phát
triển mới. Đến giữa năm 1934, ở Lào có 16 đảng viên (7 đồng chí
là thợ mỏ, 6 đồng chí ở Viêng Chăn, 3 đồng chí ở Xavẳnnakhệt), 3
5
. Báo cáo của Hải An gửi Quốc tế Cộng sản ngày 15 tháng 1 năm 1935 (Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.400).
56 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

đoàn viên Thanh niên cộng sản Đoàn; có một chi bộ Thanh niên
cộng sản Đoàn; 109 đoàn viên công hội, có các công hội thợ mỏ,
thợ mộc, phu xe78. Bên cạnh các đảng viên là người Việt sinh sống
ở Lào, các đồng chí người Lào xuất thân từ thành phần công nhân,
tổ chức đảng ở Lào kết nạp nhiều đảng viên xuất thân từ thành
phần học sinh, công chức cấp thấp... như các đồng chí Xávắt Phỉu
Khảo (Xú lin), Thít Phủi Bănchông, Khăm Xẻng, Phănđi...79.
Trên cơ sở sự phát triển của tổ chức đảng ở Lào, thực hiện chủ
trương của Ban Chỉ huy ở ngoài, từ ngày 6 đến 9 tháng 9 năm 1934,
đại biểu của các chi bộ, cơ sở đảng Viêng Chăn, Bò Nèng, Phôn
Tịu, Thà Khẹc, Xalavăn, Pạc Xê đã họp Đại hội tại cù lao Xiêng
Xụ giữa sông Mê Công, trước làng Xỉ Khây thuộc tỉnh Viêng
Chăn, đề ra chủ trương lãnh đạo phong trào cách mạng trong xứ,
thành lập Xứ Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương tại Lào. Tham
dự Đại hội có đồng chí Tiến Già (Lê Mạnh Trinh), đồng chí Phây
(Nguyễn Chính Giao) là đại biểu Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ.
Đại hội thảo luận và quyết định:
- Kiện toàn, mở rộng các tổ chức đảng, đoàn thanh niên cộng
sản và các tổ chức quần chúng.
- Đẩy mạnh hoạt động bằng các hình thức có tính chất quần chúng.
- Tích cực vận động quần chúng người Lào80.
Đại hội thành lập Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời Ai Lao (tức

78
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.402, 403.
79
. Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân
cách mạng Lào: Lịch sử Đảng nhân dân cách mạng Lào (tóm lược), Sđd, tr.24.
80
. Lê Mạnh Trinh: Cuộc sống chung và riêng của cuộc đời tôi 50 năm đầu thế
kỷ XX. Xem thêm:
- Ban Công tác miền Tây: Những sự kiện chính trị về Lào (1930 - 1975), 1980.
Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng;
- Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân
cách mạng Lào: Lịch sử Đảng nhân dân cách mạng Lào (tóm lược), Sđd, tr.25.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 57

Xứ uỷ lâm thời Ai Lao) gồm bảy uỷ viên. Ban Thường vụ gồm có


ba uỷ viên.
Đại hội quyết định thành lập các tỉnh uỷ ở Pạc Xê, Xavẳnnakhệt
và củng cố lại Thành uỷ Viêng Chăn; chỉ định một Ban Chấp hành
lâm thời Thanh niên cộng sản Đoàn Ai Lao gồm ba đồng chí. Các
đồng chí đã tuyên truyền vận động nhiều thanh niên Lào, thanh
niên Việt kiều gia nhập các tổ chức cách mạng ở Viêng Chăn, ở
vùng mỏ Bò Nèng, Phôn Tịu.
Đại hội còn quyết định củng cố các công hội và Hội phản đế liên
minh và tổ chức các ngày kỷ niệm lớn bằng cách rải truyền đơn, treo
cờ đỏ búa liềm khắp nơi trên đất nước Lào như ngày Quốc tế Lao
động (ngày 1 tháng 5), ngày kỷ niệm Xôviết Nghệ - Tĩnh.
Xứ uỷ Ai Lao xuất bản tờ báo Gương chung làm cơ quan tuyên
truyền của Đảng bộ Lào, mỗi kỳ ra 100 số. Địa điểm ấn loát báo đặt
tại cơ quan đóng ở cây số 5 trên đường đi Xỉ Khây; đây đồng thời là
cơ sở làm kinh tế và là nơi liên lạc của Xứ uỷ81. Báo Gương chung
được chuyển từ Viêng Chăn đến Pạc Xê, Xavẳnnakhệt, Thà Khẹc
bằng đường giao thông thuỷ dọc sông Mê Công và đã có tác dụng
rất lớn trong phong trào cách mạng ở Lào lúc bấy giờ. Ngoài ra, Xứ
uỷ còn sử dụng các tài liệu để tuyên truyền, huấn luyện cán bộ, như
cuốn “Đường cách mệnh” của đồng chí Nguyễn ái Quốc phát hành
năm 1927, “Duy vật sử quan sơ học” do Trung ương Đảng Cộng
sản Xiêm ấn hành82.
Ngay sau khi ra đời, thực hiện chủ trương đã đề ra tại Đại hội
tháng 9 năm 1934, Xứ uỷ lâm thời Ai Lao họp bàn chủ trương phối
hợp với tổ chức đảng ở Trung Kỳ, Đảng Cộng sản Xiêm phát động

81
. Địa điểm sân bay Vặt Tày ngày nay, đây vừa là cơ quan báo vừa là cơ quan
làm kinh tế của Xứ ủy (làm vườn, chăn nuôi thỏ, gà và buôn bán dầu hỏa từ Xiêm
về) để gây tài chính cho Đảng.
82
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.20.
58 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

một đợt đấu tranh kỷ niệm Xôviết Nghệ - Tĩnh (ngày 12 tháng 9),
đòi quyền tự do dân chủ. Xứ uỷ quyết định tổ chức kỷ niệm Xôviết
Nghệ - Tĩnh thật rầm rộ, với các hình thức tổ chức mít tinh ở Viêng
Chăn, ở vùng mỏ, ở Thà Khẹc, Xavẳnnakhệt; treo cờ, rải truyền
đơn dọc theo sông Mê Công, v.v.. Các đồng chí trong Xứ uỷ được
phân công về các địa phương tổ chức và lãnh đạo phong trào.
Thực hiện chủ trương của Xứ uỷ, ngày 12 tháng 9 năm 1934,
các chi bộ cộng sản Viêng Chăn, khu mỏ Hỉn Bun (Thà Khẹc
Xavẳnnakhệt, Pạc Xê... đã lãnh đạo quần chúng treo cờ đỏ búa
liềm, rải truyền đơn để kỷ niệm bốn năm ngày Xôviết Nghệ - Tĩnh.
Tại Viêng Chăn, chị em tiểu thương chợ Viêng Chăn tiến hành bãi
thị với các khẩu hiệu đòi giảm thuế, không được vứt quang gánh.
Trước sức đấu tranh của chị em, bọn thống trị phải chấp nhận yêu
sách. Sau cuộc đấu tranh này, 30 công nhân làm nghề xe bò tổ chức
bãi công đòi tăng lương, trả lương sòng phẳng, chống quỵt tiền
công. Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy, cuộc bãi công đã giành thắng
lợi. Thắng lợi của hai cuộc đấu tranh trên đã cổ vũ học sinh Trường
Kỹ nghệ thực hành tiến hành bãi khoá. Dưới sự tổ chức của Xứ uỷ
Thanh niên cộng sản Đoàn đang học tại đây, học sinh đã đấu tranh
đòi tăng lương, giảm giờ làm. Cuộc đấu tranh tuy bị thất bại, một
số học sinh bị đuổi học, song đã góp phần tạo nên không khí đấu
tranh sôi động ở Viêng Chăn trong ngày kỷ niệm Xôviết Nghệ -
Tĩnh.
Trong các hoạt động kỷ niệm, lực lượng Thanh niên cộng sản
Đoàn đóng vai trò là lực lượng nòng cốt. Lực lượng tham gia đấu
tranh phần lớn là anh chị em Việt kiều làm trong các công sở, một
vài nơi đã có một số đồng chí Lào tham gia. Đợt đấu tranh này là
một hoạt động phối hợp với cuộc đấu tranh của nhân dân Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ (Việt Nam).
Cùng với các hoạt động trên đây, các tổ chức quần chúng cách
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 59

mạng: phụ nữ, công hội đỏ, cứu tế đỏ, hội bồi bếp, hội xe bò, hội
thợ may, hội học sinh, v.v. được tổ chức và phát triển ở nhiều nơi,
nhất là ở Viêng Chăn. Các chi bộ Thanh niên cộng sản Đoàn phát
triển ở Trường Kỹ nghệ thực hành, trường tiểu học và tại các phố.
Các đoàn thể, như Công hội, Hội phản đế đồng minh được củng cố,
thu hút nhiều người Lào yêu nước và tiến bộ.
Phát hiện thấy sự phát triển của phong trào cách mạng, chính
quyền thuộc địa tiến hành khủng bố, gây cho Đảng bộ Lào nhiều
tổn thất.
Xứ uỷ được thành lập hoạt động không đầy một tháng thì hầu
hết xứ uỷ viên đều bị bắt, chỉ còn lại một đồng chí. Nhiều đảng
viên và quần chúng người Việt tham gia các hoạt động trong đợt
đấu tranh ngày 12 tháng 9 năm 1934 bị bắt và trục xuất về nước.
Tuy nhiên, các chi bộ đảng ở Viêng Chăn, Pạc Xê, Thà Khẹc,
Xavẳnnakhệt không bị lộ.
Theo chỉ thị của Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ, tháng 10
năm 1934, đồng chí xứ uỷ viên còn lại và các đảng viên cốt cán
của Đảng bộ Lào họp ở Uđon (Xiêm), có đồng chí Lê Mạnh Trinh
đại diện cho Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ dự, để kiểm điểm lại
tình hình và tổ chức lại Xứ uỷ. Hội nghị cho rằng tuy bị khủng bố
nhưng đợt đấu tranh kỷ niệm Xôviết Nghệ - Tĩnh đã thể hiện rõ sự
tiến bộ đáng kể trong công tác tuyên truyền vận động của các tổ
chức cơ sở đảng. Hội nghị đã bổ sung và củng cố Xứ uỷ. Đồng chí
Phan Đình Hy (tức Quế) được cử làm bí thư. Xứ uỷ phân công các
xứ uỷ viên phụ trách công vận, binh vận, báo chí.
Sau khi Xứ uỷ được củng cố, phong trào cách mạng được đẩy
mạnh. Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân đấu tranh đòi
quyền dân chủ phát triển rộng rãi ở Viêng Chăn, Thà Khẹc,
Xavẳnnakhệt. Để đảm bảo an toàn, cơ quan báo Gương chung của
Xứ uỷ chuyển sang Xiêm. Ngoài tờ báo Gương chung của Xứ uỷ,
60 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Đảng bộ Lào chỉ đạo xuất bản thêm tờ Bạn trẻ83 của Thanh niên
cộng sản Đoàn, phát hành chủ yếu ở Viêng Chăn, tờ Trẻ Lênin phát
hành ở Xavẳnnakhệt; tờ Bạn thợ của công nhân; tờ Học sinh của
Hội Học sinh để tuyên truyền, giáo dục các tầng lớp nhân dân lao
động đứng lên làm cách mạng tự giải phóng. Các báo và truyền đơn
đều in hai mặt, một mặt bằng tiếng Lào, mặt còn lại bằng tiếng
Việt.
Công tác xây dựng tổ chức đảng ở Ai Lao được đẩy mạnh. Đến
cuối năm 1934, ở Lào có bốn chi bộ ở Viêng Chăn, Bò Nèng, Thà
Khẹc và Phôn Tịu với 18 đảng viên84. Theo báo cáo của đồng chí
Lê Hồng Phong gửi Quốc tế Cộng sản ngày 15 tháng 1 năm 1935,
thời điểm này ở Lào có 16 đảng viên (7 đồng chí là thợ mỏ, 6 đồng
chí ở Viêng Chăn, 3 đồng chí ở Xavẳnnakhệt), 3 đoàn viên Thanh
niên cộng sản Đoàn. Tính đến ngày 15 tháng 2 năm 1935, Đảng bộ
Lào có 32 đảng viên, trong đó có 28 đồng chí thuộc thành phần
công nhân. Đảng bộ đã tổ chức được Thị uỷ Viêng Chăn (5 chi bộ),
2 Tỉnh uỷ Xavẳnnakhệt và Thà Khẹc; các chi bộ đảng ở các mỏ Bò
Nèng, Phôn Tịu, Thà Khẹc85.
Các tổ chức quần chúng cũng có bước phát triển. Đoàn Thanh
niên cộng sản phát triển từ 15 đồng chí cuối năm 193486 lên 25
đồng chí tính đến ngày 15 tháng 2 năm 19353. Ban Chấp hành lâm

83
. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.4, tr.186,
ghi tên các tờ báo xuất bản ở Lào thời kỳ này là Tấm gương chung và Thanh niên.
Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng văn bản này dịch từ bản tiếng Pháp, do đó tên
báo có thể dịch không thật sát với tên gốc. Trong cuốn sách này chúng tôi sử dụng
tên báo theo hồi ký của các nhân chứng lịch sử (BBS).
84
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.4, tr.185.
85
. 3, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.196,
195.
86
, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187, 188.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 61

thời Thanh niên cộng sản Đoàn Ai Lao và các chi bộ trực thuộc
được tổ chức lại. Tổ chức Thanh niên cộng sản giữ vai trò chỉ huy
các cuộc đấu tranh của thanh niên lao động tại Lào trong những
năm 1934 - 19354.
Liên đoàn Công hội đỏ xứ Ai Lao được thành lập với hệ thống
ngang và dọc thống nhất đến cấp xứ. Tuy số lượng hội viên Công
hội đỏ giảm từ 60 hội viên vào cuối năm 19345 xuống còn 55 hội
viên tính đến ngày 15 tháng 2 năm 19356, song, so với toàn xứ
Đông Dương thì Ai Lao vẫn là xứ có hệ thống tổ chức của Công
hội đỏ phát triển nhất. Tại Viêng Chăn, các hội viên Công hội đỏ đã
thâm nhập vào các hội ái hữu để hoạt động. Nghị quyết của Đại hội
Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ I ghi rõ: “ở Lào công hội vận
động có phát triển”, “chỉ có đảng bộ Ai Lao biết chỉ đạo Công hội
đỏ, lập ra tờ báo Bạn thợ riêng cho công hội”87.
Ngoài ra, các tổ chức nhân dân khác cũng phát triển rất nhanh.
Phân bộ Liên minh phản đế ở Lào hoạt động rất mạnh, thu hút được
nhiều quần chúng Lào hăng hái tham gia. Cuối năm 1934, Phân bộ
Liên minh phản đế Ai Lao có 12 người (ở Viêng Chăn)88, đến ngày
15 tháng 2 năm 1935 tăng lên 69 người3. Phân bộ ra báo riêng làm
cơ quan tuyên truyền, phối hợp cùng các chi bộ đảng và các đoàn thể
quần chúng khác tổ chức những cuộc vận động chống khủng bố

4
. Nhận xét về phong trào thanh niên ở Lào, Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản
Đông Dương lần thứ I ghi nhận: “bắt đầu tổ chức các chi bộ và các cơ quan chỉ đạo
của Thanh niên Cộng sản Đoàn ở Lào”; “Thanh niên Cộng sản giữ địa vị chỉ huy các
cuộc tranh đấu của thanh niên lao động một cách rất cương quyết (...) Viêng Chăn
lại có xuất bản báo chương riêng của Thanh niên Cộng sản Đoàn” (Đảng Cộng sản
Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.21, 79).
87
, 3, 4, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.22,
37, 195.
88
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.4, tr.188.
62 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

trắng ở Đông Dương, ở Việt Nam, bênh vực phong trào cách mạng
Xiêm.
Vào cuối năm 1934, Hội Cứu tế đỏ Ai Lao có 29 hội viên.
Cùng với Hội Cứu tế đỏ ở Nam Kỳ, Hội Cứu tế đỏ Ai Lao là một
trong hai hội “có thế lực” khá hơn cả so với các nơi khác ở Đông
Dương4. Hội đã góp phần đấu tranh đòi thả tù chính trị ở Đông
Dương, trong đó có các tù chính trị ở nhà đày Lao Bảo, Khám lớn
Sài Gòn, nhà tù Côn Đảo..., giúp đỡ các chiến sĩ cách mạng thoát
khỏi nhà tù đế quốc trở về tham gia phong trào cách mạng
Hội Thể thao Ai Lao cũng tăng từ 12 người5 lên 18 người tính
đến ngày 15 tháng 2 năm 1935. Bên cạnh đó, đến đầu năm 1935,
ở Lào còn có các hội phụ nữ (5 hội viên), sinh viên (20 người),
binh sĩ (9 người)6.
Do chính quyền thuộc địa kiểm soát rất gắt gao, đề phòng bị
khủng bố nên Đảng bộ Lào chủ trương “bí mật lãnh đạo trong các
cuộc đấu tranh của quần chúng (Lào)”89. Trong dịp kỷ niệm ngày
thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương90, các chi bộ đảng ở Viêng
Chăn, Xavẳnnakhệt, Thà Khẹc tiến hành nhiều hoạt động treo cờ
Đảng, rải truyền đơn, treo khẩu hiệu... tuyên truyền về Đảng. Ngày 9
tháng 1 năm 1935, truyền đơn viết bằng chữ Việt và chữ Lào cùng
nhiều khẩu hiệu cách mạng xuất hiện ở Trường Trung học Pavie, sân
bóng đá và tại một số ngôi chùa ở Viêng Chăn. Trong lúc thực hiện
nhiệm vụ rải truyền đơn, một thanh niên cộng sản bị bắt.
Trước tình hình đó, Xứ uỷ Ai Lao họp tại Thà Boốc (Xiêm)

5
. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.4, tr.188;
t.5, tr.36.
89
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.21.
90
. Từ tháng 3 năm 1960 trở về trước, hằng năm Đảng lấy ngày 6 tháng 1
năm 1930 là ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 63

quyết định tổ chức cuộc mít tinh tại chùa Cấm (Viêng Chăn) vào
ngày mùng 2 Tết âm lịch ất Mùi của người Việt, tức ngày 5 tháng 2
năm 1935, để phản đối sự khủng bố phong trào cách mạng của nhà
cầm quyền thực dân Pháp, hô hào chống âm mưu địch gây thù hằn
và kỳ thị giữa người Việt và người Lào. Đồng chí Phạm Văn Xô
được giao nhiệm vụ lãnh đạo cuộc mít tinh. Lực lượng tham gia tổ
chức cuộc mít tinh có các đoàn thể Công hội đỏ ở Viêng Chăn, Hội
Phản đế liên minh và Đoàn Thanh niên cộng sản đóng vai trò nòng
cốt. Đúng thời gian đã định, nhân lúc bà con người Việt đi lễ, cuộc
mít tinh diễn ra với khoảng 400 người tham dự, trong đó có một số
người Lào. Cuộc mít tinh sau đó trở thành cuộc biểu tình qua các
phố rồi kéo đến đập phá nhà tên mật thám, yêu cầu trả tự do cho
người bị bắt.
Sau cuộc đấu tranh này, thực dân Pháp tiến hành khủng bố,
nhiều đảng viên cộng sản bị bắt.
Từ giữa tháng 12 năm 1934, Ban Chỉ huy ở ngoài tiến hành
triệu tập đại biểu các xứ tham dự Đại hội. Ban Chỉ huy ở ngoài gửi
thư nhờ Đảng Cộng sản Xiêm qua Cơ quan Đông Dương viện trợ
bộ thông báo đến tổ chức đảng ở Lào và ở Bắc Trung Kỳ, yêu cầu
cử đại biểu tham dự Đại hội.
Nhận được chỉ thị của Ban Chỉ huy ở ngoài, từ ngày 21 đến 25
tháng 2 năm 1935, Xứ uỷ Ai Lao tiến hành hội nghị ở Uđon (Xiêm)
bổ sung xứ uỷ viên91, bàn các nhiệm vụ củng cố tổ chức đảng cấp
dưới và thúc đẩy liên lạc giữa Xứ uỷ với các cấp; tổ chức Công hội
đỏ toàn thành phố Viêng Chăn và triệu tập hội nghị bàn vấn đề phát
triển hội viên mới, bầu Ban Chấp hành Liên hiệp Công hội đỏ

91
. Theo thư gửi Quốc tế Cộng sản ngày 31 tháng 3 năm 1935 của Ban Chỉ
huy ở ngoài thì Xứ ủy Ai Lao có bốn công nhân, một tiểu thương, Xứ ủy có một
công nhân người Lào. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd,
t.5, tr.196.
64 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Viêng Chăn; cử hai đồng chí Phan Đình Hy - Bí thư Xứ ủy và


Phạm Văn Xô đại diện cho Đảng bộ Lào đi dự Đại hội lần thứ I
Đảng Cộng sản Đông Dương họp ở Ma Cao. Sau đó, do yêu cầu chỉ
đạo công tác nên đồng chí Phan Đình Hy ở lại, không đi dự Đại hội
Đảng như đã định.
Trong hoàn cảnh rất khó khăn, chỉ trong vòng sáu tháng từ khi
Xứ bộ Ai Lao được thành lập, Xứ uỷ Ai Lao bị khủng bố, bị vỡ
phải lập đi lập lại ba lần, song các đảng viên cộng sản ở Lào vẫn
hoạt động, tích cực lãnh đạo phong trào trong xứ, đồng thời làm tốt
nhiệm vụ do Ban Chỉ huy ở ngoài giao phó trong việc chuẩn bị Đại
hội lần thứ I của Đảng. Các dự thảo văn kiện trình Đại hội lần thứ
I của Đảng đã được các chi bộ đảng ở Lào nghiên cứu. Trong thư
gửi Quốc tế Cộng sản ngày 31 tháng 3 năm 1935, Ban Chỉ huy ở
ngoài đề nghị biểu dương những người cộng sản hoạt động ở Lào.
Ban Chỉ huy ở ngoài viết: “Về chuẩn bị Đại hội của Đảng (...) ở
Lào, công việc này khá tốt, do nói chung các đồng chí ở Lào đã
thực hiện các công việc do Ban Chỉ huy ở ngoài đề ra (...) Cần biểu
dương tổ chức ở Lào, vì trong sáu tháng, khủng bố trắng đã làm
đảo lộn gần toàn bộ xứ uỷ ba lần, nhưng xứ uỷ vẫn được khôi
phục”92.
Đại hội lần thứ I Đảng Cộng sản Đông Dương diễn ra từ ngày
27 đến 31 tháng 3 năm 1935, tại một địa điểm ở phố Quan Công
(Ma Cao, Trung Quốc). Tham dự Đại hội có 13 đại biểu; đại biểu
của Đảng bộ Lào là Phạm Văn Xô - Uỷ viên Xứ uỷ Ai Lao. Đại hội
đã thảo luận và thông qua các văn kiện do Ban Chỉ huy ở ngoài
soạn thảo, như Báo cáo chính trị, báo cáo về công tác đã qua của
Ban Chỉ huy ở ngoài; về nhiệm vụ của Ban Chỉ huy ở ngoài và các
quan hệ của Ban với Ban Trung ương Đảng; về Điều lệ của Đảng.

, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.190-
92

191, 34.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 65

Đại hội nhận định, cùng với Nam Kỳ, phong trào công nhân ở
Lào là một trong hai khu vực có phong trào mạnh nhất Đông
Dương với những cuộc đấu tranh “đặc sắc” của thợ mỏ, culi xe bò,
của công nhân bồi bếp... đã lôi kéo được cả người dân tộc thiểu số
và người ngoại quốc tham gia. Nghị quyết Đại hội viết: “Một điều
đặc sắc là đại đa số cuộc bãi công, biểu tình do Đảng ta chỉ đạo trong
khoảng hai năm nay (như ở Lào, Bắc Kỳ và nhiều chỗ ở Nam Kỳ)
đều được thắng lợi hoặc hoàn toàn, hoặc từng phần, khiến cho quần
chúng thêm hăng hái tranh đấu”2.
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá tình hình khôi phục hệ thống
tổ chức đảng và phong trào quần chúng qua gần năm năm đấu
tranh, Đại hội đã xác định toàn Đảng phải tập trung thực hiện ba
nhiệm vụ chính: Một là, củng cố và phát triển Đảng; Hai là, thâu
phục quảng đại quần chúng lao động; Ba là, chống chiến tranh đế
quốc.
Đại hội ra nhiều nghị quyết về Công nhân vận động, Nông dân
vận động, Phụ nữ vận động, Thanh niên vận động, Cứu tế đỏ
Đông Dương vận động, về Công tác trong các dân tộc thiểu số, về
Công tác Phản đế liên minh, về Vận động binh lính, về Đội tự
vệ..., trong đó chỉ rõ những nhiệm vụ của Đảng đối với phong trào
cách mạng ở Lào cũng như mối liên kết giữa phong trào đấu tranh
ở Lào và phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Nghị
quyết Đại hội ghi rõ “Đảng cần phải phát triển và củng cố Công
hội đỏ đã có”93 ở Lào.
Đại hội nhấn mạnh tầm quan trọng của việc liên hợp mật thiết
các dân tộc Đông Dương để chống kẻ thù chung trên cơ sở lấy
nguyên tắc chân thật, tự do và bình đẳng cách mạng làm căn bản.
Đại hội nhấn mạnh khẩu hiệu “Cho các dân tộc được quyền tự

, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.37, 72.
93
66 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

quyết” đã được nêu trong chương trình hành động của Đảng năm
1932. Nghị quyết viết: “Đảng Cộng sản thừa nhận cho các dân tộc
được quyền tự do hoàn toàn (...) Sau khi đánh đổ được ách đế quốc
Pháp ra khỏi xứ Đông Dương rồi, các dân tộc có quyền tự quyết,
nghĩa là tuỳ theo ý chí của họ, họ muốn theo Liên bang Cộng hoà
Xôviết Đông Dương, hoặc muốn lập ra nhà nước độc lập, muốn
theo chính thể nào cũng được, chính phủ Xôviết công nông binh
Đông Dương quyết không can thiệp và ngăn trở”2. Trên cơ sở đó,
Đại hội chủ trương phải kiên quyết đưa các phần tử tích cực người
Lào vào chiếm đa số trong các cơ quan chỉ đạo của Đảng, của các
đoàn thể cách mạng ở Lào; Xứ uỷ Ai Lao phải sử dụng đủ phương
pháp xuất bản báo chương, truyền đơn và các tài liệu bằng chữ dân
tộc; kịch liệt đấu tranh chống áp bức, bóc lột; củng cố tình cảm và
sợi dây liên lạc với nhân dân lao động Việt Nam; chống địa phương
chủ nghĩa đồng thời chống xu hướng vị chủng, chủ nghĩa sôvanh
của các cán bộ người Việt Nam đối với người lao động Lào.
Đại hội bầu Ban Trung ương Chấp uỷ gồm 13 đồng chí, trong
đó, Đảng bộ Ai Lao vinh dự có hai đồng chí được bầu vào Ban
Chấp hành là đồng chí Phan Đình Hy (tức Quế) và đồng chí Phạm
Văn Xô.
Sau Đại hội Đảng, các văn kiện Đại hội được phân phát tới
Lào và thổi vào phong trào cách mạng Lào một sinh khí đấu
94

tranh mới.
Ngày 1 tháng 5 năm 1935, bất chấp lệnh giới nghiêm của Toàn
quyền Đông Dương cùng việc chính quyền thuộc địa tăng cường
các biện pháp trấn áp, dưới sự lãnh đạo của các chi bộ đảng, công
nhân mỏ người Lào và người Việt Nam tiến hành bãi công95. Học

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr.58.
94

. Trong báo cáo của đồng chí Văn Tân (Hoàng Vĩnh Tuy), đại biểu Đảng
95
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 67

sinh người Việt và người Lào ở Trường Kỹ nghệ thực hành Viêng
Chăn tiến hành một cuộc bãi công lớn trong vòng một tuần lễ. Năm
công nhân người Việt bị đuổi về nước và 30 công nhân Lào bị sa
thải. Nhiều nơi ở Lào rải truyền đơn và treo cờ đỏ búa liềm96.
Trong tháng 5 năm 1935, Xứ uỷ Ai Lao lãnh đạo các cuộc biểu tình
kéo dài ba tuần lễ nổ ra ở Viêng Chăn, Bò Nèng, Phôn Tịu. Trong
Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, đầu năm 1936, Ban Chỉ huy ở ngoài
viết: “Mặc dầu có nạn khủng bố, Đảng đã có thể tổ chức hai cuộc
đình công chính trị ở Lào trong ba tuần lễ vào dịp 1-5-1935”97.
Chính quyền thuộc địa tiến hành khủng bố phong trào cách
mạng Ai Lao. Tháng 5 năm 1935, đồng chí Phan Đình Hy, Uỷ viên
Trung ương Đảng, Bí thư Xứ uỷ Ai Lao cùng ba xứ uỷ viên bị bắt.
Ngày 6 tháng 6 năm 1935, đồng chí Phạm Văn Xô vừa dự Đại hội
Đảng về đến bản Noỏng Bua (tỉnh Uđon - Xiêm) thì bị bắt. Tuy
nhiên, các chi bộ đảng và tổ chức quần chúng vẫn tồn tại.
Giữa năm 1935, Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
viết thư cho Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ, chỉ rõ: Cơ quan
Đông Dương viện trợ bộ đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, sau Đại
hội Ma Cao đã có Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
lãnh đạo phong trào cách mạng nên những người trong Cơ quan
Đông Dương viện trợ bộ sẽ trở thành thông tin viên của Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương ở nước ngoài. Thực hiện chỉ thị

Cộng sản Đông Dương tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, tại phiên họp thứ 31
ngày 11 tháng 8 năm 1935, có đoạn viết: “Ba năm gần đây (...) ở Lào có một số
cuộc bãi công của công nhân mỏ. Người tham gia chủ yếu những cuộc bãi công ấy
là công nhân Lào. Đồng thời còn có những cuộc nổi dậy của nông dân Lào và Cao
Miên nữa” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr.328-
329).
96
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.293-294.
97
, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr.59, 46.
68 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

trên đây, Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ giải thể vào tháng 6
năm 1935. Từ đây, Đảng bộ Lào nhận sự chỉ đạo trực tiếp của
Trung ương Đảng.
Để tăng cường sự lãnh đạo phong trào cách mạng Lào, tháng 7
năm 1935, Ban Chỉ huy ở ngoài và Ban Trung ương phân công
một đồng chí tới Lào, song đồng chí này bị bắt tại Xiêm tháng 8
năm 1935.
Từ tháng 9 năm 1935, do điều kiện khó khăn, nhiều uỷ viên
Trung ương lần lượt sa lưới mật thám, Ban Trung ương Đảng
không còn nên phong trào cách mạng ở Lào đặt dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của Ban Chỉ huy ở ngoài2. Do Xứ uỷ Ai Lao bị vỡ nên
Ban Chỉ huy ở ngoài gấp rút chỉ đạo tái lập Xứ uỷ để kịp thời lãnh
đạo phong trào cách mạng đang diễn ra sôi nổi.
Dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ huy ở ngoài, được sự giúp đỡ của
Đảng Cộng sản Xiêm, Xứ uỷ Ai Lao được tái lập vào tháng 9 năm
193598, gồm ba uỷ viên. Xứ uỷ lãnh đạo hai Tỉnh uỷ Viêng Chăn và
Xavẳnnakhệt; các tổ chức đảng ở Bò Nèng, Phôn Tịu, Thà Khẹc,
Pạc Xê, Xiêng Khoảng2. Tháng 11 năm 1935, Xứ uỷ Ai Lao tổ
chức hội nghị tại Na Kè thuộc huyện Phạnôm tỉnh Nakhon Phạnôm
(Xiêm) để củng cố Xứ uỷ.
Các tổ chức quần chúng như Hội Phụ nữ, Hội Sinh viên, Cứu tế
đỏ và Liên minh phản đế tiếp tục được củng cố. Bên cạnh đó, Hội
Nông dân ở Lào bắt đầu được tổ chức. Các tổ chức đảng và quần
chúng ở Lào đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xuất bản đều đặn
bảy tờ báo bất hợp pháp. Cùng với sự khôi phục của Xứ uỷ, nhiều
cuộc đấu tranh của công nhân, binh lính nổ ra ở Phôn Tịu, Thà
Khẹc, Viêng Chăn... Đáng chú ý là cuộc bãi thao của 62 binh lính
khố xanh người Việt và người Lào diễn ra ở Thà Khẹc phản đối sự

, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.49, 47,
98

56.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 69

ngược đãi của chỉ huy Pháp, buộc chúng phải nhượng bộ. Phong
trào đấu tranh vũ trang của các bộ tộc Lào cũng diễn ra ở các tỉnh
Xalavăn, áttapư, Chămpaxắc, trong đó, nổi bật nhất là các hoạt
động của nghĩa quân do ông Kẹo và ông Cômmađăm đứng đầu, có
sự tham gia của dân tộc Xơđăng ở Tây Nguyên - Việt Nam. Trong
báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, đầu năm 1936, Ban Chỉ huy ở ngoài
viết: “Phải nói rằng các đồng chí ở Lào hoạt động tốt. Các tổ chức
quần chúng rất tích cực”3.
Trong những năm 1930 - 1935, trong khi phong trào cách mạng
ở Việt Nam bị khủng bố, gặp nhiều khó khăn, phong trào cách
mạng ở Lào đạt nhiều bước tiến triển. Mặc dù chưa có sự phối hợp
chặt chẽ, đồng đều, song các cuộc đấu tranh của nhân dân Việt
Nam và Lào đã ảnh hưởng lẫn nhau, góp phần thúc đẩy sự ra đời
của các đoàn thể yêu nước và cách mạng, các tổ chức đảng ở Lào;
sự phát triển của phong trào cách mạng Lào, đặc biệt là các cuộc
đấu tranh ủng hộ Xôviết Nghệ - Tĩnh đã góp phần khôi phục phong
trào cách mạng và tổ chức đảng ở Việt Nam. Trong các cuộc đấu
tranh ở các khu mỏ, ở công trường làm đường 9, đường 13, ở
Trường Kỹ nghệ thực hành Viêng Chăn..., công nhân mỏ, học sinh
và binh lính người Việt đã sát cánh cùng công nhân, học sinh và
binh lính người Lào đấu tranh là những hình ảnh đẹp về mối liên hệ
mật thiết giữa những người yêu nước của hai dân tộc.
Chính địa bàn và phong trào đấu tranh của nhân dân Lào đã
làm xuất hiện và rèn luyện nhiều đảng viên ưu tú người Việt Nam,
trong đó có những đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng. Sự ra đời
của Xứ uỷ Ai Lao (tháng 9 năm 1934) là một dấu mốc quan trọng
trong lịch sử đấu tranh yêu nước của nhân dân các bộ tộc Lào,
khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Lào đối với
cách mạng Lào.
70 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

b) Đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, chống chủ
nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới (1936 - 1939)
Từ cuối năm 1935, đầu 1936, tình hình thế giới có những diễn
biến ngày càng phức tạp với sự hình thành của Liên minh phát xít
Đức - Italia - Nhật Bản. Nhật ráo riết chuẩn bị kế hoạch xâm lược
Trung Quốc.
Trước tình hình chủ nghĩa phát xít ra đời, ráo riết chuẩn bị gây
chiến tranh, với tinh thần trách nhiệm trước nhân dân thế giới,
phong trào cộng sản quốc tế đã chuyển hướng đấu tranh, nhằm
mục tiêu chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh. Chủ
trương thành lập Mặt trận công nhân thống nhất, Mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi nhằm tập hợp quần chúng chống chủ nghĩa
phát xít và nguy cơ chiến tranh của Đại hội lần thứ VII Quốc tế
Cộng sản, cùng với những thay đổi trong quan điểm lãnh đạo của
tổ chức này đã mang lại một sinh khí mới cho phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, có tác động đặc biệt quan trọng đến cuộc
đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa, trong đó có Đông
Dương.
Tại Pháp, Mặt trận Nhân dân Pháp hình thành từ tháng 7 năm
1934 với thoả ước thống nhất hành động giữa Đảng Cộng sản và
Đảng Xã hội về tổ chức mít tinh, biểu tình chống chủ nghĩa phát
xít. Ngày 12 tháng 1 năm 1936, liên minh này công bố Chương trình
của Mặt trận Nhân dân. Tháng 5 năm 1936, Mặt trận Nhân dân
Pháp tiếp tục giành thắng lợi trong vòng bầu cử thứ hai vào Quốc
hội Pháp. Ngày 4 tháng 6 năm 1936, Chính phủ mới được thành lập
trên cơ sở thắng lợi của Mặt trận Nhân dân do Léon Blum đứng
đầu. Chính phủ mới tuyên bố thực hiện Chương trình của Mặt trận
Nhân dân, tiến hành cải cách chính trị - xã hội, chống chủ nghĩa
phát xít, ban hành một số chính sách tự do, dân chủ cho các thuộc
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 71

địa. Sự kiện này đã tạo ra những thuận lợi cho cuộc đấu tranh của
nhân dân các nước thuộc địa, trong đó có nhân dân Đông Dương.
Những thay đổi của tình hình quốc tế, đặc biệt là chủ trương
mới của Quốc tế Cộng sản có ảnh hưởng sâu sắc đến cách mạng
Đông Dương. Thắng lợi của Mặt trận Nhân dân Pháp đã có những
tác động tích cực đến các nước thuộc địa. Chính phủ Pháp buộc
phải thực hiện những cải cách theo hướng nới rộng các quyền tự
do, dân chủ ở Đông Dương. Đây chính là những điều kiện hết sức
thuận lợi cho Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo phong trào đấu
tranh của nhân dân đòi dân sinh, dân chủ.
Theo tinh thần chỉ đạo của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng
sản, trước những chuyển biến thuận lợi của tình hình thế giới và
trong xứ, Đảng Cộng sản Đông Dương đã chuyển hướng đấu tranh
nhằm mục tiêu chống phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa phát
xít và chiến tranh, đòi các quyền tự do, dân chủ. Đảng chủ trương
thành lập Mặt trận dân tộc phản đế là “nhiệm vụ trọng tâm”99. Mặt
trận dân tộc phản đế không phải là hình thức liên kết bí mật với các
đảng cách mạng dân tộc trên cơ sở đòi lật đổ chủ nghĩa đế quốc và
phong kiến bản xứ, thành lập chính phủ dân chủ và độc lập hoàn
toàn cho Đông Dương, mà là một “tổ chức công khai nhất của
đông đảo quần chúng”, bao gồm tất cả các đảng phái, các tầng lớp
nhân dân kể cả người nước ngoài, cùng nhau đấu tranh đòi các
quyền dân sinh, dân chủ.
Chủ trương của Đảng đã mở ra cao trào đấu tranh đòi các quyền
lợi dân sinh, dân chủ, tự do, cơm áo, hoà bình rộng khắp ở Đông
Dương. Tại Việt Nam, hệ thống tổ chức đảng được khôi phục, phong
trào đấu tranh đòi tự do, cơm áo diễn ra sôi nổi, rầm rộ khắp cả nước,

, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr.73, 49,
99

56.
72 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

tiêu biểu là các phong trào đấu tranh đòi triệu tập Đại hội Đông
Dương diễn ra tại Việt Nam vào mùa Thu 1936; đón Gôđa và Brêviê
đầu năm 1937; đấu tranh đòi tự do báo chí và tự do tuyển cử vào các
cơ quan chính quyền do thực dân Pháp lập ra...
Trong khi phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam nhằm
mục tiêu dân sinh, dân chủ bùng lan khắp nơi thì phong trào đấu
tranh của nhân dân Lào lại gặp nhiều khó khăn.
Sau khi được lập lại vào tháng 9 năm 1935, được củng cố vào
tháng 11 năm 1935, đến giữa năm 1936, tổ chức đảng ở Lào gồm
xứ uỷ, các tỉnh uỷ Viêng Chăn, Xavẳnnakhệt và các tổ chức địa
phương ở Bò Nèng, Phôn Tịu, Thà Khẹc, Pạc Xê, Xiêng Khoảng2.
Toàn Đảng bộ có 28 đảng viên, hơn 30 đoàn viên Thanh niên
cộng sản3. Ngoài ra, còn có một số hiệp hội công đoàn, hội phụ nữ,
hội sinh viên, một vài nhóm phản đế và năm tờ báo100. Trong thư
công khai của Trung ương gửi các đồng chí toàn Đảng, tháng 6 năm
1936, Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đánh giá về
phong trào đấu tranh ở Lào cuối năm 1935 đầu năm 1936 như sau:
“Cao trào cách mạng vẫn kế tiếp lên, những cuộc bãi công chính trị ở
Vientiane (Viêng Chăn), Boneng (Bò Nèng), Bontiou (Phôn Tịu),
các cuộc bãi công của thợ nhà máy in, máy gạo, làm đồ sứ, vườn
nuôi, culi xe kéo, các cuộc bãi khoá của học sinh, bãi thực của các
chính trị phạm, bãi thị của các tiểu thương gia, tiêu biểu rằng quần

100
. “Báo cáo của Ban Chỉ huy ở ngoài gửi Quốc tế Cộng sản” trong Đảng Cộng
sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.365.
Trong thư công khai của Trung ương gửi các đồng chí toàn Đảng, tháng 6
năm 1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đánh giá về
công tác tuyên truyền trong xứ và nhận định trong hoàn cảnh khó khăn, công tác
tuyên truyền của Đảng rất yếu, một số đảng bộ đã biết tự động phát triển công tác
tuyên truyền như “chỉ một Đảng bộ Ai Lao, mà chỉ đạo bảy tờ báo bí mật xuất bản
khá thường”, xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6,
tr.19.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 73

chúng lao khổ càng ngày càng cách mạng hoá”101.


Phát hiện thấy sự phát triển của phong trào cách mạng Ai Lao,
chính quyền thuộc địa tiến hành một cuộc khủng bố lớn phong trào
cách mạng trong xứ vào đầu năm 1936. Cuộc khủng bố của địch đã
gây tổn thất lớn cho Đảng bộ và cho phong trào cách mạng ở Lào.
Hơn 400 chiến sĩ cách mạng người Việt bị bắt và bị trục xuất. Phần
lớn các uỷ viên Xứ uỷ Ai Lao bị bắt, chỉ còn hai đồng chí thoát
được sang Xiêm. Xứ uỷ bị vỡ3.
Từ sau Đại hội lần thứ I Đảng Cộng sản Đông Dương, trong
Đảng Cộng sản Xiêm xuất hiện những mâu thuẫn nội bộ. Đến đầu
năm 1936, cơ quan lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Xiêm
nảy sinh hiện tượng bè phái, mất đoàn kết, chia thành hai nhóm
“phê phán nhau kịch liệt và vô nguyên tắc và làm việc tách rời
nhau”, “Vấn đề bè phái ở Xiêm đã gây ra ảnh hưởng rất xấu đến
Lào”102. Giữa năm 1936, Đảng Cộng sản Xiêm bị khủng bố, nhiều
đồng chí cán bộ chủ chốt bị chính quyền Xiêm bắt giam. Mối liên
lạc giữa Ban Chỉ huy ở ngoài với Lào vốn thông qua Đảng Cộng
sản Xiêm bị gián đoạn. Trong báo cáo của Ban Trung ương gửi
Quốc tế Cộng sản (ngày 10 tháng 9 năm 1937), viết: “Trước đây,
Ban Chỉ huy ở ngoài có những liên lạc với các tổ chức của Lào
qua trung gian của Đảng Cộng sản Xiêm. Từ lúc Đảng này bị cuộc
đại khủng bố trắng đánh phá, các tổ chức của Lào cũng chịu cực

101
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 17.
3
. Có tài liệu viết trong cuộc lùng sục tại Lào đầu năm 1936, mật thám Pháp bắt
được 73 đảng viên, trong đó ở Xiêng Vảng: 5 người, Thà Khẹc và khu mỏ: 25 người,
Viêng Chăn: 27 người, Xavẳnnakhệt: 11 người, Pạc Xê; 5 người. Xem Geoffrey C.
Gun: Political Struggles in Laos (1936 - 1954), Edition Duang Kamol, Siam Square,
Bangkok, Thailand, 1988, p.67.
102
. “Báo cáo của Ban Chỉ huy ở ngoài gửi Quốc tế Cộng sản” trong Đảng Cộng
sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.368, 369.
74 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

về các vấn đề liên lạc của họ”103.


Mặt khác, trong thời gian đầu năm 1936, do gặp nhiều khó
khăn, sự lãnh đạo của Ban Chỉ huy ở ngoài đối với Lào cũng không
được liên tục và sâu sát. Công cuộc xây dựng tổ chức đảng và
phong trào cách mạng ở Lào bước vào giai đoạn khó khăn.
Ngày 17 tháng 7 năm 1936, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng
Cộng sản Đông Dương gửi thư cho Xứ uỷ Ai Lao thông báo đã chỉ
định hai hoặc ba đồng chí đến Lào để “tạo được một sự thúc đẩy
mới cho những hoạt động ở Lào” và giúp đỡ phân bộ của Lào và
Đông Bắc Xiêm3. Tuy nhiên, do Xứ uỷ Ai Lao đã bị vỡ nên việc
liên hệ trên không đạt kết quả.
Ngày 26 tháng 7 năm 1936, các đồng chí Ban Chỉ huy ở ngoài
và Trung ương tiến hành hội nghị bàn công tác khôi phục Đảng và
phong trào cách mạng, lãnh đạo các cuộc đấu tranh theo tinh thần
chỉ đạo của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản. Hội nghị thông
qua chỉ thị yêu cầu các cấp bộ đảng chủ động thành lập Mặt trận
dân tộc phản đế nhằm tập hợp tất cả các đảng phái, các tầng lớp
nhân dân đấu tranh đòi các quyền lợi dân sinh, dân chủ. Đối với
Lào, Hội nghị cho rằng phải có yêu sách đấu tranh riêng phù hợp
với điều kiện của xứ. Theo đó, Lào có thể nêu yêu sách đòi xoá bỏ
các luật lệ bản xứ, cải cách các cơ quan đại diện, hội đồng hàng
tỉnh, biến chúng thành những cơ quan đại diện cho nhân dân. Nghị
quyết Hội nghị viết: “Mặt trận dân tộc phản đế bao gồm tất cả các
đảng phái và tất cả các tầng lớp nhân dân, không phụ thuộc vào dân
tộc nào - dù là người Pháp, người Việt, người Lào hay các dân tộc
thiểu số khác, miễn là họ nhất trí tranh đấu để thực hiện những yêu
sách đã nêu ra”104.

, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr.302, 71.
103

, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr.81, 85.
104
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 75

Hội nghị cũng cho rằng để thích hợp với các điều kiện đấu tranh
giải phóng dân tộc, đối với các nơi giai cấp vô sản hãy còn ít như ở
Lào, “cần phải thành lập các đảng cách mạng dân tộc cho dân bản
xứ (...) như vậy không có nghĩa là chúng ta phải thủ tiêu các tổ chức
Đảng Cộng sản ở những xứ này. Để lãnh đạo tốt các đảng dân tộc
chủ nghĩa ấy và phong trào giải phóng dân tộc ở những xứ này,
chúng ta phải tổ chức và tăng cường các chi bộ cộng sản”2.
Từ tháng 10 năm 1936, Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương chuyển về đóng cơ quan tại Nam Kỳ (Việt Nam) để trực
tiếp chỉ đạo phong trào đấu tranh trong xứ và đã có nhiều chỉ đạo
đối với phong trào cách mạng của nhân dân Lào.
Trong các ngày 13, 14 tháng 3 năm 1937, Ban Trung ương họp
Hội nghị mở rộng tại Nam Kỳ. Hội nghị đã bàn những biện pháp
lập Mặt trận thống nhất nhân dân Đông Dương, phương pháp đấu
tranh, tuyên truyền, cổ động... trong tình hình mới.
Tiếp đó, từ ngày 25 tháng 8 đến ngày 4 tháng 9 năm 1937, Ban
Trung ương tiến hành Hội nghị mở rộng tại Nam Kỳ. Đối với
phong trào cách mạng Lào, Hội nghị nhận định: “Các đảng bộ ở
Lào vẫn còn chưa khôi phục đảng bộ”105. Do đó, cùng với việc đặt
công tác xây dựng đảng là công tác quan trọng hàng đầu trong
những nhiệm vụ cần kíp của Đảng, Hội nghị đề ra nhiệm vụ “mở
rộng và củng cố các đảng bộ đã có, kế tiếp khôi phục cơ sở cũ của
Đảng ở Ai Lao”2.
Sau một thời gian chỉ đạo toàn Đảng đẩy mạnh lãnh đạo phong
trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, xây dựng và phát triển hệ
thống tổ chức, các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, Ban Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức Hội nghị toàn thể vào

105
, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr.273,
288, 348.
76 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

các ngày 29, 30 tháng 3 năm 1938, tại Tân Thới Nhất, gần Bà
Điểm, Hóc Môn, Gia Định.
Kiểm điểm “công tác nội bộ” của Đảng, Hội nghị nhận định: số
lượng đảng viên tăng 60%; ảnh hưởng của Đảng lan rộng trong quần
chúng, Đảng chỉ đạo được công tác công khai, Ban Trung ương và
các Xứ uỷ đã chỉ đạo được các đồng chí công khai tương đương...
Tuy nhiên, cơ sở đảng chưa khôi phục được ở Lào, còn yếu ở Cao
Miên, ở thành thị, tỉnh lỵ yếu hơn ở nông thôn; một bộ phận đảng
viên nhiễm thói cô độc... Nghị quyết Hội nghị viết: “Điều khuyết
điểm lớn là Đảng chưa có cơ sở ở Lào, ở Cao Miên thì rất yếu và thế
lực ở tỉnh thành và tỉnh lỵ yếu hơn ở thôn quê”3.
Hội nghị đã quyết định những vấn đề xây dựng đảng về mặt tổ
chức, như củng cố những cơ sở đã có, lập cơ sở mới, chú trọng phát
triển ở các thành phố, đồn điền, vùng công nghiệp tập trung; tăng
cường công tác giao thông liên lạc giữa các cơ quan lãnh đạo các
cấp, các xứ uỷ phải tổ chức các cơ quan giao thông chuyên môn...
Trước tình hình tổ chức đảng ở Trung Kỳ đã phát triển và liên
lạc được với nhau, Hội nghị quyết định tổ chức lại Xứ uỷ Trung Kỳ
và “giao cho Xứ ủy Trung Kỳ tìm mối liên lạc với Ai Lao”106. Tuy
nhiên, do Xứ uỷ Trung Kỳ mới lập lại, cơ sở đảng ở Lào bị đánh
phá và gặp những khó khăn nên chủ trương khôi phục tổ chức đảng
ở Lào không thực hiện được107.
Trong khi sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương với
cách mạng Lào gặp khó khăn, các đảng viên người Việt hoạt động
trên địa bàn Lào, Xiêm đã chủ động công tác, lập lại các chi bộ

106
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 358-359.
107
. Sau Hội nghị, vào ngày 5 tháng 4 năm 1938, Ban Chấp hành Trung ương
gửi báo cáo tới Quốc tế Cộng sản, trong đó nêu rõ: “Chúng tôi chưa tìm được mối
với Ai Lao”, trong Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6,
tr.370.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 77

đảng để lãnh đạo phong trào nhân dân Lào nhằm các mục tiêu dân
sinh, dân chủ. Một năm sau khi Cơ quan Đông Dương viện trợ bộ
của Đảng Cộng sản Xiêm giải thể theo quyết định của Đại hội lần
thứ I Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3 năm 1935), vào đầu
năm 1937, Ban Trung - Lào viện trợ108 thuộc Đảng Cộng sản
Xiêm được thành lập để giúp đỡ công tác gây dựng cơ sở đảng ở
Trung Kỳ và Lào.
Dưới sự giúp đỡ của Ban Trung - Lào viện trợ, một số chi bộ
đảng được thành lập ở Lào và nhận chủ trương mới của Đảng về
chuyển hướng đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Tuy nhiên,
các chi bộ đảng ở Lào không bắt được liên lạc trực tiếp với Ban Chỉ
huy ở ngoài và Ban Trung ương Đảng nên gặp nhiều khó khăn
trong hoạt động, nhất là từ tháng 6 năm 1938, khi người phụ trách
Ban Trung - Lào viện trợ là Nguyễn Chính Giao, ủy viên người
Việt duy nhất trong Ban Trung ương Đảng Cộng sản Xiêm - Bí thư
Xứ uỷ Đông Bắc Xiêm bị bắt.
Trong thời gian này, mặc dù gặp nhiều khó khăn, sự lãnh đạo
của Ban Chỉ huy ở ngoài, sau đó là của Ban Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương, đối với Lào không được liên tục và sâu sát,
tổ chức đảng bị tổn thất, song những đảng viên cốt cán trung kiên
đã tổ chức quần chúng công nhân, giới buôn bán, học sinh người
Việt và người Lào ở Viêng Chăn, Thà Khẹc, Xiêng Khoảng... đứng
lên đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ. Ngày 25 tháng 10
năm 1936, 60 công nhân người Việt và người Lào ở mỏ thiếc Phôn
Tịu đình công đòi bỏ việc một giờ để phản đối chủ mỏ không trả
lương. Ngày 22 tháng 2 năm 1937, thợ may ở Viêng Chăn đấu

108
. Chánh mật thám Đông Dương (ngày 2 tháng 2 năm 1939), Công văn mật, số
559-SG, gửi các chánh sở mật thám Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Phnôm Pênh, Viêng
Chăn, các chánh mật thám Thà Khẹc, Vinh, về Nguyễn Chính Cầu tức Phây về
Đông Dương, Hà Nội. Bản dịch lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
78 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

tranh đòi tăng giá công may lên 10% và đòi được lập nghiệp đoàn
thợ may. Tháng 3 năm 1937, công nhân nhà máy điện Viêng Chăn
đấu tranh đòi tăng lương, đòi tiền thuốc chữa bệnh cho công nhân.
Ngày 2 tháng 2 năm 1939, công nhân làm đường 13 ở bắc Thà
Khẹc thuộc hãng Compagnie Coloniale đấu tranh đòi chủ hãng thi
hành điều ước khoán việc theo hợp đồng và thanh toán tiền để công
nhân nghỉ Tết.
Trước tình hình phong trào Lào không còn đầu mối lãnh đạo,
sau khi bắt được liên lạc với Xứ uỷ Bắc Kỳ vào cuối năm 1938,
một bộ phận đảng viên người Việt hoạt động trong Đảng Cộng sản
Xiêm chủ trương chuyển sang hoạt động trong Đảng Cộng sản
Đông Dương, chia nhau đi bắt mối, lập các chi bộ đảng ở Lào và
xúc tiến lập lại Xứ uỷ Ai Lao.
Thực hiện chủ trương đó, trong hai ngày 7 và 8 tháng 2 năm 1939,
một số đồng chí đảng viên của Đảng Cộng sản Xiêm cùng một số
đảng viên của Thà Khẹc và khu mỏ tổ chức hội nghị tại trại cưa Xála
Hỉn Khăn (Thà Khẹc), đề ra các biện pháp phát triển cơ sở ở khu mỏ,
thị xã Thà Khẹc, khu vực công nhân làm đường ở Pạc Xan; đồng thời
xúc tiến công tác trong hai tỉnh Viêng Chăn và Xavẳnnakhệt. Hội nghị
đã bầu Xứ uỷ lâm thời Ai Lao gồm ba đồng chí109.
Tuy nhiên, Xứ uỷ vừa thành lập được một ngày thì tất cả các xứ
uỷ viên bị địch bắt. Tiếp đó, ngày 20 tháng 3 năm 1939, chính
quyền thực dân tiến hành một cuộc khủng bố, bắt các đảng viên
cộng sản Đông Dương tại các địa phương Thà Khẹc, Xavẳnnakhệt,

109
. Xem Nguyễn Chính Giao: Nhớ lại quãng đời 50 năm hoạt động cách mạng
(1929 - 1979). Sau một thời gian bị nhà đương cục Xiêm giam giữ, đồng chí Nguyễn
Chính Giao đã khôn khéo trốn thoát và trở về Việt Nam, bắt liên lạc với các đồng
chí trong Xứ ủy Bắc Kỳ. Cuối năm 1938 đầu năm 1939, đồng chí quay về Lào hoạt
động. Theo tài liệu Biên niên những sự kiện chính trị về Lào thì Hội nghị thành lập
Xứ ủy diễn ra vào ngày 2 tháng 3 năm 1939.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 79

Pạc Xê và khu mỏ Bò Nèng, Phôn Tịu.


Tuy các chi bộ đảng bị đánh phá, phong trào cách mạng Lào
gặp rất nhiều khó khăn và tạm lắng xuống, song ở một vài nơi vẫn
nổ ra một số cuộc đấu tranh, như: cuộc biểu tình của 40 công nhân
người Lào và người Việt ở Thà Khẹc (ngày 1 tháng 5 năm 1939)110;
cuộc đấu tranh bãi thị của những người bán củi ở Viêng Chăn phản
đối việc tăng thuế của cảnh sát (ngày 25 tháng 9 năm 1939). Công
nhân ở Lào còn gửi tiền ủng hộ báo Đời nay của những người
cộng sản ở Bắc Kỳ Việt Nam3. Theo văn bản “Tình hình Đông
Dương từ 1938 đến 1939”, thì ở Lào có hai cuộc đấu tranh của
quần chúng111.
Trong khi phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam lên cao
với các mục tiêu dân sinh, dân chủ thì do những điều kiện khách
quan, nhất là sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương gặp
nhiều khó khăn, nhiều lúc bị gián đoạn, phong trào ở Lào bị giảm
sút. Nếu trong giai đoạn 1930 - 1935, các cuộc đấu tranh ở Lào sôi
động và gây ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh của nhân dân Việt
Nam thì trong giai đoạn 1936 - 1939, phong trào đấu tranh sôi động
ở Việt Nam đã ảnh hưởng đến Lào, thúc đẩy các đảng viên ở Lào
khôi phục tổ chức và lãnh đạo một số cuộc đấu tranh của nhân dân
Lào đòi các quyền lợi hằng ngày. Phong trào đấu tranh tuy không
mạnh, song đã giữ vững được ảnh hưởng của Đảng trong nhân dân
Lào. Trong bài “Mười lăm năm vận động cộng sản và chín năm
thành lập Đảng Cộng sản ở Đông Dương”, báo Dân chúng, số 41, 42
ngày 3 và 7 tháng 1 năm 1939 viết: “Sau lúc phong trào cách mạng
sụt xuống (...) Đảng Cộng sản luôn luôn tồn tại trong quần chúng,
một phần cơ sở ở các vùng trung tâm tuy bị tạm thời mất liên lạc và
yếu đuối, song ảnh hưởng và tổ chức của Đảng lại lan rộng tới các

110
, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr.494, 499.
111
, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr.594, 722.
80 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

vùng thượng du Bắc Kỳ, tới Ai Lao, Cao Miên”2.

II. Nh©n d©n ViÖt Nam - Lµo gióp nhau tiÕn hµnh
cuéc vËn ®éng khëi nghÜa vò trang
giµnh chÝnh quyÒn th¾ng lîi (1939 - 1945)

1. Phối hợp chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền (từ năm
1939 đến tháng 3 năm 1945)
Ngày 1 tháng 9 năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng
nổ. ở Đông Dương, chính quyền thuộc địa thi hành chính sách phát
xít hoá bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh
cách mạng của nhân dân trong xứ; ban bố lệnh tổng động viên, thực
hiện chính sách kinh tế thời chiến nhằm tăng cường vơ vét sức
người sức của ở Đông Dương phục vụ cho chiến tranh đế quốc.
Trước sự tồn vong của vận mệnh các dân tộc trong xứ, Đảng
Cộng sản Đông Dương đã đề ra và thực hiện quyết sách: đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng trước tiên.
Ngày 29 tháng 9 năm 1939, Trung ương Đảng gửi thông báo
cho các cấp bộ đảng nói rõ hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến lên giải
phóng dân tộc.
Hai tháng sau ngày Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Hội
nghị Trung ương Đảng đã diễn ra từ ngày 6 đến 8 tháng 11 năm
1939, tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) để quyết định chủ trương
mới đáp ứng những yêu cầu của cách mạng. Đồng chí Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Cừ chủ trì Hội nghị.
Hội nghị đưa ra nhận định cực kỳ quan trọng: “Bước đường
sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào
khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách
ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng
độc lập (...) Sự bóc lột tàn ác của đế quốc Pháp ở Đông Dương để
cung cấp cho chiến tranh sẽ làm cho dân Đông Dương ngày càng
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 81

cách mệnh hoá. Cuộc cách mệnh đánh đổ đế quốc Pháp của các dân
tộc Đông Dương nhất định sẽ nổ bùng”112.
Từ nhận định đó, Hội nghị quyết định “đặt quyền lợi dân tộc
lên trên các quyền lợi khác”2, kể cả vấn đề ruộng đất cũng phải
nhằm vào mục đích ấy mà giải quyết. Hội nghị chủ trương: phải
thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương để
“tranh đấu chống đế quốc chiến tranh, chống xâm lược phát xít,
đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn tay sai của đế
quốc đòi hoà bình cơm áo, thực hiện nền độc lập hoàn toàn cho các
dân tộc Đông Dương với quyền dân tộc tự quyết”113.
Lực lượng của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đoàn kết
trong Mặt trận bao gồm tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần
tử phản đế muốn giải phóng dân tộc, thực hiện Đông Dương hoàn
toàn độc lập với quyền dân tộc tự quyết, trong đó công nông là lực
lượng chính, đặt dưới quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Về vấn đề dân tộc, Nghị quyết Hội nghị viết: “Xứ Đông Dương
gồm có nhiều dân tộc (...) trong đó có ba dân tộc Việt Nam, Lào,
Miên ở riêng ba xứ khác nhau và đã từng có một lịch sử, một văn
hoá riêng (...). Tuy bị đế quốc tìm cách chia rẽ cho dễ cai trị, tuy có
nhiều điều kiện lịch sử và văn hoá khác nhau, các dân tộc Việt Nam,
Miên, Lào và các dân tộc thiểu số khác cùng sinh hoạt trên dải đất
chữ S, đều có liên quan về kinh tế và chính trị, tất cả đều bị đế quốc
áp bức, tất cả đều bị bóc lột bởi những độc quyền tư bản tài chánh,
tất cả đều nằm dưới một bộ máy đàn áp thống nhất về chính trị, và
quân sự của đế quốc Pháp. Phong trào giải phóng các dân tộc vì vậy
có mật thiết quan hệ với nhau và phải dựa lẫn nhau”2.

112
, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr.536-537,
544.
113
, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr.537,
529-530, 531.
82 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Nghị quyết viết: “Phong trào dân tộc ở Đông Dương từ khi bị
đế quốc Pháp cai trị đã trải qua nhiều đoạn tranh đấu vẻ vang. Khi
ôn hoà, khi đổ máu, tất cả các dân tộc Đông Dương, từ Việt Nam,
Miên, Lào đến các dân tộc thiểu số Thổ, Thượng, v.v., đã nhiều lần
nổi dậy chống chính sách cướp bóc tàn ác và ách thống trị nặng nề
của đế quốc”3.
Từ những nhận thức mang tính đột biến về vấn đề dân tộc chân
chính, Hội nghị đi đến chủ trương: Đông Dương hoàn toàn độc lập
(thi hành quyền dân tộc tự quyết). Không một dân tộc nào có thể
giải phóng riêng rẽ vì Đông Dương ở dưới quyền thống trị duy nhất
của đế quốc Pháp về mặt chính trị, kinh tế và quân sự. Nhưng sự
liên hiệp các dân tộc Đông Dương không nhất thiết bắt buộc các
dân tộc phải thành lập một quốc gia duy nhất vì các dân tộc Việt
Nam, Miên, Lào xưa nay vẫn có sự độc lập. Mỗi dân tộc có quyền
giải quyết vận mệnh theo ý muốn của mình, song sự tự quyết cũng
không nhất định là rời hẳn nhau ra.
Hội nghị chỉ rõ trong lúc cần phải làm thức dậy và đề cao tinh
thần dân tộc chính đáng, trong lúc nhiệm vụ trung tâm là thống
nhất tất cả các lực lượng dân tộc để đấu tranh giành độc lập, người
cộng sản có thể và cần tổ chức ra “Liên đoàn giải phóng dân tộc
Việt Nam phản đế hội”, “Việt Nam thống nhất dân tộc hội” để làm
nền tảng cho việc thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế
Đông Dương. “Mở rộng và nâng cao tinh thần dân tộc, làm cho mỗi
người trong các giai cấp có ý thức về sự tồn vong của dân tộc và sự
liên quan mật thiết của vận mạng dân tộc với lợi ích cá nhân mình;
đặt quyền lợi dân tộc lên trên các quyền lợi khác, thống nhất lực
lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”1.
Hội nghị nhất trí rằng trong tình hình mới, nhiệm vụ của Đảng

1
, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr.544,
566, 561.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 83

rất nặng nề, Đảng phải “giác ngộ rõ cái sứ mệnh lớn lao ấy và đủ can
đảm, đủ nghị lực, đủ sáng suốt để gánh vác nó”2. Trên tinh thần đó,
Hội nghị đặc biệt coi trọng công tác xây dựng đảng về mọi mặt.
Đối với Miên, Lào, Hội nghị đề ra nhiệm vụ: “Phải chú ý gây
dựng cơ sở Miên, Lào và tổ chức những Đảng bộ tự trị của các dân
tộc thiểu số”3.
Hội nghị khẳng định vận mạng và sự giải phóng của các dân
tộc Đông Dương có liên quan mật thiết với nhau thì “ta phải đặc
biệt chú ý sự vận động các dân tộc Miên, Lào và các dân tộc thiểu
số; phải nghiên cứu những phương pháp cụ thể để thực hành
nhiệm vụ ấy (...) phải tìm đủ mọi cách tìm mối liên lạc và gây cơ
sở ở Miên, Lào và các dân tộc thiểu số như Thổ, Thượng, v.v.. Dù
cho sự rút bớt cán bộ để phụ trách công tác này mà đình trệ công
tác ít nhiều ở địa phương thì cũng phải làm. Phải tổ chức cho được
những phần tử hăng hái của các dân tộc thiểu số vào Đảng và các
Đảng bộ Miên, Lào cũng như Thổ, Thượng, v.v., vẫn nằm trong
hệ thống duy nhất toàn Đảng, dưới một trung tâm chỉ huy duy
nhất, vẫn theo đúng tinh thần chủ nghĩa quốc tế, nhưng được tổ
chức thành những Đảng bộ tự trị để chỉ huy cho sát với những
điều kiện đặc biệt của các dân tộc họ và lôi kéo được quảng đại
quần chúng trong các dân tộc ấy tranh đấu đánh đổ đế quốc Pháp,
giải phóng dân tộc”114.
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11 năm 1939 có một ý nghĩa
rất quan trọng, đánh dấu một bước phát triển mới về năng lực tư
duy, sáng tạo và sự nhạy bén chính trị của Đảng Cộng sản Đông
Dương. Với sự khẳng định tính chất và nhiệm vụ cách mạng lúc
này là giải phóng dân tộc và với chủ trương thành lập Mặt trận
thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương để tập hợp, đoàn kết mọi
lực lượng, mọi xu hướng chính trị có thể tập hợp được, Hội nghị

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr.561-562.
114
84 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

tháng 11 năm 1939 của Trung ương Đảng đã mở ra một thời kỳ đấu
tranh mới: thời kỳ trực tiếp chuẩn bị lực lượng để khởi nghĩa giành
chính quyền trên toàn Đông Dương khi có thời cơ.
Tháng 12 năm 1939, Ban Trung ương ban hành tài liệu “Chủ
trương của người cộng sản đối với vụ bắt lính”, có đoạn viết: “Phải
tuyên truyền người Đông Dương đừng bắn giết người Đông
Dương, đừng để cho đế quốc lợi dụng kích thích những thù oán dân
tộc giữa người Nam, người Miên, người Lào, Thổ, Mọi, v.v., mà
đem lính dân tộc này bắn giết dân tộc khác”115.
Tháng 11 năm 1940, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
họp hội nghị để bàn về các nhiệm vụ cách mạng trong hoàn cảnh
phát xít Nhật đã vào Đông Dương, cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu
tiên đã nổ ra ở Bắc Sơn (Lạng Sơn, Việt Nam). Hội nghị chỉ rõ kẻ
thù của các dân tộc Đông Dương lúc này là phát xít Nhật và thực
dân Pháp. Nhiệm vụ của Đảng là phải chuẩn bị lãnh đạo nhân dân
ba nước Đông Dương nổi dậy đánh Pháp, đuổi Nhật, giành chính
quyền về tay nhân dân.
Tháng 5 năm 1941, Hội nghị lần thứ tám Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương, do đồng chí Nguyễn ái Quốc chủ trì, diễn
ra tại xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng (Việt Nam).
Từ những phân tích về tình hình, sự thay đổi thái độ của các giai
cấp, tầng lớp và nguyện vọng của toàn thể nhân dân, Hội nghị
quyết định “Cần phải thay đổi chiến lược”116 phải xem nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một “nhiệm vụ trước
tiên của Đảng ta và của cách mạng Đông Dương”3. Hội nghị khẳng
định: “cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc

115
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.6, tr.578.
116
, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2000, t.7,
tr.118, 118-119.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 85

cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai
vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải
giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”, vậy thì cuộc
cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách
mạng dân tộc giải phóng”4.
Đối với vấn đề dân tộc, Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề
dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao đánh thức được
tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân. Do đó, Hội nghị quyết
định thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng
rãi với những tên dễ hiểu, có ý nghĩa cho từng dân tộc. ở Việt
Nam, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn ái Quốc, Hội nghị quyết
định lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt
Minh). Việt Nam độc lập đồng minh lấy lá cờ đỏ ở giữa có ngôi
sao vàng năm cánh làm biểu tượng. Các đoàn thể quần chúng yêu
nước chống đế quốc đều thống nhất lấy tên là “hội cứu quốc” như
Công nhân cứu quốc hội, Nông dân cứu quốc hội, Thanh niên cứu
quốc hội, Phụ nữ cứu quốc hội, Phụ lão cứu quốc hội, Quân nhân
cứu quốc hội, Nhi đồng cứu vong đoàn... Đối với Lào và Cao
Miên, Hội nghị chủ trương sẽ giúp đỡ nhân dân hai nước thành
lập Cao Miên độc lập đồng minh và Ai Lao độc lập đồng minh.
Trên cơ sở sự ra đời của mặt trận ở mỗi nước, sẽ tiến tới thành lập
mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.
Hội nghị cho rằng các dân tộc Đông Dương đều chịu chung
một ách thống trị của phát xít Pháp - Nhật cho nên phải đoàn kết lại
đánh đuổi kẻ thù chung. Song nói đến vấn đề dân tộc, nói đến đoàn
kết các dân tộc lúc này là nói đến sự tự do, độc lập của mỗi dân tộc
tuỳ theo ý muốn của mỗi dân tộc. Do vậy, Đảng phải hết sức tôn
trọng và thi hành đúng quyền “dân tộc tự quyết” đối với các nước ở
Đông Dương. Sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật thì các dân tộc sẽ tuỳ
86 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

theo ý muốn mà tổ chức thành liên bang cộng hoà dân chủ hay
đứng riêng thành một quốc gia dân tộc. “Sự tự do độc lập của các
dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”117. Riêng đối với Việt
Nam, sau khi đánh đuổi được Pháp - Nhật sẽ lập nước Việt Nam
dân chủ mới. Chính quyền cách mạng của nước Việt Nam dân chủ
mới là một chính quyền cộng hoà “là của chung cả toàn thể dân
tộc”118.
Hội nghị quyết định xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang, coi đó là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân trong
giai đoạn hiện tại.
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5 năm 1941 có ý nghĩa to lớn
trong tiến trình hoạch định đường lối và quá trình thực hiện cuộc
vận động khởi nghĩa vũ trang của cả Việt Nam và Lào. Chủ trương
khởi nghĩa từng phần giành chính quyền địa phương tiến lên tổng
khởi nghĩa là sự phát triển sáng tạo về phương thức khởi nghĩa vũ
trang cách mạng trong điều kiện cụ thể của cách mạng ở nước
thuộc địa. Những quyết sách rất đúng đắn, sáng tạo đó là nguồn
sáng dẫn đường cho nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào phát huy
mạnh mẽ tinh thần độc lập, tự chủ, chủ động khơi dậy và nhân lên
sức mạnh tự thân của mỗi dân tộc, đồng thời tăng cường mối liên
hệ mật thiết giữa nhân dân hai nước cùng tiến lên trong sự nghiệp
đánh Pháp, đuổi Nhật, giành thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng
tháng Tám 1945 ở Việt Nam và cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
ở Lào.
Sau Hội nghị lần thứ tám Trung ương Đảng, ở Việt Nam phong
trào Việt Minh lan rộng từ miền núi phía Bắc về đồng bằng, đô thị,
từ miền Bắc vào miền Nam.

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.7, tr.113.
117

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 114
118
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 87

ở Lào, sau khi Mặt trận Bình dân Pháp bị thất bại (năm 1940),
chính quyền thuộc địa tiến hành đợt khủng bố ác liệt.
Đầu năm 1941, thực dân Pháp thành lập Sở Tuyên truyền Lào
do Giám đốc Nha học chính ở Lào cầm đầu, ráo riết tuyên truyền
cho chủ nghĩa Đại Lào nhằm kích động đầu óc dân tộc hẹp hòi, gây
kỳ thị giữa Lào với các dân tộc láng giềng.
Tháng 3 năm 1941, Toàn quyền Đờcu đề ra “chương trình cải
cách” ở Lào để “Lào được tự do, dân chủ” về chính trị. Trong đó có
một số điểm đáng chú ý như: tăng thêm ngân sách cho địa phương,
tăng thêm người Lào vào bộ máy cai trị, tăng phụ cấp cho công chức
Lào, đặt chức “châu khoảnh” (tỉnh trưởng) cho người Lào đảm
nhiệm. Gần bốn tháng sau ngày ký hiệp ước cắt một phần đất của
tỉnh Xaynhabuli, Chămpaxắc (Lào)119 cho Thái Lan (ngày 9 tháng 5
năm 1941), để xoa dịu sự phản ứng trong tầng lớp phong kiến Lào,
ngày 29 tháng 8 năm 1941, thực dân Pháp đã ký một hiệp ước bảo
hộ với Lào. Theo đó, thực dân Pháp đã thực hiện một số biện pháp
mà suốt nửa thế kỷ thống trị Lào cũng không hề đề cập như: thành
lập một nội các Lào gồm bốn bộ (Nội vụ, Công chính và Y tế, Tài
chính, Lễ nghi), do Hoàng thân Phếtxarạt đứng đầu; mở rộng quyền
hành chính cho triều đình Luổng Phạbang và năm tỉnh ở Bắc Lào:
Viêng Chăn, Xiêng Khoảng, Phôngxalỳ, Sầm Nưa, Hủa Khoổng; đặt
quốc ca Lào; mở rộng ngành quan lại người bản xứ... Trong quân
đội, người Lào được đề bạt lên đến chức “chánh quản” (tương đương
chuẩn uý). Những tháng đầu năm 1941, Pháp cho xuất bản tờ báo

119
. Đầu năm 1940, Thái Lan lên tiếng đòi Pháp phải trả lại các tỉnh nằm trên lãnh
thổ Lào, Campuchia thuộc Pháp theo hiệp định được ký kết giữa Xiêm và Pháp từ năm
1903. Ngày 8 tháng 11 năm 1940, Thái Lan dùng cả lục quân và không quân vượt biên
giới tấn công quân Pháp. Chiến sự diễn ra không đầy một tháng, quân đội Thái Lan đã
chiếm đóng các vùng đòi Pháp trao trả. Ngày 27 tháng 11 năm 1941, hai tỉnh
Xaynhabuli và Chămpaxắc được chính thức sáp nhập vào lãnh thổ Thái Lan.
88 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Lào Nhay (Đại Lào)120 để tuyên truyền cho chủ nghĩa thực dân, gieo
ảo tưởng trong nhân dân Lào về tình “hữu nghị” Lào - Pháp.
Do chính sách khủng bố của chính quyền thuộc địa ở Lào,
nhiều đảng viên người Việt bị bắt, bị trục xuất về Việt Nam, một số
lánh sang Thái Lan121; các tổ chức cách mạng phải rút vào bí mật.
Trong hoàn cảnh phong trào cách mạng ở Lào gặp khó khăn,
một số sĩ quan, cảnh sát, trí thức và công chức Lào có tinh thần dân
tộc chạy sang Thái Lan để tìm đường liên lạc với đồng minh chống
Nhật, Pháp. Họ liên lạc với tổ chức Việt kiều ở Thái Lan và được
Đảng Thái tự do (Thái Sêri)122 giúp đỡ đấu tranh chống Nhật.
Từ năm 1942, một số đảng viên thoát khỏi nhà tù hoặc tạm lánh
trở về hoạt động tại các địa phương của Lào. Tháng 1 năm 1943,
Ban Vận động Việt kiều Lào - Thái được thành lập tại Bạn Mầy,
tỉnh Nakhon Phạnôm (Đông Bắc Thái Lan). Tiếp đó các tổ chức
hội Việt kiều được thành lập rộng rãi ở các địa phương có Việt kiều
cư trú trên đất Thái - Lào. Ban Vận động bắt đầu xúc tiến gây dựng
cơ sở trên địa bàn Lào, thu hút các đảng viên cũ còn lại và những
Việt kiều tích cực, nhằm mục đích tương trợ nhau trong cuộc sống.
Một số cơ sở đảng được gây dựng lại ở Thà Khẹc, Xavẳnnakhệt,
Viêng Chăn.
120
. Trong suốt quá trình xâm lược và thống trị Lào, do thực hiện “chính sách
ngu dân”, thực dân Pháp hầu như không xuất bản các ấn phẩm, báo chí phục vụ
người Lào. Không tính các tờ báo cách mạng, tờ Lào Nhay là tờ báo đầu tiên của
chính quyền thuộc địa ở Lào, sau đó có thêm tờ Lào Nọi.
121
. Ngày 11 tháng 11 năm 1940, trung đội lính khố xanh người Việt Nam đóng
ở Viêng Chăn do ông Vũ Hữu Bỉnh (quản Bỉnh) chỉ huy đã bí mật rút sang Thái
Lan, có ý định liên lạc với tổ chức cách mạng của Việt kiều ở Thái Lan và dựa vào
Thái Lan để chống Pháp.
122
. “Thái Sêri” hay “Sêrithai”là tổ chức chính trị ở Đông Bắc Thái chủ trương
chống Nhật; được Mỹ, Anh giúp đỡ. Tổ chức “Thái Sêri” đã giúp đỡ một số thanh
niên trí thức Lào chạy sang Thái từ năm 1941 để liên lạc với Đồng minh nhờ giúp
đỡ chống lại Nhật. Tổ chức này về sau còn giúp đỡ thành lập tổ chức “Lào Sêri”.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 89

Ngày 28 tháng 2 năm 1943, Hội nghị Ban Thường vụ Trung


ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 25 đến 28 tháng 2
năm 1943 ra nghị quyết một lần nữa nhấn mạnh việc tổ chức Ai Lao
độc lập đồng minh và Cao Miên độc lập đồng minh. Nghị quyết
giao nhiệm vụ cho Xứ uỷ Trung Kỳ và Xứ uỷ Nam Kỳ phải đặc
biệt giúp đỡ nhân dân Lào và Cao Miên phát triển những tổ chức
nói trên. Tuy nhiên, do hoàn cảnh địch khủng bố, các tổ chức Đảng
ở Trung Kỳ và Nam Kỳ đang trong quá trình khôi phục, nên chủ
trương trên của Trung ương không thực hiện được.
Cuối năm 1943 đầu 1944, một số đảng viên người Việt trước
đây bị quân phiệt Thái Lan cầm tù được trả tự do đã chắp nối liên
lạc với các cơ sở đảng và quần chúng yêu nước ở Lào, hợp sức gây
dựng lại phong trào. Năm 1944, sau khi nhận được chủ trương của
Hội nghị lần thứ tám Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương do
một số đảng viên ở Quảng Bình sang Lào lánh địch truyền đạt, Ban
Vận động Việt kiều tại Lào - Thái tiến hành chuyển hướng hoạt
động và đấu tranh theo chủ trương và phương thức hoạt động mới.
Ban Vận động Việt kiều chuyển thành Hội Việt kiều cứu quốc.
Tranh thủ sự chuyển hướng về chính trị của Chính phủ Thái
Lan, tổ chức Việt kiều ở Thái Lan đẩy mạnh hoạt động, thành lập
các hội cứu quốc của Việt kiều, khôi phục lại các tổ chức đảng. Các
đảng viên người Việt trước đây tham gia Đảng Cộng sản Xiêm nay
được đưa về Lào hoạt động.
Để thống nhất việc chỉ đạo phong trào cách mạng và khôi phục
tổ chức cơ sở đảng, xúc tiến việc củng cố và phát triển lực lượng
cách mạng, những đồng chí trung kiên trong Hội Việt kiều cứu
quốc đã thành lập Đội Tiên phong123 để chỉ đạo phong trào cách
mạng ở Lào. Đội hoạt động bí mật, do đồng chí Nguyễn Chấn làm

123
. Một số tài liệu viết là Đội Tiền vệ (Conlảvăngnạ).
90 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

bí thư. Trên thực tế, Đội Tiên phong đã làm nhiệm vụ và đóng vai
trò của Xứ uỷ lâm thời Ai Lao.
Dưới sự lãnh đạo của Đội Tiên phong, các chi bộ đảng ở
Uđon, Nakhon, Mụcđahán (trên đất Thái Lan) đã cử cán bộ về Lào
hoạt động. Các chi bộ đảng ở Viêng Chăn, Bò Nèng, Thà Khẹc,
Xavẳnnakhệt lần lượt được củng cố. Phong trào yêu nước trong học
sinh, viên chức Lào được nhen nhóm, phong trào yêu nước của
Việt kiều ở hai bên bờ sông Mê Công phát triển mạnh.
Tháng 2 năm 1945, tại một địa điểm trên hữu ngạn sông Mê
Công đối diện với Viêng Chăn, Đội Tiên phong tổ chức hội nghị
mở rộng với sự tham gia của đại diện một số tổ chức quần
chúng. Hội nghị nhất trí đề ra một số chủ trương quan trọng:
“Đẩy mạnh việc vận động quần chúng, phát triển hội viên cứu
quốc vào các tầng lớp nhân dân, nông dân, thanh niên, học sinh,
sinh viên, công chức, binh lính, cảnh sát có tinh thần yêu nước
và tiến bộ, cùng nhau đoàn kết đánh Pháp, đuổi Nhật. Liên hệ
với tổ chức “Sêrithai” (Thái tự do) để tranh thủ sự ủng hộ, giúp
đỡ của họ trong việc xây dựng căn cứ bí mật trên đất Thái Lan,
tranh thủ số người Lào di tản sang Thái Lan tham gia vào hàng
ngũ cứu quốc”124.
Cũng trong tháng 2 năm 1945, vào dịp Tết Nguyên đán ất Dậu,
theo chủ trương của Đội Tiên phong, Đại hội đại biểu Việt kiều
cứu quốc ở cả Thái Lan và Lào được tổ chức. Đại hội quyết định
thành lập Tổng hội Việt kiều cứu quốc toàn Thái - Lào - một chi
nhánh của Mặt trận Việt Minh, nhằm hưởng ứng và tham gia công
cuộc giành độc lập của xứ sở. Đại hội nhận định: “Bọn phát xít Đức
- ý - Nhật đã đến giờ cáo chung; đế quốc Pháp ở Đông Dương đổ

124
. Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân
cách mạng Lào: Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào (Tóm lược), Sđd, tr.38.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 91

nát; Mặt trận Dân chủ thế giới đã đến ngày thắng lợi. Các nước bị
xâm lăng ở châu Âu đã lần lượt cướp chính quyền tự chủ, kiều dân
của những dân tộc bị xâm lăng đã lập thành những đội quân giải
phóng hăng hái từ nước ngoài kéo về để cùng với đồng bào họ
giành lại quyền tự do, độc lập. Thời cơ có lợi cho cuộc vận động
độc lập nước nhà không bao giờ tốt đẹp bằng ngày nay...”125. Với
mục tiêu đó, Đại hội chủ trương xuất bản báo Độc lập, lập chiến
khu, tổ chức quân giải phóng, liên lạc với Hội Lào Tự do để phối
hợp đấu tranh chống phát xít, giành độc lập cho mỗi nước.
Có thể thấy, từ năm 1939, quan hệ Việt Nam - Lào đã có những
chuyển biến mới. Tuy phong trào cách mạng hai nước đều nằm
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, song chủ
trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất đã
phát huy được tính chủ động của cách mạng mỗi nước trong chuẩn
bị khởi nghĩa giành chính quyền ở hai nước Việt Nam, Lào.

2. Phối hợp đấu tranh chống phát xít Nhật, tiến hành khởi
nghĩa giành chính quyền thắng lợi, thành lập chính phủ độc lập
ở mỗi nước (từ tháng 3 đến tháng 10 năm 1945)
Cuối năm 1944 đầu năm 1945, tình hình thế giới và Đông
Dương có nhiều biến đổi, đe doạ trực tiếp quyền lực và lợi ích của
phát xít Nhật ở Đông Dương. Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai tàn
khốc bước vào giai đoạn kết thúc với những thắng lợi liên tiếp của
quân đội Liên Xô và các nước Đồng minh cùng các lực lượng dân
chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội trên thế giới. Ngày 30 tháng 4 năm
1945, quân đội Liên Xô cắm cờ trên nóc tòa nhà Quốc hội Đức.

125
. Tuyên ngôn của Đại hội đại biểu Tổng hội Việt kiều toàn Thái - Lào, tháng
2 năm 1945. Dẫn theo Biên niên những sự kiện về Lào (1930 -1975), Ban Công tác
miền Tây trực thuộc Trung ương Đảng, t.1, tr.15.
92 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Hítle tự sát. Ngày 8 tháng 5 năm 1945, Đức ký văn bản đầu hàng
không điều kiện Liên Xô và các nước Đồng minh. Chiến tranh thế
giới thứ hai kết thúc ở châu Âu.
Trên chiến trường châu á - Thái Bình Dương, quân đội phát xít
Nhật bị bao vây, uy hiếp từ bốn phía. Cuộc kháng chiến của nhân
dân Trung Quốc chống phát xít Nhật bước vào giai đoạn phản công,
đẩy quân Nhật vào thế bị sa lầy, khốn đốn trong cuộc xâm lược đại
lục Trung Hoa rộng lớn. Trên mặt trận Thái Bình Dương, các căn cứ
của quân đội Nhật liên tiếp bị thất thủ trước những đòn tấn công của
quân đội Mỹ. Trước những thắng lợi của quân Đồng minh và những
thất bại của phát xít Nhật, chính quyền Đờcu “như rắn mất đầu”, một
mặt tiếp tục quỵ luỵ Nhật, mặt khác ráo riết hoạt động chuẩn bị đón
thời cơ khôi phục các quyền lợi đã mất.
Trước tình thế đó, để “tránh bị kẹp giữa hai lưới lửa”, quân
đội Nhật quyết định thực hiện đảo chính Pháp ở Đông Dương vào
ngày 9 tháng 3 năm 1945. Cuộc đảo chính của Nhật đã gây ra
những thay đổi lớn ở Đông Dương, tạo ra những thách thức mới
cũng như những điều kiện thuận lợi mới cho việc chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang của nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào.
Tại Lào, đêm mùng 8 rạng mùng 9 tháng 3 năm 1945, quân đội
Nhật từ Thái Lan bí mật kéo vào Lào tước khí giới quân đội Pháp.
Trừ trại lính khố xanh ở Thà Khẹc chống cự yếu ớt, còn hầu hết các
đơn vị, đồn binh của quân đội Pháp tại Lào nhanh chóng tan rã, một
số đầu hàng, một số chạy trốn vào rừng và chạy sang Vân Nam
(Trung Quốc). Trong tháng 3 năm 1945, quân phát xít Nhật bắt giữ
và giết 52 tên Pháp, hầu hết là những tên cầm đầu các ngành trong
bộ máy cái trị ở hai tỉnh Thà Khẹc và Viêng Chăn. Ngày 14 tháng 4
năm 1945, quân đội Nhật tiến vào Sầm Nưa.
Sau khi lật đổ Pháp, phát xít Nhật thực thi một chính sách cai trị
thâm độc và tàn bạo ở Đông Dương. Về mặt chính trị, Nhật vẫn giữ
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 93

nguyên bộ máy chính quyền tay sai của thực dân Pháp trong các xứ ,
đồng thời chồng lên trên bộ máy cai trị tay sai một cơ cấu quyền lực
gồm toàn các quan chức quân sự và chính khách người Nhật. Ngày
16 tháng 3 năm 1945, hãng tin Đômây (Domei) của Nhật công bố:
“Theo chính sách mới thì các chính phủ Nam Triều, Cao - Miên và
Luăng Pờrabăng (Luổng Phạbang126) vẫn giữ nguyên hình thức
chính phủ hiện thời. Còn Nam Kỳ tới nay vẫn là thuộc địa của Pháp
và Bắc Kỳ cùng với Ai Lao tới nay vẫn là nửa thuộc địa nửa bảo hộ,
thì tạm thời cử các quan thống đốc, thống sứ, khâm sai để quyền
nhiếp chính sự vụ cho tới khi lập được các chính phủ bản quốc”127.
Để tạo cơ sở xã hội, chính trị, Nhật còn cho lập mới hoặc hà
hơi tiếp sức cho hàng loạt tổ chức chính trị thân Nhật đã có từ
trước. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật và bọn tay sai
trong tổ chức Thanh niên Đại Việt đã tổ chức các cuộc mít tinh ở
Viêng Chăn, Thà Khẹc, Xalavăn hô hào về việc Nhật trao trả “nền
độc lập” cho Việt Nam và Lào.
Nhằm che đậy âm mưu xâm lược đối với Lào, sau khi lật Pháp,
ngày 15 tháng 3 năm 1945, phát xít Nhật “công nhận” Vương quốc
Lào và ngày 8 tháng 4 năm 1945, Vua Lào Xỉxávàngvông tuyên bố
Vương quốc Lào Luổng Phạbang là một quốc gia “độc lập” (!)
trong khối Đại Đông á128.
126
. Luổng Phạbang: phiên âm theo tiếng Pháp là Luăng Pờrabăng, thường đọc
Luông Phabăng. Luổng Phạbang là kinh đô (mương luổng) có tượng Phật Phạbang
(đúc bằng vàng), là kinh đô của Vương quốc Lào trước đây, nay là tỉnh lỵ của tỉnh
Luổng Phạbang. Luổng Phạbang được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế
giới.
127
. Báo Cờ giải phóng, số 11, ngày 25 tháng 3 năm 1945.
128
. Vua Lào tuyên bố “độc lập” với nội dung như sau: Căn cứ vào diễn biến
của tình hình thế giới, nhất là các nước ở khu vực Đông Nam á thời gian qua, tôi
công khai tuyên bố Vương quốc Lào thuộc Pháp trước đây bắt đầu từ hôm nay trở
thành một nước độc lập. Vương quốc Lào Luổng Phạbang sẽ bảo vệ nền độc lập của
mình như các nước khác ở Đông Nam á và cùng với các nước bầu bạn xây dựng sự
phồn vinh tiến bộ, như tuyên bố xây dựng thịnh vượng chung của khối Đại Đông á.
94 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Cũng như ở Việt Nam, tại Lào, bên cạnh việc ban phát nền “độc
lập bánh vẽ” cho người Lào, phát xít Nhật duy trì bộ máy thống trị cũ
của thực dân Pháp, chỉ thay thế vị trí các quan chức người Pháp trước
đây bằng các võ quan Nhật. Chúng giật dây cho một số người Lào ra
báo Lào Chălơn (Lào thịnh vượng) để tuyên truyền cho thuyết Đại
Đông á của Nhật. Chúng tiến hành vơ vét nhân, tài, vật lực của nhân
dân Lào, như: tăng cường bắt phu, tăng thuế, thu vét thiếc, cánh kiến
trắng, cánh kiến đỏ, sa nhân, da thú, lương thực, thực phẩm... để phục
vụ cho việc kéo dài chiến tranh xâm lược. Các tầng lớp nhân dân Lào
ngày càng nhận rõ bộ mặt thật của phát xít Nhật, muốn vùng lên đánh
đổ chúng, giành lại độc lập cho dân tộc.
Ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm
1945), Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
đã họp đề ra chủ trương phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước
làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa. Toàn bộ chủ trương của Hội nghị
được thể hiện trong Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta” do Ban Thường vụ Trung ương ban hành vào ngày
12 tháng 3 năm 1945. Một cao trào kháng Nhật, cứu nước bùng lan
tại Việt Nam. Cao trào kháng Nhật, cứu nước ở Việt Nam đã tác
động và hỗ trợ tích cực, mạnh mẽ các lực lượng yêu nước Lào đấu
tranh giành độc lập.
Sau ngày Nhật đảo chính, thực hiện chủ trương của Đội Tiên
phong và của Đại hội thành lập Tổng hội Việt kiều cứu quốc toàn
Thái - Lào, ngày 28 tháng 3 năm 1945, tại tỉnh Xakô Nakhon
(Đông Bắc Thái Lan), các lực lượng Việt kiều yêu nước đã thành
lập chiến khu Na Kè. Tổng hội Việt kiều cứu quốc toàn Thái -
Lào còn tiến hành bắt mối với tổ chức Thái Sêri để tranh thủ sự
ủng hộ của họ129 nhanh chóng xây dựng và củng cố các chiến

Vương quốc chúng ta quyết định cộng tác với nước Nhật trong mọi lĩnh vực để xây
dựng mục tiêu nói trên.
129
. Trong thời gian này, tổ chức “Thái Sêri” muốn sử dụng lực lượng ngày
càng lớn mạnh của Việt kiều ở Thái Lan để chống Nhật nên đã đặt mối liên hệ
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 95

khu ở các tỉnh Nakhon Phạnôm, Noỏng Khai, Xakôn Nakhon,


Mụcđahán... để huấn luyện quân sự cho nam nữ thanh niên, cấp
tốc xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang chuẩn bị khởi
nghĩa giành chính quyền ở Lào. Ngày 11 tháng 5 năm 1945, tại
chiến khu Na Kè (Nakhon Phạnôm), lực lượng vũ trang cách
mạng của Việt kiều được thành lập lấy tên là Việt Nam độc lập
quân130.
Tại Viêng Chăn, vào cuối tháng 4 năm 1945, một chi bộ đảng
được thành lập gồm bốn đồng chí; các đoàn thể Việt kiều cứu quốc
cũng được tổ chức, thu hút khoảng 40 hội viên131.
Sau ngày Nhật đảo chính, những trí thức, nhân sĩ, binh lính yêu
nước và tiến bộ Lào đã hình thành các tổ chức chính trị khác nhau
để mưu cầu nền độc lập cho dân tộc Lào.
Vào tháng 4 năm 1945, tại Thái Lan, nhóm người Lào lưu vong
thành lập tổ chức Lào ítxalạ (Lào tự do) do ông Thạo ùn Xánánicon
đứng đầu. Tổ chức này tập hợp các công chức, học sinh có tinh
thần yêu nước, chủ trương dựa vào phe Đồng minh chống Nhật để
giành độc lập.
Tháng 5 năm 1945, một tổ chức yêu nước khác của người Lào
cũng ra đời là Lào pên Lào (Nước Lào của người Lào), gọi tắt là
Lo Po Lo, gồm những công chức, trí thức, sĩ quan người Lào tập
hợp nhau để đấu tranh giành độc lập cho Lào. Tổ chức chính trị này
đã lập ra Uỷ ban chấp hành Lào pên Lào do ông Bông Xỉlạttạna
Kun (sau đổi họ Xuvannavông) làm chủ tịch.
ủy ban Lào pên Lào còn chỉ định một số Uỷ ban Lào pên Lào ở
các địa phương: thành phố Viêng Chăn, tỉnh Viêng Chăn, tỉnh

và tích cực giúp đỡ Tổng hội Việt kiều cứu quốc toàn Thái - Lào.
130
. Đến tháng 7 năm 1945, chiến khu này giải thể, lực lượng vũ trang chiến khu
phân tán trong Việt kiều trở về Lào gây dựng cơ sở.
131
. Hồi ký của Nguyễn Đình Hin. Lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
96 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Luổng Phạbang, tỉnh Khăm Muộn, tỉnh Xavẳnnakhệt...


Trước sự ra đời của các tổ chức chính trị trên đây, Đội Tiên
phong, Tổng hội Việt kiều cứu quốc toàn Thái - Lào đã tiến hành
liên hệ để bàn việc phối hợp hoạt động nhằm thu hút và tổ chức
huấn luyện chính trị, quân sự cho thanh niên Lào - Việt.
Tháng 7 năm 1945, qua đồng chí Nguyễn Chính Giao, Đội Tiên
phong chắp nối và nhận chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dương về việc công nhận Xứ uỷ lâm thời Ai
Lao, cử đại biểu dự Hội nghị đại biểu toàn Đảng tại Tân Trào -
Tuyên Quang (Việt Nam). Thi hành chủ trương của Ban Thường vụ
Trung ương, Đội Tiên phong chính thức chuyển thành Xứ uỷ lâm
thời Ai Lao, do đồng chí Nguyễn Chấn làm bí thư. Xứ uỷ phân
công các xứ uỷ viên phụ trách những khu vực quan trọng: Viêng
Chăn, Thà Khẹc, Xavẳnnakhệt....; cử hai đồng chí Trần Đức Vịnh
và Dương Chí Trung đại diện cho Đặc chi Lào - Thái132 đi dự Hội
nghị đại biểu toàn Đảng ở Tân Trào vào tháng 8 năm 1945.
Giữa lúc cao trào kháng Nhật của nhân dân Việt Nam và nhân
dân Lào đang phát triển vô cùng mạnh mẽ thì một sự kiện quan
trọng diễn ra: Nhật Bản đầu hàng Đồng minh vô điều kiện.
Ngày 6 tháng 8 năm 1945, Mỹ ném bom nguyên tử xuống
thành phố Hirôsima và ba ngày sau, ngày 9 tháng 8 năm 1945, ném
quả thứ hai xuống thành phố Nagasaki của Nhật Bản làm chết hàng
chục vạn người. Thực hiện cam kết tại Hội nghị Pốtxđam (họp từ
ngày 17 tháng 7 đến 2 tháng 8 năm 1945), rạng sáng ngày 9 tháng 8
năm 1945, quân đội Liên Xô từ bốn hướng ồ ạt tấn công đạo quân
Quan Đông của Nhật ở Mãn Châu (Đông Bắc Trung Quốc). Bằng
những đòn tấn công như vũ bão, chỉ trong vòng một tuần lễ, quân

. Biên bản của Toàn quốc hội nghị Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày 14 và
132

15 tháng 8 năm 1945. Lưu tại Viện Lịch sử Đảng.


CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 97

đội Liên Xô đã đập tan hoàn toàn đạo quân Quan Đông với 1 triệu
lính thiện chiến của Nhật, giải phóng toàn bộ vùng Đông Bắc
Trung Quốc, miền Bắc Triều Tiên. Đây là đòn cân não buộc Nhật
Bản phải đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Ngày 15 tháng 8 năm
1945, Đài Phát thanh Tôkyô phát đi lời tuyên bố của Nhật hoàng
Hirôhito “chấp nhận bản Tuyên bố chung của các cường quốc”.
Việc Chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều
kiện khiến phát xít Nhật ở Đông Dương mất tinh thần, hoang mang,
rệu rã, các chính quyền bù nhìn tay sai của Nhật ở Việt Nam, Lào
và Cao Miên hoàn toàn bị tê liệt. Tình hình diễn biến rất nhanh, cơ
hội ngàn năm có một của nhân dân Đông Dương giành độc lập đã
tới.
Trong thời điểm lịch sử đó, Hội nghị đại biểu toàn Đảng Cộng
sản Đông Dương họp từ ngày 13 đến 15 tháng 8 năm 1945 đã nhận
định: “Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi”
và đưa ra quyết sách kịp thời lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa
giành chính quyền. Tiếp sau Hội nghị, Đại hội Quốc dân cũng họp
và chủ trương lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy tước khí giới
của Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; giành lấy
chính quyền từ tay Nhật, lật đổ bọn bù nhìn tay sai Nhật, đứng ở vị
trí làm chủ nước mình mà tiếp đón quân Đồng minh vào giải giáp
quân Nhật trên đất Đông Dương.
Tại Đại hội này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp hai đại biểu của
Xứ uỷ Ai Lao là đồng chí Trần Đức Vịnh và Nguyễn Hữu Khiếu
(Dương Chí Trung). Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, đại ý: “Thời
cơ rất thuận lợi cho cách mạng Đông Dương. Kẻ địch sau này
không phải là Nhật mà Pháp, Pháp nhất định núp sau Đồng minh để
trở lại xâm lược. ở Việt Nam cũng thế và ở Lào cũng vậy. Bây giờ
không chờ cho khắp nơi chuẩn bị đầy đủ, mà không kể địa phương
nào, hễ có điều kiện thì cùng với người Lào cướp chính quyền rồi
98 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

giao lại cho họ”133. Đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh cũng căn
dặn: “Các đồng chí về đưa lực lượng kiều bào hợp tác với người
Lào để cướp chính quyền. Hợp tác thế nào, ở đây không nói được,
tuỳ anh em bên ấy. Phải nắm vững tinh thần Lào - Việt Nam hợp
tác. Phải tôn trọng người ta. Dù mình có khả năng làm được cũng
phải coi người ta là chủ. Không phải chờ cướp chính quyền ở thủ
đô đâu, nếu ở một vài nơi làm được thì cứ làm”2.
Thực hiện chủ trương đúng đắn, kịp thời của Trung ương Đảng,
ở Việt Nam, cuộc Tổng khởi nghĩa diễn ra sôi động và kết thúc
thắng lợi hoàn toàn trên cả nước trong vòng 15 ngày. Ngày 2 tháng
9 năm 1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra
mắt quốc dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản “Tuyên
ngôn độc lập” tuyên bố với nhân dân cả nước và thế giới sự ra đời
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam đã đập
tan bộ máy thống trị đầu não của phát xít Nhật ở Đông Dương, tạo
điều kiện thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của
nhân dân Lào.
Tuy nhiên, ở Lào tình hình diễn biến rất phức tạp. Các lực
lượng cách mạng yêu nước chủ yếu mới được xây dựng và phát
triển ở một số thành phố, thị trấn dọc sông Mê Công.
Sáng ngày 12 tháng 8 năm 1945, trong khi đang mở lớp huấn
luyện đào tạo cán bộ Việt kiều ở Phôn Vixầy (Thái Lan), Xứ uỷ Ai
Lao nhận được tin Nhật hoàng đã chấp nhận đầu hàng qua truyền
đơn từ trên máy bay của Đồng minh thả xuống. Trong tình hình khẩn
trương, Xứ uỷ Ai Lao không có điều kiện họp bàn kế hoạch khởi
nghĩa, nhưng các đồng chí cán bộ lãnh đạo đã nhanh chóng nhất
trí rằng phải hết sức khẩn trương, tranh thủ thời gian huy động

, 2. Lê Mạnh Trinh: Cuộc sống chung và riêng của cuộc đời tôi 50 năm đầu
133

thế kỷ XX, Sđd.


CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 99

nhân dân nổi dậy cướp chính quyền trong tay Nhật, trước khi chúng
hạ vũ khí; ngăn chặn không cho Pháp trở lại cai trị Lào. Chủ trương
trước hết phải vũ trang cho Việt kiều để có đủ sức mạnh đối phó với
địch, rồi cùng toàn thể nhân dân Lào vùng dậy đánh đuổi Nhật và cả
Pháp nếu chúng trở lại.
Mặc dù chưa học hết chương trình, lớp học vẫn bế mạc và ngay
đêm 12 tháng 8 năm 1945, tất cả các đồng chí dự lớp huấn luyện
lên đường về Viêng Chăn để lãnh đạo phong trào khởi nghĩa.
Ngày 14 tháng 8 năm 1945, trong lúc tin Nhật đầu hàng đã lan
khắp trong nhân dân, binh lính Nhật ra sức vơ vét của cải để chuẩn
bị rút, Ban Chỉ đạo khởi nghĩa Viêng Chăn được thành lập gồm ba
đồng chí: Nguyễn Chấn, Bí thư Xứ uỷ, trưởng ban phụ trách chung;
Vũ Hữu Bỉnh phụ trách quân sự, ngoại giao và quan hệ Lào - Việt;
Nguyễn Đình Hin giúp đồng chí Nguyễn Chấn chỉ đạo các lực
lượng Việt kiều134. Ban Chỉ đạo lấy nhà đồng chí Hin ở ngoại ô
Viêng Chăn làm cơ quan chỉ huy, gấp rút tiến hành triệu tập cuộc
họp có các đồng chí trong Chi bộ Viêng Chăn tham gia để nắm tình
hình, bàn kế hoạch khởi nghĩa.
Ban Chỉ đạo chủ trương phải tranh thủ cho được chính giới Lào,
nhất là những người tiến bộ trong chính quyền, cảnh sát, bảo an; xúc
tiến vận động Hoàng thân Phếtxarạt, làm cho họ thấy rõ không có con
đường nào khác là phải đấu tranh vũ trang giải phóng đất nước135.
Thực hiện chủ trương của cuộc họp, Ban Chỉ đạo đã tiến hành
134
. Hồi ức của đồng chí Vũ Hữu Bỉnh. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
135
. Đầu những năm 40 thế kỷ XX, do những chuyển biến nhanh chóng của tình
hình chính trị thế giới và khu vực, nhất là sự tuyên truyền, kích động chủ nghĩa dân
tộc “Đại Lào” của thực dân Pháp, trong nhân dân Lào, nhất là tầng lớp trên, xuất
hiện sự phân hoá tư tưởng về con đường giành độc lập cho đất nước Lào. Ngoài
phong trào chủ trương giành độc lập dân tộc của lực lượng cách mạng, còn có xu
hướng muốn giành độc lập bằng con đường tranh thủ sự ủng hộ của Đồng minh
(trong số này có Hoàng thân Phếtxarạt), thậm chí có một bộ phận muốn Pháp quay
trở lại và công nhận nền độc lập của Lào trong Khối Liên hiệp Pháp.
100 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

vận động Hoàng thân Phếtxarạt cho phép Việt kiều được tổ chức lại
nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của mình; đồng thời góp sức cùng
nhân dân Lào đứng dậy giành độc lập, chống xâm lăng. Lúc này
thực dân Pháp hiện diện trên đất Lào đang ráo riết chuẩn bị lực
lượng trở lại thay thế Nhật. Núp dưới danh nghĩa Đồng minh, thực
dân Pháp còn cho người liên lạc với Hoàng thân Phếtxarạt để
thương lượng cho chúng được tiến vào Viêng Chăn.
Ban Chỉ đạo còn tập hợp Đoàn Thanh niên Việt kiều cứu quốc
do đồng chí Phan Linh phụ trách làm lực lượng xung kích, tổ chức
động viên các tầng lớp Việt kiều cùng với những người yêu nước
Lào hăng hái tham gia các hoạt động cách mạng. Tiến hành tiếp xúc
với Uỷ ban Lào pên Lào ở Viêng Chăn để thống nhất hành động.
Tuy nhiên, Ban Chỉ đạo gặp rất nhiều khó khăn vì trước khí thế
cách mạng sôi sục của Việt kiều, một số thành viên chính phủ bù
nhìn Lào và một bộ phận chính giới Lào có phần lo ngại, nghi ngờ
Việt kiều có ý đồ thôn tính Lào nên tìm cách ngăn cản các tổ chức
Việt kiều hành động.
Trong thời điểm khó khăn đó, vào ngày 16 tháng 8 năm 1945,
nhận được tin hơn 500 công nhân Xưởng dệt Kapphạ (một xưởng
dệt của tư bản Pháp ở Viêng Chăn, đa số công nhân là người Việt, có
một số ít người Lào và người Hoa) đấu tranh đòi Nhật giao nhà máy
cho Lào và trả nợ lương cho công nhân136, Ban Chỉ đạo và Chi bộ
đảng ở Viêng Chăn đã cử người vào lãnh đạo cuộc đấu tranh. Sau ba
ngày đấu tranh rất quyết liệt, được sự ủng hộ hết lòng của Việt kiều
và nhân dân Viêng Chăn, bọn Nhật buộc phải trả tự do cho đại biểu
công nhân và trao trả nhà máy cho chính quyền Viêng Chăn.
Trước sự kiện đó, các chính giới Lào nhận rõ thật tâm đoàn kết

136
. Trong lúc Nhật chuẩn bị phải rút quân, chúng định quỵt tiền lương của
công nhân và giao nhà máy cho Pháp.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 101

của Việt kiều đối với Lào. Uỷ ban Lào pên Lào và Tỉnh trưởng
Viêng Chăn Khăm Mạo rất tích cực phối hợp với Ban Chỉ đạo khởi
nghĩa, vận động lực lượng quân đội, cảnh sát, bảo an đi theo cách
mạng, tổ chức đội bảo an hỗn hợp Lào - Việt để tự vệ. Nhờ sự vận
động tích cực của Tỉnh trưởng Khăm Mạo và Ban Chỉ đạo khởi
nghĩa Viêng Chăn, Phó vương Phếtxarạt, nguyên Thủ tướng Chính
phủ ở Luổng Phạbang đã đồng ý cho Việt kiều được tổ chức các
đội tự vệ để giữ gìn trật tự trị an; cho phép Hội Việt kiều cứu quốc
được hoạt động công khai.
Ngày 23 tháng 8 năm 1945, Ban Chỉ đạo khởi nghĩa cùng với
Tỉnh trưởng Khăm Mạo tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại khu vực
chợ Mới có đông đảo nhân dân Lào và Việt kiều tham gia. Một số
nhân vật trong Chính phủ Vương quốc cũng đến dự. Trong cuộc
mít tinh, đại biểu Việt kiều nói rõ chủ trương đoàn kết Lào - Việt
chống thực dân Pháp, không để cho Pháp trở lại cai trị Lào lần thứ
hai, ủng hộ và tuân theo pháp luật của Chính phủ Lào. Tỉnh trưởng
Khăm Mạo thay mặt cho Chính phủ Vương quốc và Uỷ ban Lào
pên Lào Viêng Chăn tuyên bố Việt kiều được quyền tổ chức các
đội tự vệ; kêu gọi Việt kiều đoàn kết với nhân dân Lào, giúp đỡ
Chính phủ Lào, cùng nhau chống Pháp, giành độc lập dân tộc cho
hai nước. Cuộc mít tinh đã tăng cường lòng tin và tình đoàn kết
Lào - Việt Nam, làm cho các lực lượng Việt kiều và lực lượng Lào
yêu nước thêm gắn bó.
Cuộc khởi nghĩa Viêng Chăn ngày 23 tháng 8 năm 1945 giành
được thắng lợi mà không tốn xương máu. Đó là do có sự lãnh đạo
đúng đắn, kịp thời và khôn khéo của Xứ uỷ Ai Lao, mà trực tiếp là
Ban Chỉ đạo khởi nghĩa đã phát huy được sức mạnh đoàn kết của
các lực lượng yêu nước Lào - Việt, đặc biệt là đông đảo Việt kiều ở
Viêng Chăn; tranh thủ được sự ủng hộ của chính giới Lào, kể cả
những người trong chính quyền Vương quốc.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Viêng Chăn đã thúc đẩy và tạo
102 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

điều kiện cho các địa phương khác trên đất Lào đứng lên khởi
nghĩa thắng lợi.
Tại Thà Khẹc, Xứ uỷ cử hai đồng chí xứ uỷ viên là Đinh Văn
Khanh và Nguyễn Văn Long (tức Lý Bạch Sơn) cùng với Chi bộ
Thà Khẹc thành lập Ban Chỉ đạo khởi nghĩa, thành lập đơn vị Việt
kiều giải phóng quân, phối hợp với Uỷ ban Lào pên Lào và đơn vị
Lào ítxalạ lãnh đạo Việt kiều và nhân dân Lào khởi nghĩa giành
chính quyền thắng lợi một cách nhanh gọn vào ngày 25 tháng 8
năm 1945.
Tại Xavẳnnakhệt, từ ngày 21 đến 30 tháng 8 năm 1945, các
đồng chí Trần Đức Vịnh (xứ uỷ viên), Lê Mạnh Trinh cùng với chi
bộ đảng lãnh đạo Việt kiều và các lực lượng Lào yêu nước ở đây
(đặc biệt là Uỷ ban Lào pên Lào và Tỉnh trưởng Xavẳnnakhệt) khởi
nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Tại Sầm Nưa, ngày 26 tháng 8 năm 1945, tàn binh Pháp quay
lại chiếm tỉnh lỵ Sầm Nưa. Tháng 10 năm 1945, được sự giúp đỡ
của đơn vị bộ đội Việt Nam, nhân dân Sầm Nưa đã đánh đuổi quân
Pháp, giải phóng thị xã Sầm Nưa.
Tại Luổng Phạbang, lực lượng nổi dậy chiếm thành phố vào
ngày 18 tháng 10 năm 1945.
Đầu tháng 11 năm 1945, tỉnh Xiêng Khoảng được giải phóng.
Có thể nói, thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 ở
Việt Nam và khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Lào diễn ra
gần như đồng thời và đều ít đổ máu. Thắng lợi đó minh chứng cho
sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời, sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương, thể hiện rõ tính hiệu quả của tình đoàn kết đấu tranh của
nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào. Cùng với cuộc Cách mạng
tháng Tám 1945 ở Việt Nam, thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành
chính quyền năm 1945 ở Lào đã mở ra một kỷ nguyên mới cho
nhân dân Lào đứng lên làm chủ vận mệnh của mình. Đồng chí
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 103

Cayxỏn Phômvihản viết: “Đây là thắng lợi đầu tiên của nhân dân ta
trở lại làm chủ đất nước và vận mệnh của mình sau hơn một trăm
năm sống dưới ách nô lệ và bị chia cắt. Thắng lợi đó đã mở đầu
một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên mà nhân dân ta được huy động và
tự giác tham gia vào cuộc chiến đấu sống còn với kẻ thù để cứu
nhà, cứu nước”137. Đồng thời cũng mở ra kỷ nguyên mới về quan
hệ đặc biệt Lào - Việt Nam cùng đoàn kết giúp đỡ nhau vì những
mục tiêu chung của cả hai dân tộc.
Sau khi khởi nghĩa ở Lào giành thắng lợi, hầu hết Việt kiều ở
Viêng Chăn tham gia Hội Việt kiều cứu quốc. Nam nữ thanh niên
hăng hái tham gia tự vệ chiến đấu, những người cao tuổi cũng xin
gia nhập đội tự vệ chiến đấu. Tiếp đó, Việt kiều và nhân dân Lào ở
Viêng Chăn phát động phong trào quyên góp, mua sắm vũ khí, rèn
giáo mác, với khí thế bừng bừng cách mạng. Dân quân, tự vệ tổ
chức tuần tra canh gác các ngả đường, khu phố, làng bản, giữ gìn
trật tự, trị an, ngăn ngừa trộm cướp, cảnh giới đối với quân Pháp
đang lăm le tấn công vào thành phố.
Thực hiện chủ trương và những lời căn dặn của đồng chí Hồ
Chí Minh tại Hội nghị Tân Trào, Ban Chỉ đạo khởi nghĩa ở Viêng
Chăn (do các đảng viên cộng sản làm nòng cốt) đã vận động các
lực lượng yêu nước và tiến bộ Lào xúc tiến lập Chính phủ Lào.
Trong thời gian gấp rút thành lập Chính phủ Lào, soạn thảo Hiến
pháp, tình hình ở Viêng Chăn và ở Lào có những phức tạp mới do
quân Pháp đang ráo riết hoạt động để quay trở lại Lào. Chúng tiến
hành xây dựng những căn cứ ở các vùng nông thôn, xung quanh
Viêng Chăn để tìm cách đánh vào thành phố. Ngày 1 tháng 9 năm
1945, Hoàng thân Phếtxarạt nhân danh Phó vương và Thủ tướng

137
. Cayxỏn Phômvihản: 25 năm chiến đấu và thắng lợi của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.14-15.
104 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Chính phủ Vương quốc ở Luổng Phạbang tuyên bố cắt đứt mọi
quan hệ với Pháp, cấm người Pháp can thiệp vào nội trị của Lào138.
Bên cạnh sự hiện diện của quân Pháp, ngày 29 tháng 9 năm
1945, các đơn vị đầu tiên của quân Tưởng Giới Thạch đến Viêng
Chăn để giải giáp quân đội Nhật.
Trước đòi hỏi của quần chúng cách mạng, nhằm tạo nên sức
mạnh thống nhất để bảo vệ chính quyền cách mạng, mà trước mắt
là chống lại các cuộc tấn công quy mô của bọn xâm lược Pháp vào
các đô thị, tháng 9 năm 1945, sau khi hiệp thương, tổ chức Lào
ítxalạ và Việt kiều yêu nước đã nhất trí thành lập đội quân lấy tên
là Liên quân Lào - Việt đặt dưới sự chỉ huy của một bộ tham mưu
chung, do quản Xỉng (người Lào) và Vũ Hữu Bỉnh (người Việt)
đứng đầu.
Sau khi thành lập liên quân Lào - Việt, các Uỷ ban phòng thủ
chung Lào - Việt ở các địa phương được tổ chức.
Tuy mới được thành lập, lại gặp nhiều khó khăn về tổ chức huấn
luyện, trang bị, nhưng với lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần căm
thù bọn xâm lược, các chiến sĩ trong liên quân Lào - Việt đã chiến
đấu rất dũng cảm, gây cho quân địch nhiều thiệt hại trong các trận
đánh lớn như Nhômmalạt, Phôn Tịu, Hỉn Bun, Kẹng Koọc, Xoỏng
Khon, Thà Đừa, Ylay, Na Khằng, Bạn Cơn...
Được sự giúp đỡ của Ban Chỉ đạo khởi nghĩa ở Viêng Chăn,
ngày 8 tháng 10 năm 1945, tổ chức Lào pên Lào và tổ chức Lào
ítxalạ cử đại biểu về dự Đại hội đại biểu Uỷ ban Dân chúng Lào
tại Viêng Chăn với mục đích hợp nhất hai tổ chức, thành lập Uỷ
ban Khởi sự (Kháná Phù Còcan), bàn việc thành lập Chính phủ

138
. Xem Nghiêm Thị Hải Yến: Quá trình xâm lược và chính sách cai trị của
Pháp ở Lào (1885 - 1945) - Đặc điểm và hệ quả, Luận án Tiến sĩ lịch sử chuyên
ngành Lịch sử thế giới cận và hiện đại, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội,
2009.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 105

Trung ương và dự thảo Hiến pháp tạm thời.


Ngày 10 tháng 10 năm 1945, Đại hội đại biểu Uỷ ban Dân
chúng họp lần thứ hai quyết định thành lập Chính phủ Lào ítxalạ
do Hoàng thân Phếtxarạt đứng đầu, ông Khăm Mạo Vilay làm thủ
tướng; thông qua Hiến pháp tạm thời, quyết định quốc kỳ, quốc
ca.
Chính phủ Lào cũng gửi điện lên Nhà vua yêu cầu vua thừa
nhận Hiến pháp mới, giải tán Chính phủ Luổng Phạbang, công
nhận chính phủ mới và mời Xỉxávàngvông tiếp tục làm vua theo
Hiến pháp139.
Sáng ngày 12 tháng 10 năm 1945, Uỷ ban Dân chúng Lào và
Chính phủ Lào ítxalạ tổ chức cuộc mít tinh lớn tại tại sân vận động
Viêng Chăn để làm lễ tuyên bố nền độc lập của quốc gia Lào và
ban bố bản Hiếp pháp tạm thời. Hàng vạn nhân dân Lào, gồm công
nhân, nông dân, học sinh, thanh niên, viên chức, người buôn bán và
Việt kiều tham gia cuộc mít tinh đã phấn khởi hô vang các khẩu
hiệu hoan nghênh nền độc lập của Lào, hoan nghênh Chính phủ
mới, cổ súy tinh thần đoàn kết Lào - Việt. Đúng 8 giờ sáng ngày 12
tháng 10 năm 1945, ông Khăm Mạo thay mặt Uỷ ban Lào ítxalạ
tuyên bố khai mạc cuộc mít tinh và tuyên đọc các văn kiện quan
trọng như: Tuyên ngôn độc lập; Quyết nghị thành lập chính phủ;
Công bố bản hiến pháp lâm thời; Tuyên bố bổ nhiệm các thành
viên trong Chính phủ. Cuộc mít tinh sau đó biến thành cuộc biểu
tình tuần hành thị uy nhằm biểu dương lực lượng và thể hiện quyết
tâm bảo vệ nền độc lập của nhân dân Lào.
Sau khi thành lập, Chính phủ Lào chủ trương: “1. Nhân dân
Lào quyết tâm đoàn kết chống mọi mưu mô lập lại ách đô hộ của
thực dân Pháp ở Lào; 2. Nhân dân Lào đã chán ghét bọn vua quan,

. Tuy nhiên Vua Lào đã từ chối. Sau đó, quân đội Chính phủ đã giải phóng
139

Luổng Phạbang, lập chính quyền mới.


106 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

tay sai của thực dân Pháp; 3. Nhân dân Lào thân thiện với nhân dân
Việt Nam và quyết tâm cùng nhân dân Việt Nam đánh đuổi thực
dân Pháp ra khỏi Đông Dương”140. Thủ tướng Khăm Mạo nhân dịp
này đã tuyên bố với Việt kiều: “mong rằng ba nước Việt, Miên, Lào
bắt tay nhau để kiến thiết quốc gia”141.
Nhận rõ tầm quan trọng của mối quan hệ hai dân tộc, Trung
ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phái hai đồng chí Trần
Đức Vịnh và Dương Chí Trung, đại biểu Việt kiều yêu nước Lào -
Thái sau thời gian về nước dự Hội nghị Tân Trào trở lại Lào với
danh nghĩa là phái viên của Tổng bộ Việt Minh và Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà. Trên đường đi từ Trung Bộ Việt Nam đến
Viêng Chăn, hai đồng chí đã đến Xavẳnnakhệt (ngày 26 tháng 8
năm 1945), Thà Khẹc (ngày 1 tháng 9 năm 1945), đến đâu đại diện
của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng được Việt kiều
và nhân dân Lào tổ chức mít tinh trọng thể chào mừng Đoàn.
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh mời Hoàng thân Xuphanuvông đang ở Vinh ra
Hà Nội và tiếp Hoàng thân vào ngày 4 tháng 9 năm 1945. Cuộc gặp
gỡ đã có tác động mạnh mẽ, quyết định đối với Hoàng thân trong
việc chọn lựa con đường làm cách mạng, cũng như mở ra một thời
kỳ mới trong lịch sử quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Lào trong
bối cảnh mới. Sau khi tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hoàng thân
Xuphanuvông trở về tham gia Chính phủ Lào. Ngày 3 tháng 10
năm 1945, hàng vạn nhân dân ở Xavẳnnakhệt họp mít tinh chào
mừng Hoàng thân Xuphanuvông ghé qua Xavẳnnakhệt. Tại cuộc
mít tinh, Hoàng thân Xuphanuvông tuyên bố: “Từ nay nước Lào là

140
. Báo Cờ Giải phóng - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Đông Dương,
số 27, ngày 21 tháng 10 năm 1945.
141
. Báo Cứu quốc - cơ quan ngôn luận của Tổng bộ Việt Minh (Việt Nam), số
68, ngày 16 tháng 10 năm 1945.
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 107

quốc gia độc lập có chủ quyền ngang hàng với tất cả các dân tộc
trên thế giới”. Hoàng thân nhấn mạnh: “Quan hệ Lào - Việt từ nay
sẽ mở ra một kỷ nguyên mới...”. Trên đường đi Viêng Chăn, Hoàng
thân Xuphanuvông ghé thăm Thà Khẹc, chính quyền địa phương tổ
chức mít tinh chào mừng. Cuộc mít tinh được tổ chức tại sân vận
động thị xã Thà Khẹc gồm đông đủ các tầng lớp nhân dân Lào và
Việt kiều yêu nước tham gia. Việt kiều ở các vùng biên giới Thái
Lan dọc sông Mê Công cũng vượt sông sang tham gia mít tinh. Tại
đây, vào ngày 8 tháng 10 năm 1945, Hoàng thân Xuphanuvông
khai mạc và chủ trì Hội nghị cán bộ Lào ítxalạ. Hình ảnh, uy tín,
quyết tâm làm cách mạng, cứu nước và những lời nói tốt đẹp của
Hoàng thân về quan hệ Lào - Việt Nam đã tác động lớn lao đến sự
hưởng ứng, tham gia cách mạng của các tầng lớp nhân dân Lào,
càng tạo thêm chất keo gắn kết tình cảm của nhân dân Lào với Việt
kiều cũng như với Việt Nam.
*
* *
Quãng thời gian 1930 - 1945 là thời kỳ nhân dân Việt Nam và
Lào nương tựa lẫn nhau trong quá trình đấu tranh giành độc lập,
tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Mối
quan hệ đó đó xuất phát từ những điều kiện về địa lý, chính trị,
kinh tế, văn hoá, đặc biệt từ yêu cầu khách quan của công cuộc
đấu tranh tự giải phóng, mang bản chất quốc tế vô sản, mang lại
hiệu quả rõ rệt.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam do Nguyễn
ái Quốc - Hồ Chí Minh xác định về mặt lý luận và chính Người
hiện thực hoá bằng việc chủ trì việc hợp nhất các tổ chức cộng sản
thành chính đảng vô sản đầu tiên ở Đông Dương là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đến tháng 10 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đổi
tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
108 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ...

Đảng Cộng sản Đông Dương có vai trò rất to lớn trong việc xây
đắp mối quan hệ giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào. Đảng
Cộng sản Đông Dương đã khơi dậy và thức tỉnh tinh thần yêu nước
và cách mạng của nhân dân Lào; xây dựng được những cơ sở và
phong trào cách mạng đầu tiên của nhân dân Lào để từ đó nhân dân
Lào chớp thời cơ giành chính quyền vào tháng 8 năm 1945, thành
lập Chính phủ độc lập Lào, mở ra một thời kỳ mới thiết lập liên
minh chiến đấu Lào - Việt Nam. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau
được duy trì, ngày càng phát triển do nỗ lực phấn đấu của các đảng
viên cộng sản, của nhân dân hai nước.
Bộ phận nhân sĩ, trí thức tiến bộ và các tầng lớp nhân dân Lào
có vai trò quyết định trong quá trình phát triển của phong trào cách
mạng Lào cũng như trong thành công của cuộc nổi dậy giành độc
lập ở Lào vào tháng 8 năm 1945. Cưu mang, giúp đỡ, ủng hộ
những người Việt đến sinh sống, tham gia các phong trào cách
mạng do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo nhằm mục tiêu giải
phóng, giành độc lập và xây dựng quốc gia Lào phồn thịnh, những
nhân sĩ, trí thức tiến bộ và các tầng lớp nhân dân Lào cũng đồng
thời có nhiều đóng góp lớn lao trong việc duy trì và phát triển mối
quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Lào.
Trong quá trình đoàn kết đấu tranh chống thực dân xâm lược
của nhân dân hai nước Việt - Lào, bộ phận người Việt ở Lào có vai
trò rất quan trọng. Do điều kiện địa lý, hoàn cảnh lịch sử, nhất là
chính sách đàn áp phong trào cách mạng và khai thác thuộc địa ở
Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, một số lượng lớn
người Việt đến định cư và sinh sống ở Lào. Người Việt ở Lào tham
gia vào hầu hết các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội của Lào, trở
thành một bộ phận quan trọng trong cộng đồng dân cư Lào, cùng
chung thân phận, cảnh ngộ bị mất nước, bị áp bức bóc lột bởi thực
dân Pháp như nhân dân Lào và có nhiều đóng góp trong việc phát
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ... 109

triển xã hội Lào, nhất là trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự
do của đất nước Lào.
Đặc biệt, trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945,
phong trào đấu tranh của người Việt ở Lào đã góp sức cùng nhân
dân Lào khởi nghĩa giành thắng lợi. Đây là một trong những nguyên
nhân thành công của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Lào trong
hoàn cảnh vùng nông thôn rộng lớn còn sự hiện diện của một lực
lượng lớn quân Pháp, lực lượng cách mạng phải đối mặt với quân
Anh, quân Trung Hoa dân quốc mang danh nghĩa Đồng minh tràn
vào Lào, nội bộ quý tộc Lào bị phân hoá với những quan điểm khác
nhau về con đường giành độc lập, tự do cho đất nước Lào.
Sự ra đời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
(ngày 2 tháng 9 năm 1945) và Chính phủ Lào ítxalạ (ngày 12 tháng
10 năm 1945) cùng những mong muốn của hai bên về xây dựng mối
quan hệ hoàn hảo và vững chãi hơn trước là một bước ngoặt đưa tình
đoàn kết, giúp đỡ nhau lên tầm liên minh chiến đấu.
PHÇN THø HAI

LI£N MINH VIÖT NAM - LµO, LµO - VIÖT NAM


CHIÕN §ÊU CHèNG THùC D¢N PH¸P
Vµ §Õ QUèC Mü X¢M L¦îC
(1945 - 1975)
Chương III
HỢP TÁC, GIÚP NHAU KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
(từ ngày 16 tháng 10 năm 1945 đến tháng 12 năm 1950)

I. BƢỚC ĐẦU THỰC HIỆN LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU VIỆT NAM - LÀO,
LÀO - VIỆT NAM CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC
(TỪ NGÀY 16 THÁNG 10 NĂM 1945 ĐẾN THÁNG 12 NĂM 1948)

1. Bối cảnh lịch sử


Sau ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (ngày 2
tháng 9 năm 1945) và nước Lào tuyên bố độc lập (ngày 12 tháng 10
năm 1945), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, hai
nước Việt Nam và Lào đã tiến hành cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược trong bối cảnh, tình hình quốc tế và hai nước có
nhiều biến động với nhiều thuận lợi và khó khăn.
Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) kết thúc, nhân loại
bước vào thời kỳ mới. Về chính trị, quan hệ quốc tế có những thay
đổi lớn, quan trọng như sự hình thành hai hệ thống xã hội (tư bản
chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa) đối lập; Chiến tranh lạnh khởi phát
và lan rộng toàn cầu.
Sự hình thành và lớn mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa, mà
Liên Xô là trung tâm, ảnh hưởng đến chiều hướng phát triển của
các trào lưu cách mạng, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
114 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

trên toàn thế giới.


Trong các nước tư bản chủ nghĩa, Mỹ là đế quốc duy nhất
giàu và mạnh lên bởi Chiến tranh thế giới thứ hai, trở thành kẻ
đầu sỏ, chi phối chính sách các nước trong hệ thống tư bản chủ
nghĩa, ráo riết theo đuổi chiến lược toàn cầu phản cách mạng.
Trước năm 1945, Mỹ luôn tìm cách gạt Pháp ra khỏi Đông Dương,
nhưng sau khi Tổng thống Rudơven qua đời (tháng 4 năm 1945),
quan điểm của Mỹ về Đông Dương có sự thay đổi, tạo cơ hội cho
Pháp trở lại Đông Dương.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố thành lập (ngày 2 tháng 9 năm
1945), đánh dấu sự kết thúc chế độ thực dân phong kiến, mở đầu
thời đại mới vẻ vang, huy hoàng trong lịch sử dân tộc Việt Nam -
thời đại Hồ Chí Minh. Về phương diện quốc tế, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà ra đời, đánh dấu bước đột phá vào dinh luỹ, hệ
thống của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, mở đầu cuộc tiến công
mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn
thế giới.
Thắng lợi của khởi nghĩa tháng Tám 1945 ở Lào và việc nước
Lào tuyên bố độc lập (ngày 12 tháng 10 năm 1945) là những sự
kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn, đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong
quá trình phát triển của cách mạng Lào.
Chính ý nghĩa sâu sắc và tầm vóc lớn lao của những sự kiện
lịch sử trọng đại nói trên cũng như vị trí địa - chính trị, địa - quân
sự, địa - kinh tế của Việt Nam, Lào đối với khu vực và thế giới đã
khiến cho các kẻ thù của ba nước Đông Dương, của nhân loại tiến
bộ nói chung phải cấu kết lại nhằm thực hiện âm mưu xoá bỏ thành
quả cách mạng của nhân dân Việt Nam và Lào, ngăn chặn ảnh
hưởng của cách mạng Việt Nam, Lào trong khu vực cũng như trên
trường quốc tế, khôi phục ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 115

quốc.
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Lào tuyên bố độc lập, nhưng
về phương diện quốc tế, chưa có một nước nào công nhận1. Không
những thế, với quyết định của Hội nghị Pốtxđam2, việc giải giáp
quân Nhật ở Đông Dương được giao cho quân Trung Hoa dân quốc
và quân Anh, phân cách bởi vĩ tuyến 16, đã tạo cơ sở, điều kiện để
kẻ thù của cách mạng Đông Dương đưa quân vào bán đảo này, thực
hiện dã tâm xâm lược của chúng.
Cuối tháng 8 năm 1945, gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc
chia thành nhiều hướng tiến vào bắc vĩ tuyến 16 Việt Nam, Lào.
Sau khi đưa quân chiếm đóng các thành phố, thị xã và các địa bàn
trọng yếu, những kẻ cầm đầu quân Trung Hoa dân quốc tuyên bố
thời gian có mặt của chúng tại bắc vĩ tuyến 16 là không hạn định và
ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương,
giúp bọn tay sai chống phá cách mạng Việt Nam, Lào.
Theo quyết định của Hội nghị Pốtxđam, Pháp bị gạt ra ngoài lề
trong vấn đề Đông Dương, nhưng thực tế việc để quân Anh vào
giải giáp quân Nhật ở nam vĩ tuyến 16, vô hình trung đã tạo điều
kiện cho Pháp trở lại xâm lược bán đảo này. Mặt khác, lợi dụng
tình thế lúc bấy giờ, số quân Pháp dạt khỏi Đông Dương trong cuộc
đảo chính của quân Nhật (ngày 9 tháng 3 năm 1945), cũng bí mật
tìm đường trở lại bắc vĩ tuyến 16 Việt Nam, Lào.
Được sự đồng loã của quân Anh, đêm 22 rạng sáng ngày 23
tháng 9 năm 1945, quân Pháp nổ súng đánh chiếm một số công sở
trong thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông

1
. Đầu năm 1950, Trung Quốc, Liên Xô và một số nƣớc dân chủ nhân dân ở
Đông Âu công nhận Chính phủ nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
2
. Hội nghị giữa những ngƣời đứng đầu chính phủ các nƣớc lớn chiến thắng
trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) là Liên Xô, Mỹ, Anh, diễn ra từ
ngày 17 tháng 7 đến 2 tháng 8 năm 1945, tại Pốtxđam, ngoại vi Béclin (Đức).
116 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

Dương lần thứ hai. Tiếp đó, chúng mở rộng chiến tranh ra toàn
Nam Bộ và Nam Trung Bộ, sang Campuchia. Đầu tháng 9 năm
1945, Pháp đưa quân vào nam vĩ tuyến 16 của Lào, thành lập Bộ
Tham mưu quân Pháp ở Lào. Trong khi đó, Sư đoàn 23 thuộc Quân
đoàn 60 quân Trung Hoa dân quốc tiến vào phía bắc vĩ tuyến 16
của Lào chiếm đóng các thị xã, thị trấn lớn dọc sông Mê Công, từ
Phôngxalỳ đến Xavẳnnakhệt.
Trước âm mưu từng bước mở rộng chiến tranh, dùng lãnh thổ
nước này để xâm chiếm nước kia, biến Đông Dương thành thuộc
địa kiểu mới của thực dân Pháp đòi hỏi Việt Nam, Lào và
Campuchia phải liên minh, đoàn kết với nhau, tạo nên sức mạnh
tổng hợp nhằm đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, thực
hiện mục tiêu giải phóng dân tộc.

2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương và các lãnh
tụ về kháng chiến, liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào chống
thực dân Pháp xâm lược
Nhu cầu hợp tác, giúp đỡ nhau kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược xuất phát từ hai phía. Lào cần có sự giúp đỡ, hỗ trợ của
Việt Nam và ngược lại Việt Nam cũng vậy. Đó là sự hợp tác, tương
trợ, giúp đỡ lẫn nhau, vì mục tiêu chung và riêng, đôi bên cùng có
lợi, nhằm đưa sự nghiệp cách mạng vững bước tiến lên.
Ngày 14 tháng 10 năm 1945, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
chính thức công nhận Chính phủ độc lập Lào. Tiếp đó, đại diện hai
chính phủ ký Hiệp ước tương trợ Lào - Việt1 và Hiệp định về tổ
chức liên quân Lào - Việt2 nhằm giúp đỡ nhau về mọi mặt trong
kháng chiến chống thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập vừa mới

1
. Ký ngày 16 tháng 10 năm 1945.
2
. Ký ngày 30 tháng 10 năm 1945.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 117

giành được. Đó là những văn kiện chính thức đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ độc lập Lào, tạo cơ sở
pháp lý để hai dân tộc hợp tác, liên minh chiến đấu chống Pháp
xâm lược.
Thấy rõ tầm quan trọng của liên minh Việt Nam - Lào, tháng
10 năm 1945, Hoàng thân Xuphanuvông tuyên bố: “Lào và Việt
Nam cùng chung một nguyện vọng duy nhất là có nền độc lập dân
tộc và quyền dân chủ thực sự, cùng chung kẻ thù là thực dân Pháp
muốn trở lại thống trị hai nước chúng ta. Do đó, nhân dân Lào và
nhân dân Việt Nam anh em phải đoàn kết nhau lại tiếp tục chiến
đấu. Nền độc lập của Lào muôn năm! Tình đoàn kết Lào - Việt
muôn năm!”1.
Ngày 15 tháng 11 năm 1945, Hoàng thân Xuphanuvông thay
mặt Chính phủ độc lập Lào gửi điện đến Chủ tịch Hồ Chí Minh bày
tỏ tinh thần đoàn kết gắn bó của nhân dân Lào đối với nhân dân
Việt Nam, khẳng định quân và dân hai nước sát cánh chiến đấu
chống kẻ thù chung đến thắng lợi hoàn toàn2.
Trong Thư chúc Tết Việt kiều ở Lào, Xiêm, năm 1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết: “Lào và Việt là hai nước anh em. Mối quan hệ
giữa hai dân tộc rất là mật thiết. Đối với kiều bào ta làm ăn sinh sống
ở đất nước Lào thì Lào lại như là một Tổ quốc thứ hai. Tục ngữ có
câu: “Bán bà con xa, mua láng giềng gần” ý nghĩa là như thế.
Vậy nên sự đoàn kết chẳng những bao gồm đồng bào Việt, mà
bao gồm cả đồng bào Việt với đồng bào Lào. Đoàn kết chặt thì lực
lượng to. Lực lượng to thì quyết thắng lợi.

1
. Trần Đƣơng: Chủ tịch Hồ Chí Minh với Hoàng thân Xuphanuvông, Nxb.
Thông tấn, Hà Nội, 2007, tr.21-22.
2
. Xem Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994,
t.1, tr.33.
118 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

Bây giờ, hai dân tộc ta tuy còn phải khó nhọc, nhưng tương lai
của chúng ta rất là vẻ vang. Đến ngày Việt - Lào được quyền hoàn
toàn độc lập, anh em ta sẽ cùng hưởng phúc thái bình.
Tôi thay mặt Chính phủ và đồng bào trong nước, gửi lời chào
thân ái cho toàn thể kiều bào, chúc các kiều bào gắng sức và thắng
lợi”1.
Tháng 11 năm 1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, nêu rõ cuộc cách
mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải
phóng, nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa xong, kẻ thù
chính của nhân dân Đông Dương là thực dân Pháp xâm lược, phải
tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng; cần phải lập Mặt trận dân
tộc thống nhất chống thực dân Pháp; thống nhất mặt trận Việt - Miên
- Lào2. Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc thực sự là cương lĩnh hành
động của Đảng Cộng sản Đông Dương trước tình hình mới.
Thực hiện chủ trương của Đảng, với ý chí sắt đá vì độc lập, tự
do, thống nhất Tổ quốc, quân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đã
dũng cảm đứng lên chiến đấu ngăn chặn bước tiến quân của kẻ thù,
nhưng do lực lượng quân sự chênh lệch nên đầu năm 1946, quân
Pháp đã từng bước đánh chiếm, mở rộng chiến tranh ra toàn vùng
nam vĩ tuyến 16.
Cuối tháng 2 năm 1946, Anh bắt đầu rút quân khỏi nam vĩ
tuyến 16; tàn quân Nhật bị tước vũ khí, lần lượt hồi hương. Pháp
thoả thuận với Trung Hoa dân quốc ký bản Hiệp ước Pháp - Hoa3,
tạo điều kiện cho Pháp thực hiện âm mưu chiếm lại toàn bộ Đông
Dương. Trước tình hình đó, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản

1
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.139-140.
2
. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.8,
tr.26.
3
. Ký ngày 28 tháng 2 năm 1946.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 119

Đông Dương ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương (ngày 3 tháng 3
năm 1946), chỉ rõ: “muốn cứu vãn quyền lợi chung của đế quốc,
chống phong trào cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa, Anh,
Pháp và Mỹ - Tàu đã tạm dẹp mâu thuẫn bộ phận ở Đông Dương.
Coi đó thì Hiệp ước Hoa - Pháp không phải là chuyện riêng của
Tàu và Pháp. Nó là chuyện chung của phe đế quốc và bọn tay sai
của chúng ở thuộc địa... Nhưng chúng vẫn gờm cách mạng Đông
Dương và dư luận quốc tế, nên cả Tàu lẫn Pháp cũng muốn dàn xếp
với ta về việc quân Pháp kéo vào Bắc nước ta”1. Chỉ thị phân tích:
“Vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn
đề là biết mình biết người, nhận một cách khách quan những điều
kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng”2.
Thường vụ Trung ương Đảng cho rằng hoà với Pháp có thể phá tan
âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động, bảo toàn lực
lượng, có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới, tiến tới
giành độc lập hoàn toàn. “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm
phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa
soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết
sức xúc tiến việc sửa soạn ấy, và nhất định không để cho việc đàm
phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta”3. “Đối
với Lào, Mên cùng với ta có chung một kẻ địch ta đòi Pháp phải
thừa nhận quyền tự chủ hay ít nhất quyền tự trị rộng rãi về chính trị
cho họ”4.
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã nhất trí chủ
trương Hoà để tiến (ngày 5 tháng 3 năm 1946), quyết định tạm thời
hoà hoãn với thực dân Pháp, nhằm đẩy nhanh quân Trung Hoa dân
quốc về nước, tránh nguy cơ cùng một lúc phải đối phó với nhiều
kẻ thù.

1
, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.8, tr.41-
42, 43-44, 46, 47.
120 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

Thực hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương, với
thiện chí hoà bình, Việt Nam đã tiến hành các cuộc đàm phán với
Pháp1; Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp bản Thoả ước
tạm thời2 nhằm tăng thêm thời gian hoà hoãn, tiếp tục chuẩn bị
thêm về mọi mặt, sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến.
Đến giữa tháng 12 năm 1946, khả năng hoà hoãn không còn,
nguy cơ chiến tranh phát triển tới đỉnh điểm, Thường vụ Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến
(ngày 12 tháng 12 năm 1946), nêu rõ mục đích đánh đuổi thực dân
Pháp, giành độc lập và thống nhất; xác định đường lối kháng chiến
toàn dân toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh; chủ trương đoàn
kết toàn dân, đoàn kết với nhân dân hai nước Lào và Campuchia,
nhân dân Pháp và các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới,
v.v.. Với Chỉ thị này, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương đã hạ quyết tâm phát động toàn dân kháng chiến và quyết
định đánh trước để giành thế chủ động. Theo đó, đêm 19 tháng 12
năm 1946, quân và dân Thủ đô Hà Nội cùng các thành phố, thị xã
bắc vĩ tuyến 16, đồng loạt tiến công địch, mở đầu cuộc kháng chiến
trên quy mô toàn lãnh thổ Việt Nam.
Tại Lào, sau Hiệp định Pháp - Hoa (ngày 28 tháng 2 năm
1946), quân Trung Hoa dân quốc lần lượt rút khỏi bắc vĩ tuyến 16,
quân Pháp vào thay thế, thực chất là để Pháp xâm chiếm Lào. Từ
giữa năm 1946, sau khi căn bản chiếm được toàn bộ lãnh thổ Lào,
thực dân Pháp ra sức củng cố, phục hồi chính quyền tay sai các
cấp; tăng cường bắt lính, đôn quân, xây dựng và phát triển lực
lượng dân vệ, thiết lập hệ thống đồn bốt ở những vị trí quan trọng
nhằm kiểm soát tình hình. Đi đôi với việc kìm kẹp, khống chế về

. Tại Đà Lạt, từ ngày 19 tháng 4 đến 10 tháng 5 năm 1946 và tại


1

Phôngtennơblô, từ ngày 6 tháng 7 đến 13 tháng 8 năm 1946.


2
. Ngày 14 tháng 9 năm 1946.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 121

quân sự, thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, lừa bịp về
chính trị, như ký Hiệp định ngày 28 tháng 7 năm 1946, cho Lào
“độc lập thống nhất và tự trị trong khối Liên hiệp Pháp”, lập Chính
phủ và bầu Quốc hội Viêng Chăn (tháng 5 năm 1946); thành lập
các đảng phái chính trị làm công cụ chia rẽ nội bộ, phá phong trào
cách mạng Lào, chia rẽ mối quan hệ láng giềng thân thiện, tình
đoàn kết chiến đấu chống thực dân phong kiến giữa Việt Nam và
Lào. Đồng thời, chúng ra sức vơ vét của cải, tăng thuế má, bắt phu
phen tạp dịch, v.v., thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến
tranh”, “dùng người Lào đánh người Lào”, “dùng người Đông
Dương đánh người Đông Dương”.
Bằng sức mạnh quân sự và thủ đoạn chính trị thâm độc, thực
dân Pháp từng bước ổn định tình hình, thiết lập bộ máy chính trị
các cấp ở Lào, gây cho phong trào kháng chiến của Lào nhiều khó
khăn, phức tạp.
Về phía cách mạng Lào, phong trào đấu tranh còn yếu, cơ sở
chính trị, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi hầu như chưa có gì.
Lực lượng vũ trang cách mạng Lào nhỏ bé, với vũ khí hết sức
thô sơ, hoạt động phân tán, thiếu sự chỉ huy, chỉ đạo thống nhất.
Lào tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp trong điều kiện
khó khăn hơn Việt Nam rất nhiều. Chính phủ độc lập Lào, sau
hơn tám tháng hoạt động đã phải lánh sang Thái Lan (tháng 6
năm 1946).
Ngày 29 tháng 12 năm 1946, Pháp tuyên bố bình định xong Lào.
Như vậy, đến cuối năm 1946, chiến tranh đã lan rộng trên khắp
bán đảo Đông Dương, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và
Lào đang gặp rất nhiều khó khăn về mọi phương diện, trong đó, nổi
lên là phải “chiến đấu trong vòng vây” bốn bề của chủ nghĩa đế
quốc, thực dân và thiếu sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế. Đông
Dương trở thành một chiến trường. Việt Nam là chiến trường
122 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

chính, nơi tập trung nhất về lực lượng và phương tiện chiến tranh
của quân Pháp.

3. Hai nước Việt Nam - Lào bước đầu thực hiện liên minh,
đoàn kết chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược (1945 -
1948)
Phối hợp chiến đấu chống Pháp chiếm đóng các thành phố, thị
xã của Lào. Trước hành động trắng trợn xâm lược Đông Dương của
thực dân Pháp, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản
Đông Dương, của các lãnh tụ cách mạng Việt Nam và Lào, thực
hiện Hiệp ước tương trợ Lào - Việt và Hiệp định về tổ chức liên
quân Lào - Việt, còn được gọi là Hiệp định thành lập liên quân Lào -
Việt, quân và dân các địa phương Việt Nam, nhất là vùng giáp biên
giới Việt Nam - Lào, tiến hành phối hợp tác chiến. Liên quân Lào -
Việt Nam kiên cường, dũng cảm chiến đấu, chống kẻ thù chung là
thực dân Pháp xâm lược.
Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương, Xứ uỷ Lào đã kịp thời lãnh đạo nhân dân các bộ tộc
Lào và Việt kiều đứng lên chống thực dân Pháp. Hội Việt kiều cứu
quốc ở các tỉnh, thành phố đã động viên và kêu gọi thanh niên, học
sinh, sinh viên, viên chức yêu nước tham gia lực lượng vũ trang,
gia nhập lực lượng liên quân Lào - Việt. Ngoài lực lượng tự vệ ở các
khu phố và các cơ quan, các chi hội, phân hội Việt kiều cứu quốc,
các ban chỉ huy liên quân Lào - Việt ở các thành phố, thị xã đã tập
hợp được một số lượng lớn thanh niên, học sinh. Thủ đô Viêng
Chăn tập hợp được hơn 600 người và tổ chức thành 6 đại đội chiến
đấu, gồm 3 đại đội Việt kiều và 3 đại đội Lào ítxalạ, trong đó có
đại đội Lào từ Thái Lan về, do ông Thạo Xột Phệtlaxỉ làm đại đội
trưởng. Xavẳnnakhệt tập hợp được 200 người, tổ chức thành 2 đại
đội chiến đấu. Thị xã Thà Khẹc tổ chức 4 đại đội gồm 2 đại đội
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 123

Lào ítxalạ và 2 đại đội Việt kiều giải phóng quân với số lượng 800
người. Ban Chỉ huy liên quân Lào - Việt ở mặt trận Thà Khẹc do
Hoàng thân Xuphanuvông chỉ huy chung, ông Xỉngcapô phụ trách
lực lượng vũ trang Lào; đồng chí Nguyễn Chánh phụ trách lực
lượng vũ trang Việt kiều. Tại khu vực mường Xê Pôn và Mương
Phin, nam - bắc đường 9, nối liền với thị trấn Lao Bảo (tỉnh Quảng
Trị, Việt Nam), các lực lượng yêu nước Lào do ông Thạo Ô, Thạo
Kê phụ trách, thành lập đại đội mường Xê Pôn. Tại khu vực Lắc
Xao, Khăm Cợt, Na Pê (thuộc tỉnh Khăm Muộn), các lực lượng vũ
trang yêu nước Lào do các ông Thạo Xây, Thạo Xổm phụ trách,
thành lập một trung đội Lào ítxalạ.
Ban Chỉ huy liên quân Lào - Việt ở thành phố Viêng Chăn và
các thị xã Thà Khẹc, Xavẳnnakhệt, mở các lớp huấn luyện quân sự
cho dân quân tự vệ và các lớp bồi dưỡng ngắn ngày về nhiệm vụ
công tác cho cán bộ trung đội, tiểu đội. Tính đến tháng 2 năm 1946,
mỗi nơi đã mở được hai đến ba lớp, giúp cho đội ngũ cán bộ chỉ
huy trung đội, tiểu đội có thêm kiến thức về quân sự cũng như về
chỉ huy, lãnh đạo.
Về trang bị vũ khí và hậu cần, các đơn vị liên quân Lào - Việt đều
dựa vào sự giúp đỡ của nhân dân Lào và bà con Việt kiều. Liên quân
Lào - Việt phân tán thành từng bộ phận nhỏ, thực hiện cùng ăn, ở
và làm việc với dân; lúc tập trung huấn luyện chiến đấu thì nhờ các
mẹ, chị em phụ nữ nấu cơm ăn tập thể. Quần áo, giày dép, ..., chủ
yếu là do anh em tự túc và gia đình trợ giúp. Trang bị vũ khí chủ
yếu là một vài loại súng bộ binh như súng trường, tiểu liên, trung
liên, cả súng kíp, lựu đạn, giáo mác và cung tên. Mỗi trung đội có
vài ba khẩu súng tiểu liên. Các đại đội tập trung có một đến hai
khẩu súng trung liên.
Ngay từ những ngày đầu cuộc kháng chiến, ủy ban kháng
124 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

chiến - hành chính và Bộ Chỉ huy Chiến khu 41 đã đưa lực lượng
lên phía tây, sang Lào phối hợp chiến đấu. Khi Pháp cho quân
nhảy dù chiếm đóng một số vị trí trên đường 9, 12, 8, Chiến khu 4
quyết định thành lập Ban Chỉ huy mặt trận đường 9, đường 8 và
đưa một số đơn vị lên sát biên giới Việt Nam - Lào sẵn sàng
đánh địch.
Trên mặt trận đường 9, Chiến khu 4 điều hai phân đội (tương
đương trung đội) của tỉnh Quảng Bình, một phân đội của thành phố
Huế, một đại đội của tỉnh Quảng Nam, cùng với chi đội giải phóng
quân tỉnh Quảng Trị, do đồng chí Nguyễn Thụ (Ba Thụ) làm chỉ
huy trưởng, đồng chí Trần Thanh Lạc (Chu Huy Mân) làm chính
uỷ, tiến lên biên giới Việt Nam - Lào, phối hợp đánh địch2. Từ đầu
tháng 11 năm 1945, các đơn vị thuộc mặt trận đường 9, tổ chức
đánh địch ở bản Nặm Cha Lộ (tây bắc Xê Pôn), buộc địch phải rút
về phía tây nam. Liên quân Lào - Việt phối hợp chiến đấu, kiểm
soát Mương Phin (ngày 21 tháng 12 năm 1945).
ở mặt trận đường 8, Chi đội Phan Đình Phùng (sau đổi thành
Trung đoàn 103) tổ chức một đơn vị, phối hợp với lực lượng liên
quân Lào - Việt, đánh địch ở gần Na Pê (giáp huyện Hương Sơn,
Hà Tĩnh), buộc địch phải lui về bản Na Xalim. Sau khi được thành
lập, tiểu đoàn của đồng chí Nguyễn Trường Sinh3 bố trí một đại đội
chốt giữ Na Pê, số còn lại phân tán làm nhiệm vụ tuyên truyền, vận
động nhân dân, gây dựng cơ sở, lực lượng kháng chiến. Cuối tháng
9 năm 1945, đơn vị của đồng chí Sinh tiến công địch khi chúng
đang từ bản Na Xalim về ngã ba Lắc Xao, diệt một số tên, buộc
địch phải rút về Khăm Cợt, phá tan âm mưu chiếm giữ Na Pê, tạo

. Từ năm 1948, đổi thành Liên khu 4.


1

. Hồi ức của đồng chí Chu Huy Mân, nguyên Chính uỷ mặt trận đƣờng 9
2

năm 1945 - 1946.


3
. Tiểu đoàn bộ đóng ở Phố Châu, Hƣơng Sơn, Hà Tĩnh.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 125

bàn đạp tiến công vào phía tây Hà Tĩnh theo đường 8. Đơn vị của
đồng chí Sinh tích cực giúp Lào gây dựng cơ sở, tổ chức một trung
đội Lào ítxalạ với đầy đủ vũ khí.
Tại tỉnh Khăm Muộn, ngày 27 tháng 11 năm 1945, một lực
lượng liên quân Lào - Việt do Hoàng thân Xuphanuvông chỉ huy
chia thành hai mũi đánh vào Nặm Malạt, buộc địch phải rút khỏi vị
trí. Mười ngày sau đó, liên quân Lào - Việt tổ chức đánh chặn, đẩy
lùi cuộc tiến công của địch ở Thà Đừa và truy kích địch ở Mương
Cầu, Na Mương, Bạn Đôn, Cốc Đôn.
Tỉnh Thanh Hoá cũng điều lực lượng lên phía tây, hoạt động ở
vùng biên giới Việt - Lào.
Trong các tháng cuối năm 1945 đầu năm 1946, tại Viêng Chăn,
liên quân Lào - Việt tổ chức đánh địch ở bản Na Khằng (ngày 10
tháng 10), trên đường 13 đoạn Ylay - Na Khằng (ngày 14 tháng
10), Bạn Cơn (ngày 19 tháng 11 năm 1945 và 22 tháng 1 năm
1946), Thà Đừa (ngày 8 tháng 1 năm 1946), v.v..
Từ tháng 2 năm 1946, sau khi được tăng cường thêm binh lực,
quân Pháp ở Lào mở các cuộc tiến công lớn vào khu vực Đồng
Hến, Mương Phin, Xê Pôn. Liên quân Lào - Việt tổ chức nhiều trận
đánh để ngăn chặn các cuộc tiến công của địch. Do bị tổn thất, liên
quân Lào - Việt chủ động rút khỏi Mương Phin, Xê Pôn về vùng
biên giới Việt - Lào. Đầu tháng 3 năm 1946, tiểu đoàn bộ đội địa
phương Hà Tĩnh do đồng chí Trường Sinh chỉ huy, rút khỏi Khăm
Cợt về vùng biên giới Lào - Việt. Các ông Thạo Xây, Thạo Xổm
cùng một trung đội Lào ítxalạ rút sang khu vực Phố Châu (Hương
Sơn, Hà Tĩnh) xây dựng lực lượng, chờ thời cơ trở về nước tiếp tục
chiến đấu.
Nhằm ngăn chặn địch đánh chiếm thị xã Xavẳnnakhệt, từ ngày
21 đến 24 tháng 2 năm 1946, liên quân Lào - Việt tổ chức phục
kích, tập kích địch ở Km 160, 185 trên đường 13, ở bản Noỏng
126 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

Đơn, Na Xeng, v.v..


Chi bộ Đảng Cộng sản ở Thà Khẹc chủ trương động viên nhân
dân Lào và Việt kiều cùng lực lượng vũ trang liên quân Lào - Việt
đánh địch, bảo vệ Thà Khẹc. Nhân dân Lào và Việt kiều cùng bộ
đội xây dựng công sự, trận địa ở các vị trí quan trọng trong và
ngoài thị xã. Lực lượng vũ trang cách mạng ở Thà Khẹc có hai đại
đội bộ đội Lào, hai đại đội Việt kiều cứu quốc, quân số khoảng 800
người, được trang bị các loại vũ khí bộ binh. Ngoài ra, còn có đông
đảo du kích, tự vệ chiến đấu.
Ngày 21 tháng 3 năm 1946, khi Pháp mở cuộc tiến công vào thị
xã Thà Khẹc, liên quân Lào - Việt đã chiến đấu rất quyết liệt, kéo dài
nhiều giờ đồng hồ, gây cho địch một số tổn thất. Nhưng, so sánh lực
lượng bất lợi nên liên quân Lào - Việt vừa đánh vừa rút dần về phía
tây thị xã, sang Thái Lan. Phát hiện liên quân Lào - Việt đang vượt
sông Mê Công sang Nakhon Phạnôm (Thái Lan), quân Pháp huy
động máy bay ném bom, bắn phá. Chiếc thuyền chở Hoàng thân
Xuphanuvông bị bắn dữ dội, cán bộ, chiến sĩ Việt Nam - Lào đã
dũng cảm che chở, bảo vệ an toàn cho Hoàng thân Xuphanuvông,
song đồng chí Lê Thiệu Huy, một cán bộ chỉ huy người Việt Nam, bị
trúng đạn hy sinh. Sau này, trong bức thư gửi cụ Lê Thước (thân sinh
của Lê Thiệu Huy), Hoàng thân Xuphanuvông viết: “Thưa Ngài, anh
Lê Thiệu Huy, người con yêu quý vào bậc nhất của Ngài, mất đi,
không những riêng trong gia quyến mất một người con yêu dấu mà
nước Việt Nam và nhân dân Lào mất một chiến sĩ đầy tinh thần hy
sinh vì công lý. Riêng tôi, cái chết của anh Lê Thiệu Huy không khỏi
làm cho tôi bùi ngùi và thương tiếc. Anh Lê Thiệu Huy đã sát cánh
cùng tôi chiến đấu để giải phóng cho nước Lào, cho dân tộc Lào.
Tinh thần hy sinh cao cả ấy đã nhắc nhở cho thanh niên Lào, cho
nhân dân Lào, luôn luôn bền bỉ chiến đấu để diệt đế quốc xâm lăng
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 127

và giành độc lập thực sự cho đất nước”1.


Chiến đấu bảo vệ Thà Khẹc là trận đánh lớn nhất của liên quân
Lào - Việt kể từ ngày thành lập, nêu một tấm gương sáng ngời về
tinh thần dũng cảm và tình đoàn kết, gắn bó keo sơn giữa hai dân
tộc Lào - Việt; trở thành một biểu tượng cao đẹp về liên minh chiến
đấu giữa quân và dân hai nước Việt Nam - Lào.
Từ sau khi thực dân Pháp đưa quân lên bắc vĩ tuyến 16 (tháng 3
năm 1946), một bộ phận lực lượng cách mạng Lào ở các tỉnh
Xavẳnnakhệt, Khăm Muộn, Xiêng Khoảng và Hủa Phăn, chuyển
sang Khu 4 (Việt Nam), được Khu uỷ và Uỷ ban kháng chiến -
hành chính tận tình giúp đỡ. Các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình trở thành căn cứ địa, đất đứng chân của lực
lượng cách mạng vùng Đông Lào. Năm 1946, các lực lượng phía
Đông Lào rút sang Việt Nam gồm có 160 người từ tỉnh Xavẳnnakhệt
sang tỉnh Quảng Bình; một trung đội từ tỉnh Khăm Muộn sang
huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; hơn 100 người từ tỉnh Xiêng
Khoảng sang huyện Mường Xén, tỉnh Nghệ An và khoảng 30
người từ tỉnh Hủa Phăn sang vùng Cửa Rào, Nghệ An.
Cuối tháng 3 năm 1946, hàng trăm gia đình người Mông (Lào),
từng chiến đấu chống Pháp và tay sai, dưới sự chỉ huy của ông
Thạo Tu đã bí mật chuyển sang vùng Mường Xén (Nghệ An). Tiếp
đó, 30 thanh niên con em các bộ tộc Lào ở vùng Sằm Tớ, do ông
Xiêng Xinh (tức Phia Hõm) phụ trách tới vùng Cửa Rào, Mường
Xén (Nghệ An). Một bộ phận khác khoảng 160 người là công nhân,
viên chức, binh lính yêu nước mang theo vũ khí vượt sông Xê Pôn
(Lào) sang Quảng Bình và Hà Tĩnh2. Tỉnh Nghệ An cử đồng chí Lê

1
. Thư của Hoàng thân Xuphanuvông gửi cụ Lê Thước, đề ngày 7 tháng 11
năm 1951. Phòng Tƣ liệu Viện Nghiên cứu Đông Nam á.
2
. Xem Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử các đoàn
81, 82, 83, 280 quân tình nguyện Việt Nam tại Lào (1945 - 1954), Nxb. Quân đội
128 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

Văn Bính, Phó Chủ tịch huyện Con Cuông và đồng chí Lê Văn Diễm,
ủy viên tuyên truyền phủ Anh Sơn, tổ chức tiếp đón lực lượng yêu
nước các bộ tộc Lào sang củng cố và trang bị thêm vũ khí. Nhiều
vùng ở Khu 4 trở thành hậu phương, chỗ đứng chân của các lực
lượng kháng chiến, yêu nước Lào. Các khu vực biên giới ở Nặm
Cắn đường 7, Lắc Xao đường 8, Lao Bảo đường 9, là những mặt
trận quan trọng, do Khu 4 đảm nhiệm phòng thủ. Phòng Ngoại vụ
Khu 4 chịu trách nhiệm trực tiếp giúp đỡ các lực lượng cách mạng
Lào. Các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy Khu 4 và Uỷ ban kháng chiến -
hành chính tỉnh Nghệ An được Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương giao nhiệm vụ chỉ đạo việc giúp đỡ, giải quyết các vấn đề
theo yêu cầu của lực lượng kháng chiến Đông Lào.
Tháng 10 năm 1946, Chiến khu 4 (Việt Nam), giúp các lực
lượng kháng chiến Lào thuộc các tỉnh Xavẳnnakhệt, Khăm Muộn,
Xiêng Khoảng và Hủa Phăn, tổ chức hội nghị tại thành phố Vinh,
tỉnh Nghệ An, nhằm thống nhất lực lượng, thành lập Uỷ ban giải
phóng Đông Lào1 để chỉ đạo cuộc đấu tranh tại vùng phía Đông
Lào. Hội nghị đề ra phương hướng công tác vận động nhân dân xây
dựng cơ sở, tổ chức các đơn vị vũ trang Lào ítxalạ và quyết định
tập trung củng cố các lực lượng vũ trang Lào, phát động chiến
tranh du kích chống thực dân Pháp và tay sai. Uỷ ban giải phóng
Đông Lào quyết định phân chia lực lượng vũ trang thành hai bộ
phận. Bộ phận thứ nhất, chịu trách nhiệm khu vực Xiêng Khoảng,
Sầm Nưa (Hủa Phăn). Bộ phận thứ hai chịu trách nhiệm khu vực
đường 8, 9. Các lực lượng này của Lào phối hợp với các lực lượng
vũ trang của Chiến khu 4 và của các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà

nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.16.


1
. Uỷ ban gồm chín ngƣời, do ông Nủhắc Phumxavẳn làm chủ tịch, ông Thạo
Ô làm phó chủ tịch, ông Tu Lăn làm uỷ viên quân sự và ông Xỉngcapô làm uỷ viên
chính trị.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 129

Tĩnh phối hợp với nhau xây dựng cơ sở dọc biên giới hai nước từ
Hủa Phăn xuống Khăm Muộn.
Để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, từ tháng 3 năm
1946, Xứ uỷ Ai Lao thông qua phái viên Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà tại Viêng Chăn, đã bàn bạc, thống nhất với
Chính phủ độc lập Lào ítxalạ, chủ trương vừa chiến đấu tiêu hao
sinh lực địch, cản bước tiến của chúng, vừa chủ động tổ chức cho
nhân dân Lào và Việt kiều di tản ra khỏi thành phố, chuyển Chính
phủ lên Luổng Phạbang và đưa lực lượng vũ trang về vùng nông
thôn, miền núi, tiến hành kháng chiến lâu dài. Theo đó, từ cuối
tháng 3 năm 1946, đa số nhân dân Lào ở Viêng Chăn và hầu hết
bà con Việt kiều đã vượt sông Mê Công tản cư sang Thái Lan.
Đầu tháng 4 năm 1946, một bộ phận các cơ quan của Chính phủ
độc lập Lào ítxalạ chuyển lên kinh đô Luổng Phạbang. Ban Chỉ
huy liên quân Lào - Việt ở Viêng Chăn tổ chức lại lực lượng chiến
đấu cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới. Đại bộ phận vẫn
tiếp tục chiến đấu nhằm tiêu hao sinh lực địch, ngăn cản bước tiến
quân của chúng. Một lực lượng được cử đi theo làm nhiệm vụ bảo
vệ dân và cơ quan Chính phủ. Đến cuối tháng 4, sau khi hoàn
thành nhiệm vụ tiêu hao sinh lực địch, bảo vệ nhân dân và Chính
phủ tản cư an toàn sang Thái Lan và lên Luổng Phạbang, liên
quân Lào - Việt rút ra khỏi Thủ đô Viêng Chăn, sau đó rút sang
Thái Lan.
Giữa tháng 5 năm 1946, quân Pháp tiến công vào kinh đô
Luổng Phạbang. Nhà vua Xỉxávàngvông đầu hàng Pháp và lệnh
cho lực lượng vũ trang Lào hạ vũ khí, chấp nhận sự thống trị của
Pháp. Lực lượng vũ trang Lào ítxalạ và những người Lào chống
Pháp rút khỏi kinh đô, tản vào rừng.
Có thể nói, cuộc chiến đấu bảo vệ các thành phố, thị xã ở bắc
vĩ tuyến 16 của Lào, đến giữa tháng 5 năm 1946, về cơ bản đã suy
130 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

yếu, chỉ còn những hoạt động nhỏ lẻ, phân tán. Chính phủ độc lập
Lào, sau một thời gian hoạt động, phải lánh sang Thái Lan, nhưng đã
có những đóng góp quan trọng trong việc đề cao danh nghĩa độc
lập của nước Lào và tăng cường quan hệ đoàn kết chiến đấu chống
kẻ thù chung giữa Chính phủ và nhân dân hai nước Việt Nam -
Lào. Liên quân Lào - Việt đã đoàn kết, giúp đỡ nhau, tích cực, chủ
động đánh địch, nêu cao tinh thần cách mạng, ý chí chiến đấu
chống kẻ thù chung là thực dân Pháp.
Sau khi chiếm được Thủ đô Viêng Chăn và kinh đô Luổng
Phạbang, Pháp cho lập Chính phủ và bầu Quốc hội Viêng Chăn; ký
hiệp định (ngày 28 tháng 7 năm 1946) công nhận Lào “độc lập,
thống nhất và tự trị trong khối Liên hiệp Pháp”; thành lập các đảng
phái chính trị làm công cụ phá hoại cách mạng Lào, chia rẽ nội bộ
Lào, chia rẽ tình đoàn kết, thân thiện Lào - Việt Nam.
Bằng chính sách thâm độc đó cùng với sức mạnh quân sự, đến
cuối năm 1946, quân Pháp đã từng bước kiểm soát được tình hình ở
Lào, thiết lập bộ máy chính quyền tay sai, gây cho phong trào
kháng chiến của Lào nhiều khó khăn, đồng thời uy hiếp phong trào
cách mạng Việt Nam từ phía tây.
Nhằm từng bước phối hợp xây dựng lực lượng cơ sở kháng
chiến ở Lào, cuối năm 1946, các lực lượng vũ trang cách mạng Lào
và lực lượng Việt kiều chuyển hướng trở về hoạt động ở vùng nông
thôn, rừng núi, tiến hành công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng
cơ sở chính trị, phát động chiến tranh du kích, thiết lập các khu căn
cứ, chuẩn bị điều kiện để tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài, đưa
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Lào từng bước tiến lên.
Tại Hạ Lào, thực hiện chủ trương đưa lực lượng về hoạt
động trên đất Lào, Hoàng thân Xuphanuvông trên danh nghĩa Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ độc lập Lào ítxalạ và Tổng Chỉ
huy liên quân Lào - Việt, lệnh cho các lực lượng của Lào tản cư
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 131

sang ămphơ (tổng) Phi Bun (Thái Lan) tổ chức huấn luyện quân
sự, củng cố tổ chức để trở về vùng Hạ Lào1 tham gia kháng chiến
chống Pháp.
Để tăng cường xây dựng lực lượng, thúc đẩy phong trào kháng
chiến chuẩn bị mở mặt trận Hạ Lào, Hoàng thân Xuphanuvông đã
hiệp thương với đồng chí Nguyễn Đức Quỳ, đại diện Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và thu xếp cho lực lượng tiền trạm
sang liên lạc với Chính phủ Việt Nam tại miền Nam Trung Bộ, nhờ
Việt Nam giúp xây dựng chỗ đứng chân ở vùng biên giới phía đông
Hạ Lào. Đội tiền trạm xuất phát từ tháng 5 năm 1948 gồm một
trung đội Lào do ông Xổm Manôviêng chỉ huy, cùng một trung đội
Việt kiều giải phóng quân, vượt vùng địch kiểm soát sang Liên khu
5 (Việt Nam). Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ thị cho
Đảng bộ và chính quyền địa phương Liên khu 5 về việc tăng cường
giúp đỡ Hạ Lào. Tháng 3 năm 1948, đồng chí Phạm Văn Đồng, lúc
đó là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà ở Nam Trung Bộ, giao nhiệm vụ cho Tỉnh uỷ Quảng
Nam (Việt Nam) cùng Trung đoàn 93 tổ chức một trung đội đến

1
. Hạ Lào, khái niệm này có nhiều nguồn tài liệu giải thích khác nhau, theo
nguồn tài liệu này bao gồm ba tỉnh là Chămpaxắc, Xalavăn và áttapƣ, chiếm
khoảng 1/6 diện tích Lào. Đây là vùng rừng núi xen lẫn đồng bằng và cao nguyên,
có biên giới giáp các tỉnh vùng Tây Nguyên (Việt Nam), đông bắc Campuchia và
Thái Lan. Hạ Lào nằm ở phía nam vĩ tuyến 16, vì thế ngay từ tháng 9 năm 1945,
Pháp đã đƣa quân chiếm đóng (núp sau lƣng quân Anh, với danh nghĩa lực lƣợng
Đồng minh vào giải giáp quân Nhật), đƣợc tập đoàn lãnh chúa Bun ùm, giúp đỡ,
nên đến cuối tháng 10 năm 1945, quân Pháp đã chiếm xong Hạ Lào và thiết lập
bộ máy nguỵ quyền tay sai. Căm thù, chán ghét bọn thực dân Pháp và chế độ bóc
lột tàn tệ của lãnh chúa phong kiến địa phƣơng nên một số viên chức và thanh
niên Lào có tinh thần yêu nƣớc ở Hạ Lào đã di tản sang các tổng Bun và Bùng
Vai, thuộc huyện Valin, tỉnh Uđon, Thái Lan. Phong trào cách mạng và sự phối
hợp chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đã phát triển từ khi Pháp trở lại
xâm chiếm Hạ Lào. Hạ Lào là nơi xuất xứ nhiều cán bộ cách mạng của Lào.
132 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

biên giới phía tây Quảng Nam giáp Xalavăn nắm tình hình và
chuẩn bị địa bàn giúp đỡ lực lượng kháng chiến Lào. Đầu tháng 7
năm 1948, tổ công tác và trung đội trên đã đón đơn vị của ông Xổm
Manôviêng cùng đơn vị Việt kiều về huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi)
để củng cố lực lượng, huấn luyện và trang bị vũ khí.
Ngày 10 tháng 7 năm 1948, đồng chí Phạm Văn Đồng thay mặt
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ký quyết định thành lập
Khu đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ giúp đỡ Lào xây dựng cơ sở,
xây dựng căn cứ ở Hạ Lào. Khu đặc biệt do đồng chí Trần Công
Khanh làm khu trưởng, đồng chí Nguyễn Chính Cầu (tức Nguyễn
Chính Giao) làm chính uỷ.
Ban lãnh đạo Khu đặc biệt tổ chức bộ phận đón tiếp lực lượng
của Lào sang và chuẩn bị lực lượng, phương tiện để thực hiện
nhiệm vụ phối hợp, giúp đỡ cách mạng Lào. Căn cứ của Khu đặc
biệt được đặt tại Tà Ngô (huyện Bến Giằng, tỉnh Quảng Nam), gần
biên giới Việt Nam - Lào.
Lực lượng của Liên khu 5 (Việt Nam) được cử đi giúp Lào
gồm có một đại đội được tuyển chọn gồm cán bộ tham mưu, chính
trị, hậu cần, chủ yếu là của Phòng Chính trị Liên khu 5.
Sau một thời gian chuẩn bị cả về vật chất và tinh thần, ngày 19
tháng 8 năm 1948, đơn vị của ông Xổm Manôviêng cùng đoàn cán
bộ của Liên khu 5 (Việt Nam) làm lễ xuất quân từ làng Đề An,
huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi đi Tà Ngô, huyện Bến Giằng,
tỉnh Quảng Nam để sang Hạ Lào hoạt động. Đồng chí Phạm Văn
Đồng đã ân cần dặn dò đoàn công tác rằng chỉ có vận động nhân
dân Lào kháng chiến thì Việt Nam và Lào mới có thể đánh thắng
giặc Pháp xâm lược.
Sau khi dừng chân ở Tà Ngô, đoàn cán bộ Lào - Việt chia thành
ba bộ phận, hành quân sang vùng phía đông hai tỉnh Xalavăn và
áttapư theo ba hướng tây, tây bắc và tây nam. Mỗi bộ phận gồm
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 133

một tiểu đội người Lào, hai tiểu đội người Việt Nam và tổ dân vận,
làm nhiệm vụ khảo sát, nắm tình hình địch, dân cư, gây dựng cơ sở,
phát động nhân dân kháng chiến. Đoàn cán bộ Lào - Việt, từ cán bộ
đến chiến sĩ, ai cũng có quyết tâm cao, hăng say công tác, nhưng có
điều trở ngại là anh em người Việt không biết tiếng Lào, không
hiểu phong tục, tập quán của đồng bào các bộ tộc Lào, người Lào
không biết tiếng Việt, nên trong tiếp xúc, công tác gặp nhiều khó
khăn. Nhiều anh em (cả người Lào và Việt) hầu như chưa có kinh
nghiệm làm công tác vận động nhân dân vùng dân tộc thiểu số,
nhiều người chỉ muốn được cầm súng đánh địch, ít coi trọng công
tác dân vận, vận động quần chúng nhân dân.
Thời gian đầu, các đội công tác Lào - Việt tiến hành khảo sát
tình hình và vận động nhân dân ở vùng biên giới phía đông các tỉnh
Xalavăn và áttapư. Sau khoảng nửa năm công tác, phạm vi hoạt
động chỉ mở rộng được trong khoảng bốn, năm ngày đường đi bộ
mỗi chiều, vận động được khoảng 50 bản, cùng chừng 5.000 dân
gồm nhiều bộ tộc, ngôn ngữ và phong tục, tập quán khác nhau.
Phát hiện thấy lực lượng Lào - Việt hoạt động, quân địch tổ
chức nhiều cuộc càn quét, từ áttapư, Xalavăn đến tận biên giới Việt
- Lào, các đội công tác Việt - Lào tổ chức một số trận đánh ở Đắc
Rai, Đắc Ranh, Măng Dơn, Tăng Dưi, Măng Hà, gây cho địch một
số thiệt hại, buộc chúng phải rút ngắn thời gian hoạt động.
Một khó khăn khác của đoàn công tác là trong vùng hoạt động,
dân cư thưa thớt, kinh tế nghèo nàn, trình độ dân trí thấp. Nhân dân
thường xuyên mắc phải nhiều bệnh tật, nhất là sốt rét và đường
ruột. Các bộ tộc sống đơn lẻ, thiếu hiểu biết nhau, thường có mâu
thuẫn và sự hiềm khích. Mặc dầu đã hết sức cố gắng nhưng các đội
công tác Lào - Việt chỉ gây được cơ sở ở một vài bản. Một số nơi
dân sống biệt lập, “cắm lá” không tiếp xúc với đoàn công tác. Do
hoạt động khó khăn về mọi mặt nên trong đoàn công tác xuất hiện
134 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

tư tưởng bi quan, chán nản, không muốn tiếp tục công tác ở vùng
này. Số anh em người Lào muốn được trở về cầm súng chiến đấu
như hồi đầu kháng chiến ở vùng Chămpaxắc. Một số anh em người
Việt cũng muốn trở về nước.
Tình hình trên nếu không có phương hướng, biện pháp giải
quyết thì sẽ khó có thể thúc đẩy phong trào kháng chiến ở Hạ Lào
phát triển. Nhận rõ tình hình và thấy được việc cấp bách phải xây
dựng căn cứ, xây dựng lực lượng đẩy mạnh kháng chiến ở Hạ Lào,
cuối năm 1948, Hoàng thân Xuphanuvông, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Chính phủ độc lập Lào đã giao cho đồng chí Khăm Tày Xiphănđon,
đại diện Chính phủ Lào cùng ông Xỉthôn Cômmađăm, khu trưởng
quân sự, đưa một trung đội của đơn vị Xaychắccaphắt và một trung
đội Việt kiều từ Thái Lan di chuyển về phía biên giới Việt - Lào,
sang Liên khu 5 (Việt Nam) chuyển công văn của Chính phủ Lào
đến đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Nam Trung
Bộ, nhờ giúp đỡ thành lập Khu kháng chiến Hạ Lào.
ở Tây Lào1, từ khi phải chuyển lực lượng sang Thái Lan (năm
1946), cấp uỷ, chỉ huy các đơn vị liên quân Lào - Việt ở từng khu vực
đã tập hợp, củng cố lực lượng vũ trang Việt kiều, các đội công tác cơ
sở, chuẩn bị điều kiện để trở về hoạt động ở mặt trận phía tây Lào.
Dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Ai Lao, các tổ chức đoàn thể Việt
kiều yêu nước ở Lào, Thái Lan, vận động đồng bào ủng hộ tiền, của
để mua sắm vũ khí chuyển từ Thái Lan về Lào; đồng thời động
viên nhân dân Lào cùng Việt kiều gửi con em tham gia xây dựng
các đơn vị liên quân Lào - Việt. Sinh ra và lớn lên trên đất Lào,
thông thạo ngôn ngữ, am hiểu tập quán của các bộ tộc Lào là điều

1
. Tây Lào, khái niệm này có nhiều nguồn tài liệu giải thích khác nhau, theo
nguồn tài liệu này là vùng dọc theo sông Mê Công, từ phía bắc tỉnh Huội Xài đến phía
tây tỉnh Khăm Muộn, gồm toàn bộ tỉnh Huội Xài, phía tây Luổng Phạbang, toàn bộ
Viêng Chăn và một phần nam Khăm Muộn.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 135

kiện thuận lợi để thanh niên Việt kiều gia nhập các đơn vị vũ trang
liên quân, sát cánh chiến đấu với anh em người Lào.
Đầu năm 1947, Đặc ủy kiều bào và Tổng hội Việt kiều cứu quốc
quyết định thành lập Bộ Tư lệnh mặt trận Lào - Miên, do đồng chí
Vũ Hữu Bỉnh làm tư lệnh (sau gọi là mặt trận miền Tây) nhằm giúp
đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Lào, Miên từ phía tây. Bộ Tư lệnh
chủ trương thành lập bốn đặc khu trên đất Lào, Miên. Đặc khu 1 là
Viêng Chăn. Đặc khu 2 là Pạc Xan - Thà Khẹc. Đặc khu 3 là
Xavẳnnakhệt. Đặc khu 4 là Báttamboong (Bắc Miên)1. ở các đặc
khu, đảng uỷ và ban chỉ huy quân sự nhanh chóng tập hợp, củng cố
lực lượng vũ trang Việt kiều và các đội công tác cơ sở, chuẩn bị sẵn
sàng trở lại Lào hoạt động khi có điều kiện thuận lợi.
Từ giữa năm 1947, các đơn vị Việt kiều giải phóng quân và đội
công tác cơ sở (ở Thái Lan) được bổ sung thêm quân số, vũ khí và
tổ chức thành ba lực lượng về Nam Bộ (Việt Nam), Campuchia và
Lào, trực tiếp tham gia kháng chiến.
Lực lượng trở về Lào được tổ chức thành các đơn vị vũ trang
tuyên truyền và các đội công tác cơ sở hoạt động dọc theo lưu vực
sông Mê Công từ Viêng Chăn xuống khu vực Trung Lào.
Phía bộ đội Việt kiều được phái về Viêng Chăn (Đặc khu 1)
hoạt động, lúc đầu có 70 người. Ban Chỉ huy Đặc khu 1 tổ chức hai
đơn vị Việt kiều giải phóng quân trở lại chiến trường Viêng Chăn
tìm cách phối hợp với lực lượng Lào ítxalạ, nhằm vào hai hướng là
vùng Nặm Tòn - Phôn Hoộng ở phía tây bắc, bắc Viêng Chăn và
vùng Thà Boốc - Pạc Xan ở phía đông và đông bắc Viêng Chăn hoạt
động. Đây là hai địa bàn rừng núi có vị trí quan trọng về chính trị,
quân sự, xa trung tâm đầu não của địch, mặt khác ở đây có thể dựa

1
. Đến tháng 4 năm 1949 lập thêm đặc khu ở vùng Huội Xài - Luổng
Phạbang - Xaynhabuli.
136 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

vào cơ sở Việt kiều ở ven sông Mê Công bên phía Thái Lan để bảo
đảm giao thông liên lạc, chỉ huy, tiếp tế và có thể thực hiện tác
chiến tiêu hao sinh lực địch, bảo toàn lực lượng kháng chiến. Bộ
đội Việt kiều trở về Viêng Chăn được cán bộ và nhân dân Lào gọi
là “Thà hãn ai noọng” (bộ đội anh em), hoặc gọi chung là “Thà hãn
ítxalạ” như bộ đội Lào.
Đơn vị Nặm Tòn - Phôn Hoộng có 40 người, biên chế thành ba
phân đội và một cơ quan chỉ huy. Phạm vi hoạt động tương đối
rộng, từ vùng Nặm Tòn đến đường 13, từ ngoại thành Viêng Chăn
lên Phôn Hoộng, sang Nặm Lịch, khu vực Bạn Cơn và đường 10.
Nhiệm vụ của đơn vị là phối hợp với bộ đội Lào ítxalạ tại địa
phương, thực hiện công tác vũ trang tuyên truyền, tác chiến tiêu
hao địch và đánh phá giao thông, kìm chế hoạt động của địch, gây
thanh thế cho bộ đội Lào ítxalạ và phong trào kháng chiến của nhân
dân các bộ tộc Lào. Trong năm 1947, đơn vị phân chia thành nhiều
tổ, nhóm nhỏ vào từng làng, bản, tuyên truyền, vạch rõ âm mưu,
hành động phá hoại của giặc Pháp, giải thích chủ trương của Chính
phủ Lào ítxalạ là kháng chiến, đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc
lập, tự do thực sự cho Lào. Đồng thời, tổ chức tập kích đồn Hủa
Khủa trên đường 13 cách Viêng Chăn 20 km về phía bắc; phục kích
đoàn xe chở quân của địch gần làng Thồng Măng trên đường 10,
đoạn Thà Ngòn - Bạn Cơn; phục kích đoàn canô chở quân ở khu
vực Kẹng Mọ, trên sông Mê Công; đánh địch ở giữa bản Noỏng
Khỏn và bản Háy Càbạc.
Đơn vị Thà Boốc - Pạc Xan có 30 người. Phạm vi hoạt động
dọc theo đường 13 từ Pạc Xan - Thà Boốc - Pạc Ngừm ngược lên
Viêng Chăn, dọc đường 4, từ Pạc Xan - Mương Cầu lên Thà Viêng
và các vùng thượng lưu sông Nặm Xăn, Nặm Nghiệp, các vùng núi
cao Phu Phalavẹc, Phu Mừn, Phu Ngu. Nhiệm vụ của đơn vị này là
phối hợp với lực lượng Lào ítxalạ tại địa phương làm công tác vũ
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 137

trang tuyên truyền và đánh địch, gây tiếng vang cho phong trào
kháng chiến, tạo niềm tin trong nhân dân và lực lượng vũ trang Lào
- Việt. Các cán bộ, chiến sĩ đơn vị Thà Boốc - Pạc Xan đã tiến hành
các hoạt động vũ trang tuyên truyền qua nhiều làng, bản trên địa
bàn rừng núi ở vùng thượng nguồn các sông Nặm Xăn, Nặm
Nghiệp, xây dựng cơ sở và tổ chức đánh địch ở Bạn Hày (trên
đường 13), phá cầu ở Thà Boốc, phục kích đánh ca nô và xe cơ giới
địch khi chúng chở quân xuống tăng cường cho đồn Pạc Xan.
Ngoài hai đơn vị trên ở Viêng Chăn, phía Tây Lào còn có một
bộ phận phụ trách đường giao thông Việt - Lào - Thái gồm 30
người. Cuối năm 1947, được nhân dân Lào nhiệt tình giúp đỡ, đơn
vị này đã mở thông con đường giao liên quốc tế từ Bưng Càn (Thái
Lan) qua Bolịkhăn, Mương Mộc, Mương Ngan (Lào) về Liên khu 4
(Việt Nam), góp phần quan trọng bảo đảm cho sự liên lạc của
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương với chiến trường Lào qua
Thái Lan ra các nước khác.
Tại khu vực nam Thà Khẹc và bắc Xavẳnnakhệt, phía tây Lào,
có một lực lượng gọi là Phân khu 6, tổ chức thành ba đội công tác
(số 13, 14, 15). Đây là số anh chị em Việt kiều, thông thạo tiếng và
phong tục, tập quán địa phương Lào, làm công tác tuyên truyền vận
động quần chúng.
Hoạt động của các đơn vị Nặm Tòn - Phôn Hoộng và Thà Boốc -
Pạc Xan cùng với hoạt động của đơn vị Koong Phạ Ngừm Lào
ítxalạ ở địa phương và các đơn vị nói trên đã gây được ảnh hưởng
lớn đến nhân dân ở vùng địch tạm chiếm, tạo được lòng tin đối với
nhân dân, gây dựng được những cơ sở kháng chiến ban đầu ở mặt
trận Viêng Chăn và một số vùng phía tây Lào.
Do hoạt động gian khổ, điều kiện sinh hoạt khó khăn, bệnh tật
phát sinh, một số đồng chí đã hy sinh, nên đến cuối năm 1947, phần
lớn lực lượng của hai đơn vị Việt kiều hoạt động ở vùng Viêng Chăn
138 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

được lệnh rút sang Thái Lan củng cố. Chỉ còn một tổ công tác ở lại
vùng Nặm Tòn, liên hệ phối hợp với đơn vị Lào ítxalạ do ông Thạo
Mừn Xổmvichít chỉ huy, dựa vào dân tiếp tục hoạt động.
Tại vùng Đông Lào1, thực hiện chủ trương của Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dương, chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh của Bộ
Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam và theo yêu cầu của
cách mạng Lào, Bộ Tư lệnh Chiến khu 4 giao nhiệm vụ cho các
tỉnh cử một số cán bộ và đơn vị sang phối hợp, giúp đỡ các địa
phương lân cận phía Đông Lào xây dựng cơ sở kháng chiến. Đầu
năm 1947, Khu ủy và ủy ban kháng chiến - hành chính Khu 4 quyết
định thành lập Phòng Biên chính trên cơ sở Phòng Ngoại vụ,
chuyên trách giúp các lực lượng kháng chiến Lào, do đồng chí Trần
Đức Vịnh phụ trách2 đóng ở vùng Đô Lương, Con Cuông (tỉnh
Nghệ An). Phòng Biên chính có nhiệm vụ giúp ủy ban giải phóng
Đông Lào củng cố và phát triển các lực lượng cách mạng, yêu nước
Lào và tổ chức đón tiếp các lực lượng từ Thái Lan qua Lào sang
Việt Nam và ngược lại; phối hợp chặt chẽ với Tiểu đoàn 265 địa
phương tỉnh Nghệ An phụ trách biên giới phía tây, tổ chức hoạt
động gây cơ sở trong các vùng người dân tộc Việt Nam và Lào, tạo
chỗ đứng chân để tiến sâu vào đất Lào; chắp nối liên lạc với cán bộ
cốt cán còn lại trong các thị xã, thị trấn, và các vùng địch tạm
chiếm, xây dựng cơ sở chính trị, hoạt động vũ trang tuyên truyền,
trọng tâm là vùng nông thôn, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở
miền núi, tập trung xây dựng căn cứ du kích làm chỗ đứng chân ở

. Đông Lào, khái niệm này có nhiều nguồn tài liệu giải thích khác nhau,
1

theo nguồn tài liệu này là vùng phía đông các tỉnh Khăm Muộn, Xavẳnnakhệt
(thuộc Trung Lào), Xiêng Khoảng và Hủa Phăn (Bắc Lào).
2
. Sau khi đồng chí Trần Đức Vịnh hy sinh (tháng 5 năm 1947), đồng chí Ngô
Văn Anh đảm nhiệm thay. Khi đồng chí Anh mất, đồng chí Đào Việt Hƣng thay.
Đến tháng 10 năm 1948, đồng chí Nguyễn Tài, nguyên Phó Chủ tịch ủy ban cách
mạng lâm thời tỉnh Nghệ An đƣợc phân công phụ trách Phòng Biên chính.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 139

vùng Xảm Chè (người Mông), Mương Nham và ngược lên phía
bắc, hai bên đường 7, thuộc vùng Noỏng Hét, Bạn Ban, Mương
Pẹc.
Các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị tổ chức Ban Biên
chính, gồm 2 đến 4 cán bộ để liên hệ giúp Lào. Ban Biên chính Hà
Tĩnh gồm có 4 người, đóng ở huyện Hương Sơn. Cán bộ của ban
này thường xuyên sang hoạt động, giúp Lào ở các vùng Na Vang,
Na Háo, thuộc tàxẻng (tổng) Nặm Vẹo sát với huyện Hương Sơn và
tàxẻng Thạp Hay sát với huyện Hương Khê. Tỉnh Quảng Bình cử
một tổ công tác sang gây cơ sở ở vùng Bualapha, sát biên giới với
huyện Bố Trạch. Ban Biên chính tỉnh Quảng Trị đóng ở huyện
Hương Hoá, sang giúp Lào xây dựng cơ sở, phát động phong trào ở
vùng Tà Ôi, Mương Noòng, tiếp giáp tỉnh Quảng Trị. Mặt khác,
các tỉnh thuộc Liên khu 4 còn cử một số đơn vị bộ đội sang vùng
lân cận của Lào phối hợp hoạt động, gây dựng cơ sở.
Tỉnh Quảng Trị cử Đại đội 55 bộ đội địa phương sang phối hợp,
hoạt động, giúp đỡ cách mạng Lào ở mường Xê Pôn1, Mương Phin,
trên trục đường 9 và khu vực phía đông nam tỉnh Xavẳnnakhệt.
Tỉnh Quảng Bình cử Đại đội 6 bộ đội địa phương sang hoạt động ở
khu vực đường 12 vùng mường Bualapha, Ang Khăm, Bạn Naphào,
tỉnh Khăm Muộn. Một đại đội của Tiểu đoàn Trường Sinh, thuộc
Trung đoàn 103, phối hợp hoạt động ở khu vực đường 8 vùng Na
Pê, Lắc Xao, Bạn Tồn đến Nhômmalạt.
Cuối năm 1947, đầu năm 1948, các đơn vị của các tỉnh thuộc
Khu 4 (Việt Nam) gồm Đại đội 55 ở Xavẳnnakhệt, Đại đội 6 ở
Khăm Muộn, đại đội thuộc Tiểu đoàn Trường Sinh của Trung
đoàn 103, ở Na Pê, Khăm Cợt được tổ chức thành các đội vũ trang

1
. Tại mƣờng Xê Pôn, lực lƣợng vũ trang của Lào có hai trung đội do ông
Thạo Ô chỉ huy.
140 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

tuyên truyền, sát cánh cùng lực lượng vũ trang cách mạng Lào vào
từng bản, làng, tuyên truyền vận động nhân dân, xây dựng cơ sở, tổ
chức lực lượng bán vũ trang. Tháng 10 năm 1948, Đại đội 55 phối
hợp với lực lượng vũ trang mường Xê Pôn, đánh địch ở Samuội, sau
đó tập kích đồn Mương Noòng, giải phóng huyện Tà Ôi, Mương
Noòng.
Để tăng cường sự chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng của Việt
Nam hoạt động ở Trung Lào và thống nhất việc giúp đỡ, phối hợp
hoạt động với lực lượng vũ trang cách mạng Lào, đầu tháng 8 năm
1948, Liên khu uỷ 4 quyết định thành lập Ban Cán sự Trung
Lào1 gồm bảy người, do đồng chí Nguyễn Minh Châu, Khu ủy
viên phụ trách.
Sau một thời gian củng cố và huấn luyện ở Khu 4 (Việt
Nam), các lực lượng vũ trang yêu nước Lào đã lần lượt trở lại
các khu vực trên chiến trường Đông Lào, tiến hành hoạt động vũ
trang, gây cơ sở, tổ chức phát động chiến tranh du kích chống
thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai. Tháng 3 năm 1947, ông
Thạo Kê tổ chức một trung đội Lào - Việt trở về Xiêng Khoảng,
hoạt động ở vùng Mương Mộc, Mương Nham. Ông Xiêng Xinh
(Phia Hõm) đưa một trung đội vào khu vực Mương Dương, Bò
Nhia, Sằm Tớ hoạt động.
Cũng trong tháng 3 năm 1947, khoảng 200 Việt kiều từ Thái
Lan chuyển về bổ sung cho Phòng Biên chính Khu 4 (Việt Nam).
Với quân số được tăng cường, Phòng Biên chính thành lập hai đội
vũ trang tuyên truyền (219 và 210). Đội 219 có nhiệm vụ bảo vệ
con đường giao liên quốc tế bí mật từ Việt Nam qua Lào sang Thái
Lan. Đội 210 hoạt động gây cơ sở chính trị ở vùng Xảm Chè - Long

1
. Về ngày thành lập Ban Cán sự Trung Lào, nhiều tài liệu ghi chép không
thống nhất.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 141

Mộ (huyện Mương Mộc) tạo bàn đạp phát triển vào Thà Thôm, Thà
Viêng, nối liền cơ sở của Lào ở Bolịkhăn, phía đông Viêng Chăn.
Theo chủ trương của Bộ Tư lệnh Khu 4 và sự thống nhất của
Uỷ ban giải phóng Đông Lào, các lực lượng Việt - Lào mở đợt hoạt
động quân sự, chính trị ở vùng Mương Ngan, phía đông thị xã
Xiêng Khoảng, nhằm mở rộng vùng căn cứ du kích của Lào ở
Mương Mộc, giáp tỉnh Nghệ An và phát triển cơ sở chính trị vào
sâu trong vùng địch tạm chiếm. Về phía Việt Nam, lực lượng tham
gia đợt hoạt động này có Tiểu đoàn 265, Đội 219, Đội 210. Phía
Lào có đội vũ trang do ông Thạo Kê chỉ huy, đội du kích người
Mông do ông Thạo Tu phụ trách. Ban Chỉ huy phối hợp chung của
Lào - Việt gồm ông Thạo Xột, Thạo Kê, các đồng chí Nguyễn
Quới, Phạm Bảo, Đặng Bá Thi.
Tiểu đoàn 265 của Khu 4 hoạt động ở đường 7, khu vực biên
giới Việt - Lào, được giao nhiệm vụ phối hợp, giúp đỡ đơn vị vũ
trang tuyên truyền của Lào do các ông Thạo Bun, Thạo Phăn chỉ
huy trở lại hoạt động ở khu vực Mương Mộc, Mương Ngan.
Tại khu vực bắc Xiêng Khoảng, nam Hủa Phăn, đội vũ trang
công tác gồm số cán bộ, chiến sĩ vốn là “Biệt động đội đường 9”, đã
từng hoạt động ở hai huyện Mương Noòng, Tà Ôi (Nam Lào) và một
tổ dân vận, trong đó có hai người Lào là Cà Tè, Cà Tằng (dân tộc Tà
Ôi), được điều ra hoạt động ở đường 7 phía tây Nghệ An. Đội được
giao nhiệm vụ phối hợp giúp đỡ đội vũ trang tuyên truyền “Tây tiến 1”
do ông Thạo Ma phụ trách và đơn vị do ông Phìa Hóm chỉ huy, trở
lại hoạt động ở tây nam Hủa Phăn, bao gồm các tàxẻng của huyện
Sằm Tớ, phát triển lên vùng phía nam huyện Hủa Mường và phía tây
huyện Mương Xăm (gồm cả thị xã Sầm Nưa).
Trong điều kiện địa hình rừng núi hiểm trở phía đông Lào, giao
thông liên lạc cách trở, đời sống rất thiếu thốn, song các lực lượng
vũ trang Việt kiều và các đơn vị bộ đội địa phương, chủ lực Khu 4
142 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

được phái sang hoạt động ở Đông Lào đã khắc phục mọi khó khăn
gian khổ, hy sinh, mất mát, kề vai sát cánh công tác, chiến đấu với
lực lượng vũ trang yêu nước và nhân dân Lào, từng bước xây dựng
được địa bàn đứng chân ở một số vùng, làm cho nhân dân các bộ
tộc Lào hiểu, tin tưởng hơn vào cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược và mối quan hệ đoàn kết chiến đấu đặc biệt của các
lực lượng vũ trang, nhân dân hai nước Việt - Lào.
Tháng 3 năm 1948, Phòng Biên chính Liên khu 4 và Uỷ ban
giải phóng Đông Lào, tổ chức cuộc họp xác định nhiệm vụ củng cố
về chính trị, tổ chức các đội vũ trang, bán vũ trang Lào; đồng thời
quyết định thành lập Uỷ ban kháng chiến tỉnh Xiêng Khoảng. Theo
đó, ngày 4 tháng 4 năm 1948, Uỷ ban kháng chiến tỉnh Xiêng
Khoảng được thành lập.
Theo sự phân công của Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và
dân quân Việt Nam, từ tháng 5 năm 1948, Liên khu 3 và Liên khu 4
có nhiệm vụ trực tiếp phối hợp, giúp đỡ mặt trận Đông Lào.
Nhằm giúp Lào đẩy mạnh phong trào kháng chiến ở Xiêng
Khoảng, Liên khu 4 quyết định thành lập hai đại đội vũ trang tuyên
truyền (210 và 219, trên cơ sở đội vũ trang tuyên truyền 210, 219).
Mỗi đại đội có 100 người, đa số là Việt kiều, phần khác là thanh
niên miền tây Thanh Hoá, Nghệ An, biên chế thành ba trung đội.
Sau khi được thành lập, các đại đội khẩn trương ổn định tổ chức
biên chế, bổ sung trang bị vũ khí, huấn luyện quân sự, học tập
chính trị, quân sự và tìm hiểu phong tục tập quán của nhân dân các
bộ tộc Lào, rồi hành quân sang Lào.
Tại Xiêng Khoảng, Đại đội 219 tiếp tục làm nhiệm vụ bảo đảm
đường giao liên quốc tế bí mật, đưa đón, bảo vệ các đoàn cán bộ từ
Liên khu 4 qua Lào sang Thái Lan, tham gia xây dựng căn cứ địa ở
đông nam Xiêng Khoảng, đồng thời bố trí một đội vũ trang tuyên
truyền hoạt động ở Mương Mộc.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 143

Đại đội 210 làm nhiệm vụ giúp Lào xây dựng cơ sở ở vùng căn
cứ Lào Xủng, trọng điểm là vùng Xảm Chè - Noỏng Hét, đồng thời
phát triển sang bắc Xiêng Khoảng, khu vực Mương Dương, Mương
Bò, Mương Nhia, trọng điểm là Bò Nhia.
Tháng 10 năm 1948, Đại đội 210 chia làm hai bộ phận, tiến
vào vùng địch tạm chiếm. Bộ phận thứ nhất gồm hai trung đội (1
và 2), chia thành các tổ nhỏ, vào vùng Xảm Chè - một vùng núi cao
sát biên giới Việt Nam - Lào. Mặc dù chưa biết tiếng và chưa am
hiểu phong tục tập quán của người Mông ở vùng này, nhưng được
sự hỗ trợ tích cực của các đơn vị vũ trang Lào, cán bộ, chiến sĩ Việt
Nam đã dần khắc phục những khó khăn, gian khổ để tiếp xúc với
dân, tuyên truyền, giác ngộ, vận động nhân dân ủng hộ và tham gia
kháng chiến. Phụ nữ Mông ở đây thường không biết tiếng Lào phổ
thông, không hề biết bộ đội Việt Nam tốt hay xấu nên thường tìm
cách xa lánh. Anh em phải đến từng nhà, ra tận nương rẫy, làm
quen, giúp dân, tặng muối và thuốc chữa bệnh, qua đó từng bước
chiếm được cảm tình của dân, rồi tuyên truyền vận động nhân dân
tham gia, ủng hộ kháng chiến. Nhờ vậy, Xảm Chè được xây dựng
thành một khu căn cứ kháng chiến. Và, từ Xảm Chè phát triển rộng
ra các vùng xung quanh. Đến tháng 12 năm 1948, khi địch tăng
cường lực lượng xây dựng ba đồn Mương Ngan, Mương Ngạt, Phu
Cầy Khẳn, tổ chức càn quét liên tục, nên các Trung đội 1 và 2 và
lực lượng của Lào rút về bảo vệ căn cứ Xảm Chè - Noỏng Hét. Sau
một thời gian củng cố, Trung đội 1 và Trung đội 2 cùng với lực
lượng của Lào tổ chức các cuộc bao vây, tiến công đồn địch, buộc
chúng phải rút khỏi một số vị trí.
Trong khi đó, bộ phận thứ hai là Trung đội 3 tiến vào khu vực
Mường Lống, Mỷ Lý (Nghệ An), rồi từ đó theo dọc sông, đi sâu
vào vùng bắc Xiêng Khoảng, làm công tác tuyên truyền, xây dựng
cơ sở. Lực lượng của đồng chí Việt Sơn Hùng và đội vũ trang công
144 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

tác của Lào được tổ chức thành Đội vũ trang tuyên truyền Lào Bắc
(còn gọi là Đội vũ trang tuyên truyền Sằm Tớ), do ông Xiêng Xinh
(tức Phia Hõm) làm chỉ huy trưởng, đồng chí Việt Sơn Hùng làm
chỉ huy phó và đồng chí Nguyễn Thị Ngọc làm bí thư. Sau khi ổn
định tổ chức, toàn đội tiến vào các khu vực Mương Dương, Mương
Bò, Mương Nhia tuyên truyền, xây dựng và phát triển cơ sở cách
mạng. Đây là vùng mà đội “Xiêng Xinh” của Lào, đã từng hoạt
động, nhân dân rất có cảm tình với kháng chiến, nên khi bộ đội
Việt Nam và lực lượng Lào ítxalạ trở lại, nhân dân địa phương tiếp
đón nồng hậu và sẵn sàng che chở, giúp đỡ. Cán bộ, chiến sĩ Trung
đội 3 đã cùng dân phát nương, làm rẫy, trồng sắn, trỉa ngô, lên rừng
đào củ mài, tiết kiệm từng nắm cơm, hạt muối để giúp đỡ dân. Nhờ
quan hệ tốt với dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến, giúp đỡ,
Trung đội 3 đã xây dựng được cơ sở quần chúng ở nhiều nơi, mở
rộng hoạt động ra các bản Xam Kháng, Cò Khương và tàxẻng Xốp
Na, huyện Mương Khăm, sang tàxẻng Thặm La, Na Khằng (giáp
huyện Hủa Mường, tỉnh Hủa Phăn). Cuối năm 1948, Trung đội 3 tổ
chức phục kích địch ở sát đồn Mương Ngạt.
Theo yêu cầu của Lào, tháng 11 năm 1948, Liên khu 4 cử thêm
Đại đội 215, với quân số ban đầu là 60 người, sang giúp Lào xây
dựng cơ sở kháng chiến ở Thà Viêng (nam thị xã Xiêng Khoảng).
Đại đội phân chia lực lượng thành từng tổ, nhóm nhỏ luồn sâu vào
vùng tạm chiếm, bắt mối liên lạc với quần chúng. Với tinh thần
dũng cảm, kiên trì bám dân và thực hiện hoạt động theo phương
thức thích hợp, Đại đội 215 đã tranh thủ được lòng nhiệt tình của
nhân dân, xây dựng được cơ sở trung kiên ở nhiều nơi thuộc vùng
Thà Viêng, Mương Om và Phả Son.
Nhằm phối hợp và giúp đỡ Đông Lào, tháng 4 năm 1948,
Liên khu 3 thành lập Đoàn vũ trang công tác miền Tây, với
nhiệm vụ hoạt động vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở ở phía
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 145

tây biên giới Việt - Lào, tạo điều kiện để phát triển sang Lào làm
nhiệm vụ giúp cách mạng Lào ở khu vực phía nam tỉnh Hủa
Phăn và phía bắc tỉnh Xiêng Khoảng. Đoàn gồm 15 cán bộ tỉnh
uỷ, huyện uỷ, do đồng chí Nguyễn Thế Tùng, Bí thư Tỉnh uỷ Sơn
Tây, đồng chí Nguyễn Hồng, Tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Hà Đông và
đồng chí Tuấn, Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến - hành chính
tỉnh Hoà Bình, lãnh đạo, cùng một đội vũ trang tuyên truyền hơn
20 người (rút từ Trung đoàn 52), trong đó có nhiều anh em là
người địa phương.
Đoàn chủ trương tập trung lực lượng xây dựng cơ sở ở khu vực
Phú Lệ trước, sau đó tiến lên Sơn La, Lai Châu, xuống Hồi Xuân
(Thanh Hoá) và sang phía tây đến khu vực nam Sầm Nưa, bắc
Xiêng Khoảng. Tháng 9 năm 1948, Đoàn vũ trang công tác miền
Tây được Liên khu 3 bổ sung thêm lực lượng (Đại đội 74) và tiếp tế
về muối, gạo, v.v, nên cán bộ, chiến sĩ thêm yên tâm hoạt động gây
dựng cơ sở. Chấp hành chỉ thị của Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Liên khu 3,
Đoàn vũ trang công tác miền Tây quyết định kết hợp quân sự với
chính trị, đập tan thế lực của bọn đầu sỏ lang đạo phản động, giải
phóng nhân dân, mở rộng phạm vi hoạt động, xây dựng cơ sở
kháng chiến, địa bàn đứng chân vững chắc ở vùng biên giới, từ đó
tiến sang Lào thực hiện nhiệm vụ phối hợp tác chiến, giúp đỡ cuộc
kháng chiến của nhân dân Lào.
Có thể nói, trong những năm 1945 - 1948, lực lượng vũ trang
các tỉnh Liên khu 4, Liên khu 3 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ phối
hợp với lực lượng vũ trang cách mạng vùng Đông Lào chiến đấu,
bảo vệ thành quả cách mạng, giúp đỡ các địa phương Lào xây dựng
cơ sở, xây dựng căn cứ kháng chiến và xây dựng lực lượng vũ
trang. Nhờ đó, sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam và
Lào đã có những bước phát triển mới, làm cho cuộc chiến tranh
xâm lược của thực dân Pháp ngày càng gặp nhiều khó khăn.
146 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

Tại Lào Bắc1, quán triệt tinh thần Hội nghị Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương mở rộng (tháng 1 năm 1948) về những chủ
trương mới và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam đối với cách
mạng Lào, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, Bộ Tổng chỉ
huy Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam quyết định tăng
cường lực lượng giúp cho Mặt trận Lào Bắc. Ban Cán sự Đảng Lào
Bắc do đồng chí Lê Thế Sơn làm bí thư được thành lập. Tổng Quân
uỷ chỉ thị cho Liên khu uỷ và Bộ Tư lệnh Liên khu 10 thành lập
Ban xung phong Lào Bắc hoạt động ở phía đông của vùng Bắc Lào
để xây dựng căn cứ địa, đào tạo cán bộ và phát động chiến tranh du
kích.
Trong Chỉ thị Về phương châm, phương hướng hoạt động cho
cấp chỉ huy và bộ đội hoạt động trên mặt trận Lào - Miên (tháng 3
năm 1948), Bộ Tổng chỉ huy chỉ rõ: khâu then chốt trong việc giúp
Lào là xây dựng cơ sở chính trị, phát động chiến tranh du kích; là
phải đi đến chỗ để anh em cán bộ Lào tự phụ trách. Việc đào tạo
cán bộ phải đi đôi với phát triển cơ sở đảng ở Lào. Bộ Tổng chỉ huy
nhấn mạnh nhiệm vụ giúp đỡ Lào lập ra quân đội giải phóng bên
cạnh liên quân Lào - Việt.
Để giúp Lào có được căn cứ địa kháng chiến của trung ương
làm chỗ dựa lâu dài cho cơ quan lãnh đạo công cuộc kháng chiến
cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho đồng chí Võ Nguyên

1
. Vùng Lào Bắc (còn gọi Bắc Lào hay Thƣợng Lào), khái niệm này có nhiều
nguồn tài liệu giải thích khác nhau, theo nguồn tài liệu này bao gồm các tỉnh
Phôngxalỳ, Luổng Phạbang, Sầm Nƣa (Hủa Phăn), Xiêng Khoảng, Huội Xài và
Viêng Chăn. Bắc Lào đƣợc phân thành hai vùng Tây Bắc và Đông Bắc. Tây Bắc
gồm các tỉnh Huội Xài, phần phía tây tỉnh Luổng Phạbang và Viêng Chăn. Đông
Bắc gồm tỉnh Phôngxalỳ, phần phía đông tỉnh Luổng Phạbang, Hủa Phăn và Xiêng
Khoảng, là vùng rừng núi hiểm trở, nối liền với khu Tây Bắc Việt Nam. Trong
những năm 1946 - 1947, khu Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam bị thực dân Pháp
chiếm đóng, ở nhiều vùng dọc biên giới Lào - Việt, bọn phản động nổi lên chống
phá cách mạng, phong trào kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 147

Giáp nghiên cứu xây dựng Sầm Nưa thành căn cứ chiến lược cho
cách mạng Lào. Theo đó, công việc đầu tiên của đồng chí Võ
Nguyên Giáp là phải tìm cho được một số anh em Lào có tinh
thần yêu nước, hình thành một đội công tác xung phong để đưa về
hoạt động ở Sầm Nưa. Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã tìm cách bắt
liên lạc được với đồng chí Cayxỏn Phômvihản và bàn bạc, trao
đổi ý kiến về việc xây dựng Khu căn cứ kháng chiến trung ương
Lào cùng việc cử cán bộ, bộ đội Việt Nam sang phối hợp với lực
lượng vũ trang nhân dân Lào đấu tranh chống thực dân Pháp ở
Lào. Sau đó, đồng chí Cayxỏn Phômvihản rời Thái Nguyên đi đến
đơn vị của đồng chí Bế Sơn Cương ở Mộc Châu (Sơn La), để phối
hợp chỉ đạo việc xây dựng lực lượng sang Bắc Lào hoạt động.
Tiếp đó, ngày 16 tháng 5 năm 1948, thực hiện chỉ thị của Trung
ương Đảng, Ban xung phong Lào Bắc được thành lập1, do đồng
chí Cayxỏn Phômvihản làm chỉ huy trưởng, đồng chí Đông Tùng
làm chính trị viên. Nhiệm vụ chủ yếu của Ban xung phong Lào
Bắc là gây dựng cơ sở quần chúng nhân dân, xây dựng căn cứ địa
Lào Bắc vững chắc, làm chỗ dựa cho việc xây dựng và phát triển
thế trận chiến tranh nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Ban xung phong Lào Bắc,
nêu rõ: “Thiết lập căn cứ địa Lào độc lập là nhiệm vụ cần kíp, Ban
xung phong Lào Bắc phải ra sức xây dựng cơ sở quần chúng trong
vùng địch kiểm soát. Tôi chúc Ban xung phong Lào Bắc nhanh
chóng thành công, khu giải phóng Lào độc lập nhanh chóng thành

1
. Về ngày thành lập Ban xung phong Lào Bắc, nhiều tài liệu viết không thống
nhất. Theo đồng chí Huỳnh Đắc Hƣơng viết trong bài “Sau thắng lợi giải phóng
dân tộc nhìn lại Sầm Nƣa”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Căn cứ địa Sầm Nưa - biểu
tượng đoàn kết đặc biệt và liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Nxb. Thế giới, Hà
Nội, 2008, tr.67, thì Ban xung phong Lào Bắc đƣợc thành lập ngày 24 tháng 8 năm
1948.
148 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

lập”1.
Lúc mới thành lập, Ban xung phong Lào Bắc có 19 người, gồm
cả người Lào và người Việt. Ngày 20 tháng 5, một bộ phận của Ban
xung phong Lào Bắc cùng một trung đội vũ trang tuyên truyền,
xuất phát tại xã Hà Lương (Phú Thọ) tiến lên Sơn La, lấy Mộc
Châu làm bàn đạp phát triển sang hữu ngạn Sông Mã vào Pa Háng
tiến lên Xiêng Khọ. Từ đây, đội xung phong công tác Lào Bắc móc
nối với dân để xây dựng cơ sở trong người Mông, người Puộc ở
tàxẻng Phiêng Xa (còn gọi Lào Húng, có nghĩa là Bình Minh) sau
đó phát triển sang các tàxẻng Moong Nặm và Phiêng Xá. Đến
tháng 10 năm 1948, Ban xung phong Lào Bắc đã xây dựng được cơ
sở tại 44 bản gồm 333 gia đình với số dân trên 1.500 người. Vùng
này được xây dựng thành căn cứ kháng chiến đầu tiên ở huyện
Xiêng Khọ, tỉnh Hủa Phăn.
Cuối năm 1948, Liên khu 10 tăng cường Tiểu đoàn chủ lực 910
sang Bắc Lào, giúp xây dựng cơ sở và mở rộng căn cứ kháng chiến
xuống vùng đồng bằng ven sông Mã, từ Xiêng Khọ, Xốp Xan,
Mương ét, v.v., đến sát biên giới Lào - Việt.
Theo chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, đầu
năm 1948, Đặc uỷ Lào - Thái thành lập Mặt trận Tây Bắc Lào2
nhằm xúc tiến việc xây dựng vùng Tây Bắc Lào thành căn cứ địa
vững chắc, nối liền với khu Tây Bắc của Việt Nam.

1
. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân tình
nguyện Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại Lào (1945 -
1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002, tr.142.
2
. Tây Bắc Lào - vùng phía tây của Bắc Lào - gồm tỉnh Huội Xài và phần
phía tây tỉnh Luổng Phạbang (sau tách thành tỉnh Xaynhabuli). Đây là vùng
rừng núi điệp trùng, nằm sâu trong vùng địch kiểm soát, có biên giới giáp với
Thái Lan, Miến Điện và Trung Quốc. Dân cƣ trong vùng phần lớn là các bộ
tộc thiểu số nhƣ Lự, Cọ, Muxơ, Lan Ten, Cùi, Nghiệu,... sống chủ yếu bằng
nghề làm nƣơng rẫy, chăn nuôi, tự cấp, tự túc.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 149

Sau khi ổn định tổ chức, mở lớp huấn luyện, Đặc uỷ Lào quyết
định đưa lực lượng về Lào hoạt động ở vùng Mương Xỉnh (Phân
khu A, sau đổi tên là Khu 1) và vùng Hoộng Xả, Xaynhabuli (Phân
khu B, sau đổi tên là Khu 2). Đặc uỷ Lào cũng quyết định phải xây
dựng Luổng Phạbang thành trung tâm căn cứ ở Bắc Lào.
Thực hiện chủ trương trên, mặt trận Tây Bắc Lào chọn địa bàn
hoạt động ban đầu là Mương Xỉnh. Đây là một huyện biên giới của
Huội Xài, có đường biên giới giáp với Miến Điện, Trung Quốc và
Thái Lan, địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn. Các bộ tộc Lào ở
Mương Xỉnh chỉ có người Lự sống bằng nghề trồng lúa nước, còn
lại chủ yếu phát nương làm rẫy, săn bắn, trình độ dân trí thấp, còn
nhiều phong tục tập quán lạc hậu.
Trước đó, từ giữa năm 1947 đến đầu năm 1948, theo chỉ thị của
Đặc uỷ Lào, một số cán bộ Việt Nam được giao nhiệm vụ lên vùng
biên giới Lào - Miến Điện (Mianma) - Thái Lan, xây dựng lực
lượng và chỉ đạo các đơn vị Việt kiều giải phóng quân hoạt động ở
Tây Bắc Lào, từ đó, phát triển sang phía đông, hội quân với các
đơn vị từ Việt Nam sang, giúp Lào xây dựng căn cứ địa ở Bắc Lào
nối liền với Tây Bắc Việt Nam.
Dựa vào sự giúp đỡ của bà con Việt kiều ở Đông Bắc Thái Lan
và Miến Điện giáp biên giới Lào, được Chính phủ Miến Điện viện
trợ một số vũ khí, đạn dược, cơ quan lãnh đạo và chỉ huy Mặt trận
Tây Bắc Lào khẩn trương xúc tiến việc tuyển lực lượng, chọn lựa
thanh niên Việt kiều từ Đông Bắc Thái Lan đưa sang, mở trại huấn
luyện kiến thức quân sự, chính trị tại một khu rừng cạnh làng Pa
Leo, tổng Xiêng Lạp (gần sông Mê Công), trên đất Miến Điện.
Ngày 23 tháng 9 năm 1948, một đoàn chiến sĩ giải phóng quân Việt
Nam gồm 92 người, trong đó có 8 đảng viên, tổ chức thành 3 trung
đội, mang phiên hiệu Ban Chỉ huy Khu 1, rời trại huấn luyện Pa
Leo, tiến về Tây Bắc Lào, đặt trụ sở tại bản Mương Xạ, tàxẻng
150 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

Mương Xạ, huyện Mương Xỉnh, tỉnh Huội Xài.


Ban Chỉ huy Khu 1 bố trí một trung đội hoạt động ở tàxẻng
Mương Xạ và bảo vệ cơ quan chỉ huy Khu 1; một trung đội phát
triển về hướng Mương Long, Mương Năng; một trung đội phát
triển về Bạn Bò, Bạn Toọng (huyện Mương Xỉnh). Các trung đội
phân chia thành các tổ từ ba đến năm người, thâm nhập vào các bản
làng, thực hiện “ba cùng” với nhân dân địa phương, tuyên truyền
vận động làm cho nhân dân nhận rõ bạn thù, hiểu rõ chủ trương
kháng chiến, động viên nhân dân tham gia và ủng hộ bộ đội cách
mạng. Nhiều anh em đã nhận mẹ, chị nuôi với người Lào. Hàng
ngày, bộ đội làm vệ sinh làng bản, tổ chức dạy chữ, dạy các bài hát
cách mạng cho thanh, thiếu niên, khám chữa bệnh cho nhân dân,
v.v.. Nhờ vậy, quan hệ giữa bộ đội và nhân dân ngày càng gắn bó,
nhân dân Lào gọi các chiến sĩ Việt kiều là “bộ đội bạn”, “bộ đội
Việt Nam anh em”.
Ngoài việc tuyên truyền vận động nhân dân, các đơn vị bộ đội
Việt Nam còn rất quan tâm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các
tù trưởng, tộc trưởng và chức dịch của chính quyền cũ ở địa
phương, nhờ vậy nên đã vận động được nhiều người đi theo cách
mạng, ủng hộ kháng chiến.
Trên cơ sở tuyên truyền, vận động quần chúng, các cán bộ,
chiến sĩ Việt Nam chú trọng giúp Lào tổ chức “hội ítxalạ bản”, thu
hút nhiều người Lào yêu nước tham gia. ở những nơi phong trào
phát triển, bộ đội tổ chức các đoàn thể quần chúng (Hội Phụ nữ,
Hội Thanh niên, v.v.) và thành lập đội “dân quân du kích bản” để
canh gác, bảo vệ bản làng.
Tóm lại, trong những năm 1945 - 1948, liên minh chiến đấu
Việt Nam - Lào đã từng bước được hình thành, phát triển toàn diện, cả
chiều rộng và chiều sâu, đã thu được nhiều thành quả hết sức quan
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 151

trọng, đưa sự nghiệp kháng chiến ở mỗi nước vững bước tiến lên.
Và chính sự lớn mạnh của sự nghiệp kháng chiến ở mỗi nước lại
thúc đẩy quan hệ đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào thêm gắn bó
mật thiết hơn.

II. TĂNG CƢỜNG PHÁT TRIỂN LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU


VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM
LƢỢC (TỪ THÁNG 1 NĂM 1949 ĐẾN THÁNG 12 NĂM 1950)

1. Tình hình mới và chủ trương của Đảng Cộng sản Đông
Dương về liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
Trong những năm 1949 - 1950, Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam tiếp tục liên minh, đoàn kết chiến đấu chống thực dân Pháp
xâm lược trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực và ở hai nước
có những biến đổi so với những năm 1945 - 1948.
Trên trường quốc tế, Chiến tranh lạnh tiếp diễn bao trùm
toàn cầu. Sự ra đời của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
(ngày 1 tháng 10 năm 1949) gây ảnh hưởng lớn lao trong quan
hệ quốc tế, có lợi cho phe hoà bình, dân chủ, chủ nghĩa xã hội,
đặc biệt là đối với cách mạng ba nước Đông Dương. Đến đầu
năm 1950, Trung Quốc, Liên Xô và một loạt các nước xã hội chủ
nghĩa, dân chủ nhân dân công nhận Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, đó là thắng lợi chính trị to lớn, rất quan trọng
của Việt Nam. Trong khi đó, Mỹ, Anh, v.v., công nhận chính
quyền Bảo Đại do Pháp dựng lên ở Việt Nam. Đế quốc Mỹ can
thiệp ngày càng sâu vào chiến tranh Đông Dương, ép Pháp ký
Hiệp ước phòng thủ năm bên gồm Pháp, Mỹ và “ba quốc gia
liên kết” là quốc gia Việt Nam của Bảo Đại, Khơme và Lào
(ngày 23 tháng 2 năm 1950). Trên bán đảo Triều Tiên, tháng 6
152 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

năm 1950, nổ ra chiến tranh giữa hai miền Nam - Bắc1.


Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã giành được nhiều
thắng lợi quan trọng trong các năm 1945 - 1948 và đang ở trong
giai đoạn đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, phát triển chiến tranh du
kích, từng bước tiến lên vận động chiến làm thất bại âm mưu kéo
dài, mở rộng chiến tranh và chính sách “dùng người Việt đánh
người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.
Cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào chống
thực dân Pháp và bọn tay sai còn rất gay go, quyết liệt do Mỹ can
thiệp, tiếp tay cho Pháp. Cuộc chiến ở Đông Dương mang tính chất
chiến tranh giữa hai phe (chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản)
càng thể hiện rõ nét, song khả năng thắng lợi của cách mạng Việt
Nam và của cách mạng Lào ngày càng sáng tỏ.
Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Đông Dương và các lãnh tụ
hai nước tiếp tục đề ra các chủ trương lãnh đạo các lực lượng vũ
trang và nhân dân hai nước đoàn kết liên minh chiến đấu chống
thực dân Pháp xâm lược.
Đầu năm 1949, căn cứ vào sự phát triển của cách mạng ba nước
Đông Dương, Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu (tháng 1 năm
1949), quyết định: “mở rộng mặt trận Lào - Miên”.
Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến của
nhân dân Đông Dương và tăng cường vai trò nòng cốt của Việt Nam
trong khối liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào - Miên,
ngày 15 tháng 2 năm 1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương tổ chức cuộc hội nghị quán triệt Đề cương

1
. Chiến tranh Triều Tiên diễn ra từ ngày 25 tháng 6 năm 1950 và kết thúc
ngày 27 tháng 7 năm 1953, bằng Hiệp định đình chiến tại Bàn Môn Điếm. Thực
hiện chủ trƣơng “kháng Mỹ viện Triều”, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa cùng
quân đội Bắc Triều Tiên chiến đấu. Chiến tranh đã gây tổn thất lớn cho các bên
tham chiến với hơn 1 triệu ngƣời chết và 115.000 ngƣời bị thƣơng.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 153

cách mạng Lào - Miên, kiểm điểm việc giúp đỡ Lào, Miên trong
các năm vừa qua; khẳng định việc giúp đỡ cách mạng Lào - Miên
là vì lợi ích chung; xác định những nguyên tắc trong công tác giúp
Lào, Miên là: không đứng trên lợi ích Việt Nam mà làm công tác
Lào - Miên; nắm chắc các nguyên tắc dân tộc tự quyết, nhiệm vụ
cách mạng Lào, Miên phải do Lào, Miên tự quyết định lấy; không
đem chủ trương, chính sách, nguyên tắc của Việt Nam ứng dụng
vào Lào, Miên như lắp máy; cần giúp đỡ Lào, Miên để Lào, Miên
tự làm lấy1.
Hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ cần kíp trước mắt là giúp Lào, Miên
xây dựng và củng cố căn cứ địa, xây dựng quân đội, chính quyền
cách mạng ở căn cứ địa. Hội nghị chủ trương lập Ban Lào, Miên,
có nhiệm vụ nắm tình hình, báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
Hội nghị quyết định thành lập các ban cán sự Đảng để phụ
trách công tác giúp cách mạng Lào. Theo đó, Ban Cán sự Lào Bắc
(trực thuộc Trung ương Đảng) phụ trách khu vực Bắc Lào; Ban
Cán sự Lào Trung do Liên khu uỷ 4 lãnh đạo, phụ trách khu vực
Trung Lào; Ban Cán sự Hạ Lào do Liên khu uỷ 5 lãnh đạo phụ
trách khu vực Hạ Lào; ...
Từ ngày 8 đến 10 tháng 5 năm 1949, Hội nghị cán bộ Việt -
Lào họp, kiểm điểm lại công tác phối hợp hoạt động Việt - Lào tại
Đông Lào, xác định mục đích công tác Việt - Lào, nguyên tắc,
phương pháp tổ chức và phối hợp, thể lệ của sự phối hợp công tác
tại Đông Lào.
Sau khi Chính phủ độc lập Lào do các phần tử thiếu kiên định
chi phối đã tuyên bố tự giải thể (ngày 26 tháng 10 năm 1949),

1
. Hồ sơ 1651, Trung tâm Lƣu trữ quốc gia I, Cục Văn thƣ và Lƣu trữ Nhà
nƣớc, Hà Nội.
154 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn xác định quyết tâm
đẩy mạnh cuộc kháng chiến ở Lào - Miên, giúp Lào - Miên xây
dựng căn cứ địa chính, xây dựng quân đội quốc gia và đào tạo cán
bộ. Hoàng thân Xuphanuvông và các cộng sự tuyên bố tiếp tục
kháng chiến.
Trước những biến chuyển mới của cách mạng hai nước, ngày
30 tháng 10 năm 1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương quyết định các lực lượng quân sự của Việt Nam được
cử sang chiến đấu giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy
danh nghĩa là Quân tình nguyện. Đây là mốc lịch sử trọng đại đánh
dấu bước phát triển và trưởng thành của các lực lượng quân sự Việt
Nam giúp Lào trên chiến trường Lào; đồng thời thể hiện quan điểm
đường lối của Đảng Cộng sản Đông Dương trong quan hệ Việt
Nam - Lào, khẳng định tình đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam phát triển lên tầm cao mới vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước, cũng như cả ba
dân tộc trên bán đảo Đông Dương.
Báo cáo Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang
tổng phản công tại Hội nghị toàn quốc lần thứ ba (tháng 1 năm
1950) của Đảng Cộng sản Đông Dương xác định: “Trong cuộc
chiến tranh chống Pháp này, Đông Dương chỉ là một chiến trường
duy nhất. Chiến lược tổng phản công bao trùm tất cả Đông Dương.
Nhiệm vụ tổng phản công không phải là chỉ quét sạch địch ra khỏi
Việt Nam, mà phải nhằm giải phóng cho cả Ai Lao và Cao Mên1.
Vì, do quan hệ địa thế, vận mệnh ba quốc gia Việt, Mên, Lào gắn
bó với nhau rất khăng khít. Độc lập Việt Nam không được bảo
đảm, nếu Ai Lao, Cao Mên chưa được giải phóng. Ai Lao, Cao
Mên khó giành được độc lập hoàn toàn nếu kháng chiến Việt Nam

1
. Cao Mên: Cao Miên (BT).
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 155

chưa thành công.


Cao Mên và Ai Lao lúc này là kho dự trữ về người, lương thực
và nguyên liệu của địch, sẽ là nơi địch rút lui khi nào thất bại ở Việt
Nam, nhưng lại là hai mặt trận sơ hở nhất của địch. Cho nên, việc
mở mặt trận Ai Lao và Cao Mên ngày một rộng để phá sức dự trữ
của địch lúc này, để kiềm chế quân đội địch và phối hợp với mặt
trận chính ở Việt Nam, để chặt đường rút lui của địch sau này là
việc rất cần.
Trong giai đoạn tổng phản công, ta không thể giải quyết xong
chiến trường Việt Nam rồi nghỉ mà phải tiếp tục nhiệm vụ giải
phóng toàn Đông Dương. Có khi chưa giải quyết xong toàn bộ
chiến trường Việt Nam, nhưng theo một kế hoạch phản công chung
cho chiến trường Đông Dương, ta đã phải giải quyết một phần
chiến trường Ai Lao hay Cao Mên.
Một điểm ngay từ giờ, cần nhận định rõ là: khi nào thực dân
Pháp núng thế, chúng có thể bỏ miền Bắc Đông Dương mà thu
quân củng cố miền Nam, chặt Đông Dương ra làm hai khúc. Cũng
có thể lúc đó, chúng giảng hoà riêng với Việt Nam, công nhận điều
kiện do Việt Nam đề ra rồi đem quân sang Ai Lao, Cao Mên, băng
bó thương tích và chuẩn bị lực lượng hòng đánh lại Việt Nam.
Trong trường hợp đó, chiến tranh giải phóng ở Đông Dương chưa
dứt. Nay người cộng sản Đông Dương chúng ta vẫn phải tiếp tục
lãnh đạo các dân tộc Lào, Mên kháng chiến. Khi đó, Chính phủ
Việt Nam cần giải thích rõ ràng thái độ của mình cho các bạn
kháng chiến Lào, Mên biết và các chiến sĩ quốc gia Việt Nam vẫn
phải tiếp tục giúp hai dân tộc Mên, Lào chiến đấu đến cùng.
Một điểm nữa cần chú ý là: khi Pháp bị bại ở Việt Nam hoặc
chưa bại hẳn ở Việt Nam nhưng không đủ sức đương đầu với
quân ta ở Ai Lao, Cao Mên, thì tuân theo mệnh lệnh của Mỹ - Anh,
bọn phản động Xiêm có thể xâm lấn Ai Lao, Cao Mên, biến hai
156 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

nước này thành những vị trí chiến lược trong phòng tuyến chống
cộng của chủ nghĩa đế quốc thế giới. Cho nên muốn giải phóng cho
dân tộc Đông Dương và góp phần bảo vệ hoà bình thế giới ở Đông
Dương, ở Đông Nam châu á, Đảng ta phải nhằm mục đích giải
quyết cả chiến trường Đông Dương.
Việc mở mặt trận Ai Lao, Cao Mên và tăng cường cho mặt trận
đó, phải là một điểm trọng yếu trong kế hoạch chuẩn bị tổng phản
công của ta”1.
Báo cáo Nhiệm vụ quân sự trước mắt chuyển sang tổng phản
công tại Hội nghị toàn quốc lần thứ ba (tháng 1 năm 1950) của
Đảng Cộng sản Đông Dương xác định: tích cực mở rộng các khu
giải phóng Miên, Lào có căn cứ địa chính khá vững chắc để đẩy
mạnh cuộc chiến tranh giải phóng; thống nhất sự chỉ đạo về quân
sự ở Lào và Miên, đồng thời với sự thống nhất chỉ đạo về chính trị;
tích cực xây dựng quân đội Lào và quân đội Miên độc lập, giúp cho
quân đội Lào, Miên trở thành lực lượng trụ cột lôi cuốn quảng đại
nhân dân Lào - Miên vào cuộc chiến tranh giải phóng; đào tạo cán
bộ quân sự Miên, Lào; về tác chiến, vì điều kiện đặc biệt của chiến
trường, bộ đội chủ lực có thể phối hợp phương thức hoạt động, tập
trung lực lượng tiêu diệt địch, giành thắng lợi lớn sau đó phân tán
thành từng đơn vị nhỏ tiến hành vũ trang tuyên truyền, gây cơ sở
chính trị rộng rãi; mở rộng khu giải phóng2.
Báo cáo Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang tổng
phản công tại Hội nghị toàn quốc lần thứ ba (tháng 1 năm 1950)
của Đảng Cộng sản Đông Dương còn nêu rõ vấn đề: “Xây dựng
Mặt trận dân tộc thống nhất ở Mên, Lào, tiến tới lập Mặt trận các

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.11, tr.60-62.
1

. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.11, tr.148-
2

149.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 157

dân tộc thống nhất Đông Dương”1.


Chú trọng xây dựng căn cứ địa chính cho Miên, Lào và mở
rộng cơ sở quần chúng, gắn liền các căn cứ địa với nhau. Tích cực
xây dựng quân đội quốc gia và đào tạo cán bộ cho Miên, Lào. Phát
triển mạnh mẽ Hội ítxara Miên và Hội ítxarắc Lào, để xúc tiến xây
dựng Mặt trận dân tộc thống nhất ở Miên và Lào, tiến tới lập Mặt
trận các dân tộc thống nhất Đông Dương2.
Nhằm thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến tới, Hội nghị cán bộ
Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ ba (ngày 21 tháng 1 năm
1950) xác định những vấn đề cơ bản lãnh đạo cuộc kháng chiến của
nhân dân ba nước Đông Dương. Với cách mạng Lào, Hội nghị chỉ
rõ cần xây dựng căn cứ địa trung ương và nối liền các căn cứ địa
với nhau, tiến tới thống nhất sự chỉ đạo về quân sự, chính trị trên
toàn Lào; tích cực xây dựng quân đội và chú trọng công tác đào tạo
cán bộ; khẩn trương xây dựng các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng
chiến, thành lập chính phủ, mặt trận ở trung ương và xây dựng
chính quyền nhân dân trong các khu giải phóng; mở rộng cơ sở
quần chúng, khẩn trương xây dựng mặt trận thống nhất ở Lào, tiến
tới chính thức thành lập Mặt trận các dân tộc thống nhất Đông
Dương. Hội nghị coi việc xây dựng mặt trận thống nhất là yêu cầu
cấp thiết để thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết ba nước Đông
Dương, đẩy mạnh kháng chiến tiến tới.
Kiểm điểm tình hình thực hiện Đề cương cách mạng Lào -
Miên và bàn kế hoạch mới, ngày 29 tháng 6 năm 1950, Thường vụ
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập Hội nghị cán bộ
toàn Lào. Hội nghị xác định trong những năm 1950 - 1951 phải

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.11, tr.76.
1

. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.11, tr.206-
2

207.
158 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

giành lợi thế về chính trị ở Lào, phối hợp chặt chẽ với cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam. Hội nghị đề ra nhiệm vụ triệu tập
Hội nghị quốc dân Lào.
Thực hiện chủ trương, đường lối kháng chiến của Đảng Cộng
sản Đông Dương và các lãnh tụ của hai nước Việt Nam - Lào, trong
các năm 1949 - 1950, quân dân Việt Nam và quân dân Lào ở các địa
phương tiếp tục đẩy mạnh sự phối hợp, giúp đỡ nhau, liên minh
chiến đấu chống thực dân Pháp cùng bọn tay sai và can thiệp Mỹ.

2. Quân dân hai nước Việt Nam, Lào tăng cường phát triển
liên minh chiến đấu
Phối hợp xây dựng Khu kháng chiến Hạ Lào. Đầu tháng 2 năm
1949, đồng chí Khăm Tày Xiphănđon cùng ông Xỉthôn Cômmađăm
dẫn một đơn vị tới vùng căn cứ kháng chiến Liên khu 5 (Việt Nam).
Đoàn gồm 60 cán bộ, chiến sĩ người Lào và một trung đội Việt kiều
do đồng chí Nguyễn Đình Hin phụ trách. Trên cương vị đại diện
Chính phủ độc lập Lào, đồng chí Khăm Tày Xiphănđon đã chuyển
công văn của Chính phủ Lào do Hoàng thân Xuphanuvông ký, tới
đồng chí Phạm Văn Đồng, đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà đang ở Nam Trung Bộ. Công văn của Chính phủ Lào đề
nghị phía Việt Nam giúp đỡ thành lập Khu kháng chiến Hạ Lào và
giới thiệu ông Xỉthôn Cômmađăm là khu trưởng, ông Xổm
Manôviêng là chủ tịch Uỷ ban chính quyền khu.
Đồng chí Khăm Tày Xiphănđon cùng đồng chí Phạm Văn
Đồng và đồng chí Nguyễn Thế Lâm, quyền Tư lệnh Liên khu 5 đã
trao đổi ý kiến và thống nhất về hình thức tổ chức cùng các biện
pháp cụ thể giúp đỡ nhau đẩy mạnh kháng chiến chống thực dân
Pháp ở Hạ Lào. Tại cuộc trao đổi đó, phía Việt Nam hoan nghênh,
ủng hộ Lào thành lập Khu kháng chiến Hạ Lào và nhất trí giải thể
Khu đặc biệt do Việt Nam lập trước đó; tán đồng tích cực giúp đỡ
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 159

phong trào kháng chiến Hạ Lào; đưa bộ đội tình nguyện sang phối
hợp, giúp đỡ cùng chiến đấu, sẵn sàng chi viện lương thực, vũ khí
cho lực lượng vũ trang cách mạng Lào. Việt Nam cử một phái đoàn
thuộc Uỷ ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ do đồng chí
Nguyễn Chính Cầu làm đoàn trưởng, đồng chí Đoàn Huyên phụ
trách quân sự, đồng chí Đoàn Kim phụ trách chính quyền, sang làm
nhiệm vụ bên cạnh cơ quan Khu kháng chiến Hạ Lào. Lào và Việt
Nam thống nhất lập Ban Chỉ huy quân sự hỗn hợp để chỉ huy lực
lượng Việt - Lào, nhưng vẫn duy trì tổ chức và quản lý riêng lực
lượng mỗi bên. Ban Chỉ huy quân sự hỗn hợp do ông Xỉthôn
Cômmađăm làm chỉ huy trưởng, đồng chí Đoàn Huyên làm chỉ huy
phó, đồng chí Nguyễn Chính Cầu làm chính uỷ.
Khu Hạ Lào chính thức thành lập tháng 2 năm 1949, do ông
Xỉthôn Cômmađăm làm khu trưởng kiêm chỉ huy quân sự; ông
Xổm Manôviêng làm chủ tịch chính quyền khu, dưới sự lãnh đạo
chung của đại diện Chính phủ Lào ítxalạ là đồng chí Khăm Tày
Xiphănđon.
Để giúp đỡ Lào xây dựng Khu kháng chiến Hạ Lào, phía Việt
Nam chỉ định Ban Cán sự Hạ Lào do đồng chí Nguyễn Chính Cầu
làm bí thư và uỷ viên là các đồng chí Đoàn Huyên, Đoàn Kim và
Nguyễn Đình Hin. Bộ Tư lệnh Liên khu 5 chỉ định Ban Chỉ huy bộ
đội Việt Nam tại Hạ Lào do đồng chí Đoàn Huyên làm chỉ huy
trưởng, đồng chí Nguyễn Chính Cầu làm chính uỷ.
Cuộc gặp gỡ giữa đồng chí Khăm Tày Xiphănđon, theo sự uỷ
quyền của Hoàng thân Xuphanuvông, với đồng chí Phạm Văn
Đồng và những thoả thuận hai bên đã đạt được cùng sự giúp đỡ
nhiệt tình, tích cực, có hiệu quả của Việt Nam ngay sau đó là một
trong những dấu mốc quan trọng của liên minh chiến đấu Việt
Nam - Lào, tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến của Lào nói chung,
ở Hạ Lào nói riêng có bước phát triển mới.
160 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

Sau khi thành lập, Bộ Chỉ huy Khu kháng chiến Hạ Lào đã
triển khai lực lượng Lào - Việt ở vùng biên giới phía đông hai tỉnh
Xalavăn và áttapư, chia thành ba bộ phận hoạt động ở ba vùng.
Bộ phận thứ nhất gồm hai trung đội và 12 cán bộ dân vận, theo
lưu vực sông Xê Camản, từ Koongna, Đắc Mong tiến xuống vùng
Kẹng Xây, Xákhẹ dọc hữu ngạn Xê Coong (đông bắc thị xã Mương
Mày, áttapư).
Bộ phận thứ hai gồm hai trung đội và tám cán bộ dân vận
hoạt động ở vùng biên giới phía đông Xalavăn, vùng Đắc Chưng,
Măng Hà, Mang Dơn, Đắc Blê sang phía bắc gồm Tăng Mi, Adun,
Tăng Lu.
Bộ phận thứ ba gồm hai trung đội và hai cán bộ dân vận hoạt
động ở vùng Đắc Ranh - Đắc Ray, là vùng gây cơ sở cũ, để củng cố
đường liên lạc về Liên khu 5 và cảnh giới đề phòng địch từ hướng
Đắc Pung sang.
Mỗi vùng đều gồm lực lượng Lào - Việt, có nhiệm vụ tìm hiểu
dân cư, địa thế, địch tình và gây cơ sở trong nhân dân để hoạt động
lâu dài. Chỉ sau một thời gian ngắn của đợt hoạt động này, khu vực
miền núi vùng Tà Riêu, Đắc Chưng, Đắc Pằm, Măng Hà, Đắc Blê
đã hình thành được một số cơ sở kháng chiến. Phát huy thành quả
đã đạt được, các bộ phận tiến hành mở rộng địa bàn hoạt động. Đến
cuối tháng 4 năm 1949, đã thành lập được một số uỷ ban tổng, làng,
xã, tổ chức lực lượng tự vệ, v.v.. Song, do không nắm được tình
hình địch và dân cư, cán bộ, chiến sĩ người Lào thiếu kinh nghiệm
hoạt động trên địa bàn dân cư mới lạ, nhiều cán bộ, chiến sĩ người
Việt không biết tiếng Lào, nên mục tiêu của đợt hoạt động còn có
nhiều hạn chế. Trước tình hình đó, đồng chí Khăm Tày Xiphănđon
nêu ý kiến đề nghị phái đoàn Việt Nam tìm biện pháp khắc phục.
Nhận thấy cần phải huấn luyện thêm cho bộ đội về chỉ huy, kỹ
thuật, chiến thuật cũng như phương pháp vận động quần chúng, xây
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 161

dựng cơ sở, các đồng chí lãnh đạo Khu kháng chiến Hạ Lào và Ban
Cán sự Hạ Lào thống nhất rút phần lớn lực lượng về vùng tự do ở
tỉnh Quảng Nam (Việt Nam) tiến hành đợt học tập quân sự, chính
trị. Lực lượng ở lại hoạt động ở vùng áttapư chỉ còn lại hai trung
đội vũ trang tuyên truyền, trong đó có hai tiểu đội là Việt kiều.
Sau một thời gian hoạt động ở vùng phía đông hai tỉnh Xalavăn
và áttapư, thấy rõ những thuận lợi, khó khăn ở vùng này và để đáp
ứng yêu cầu phát triển lực lượng, xây dựng căn cứ kháng chiến lâu
dài ở Hạ Lào nên Ban lãnh đạo Khu kháng chiến Hạ Lào quyết
định chuyển căn cứ xuống vùng tây nam áttapư.
Cuối tháng 4 năm 1949, Ban Cán sự Hạ Lào tổ chức Hội nghị sơ
kết công tác và quyết định đưa lực lượng tiến sâu vào vùng sau lưng
địch, chuyển trọng điểm hoạt động về các vùng đông dân ở phía tây
sông Xê Coong, nhằm phát triển cơ sở cách mạng, mở rộng và đẩy
mạnh kháng chiến ở cả ba tỉnh Hạ Lào, giành lại thế chủ động, tránh
nguy cơ bị địch chặn lại ở biên giới Việt Nam - Lào.
Như vậy, giữa hai bên Lào - Việt có sự giống nhau về việc chuyển
căn cứ, lực lượng xuống vùng tây nam áttapư. Theo đó, các Bạn Mầy,
Hỉn Lạt, Bạn Chiêng, Bạn Inthi, Bạn Pú, Bạn úc, Bạn The và Bạn
Xổm Pòi bên bờ sông Xê Piên được xây dựng thành vùng căn cứ.
Thường vụ Liên khu uỷ 5 và Bộ Tư lệnh Liên khu 5 nhất trí
với quyết định của Hội nghị sơ kết của Ban Cán sự Hạ Lào và
quyết định tăng cường cho Hạ Lào hai đại đội (200, 44) cùng một
số cán bộ tham mưu, chính trị, hậu cần. Đây là hai đại đội được
chuẩn bị đầy đủ về vật chất, tinh thần, có kinh nghiệm hoạt động
ở vùng địch hậu. Khu kháng chiến Hạ Lào còn tổ chức một bộ
phận hậu cần, có nhiệm vụ vận tải, xây dựng hệ thống kho, trạm
vận chuyển, đáp ứng quân nhu, vật dụng cho bộ đội Việt Nam và
Lào tiến quân vào vùng sau lưng địch.
Mặt khác Bộ Tư lệnh Liên khu 5 quyết định đưa các lực lượng
162 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

đã hoạt động trước đó ở vùng Hạ Lào tạm lui về vùng hậu cứ để


củng cố tổ chức, lực lượng, tránh mùa mưa lũ ở rừng núi, trước khi
tiến quân vào hoạt động trong vùng địch hậu trên đất Lào. Theo đó,
từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1949, chỉ để lại một đơn vị vũ trang
tuyên truyền và một tổ cán bộ dân vận làm nhiệm vụ theo dõi tình
hình địch và gây dựng cơ sở, còn phần lớn lực lượng được tập
trung về vùng tự do Tam Dân, huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam,
tiến hành chỉnh huấn về quân sự và chính trị. Các nội dung chính
về chỉnh huấn quân sự là rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật cá nhân và
tiểu, trung, đại đội chiến đấu; chú trọng lối đánh phục kích, tập
kích, đánh phá giao thông, v.v., và kinh nghiệm chiến đấu ở chiến
trường Liên khu 5. Về chính trị, tập trung bồi dưỡng tinh thần, ý
chí chiến đấu, quán triệt nhiệm vụ giúp đỡ, hỗ trợ cách mạng Lào,
theo tinh thần “giúp bạn là mình tự giúp mình”. Cán bộ, chiến sĩ
được giới thiệu về phong tục tập quán của các bộ tộc Lào, học tiếng
và chữ viết của Lào. Cán bộ dân vận học các bước công tác vận
động quần chúng. Cán bộ phụ trách các đơn vị nghiên cứu phương
thức hoạt động ở chiến trường địch hậu. Ban cán sự và cán bộ phụ
trách công tác dân vận tập trung nghiên cứu hình thức tập hợp quần
chúng, công tác tổ chức đảng ở Lào.
Trong thời gian bộ đội tập trung chỉnh huấn, bộ phận hậu cần
đã tăng cường xây dựng, củng cố cơ quan, lập đội vận tải, xây dựng
các kho trạm, thực hiện kế hoạch bổ sung, trang bị cho bộ đội tình
nguyện Việt Nam và lực lượng của Lào.
Sau đợt chỉnh huấn, vào khoảng hạ tuần tháng 10 năm 1949,
các đơn vị hành quân sang vùng phía đông hai tỉnh Xalavăn, áttapư,
rồi từ đó cùng lực lượng của Lào tiến sang phía tây sông Xê Coong
theo hai hướng. Hướng thứ nhất gồm Uỷ ban kháng chiến khu Hạ
Lào và toàn bộ lực lượng của Lào cùng phần lớn lực lượng của Đại
đội 200, Đại đội 44 (Liên khu 5), hai đội vũ trang tuyên truyền, các
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 163

tổ cán bộ dân vận, tiến vào khu vực Bạn Mầy, Hỉn Lạt, nằm giữa
hai tỉnh áttapư và Chămpaxắc. Đêm 24 tháng 10 năm 1949, sau khi
luồn qua hệ thống đồn bốt địch, các đơn vị Việt Nam, Lào vượt
sông Xê Coong ở phía bắc thị xã áttapư, tiến đến vị trí tập kết ở
Bạn Chiêng và Bạn Inthi (cách thị xã áttapư khoảng 15 km về phía
tây nam) an toàn. Ngày 25 tháng 10, cả đoàn tiếp tục tiến sâu về
phía tây và dừng chân ở khu vực Bạn Mầy, bản Hỉn Lạt, Bạn The
hai bên bờ sông Xê Piên để củng cố lực lượng, xây dựng căn cứ,
vận động nhân dân, triển khai hoạt động ra các vùng xung quanh.
Hướng thứ hai tiến vào vùng địch hậu tỉnh Xalavăn, gồm một
đội vũ trang tuyên truyền, một tổ cán bộ dân vận Việt Nam và một
số cán bộ của đơn vị Xaychắccaphắt (Lào). Sau khi vượt biên giới,
lực lượng này sang vùng bản Kó, cách thị trấn Thà Teng khoảng 20
km về phía đông bắc.
Chuyển về phía tây nam áttapư, triển khai lực lượng, hoạt động
trong vùng địch hậu, xây dựng căn cứ kháng chiến là việc làm
mang ý nghĩa chiến lược, tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến của
nhân dân Hạ Lào có bước phát triển mới.
Sau khi đưa lực lượng vào vùng tây nam áttapư, các đơn vị vũ
trang Việt Nam, Lào triển khai hoạt động rộng trên nhiều hướng để
có thể chiến đấu và xây dựng được cơ sở ở nhiều nơi, lập chỗ đứng
chân nhằm mở rộng phong trào kháng chiến ở ba tỉnh Hạ Lào,
trọng tâm là ở khu vực Đầm Phạ Phô, cao nguyên Bôlavên, tây nam
áttapư và biên giới Lào - Campuchia.
Tại vùng Đầm Phạ Phô, lực lượng của Lào gồm hầu hết số cán
bộ, chiến sĩ đại đội Xaychắccaphắt và bộ phận mạnh nhất của quân
tình nguyện Việt Nam. Nhiệm vụ của các lực lượng ở vùng này là
xây dựng cơ sở chính trị ở khu vực phía đông đường 13 và thị trấn
Phia Phay, tạo bàn đạp để vượt sông Mê Công tiến vào các huyện
phía tây của tỉnh Chămpaxắc - vùng đông dân nhất của Hạ Lào,
164 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

đồng thời tạo thế đánh địch trên đường 13. Sau một thời gian, các
đội công tác Lào - Việt đã gây dựng được cơ sở ở nhiều bản, đẩy
mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền vào sát thị xã Pạc Xê, gây
ảnh hưởng chính trị rộng rãi ở nhiều nơi trong tỉnh Chămpaxắc.
Được tin các đội vũ trang của Lào và quân tình nguyện Việt
Nam đã tiến sâu vào vùng sau lưng địch cả ở bên bờ sông Mê
Công, Bộ Tư lệnh Liên khu 5 quyết định tăng cường Đại đội 44 cơ
động sang khu Hạ Lào hoạt động ở vùng hữu ngạn sông Mê Công.
Ban Chỉ huy quân sự hỗn hợp phân công đại đội này mở rộng địa
bàn hoạt động sang hữu ngạn sông Mê Công, buộc địch phải đối
phó trong thế lúng túng, bị động.
ở vùng cao nguyên Bôlavên, Việt Nam và Lào đưa hai đội vũ
trang tuyên truyền và một số đội công tác vào phía nam thị trấn Pạc
Xoòng và Huội Coòng. Đội vũ trang tuyên truyền hoạt động ở phía
nam thị trấn Pạc Xoòng nhanh chóng lập được địa bàn đứng chân
và phát triển ra vùng phụ cận thị trấn. ở phía nam Huội Coòng, do
địch nắm được tù trưởng địa phương nên hoạt động của đoàn công
tác gặp nhiều khó khăn, tổn thất, việc gây dựng cơ sở trắc trở trong
một thời gian dài.
Vùng tây nam áttapư có địa thế thuận lợi, dân cư tương đối
đông. Việt Nam và Lào có ý định xây dựng nơi đây thành căn cứ
địa của Hạ Lào. Hai trung đội của Đại đội 44 (Việt Nam) cùng tổ
dân vận và các đội vũ trang, đội công tác (Lào) triển khai hoạt động
gây dựng cơ sở, vận động quần chúng nhân dân ở vùng dọc bờ
sông Xê Coong và vùng chân núi Phu Luổng, khu vực sông Xê
Piên, Hỉn Lạt, Bạn The, v.v..
ở vùng biên giới Lào - Campuchia, đội vũ trang tuyên truyền
vừa hỗ trợ cho bộ phận ở tây nam áttapư, vừa hoạt động gây dựng
cơ sở và tạo điều kiện thuận lợi cho Liên khu 5 đưa lực lượng sang
hoạt động ở Đông Bắc Campuchia.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 165

Ngoài các bộ phận hoạt động vũ trang tuyên truyền ở các vùng
trên, Ban Chỉ huy Khu kháng chiến Hạ Lào thống nhất với quân tình
nguyện Việt Nam tổ chức một bộ phận xây dựng hành lang từ huyện
Giằng, tây Quảng Nam sang để đảm bảo tiếp tế cho Hạ Lào; lập một
bộ phận công tác để theo dõi hoạt động của địch và gây cơ sở trong
quần chúng Việt kiều ở thị xã Pạc Xê và thị trấn Pạc Xoòng.
Nhờ bố trí lực lượng hoạt động như trên, các đơn vị Việt Nam
và Lào đã tạo lập được địa bàn đứng chân, gây dựng và mở rộng cơ
sở kháng chiến trong nhân dân, làm cho phong trào kháng chiến
phát triển ở hầu khắp các tỉnh Hạ Lào.
Tính đến đầu năm 1950, với sự hỗ trợ, giúp đỡ, phối hợp hoạt
động của quân tình nguyện Việt Nam, Hạ Lào đã hoàn thành việc
di chuyển căn cứ, hoạt động tập trung ở phía tây sông Xê Coong,
bố trí lực lượng ở những địa bàn quan trọng và chiếm lĩnh nhiều
vùng đông dân cư, phát triển cơ sở chính trị và tổ chức đánh địch ở
cả ba tỉnh.
Hoạt động của các đội vũ trang tuyên truyền, các đội công tác
có nhiều tiến bộ. Các đội vũ trang tuyên truyền và đội công tác
Lào - Việt được chia thành các tổ, tiểu đội đến các bản làng vận
động nhân dân. Nơi nào địch yếu thì tổ chức đánh địch, hạn chế các
hành động cướp bóc, cao hơn là buộc chúng rút khỏi vị trí đóng
quân. Để vận động được nhân dân, cán bộ, chiến sĩ trong các tổ, đội
công tác Lào - Việt luôn bám sát cơ sở, thực hiện cùng sinh hoạt,
ăn uống, làm nương, phá rẫy với nhân dân, tranh thủ mọi lúc, mọi
nơi tuyên truyền vận động nhân dân. Thời gian đầu, trình độ hiểu
biết và uy tín của anh em trong các đội công tác còn hạn chế,
nhưng với lòng căm thù thực dân Pháp xâm lược và với tinh thần
yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, tình đoàn kết chiến đấu, láng
giềng thân thiện Việt Nam - Lào, nên dần dần đã khắc phục được
khó khăn, trở ngại, được nhân dân tin yêu, mến phục coi như con
166 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

em, người thân trong gia đình và hết lòng thương yêu, giúp đỡ, bảo
vệ. Nhiều bản làng, nhân dân quý mến, chọn dịp tập trung làm lễ
buộc chỉ cổ tay cho bộ đội. Tại buổi lễ, bộ đội cùng nhân dân uống
nước ăn thề, cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp. Bộ đội hứa với
dân kiên quyết chiến đấu, hy sinh vì dân, trung thành sống chết với
dân, nhân dân Lào nói với bộ đội rằng tất cả mọi người, già trẻ, gái
trai sẽ đoàn kết một lòng, không phản lại nhau, không làm tay sai
cho giặc Pháp, ủng hộ bộ đội ítxalạ, ủng hộ bộ đội Việt Nam, tham
gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhiều cán bộ, chiến sĩ cả
Lào và Việt cùng dân kết nghĩa bố mẹ, anh, chị, em, bạn thân, nhờ
vậy đã tạo nên được những mối quan hệ tình cảm gắn bó vô cùng
thân thiết, chân thành.
Nhờ phương thức hoạt động đúng đắn và sự kiên trì bám dân để
tuyên truyền vận động, nên quân tình nguyện Việt Nam đã làm
nhân dân các bộ tộc Lào ở Hạ Lào từ chỗ còn e ngại, xa lánh đến
chỗ tin yêu bộ đội ítxalạ và bộ đội Việt Nam, nhận thức được rằng
bộ đội ítxalạ và bộ đội Việt Nam là bộ đội của nhân dân, làm nhiệm
vụ cách mạng, cứu nước, cứu dân, khác hẳn với quân Pháp xâm
lược và bè lũ tay sai bán nước hại dân.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Ban Chỉ huy Khu kháng chiến
Hạ Lào xác định nhiệm vụ chủ yếu của những tháng đầu năm 1950
là tập trung vào việc gây dựng cơ sở chính trị.
Nhằm đối phó với các âm mưu, thủ đoạn mới của thực dân
Pháp và bọn tay sai, lực lượng vũ trang cách mạng Hạ Lào và quân
tình nguyện Việt Nam kiên cường bám địch, bảo vệ nhân dân, bảo
vệ căn cứ, thực hiện tiêu hao sinh lực địch.
Đầu năm 1950, Đại đội 44 (Việt Nam) tổ chức quấy rối địch ở
Mương Mày (ngày 6 tháng 2), phục kích trên đường 23 (ngày 17
tháng 2), v.v.. Đại đội 200 (Việt Nam) hoạt động ở khu vực phụ
cận áttapư, từ Bạn Hôm lên Kẹng Khảm, Thà Hỉn Tẹc vừa tổ chức
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 167

huấn luyện cho dân quân vừa phối hợp với lực lượng vũ trang cách
mạng áttapư tổ chức chiến đấu, tiêu hao sinh lực địch (phục kích ở
Inthi, tây nam Mương Mày, ngày 19 tháng 3), diệt và làm bị thương
16 tên), bảo vệ căn cứ, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân.
Tháng 7 năm 1950, Ban Cán sự Hạ Lào và Khu kháng chiến Hạ
Lào mở Hội nghị sơ kết công tác và bàn phương hướng, biện pháp
hoạt động nhằm củng cố cơ sở, xây dựng bàn đạp, đẩy mạnh các
hoạt động kháng chiến ở Hạ Lào. Về phương hướng nhiệm vụ hoạt
động, Hội nghị chỉ rõ cần ra sức củng cố căn cứ địa tây nam áttapư,
nối liền với Bôlavên thành một bàn đạp vững chắc; tiến tới đánh
mạnh ở áttapư, Phia Phay, đường 13, đường 23, Pạc Xê, Pạc
Xoòng, Xalavăn, Thà Teng bằng cách củng cố cơ sở kháng chiến
trong nhân dân, cơ sở du kích; phát triển cơ sở quần chúng ở vùng
Phia Phay, Xalavăn, trên dọc đường 23, 13 từ Pạc Xê trở xuống,
chuẩn bị chiến trường để lực lượng chủ lực tiến vào tiêu diệt sinh
lực địch, xây dựng căn cứ địa tả ngạn sông Xê Coong đến biên giới
Lào - Việt; phát triển và củng cố cơ sở vùng Chămpaxắc, gây cơ sở
bí mật trong nội thị Pạc Xê và các thị xã khác; gây dựng và phát
triển du kích chiến tranh ở các vùng phụ cận áttapư, Xalavăn, trên
đường 23, 13, cao nguyên Bôlavên và căn cứ địa 5 (miền Đông Hạ
Lào); bảo toàn và tích cực bồi dưỡng lực lượng bằng cách tích cực
đánh phá các hoạt động, tiêu diệt các đội quân tuần tiễu, lùng quét,
đánh phá các vị trí địch; bảo vệ và mở rộng căn cứ địa Hạ Lào
nối liền với căn cứ địa Trung Lào; kiện toàn bộ đội tình nguyện
Việt Nam, phát triển bộ đội Lào; phát triển vùng giải phóng cả
về hình thức và nội dung; tích cực gây dựng kinh tế tự túc, bảo
vệ mùa màng; phá hoại giao thông, bao vây kinh tế địch, đặc biệt là
cắt tiếp tế của địch cho áttapư, Xalavăn1.

1
. Báo cáo cuối năm 1950 của Khu kháng chiến Hạ Lào gửi Liên khu 5. Cục
168 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

Theo tinh thần của hội nghị nói trên, Ban Chỉ huy Mặt trận và
Ban Cán sự của từng vùng, khu vực được thành lập nhằm thống
nhất chỉ đạo lực lượng quân tình nguyện Việt Nam ở chiến trường
Hạ Lào và giúp đỡ hỗ trợ cán bộ Lào ở các vùng. Cụ thể:
- Mặt trận Tây Nam, gồm tỉnh Chămpaxắc (trừ khu vực Pạc
Xoòng, Pạc Xê), có sáu mường ở phía tây và đông sông Mê Công.
Lực lượng quân tình nguyện Việt Nam có Đại đội 44. Lào có đại
đội Xaychắccaphắt, lực lượng chủ lực Khu kháng chiến Hạ Lào,
trung đội địa phương Chăntha-uđôm và dân quân du kích các bản.
Mặt trận Tây Nam có nhiệm vụ củng cố cơ sở vùng Đầm Phạ Phô
làm chỗ đứng chân để chỉ đạo hoạt động toàn tỉnh Chămpaxắc, giữ
vững và phát triển cơ sở ở vùng hữu ngạn sông Mê Công, tích cực
chống âm mưu bình định của địch.
- Mặt trận Xala - Bôla (Xalavăn - Bôlavên), gồm các mường
Uđômxỉn, Lao Ngam, Thà Teng, Xalavăn, Khôngxêđôn,
Vapikhămthoong. Lực lượng quân tình nguyện Việt Nam có một
đại đội hoạt động ở Lao Ngam. Lực lượng Lào có Trung đội
Cômmađăm ở Uđômxỉn, một trung đội ở Lao Ngam cùng du kích
các bản. Mặt trận này có nhiệm vụ thống nhất chỉ đạo các lực lượng
cao nguyên Bôlavên, tích cực chống càn ở Lao Ngam, mở rộng cơ
sở ra toàn vùng phía bắc cao nguyên, cả Thà Teng, tiến tới nối liền
cơ sở với các vùng ở phía nam Bôlavên.
- Mặt trận Xê Coong, gồm khu vực xung quanh thị xã áttapư và
Xánẳmxay, Xayxệtthả, Phu Vông. Quân tình nguyện Việt Nam có
Đại đội 200. Lực lượng Lào có các trung đội địa phương ở các châu
và dân quân du kích ở các bản. Mặt trận này có nhiệm vụ chỉ đạo
hoạt động ở cả hai phía đông và tây thị xã áttapư, bao vây kiềm chế

Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam, phông 71.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 169

địch ở thị trấn Mương Mày, giữ vững hành lang tiếp vận từ Liên
khu 5 (Việt Nam) sang, từng bước xây dựng vùng tây nam áttapư
thành căn cứ địa kháng chiến của toàn khu Hạ Lào.
Nhằm đối phó với âm mưu càn quét đánh phá của địch, đẩy
mạnh phong trào kháng chiến ở Hạ Lào, Bộ Tư lệnh Liên khu 5
(Việt Nam) quyết định điều động lực lượng từ mặt trận Quảng Nam
sang tăng cường cho Hạ Lào gồm Tiểu đoàn 49 cùng một số cán bộ
các ngành tham mưu, hậu cần. Uỷ ban kháng chiến miền Nam
Trung Bộ điều động một số cán bộ, nhân viên có chuyên môn thuộc
các ngành nghề như: làm giấy theo phương pháp thủ công, dệt vải
bằng khung cửi cải tiến, rèn nông cụ, nấu muối mỏ và văn hoá, giáo
dục sang giúp nhân dân các vùng căn cứ Hạ Lào.
Đầu năm 1950, có thêm 100 Việt kiều từ Thái Lan được bổ
sung cho các đại đội độc lập, chủ yếu để làm công tác dân vận ở Hạ
Lào. Trong các tháng cuối năm 1950, do bộ đội tình nguyện Việt
Nam tập trung vào việc phân tán lực lượng để kèm cặp, huấn luyện
bộ đội địa phương, dân quân du kích Lào, nên về tác chiến đánh
địch không nhiều. Tuy nhiên, cũng đã tổ chức được một số trận,
đáng kể là trận tao ngộ chiến ở khu vực Đon Tálạt (ngày 3 tháng 9
năm 1950), Na Khăm (ngày 26 tháng 10 năm 1950), trận phục kích
ở Km 15, đường 23, Bạn Phôn đi áttapư.
Đến cuối năm 1950, quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng
vũ trang cách mạng Hạ Lào đã thực sự phối, kết hợp công tác chặt
chẽ, hiệu quả, biết khắc phục hạn chế, phát huy thế mạnh của nhau.
Quân tình nguyện Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với lực lượng cách
mạng Lào, giúp đỡ tận tình về mọi phương diện, chịu đựng và vượt
qua mọi khó khăn, gian khổ, tạo niềm tin vững chắc trong cả lực
lượng vũ trang và nhân dân các bộ tộc ở Hạ Lào.
Với sự phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau, đến cuối năm 1950, phong
170 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

trào kháng chiến ở Hạ Lào đã có bước phát triển vượt bậc: cơ sở


được xây dựng ở hầu hết các tỉnh, đặc biệt là ở hướng Páxắc, tây
nam áttapư và Bôlavên; căn cứ địa kháng chiến được mở rộng, hình
thành bốn vùng căn cứ; hành lang hậu phương từ biên giới Việt -
Lào đến tây nam áttapư được xây dựng, củng cố, phát huy hiệu quả;
Mặt trận Lào Cụ Xạt, hội mẹ, chị chiến sĩ được tổ chức; tổ chức dân
quân tự vệ, hệ thống chính quyền được hình thành.
Tại vùng Trung Lào, đầu tháng 12 năm 1949, Liên khu 4 điều
thêm Tiểu đoàn 64 cho mặt trận đường 9. Việt Nam và Lào phối
hợp xây dựng huyện Tà Ôi, Mương Noòng thành hai căn cứ vững
chắc ở nam đường 9, nối liền căn cứ kháng chiến của các tỉnh
Quảng Trị, Thừa Thiên (Việt Nam).
Ngày 26 tháng 2 năm 1950, Liên khu 4 ra nghị quyết chuyên
đề về công tác giúp Lào, nêu rõ chủ trương mở rộng và đẩy mạnh
hoạt động ở Trung Lào, hướng chính là đường 9; vận dụng phương
thức “đại đội độc lập, trung đội phân tán”, giúp Lào đẩy mạnh công
tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng tổ chức quần chúng và lực
lượng vũ trang địa phương, tổ chức chính quyền để củng cố mở
rộng khu căn cứ.
Nhằm đáp ứng yêu cầu về chấn chỉnh tổ chức và phát triển lực
lượng kháng chiến, Trung ương Mặt trận Lào ítxalạ có những thay
đổi. Các uỷ ban Tây Lào, Đông Lào đóng ở huyện Con Cuông,
Nghệ An (Việt Nam) giải thể để thành lập các uỷ ban Thượng Lào,
Trung Lào, Hạ Lào. Lực lượng quân tình nguyện Việt Nam ở
Trung Lào được phân công hoạt động theo từng khu vực.
Thực hiện nghị quyết của Liên khu uỷ 4 về công tác giúp Trung
Lào, Bộ Tư lệnh Liên khu 4 quyết định thành lập Đoàn 120 hoạt
động bên cạnh Uỷ ban Trung Lào, do ông Thạo Lấu làm chủ tịch1,

1
. Một thời gian sau, ông Thạo Ma lên thay ông Thạo Lấu.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 171

ông Khăm Chăn làm phó chủ tịch và ba uỷ viên, đóng ở các huyện
Hương Sơn, Đức Thọ (Hà Tĩnh).
Ban Cán sự Trung Lào và Đoàn 120 thống nhất tổ chức lại lực
lượng vũ trang công tác, mỗi đội gồm 25 đến 30 người, làm nhiệm
vụ phối hợp và giúp Lào hoạt động ở mỗi hướng, lấy tên các trục
đường đặt tên cho các đội. Bao gồm Đội 813 (đường 8 và 13), Đội
812 (đường 8 và đường 12), Đội 912 (đường 9 và đường 12), Đội
923 (đường 9 và đường 23).
Liên khu 4 còn điều động hơn 100 cán bộ xã, huyện của các
tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình bổ sung cho các
đội vũ trang công tác giúp Trung Lào. Chấp hành chỉ thị của Liên
khu 4, tỉnh Quảng Bình điều động một đại đội thuộc Trung đoàn 18
sang hoạt động ở Bạn Naphào; tỉnh Hà Tĩnh điều một trung đội bổ
sung cho Đoàn 120 để kiện toàn cơ quan đoàn bộ; mặt trận Bình -
Trị - Thiên cử Tiểu đoàn 364 sang Trung Lào hoạt động dưới sự chỉ
huy lãnh đạo của Đoàn 120.
Đồng thời với việc chấn chỉnh tổ chức, phát triển lực lượng,
Ban Cán sự Đoàn 120 trực tiếp giúp Uỷ ban Trung Lào mở hai lớp
đào tạo cán bộ cho các tỉnh Khăm Muộn, Xavẳnnakhệt và Liên
huyện 90, góp phần tăng cường đội ngũ cán bộ cho Lào về xây
dựng cơ sở cách mạng ở Trung Lào. Trong thời gian Uỷ ban Trung
Lào đóng ở Hà Tĩnh, Ban Cán sự Đoàn 120 đã chăm lo giúp Lào
chuẩn bị các mặt công tác, bảo đảm cơ sở vật chất, ổn định nơi ăn
chốn ở cho sáu gia đình của cán bộ Uỷ ban Trung Lào.
Sự ra đời của Đoàn 120 và các đội vũ trang công tác hoạt động
ở các tỉnh Khăm Muộn, Xavẳnnakhệt là một trong những biểu hiện
của sự phối hợp, giúp đỡ của Liên khu 4 đối với Trung Lào.
Phương châm của Đoàn 120 và các đội vũ trang công tác giúp
Lào trong xây dựng cơ sở là vừa bí mật vừa công khai; thực hiện
các hình thức đấu tranh hợp pháp như chống bắt phu, bắt lính,
172 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

chống lấy lúa gạo, vận động binh lính nguỵ Lào trở về với gia đình,
đồng thời tổ chức phục kích, tập kích, cài chông mìn, cạm bẫy, tiêu
hao sinh lực địch.
Đoàn 120 thực hiện triệt để “ba cùng” với đồng bào và các lực
lượng vũ trang Trung Lào. Bằng nhiều hoạt động cụ thể, thiết thực,
Đoàn 120 và các lực lượng vũ trang Việt Nam sang giúp Trung Lào
đã xây dựng được nhiều cơ sở ở các vùng tranh chấp và những
vùng sâu trong hậu phương địch. Các tổ chức kháng chiến bí mật
của Lào đã từng bước tổ chức đấu tranh, yêu cầu bãi bỏ các chức
dịch cũ, thành lập chính quyền mới. Đồng thời, Đoàn 120 đã phối
hợp với các lực lượng vũ trang Trung Lào chống phá các cuộc càn
quét, cướp phá của địch, tiêu hao sinh lực địch. Cụ thể là Tiểu đoàn
364 đã tiến hành bao vây đồn Mương Noòng, phục kích đoàn xe cơ
giới địch ở dốc Cha Ky, phục kích trên đường 23. Đội 812 đánh
phục kích địch trên sông Nặm Thơn.
Đoàn 120 và các đội vũ trang công tác từ Liên khu 4 sang giúp
các đơn vị Lào ítxalạ đã hoạt động, công tác, chiến đấu quên mình,
góp phần xây dựng và củng cố bốn vùng căn cứ lớn liên hoàn, gồm
600 bản với khoảng 3 vạn dân ở vùng biên giới Việt - Lào. Trong
các khu căn cứ đó, chính quyền cách mạng, các tổ chức, đoàn thể
quần chúng và lực lượng vũ trang được xây dựng khá vững mạnh.
Các lực lượng vũ trang Việt Nam, Lào đã phối hợp chiến đấu đập
tan nhiều cuộc tiến công lấn chiếm của địch, buộc chúng phải rút
bỏ gần một chục vị trí nhỏ, gây ảnh hưởng chính trị tốt đối với
đồng bào Lào. Từ các căn cứ đã được xây dựng dọc phía đông
Trung Lào, các đội vũ trang công tác, đơn vị vũ trang tuyên truyền
Lào - Việt tiến vào các vùng sau lưng địch, phát động, tổ chức nhân
dân, xây dựng cơ sở chính trị và vũ trang bí mật ở các khu vực Huội
Mừn, Lahảnặm, Kẹng Koọc, Nặm Cha Lộ, Na Nhôm, Nhômmalạt
và Hỉn Bun bắt liên lạc với vùng Bolịkhăn (đông Viêng Chăn).
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 173

Những tháng đầu năm 1950, sau nhiều thất bại ở chiến trường Bình -
Trị - Thiên và do phong trào kháng chiến ở Trung Lào phát triển
mạnh, thực dân Pháp rút bỏ một số vị trí nhỏ lẻ, tập trung lực lượng
xây dựng các đồn bốt án ngữ dọc biên giới Việt - Lào, ở Na Pê, Bạn
Naphào, Mahả Xây, Pạc Cuội, Nặm Cha Lộ, Kẹng Koọc và trên các
trục đường 8, 9, 12. Mặt khác, địch tăng cường củng cố hệ thống
chính quyền tay sai, tổ chức các toán gián điệp để thăm dò lực lượng
kháng chiến. Địch còn tổ chức lực lượng vũ trang phản động ở các
bản, trang bị súng trường, lựu đạn.
Tình hình tuy khó khăn, nhưng quân tình nguyện Việt Nam và
lực lượng vũ trang Trung Lào luôn đoàn kết với nhau, đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, gây dựng cơ sở kháng chiến, gây niềm tin
trong nhân dân. Nhờ vậy, ở nhiều vùng, quân tình nguyện Việt
Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Lào đã tranh thủ được nguỵ
quân, nguỵ quyền. Tại tỉnh lỵ Thà Khẹc và các đồn chung quanh,
đã tổ chức được một số cơ sở trong hàng ngũ địch. Trong quá trình
hoạt động công tác, một số cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt
Nam đã ngã xuống.
Thực hiện chủ trương mở rộng mặt trận Trung Lào của Liên khu
uỷ 41, đầu năm 1950, tại chùa Đá, Linh Cảm (xã Tùng ảnh, huyện
Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), Ban Cán sự Trung Lào và Trung đoàn 120
tổ chức Đại hội đại biểu các lực lượng giúp Lào ở Trung Lào. Đại hội
đánh giá tình hình địch, ta trên chiến trường Trung Lào, đề ra
phương hướng giúp Trung Lào tiến mạnh về hoạt động ở vùng đồng
bằng, đẩy mạnh các hoạt động trong vùng địch tạm chiếm, đưa
phong trào Trung Lào phát triển, phối hợp chặt chẽ với cuộc chiến

1
. Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu 4 họp giữa năm 1948 đã chỉ rõ âm mƣu
thủ đoạn của địch, nhiệm vụ của các chiến trƣờng trong Liên khu 4 và đề ra chủ
trƣơng: đánh mạnh ở Bình - Trị - Thiên; thúc đẩy phong trào kháng chiến, đề
phòng địch đánh ra Thanh - Nghệ - Tĩnh; mở rộng mặt trận Trung Lào.
174 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

đấu của quân dân Việt Nam ở các tỉnh Bình - Trị - Thiên.
Đoàn 120 chấn chỉnh, tổ chức lại lực lượng, đổi phiên hiệu
thành Đoàn 280 (ngày 19 tháng 5 năm 1950). Lực lượng quân tình
nguyện Việt Nam ở Trung Lào có hai tiểu đoàn (1 và 2). Tiểu đoàn 1
vốn là Tiểu đoàn 364 hoạt động ở vùng phía nam đường 9. Từ cuối
năm 1950, Tiểu đoàn 1 tiến vào vùng Lahảnặm, vừa chiến đấu vừa
làm công tác xây dựng cơ sở trên trục đường 23. Tiểu đoàn 2 gồm
các đại độc lập số 6, 75 và 77, hoạt động ở khu vực đường 12, tiến
vào vùng đồng bằng Mahả Xây vừa đánh địch vừa làm công tác cơ
sở ở vùng giáp ranh tỉnh Khăm Muộn và Xavẳnnakhệt.
Ngoài ra, Ban Cán sự Trung Lào còn thành lập ba phân đoàn
(9, 13, 812), mỗi phân đoàn gồm một số cán bộ Ban Cán sự và một
đội cơ sở làm công tác dân vận. Nhiệm vụ của các phân đoàn là
chuyển vào hoạt động tuyên truyền, vận động nhân dân xây dựng
cơ sở ở vùng địch hậu. Phân đoàn 9 có bốn đội cơ sở (306, 307,
308, 309), hoạt động ở vùng nam và bắc đường 9. Đội 306 ở huyện
Mương Noòng. Đội 307 ở huyện Tà Ôi. Đội 308 ở tây đường 23.
Đội 309 ở vùng Xê Săngxoi - Kẹng Koọc. Phân đoàn 13 có ba đội
(101, 102, 103) hoạt động từ mường Mahả Xây đến Đồng Hến (bắc
đường 9). Đội 101 ở vùng Mahả Xây. Đội 102 ở khu vực Cầu Sắt
trên đường 13. Đội 103 ở khu vực Đồng Hến. Phân đoàn 812 hoạt
động từ khu vực Khăm Cợt, Lắc Xao đến Nhômmalạt.
Nhờ có chủ trương đúng đắn, kịp thời và hoạt động tích cực của
quân tình nguyện Việt Nam và các lực lượng cách mạng vũ trang
Lào, đến cuối năm 1950, hoạt động kháng chiến ở Trung Lào đã có
bước phát triển mới. Vùng giải phóng và các khu căn cứ của các
tỉnh Khăm Muộn, Xavẳnnakhệt được củng cố và mở rộng, nhân dân
các địa phương ngày càng hăng hái tham gia, ủng hộ kháng chiến,
tạo điều kiện cho quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang
cách mạng Lào tăng cường hoạt động phát triển chiến tranh nhân dân
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 175

xuống các vùng đồng bằng, gây cho địch nhiều khó khăn, lúng túng.
Phong trào kháng chiến ở Trung Lào phát triển mạnh và đồng đều,
đã góp phần tăng cường sự phối hợp giữa các chiến trường ở miền
Trung Đông Dương, làm cho các vùng chiếm đóng của giặc Pháp
không còn là hậu phương an toàn của chúng.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất Lào
ítxalạ (ngày 13 tháng 8 năm 1950), Trung Lào thành lập Mặt trận
Lào ítxalạ và Uỷ ban kháng chiến khu. Đồng chí Khăm Tày
Xiphănđon được cử giữ chức chủ tịch Uỷ ban kháng chiến khu và
là đại diện của Chính phủ và Mặt trận Trung ương ở khu Trung
Lào. Ban Cán sự và Đoàn 280 quân tình nguyện Việt Nam có
nhiệm vụ tiếp tục giúp đỡ Trung Lào thực hiện các chủ trương, kế
hoạch xây dựng, chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Tại mặt trận Thượng Lào, sau ngày đồng chí Cayxỏn
Phômvihản tuyên bố thành lập đội Látxavông - Quân đội Lào ítxalạ
- ở khu căn cứ Xiêng Khọ, tỉnh Hủa Phăn (ngày 20 tháng 1 năm
1949), Liên khu 10 đã cử đồng chí Tắc Tịnh giúp đội Látxavông về
quân sự, đồng chí Xà Man (Sơn La) giúp về chính trị; cùng cán bộ,
chiến sĩ Lào tiến hành huấn luyện quân sự, học tập chính trị. Nhờ
vậy, đơn vị Látxavông ở Xiêng Khọ có điều kiện đi sâu hơn vào
vùng địch hậu, phát triển kháng chiến trên toàn tỉnh Hủa Phăn1.
Đầu năm 1949, Đoàn vũ trang công tác miền Tây tổ chức hội
nghị cán bộ đảng, xác định quyết tâm, kế hoạch tiến quân sang
vùng nam Sầm Nưa, bắc Xiêng Khoảng. Đoàn quyết định lấy Đại
đội 74 làm lực lượng nòng cốt, thành lập 5 đội vũ trang công tác,
trong đó có 2 đội củng cố cơ sở (đội Đ và I), 2 đội phát triển cơ sở

1
. Huỳnh Đắc Hƣơng: “Sau thắng lợi giải phóng dân tộc nhìn lại Sầm Nƣa”,
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Căn cứ địa Sầm Nưa - biểu tượng đoàn kết đặc biệt và
liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Tài liệu đã dẫn, tr.67-69.
176 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

(đội O và P), một đội cơ động đánh địch, hỗ trợ cho công tác cơ sở
(đội K). Ngoài ra, còn có một đội làm công tác giao thông (đội J)
và một đội làm công tác vận tải (đội Q). Trong mỗi đội công tác đều
có một số chiến sĩ cùng một cán bộ người Lào. Tham gia Ban Chỉ
huy Đoàn vũ trang công tác miền Tây, phía Lào có ông Thạo Ký1.
Địa bàn hoạt động của các đội được phân công như sau: đội Đ xây
dựng cơ sở ở Phú Lệ; đội I xây dựng cơ sở ở huyện Mương Xôi,
tỉnh Hủa Phăn; đội P hoạt động ở khu vực Mương Lý, Mương
Lạp, Xốp Nao (giáp huyện Xiêng Khọ, tỉnh Hủa Phăn). Đội O
hoạt động ở vùng Xiêng Luồng, Xiêng Mèn (giáp huyện Mương
Xăm, tỉnh Hủa Phăn).
Trên các khu vực hoạt động, các đội liên tiếp tổ chức phục kích
địch, có tháng đánh 17 trận, buộc địch phải co cụm lực lượng,
không dám tự do lùng sục như trước. Kết hợp công tác vận động
quần chúng, xây dựng cơ sở, Đoàn vũ trang công tác miền Tây tập
trung lực lượng tiêu diệt một số đồn nhỏ lẻ trên đường giao thông
dọc sông Mã, mở đường cho các đội đi sâu làm công tác cơ sở
trong vùng địch kiểm soát. Tháng 12 năm 1949, đội I và đội O diệt
đồn Pọng Nha, đồn Mương Pao rồi tiến sâu vào đất Lào hoạt động.
Đội O bí mật thọc sâu vào khu vực Xiêng Mèn, Xiêng Luồng,
Mương Pua. Đoàn đã giúp Lào đẩy mạnh gây dựng cơ sở, tích cực
củng cố hệ thống chính quyền từ tàxẻng (tổng) đến huyện và phối
hợp với bộ đội Lào ítxalạ tập kích, phục kích, giành nhiều thắng
lợi.
Cùng với những hoạt động của Đoàn vũ trang công tác miền
Tây của Liên khu 3, Tiểu Ban biên chính của tỉnh Thanh Hoá tổ
chức một đội vũ trang tuyên truyền gồm một số cán bộ dân vận và
một đơn vị bộ đội (rút từ đại đội độc lập của tỉnh Thanh Hoá) gồm

1
. Sau khi ông Thạo Ký từ trần, ông Thạo Ma thay thế.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 177

70 người chuyển sang hoạt động ở huyện Sằm Tớ, đông nam tỉnh
Hủa Phăn. Thời kỳ đầu khi các đội vũ trang công tác của Việt Nam
sang vùng này hoạt động, nhân dân Lào ở trong vùng sợ hãi, một số
người bỏ chạy khỏi bản làng, số khác không tiếp xúc. Anh em trong
đội công tác đã kiên trì bám trụ, vận động, giác ngộ nhân dân, giúp
đỡ nhân dân các công việc cụ thể như làm vệ sinh làng bản, chăm
sóc sức khoẻ, giúp dân sản xuất, hướng dẫn dân sang Việt Nam
mua công cụ sản xuất, vải, muối nhằm cải thiện đời sống. Đồng thời,
các đơn vị vũ trang công tác thực hiện nghiêm kỷ luật dân vận, chia
sẻ với dân từng bát cơm, tấm áo, viên thuốc chữa bệnh. Nhờ vậy,
đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của dân, từng bước đưa dân
vào các hội quần chúng, thành lập chính quyền kháng chiến, xây
dựng dân quân du kích, tổ chức canh gác, bảo vệ bản làng, đấu
tranh với địch bằng nhiều hình thức, từ thấp đến cao. Trên cơ sở đó,
các đội vũ trang công tác Việt Nam đẩy mạnh việc giúp Lào xây
dựng cơ sở, tiến sát các khu vực gần huyện lỵ Sằm Tớ. Xây dựng
củng cố hệ thống chính quyền từ các uỷ ban tổng đến huyện. Các
bản, tàxẻng ở gần biên giới Việt Nam có cơ sở quần chúng mạnh và
có tổ chức dân quân, du kích, đã hăng hái cùng bộ đội tổ chức phục
kích, tập kích địch, giành một số thắng lợi.
Từ năm 1949, các đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam giúp tỉnh
Xiêng Khoảng xây dựng lực lượng, hoạt động theo phương thức đội
vũ trang tuyên truyền, đại đội độc lập, xây dựng cơ sở quần chúng,
xây dựng căn cứ du kích, đẩy mạnh chiến tranh du kích.
Với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng của cán bộ, chiến sĩ
quân tình nguyện Việt Nam, liên minh chiến đấu Việt - Lào tại
Xiêng Khoảng ngày càng được củng cố vững chắc thêm. Tại vùng
Long Mộ, anh em Việt Nam được “Lào hoá”, luôn bám sát dân,
nên đã xây dựng, phát triển được nhiều cán bộ địa phương, tổ chức
được một số đơn vị vũ trang như đơn vị dân quân Koong Thạo Tu,
178 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

34 người ở vùng Xảm Chè và đội vũ trang khoảng 20 người do ông


Xiêng Xinh chỉ huy ở vùng Nặm Nơn, v.v.. Các đơn vị này thực
hiện nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa, động viên nhân dân tham gia
kháng chiến, bảo vệ chính quyền cách mạng, giữ gìn trật tự làng
bản, ổn định đời sống của nhân dân.
Tháng 10 năm 1949, khi địch tập trung lực lượng mở các cuộc
càn quét, đánh phá cơ sở ở các bản Kỵ Ninh, Pa Kha, Phay Đang, v.v,
Đại đội 210 phối hợp với du kích các bản thuộc vùng Xảm Chè đánh
địch, loại khỏi vòng chiến đấu một số tên, điều quan trọng hơn là
gây được thanh thế và niềm tin đối với nhân dân. Đến tháng 12
năm 1949, đội du kích tập trung người Mông mang tên “Koong
Pắtchây” gồm 30 người được thành lập, do ông Thạo Tu chỉ huy.
Đại đội 219 vừa gây dựng cơ sở chính trị, vừa đưa đón bảo vệ
nhiều đoàn cán bộ, bảo đảm an toàn. Trong một chuyến dẫn đường,
bảo vệ đoàn đại biểu quốc tế từ Bưng Càn (Thái Lan), qua Pạc
Káđin đến Mương Mộc, vượt núi Phu Luổng, cao 2.811 m, đến
đỉnh đèo gần biên giới Lào - Việt, một chiến sĩ dẫn đường người
Việt đã hy sinh anh dũng.
Nhằm xây dựng một tổ chức lãnh đạo kháng chiến đại diện cho
các bộ tộc Lào, tháng 11 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời
Hoàng thân Xuphanuvông từ Thái Lan sang căn cứ địa Việt Bắc để
bàn bạc và thống nhất chủ trương. Đại đội 219 đã đón Hoàng thân
Xuphanuvông và gia đình cùng Hoàng thân Xúttivan và bác sĩ
Đặng Văn Ngữ (Hưng), từ Thái Lan qua đường Viêng Chăn -
Khăm Muộn - Bolikhămxay sang Đô Lương (Nghệ An). Phòng
Biên chính Liên khu 4 đón đoàn từ làng Như Xuân, tổng Đăng Sơn
rồi đi thuyền sang Đô Lương. Chủ tịch Uỷ ban giải phóng Đông
Lào, Nủhắc Phumxavẳn và các uỷ viên Xỉngcapô, Thạo Xột
Phệtlaxỉ, Thạo Lấu cùng lãnh đạo Phòng Biên chính Liên khu 4 đã
đón tiếp, gặp gỡ đoàn của Hoàng thân Xuphanuvông tại Đô Lương.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 179

Trước khi đoàn cán bộ cấp cao Lào ra Việt Bắc, ông Thạo Lấu
được cử ở lại Đô Lương đảm nhiệm quyền chủ tịch Uỷ ban giải
phóng Đông Lào và đồng chí Lê Văn Diễm đại diện cho Phòng
biên chính bên cạnh Uỷ ban giải phóng Đông Lào. Khi đến Việt
Bắc, ông Xỉngcapô được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tính đến cuối năm 1949, Đại đội 219 đã đưa, đón an toàn 28
đoàn cán bộ của Việt Nam và Lào đi qua tuyến giao liên này. Trong
quá trình làm nhiệm vụ đó, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 219 luôn được
nhân dân Lào đùm bọc, chở che, giúp đỡ, cung cấp, tiếp tế lương
thực - thực phẩm, thông báo mọi tình hình, đồng thời được sự phối
hợp hỗ trợ của đội du kích Koong Thạo Tu và đơn vị của ông Thạo
Kê.
Tháng 12 năm 1949, đội vũ trang tuyên truyền của tỉnh Thanh
Hoá hoạt động trên đất Lào, sáp nhập với đội Đ của Đoàn vũ trang
công tác miền Tây của Liên khu 3, thành đội Đ.S, tiếp tục hoạt
động ở huyện Sằm Tớ.
Thực dân Pháp đóng đồn bốt dọc tuyến biên giới nhằm ngăn
cản sự tiếp tế của hậu phương Thanh Hoá cho căn cứ địa Việt Bắc
và lực lượng kháng chiến Bắc Lào. Để bảo vệ miền tây Thanh Hoá,
bảo vệ hành lang chiến lược Việt - Lào, quân và dân Thanh Hoá đã
tổ chức tiến công địch, phá phòng tuyến sông Mã.
Nhằm giúp Lào xây dựng căn cứ kháng chiến Bắc Lào, Đoàn
vũ trang công tác miền Tây kết hợp với đơn vị vũ trang địa phương
Thanh Hoá (Trung đoàn 77, các đại đội Hà Văn Mao, Cầm Bá
Thước) “nhảy dù” xuống các huyện Mương Xôi, Sằm Tớ, Xiêng
Khọ, xây dựng cơ sở cách mạng và kết hợp với lực lượng Pathết
Lào tiến công giải phóng ba huyện nói trên, hình thành căn cứ địa
kháng chiến Bắc Lào.
Để chỉ đạo kháng chiến thuận lợi, cuối năm 1950, Chính phủ
kháng chiến Lào chuyển sang Thanh Hoá. Bên cạnh Chính phủ
180 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

kháng chiến Lào còn có Ban Cán sự Thượng Lào (đoàn chuyên gia
Việt Nam). Ban đầu Chính phủ kháng chiến Lào đóng tại khu vực
Đầm (Thọ Xuân), sau đó chuyển về vùng Cha Lo - Sằm Bứa (Ngọc
Lặc)1. Trong thời gian Chính phủ kháng chiến Lào ở Thanh Hoá,
Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá đã tận tình giúp đỡ, bảo vệ và
cung cấp lương thực, thực phẩm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt.
Sau gần hai năm hoạt động (từ tháng 6 năm 1948 đến đầu năm
1950), Đoàn vũ trang công tác miền Tây, từ lực lượng ban đầu gồm
một số cán bộ chính trị, dân vận, một đội võ trang tuyên truyền đã
phát triển thành sáu đội vũ trang công tác và các bộ phận chuyên môn
phục vụ, với quân số khoảng 400 - 450 người. Dưới sự lãnh đạo, chỉ
huy của Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Liên khu 3 (Việt Nam), Đoàn đã
vượt qua nhiều thử thách, gian khổ, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
công tác được giao, phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng
Lào diệt, bức rút tám đồn địch, xây dựng cơ sở kháng chiến ở hai
huyện Mương Xôi, Sằm Tớ và khu vực hạ lưu sông Mã thuộc Lào;
tiến sâu vào khu vực Xiêng Luồng, Xiêng Mèn, Mương Liệt,
Mương Pua, Xốp Hào, chuyển một vùng rộng lớn trước là hậu
phương của địch thành khu du kích của Lào. Đoàn vũ trang công
tác miền Tây đã nối được liên lạc với các lực lượng của Phòng Biên
chính Liên khu 4, nhận và bàn giao cơ sở huyện Sằm Tớ và nối liên
lạc với Ban xung phong Lào Bắc do đồng chí Cayxỏn Phômvihản
chỉ huy, cùng các đơn vị chủ lực Liên khu 10 đang hoạt động ở Bắc
Lào.
Trong khi đó, khoảng giữa năm 1949, nhằm khuếch trương
thanh thế và mở rộng khu căn cứ, Ban xung phong Lào Bắc chủ
trương đi sâu vào vùng địch hậu, xây dựng cơ sở kháng chiến xung
quanh khu vực thị xã Sầm Nưa. Để giúp Lào thực hiện chủ trương

. Đầu năm 1952, Chính phủ kháng chiến Lào chuyển về Phủ Quỳ, Nghệ An.
1
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 181

trên, Liên khu 10 Việt Nam bổ sung thêm Đại đội 844, tổ chức
thành đội vũ trang tuyên truyền số 77 phối hợp hoạt động cùng các
lực lượng của Lào. Tháng 7 năm 1949, các lực lượng vũ trang của
Lào và Việt Nam được nhân dân giúp đỡ đã tổ chức vây ép, buộc
toàn bộ binh lính đồn Xiêng Khọ mang theo vũ khí về với kháng
chiến. Chiến thắng Xiêng Khọ đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào kháng
chiến của nhân dân trong vùng, đồng thời củng cố khu căn cứ
Xiêng Khọ thêm một bước vững chắc hơn.
Đầu tháng 11 năm 1949, Ban xung phong Lào Bắc thống nhất
với Bộ Tư lệnh Liên khu 10 (Việt Nam) mở Chiến dịch Sông Mã,
nhằm phá vỡ phòng tuyến sông Mã của địch, mở thông biên giới
Việt - Lào ở hướng Tây Bắc Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc xây dựng căn cứ địa trung ương của cách mạng Lào. Lực
lượng tham gia chiến dịch, về phía Việt Nam có Trung đoàn 138
(Tiểu đoàn 532, Tiểu đoàn 35), Tiểu đoàn 910; về phía Lào có đại
đội Látxavông, đội vũ trang tuyên truyền số 80 cùng lực lượng dân
quân du kích ở địa phương.
Mở màn chiến dịch (ngày 2 tháng 11 năm 1949), đội vũ trang
tuyên truyền số 80 phối hợp với chủ lực Việt Nam nổ súng tiến
công, chiếm đồn Xiêng Khọ, loại khỏi vòng chiến đấu một đại đội
địch, bắt sống 35 tên, trong đó có ba tên Pháp, thu toàn bộ vũ khí.
Tiếp đó, ngày 3 tháng 11, lực lượng vũ trang Lào - Việt triển khai
lực lượng tiến công, địch hoảng loạn, rút chạy khỏi chín vị trí dọc
sông Mã từ Xiêng Khọ đến Xốp Hào. Phòng tuyến sông Mã của
địch bị phá vỡ một đoạn dài từ Mương Lầm đến Xốp Hào. Vùng cơ
sở của Lào được mở rộng trên 2.000 km2 với hơn 1 vạn dân.
Sau chiến dịch Sông Mã, ngày 4 tháng 12 năm 1949, lực lượng
vũ trang Lào cùng Đại đội 930 của Tiểu đoàn 532 (Trung đoàn 138)
quân tình nguyện Việt Nam tập kích đồn Noỏng Khạng (phía tây
bắc cách thị xã Sầm Nưa 25 km), diệt 3 tên, thu 10 súng và 3.000
182 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

viên đạn, buộc địch rút khỏi khu vực.


Sau một loạt chiến thắng vang dội đó, Uỷ ban kháng chiến tỉnh
Hủa Phăn được thành lập để thống nhất chỉ đạo các hoạt động
kháng chiến trong tỉnh. Lo sợ trước sự phát triển của các lực lượng
cách mạng ở tỉnh Hủa Phăn, cuối tháng 12 năm 1949, thực dân
Pháp đã tập trung một tiểu đoàn của Tiểu khu Sầm Nưa và hai đại
đội từ Mộc Châu (Việt Nam) sang, mở cuộc càn quét hòng chiếm
lại Xiêng Khọ và các khu vực đã mất. Các lực lượng vũ trang Lào
phối hợp chặt chẽ cùng hai tiểu đoàn (532, 910) quân tình nguyện
Việt Nam vừa đánh chặn, vừa tổ chức phục kích, gây cho chúng
nhiều thiệt hại, buộc chúng phải rút khỏi khu vực Xiêng Khọ - Nặm
Mã.
Nhằm củng cố thắng lợi, theo yêu cầu của Ban xung phong Lào
Bắc, Bộ Tư lệnh Liên khu 10 Việt Nam đã quyết định để Trung đoàn
138 ở lại và điều Tiểu đoàn 940 (Điện Biên) hỗ trợ chiến đấu, xây
dựng cơ sở, đẩy mạnh phong trào kháng chiến khu vực đông bắc
Thượng Lào. Ban xung phong Lào Bắc tổ chức huấn luyện, đào tạo
được gần 100 cán bộ, bổ sung cho các địa phương trong khu vực.
Như vậy, với sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, dưới
sự lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp của đồng chí Cayxỏn Phômvihản, các
lực lượng cách mạng Lào ở khu vực phía Đông Bắc Lào (đặc biệt
là Hủa Phăn), trong các năm 1949 - 1950 đã vượt mọi khó khăn,
giành được những thắng lợi cơ bản, tạo điều kiện thuận lợi để cách
mạng Lào có bước phát triển mới.
ở vùng Tây Bắc Lào, từ đầu năm 1949, trên cơ sở tuyên truyền,
vận động quần chúng, các cán bộ, chiến sĩ Việt kiều đã tổ chức
“Hội ítxalạ bản”, kết nạp tất cả những người Lào yêu nước. Nhiều
nơi đã tổ chức được Hội Phụ nữ, Hội Thanh niên ítxalạ và thành lập
“đội dân quân du kích bản” để canh gác, bảo vệ bản làng. Tháng 2
năm 1949, đội du kích đầu tiên ở vùng Kọ Chà Kủa thuộc tàxẻng
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 183

Mương Xạ được thành lập, tiếp đó nhiều bản ở vùng lân cận cũng
lập ra đội du kích hoặc tổ du kích.
Để có vũ khí trang bị cho dân quân du kích, tháng 4 năm 1949,
Ban Chỉ huy Khu 1 đã lập một công binh xưởng nhỏ ở vùng bộ tộc
người Mu Xơ thuộc tàxẻng Mương Xạ. Xưởng có 5 cán bộ và 14
chiến sĩ. Mặc dù trang bị còn thô sơ nhưng xưởng đã sản xuất được
lựu đạn, địa lôi và sửa chữa được nhiều loại súng. Riêng năm 1950,
xưởng sản xuất trên 800 quả lựu đạn, hơn 500 quả địa lôi và sửa
chữa 50 khẩu súng. Ngoài nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa vũ khí, anh
em còn làm công tác vận động tuyên truyền, tổ chức “Hội ítxalạ”
để thu hút nhân dân các bản gần xưởng tham gia kháng chiến, lập
ba đội du kích và kết nạp năm đảng viên người Mu Xơ. Do làm tốt
công tác xây dựng cơ sở, vận động nhân dân nên cán bộ, chiến sĩ
trong xưởng được nhân dân và dân quân du kích trong vùng ủng hộ
giúp đỡ nhiều mặt và cùng tham gia chiến đấu bảo vệ xưởng. Trong
sáu trận chiến đấu bảo vệ công binh xưởng, bộ đội đã phối hợp chặt
chẽ với du kích, diệt được sáu tên địch, làm bị thương 15 tên, bảo
vệ xưởng và tính mạng, tài sản của nhân dân. Đây là những chiến
công thầm lặng rất đáng tự hào của tập thể thợ - chiến sĩ của bộ đội
Việt kiều giải phóng quân.
Giữa năm 1949, nhằm đẩy mạnh hơn nữa phong trào kháng
chiến, Đặc uỷ Lào đã cử đồng chí Khăm Xẻng1 và một số cán bộ
Lào về tăng cường cho Khu 1. Các cán bộ Lào và Việt Nam trong
Ban Chỉ huy Khu đã phối hợp chặt chẽ, phát hiện, tuyển chọn, tổ
chức nhiều lớp học ngắn ngày nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ Lào có
thể chỉ đạo các ngành, các địa phương kháng chiến. Ban Chỉ huy

1
. Đồng chí Khăm Xẻng là một trong hai đảng viên cộng sản đầu tiên của
Lào, sau này đồng chí là một trong những ngƣời tham gia sáng lập Đảng Nhân
dân Lào và là ủy viên Trung ƣơng Đảng.
184 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

Khu đề ra phương châm: địa phương nào cũng phải có cán bộ địa
phương đó, mỗi bộ tộc phải có cán bộ của bộ tộc mình. Nhờ đó,
đến tháng 9 năm 1949, Khu 1 đã có một đội ngũ cán bộ địa
phương, bao gồm những người từ các bộ tộc khác nhau trong vùng
như Chà ạt (người Mu Xơ), Mạy Chom Peng, Mạy Khăm Khẳn,
Xẻng Y Nam (Mương Xạ), Nản In Bun, Nản Chom (Bạn Mo),
Phạnha Luổng, Cha Pi, Mạy Khăm Đi, ại Chòi (Mương Long), Un
Luổng (Mương Năng), Bun Lắt (Mương Mưng), Pha Nha (Mương
Cang).
Đầu năm 1950, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân
vùng Tây Bắc Lào có nhiều thuận lợi mới. Tháng 2 năm 1950, Uỷ
ban kháng chiến Khu 1 được thành lập, do chánh tổng (nai tàxẻng)
Mương Long cũ làm chủ tịch. Mặt trận ítxalạ Khu 1 do ông Khăm
Đi làm chủ tịch. Tiếp đó, tháng 3 năm 1950, trung đội bộ đội địa
phương thoát ly đầu tiên của huyện Mương Xỉnh được tổ chức, bao
gồm con em các bộ tộc Lự, Cọ, Đoi của các tàxẻng Mương Xạ,
Mương Long, Mương Năng, Xiêng Cốc, Bạn Mo.
Như vậy, sau hơn hai năm xây dựng và chiến đấu, cán bộ, chiến
sĩ Khu 1 đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ ở vùng biên
giới xa xôi, tích cực xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng, giành
được nhiều kết quả quan trọng. Cơ sở chính trị, các tổ chức quần
chúng, hệ thống chính quyền mới đã hình thành. Các đội dân quân
du kích và đơn vị vũ trang tập trung lần lượt được thành lập. Khu
đã xây dựng được khu du kích liên hoàn, bao gồm 9 tàxẻng:
Mương Xạ, Bạn Mo, Mương Cang, Mương Long, Mương Năng,
Xiêng Cốc tới Xốp Lôi, Xiêng Khêng, bản Sài thuộc huyện Mương
Xỉnh, tỉnh Huội Xài. Khu căn cứ du kích này trở thành khu giải
phóng nằm sâu trong vùng địch hậu ở Bắc Lào, là chỗ dựa cho
phong trào cách mạng ở vùng Tây Bắc Lào phát triển.
Các đơn vị Việt kiều giải phóng quân ở Khu 1 thực hiện tốt
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 185

nhiệm vụ được giao, giúp Tây Bắc Lào xây dựng được phong trào
kháng chiến. Từ năm 1950, lực lượng Việt kiều giải phóng quân ở
Khu 1 được củng cố, có thêm điều kiện phát triển về phía đông.
Theo chỉ đạo của Đặc uỷ Lào, Ban Chỉ huy Khu 1 cử một trung
đội gồm 28 đồng chí tiến về khu vực Bò Tên, Na Le, Na Lơi (tây
nam Mương Xỉnh) và một đại đội gồm 80 người, do đồng chí
Thông chỉ huy, tiến về Nặm Bạc (Luổng Phạbang) để xây dựng hai
khu căn cứ mới. Sau bốn tháng vừa mở đường, vừa điều tra nắm
địch và làm công tác quần chúng, đơn vị mới tới được Nặm Bạc,
nhưng vì đây là vùng địch chiếm đóng, nên lúc đầu anh em phải ở
trên núi, ban đêm vào các bản nắm tình hình, tiếp xúc với nhân dân
gây cơ sở, sau đó tổ chức thành nhóm, tổ nhỏ, thực hiện “ba cùng”
với dân. Sau gần một năm hoạt động, đơn vị đã xây dựng được
nhiều cơ sở kháng chiến, giác ngộ, kết nạp năm đảng viên và thành
lập chi bộ đảng đầu tiên ở Nặm Bạc do đồng chí Khăm Mun Ti làm
bí thư. Trên cơ sở lực lượng quần chúng kháng chiến phát triển,
quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với lực lượng kháng chiến
địa phương thành lập chính quyền các cấp. Đồng chí Khăm Mun Ti
được cử làm “chạu khệt” (khu trưởng) Nặm Bạc. Tiếp đó, đơn vị
của đồng chí Thông tổ chức lực lượng đi xây dựng cơ sở kháng
chiến ở vùng Nặm Ngà, Mương Ngà, Mương Pạc Beng, Mương
Ngòi, sang Xốp Xàng. Đến cuối năm 1950, đại đội của đồng chí
Thông đã liên lạc được với Tiểu đoàn 940 mới từ Tây Bắc (Việt
Nam) sang và sau đó cũng bắt liên lạc được với Đại đội 160 từ
Mương Xon (Hủa Phăn) phát triển sang.
Đồng thời với việc triển khai xây dựng, mở rộng căn cứ Khu 1,
Đặc uỷ Lào cũng đẩy mạnh hoạt động xây dựng căn cứ ở Khu 2.
Địa bàn Khu 2 bao gồm hai huyện Xaynhabuli1 và Pạc Lai ở phía

1
. Nay là tỉnh Xaynhabuli.
186 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

tây tỉnh Luổng Phạbang, tiếp giáp với tỉnh Chiềng Mai (Thái Lan).
Đây là vùng đất nằm phía tây (hữu ngạn) sông Mê Công, đất đai
bằng phẳng, làng mạc, dân cư đông đúc, có nhiều tài nguyên, giao
thông phát triển. Khu 2 có nhiều bộ tộc sinh sống, nhưng chiếm tỷ
lệ lớn là người dân tộc Lào, Lự, Nhuôn (thuộc dân tộc Lào Lùm).
Tại vùng này, thực dân Pháp cho quân đóng đồn ở Xaynhabuli, Pạc
Lai, Pạc Khọp.
Trên cơ sở đơn vị Việt kiều ban đầu đã về Lào, ông Phumi
Vôngvichít, đại diện Chính phủ độc lập Lào ítxalạ cùng đồng chí
Mai Văn Quang (cán bộ mặt trận Tây Bắc Lào) và một số cán bộ
Lào, Việt tổ chức một cuộc họp tại tàxẻng Pạc Khọp, bàn kế hoạch
xây dựng khu căn cứ Khu 2, quyết định thành lập Khu kháng chiến
2 và cử ông Phumi Vôngvichít làm khu trưởng; đồng chí Mai Văn
Quang làm chỉ huy trưởng bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Khu 2.
Trong Ban Chỉ huy Khu 2, phía Lào còn có các ông Mahả Khăm
Phăn Vilachít, Uttamạ, Phạu Phimphachăn, v.v..
Sau khi thành lập, Ban Chỉ huy Khu 2 triển khai việc huấn
luyện cho bộ đội các kiến thức quân sự cơ bản, chủ trương, đường
lối kháng chiến và về công tác tuyên truyền vận động quần chúng,
xây dựng cơ sở, v.v.. Ông Phumi Vôngvichít cùng một số cán bộ
Lào cũng tích cực tham gia giảng dạy một số bài về chính trị, đạo
đức cách mạng.
Ban Chỉ huy Khu phân chia lực lượng thành các tổ nhỏ gồm cả
cán bộ Lào và Việt, đến từng bản làng để tuyên truyền xây dựng cơ
sở, vận động nhân dân ủng hộ và tham gia kháng chiến. Từ chỗ
đứng chân ban đầu ở các bản Huội Lau, Nặm Khả, các lực lượng
Lào - Việt phát triển theo hai hướng, một hướng tiến về Pạc Khọp,
cạnh sông Mê Công, một hướng tiến xuống các tàxẻng Xiêng Lôm,
Xiêng Hòn. Cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã bám
sát cơ sở, thực hiện “ba cùng” với dân.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 187

Nhờ sự nỗ lực và hoạt động với phương thức thích hợp, đến
giữa năm 1949, các lực lượng Lào - Việt ở Khu 2 đã xây dựng
được cơ sở chính trị ở các tàxẻng Pạc Khọp, Xiêng Lôm, Xiêng
Hòn và Xaynhabuli. Các đội dân quân du kích cũng được thành lập
ở nhiều bản làng. Các tù trưởng, tộc trưởng, chức dịch cũ có tinh
thần yêu nước, được nhân dân tin cậy được lựa chọn giao trách
nhiệm lãnh đạo chính quyền mới.
Vào tháng 10 năm 1949, khi Chính phủ độc lập Lào ítxalạ lưu
vong ở Thái Lan do ông Khăm Mạo làm thủ tướng tuyên bố giải
thể, một số thành viên Chính phủ này về Viêng Chăn theo Pháp.
Do nội bộ cán bộ Lào ở Khu 2 có kẻ phản bội nên cuối năm 1949,
ông Phumi Vôngvichít phải di chuyển lên biên giới Lào - Thái,
sau đó ở lại chỉ đạo phong trào kháng chiến ở Khu 1. Các đồng
chí Khăm Xẻng, Phạu Phimphachăn cùng một số cán bộ chính trị,
quân sự Lào được cử về củng cố phong trào kháng chiến Khu 2.
Thực hiện chủ trương đẩy mạnh hoạt động về phía đông, đầu
năm 1950, Đặc uỷ Lào chỉ thị cho các đơn vị Việt kiều giải phóng
quân của Khu 2 vượt sông Mê Công tiến sang khu vực Mương Mẹt
huyện Ka Xỷ (Viêng Chăn). Một số cán bộ về nhận công tác ở Ban
Cán sự tỉnh Viêng Chăn. Lực lượng còn lại hoạt động ở phía tây
tỉnh Viêng Chăn, móc nối cơ sở trở lại hoạt động ở vùng Pạc Lai,
Xaynhabuli bên hữu ngạn sông Mê Công.
Trong những tháng đầu năm 1950, địa bàn hoạt động của quân
tình nguyện Việt Nam chưa phân theo địa giới hành chính tỉnh,
huyện của Lào, mà phân chia theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị cũng
như tình hình thực tế và khả năng thực hiện nhiệm vụ của các đơn
vị. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển của phong trào kháng
chiến trên chiến trường Lào, Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương quyết định tăng cường cán bộ giúp cách mạng Lào, đồng
thời thay đổi phương thức tổ chức cho phù hợp với tình hình mới.
188 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

Chấp hành chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương, tháng 3 năm 1950, Ban Cán sự hải ngoại quyết
định thành lập Ban Cán sự và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Lào để lãnh
đạo, chỉ đạo Tây Lào đẩy mạnh phong trào kháng chiến. Đồng chí
Mai Côn làm bí thư Ban Cán sự Đảng. Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Lào
do đồng chí Nguyễn Hoà làm chỉ huy trưởng; đồng chí An Giao làm
chính uỷ; đồng chí Mừn Xổmvichít, đại diện Chính phủ Kháng chiến
ở Tây Lào, làm chỉ huy phó kiêm tham mưu trưởng.
Mặt trận Tây Lào được tổ chức lại thành hai khu và một tỉnh
(Viêng Chăn). Khu 1 gồm Huội Xài, Luổng Nặm Thà, tây Luổng
Phạbang. Khu 2 gồm Hoổng Xả, Xaynhabuli, Pạc Lai. Tỉnh Viêng
Chăn chia thành bốn phân khu là Nặm Tòn, Phu Khun, Bolịkhăn,
Thulakhôm. Mỗi khu có một đơn vị Việt kiều giải phóng quân và
một trung đội địa phương Lào. Ngoài ra, còn có một đơn vị khác
hoạt động trên đường 13.
Giữa năm 1950, có rất đông thanh niên Việt kiều ở Thà Bò,
Noỏng Khai, Uđon, Xakôn gia nhập các đơn vị Việt kiều sang Tây
Lào hoạt động. Số này sau khi được học tập chính trị đã được phân
công về nhận công tác ở các địa phương.
Trong số thanh niên Việt kiều từ Thái Lan gia nhập Việt kiều
giải phóng quân sang Tây Lào hoạt động có nhiều chị em phụ nữ.
Họ đảm nhiệm các công việc y tá, cứu thương, phục vụ bệnh xá,
dân vận, xây dựng cơ sở.
Cuối năm 1950, địch mở nhiều cuộc hành quân càn quét vào
các vùng căn cứ kháng chiến của tỉnh Viêng Chăn. Tuy vậy, lực lượng
quân tình nguyện Việt Nam và Lào vẫn kiên cường bám trụ địa
bàn, đánh trả, bảo vệ cơ sở. Phong trào kháng chiến ở Viêng Chăn,
quan trọng là vùng Nặm Tòn, Thulakhôm, đường 13, Mương
Phương, Ka Xỷ, Na Khưa, Na Lưởng, Bolịkhăn, v.v., vẫn không
ngừng được củng cố và mở rộng, trở thành các căn cứ kháng chiến
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 189

cho cách mạng vùng Tây Lào những năm tiếp theo.
Cuối tháng 2 năm 1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương ra nghị quyết về việc thành lập Ban Cán sự lâm
thời Thượng Lào, do đồng chí Song Hào (Chính uỷ Liên khu 10)
làm bí thư. Ban Cán sự lâm thời Thượng Lào đặt dưới quyền chỉ
đạo của đồng chí Võ Nguyên Giáp.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã tăng
cường lực lượng giúp Lào, đặc biệt là tập trung giúp Thượng Lào.
Tháng 4 năm 1950, với sự thống nhất của Lào, Trung ương
Đảng và Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt
Nam quyết định tổ chức lại các lực lượng hoạt động giúp Lào ở
Thượng Lào (các tỉnh Xiêng Khoảng, Hủa Phăn, Luổng Phạbang,
Phôngxalỳ). Theo đó, Thượng Lào được tổ chức thành ba phân khu
(A, B, C). Mỗi phân khu có Ban Cán sự và Ban Chỉ huy Phân khu,
chịu trách nhiệm lãnh đạo chỉ huy cả về quân sự và xây dựng cơ sở.
Các đơn vị bộ đội tình nguyện, khi có giặc thì tập trung vào chiến
đấu, lúc thường thì phân tán làm nhiệm vụ dân vận, xây dựng cơ sở
quần chúng.
Phân khu A phụ trách hai tỉnh Hủa Phăn và Phôngxalỳ. Lực
lượng gồm có hai tiểu đoàn (532 và 35) của Trung đoàn 138; sáu
đội vũ trang của Đoàn vũ trang công tác miền Tây (các đội I, O,
K, P, J và Q) và Đại đội 230 của Liên khu 10. Ban Chỉ huy Phân
khu A, do đồng chí Bế Sơn Cương làm phân khu trưởng, đồng
chí Phạm Nghiêm làm chính uỷ kiêm bí thư Ban Cán sự. Về
phía Lào có đội vũ trang tuyên truyền số 80 và hai đội công tác
Nặm Săm, Nặm Mã.
Sau khi được hình thành, Ban Chỉ huy Phân khu A đã tiến hành
sắp xếp lại lực lượng. Tiểu đoàn 532 trở thành đơn vị chủ lực của
Phân khu, mang phiên hiệu mới là Tiểu đoàn 70. Đại đội 162 của
190 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

Tiểu đoàn 35 được tăng cường cho Tiểu đoàn 70 làm đại đội trợ
chiến. Giải thể Tiểu đoàn 35 và đội P, xây dựng thành ba đại đội
độc lập (104, 160, 320). Đại đội 104 hoạt động ở huyện Mương
Xăm. Đại đội 160 hoạt động ở huyện Mương Xon. Đại đội 320
hoạt động ở huyện Xiêng Khọ. Đại đội 610 (đội O cũ) hoạt động ở
huyện Hủa Mường. Đại đội 620 (đội K cũ) hoạt động ở huyện Sằm
Tớ. Đại đội 615 (đội I cũ) hoạt động ở huyện Mương Xôi.
Khoảng giữa năm 1950, Phân khu A và Tiểu đoàn 70 đóng
quân ở miền tây tỉnh Thanh Hoá để củng cố và huấn luyện. Bộ đội
Việt Nam được học tập về đường lối, chính sách của cách mạng
Lào, xác định nhiệm vụ, phương châm hoạt động của các đại đội
độc lập, v.v.. Nửa cuối năm 1950, các đơn vị của Phân khu A phối
hợp với đội vũ trang tuyên truyền số 80 và các đội công tác Nặm
Săm, Nặm Mã của Lào, đi xuống các địa bàn, tuyên truyền vận
động nhân dân, xây dựng và phát triển cơ sở quần chúng. Đến cuối
năm 1950, hai phần ba các huyện ở tỉnh Hủa Phăn đã có cơ sở quần
chúng hoạt động và phát triển sang huyện Pạc Xeng (tỉnh Luổng
Phạbang). Phần lớn các tàxẻng đã tổ chức được mặt trận ítxalạ, hội
mẹ chiến sĩ, hội thanh niên và phụ nữ; 26 trong số 42 tàxẻng đã có
chính quyền cách mạng. Các huyện Xiêng Khọ, Sằm Tớ, Pạc Xeng
tổ chức được mặt trận ítxalạ và ủy ban kháng chiến. Cùng với xây
dựng cơ sở, sáu tháng cuối năm 1950, các đơn vị của Phân khu A
đã tổ chức 37 trận phục kích, loại khỏi vòng chiến đấu 131 tên, hạn
chế được hoạt động phá hoại của địch.
Phân khu B phụ trách địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, gồm có đội
ĐS (thuộc Đoàn vũ trang công tác miền Tây cũ hợp nhất với đội
vũ trang Sằm Tớ); Đại đội 210 hoạt động ở vùng Xảm Chè, Mương
Mộ cũ; Tiểu đoàn 204 mới được tăng cường; đội vũ trang Lào Bắc
hoạt động ở nam Sầm Nưa cũ. Ban Chỉ huy Phân khu B do đồng
chí Lê Thanh làm phân khu trưởng, đồng chí Nguyễn Tài làm chính
uỷ và bí thư Ban Cán sự, đồng chí Đặng Bá Phi làm phân khu phó.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 191

Việc thành lập Phân khu B diễn ra chậm hơn so với kế hoạch.
Trong các tháng cuối năm 1950, Phân khu B tập trung ổn định tổ
chức, huấn luyện, học tập, bồi dưỡng kiến thức, phương thức hoạt
động, công tác. Lực lượng của Phân khu B được sắp xếp lại như
sau: giải thể Tiểu đoàn 204, thành lập hai đội (217, 219). Đội 217 là
chủ lực của Phân khu B và Đội 219 phụ trách các khu vực Mương
Ngan, Mương Ngạt và Mương Mộc. Đội 213 (gồm Đại đội 210 và
một trung đội của đội ĐS cũ) phụ trách khu vực Mương Khun. Đội
216 (đội vũ trang tuyên truyền Lào Bắc cũ) phụ trách khu vực
Mương Dương, Bò Nhia.
Phân khu C phụ trách địa bàn tỉnh Luổng Phạbang, gồm các
đơn vị đại đội độc lập ở Khu 1 từ Mương Xỉnh chuyển sang hoạt
động ở khu vực Nặm Bạc, Nặm Ngòi; Đại đội độc lập 160 từ huyện
Mương Xon, tỉnh Hủa Phăn chuyển sang hoạt động ở huyện Pạc
Xeng; Tiểu đoàn 940 của Liên khu 10 mới tăng cường cho Mặt trận
Thượng Lào.
Do tổ chức Phân khu C chưa hình thành, nên trong năm 1950,
các đơn vị hoạt động độc lập. Đến tháng 10 năm 1950, Tiểu đoàn
940 mới đến Mương Ngòi và tổ chức hội nghị đại diện ba đơn vị.
Hội nghị nhất trí phân công Đại đội 160 tiếp tục hoạt động tại
huyện Pạc Xeng, phát triển dần lên huyện Xiêng Ngơn, giáp kinh
đô Luổng Phạbang; lực lượng của Khu 1 (Mương Xỉnh) phụ trách
xây dựng cơ sở ở Nặm Bạc, Mương Ngòi, Mương Beng rồi phát
triển lên khu vực Xốp Xàng, Na Luông, tiếp giáp vùng Mường Lói,
Xốp Cộp, Mường Va của huyện Sông Mã (tỉnh Sơn La, Việt Nam),
xây dựng vùng này thành hậu cứ của tỉnh Luổng Phạbang. Tiểu
đoàn 940 cơ động đánh địch trên địa bàn và cử một số đơn vị làm
công tác cơ sở các khu vực Mương Khỏa, Hạt Ngo, La Khon.
Phát hiện thấy phong trào kháng chiến phát triển và sự hoạt
động mạnh của quân tình nguyện Việt Nam ở tỉnh Luổng Phạbang,
192 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

cuối năm 1950, địch mở cuộc càn lớn vào khu vực Pạc Xeng, Bạn
Xẻ, Xốp Xàng và Mương Ngòi. Bị quân tình nguyện Việt Nam và
lực lượng vũ trang Lào chặn đánh và thiệt hại đáng kể, nhưng sau
đó chúng tăng cường lực lượng đóng thêm đồn bốt ở Na Tở
(Mương Ngòi), Bạn Xẻ, Nặm Bạc, Mương Hợp, Pạc Xeng, Pạc
Beng và Mương Ngà.
Do tình hình phát triển không thuận lợi nên để bảo toàn lực
lượng chuẩn bị cho hoạt động lâu dài ở Luổng Phạbang, Tiểu đoàn
940 và một số đơn vị được lệnh rút khỏi Luổng Phạbang. Chỉ còn
Đại đội 160 hoạt động tại huyện Pạc Xeng và Đại đội 926 của Tiểu
đoàn 940 được biên chế lại gồm một số cán bộ, chiến sĩ Khu 1 cũ
và một số anh em người dân tộc Thái từ Tây Bắc (Việt Nam) sang,
ở lại tiếp tục bám trụ địa bàn, giúp Lào xây dựng củng cố cơ sở
kháng chiến.
Gần một năm tổ chức lại lực lượng giúp Lào, ở vùng Thượng
Lào đã hình thành tổ chức mới, dưới sự lãnh đạo chung của Ban
Cán sự lâm thời Thượng Lào. Các phân khu, nhất là Phân khu A
(phụ trách tỉnh Hủa Phăn) đã giúp Lào đẩy mạnh hoạt động đánh
địch và xây dựng cơ sở, góp phần thúc đẩy phong trào kháng chiến
ở Thượng Lào, tạo cơ sở, điều kiện để tiến tới thống nhất tổ chức,
chỉ đạo quân tình nguyện Việt Nam giúp Lào trên toàn mặt trận
Thượng Lào.
Không chỉ đưa quân tình nguyện sang giúp đỡ, phối hợp chiến
đấu với các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Lào trên
khắp các chiến trường Hạ Lào, Trung Lào và Thượng Lào, Việt Nam
còn là hậu phương vững chắc, đất đứng chân của các lực lượng
kháng chiến và cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến của Lào.
Biểu hiện rõ nhất là vào đầu năm 1950, nhận lời mời của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Hoàng thân Xuphanuvông cùng một phái đoàn đã
sang vùng căn cứ địa Việt Bắc. Để tạo điều kiện cho đoàn cán bộ
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 193

cách mạng Lào trong thời gian ở tại Việt Nam, Trung ương Đảng,
Chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo chuẩn bị chu đáo cơ sở vật chất
cho đoàn. Một quả đồi thấp, tương đối rộng và bằng phẳng của thôn
Làng Ngòi, xã Mỹ Lâm (nay là xã Mỹ Bằng), huyện Yên Sơn được
chọn làm nơi xây dựng bản doanh cho đoàn cán bộ cách mạng Lào
gồm hơn 200 người, bao gồm nhà ở, nơi làm việc của Hoàng thân
Xuphanuvông, đồng chí Cayxỏn Phômvihản; hội trường 12 gian
với đủ bàn, ghế bằng tre nứa; nhà bếp, nhà kho, v.v.. Nhân dân địa
phương hết lòng giúp đỡ, che chở, đùm bọc đoàn cán bộ cách mạng
Lào. Đại đội bộ đội Lào làm nhiệm vụ bảo vệ vòng trong, bộ đội
Việt Nam và dân quân, du kích xã Mỹ Lâm bảo vệ vòng ngoài,
nhân dân trong vùng triệt để thực hiện ba không: “không nghe,
không biết, không nói”. Nhân dân địa phương không chỉ tự nguyện
đem giường, tủ, bàn ghế, đồ dùng sinh hoạt gia đình cho các đồng
chí Lào mượn, mà còn cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm cho
đoàn cán bộ Lào.
Thực hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương, từ
ngày 13 đến 15 tháng 8 năm 1950, tại tỉnh Tuyên Quang (Việt
Nam) diễn ra Đại hội quốc dân Lào (Mặt trận Lào kháng chiến).
Đại hội quy tụ hơn 100 đại biểu đại diện cho lực lượng vũ trang,
nhân dân các bộ tộc trên cả nước Lào. Đại hội quyết định thống
nhất các tổ chức quần chúng, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất,
tức Neo Lào ítxalạ và Chính phủ Kháng chiến Lào. Đại hội bầu ủy
ban Trung ương Neo Lào ítxalạ do Hoàng thân Xuphanuvông làm
chủ tịch và Chính phủ Kháng chiến Lào do Hoàng thân
Xuphanuvông làm thủ tướng. Đồng chí Cayxỏn Phômvihản được
bầu làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Đại hội thông qua những nghị quyết, quyết định quan trọng,
trong đó có nghị quyết về tăng cường quan hệ đoàn kết chiến lược
với Việt Nam và Campuchia đánh đuổi thực dân Pháp, xây dựng
194 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

một nước Lào độc lập, thống nhất, phú cường1.


Đại hội ra nghị quyết về quan hệ giữa ba nước Việt Nam, Lào,
Campuchia. Nghị quyết khẳng định: muốn kháng chiến giành độc
lập, lực lượng kháng chiến của ba nước không thể chia cắt được.
Nước Lào không thể độc lập được một khi Việt Nam chưa được
độc lập. Việt hay Miên không thể có sự độc lập thực sự được khi
nước Lào còn là bàn đạp của Pháp ở Đông Dương. Nghị quyết chỉ
ra nhiệm vụ của nhân dân các bộ tộc Lào là đoàn kết toàn dân thành
một mặt trận thống nhất. Đoàn kết với hai dân tộc Việt, Miên trên
chiến trường Đông Dương để có đủ lực lượng hoàn thành hai
nhiệm vụ trọng tâm là kháng chiến và kiến quốc. Đại hội quốc dân

. Mƣời hai điểm trong nội dung Đề án về chương trình chính trị, tình hình và
1

nhiệm vụ của chúng ta thông qua tại Đại hội toàn quốc Mặt trận Lào kháng chiến
họp từ ngày 13 đến 15 tháng 8 năm 1950:
1) Đánh đổ thực dân Pháp và bọn Lào gian bán nƣớc, chống mƣu mô can
thiệp của đế quốc trên thế giới.
2) Thành lập nƣớc Lào độc lập, thống nhất thật sự, thành lập Chính phủ liên
hiệp quốc gia.
3) Thực hiện các quyền tự do dân chủ bao gồm tự do tín ngƣỡng.
4) Tịch thu tài sản của thực dân Pháp và bọn Lào gian, giao cho Chính phủ
xử lý, quốc hữu hoá các xí nghiệp của thực dân.
5) Xoá bỏ các thứ thuế do thực dân Pháp đặt ra, đặt thuế mới cho công bằng,
bãi bỏ chế độ phu phen tạp dịch.
6) Phát triển công nghiệp, nông nghiệp và thƣơng nghiệp. Giải quyết vấn đề
giao thông vận tải, cải thiện dân sinh, thực hiện giảm tô, giảm tức.
7) Ban bố luật giao thông và bảo hiểm lao động.
8) Thủ tiêu nạn mù chữ, phát triển giáo dục và văn hoá dân tộc.
9) Phát triển chiến tranh nhân dân và chính thức thành lập Quân đội Quốc gia
Lào.
10) Thực hiện quyền dân tộc bình đẳng.
11) Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất, tức Neo Lào ítxalạ.
12) Đoàn kết với dân tộc Việt Nam, Khơme, đánh đổ đế quốc Pháp và bất
cứ đế quốc nào can thiệp vào Lào, mật thiết liên hệ với các nƣớc dân chủ mới,
gia nhập Mặt trận hoà bình thế giới.
Nguồn: Phòng Tƣ liệu Viện Nghiên cứu Đông Nam á.
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 195

Lào đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình phát triển của
cách mạng Lào. Đại hội mở ra một giai đoạn mới của quan hệ đoàn
kết chiến lược Việt - Lào.
Trong thời gian diễn ra Đại hội quốc dân Lào (Mặt trận Lào
kháng chiến), để bảo đảm an toàn bí mật, Hoàng thân Xuphanuvông
và đoàn cán bộ Lào được bố trí di chuyển đến một số địa điểm khác
trong xã Mỹ Lâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên trao đổi với
Hoàng thân Xuphanuvông và các đồng chí lãnh đạo Chính phủ, Mặt
trận Lào yêu nước các vấn đề về liên minh đoàn kết chiến đấu Việt
Nam - Lào và phương thức tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện,
về xây dựng đảng Mác - Lênin ở Lào, v.v..
Nhằm chuẩn bị tiến tới Hội nghị liên minh nhân dân ba nước
Đông Dương1, từ ngày 20 đến 22 tháng 11 năm 1950, tại Việt Nam
diễn ra Hội nghị đại biểu ba mặt trận dân tộc thống nhất của Việt
Nam, Lào, Campuchia. Ngay sau Hội nghị, đồng chí Hoàng Quốc
Việt, Hoàng thân Xuphanuvông và đại diện của Campuchia thay
mặt ba mặt trận dân tộc thống nhất của ba nước đã ký Tuyên cáo
chung nhấn mạnh cuộc hội nghị này là bước đầu cho liên minh giữa
ba dân tộc Việt Nam - Lào - Miên. Chỉ có liên minh ấy, như Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói, mới đánh tan được mưu mô xảo trá của bọn
thực dân xâm lược Pháp và bọn can thiệp Mỹ, mới đem lại độc lập
thực sự cho ba quốc gia, đem lại hạnh phúc cho ba dân tộc.
*
* *
Trong giai đoạn từ ngày 16 tháng 10 năm 1945 đến tháng 12
năm 1950, Việt Nam và Lào, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Đông Dương, đã tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và Lào là một
cuộc chiến tranh chính nghĩa, nhằm bảo vệ những thành quả của

1
. Tổ chức vào tháng 3 năm 1951.
196 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

Cách mạng tháng Tám 1945, thực hiện mục tiêu cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc kháng chiến đó
của nhân dân hai nước diễn ra trong bối cảnh, tình hình quốc tế,
khu vực và Đông Dương có nhiều thuận lợi rất căn bản, song chứa
đựng nhiều khó khăn, phức tạp. Từ năm 1945 đến đầu năm 1950,
cả hai nước phải chiến đấu trong vòng vây bốn bề của chủ nghĩa đế
quốc, thiếu sự giúp đỡ, viện trợ của các nước, lực lượng cách mạng
từ bên ngoài. Trong khi đó, tiềm lực về kinh tế và quốc phòng của
cách mạng Việt Nam và Lào còn có nhiều hạn chế bởi những hậu
quả nặng nề của ách áp bức, bóc lột phong kiến, thực dân, phát xít;
Pháp tuy phải chịu nhiều thiệt hại bởi Chiến tranh thế giới thứ hai
(1939 - 1945), nhưng vẫn là một nước đế quốc mạnh, lại được các
nước đế quốc khác đồng lõa, ủng hộ việc Pháp đưa quân vào xâm
lược Đông Dương lần thứ hai; đội quân xâm lược của Pháp được tổ
chức và trang bị vũ khí hiện đại, có nhiều kinh nghiệm trong chiến
tranh xâm lược. Trong bối cảnh, tình hình đó, cách mạng Việt Nam
và Lào cần thiết và nhất thiết phải có sự liên minh, đoàn kết hỗ trợ
lẫn nhau.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, kế thừa và
phát triển truyền thống đoàn kết, tượng trợ và giúp đỡ lẫn nhau vốn
có, Việt Nam và Lào từng bước xây dựng, củng cố, mở rộng và
tăng cường mối quan hệ liên minh đoàn kết chiến đấu chống thực
dân Pháp xâm lược. Trong từng năm tháng cụ thể, theo tình hình
chung và riêng của hai nước Việt Nam - Lào, theo diễn biến của
cuộc kháng chiến, Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời đề ra
những chủ trương, biện pháp cụ thể nhằm đưa sự nghiệp đấu tranh
cách mạng của hai nước tiến lên. Đảng Cộng sản Đông Dương đã
từng bước xác định đường lối, tư tưởng và quan điểm chỉ đạo cách
mạng ba nước Đông Dương. Trên quan điểm Đông Dương là một
chiến trường, Đảng Cộng sản Đông Dương, Nhà nước, Chính phủ
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 197

và quân đội Việt Nam cùng những nhà lãnh đạo cách mạng, lực
lượng vũ trang và nhân dân Lào đã thống nhất ý chí đoàn kết, liên
minh chiến đấu chống kẻ thù chung vì mục tiêu chung của hai nước
và mục tiêu riêng của từng quốc gia.
Ngay từ tháng 10 năm 1945, đại diện Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà và đại diện Chính phủ độc lập Lào đã ký Hiệp ước
tương trợ Lào - Việt (ngày 16 tháng 10 năm 1945), Hiệp định về tổ
chức liên quân Lào - Việt (ngày 30 tháng 10 năm 1945). Đó là
những văn kiện chính thức đầu tiên, là cơ sở pháp lý của mối quan
hệ liên minh, hợp tác giữa cách mạng Việt Nam - Lào.
Trong tiến trình của cuộc kháng chiến, Việt Nam trở thành
chiến trường chính, nơi Pháp tập trung lực lượng đông nhất, nơi
diễn ra những trận chiến lớn với quân xâm lược Pháp, đồng thời
Việt Nam trở thành hậu phương lớn, chỗ dựa vững chắc đối với
cách mạng Lào. Với sự hỗ trợ, giúp đỡ của Việt Nam trên nhiều
phương diện, từ trung ương đến địa phương, mà quan trọng là sự
phối hợp chiến đấu của quân và dân các tỉnh giáp nhau suốt dọc
biên giới Việt - Lào, của liên quân Lào - Việt, Việt kiều giải phóng
quân, của lực lượng quân tình nguyện Việt Nam trên khắp các
chiến trường Lào, nên trong những năm 1945 - 1950, cuộc kháng
chiến của nhân dân Lào đã vượt qua được nhiều khó khăn, từng
bước trưởng thành và phát triển. Đến năm 1950, Lào đã xây dựng
được nhiều vùng giải phóng và khu căn cứ rộng lớn, chiếm khoảng
một phần ba diện tích đất nước. Nhiều vùng giải phóng và khu căn
cứ của Lào đã nối liền với nhau, mở thông với các vùng căn cứ
Tây Bắc, các vùng hậu phương của Liên khu 4 và Liên khu 5 (Việt
Nam), tạo thành một thế kháng chiến liên hoàn khá vững chắc giữa
Việt Nam và Lào suốt theo chiều dài biên giới từ bắc xuống nam,
theo từng vùng, miền của hai nước Việt Nam - Lào. Quân đội Lào
ítxalạ được thành lập (ngày 20 tháng 1 năm 1949). Mặt trận dân tộc
198 Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn...

thống nhất, tức Neo Lào ítxalạ và Chính phủ Kháng chiến Lào ra
đời (tháng 8 năm 1950). Sự phát triển lớn mạnh của cách mạng Lào
trong những năm 1945 - 1950 tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của nhân dân Việt Nam.
Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường
kỳ, tự lực cánh sinh, trong những năm 1945 - 1950, quân và dân
Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi hết sức căn bản, đánh bại
chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, mà dấu chấm hết của nó là
chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, buộc Pháp phải chuyển sang
đánh lâu dài, đối phó với kháng chiến toàn diện và ngày càng lao
sâu vào thế bị động. Đầu năm 1950, Việt Nam đã giành được thắng
lợi quan trọng về phương diện chính trị, đó là việc nước Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa, Liên Xô và một loạt nước dân chủ nhân dân
công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Đến Thu Đông năm 1950, Việt Nam giành thắng lợi
lớn về quân sự trong Chiến dịch Biên giới, mở thông đường liên lạc
trực tiếp với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, tạo bước ngoặt
căn bản cho cuộc kháng chiến. Chiến thắng Biên giới Thu Đông
1950 là kết tinh thành quả của những nỗ lực phi thường của quân và
dân Việt Nam và về gián tiếp, có thể nói cũng là sự kết tinh của tình
đoàn kết, phối hợp, liên minh chiến đấu giữa cách mạng Việt Nam
và cách mạng Lào. Chiến thắng Biên giới Thu Đông 1950 đã tạo ra
một chuyển biến căn bản, đưa cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam bước sang giai đoạn mới, giai đoạn Việt Nam nắm quyền chủ
động trên chiến trường chính Bắc Bộ, chuyển sang liên tục tiến
công và phản công địch.
Sự phối hợp, giúp đỡ, liên minh đoàn kết chiến đấu có hiệu quả,
cùng những thành quả mà cách mạng hai nước đã giành được trong
những năm 1945 - 1950 đã tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển của cách mạng hai nước, của mối quan hệ liên minh đoàn
Ch-¬ng III: Hîp t¸c, gióp nhau kh¸ng chiÕn... 199

kết chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong nửa cuối cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1951 - 1954.
Chương IV

TĂNG CƯỜNG LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU,


KẾT THÚC THẮNG LỢI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP (1951 - 1954)

I. MỞ RỘNG QUAN HỆ GIỮA CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ


CÁCH MẠNG LÀO TRONG HOÀN CẢNH MỚI (1951 - 1952)

1. Tình hình mới và yêu cầu mở rộng quan hệ giữa cách


mạng Việt Nam và cách mạng Lào
Sau năm năm tiến hành kháng chiến, nhân dân ba nước Đông
Dương đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Đặc biệt từ sau
chiến thắng Biên giới Thu Đông 1950 trên chiến trường Việt Nam,
tình hình quân sự, chính trị ở Việt Nam và Lào có nhiều chuyển
biến sâu sắc.
ở Việt Nam, lực lượng kháng chiến đã phá được thế bao vây
của chủ nghĩa đế quốc và mở thông con đường liên lạc trực tiếp
giữa cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương với các
nước xã hội chủ nghĩa và các lực lượng yêu chuộng hòa bình thế
giới. Từ đây, Việt Nam có điều kiện tiếp nhận sự ủng hộ về vật chất
và tinh thần của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em để đẩy
mạnh cuộc kháng chiến lên một bước phát triển mới. ở trong nước,
quân và dân Việt Nam đã xây dựng được lực lượng vũ trang ba thứ
quân, tổ chức nhiều trung đoàn và đại đoàn chủ lực mạnh có khả
năng mở những chiến dịch lớn, tiêu diệt được bộ phận sinh lực
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 201

quan trọng của địch, giải phóng được nhiều vùng đất đai rộng lớn,
làm lung lay ý chí quân xâm lược. Nhiều vùng hậu phương địch đã
trở thành tiền phương của lực lượng kháng chiến.
Sự phát triển về thế và lực cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam từ sau chiến thắng Biên giới đã ảnh hưởng sâu sắc tới chiến
trường ba nước Đông Dương, đặc biệt tạo thêm điều kiện để mở
rộng quan hệ giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng Việt Nam và cách
mạng Lào.
ở Lào, cuộc kháng chiến đã có bước phát triển quan trọng cả về
lực lượng, thế trận và tác chiến. Đó là sự ra đời của Mặt trận Lào
ítxalạ (Neo Lào ítxalạ) và Chính phủ Kháng chiến Lào (tháng 8
năm 1950) với khu giải phóng rộng lớn chiếm khoảng 1/3 diện tích
nước Lào; có lực lượng vũ trang ngày càng vững mạnh, bao gồm
hàng nghìn dân quân bản, tàxẻng (tổng), một số đội du kích thoát ly
và một số đơn vị bộ đội chủ lực ítxalạ như: đội Látxavông ở Hủa
Phăn, đội Xây Xếtthảthilạt ở Trung Lào, đội Xaychắccaphắt ở Hạ
Lào, đội Phạ Ngừm ở Viêng Chăn, đội Pắtchây ở Xiêng Khoảng...
Chiến tranh du kích đã phát triển rộng trên các địa phương, gây cho
quân địch nhiều tổn thất.
Những thắng lợi về chính trị và quân sự nói trên đánh dấu một
bước phát triển rất quan trọng của cách mạng Lào, phản ánh ý chí
thống nhất và quyết tâm của nhân dân các bộ tộc Lào trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Những thắng lợi đó
cùng với sự lớn mạnh của lực lượng kháng chiến Lào có ảnh hưởng
lớn đối với phong trào kháng chiến ở Việt Nam và Campuchia,
khiến cho quân Pháp phải rút một lực lượng lớn để lo đối phó với
chiến trường Lào, do đó chúng không thể tập trung lực lượng tối đa
vào chiến trường chính ở Việt Nam.
Trong khi tình hình chuyển biến ngày càng có lợi cho cuộc
kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương thì thực dân Pháp
càng lâm vào tình thế khó khăn, lúng túng, bị mất quyền chủ động
202 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

chiến lược trên chiến trường chính ở Bắc Bộ (Việt Nam). Tâm lý
hoài nghi, thất bại chủ nghĩa không chỉ diễn ra trong quân đội viễn
chinh Pháp mà còn lan rộng đến giới chính trị và kinh doanh thực
dân ở Đông Dương. Phong trào phản đối “cuộc chiến tranh bẩn
thỉu” ở Đông Dương của nhân dân Pháp và dư luận tiến bộ thế giới
ngày càng dâng lên mạnh mẽ.
Đến đây, cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương
bước sang một giai đoạn mới với nhiều thuận lợi cơ bản nhưng
cũng đứng trước những thách thức mới. Bởi vì, từ sau khi cách
mạng Trung Quốc thành công (tháng 10 năm 1949) và chiến tranh
Triều Tiên nổ ra (tháng 6 năm 1950), cuộc chiến tranh Đông
Dương đã trở thành một vấn đề quốc tế giữa hai phe: xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Việt Nam và Đông Dương ngày càng
được Mỹ coi là trọng điểm để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản lan
rộng trong khu vực Đông Nam á.
Vì thế, Mỹ tích cực viện trợ quân sự, kinh tế cho Pháp và ép
Pháp phải tiến hành chiến tranh đến cùng, đồng thời từng bước thực
hiện ý đồ xây dựng ảnh hưởng trực tiếp đối với ngụy quyền, ngụy
quân tại ba nước Đông Dương.
Chỉ trong một thời gian ngắn, từ tháng 9 năm 1950 đến tháng 4
năm 1951, đế quốc Mỹ đã viện trợ cho thực dân Pháp 160 máy bay
các loại, 42 tàu xuồng, 2 đại đội chiến xa và một số lượng lớn vũ
khí đủ trang bị cho 12 tiểu đoàn quân ngụy, 460 triệu phrăng, trong
đó 320 triệu phrăng là do Mỹ trực tiếp viện trợ cho các chính phủ
bù nhìn ở Đông Dương.
Từ đây, viện trợ Mỹ chiếm một tỷ lệ ngày càng quan trọng
trong ngân sách chiến tranh Đông Dương của Pháp: từ 19% năm
1950, 35% năm 1952, 43% năm 1953 lên đến 73% năm 19541.
Cùng với thực dân Pháp, bọn can thiệp Mỹ trở thành kẻ thù cụ thể

. Xem Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ƣơng: Lịch sử Đảng Cộng sản
1

Việt Nam (Sơ thảo), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1981, t.1, tr.619.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 203

trước mắt của nhân dân ba nước Đông Dương.


Được Mỹ tiếp sức, thực dân Pháp chủ trương kiên quyết giữ
Đông Dương, tiếp tục thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh, dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương” một
cách triệt để hơn, tăng cường lực lượng phòng giữ và bình định các
vùng chiếm đóng, chủ yếu là vùng đồng bằng Bắc Bộ (Việt Nam),
đồng thời xúc tiến chuẩn bị các điều kiện để phản công hòng xoay
chuyển tình thế và giành lại quyền chủ động chiến lược đã mất.
Thực hiện chủ trương trên, ngày 6 tháng 12 năm 1950, Chính
phủ Pháp quyết định cử Đại tướng Đờ Lát đờ Tátxinhi, Tư lệnh Lục
quân khối Tây Âu, làm tổng chỉ huy kiêm cao uỷ Pháp ở Đông
Dương. Đây là lần đầu tiên sau năm năm chiến tranh, một viên
tướng được Chính phủ Pháp giao nắm giữ cả hai chức chỉ huy
chính trị và quân sự cao nhất trong chiến tranh Đông Dương.
Với ý đồ giành lại quyền chủ động, Đờ Lát vừa tới Đông
Dương đã nhanh chóng vạch ra một kế hoạch chiến lược gồm các
điểm: gấp rút tập trung quân Âu - Phi xây dựng một lực lượng cơ
động chiến lược mạnh và ra sức phát triển quân ngụy; lập tuyến
phòng thủ bao quanh trung du và đồng bằng Bắc Bộ nhằm đối phó
với bộ đội chủ lực và ngăn chặn Việt Minh đưa nhân lực, vật lực ra
vùng tự do; tiến hành “chiến tranh tổng lực”, bình định vùng tạm bị
chiếm và vùng du kích để vơ vét sức người, sức của của nhân dân
Đông Dương và đẩy mạnh việc phá hoại các vùng tự do... hòng gây
thanh thế, lấy lại tinh thần binh lính địch, làm cơ sở cho việc xin
Mỹ tăng cường viện trợ.
Kế hoạch Đờ Lát là một cố gắng rất lớn của thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ nhằm đè bẹp lực lượng kháng chiến của nhân dân ba
nước Đông Dương, để nhanh chóng đi đến kết thúc chiến tranh.
Dựa vào viện trợ Mỹ, thực dân Pháp càng tăng cường thêm lực
lượng quân sự ở Đông Dương. Đến tháng 3 năm 1951, tổng quân
số trên toàn Đông Dương là 325.000 tên, trong đó có 160.000 lính
204 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Âu - Phi, 165.000 quân ngụy. ở Việt Nam, Pháp bố trí 179 tiểu
đoàn, phần lớn tập trung tại chiến trường chính Bắc Bộ, gồm 89
tiểu đoàn bộ binh và quân dù, 11 tiểu đoàn pháo binh, 3 trung đoàn
cơ giới và 150 máy bay các loại...1. ở Lào, Pháp bố trí 12 tiểu đoàn
làm nhiệm vụ chiếm đóng, gồm toàn quân ngụy Lào2.
Đi đôi với việc phát triển lực lượng, thực dân Pháp đẩy mạnh
càn quét, bình định trong các vùng chiếm đóng và tìm mọi cách
chia rẽ, phá hoại sức mạnh đoàn kết kháng chiến của nhân dân ba
nước Đông Dương.
Bằng những thủ đoạn chiến tranh rất tàn khốc và xảo quyệt về
mọi mặt, kẻ địch đã gây thêm nhiều khó khăn cho cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam và Lào, nhất là làm cho hiệu quả của
liên minh chiến đấu giữa hai nước bị hạn chế, không phát huy cao
được khả năng phối hợp chiến trường. Tình hình đó đặt ra nhiều
yêu cầu mới về xây dựng, phát triển lực lượng kháng chiến ở mỗi
nước cũng như phối hợp tác chiến giữa chiến trường Lào với chiến
trường chính Việt Nam.

2. Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương mở ra


chặng đường phát triển mới của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam
Bước sang năm 1951, cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước
Đông Dương đang trên đà phát triển mới, cục diện chiến tranh ở
Đông Dương biến chuyển có lợi cho cách mạng Việt Nam, Lào và
Campuchia. Thế phối hợp chiến đấu giữa các mặt trận trên chiến
trường từng nước nói riêng cũng như giữa các chiến trường trên
toàn Đông Dương nói chung càng có điều kiện phát triển thuận
lợi. Thực tiễn phong phú của cuộc kháng chiến ở từng nước cũng
1
, 2. Xem Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Sđd, t.2, tr.66, 92.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 205

như yêu cầu đẩy mạnh sự phối hợp tác chiến giữa các chiến
trường Việt Nam, Lào, Campuchia đòi hỏi Đảng phải có đường
lối, chính sách và tổ chức Đảng phù hợp với đặc điểm mỗi nước,
đồng thời tạo điều kiện mở rộng hơn nữa sự phối hợp hành động
trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm
lược và bọn can thiệp Mỹ.
Do yêu cầu mới của cách mạng đặt ra, Đại hội lần thứ II Đảng
Cộng sản Đông Dương được triệu tập. Đại hội khai mạc ngày 11
tháng 2 năm 1951 tại xã Vinh Quang (nay là xã Kim Bình), huyện
Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang (Việt Nam). Tham dự Đại hội có
158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho
hơn 76 vạn đảng viên của các đảng bộ Việt Nam, Lào và
Campuchia. Đoàn đại biểu Đảng bộ Lào do đồng chí Cayxỏn
Phômvihản làm trưởng đoàn.
Tại Đại hội, đồng chí Cayxỏn Phômvihản thay mặt những
người cộng sản Lào và một đồng chí đại diện những người cộng
sản Campuchia tham gia Đoàn Chủ tịch.
Từ ngày 11 đến 19 tháng 2 năm 1951, Đại hội đã nghiên cứu,
thảo luận Báo cáo chính trị, Báo cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam”
(còn gọi là “Luận cương cách mạng Việt Nam”), Báo cáo về tổ
chức và Điều lệ Đảng, các báo cáo bổ sung về Mặt trận dân tộc
thống nhất, chính quyền dân chủ nhân dân, quân đội nhân dân, kinh
tế - tài chính, về văn nghệ nhân dân và một số tham luận khác. Nội
dung các bản báo cáo cũng như các phiên thảo luận tại Đại hội đều
xoay quanh hai nhiệm vụ chính là: thúc đẩy kháng chiến đến thắng
lợi hoàn toàn và tổ chức Đảng Lao động Việt Nam.
Về mối quan hệ đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương,
Đại hội nhất trí tăng cường hơn nữa sự phối hợp chiến đấu giữa ba
dân tộc Việt Nam - Lào - Campuchia để chống kẻ thù chung. Đại
hội thống nhất nhận định rằng, từ năm 1930 trở đi, Đảng Cộng sản
206 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Đông Dương là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng ba nước


Đông Dương, nhưng đến nay cách mạng và kháng chiến của ba
nước Việt Nam, Lào, Campuchia có những bước phát triển riêng
biệt, đòi hỏi phải có đường lối, chính sách và tổ chức Đảng phù hợp
với đặc điểm mỗi nước và trên cơ sở phối hợp hành động chung
giúp đỡ lẫn nhau. Điều đó đòi hỏi Đảng Cộng sản Đông Dương
phải được tổ chức lại. Đại hội đã đi đến quyết định thành lập ở mỗi
nước Việt Nam, Lào, Campuchia một đảng Mác - Lênin, có cương
lĩnh riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể để lãnh đạo cuộc kháng
chiến ở từng nước.
Trong “Báo cáo chính trị” đọc tại Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh yêu cầu: đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi
hoàn toàn và tổ chức Đảng Lao động Việt Nam. Đồng thời, Người
kêu gọi phải ra sức giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và
Campuchia, vì cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam có
liên quan mật thiết với cuộc chiến tranh giải phóng Lào và
Campuchia. Người nêu rõ: “Chúng ta kháng chiến, dân tộc bạn
Miên, Lào cũng kháng chiến. Bọn thực dân Pháp và bọn can thiệp
Mỹ là kẻ thù của ta và của dân tộc Miên, Lào. Vì vậy, ta phải ra
sức giúp đỡ anh em Miên, Lào, giúp đỡ kháng chiến Miên, Lào;
và tiến đến thành lập Mặt trận thống nhất các dân tộc Việt - Miên
- Lào”1.
Sau khi thảo luận “Báo cáo chính trị” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đại hội quyết định: ở Việt Nam sẽ xây dựng Đảng Lao động
Việt Nam có Chính cương, Điều lệ thích hợp với hoàn cảnh Việt
Nam. ở Lào và Campuchia, thành lập ở mỗi nước một chính đảng
riêng lấy tên là Đảng Nhân dân Lào và Đảng Nhân dân Khơme,
mỗi Đảng chịu trách nhiệm trước sự nghiệp giải phóng của dân tộc

1
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.174.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 207

mình. Đảng Lao động Việt Nam có nghĩa vụ giúp đỡ các đồng chí
và những tổ chức cách mạng Lào, Miên để họ lãnh đạo cuộc kháng
chiến của hai dân tộc ấy giành lấy thắng lợi cuối cùng.
Theo tinh thần đó, Đảng Lao động Việt Nam phối hợp với
những người cộng sản Lào xúc tiến chuẩn bị các điều kiện để
tiến tới thành lập một chính đảng cách mạng ở Lào, như Chủ tịch
Hồ Chí Minh mong muốn: “Các đồng chí Lào cần cố gắng thành
lập cho được đảng cách mạng và ra sức củng cố đảng để đảng có đủ
sức lãnh đạo cuộc cách mạng trên đất nước Lào. Về phía mình,
Việt Nam luôn sẵn sàng ủng hộ và giúp đỡ các đồng chí Lào. Có
Đảng cách mạng Lào lãnh đạo nhân dân Lào, có sự ủng hộ và giúp
đỡ của nhân dân Việt Nam và các nước bè bạn, cách mạng Lào
nhất định thắng lợi; cán bộ Lào cần tin vào sức mình”1.
Quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về sự tăng
cường phối hợp, giúp đỡ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng
Lào, Campuchia được thể hiện cụ thể hơn trong “Luận cương về
cách mạng Việt Nam” và trong các báo cáo chuyên đề của Đại hội.
Trong “Luận cương về cách mạng Việt Nam”, đồng chí Trường
Chinh, Tổng Bí thư Đảng chỉ rõ: cuộc đấu tranh cách mạng của
nhân dân Việt Nam có quan hệ mật thiết với cách mạng Lào và
cách mạng Campuchia. Song hiện nay, do tình hình và điều kiện
cách mạng ở Việt Nam khác tình hình và điều kiện cách mạng ở
Lào và Campuchia, cho nên vấn đề cách mạng Việt Nam phải đặt
khác cách mạng Lào và cách mạng Campuchia. Những người cộng
sản Việt Nam phải căn cứ vào điều kiện thực tế và đặc điểm của
nước mình để định ra đường lối, chính sách riêng và tổ chức một
đảng cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để

1
. Cayxỏn Phômvihản - Người con của nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1993, tr.13.
208 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi.


Bàn về quan hệ đoàn kết, hợp tác giữa cách mạng ba nước
Đông Dương, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: Việt Nam có
nhiệm vụ giúp đỡ nhân dân Lào và Campuchia về cả vật chất và
tinh thần để đẩy mạnh kháng chiến, nhất là giúp đỡ đào tạo cán bộ,
kinh nghiệm tổ chức và đấu tranh; củng cố và phát triển Hội ítxalạ
ở Lào và Hội ítxarắc ở Campuchia; xây dựng căn cứ địa, phát triển
lực lượng vũ trang, thành lập quân đội nhân dân, xây dựng và phát
triển chính quyền dân tộc chống đế quốc, thành lập Mặt trận thống
nhất Việt - Lào - Campuchia để chống xâm lược. Đồng chí nhắc
nhở cán bộ, chiến sĩ, nhân dân Việt Nam phải khắc phục và ngăn
chặn những tư tưởng sai lầm làm hại đến tình đoàn kết giữa ba dân
tộc anh em, như tư tưởng bản vị, chỉ biết lo cho cách mạng nước
mình mà không chú trọng giúp đỡ cách mạng Lào, cách mạng
Campuchia và những thành kiến dân tộc hẹp hòi...
Phân tích ý nghĩa của chủ trương thành lập khối liên minh
kháng chiến của ba dân tộc Việt Nam - Lào - Campuchia, trong Báo
cáo “Củng cố khối đại đoàn kết để chiến thắng”, đồng chí Hoàng
Quốc Việt khẳng định vai trò tích cực của liên minh trong việc
thống nhất lực lượng, thống nhất hành động giữa ba dân tộc để đẩy
mạnh cuộc kháng chiến đến toàn thắng và đập tan âm mưu chia rẽ
của bọn đế quốc và bè lũ tay sai.
Về phương diện quân sự, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong
Báo cáo “Xây dựng quân đội nhân dân hoàn thành chiến tranh giải
phóng” đã phân tích, nêu lên những đặc điểm của chiến tranh giải
phóng Việt Nam cũng như của Lào và Campuchia. Đồng chí nhấn
mạnh đặc điểm: Đông Dương là một chiến trường không thể phân
chia và vạch rõ âm mưu của thực dân Pháp là ra sức củng cố Lào,
Campuchia để làm căn cứ kéo dài chiến tranh và chống lại cách
mạng Việt Nam.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 209

Từ thực tế đó, bản báo cáo quân sự của Đại hội nhấn mạnh yêu
cầu ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia cần phải phối hợp tác
chiến chặt chẽ với nhau và đề ra phương châm chiến lược ở các
chiến trường. Việt Nam đảm trách chiến trường chính vì đại bộ
phận binh lực của địch đóng ở Việt Nam, còn Lào và Campuchia là
nơi địch sơ hở, lực lượng khá mỏng, nên giữ vai trò chiến trường
kiềm chế và phối hợp.
Do yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến ở hai nước Lào và
Campuchia trong giai đoạn mới, đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ ra
những nhiệm vụ như: đẩy mạnh xây dựng căn cứ địa, xây dựng lực
lượng vũ trang, đào tạo cán bộ, kết hợp tác chiến với địch vận, chấn
chỉnh lại tổ chức chỉ đạo quân sự ở Lào cho thích hợp, cán bộ quân
sự Việt Nam ở Lào, Campuchia cần được bồi dưỡng thêm về kinh
nghiệm hoạt động chính trị, tổ chức và phong tục tập quán của
nước bạn.
Những nội dung nêu trên đã vạch ra phương hướng cho cán bộ,
chiến sĩ Việt Nam sang công tác ở Lào căn cứ vào tình hình cụ thể
mà đề ra biện pháp thực hiện sự phối hợp và giúp cách mạng Lào
có hiệu quả hơn.
Như vậy, vấn đề đoàn kết, tăng cường phối hợp chiến đấu giữa
ba dân tộc Đông Dương là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt trong
các văn kiện của Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương.
Nghị quyết của Đại hội khẳng định: “Vì Đông Dương là một chiến
trường và cách mạng Việt Nam có nhiệm vụ phối hợp với cách
mạng Miên, Lào, nên lúc này phải tích cực giúp đỡ cuộc kháng
chiến Miên, Lào, phát triển du kích chiến tranh, xây dựng lực lượng
võ trang, xây dựng căn cứ địa”1.
Bản “Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam” - sự đúc kết
trí tuệ của Đại hội, đã khẳng định:

1
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.12, tr.424.
210 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

“1. Dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với hai dân tộc Miên,
Lào và hết sức giúp đỡ hai dân tộc ấy cùng nhau kháng chiến chống
đế quốc xâm lược, giải phóng cho tất cả các dân tộc Đông Dương.
2. Nhân dân Việt Nam đứng trên lập trường lợi ích chung mà
hợp tác lâu dài với hai dân tộc Miên, Lào trong kháng chiến và sau
kháng chiến”1.
Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương là một sự kiện
chính trị trọng đại, đánh dấu bước ngoặt rất quan trọng trong lịch
sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ba nước Đông Dương. Chủ
trương thành lập ba đảng Mác - Lênin ở ba nước Việt Nam - Lào -
Campuchia thể hiện sự trưởng thành trong nhận thức chính trị của
Đảng Cộng sản Đông Dương về “quyền dân tộc tự quyết” của các
dân tộc ở Đông Dương, đồng thời phù hợp với bước phát triển mới
của cách mạng, với đặc điểm tình hình xã hội ở từng nước. Đảng
Cộng sản ở mỗi nước không những phải chịu trách nhiệm về sự tồn
vong của dân tộc mình, mà còn phải gánh vác nghĩa vụ quốc tế cao
cả, trước hết là đối với kháng chiến của các nước trên bán đảo
Đông Dương.
Đối với cách mạng Lào, việc Đại hội xác định trách nhiệm của
Đảng Lao động Việt Nam giúp đỡ những người cộng sản Lào tiến
hành xây dựng chính đảng riêng của mình phản ánh sự đoàn kết,
hợp tác chân tình, thủy chung, trong sáng, vô tư vì sự nghiệp cách
mạng của hai dân tộc anh em. Phát biểu trong cuộc gặp mặt đầu
tiên với Đảng Lao động Việt Nam, Hoàng thân Xuphanuvông thay
mặt Mặt trận Lào ítxalạ bày tỏ: “Sau khi được nghe những chính
sách của Đảng, chúng tôi nhận thấy chính sách ấy biểu thị ý chí yêu
nước cương quyết và tinh thần quốc tế rất rộng rãi thì chúng tôi rất
tán thành và hoan nghênh”. “Chúng tôi tin chắc rằng Đảng Lao

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.12, tr.441-442.
1
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 211

động Việt Nam sẽ là một chính đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến và
kiến quốc của Việt Nam. Đồng thời sẽ cùng với Mặt trận Liên Việt
giúp đỡ và dìu dắt nhân dân Lào trong việc đánh đuổi bọn đế quốc
xâm lược”1.
Với chủ trương xây dựng ở mỗi nước một đảng cách mạng thích
hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng nước, với việc khẳng định và tăng
cường sự đoàn kết chống kẻ thù chung, Đại hội lần thứ II Đảng Cộng
sản Đông Dương đã tiếp thêm sức mạnh cho khối liên minh chiến
đấu của ba nước Đông Dương nói chung, cho liên minh chiến đấu
Việt - Lào nói riêng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ. Đại hội đã xác định rõ thêm vị trí, vai trò của cách
mạng mỗi nước, đặc biệt đề ra phương hướng, biện pháp để tăng
cường liên minh chiến đấu Việt - Lào. Đại hội cũng mở ra một thời
kỳ hoạt động mới, một hình thức liên minh chiến đấu mới giữa nhân
dân ba nước trên bán đảo Đông Dương. Từ đây, quan hệ Việt Nam -
Lào - Campuchia là quan hệ giữa ba nước, ba đảng cách mạng, ba
dân tộc trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung vì độc lập, tự do của
mỗi quốc gia, vì phồn vinh, hạnh phúc của mỗi dân tộc.

3. Phối hợp đẩy mạnh kháng chiến trong thời kỳ mới


a) Thành lập Mặt trận Liên Việt và Liên minh nhân dân ba
nước Đông Dương
Đáp ứng yêu cầu tăng cường đoàn kết dân tộc và làm nòng cốt
cho khối liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia trong
thời kỳ mới, tháng 3 năm 1951, ở Việt Nam diễn ra Đại hội thống
nhất Việt Minh và Liên Việt thành Mặt trận Liên hiệp quốc dân
Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt).
Đại hội thông qua Chính cương, Điều lệ, Tuyên ngôn của Mặt

1
. Tƣ liệu lƣu tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, ký hiệu 4511/gi938/2.
212 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

trận và nhất trí việc xây dựng và bảo vệ khối đoàn kết giữa nhân
dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia để chống kẻ thù chung.
Phát biểu tại Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Với sự đồng
tâm nhất trí của ba dân tộc anh em, với sức đại đoàn kết của ba dân
tộc anh em, chúng ta nhất định đánh tan lũ thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ, chúng ta nhất định làm cho ba nước độc lập và thống
nhất thật sự”1.
Việc tập hợp tất cả các lực lượng yêu nước trong một mặt trận
thống nhất - Mặt trận Liên Việt, không chỉ có ý nghĩa đối với việc
tăng cường sức mạnh của lực lượng kháng chiến chống Pháp ở Việt
Nam, mà còn góp phần đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến chung của
ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương.
Tham dự Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt, Hoàng thân
Xuphanuvông thay mặt Ban Chấp hành Mặt trận dân tộc thống nhất
Lào ítxalạ phát biểu: “... Việc thống nhất Việt Minh - Liên Việt
thành một mặt trận duy nhất của nhân dân Việt Nam có tính chất
quan trọng”, góp phần “làm cho cuộc kháng chiến của Việt Nam
thành một lực lượng mạnh mẽ hơn trong việc tiêu diệt bọn xâm
lược. Hơn nữa, nó còn là trụ cột vững chắc của khối đại đoàn kết ba
dân tộc Việt - Miên - Lào”2.
Tiếp đó, theo sáng kiến của Đảng Lao động Việt Nam, ngày 11
tháng 3 năm 1951, Hội nghị liên minh nhân dân ba nước Đông
Dương đã được tổ chức tại xã Vinh Quang (nay là xã Kim Bình),
huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Các đại biểu đại diện Mặt
trận Liên Việt của Việt Nam, của Mặt trận Lào ítxalạ, của Mặt
trận Khơme ítxarắc đã thảo luận và nhất trí thành lập khối liên
minh nhân dân Việt Nam - Lào - Campuchia theo nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau.

. Tƣ liệu lƣu tại Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu II3/121/7.6.


1
2
. Tƣ liệu lƣu tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, ký hiệu 4511/gi938/1.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 213

Hội nghị nhất trí đề ra chương trình hành động chung và cử ra ủy


ban liên minh nhân dân ba nước Đông Dương gồm các đồng chí:
Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Minh Giám (Việt
Nam), Xuphanuvông, Nủhắc Phumxavẳn (Lào), Sơn Ngọc Minh,
Tuxamút (Campuchia). ủy ban có nhiệm vụ thực hiện các nghị
quyết của Hội nghị và tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa nhân
dân ba nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự Hội nghị với tư cách là Chủ
tịch Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch danh dự Mặt trận Liên
Việt. Phát biểu tại Hội nghị, Người nói: “Kháng chiến của Việt
Nam - Miên - Lào là chung của chúng ta, là bổn phận của chúng ta.
Việt Nam kháng chiến có thành công thì kháng chiến Miên - Lào
mới thắng lợi và kháng chiến Miên - Lào có thắng lợi thì kháng
chiến Việt Nam mới hoàn toàn thắng lợi” và Người bày tỏ niềm vui
mừng: “Từ nay chẳng những là toàn dân Việt Nam đoàn kết, mà
toàn dân hai nước anh em là Cao Miên và Ai Lao cùng đi đến đại
đoàn kết”1.
Việc thành lập khối liên minh Việt Nam - Lào - Campuchia dựa
trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ
quyền của nhau là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, góp phần tạo ra
bước phát triển mới cho cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước
Đông Dương.
Hoàng thân Xuphanuvông, Trưởng Đoàn đại biểu Mặt trận Lào
ítxalạ khẳng định ý nghĩa lịch sử và kết quả to lớn của sự ra đời
Liên minh: “Chúng tôi vô cùng sung sướng thấy Hội nghị liên minh
của ba dân tộc thu được kết quả mỹ mãn. Đó là bằng chứng chứng
tỏ tinh thần đoàn kết thân mật và chặt chẽ của ba dân tộc. Mặt trận

1
. Hồ Chí Minh: Biên niên những sự kiện và tư liệu về tình hữu nghị và đoàn
kết chiến đấu Việt - Lào, lƣu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
214 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào mà chúng ta thành lập ngày
hôm nay có ý nghĩa rất trọng đại trong lịch sử từ trước tới nay chưa
từng có. Chúng tôi nhận thấy đó là những quả tạ ngàn cân để đập
tan mọi mưu mô chia rẽ của thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, nó
đã biến lực lượng mạnh mẽ của chúng ta thành lực lượng vô biên
để tiêu diệt tất cả kẻ xâm lăng nào muốn xâm lược lãnh thổ chúng
ta...”1.
Trưởng Đoàn đại biểu Mặt trận Khơme ítxarắc nêu cao vai trò
tích cực của Liên minh đối với cách mạng Cao Miên: “Riêng về
dân tộc Miên, Mặt trận Liên minh này cho chúng tôi rất nhiều ảnh
hưởng tốt đẹp. Từ nay chúng tôi được gia nhập một Mặt trận rộng
lớn hơn, tranh đấu không phải cô độc mà còn có cả Đông Dương và
Mặt trận Dân chủ thế giới làm hậu thuẫn”2.
Thành công của Hội nghị liên minh nhân dân ba nước Đông
Dương đánh dấu một bước tiến mới của nhân dân Việt Nam, Lào
và Campuchia trong việc đoàn kết chống kẻ thù chung, làm cho
nhân dân ba nước càng thêm phấn khởi, tin tưởng vào thắng lợi
cuối cùng của mình. Đó cũng là sự khẳng định ý chí thống nhất của
nhân dân ba nước trong sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng, là thắng
lợi có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam, Lào,
Campuchia; đồng thời là đòn giáng mạnh vào âm mưu chia rẽ các
dân tộc ở Đông Dương, là sự thất bại nặng nề của chính sách “chia
để trị”, “dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương” của
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Cùng với Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội
nghị liên minh nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia
đánh dấu sự phối hợp và liên minh giữa nhân dân ba nước Đông
Dương ngày càng được mở rộng và là nhân tố quan trọng góp phần
nâng cao sức mạnh chiến đấu chống kẻ thù chung.

, 2. Tài liệu lƣu tại Kho Lƣu trữ Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam.
1
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 215

b) Chuẩn bị thành lập Đảng Nhân dân Lào


Chấp hành Nghị quyết Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông
Dương, các đồng chí Lào là đảng viên Đảng Cộng sản Đông
Dương đã tổ chức thành “Nhóm Nhân dân Lào” để tiếp tục lãnh
đạo cách mạng và chuẩn bị cho việc thành lập đảng chính trị của
mình.
Theo yêu cầu của Mặt trận ítxalạ và Chính phủ Kháng chiến
Lào, tháng 3 năm 1951, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã đề ra mục tiêu và kế
hoạch giúp các đồng chí đảng viên, cán bộ và nhân dân Lào xây
dựng chính đảng Mác - Lênin để lãnh đạo cách mạng Lào. Hội nghị
xác định: cương lĩnh, chính sách của Đảng Nhân dân Lào phải căn
cứ vào đường lối cách mạng Lào đã được Đại hội lần thứ II Đảng
Cộng sản Đông Dương thông qua. Đó là “Đoàn kết toàn bộ tộc,
đánh đổ đế quốc xâm lược và bọn tay sai, làm cho nước Lào hoàn
toàn độc lập, thống nhất”1. Về tổ chức, xây dựng Đảng Nhân dân
Lào phải theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết thống
nhất nội bộ, có quan hệ mật thiết với quần chúng. Đồng thời phải
tuỳ trình độ đảng viên, tình hình phát triển của cách mạng, yêu cầu
của nhiệm vụ chính trị mà đề ra các biện pháp cho thích hợp. Trong
lựa chọn phát triển đảng, chủ yếu hướng vào công nhân, nhân dân
lao động, đồng thời chú ý những người có tinh thần yêu nước trong
tầng lớp trên, những trí thức tiến bộ có uy tín và ảnh hưởng trong
quần chúng. Hội nghị cũng nêu rõ, về phương châm phải cẩn thận,
chuẩn bị từng bước vững chắc, không hấp tấp, miễn cưỡng, chú
trọng chất lượng hơn số lượng.
Đồng thời, Hội nghị lần thứ nhất Trung ương Đảng Lao động
1
. Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ƣơng Đảng Nhân dân
cách mạng Lào: Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005, tr.71.
216 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Việt Nam cũng ra quyết định cho các đảng viên Đảng Lao động
Việt Nam hoạt động ở Lào thành lập các tổ chức Đảng Lao động
Việt Nam để lãnh đạo các lực lượng Việt Nam giúp cách mạng Lào
được thống nhất, đạt kết quả tốt. Các tổ chức này phải theo hệ
thống Ban Cán sự Đảng các cấp trong các đơn vị làm nhiệm vụ
giúp cách mạng Lào từ trung ương tới địa phương.
Theo tinh thần ấy, tháng 4 năm 1951, Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam quyết định thành lập Ban Cán sự Đảng ở Mặt trận
Thượng Lào, gồm các đồng chí Mai Côn làm bí thư Ban Cán sự; Tạ
Xuân Thu và Đào Việt Hưng là ủy viên thường vụ; các đồng chí
Đinh Văn Khanh, Nguyễn Quang Xá, Nguyễn Tài, Lý Thế Sơn là
uỷ viên. Đồng thời, Ban Cán sự Đảng các mặt trận Trung Lào, Hạ
Lào cũng lần lượt được bổ sung, kiện toàn để có đủ sức giúp cách
mạng Lào và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao.
Tiếp đó, tháng 11 năm 1951, Bộ Chính trị Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam chủ trương: “Tách các đồng chí đảng viên
cộng sản Lào ra khỏi tổ chức cơ sở của Đảng Cộng sản Đông
Dương cũ, mà trước đây cả đảng viên Lào và đảng viên Việt Nam
cùng sinh hoạt chung, để thành lập các “Nhóm trung kiên” gồm các
đảng viên cộng sản Lào và những cốt cán ở địa phương làm tổ
chức nòng cốt lãnh đạo phong trào và chuẩn bị điều kiện cho việc
thành lập Đảng Nhân dân Lào sau này”1. Tiêu chuẩn kết nạp vào
“Nhóm trung kiên” là những cán bộ cốt cán Lào có tinh thần chiến
đấu và công tác, có phẩm chất đạo đức, có quan hệ tốt đối với quần
chúng và có khả năng phát triển thành đảng viên.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam cũng xác
định, lực lượng đảng viên Việt Nam và tổ chức Đảng Lao động
Việt Nam ở Lào có trách nhiệm giúp “Nhóm trung kiên” Lào giữ
1
. Dẫn theo Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử các
đoàn 81, 82, 83, 280 quân tình nguyện Việt Nam tại Lào (1945 - 1954), Sđd, tr.160.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 217

vững sinh hoạt và lãnh đạo kháng chiến thông qua tổ chức Mặt trận
ítxalạ và Chính phủ Kháng chiến Lào.
Thực hiện chỉ đạo của Hội nghị Bộ Chính trị về công tác giúp
Lào xây dựng đảng cách mạng, tháng 11 năm 1951, Chính phủ Việt
Nam quyết định tổ chức một phái đoàn liên lạc bên cạnh Chính phủ
Kháng chiến Lào gồm ba đồng chí Mai Côn, Tạ Xuân Thu, Đào
Việt Hưng để giúp Chính phủ Kháng chiến Lào điều hành mọi công
việc. Cùng với việc quản lý, chỉ đạo các lực lượng Việt Nam đang
hoạt động giúp Lào ở chiến trường Thượng Lào, “phái đoàn liên
lạc” còn có nhiệm vụ theo dõi, nắm tình hình của Trung Lào và Hạ
Lào để tham mưu giúp Chính phủ và Trung ương Neo Lào ítxalạ
lãnh đạo kháng chiến.
Về Đảng, “phái đoàn liên lạc” cũng là Ban Cán sự Thượng Lào.
Về quân sự, đồng chí Tạ Xuân Thu, Tư lệnh quân tình nguyện Việt
Nam ở Mặt trận Thượng Lào, làm cố vấn cho Bộ Quốc phòng
Lào. Đồng thời với việc tổ chức “phái đoàn liên lạc” bên cạnh
Chính phủ Kháng chiến Lào, Chính phủ Việt Nam cũng cử các
phái viên bên cạnh Uỷ ban Kháng chiến Trung Lào và Uỷ ban
Kháng chiến Hạ Lào.
Các Ban Cán sự Đảng Lao động Việt Nam ở Thượng, Trung và
Hạ Lào đều triển khai giáo dục cho cán bộ, đảng viên cả Việt Nam
và Lào quán triệt nội dung tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ II
Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 2 năm 1951) về công tác xây
dựng đảng Mác - Lênin của giai cấp công nhân Lào để lãnh đạo cách
mạng Lào. Song do khó khăn về giao thông liên lạc, kế hoạch hướng
dẫn thực hiện cụ thể của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, của
Mặt trận ítxalạ và Chính phủ Kháng chiến Lào không kịp xuống các
địa phương, nên việc triển khai còn chưa thống nhất: Hạ Lào vẫn
tiếp tục “phát triển đảng viên nhân dân” và lập “chi bộ Đảng Nhân
dân”; ngược lại ở Viêng Chăn, Luổng Phạbang, Huội Xài, Sầm Nưa
218 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

vẫn cứ giữ “chi bộ cộng sản” như trước. Những nơi số đảng viên Lào
có ít, lẻ tẻ vẫn còn sinh hoạt trong các chi bộ Đảng Lao động Việt
Nam trong các đơn vị quân tình nguyện.
Tuy còn hạn chế, nhưng công tác phát triển đảng ở Lào đã có
nhiều tiến bộ. Đến năm 1952, tổng số đảng viên cộng sản ở các địa
phương Thượng, Trung và Hạ Lào đã tăng lên 433 đồng chí. Đó là
cơ sở vật chất, là điều kiện thuận lợi về mặt tổ chức cho việc thành
lập Đảng Nhân dân Lào sau này.
c) Tăng cường thực lực kháng chiến, chống địch càn quét lấn
chiếm, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng ở Lào
Bước sang năm 1951, chiến trường Lào không còn là hậu
phương an toàn của thực dân Pháp nữa. Để thực hiện kế hoạch Đờ
Lát nhằm biến Lào thành một chiến trường phối hợp quan trọng,
phục vụ âm mưu mở rộng cuộc chiến tranh ở Đông Dương, thực
dân Pháp tập trung ở Lào hơn 20.000 quân, trong đó có 60% quân
nguỵ Lào, 40% quân Âu - Phi và quân nguỵ Việt Nam, mở những
cuộc càn quét ác liệt vào các vùng căn cứ kháng chiến, trọng điểm
là các tỉnh khu vực Thượng Lào. Đồng thời, địch dùng các thủ
đoạn chiến tranh tâm lý, tuyên truyền, lừa bịp hòng chia rẽ, cô lập,
làm suy yếu tình đoàn kết chiến đấu của quân và dân hai nước
Việt - Lào.
Trước tình hình đó, để giúp quân và dân Lào đánh bại chính
sách càn quét, bình định của địch, đưa cuộc kháng chiến đến
thắng lợi, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam càng tăng cường
đoàn kết và phối hợp chặt chẽ với cách mạng Lào. Đảng, Chính
phủ và nhân dân Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
coi nhiệm vụ giúp cách mạng Lào như tự giúp mình để cùng phối
hợp chiến đấu đánh đuổi kẻ thù chung, giành độc lập tự do cho mỗi
nước trên bán đảo Đông Dương.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 219

Theo yêu cầu của Chính phủ Kháng chiến Lào, trong năm
1951, Chính phủ Việt Nam đẩy mạnh chi viện quân sự cho chiến
trường Lào. Lực lượng cán bộ và bộ đội Việt Nam sang hoạt động
ở chiến trường Lào được tăng lên 12.000 người, gồm Thượng Lào
hơn 6.000, Trung Lào hơn 3.000 người, Hạ Lào hơn 2.000 người.
Về danh nghĩa, các lực lượng này đều thống nhất lấy tên là Bộ
đội tình nguyện Việt Nam ở Lào và chấp hành theo quy định: “Bộ
đội tình nguyện Việt Nam đặt dưới quyền tối cao của Chính phủ
nước bạn. Bộ đội ấy phải theo đường lối chính trị, quân sự của
nước bạn. Đến một địa phương nào, cán bộ chỉ huy Việt Nam phải
bàn với cơ quan chính quyền địa phương để định nhiệm vụ công tác
và tác chiến.
Bộ đội tình nguyện Việt Nam ở dưới quyền trực tiếp của Ban
Chỉ huy Việt Nam về mọi mặt công tác, tác chiến, quản trị, huấn
luyện, khen thưởng...”1.
Việc tăng cường lực lượng cán bộ, bộ đội Việt Nam hoạt động
trên chiến trường Lào với những quy định rõ ràng về chức năng,
nhiệm vụ là cố gắng rất lớn của Chính phủ Việt Nam, thể hiện tinh
thần đoàn kết và giúp đỡ vô tư của nhân dân Việt Nam đối với cách
mạng Lào.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh về nghĩa vụ quốc tế, nhân dân Việt Nam từ tiền tuyến
đến hậu phương đều tích cực chấp hành chủ trương của Đảng, chia
sẻ những thuận lợi, cùng khắc phục khó khăn, cử nhiều cán bộ, chiến
sĩ sang giúp đỡ và cùng bạn Lào đẩy mạnh chiến tranh du kích, phát
triển lực lượng kháng chiến. Quân tình nguyện Việt Nam trên các

1
. Nghị quyết của Bộ Chính trị về bộ đội Việt Nam hoạt động ở Miên, Lào,
ngày 27 tháng 11 năm 1951, phông Ban Chấp hành Trung ƣơng khoá II, đơn vị
bảo quản số 68, Kho Lƣu trữ Trung ƣơng Đảng.
220 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

chiến trường Lào được chấn chỉnh về tổ chức, tăng cường thêm lực
lượng, kịp thời giúp bạn và cùng bạn vượt qua mọi khó khăn, đẩy
mạnh kháng chiến trên tất cả các mặt trận Thượng, Trung và Hạ Lào.
ở Mặt trận Thượng Lào:
Chấp hành Nghị quyết Đại hội II (tháng 2 năm 1951) và theo
yêu cầu của Chính phủ Kháng chiến Lào về việc giúp Lào xây
dựng Khu giải phóng Thượng Lào thành căn cứ địa chính của cả
nước, tháng 4 năm 1951, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh
Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định thống nhất các lực lượng
quân tình nguyện Việt Nam ở Bắc Lào và Tây Lào, thành lập Ban
Cán sự Đảng và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Mặt trận Thượng
Lào.
Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở Mặt trận Thượng Lào
gồm các đồng chí Tạ Xuân Thu, tư lệnh; Đào Việt Hưng, phó chính
uỷ; Nguyễn Thế Tùng, trưởng ban quân chính; Nguyễn Tùng, phụ
trách cung cấp (hậu cần).
Căn cứ vào đặc điểm cụ thể của chiến trường Lào, Bộ Tổng Tư
lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đề ra nhiệm vụ giúp đỡ cách
mạng Lào ở Mặt trận Thượng Lào là: “Đẩy mạnh chiến tranh du
kích để phối hợp chặt chẽ với cuộc chiến tranh giải phóng của nhân
dân Việt Nam, với phương châm chiến lược “du kích chiến là
chính, tiến tới vận động chiến”. Chú trọng giúp bạn xây dựng lực
lượng vũ trang và bán vũ trang địa phương, xây dựng căn cứ địa
vững chắc”1. Để phát triển chiến tranh du kích rộng rãi, phương
thức hoạt động chủ yếu là vũ trang tuyên truyền, ban xung phong
công tác, đại đội độc lập và thực hiện tiểu đoàn tập trung trong

1
, 2. Dẫn theo Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân
tình nguyện Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại Lào (1945 -
1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002, tr.231, 230.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 221

những điều kiện thuận lợi; đồng thời lấy khu tam giác Sầm Nưa -
Xiêng Khoảng - Luổng Phạbang làm trung tâm xây dựng căn cứ địa
vững chắc cho cách mạng Lào.
Thực hiện quyết định của Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư
lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, Ban Cán sự Đảng Mặt trận
Thượng Lào quyết định tổ chức các lực lượng quân tình nguyện
Việt Nam ở Thượng Lào thành bốn đoàn phụ trách bốn địa bàn
khác nhau: Đoàn 80 (Phân khu A cũ) phụ trách hai tỉnh Hủa Phăn
và Phôngxalỳ; Đoàn 81 (Phân khu B cũ) phụ trách tỉnh Xiêng
Khoảng; Đoàn 82 (Phân khu C cũ) phụ trách hai tỉnh Luổng
Phạbang và Huội Xài; và Đoàn 83 (khu Tây Lào cũ) phụ trách tỉnh
Viêng Chăn và hai huyện Pạc Lai, Xaynhabuli (Luổng Phạbang)2.
Dưới sự chỉ đạo của Ban Cán sự Đảng và Bộ Tư lệnh quân tình
nguyện Mặt trận Thượng Lào, các đoàn 80, 81, 82 và 83 nhanh
chóng ổn định tổ chức, khẩn trương tiến hành chấn chỉnh bộ đội, để
sớm đưa các lực lượng đi vào hoạt động.
Ngay từ đầu, Ban Cán sự Đảng và Bộ Tư lệnh quân tình
nguyện chủ trương mở các lớp chỉnh huấn chính trị cho các đơn vị.
Lớp học đầu tiên gồm cán bộ trung đội, tiểu đội của các đoàn 80,
81, 82, 83 cử đến học tập. Phía bạn Lào có ba cán bộ cùng tham dự
đợt chỉnh huấn này. Hoàng thân Xuphanuvông đến dự lễ khai
giảng, nói chuyện động viên cán bộ Việt Nam và Lào nỗ lực phấn
đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Tính chung, toàn mặt trận đã
mở được 18 lớp học cho bộ đội, theo các nội dung: bản chất quân
đội nhân dân; nghĩa vụ quốc tế của quân tình nguyện Việt Nam tại
Lào; tình hình nhiệm vụ và các chính sách, công tác của cách mạng
Lào. Đồng thời, về quân sự, tổ chức cho bộ đội học tập các kỹ thuật
bắn súng, ném lựu đạn, đánh mìn... và chiến thuật phục kích, vận
động phục kích trên địa hình rừng núi với quy mô trung đội, đại đội
và tiểu đoàn.
222 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Sau một thời gian tập trung xây dựng, huấn luyện, các đơn vị
quân tình nguyện đã nhanh chóng trở lại thực hiện các nhiệm vụ,
sát cánh cùng quân và dân Lào đẩy mạnh chiến đấu và công tác.
Được nhân dân Lào tin cậy và hết lòng giúp đỡ, quân tình nguyện
Việt Nam cùng bộ đội Lào ítxalạ đi sâu vào các thôn bản, tuyên
truyền vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị và lực lượng
vũ trang địa phương. Trên cơ sở thế trận chiến tranh nhân dân đã
được chuẩn bị, quân tình nguyện và bộ đội Lào tổ chức các trận
phục kích, chặn đường tiếp tế, quấy rối các đồn bốt, đánh chặn các
cuộc càn quét của địch, bảo vệ vững chắc khu căn cứ kháng chiến
của Lào.
Nổi bật là ở các khu vực Xiêng Khọ - Nặm Mã, Mương Xôi và
Sằm Tớ (Sầm Nưa), Xảm Chè - Mương Mộc, Thà Viêng - Mương
Om (Xiêng Khoảng)..., bộ đội tình nguyện Việt Nam cùng cán bộ
Lào đi vào các bản, tuyên truyền vận động nhân dân giúp đỡ bộ đội,
ủng hộ kháng chiến, từng bước xây dựng các tổ trung kiên, dân quân
du kích bí mật, vận động nhân dân thực hiện vườn không nhà trống,
giúp đỡ và phối hợp với bộ đội chiến đấu khi địch càn quét.
Với sự đoàn kết giúp đỡ, phối hợp của quân tình nguyện Việt
Nam, phong trào kháng chiến ở Thượng Lào có bước phát triển
mới. Đến giữa năm 1951, Thượng Lào đã xây dựng, củng cố được
các khu du kích ở Mương Xôi, Mương Xăm, Xiêng Khọ, Mương
Xon, Pạc Xeng... Nhiều xã, bản của Thượng Lào có cơ sở kháng
chiến và tổ chức được dân quân du kích.
Trước sự lớn mạnh của phong trào kháng chiến Thượng Lào,
địch tập trung quân càn quét, đánh phá liên tục vào các vùng vừa
mới giải phóng và các khu căn cứ. Bộ đội tình nguyện Việt Nam và
bộ đội Lào ítxalạ kiên trì bám đất, bám dân, tích cực chiến đấu gây
cho chúng nhiều thiệt hại. Nhưng do địch có lực lượng đông hơn, ta
chưa đủ sức ngăn chặn các hoạt động của chúng nên một số vùng
giải phóng và khu căn cứ bị địch lấn chiếm, cơ sở quần chúng bị
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 223

địch phá vỡ. Cuộc chiến đấu chống địch càn quét, bình định diễn ra
quyết liệt trong thế giằng co ở các khu vực Thượng Lào.
Theo dõi chặt chẽ tình hình và trao đổi thống nhất với Trung
ương Mặt trận ítxalạ và Chính phủ Kháng chiến Lào, ngày 25 tháng
11 năm 1951, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
đã họp và ra Nghị quyết Về tình hình và nhiệm vụ trước mắt ở
Thượng Lào.
Đánh giá về kết quả giúp đỡ cách mạng Lào của quân tình
nguyện Việt Nam, Nghị quyết chỉ rõ: cách mạng Lào, kháng chiến
Lào căn bản là dựa trên sức của nhân dân Lào, cán bộ và bộ đội
Việt Nam sang Lào để giúp gây dựng lực lượng cách mạng, lực
lượng kháng chiến của nhân dân Lào. Vì không hiểu đúng điều này
nên có đồng chí đã phạm lệch lạc trong thái độ đối với cách mạng
Lào, kháng chiến Lào, với cán bộ và nhân dân Lào.
Nghị quyết nhấn mạnh: “Cái gốc của lực lượng kháng chiến
Lào là nhân dân Lào, nhân dân giác ngộ có tổ chức. Nhân dân giác
ngộ cao, tổ chức rộng và vững chắc chừng nào thì sức kháng chiến
mạnh chừng ấy. Vì không hiểu đúng điểm này nên có đồng chí lo
hoạt động quân sự hơn gây cơ sở nhân dân trong lúc cơ sở nhân dân
chưa có hay non yếu.
Phải nắm nhân dân để tổ chức tranh đấu vũ trang và kháng
chiến cốt yếu là vũ trang tranh đấu. Nhưng ở Lào hiện nay, vũ trang
tranh đấu là du kích chiến tranh, xây dựng và tác chiến phải nhằm
phương châm: gây dựng, củng cố phát triển du kích chiến tranh. Vì
không hiểu đúng điều này nên có đồng chí có xu hướng ham tập
trung chủ lực, đánh chính quy, đánh to. Như thế không đánh được
giặc vừa phiền nhân dân rất nhiều.
Vì những sai lệch căn bản trên nên ta sơ hở nhiều để địch nhân
chỗ sơ hở đó mà phá cơ sở ta, đánh dồn ta, thu hẹp vùng ta kiểm
224 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

soát, uy hiếp đến căn cứ của ta (ở Thượng Lào)...”1.


Xuất phát từ tình hình thực tế của cách mạng Lào, muốn tiến
hành kháng chiến nhất thiết phải phát động và tổ chức nhân dân
đoàn kết đứng lên chống quân xâm lược, Hội nghị đề ra hai nhiệm
vụ cấp bách trong công tác giúp cách mạng Lào lúc này là:
“1. Củng cố cơ sở chính trị, quân sự, xây dựng cơ sở kinh tế ở
vùng ta kiểm soát, đặc biệt củng cố cơ sở ấy ở nơi ta định xây dựng
thành căn cứ địa...
2. Tuyên truyền sâu rộng trong vùng ta kiểm soát, cố gắng
tuyên truyền rộng rãi trong vùng du kích, vùng tạm bị chiếm, trong
các đô thị; tuyên truyền sự cần thiết đoàn kết toàn dân Lào và đoàn
kết Lào - Việt - Miên để kháng chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ, để phá chính sách lợi dụng nguỵ quyền, nguỵ quân, phá
chính sách chia rẽ Lào - Việt”2.
Do yêu cầu nâng cao hơn nữa hiệu quả phối hợp giữa cách
mạng hai nước Việt Nam và Lào, Bộ Chính trị Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam ra chỉ thị cho các lực lượng quân tình nguyện
Việt Nam phải giúp Lào chuyển hướng chủ trương và phương thức
hoạt động. Chỉ thị nêu rõ: “Tích cực củng cố cơ sở chính trị, quân
sự, ra sức cải thiện dân sinh, mở chiến dịch tuyên truyền rộng rãi
đường lối, chính sách cách mạng và kháng chiến cho nhân dân ba
vùng căn cứ, du kích và địch hậu, coi trọng công tác bí mật chiều
sâu, ra sức đào tạo cán bộ địa phương”2.
Chấp hành chủ trương của Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam, sang năm 1952, các đơn vị quân tình nguyện đứng chân trên

, 2. Nghị quyết của Bộ Chính trị về tình hình và nhiệm vụ trước mắt ở
1

Thượng Lào, phông Ban Chấp hành Trung ƣơng khoá II, đơn vị bảo quản số 68,
Kho Lƣu trữ Trung ƣơng Đảng.
2
. Dẫn theo Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử các
đoàn 81, 82, 83, 280 quân tình nguyện Việt Nam tại Lào (1945 - 1954), Sđd, tr.160.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 225

địa bàn Thượng Lào chuyển phương thức hoạt động, thực hiện
phương châm đại đội độc lập và đội vũ trang tuyên truyền. Theo
phương hướng đó, bộ đội tình nguyện phối hợp với quân và dân Lào
kiên quyết chiến đấu đập tan các cuộc càn quét lấn chiếm của địch,
giữ vững và mở rộng các căn cứ kháng chiến, xây dựng cơ sở và lực
lượng vũ trang. Đồng thời, giúp bạn đưa lực lượng tiến sâu vào vùng
địch hậu, đẩy mạnh chiến tranh du kích, biến nhiều vùng hậu phương
của địch thành tiền phương của lực lượng kháng chiến Lào.
Với sự nỗ lực và phối hợp chặt chẽ của quân tình nguyện Việt
Nam, quân và dân Lào đã xây dựng, củng cố được nhiều khu căn
cứ du kích ở Mương Beng, Mương Hùn (Luổng Phạbang), Nặm Tòn -
Nặm Xẳng, Mương Phương - Mương Mẹt, Bạn Xạng, Na Khưa -
Na Lưởng, Nặm Xăn - Nặm Nghiệp (Viêng Chăn)... tạo cơ sở vững
chắc cho việc phát triển chiến tranh du kích ở các tỉnh Thượng Lào.
Nhiều làng bản trong các vùng căn cứ đã tổ chức được chính
quyền, mặt trận, dân quân du kích và các hội quần chúng. Những
thắng lợi đó tạo điều kiện cho việc củng cố, phát triển thế và lực
của cách mạng, góp phần làm chuyển biến tình hình có lợi cho
phong trào kháng chiến ở Thượng Lào.
ở Mặt trận Trung Lào:
Từ đầu năm 1951, địch tăng cường càn quét, đánh phá vùng
giải phóng dọc Trung Lào, sát vùng biên giới với Việt Nam, nhằm
tiêu diệt lực lượng Mặt trận Lào ítxalạ, xoá vùng căn cứ kháng
chiến ở Lào, từ đó xây dựng bàn đạp để tiến công, uy hiếp trực tiếp
chiến trường Liên khu 4 của Việt Nam. Sự phối hợp chặt chẽ giữa
chiến trường Liên khu 4 và Trung Lào ngày càng có vị trí đặc biệt
quan trọng trong việc đánh bại âm mưu mở rộng chiến tranh của
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Xuất phát từ thực tiễn đó, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam giao nhiệm vụ
cho Liên khu uỷ 4 trực tiếp chỉ đạo công tác phối hợp, giúp đỡ cách
226 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

mạng Lào thông qua Ban Cán sự Trung Lào.


Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam, ngày 16 tháng 3 năm 1951, Liên khu uỷ 4 đã họp ra nghị
quyết về nhiệm vụ và phương thức hoạt động của bộ đội tình
nguyện và cán bộ cơ sở của Liên khu ở chiến trường Trung Lào.
Nghị quyết chỉ rõ: “... Các lực lượng của ta cùng với bạn kết hợp
đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đưa chiến tranh du kích
tiến sâu vào lòng địch; giúp bạn bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, phát
triển mặt trận ítxalạ; xây dựng và bảo vệ các căn cứ kháng chiến,
các khu du kích ở vùng giáp ranh, tổ chức lực lượng dân quân du
kích ở cơ sở, tích cực xây dựng các đội vũ trang tuyên truyền ở
Trung Lào...”1.
Quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ quốc tế mà Trung ương Đảng
giao cho, Liên khu uỷ 4 tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo nhằm đẩy
mạnh việc chi viện, phối hợp với quân và dân Lào đánh địch ở
Trung Lào. Từ đây, vai trò và sự đóng góp của quân và dân Liên
khu 4 đối với cách mạng Lào ngày càng được nâng lên. Cùng với
việc cung cấp hai tiểu đoàn và một số đơn vị vũ trang, 1.000 cán bộ
sang giúp lực lượng kháng chiến Trung Lào, Liên khu 4 còn đóng
vai trò là hậu phương nơi đóng quân và vùng hoạt động của các lực
lượng kháng chiến Việt Nam và Lào tại chiến trường Trung Lào.
Trong thời gian Chính phủ Kháng chiến Lào về đứng chân trên đất
Thanh Hoá (từ cuối năm 1950), rồi Nghệ An (từ đầu năm 1952),
Đảng bộ và nhân dân Liên khu 4 nói chung, tỉnh Thanh Hoá và
Nghệ An nói riêng, hết lòng giúp đỡ xây dựng lán trại, cung cấp
lương thực, thực phẩm nuôi dưỡng, bảo vệ tận tình. Nhân dân các
tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh tích cực chấp hành chủ trương

1
. Quân khu IV - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 -
1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr.319.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 227

của Liên khu về việc thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại chiến trường
Trung Lào, như tham gia dân công, mở đường, vận chuyển lương
thực, hàng hoá phục vụ tác chiến cho quân tình nguyện và giúp bộ
đội, nhân dân Lào trong các vùng căn cứ và vùng giải phóng. Các
tỉnh Liên khu 4 của Việt Nam cũng tổ chức kết nghĩa với các tỉnh
biên giới của Lào như Hà Tĩnh kết nghĩa với Bolikhămxay1.
Tháng 4 năm 1951, với sự giúp đỡ của quân và dân Liên khu 4,
Đại hội đại biểu nhân dân Trung Lào được tổ chức tại xã Trúc Lâm,
huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Đại hội đã tán thành chủ trương
thành lập khối liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào và xác định
quyết tâm: “... Đoàn kết, chiến đấu và hợp tác toàn diện với quân
dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để giành
độc lập, tự do, thống nhất đất nước”2. Đại hội quyết định thành lập
Mặt trận ítxalạ Trung Lào, vạch chương trình, kế hoạch phối hợp
hành động với quân và dân Liên khu 4 của Việt Nam để đẩy mạnh
cuộc kháng chiến ở Trung Lào.
Nhất trí với tinh thần Nghị quyết của Đại hội đại biểu nhân dân
Trung Lào, Liên khu uỷ 4 giao cho Ban Cán sự Trung Lào và Ban
Chỉ huy Đoàn 280 quân tình nguyện (Trung đoàn Trung Lào) giúp
đỡ Lào thực hiện mọi chủ trương, kế hoạch về xây dựng, chiến đấu,
phục vụ chiến đấu và công tác ở Trung Lào.
Thực hiện chủ trương phối hợp chiến đấu giữa cách mạng hai
nước, Ban Cán sự Trung Lào và Ban Chỉ huy Đoàn 280 quân tình
nguyện đã chỉ đạo các phân đoàn cơ sở, các đại đội độc lập và tiểu
đoàn tập trung tiến sâu vào nội địa Lào, đẩy mạnh hoạt động tác
chiến và gây dựng cơ sở, giúp Lào bảo vệ các căn cứ kháng chiến.

1
. Xem Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu
IV (1945 - 1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.356.
2
. Quân khu IV - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 -
1954), Sđd, tr.319.
228 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Căn cứ vào đặc điểm chiến trường Trung Lào, các đội công tác cơ
sở của quân tình nguyện Việt Nam phân tán tổ chức thành nhiều
nhóm, mỗi nhóm từ hai đến ba người, cùng cán bộ Lào đi vào từng
làng bản, thực hiện “ba cùng” với dân, tuyên truyền vận động nhân
dân tham gia kháng chiến, động viên các bộ tộc Lào không cho con
em đi lính cho địch, chống phu phen tạp dịch, đồng thời vạch rõ âm
mưu thực hiện chính sách “chia để trị”, “dùng người Lào đánh
người Lào” để phục vụ chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.
Với sự phối hợp hoạt động chặt chẽ đó, phong trào kháng chiến
ở Trung Lào có bước phát triển mới. Đầu năm 1951, Trung Lào đã
xây dựng được các khu du kích ở Tà Ôi, Mương Noòng, Bualapha,
Ang Khăm, Thà Phaibạn... Gần 60 xã trên tổng số 95 xã của Trung
Lào có cơ sở kháng chiến, trong đó 40 xã đã xây dựng được chính
quyền cách mạng. Đến giữa năm 1951, địa bàn hoạt động của Liên
khu 4 và Trung Lào ở vùng sát biên giới hai nước đã mở rộng gấp 5
lần so với trước, góp phần bảo vệ vững chắc vùng biên cương phía
tây Liên khu 4 của Việt Nam.
Đối phó với phong trào kháng chiến ở Trung Lào, thực dân
Pháp tăng cường phòng thủ hai tiểu khu Xavẳnnakhệt và Thà Khẹc,
âm mưu biến nơi đây thành khu vực trọng điểm để ngăn chặn sự
phối hợp tiến công của quân và dân hai nước Việt - Lào. Chúng còn
ra sức tuyên truyền gây chia rẽ nội bộ các bộ tộc Lào, phá hoại tình
đoàn kết chiến đấu Việt - Lào.
Trước âm mưu, thủ đoạn đánh phá mới của địch, bộ đội Việt
Nam và bộ đội ítxalạ đã tích cực đấu tranh và kiên quyết chiến đấu
bảo vệ nhân dân, giữ vững căn cứ kháng chiến. Thực hiện tuyên
truyền vận động nhân dân Lào đứng lên chống địch và vận dụng
nhiều cách đánh linh hoạt, sáng tạo, bằng những vũ khí thông dụng,
thô sơ, bộ đội Việt - Lào đã phối hợp với du kích địa phương tổ
chức nhiều trận tập kích, phục kích, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 229

sinh lực địch và bẻ gãy nhiều cuộc càn quét của địch vào các khu
căn cứ ở Bualapha, Ang Khăm... Công tác binh vận cũng đã được
phát động trong các thôn bản Lào.
Đồng thời, để bồi dưỡng năng lực lãnh đạo, chỉ huy và công tác
cho đội ngũ cán bộ Lào, tháng 1 năm 1952, Ban Cán sự Trung Lào
và Đoàn 280 giúp Uỷ ban Trung Lào mở bốn khoá huấn luyện cho
hơn 300 cán bộ sơ cấp quân sự, chính trị. Đội ngũ cán bộ này là lực
lượng nòng cốt, góp phần quan trọng thúc đẩy phong trào kháng
chiến ở Trung Lào phát triển.
Với sự đoàn kết giúp đỡ, phối hợp của quân và dân Liên khu 4,
của quân tình nguyện Việt Nam, các căn cứ kháng chiến và căn cứ
du kích ở Trung Lào được giữ vững, mở rộng, nối liền với vùng
giải phóng Bắc Lào và Hạ Lào, tạo thế vững chắc cho cuộc kháng
chiến của nhân dân Lào phát triển. Đến cuối năm 1952, Mặt trận
ítxalạ ở Trung Lào đã có 419 tổ chức cơ sở. Lực lượng vũ trang các
địa phương phát triển mạnh: vùng Mahả Xây có hơn 100 du kích;
vùng Bualapha phát triển được 200 du kích và tổ chức một trung
đội bộ đội địa phương; vùng Mương Noòng có 600 du kích và một
trung đội bộ đội địa phương; vùng Thà Phaibạn có trên 100 du kích
và hai trung đội bộ đội địa phương1. Toàn khu Trung Lào có 120
tiểu đội du kích, 2 đại đội và 4 trung đội bộ đội địa phương, 2 đại
đội bộ đội chủ lực khu. Cán bộ chỉ huy các đơn vị đều là những cán
bộ trung kiên, được rèn luyện, trưởng thành trong quá trình phát
triển của cuộc kháng chiến. Uỷ ban Kháng chiến Trung Lào được
thành lập do đồng chí Khăm Tày Xiphănđon làm chủ tịch, đồng
thời là đại diện Chính phủ Kháng chiến và Trung ương Mặt trận
Lào ítxalạ ở Trung Lào. Chính quyền và Mặt trận Lào ítxalạ các

1
. Xem Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu
IV (1945 - 1954), Sđd, tr.360.
230 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

cấp từ khu, tỉnh xuống các huyện, tàxẻng, bản được xây dựng, củng
cố, đảm nhiệm việc quản lý chỉ đạo hoạt động về mọi mặt của địa
phương.
Nhận định về ý nghĩa thắng lợi và sự trưởng thành của khu
kháng chiến Trung Lào, Hội nghị liên tịch của Uỷ ban Kháng chiến
và Ban Cán sự Trung Lào nêu rõ: “Do nắm vững phương châm
hoạt động, với ý nghĩa trách nhiệm đầy đủ của mình, các lực lượng
vũ trang Trung Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam đã đạt được
một số thắng lợi quan trọng. Uỷ ban Kháng chiến và Mặt trận ítxalạ
được kiện toàn, nhiều bản và tàxẻng thành lập được chính quyền và
các tổ chức quần chúng. Cơ sở cách mạng được củng cố ở các vùng
dọc Trường Sơn như Khăm Cợt, Bualapha, Tà Ôi, Mương Noòng,
Kẹng Koọc, Mahả Xây, Nhômmalạt...”1.
Thắng lợi của phong trào kháng chiến trên chiến trường Trung
Lào trong những năm 1951 - 1952 đã góp phần cùng với phong trào
kháng chiến Thượng Lào, Hạ Lào làm thay đổi so sánh lực lượng
giữa ta và địch có lợi cho lực lượng kháng chiến ở Lào, đồng thời
tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam và Lào phối hợp đẩy mạnh
kháng chiến, tiến lên giành những thắng lợi to lớn có ý nghĩa quyết
định trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược.
ở Mặt trận Hạ Lào:
Từ sau khi liên quân Lào - Việt phát triển lực lượng sâu vào tây
nam áttapư và mở rộng hoạt động xuống cao nguyên Bôlavên,
đường 13 và tây nam Xalavăn, địch đã phản ứng rất quyết liệt.
Chúng tăng cường càn quét bình định hòng tiêu diệt lực lượng
kháng chiến, giành lại quyền kiểm soát các vùng đã bị mất, cố giữ

1
. Trích Biên bản Hội nghị liên tịch Uỷ ban Kháng chiến Trung Lào và Ban
Cán sự Trung Lào, năm 1952, hồ sơ số 45-K4, Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 231

Hạ Lào thành hậu phương an toàn, bảo vệ đầu cầu tiếp vận cho
chiến trường Lào. Hoạt động của địch đã gây nhiều thiệt hại cho
lực lượng kháng chiến Lào, một số đơn vị vũ trang tuyên truyền
Việt - Lào phải rút về phía đông đường 13, một số tổ công tác dân
vận phải tạm rời khỏi các bản. Tình hình đó khiến cho phong trào
kháng chiến ở Hạ Lào gặp thêm nhiều khó khăn, phức tạp.
Quán triệt sâu sắc chủ trương của Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam về nghĩa vụ quốc tế, quân và dân Liên khu 5 (Việt Nam)
càng tăng cường đoàn kết và phối hợp chặt chẽ với cách mạng Lào.
Đầu năm 1951, Bộ Tư lệnh Liên khu 5 quyết định tăng cường một
tiểu đoàn chủ lực cùng một số cán bộ các ngành tham mưu, hậu cần
sang phối hợp chiến đấu trên chiến trường Hạ Lào. Đồng thời, để
tạo điều kiện cho liên quân Lào - Việt tác chiến thuận lợi dọc theo
biên giới hai nước, Liên khu tiếp tục củng cố tuyến hành lang Hạ
Lào, từ ngã ba Tam An lên Cẩm Khê, sang Minh Huy rồi lên Bến
Giằng, Arố, qua Đắc Chưng sang Hạ Lào và huy động hàng ngàn
dân công bảo đảm vận chuyển lương thực, thực phẩm, các loại vũ
khí trang bị... chi viện cho chiến trường Hạ Lào. Liên khu 5 cũng
cử một đội ngũ chuyên gia các ngành nghề, như nấu muối, dệt, rèn,
làm giấy, làm ruộng chiêm, dạy bình dân học vụ... sang giúp cách
mạng Lào xây dựng kinh tế kháng chiến, tổ chức đời sống văn hoá
mới trong các vùng giải phóng.
Thực hiện sự chỉ đạo của Liên khu, nhân dân Quảng Nam, nhất
là các xã Tam Dân, Tam Thái, Tam Ngọc, Tam An (nay là các xã
Tam Dân, Tam Vinh, Tam Đại, Tam Phước, Tam An thuộc huyện
Phú Ninh) đã hết lòng giúp đỡ cơ quan hậu cứ Khu kháng chiến Hạ
Lào hoàn thành nhiệm vụ: tiếp nhận vũ khí, lương thực, quân trang
cho chiến trường Hạ Lào; tiếp nhận và chữa trị cho thương binh từ
Mặt trận Hạ Lào và bồi dưỡng, huấn luyện chiến đấu cho các đơn
vị bộ đội Việt - Lào. Nhiều gia đình đã nhường cả ngôi nhà mình
232 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

đang ở cho cán bộ, chiến sĩ sử dụng, lựa chọn những gian nhà
khang trang, sạch sẽ nhất bố trí cho cán bộ, chiến sĩ Lào sinh hoạt
và làm việc... Lương thực dành cho các bạn Lào là gạo nếp (nấu
thành xôi) do nhân dân trong vùng cung cấp.
Trong những năm tháng khó khăn ấy, tuy bị địch bao vây kinh
tế, bộ đội Việt Nam - Lào và nhân dân địa phương nhiều vùng
không có muối ăn, phải ăn cỏ tranh thay muối, nhưng với tinh thần
“hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa”, nhân dân Quảng Nam đã cung
cấp, vận chuyển hàng trăm tấn muối cho nhân dân Hạ Lào. Thậm
chí có những gia đình không có cơm ăn đã đào củ mài về nuôi
những chiến sĩ mà nước bạn Lào gửi sang...
Đáp ứng yêu cầu phối hợp chiến đấu trong tình hình mới, Liên
khu 5 và Khu kháng chiến Hạ Lào đã thống nhất thay đổi về hình
thức tổ chức và mối quan hệ giữa các lực lượng vũ trang Việt Nam
và Lào. Ban Chỉ huy hỗn hợp Việt - Lào giải thể. Quân tình nguyện
Việt Nam tổ chức cơ quan chỉ huy riêng, gọi là Ban Chỉ huy quân
tình nguyện Việt Nam ở Hạ Lào và được giao nhiệm vụ làm
chuyên gia giúp Lào về các mặt xây dựng và hoạt động. Bộ đội Lào
ítxalạ cũng được chấn chỉnh và tăng cường. Ban Chỉ huy quân sự
khu Hạ Lào được thành lập, các lực lượng vũ trang Lào gồm ba thứ
quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích) được
hình thành.
Thực hiện chủ trương trên, các đơn vị quân tình nguyện Việt
Nam đóng quân xen kẽ trên các mặt trận và khu căn cứ, vừa làm
nhiệm vụ cơ động đánh địch, vừa phối hợp giúp đỡ bộ đội Lào
ítxalạ trong xây dựng và chiến đấu. Nắm vững phương châm “kết
hợp quân sự với chính trị” và vận dụng phương thức “trung đội tập
trung cơ động đánh địch, tiểu đội phân tán xây dựng cơ sở” ở từng
mặt trận, phần lớn các đơn vị quân tình nguyện đã cùng bộ đội Lào
ítxalạ bám sát các địa bàn, thực hiện cùng ăn, cùng ở, cùng sản xuất
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 233

với dân, cùng dân quân du kích địa phương tuần tra canh gác,
chống biệt kích phá hoại, chống địch càn quét.
Căn cứ vào đặc điểm cụ thể của từng địa bàn, sự phối hợp
chiến đấu giữa quân tình nguyện Việt Nam với bộ đội và nhân dân
khu Hạ Lào được triển khai rộng rãi với nhiều biểu hiện phong
phú.
Tại tỉnh Chămpaxắc, Ban Chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam
và Ban Chỉ huy quân sự khu Hạ Lào quyết định thành lập Liên đại
đội Xaychắccaphắt để phát triển địa bàn hoạt động vào vùng sau
lưng địch ở các khu vực phía tây sông Mê Công. Nhưng, do địch
tăng cường càn quét, khủng bố gắt gao nên bộ đội Việt - Lào đã
thay đổi phương thức hoạt động, giữ thế hợp pháp để bảo toàn cơ
sở và lực lượng, chuẩn bị điều kiện cho việc khôi phục và phát triển
phong trào. Các đơn vị quân tình nguyện cùng bộ đội Lào kiên trì
bám dân, bám bản, bí mật chắp nối liên lạc với cơ sở, xây dựng cán
bộ cốt cán trung kiên, tích cực tranh thủ các sư sãi, phân hoá tề
nguỵ, vận động dân vệ, binh lính địch; từ đó phát động, tổ chức
nhân dân đẩy mạnh đấu tranh, từ đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính
trị bằng hình thức hợp pháp đến nửa hợp pháp, tiến lên đánh du
kích ngày càng mạnh, giải phóng nhân dân khỏi sự kìm kẹp của
địch.
Với phương thức hoạt động đó, đến giữa năm 1952, vùng kiểm
soát của địch ở Chămpaxắc bị thu hẹp, các cuộc càn quét giảm dần
cả về quy mô, thời gian và mức độ ác liệt. Các vùng cơ sở và vùng
du kích được xây dựng, mở rộng từ bờ sông Mê Công đến tận biên
giới Thái Lan. Các tổ chức chính quyền cách mạng và Mặt trận
ítxalạ được thành lập ở các bản, tàxẻng và có hệ thống đến huyện;
lực lượng dân quân du kích được tổ chức đều khắp.
Tại cao nguyên Bôlavên và tỉnh Xalavăn, bộ đội tình nguyện
Việt Nam và bộ đội Lào ítxalạ đẩy mạnh đấu tranh quân sự và
234 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

chính trị phá âm mưu địch: tổ chức lực lượng vũ trang phản động
địa phương, lôi kéo các tù trưởng, tộc trưởng người Nha Hớn chống
lại cách mạng, nhằm giành lại quyền kiểm soát cao nguyên chiến
lược Bôlavên. Vận dụng phương thức đấu tranh linh hoạt, bộ đội
Việt - Lào phân tán lực lượng, bám dân, xây dựng cơ sở từng bản
và từng bước xây dựng các vùng du kích, mở rộng hoạt động ngày
càng có hiệu quả.
ở phía nam cao nguyên, bộ đội Việt Nam cùng với bộ đội Lào
tổ chức vận động quần chúng, củng cố cơ sở vùng Uđômxỉn và
phát triển thành vùng du kích mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thành lập chính quyền cách mạng và xây dựng bộ đội địa
phương của huyện. Được sự giúp đỡ của bộ đội Việt - Lào, nhân
dân địa phương đẩy mạnh chiến tranh du kích, sử dụng hầm chông,
cạm bẫy và vũ khí tự tạo đánh địch rộng khắp, hạn chế được các
cuộc lùng sục của địch, bảo vệ được cơ sở quần chúng, góp phần
xây dựng và giữ vững vùng căn cứ du kích ở nam Pạc Xoòng, nối
liền với căn cứ tây nam áttapư. Đồng thời, bộ đội Việt - Lào tổ
chức tập kích tiêu diệt đồn Chămpi (năm 1952), tạo đà thuận lợi
cho phong trào chiến tranh du kích vùng này phát triển.
ở phía bắc cao nguyên, bộ đội Việt Nam và bộ đội Lào phối hợp
đẩy mạnh hoạt động ở huyện Lao Ngam, Thà Teng, phát triển vùng
này từ cơ sở chính trị lên thành vùng du kích, làm cơ sở cho việc
thành lập các tổ chức Mặt trận ítxalạ và chính quyền cách mạng ở
các bản, tàxẻng. Bộ đội Việt - Lào có du kích địa phương phối hợp,
ngày đêm quần nhau với giặc, chống các cuộc càn quét của địch có
hiệu quả hơn, thu hẹp vùng kiểm soát của địch, nhất là trên đường
Xalavăn đi Khôngxêđôn và vùng Kẹng Kịa ở đông bắc Pạc Xê.
Đến cuối năm 1952, cơ sở kháng chiến ở các khu vực trên
vùng cao nguyên Bôlavên được củng cố và mở rộng. Hai căn cứ
du kích Uđômxỉn và Lao Ngam trở thành những căn cứ mạnh nhất
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 235

ở Hạ Lào.
Tại áttapư, bộ đội Việt Nam và bộ đội Lào đã phân tán thành
từng tổ nhỏ, phối hợp với dân quân du kích địa phương bám đánh
địch, quấy rối, tiêu hao chúng tại chỗ, đồng thời tổ chức hướng dẫn
nhân dân sơ tán vào rừng, làm “vườn không nhà trống”, triệt phá
nguồn tiếp tế lương thực của địch.
Cùng với các hoạt động ở phía trước, bộ đội Việt Nam và bộ
đội Lào còn phối hợp đẩy mạnh xây dựng, củng cố và mở rộng các
căn cứ địa miền Đông và căn cứ địa tây nam áttapư. Các đội công
tác cơ sở Việt Nam cùng cán bộ Lào đi vào các vùng dân tộc người
Lào Thơng, “địa phương hoá” triệt để (ở trần, đóng khố, để tóc dài,
phơi nắng cho da đen, mang gùi thay balô, học tiếng dân tộc, cùng
đi làm nương phát rẫy với dân) để tuyên truyền vận động nhân dân.
Kết quả là các đội công tác Việt - Lào đã vận động các bộ tộc Lào
xoá bỏ dần hiềm khích cũ, chấm dứt tệ nạn đâm chém trả thù nhau.
Chính quyền cách mạng được thành lập đã vận động nhân dân Lào
Lùm nhường đất canh tác và giúp dân Lào Thơng sản xuất, xây
dựng tình nghĩa đoàn kết, thông cảm giữa Lào Lùm và Lào Thơng.
Đồng thời, giúp đỡ nhân dân học tập văn hoá, sinh hoạt văn nghệ,
giữ vệ sinh phòng bệnh, giảm bớt các tục lệ kiêng cữ lạc hậu, có hại
cho đời sống và sản xuất...
Đến cuối năm 1952, phong trào đánh giặc giữ làng, sản xuất cải
thiện đời sống và góp sức nuôi quân ở các vùng căn cứ miền Đông
và tây nam áttapư phát triển mạnh mẽ. Cơ sở đảng, quần chúng và
lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích được xây dựng
ngày càng vững mạnh.
Với sự đoàn kết giúp đỡ, phối hợp của quân tình nguyện Việt
Nam, vùng căn cứ địa tây nam áttapư và các khu căn cứ du kích ở
Chămpaxắc, Bôlavên, Xalavăn được giữ vững và mở rộng. Phong
trào chiến tranh du kích phát triển rộng khắp ở các tỉnh Hạ Lào,
236 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

nhất là ở cao nguyên Bôlavên. Phong trào đấu tranh của quần
chúng, kết hợp các hình thức hợp pháp và không hợp pháp ngày
càng mạnh mẽ, đỉnh cao là cuộc biểu tình của nhân dân các huyện
ở Pạc Xê (giữa năm 1952), đã giáng một đòn mạnh mẽ vào hệ
thống chính quyền bù nhìn và chính sách bình định của địch. Lực
lượng cách mạng của nhân dân Hạ Lào về quân sự cũng như chính
trị được củng cố và phát triển vững chắc, làm cho cán cân so sánh
lực lượng nghiêng hẳn về phía kháng chiến Lào.
Đoàn kết và giúp đỡ cách mạng Lào, cũng như cách mạng
Campuchia là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của nhân dân
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam thường xuyên kiểm điểm, rút kinh nghiệm về sự phối hợp
chiến đấu giữa hai nước nhằm đạt kết quả ngày càng cao hơn.
Tại Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam (từ ngày 22 đến 28 tháng 4 năm 1952), Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu rõ: “Vì mọi quan hệ khăng khít về địa lý, quân sự,
chính trị, v.v. mà ta với Miên, Lào cũng như môi với răng. Hai dân
tộc Miên, Lào hoàn toàn giải phóng, thì cuộc giải phóng của ta mới
chắc chắn, hoàn toàn. Cho nên nhiệm vụ của ta lại phải ra sức giúp
đỡ kháng chiến Miên, Lào một cách tích cực, thiết thực hơn.
Đó là nhiệm vụ quốc tế của chúng ta”1.
Tiếp đó, ngày 14 tháng 9 năm 1952, Hội nghị cán bộ Mặt trận
liên minh nhân dân Việt Nam - Lào - Campuchia đã họp tại Việt
Bắc (Việt Nam). Hội nghị kiểm điểm tình hình thực hiện các nghị
quyết của Hội nghị liên minh tháng 3 năm 1951 và đề ra phương
hướng tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ mới để củng cố hơn nữa tình
đoàn kết kháng chiến của ba dân tộc.
Về dự Hội nghị có đại biểu Neo Lào ítxalạ cùng cán bộ tình
nguyện Việt Nam hoạt động ở các khu Thượng, Trung và Hạ Lào;

1
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.452.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 237

đại biểu các đoàn thể Việt Nam trong Mặt trận như công đoàn,
nông dân, thanh niên, phụ nữ, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Đại
biểu Miên vì đường xa không kịp đến dự Hội nghị.
Hội nghị vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và nói
chuyện thân mật với các đại biểu. Thay mặt Chính phủ, Mặt trận
và nhân dân Việt Nam, Người tuyên bố: “Chính phủ, Mặt trận và
nhân dân Việt Nam ra sức, hết lòng thành thật giúp đỡ Mặt trận,
nhân dân Lào một cách không điều kiện. Sự thật là chưa tìm ra
chữ gì để thay chữ giúp, nên mới dùng chữ giúp, chứ thật ra
không phải là giúp, mà là làm một nhiệm vụ quốc tế. Kháng chiến
của Việt - Miên - Lào là chung của chúng ta. Việt Nam kháng
chiến có thành công, thì Miên - Lào mới thắng lợi, và Miên -
Lào kháng chiến có thắng lợi thì Việt Nam mới hoàn toàn thắng lợi.
Việt - Miên - Lào như anh em ruột thịt trong một nhà”1.
Đối với cán bộ, quân tình nguyện Việt Nam sang công tác ở
Lào, Người căn dặn: phải chấp hành sự lãnh đạo của Chính phủ
Lào; tuyệt đối không được tự cao, tự đại, bao biện; phải đoàn kết
với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Lào.
Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhờ Đoàn đại biểu Lào
chuyển món quà nhỏ của Người đến Hoàng thân Xuphanuvông.
Món quà gồm có một tấm lụa, một thanh kiếm và một bộ quần áo.
Người nói: “Tấm lụa là tượng trưng cho sự mềm mỏng và đại đoàn
kết. Đoàn kết chặt chẽ như những sợi tơ trong tấm lụa. Mềm mỏng
là để đối với nhân dân. Thanh kiếm là tượng trưng cho sự sắc sảo
và cương quyết. Còn bộ quần áo là để tặng cho cán bộ Lào nào thi
đua giỏi nhất”2.

1
. Quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993,
tr.54.
2
. Quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt, Sđd, tr.54.
238 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Tại Hội nghị, đồng chí Hoàng Quốc Việt đọc báo cáo kiểm
điểm việc thi hành Nghị quyết của Hội nghị liên minh Việt Nam -
Lào - Campuchia, đề ra chương trình hành động chung của ba mặt
trận và chuẩn bị cuộc Đại hội đại biểu của ba mặt trận để động viên
nhân dân ba nước thúc đẩy kháng chiến đi đến thắng lợi. Đồng chí
nhấn mạnh, trong thời gian qua, chấp hành chỉ thị của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, cán bộ và chiến sĩ Việt Nam đã cùng với cán bộ, chiến
sĩ, nhân dân Lào đồng cam cộng khổ lăn lộn xây dựng cơ sở chính
trị và lực lượng vũ trang, cùng nhau dẻo dai chống địch ở khắp
Thượng, Trung và Hạ Lào. Để tăng cường hơn nữa mối quan hệ
giữa ba nước, đại biểu Việt Nam đề nghị ba mặt trận cần đẩy mạnh
công tác tuyên truyền về khối liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào -
Campuchia trong nhân dân nước mình và ra ngoài thế giới; thường
xuyên trao đổi kinh nghiệm về mọi mặt và tăng cường hơn nữa sự
liên lạc giữa các cơ quan phụ trách của ba Trung ương Mặt trận,
của các địa phương ba nước ở gần nhau.
Đại diện Đoàn đại biểu Lào phát biểu nói lên bước phát triển
mới và thắng lợi của cách mạng Lào trong những năm qua, như đã:
tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân về liên minh Việt Nam - Lào -
Campuchia, về sự đoàn kết Lào - Việt; củng cố Neo Lào ítxalạ, đẩy
mạnh chiến tranh du kích, tích cực chống địch càn quét lấn chiếm,
bảo vệ khu giải phóng.
Đại biểu Lào nêu rõ: “Sự phát triển và thắng lợi của cuộc kháng
chiến Lào căn bản là do lòng yêu nước, chí hy sinh và sức đoàn kết
chiến đấu của nhân dân Lào, sự lãnh đạo sáng suốt của Chính phủ
và Mặt trận Lào ítxalạ. Song sự giúp đỡ của nhân dân Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tinh thần hy sinh
chiến đấu của bộ đội và cán bộ tình nguyện Việt Nam cũng rất
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 239

quan trọng đối với sự phát triển mau lẹ của kháng chiến Lào”1.
Hội nghị đã thống nhất hành động và nêu cao quyết tâm của ba
dân tộc Việt Nam - Lào - Campuchia trong cuộc kháng chiến
trường kỳ, toàn dân, toàn diện, trên tinh thần đoàn kết quốc tế vô
sản để chống kẻ thù chung.
Hội nghị cán bộ Mặt trận liên minh nhân dân ba nước Đông
Dương tháng 9 năm 1952 góp phần thắt chặt và thúc đẩy tình đoàn
kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa nhân dân ba nước Việt Nam -
Lào - Campuchia lên bước phát triển mới, trở thành một nhân tố
quan trọng đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của ba dân
tộc đến thắng lợi hoàn toàn.
Với sự đoàn kết, giúp đỡ, phối hợp của Việt Nam và cùng với
sự cố gắng vượt bậc của bản thân, trong hai năm 1951-1952, cuộc
kháng chiến của nhân dân Lào đã giành được những kết quả quan
trọng về nhiều mặt.
Về chính trị: từ sau Đại hội quốc dân (tháng 8 năm 1950),
đường lối, chính sách của Trung ương Neo Lào ítxalạ và Chính phủ
Kháng chiến Lào đã được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong mọi
tầng lớp nhân dân và tới khắp mọi miền đất nước. Uy tín và hiệu
lực của Uỷ ban quân, dân, chính ngày càng rộng lớn. Đông đảo các
tầng lớp nhân dân các bộ tộc Lào đã tích cực tham gia các tổ chức
Neo Lào ítxalạ ở các cấp từ địa phương đến trung ương, như Hội
Cứu quốc, Hội Phụ nữ, Hội Mẹ chiến sĩ,...
Các đội vũ trang tuyên truyền Việt - Lào khắc phục mọi khó
khăn gian khổ, đi vào các bản nằm sâu trong vùng địch hậu để
tuyên truyền vận động nhân dân, xây dựng cơ sở. Do tích cực hoạt
động, nên sau một thời gian ngắn, lực lượng kháng chiến Lào đã
kết nạp được nhiều nông dân yêu nước vào các tổ chức ítxalạ bí

1
. Tƣ liệu Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu II.3/121/7.6.
240 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

mật ở các làng bản; tuyển chọn và đào tạo được những cán bộ
trung kiên làm nòng cốt lãnh đạo phong trào; đồng thời tranh thủ
được sự đồng tình, ủng hộ của các phò bản, tàxẻng, hướng dẫn họ
tổ chức nhân dân hăng hái sản xuất, cải thiện đời sống và tích cực
tham gia kháng chiến. Nhờ đó, Mặt trận Lào ítxalạ đã phát triển
thêm hàng vạn hội viên từ mọi tầng lớp, các bộ tộc, tạo thành sức
mạnh đoàn kết toàn dân ủng hộ và bảo vệ chính quyền cách mạng.
Đầu năm 1951, Trung ương Neo Lào ítxalạ mở trường chính trị
đầu tiên với tên gọi là Trường Đoàn kết nhằm bồi dưỡng, nâng cao
trình độ lý luận và khả năng công tác cho đội ngũ cán bộ cốt cán từ
trung ương đến địa phương. Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ và
phát triển đảng viên Lào càng được quan tâm phát triển. Nhiều chi
bộ cộng sản và nhóm trung kiên được thành lập, làm nòng cốt, đầu
tàu trong công cuộc kháng chiến cứu nước. Tiếp đó, Ban Tuyên huấn
Trung ương Lào được thành lập và ra báo ítxalạ mỗi tháng một kỳ
(tháng 8 năm 1951). Cùng với việc giới thiệu, trình bày chủ trương,
đường lối của Neo Lào ítxalạ, tờ báo còn mở đợt vận động tuyên
truyền về liên minh đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông
Dương chống kẻ thù chung. Đồng thời, mùa Hè 1951, Trung ương
Neo Lào ítxalạ cử một phái đoàn đại diện nhân dân Lào do Hoàng
thân Xuphanuvông dẫn đầu đi thăm miền Bắc Việt Nam để trao đổi
kinh nghiệm về mọi mặt và thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu giữa hai
dân tộc Lào - Việt, Việt - Lào.
Tháng 3 năm 1952, Trung ương Mặt trận Lào ítxalạ và Chính
phủ Kháng chiến Lào chủ trương mở chiến dịch tuyên truyền sâu
rộng trong nhân dân cả nước về liên minh đoàn kết Việt Nam - Lào
- Campuchia; qua đó nhằm đề cao uy tín của Chính phủ và Mặt trận
Lào, phát huy ảnh hưởng của khối liên minh chiến đấu Việt Nam -
Lào - Campuchia, động viên nhân dân tích cực tham gia kháng
chiến, đập tan các cuộc càn quét, bình định của địch.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 241

Thực hiện chủ trương trên, Trung ương Neo Lào ítxalạ đã tổ
chức các đoàn tuyên truyền hoạt động chủ yếu ở các tỉnh Thượng
Lào. Đoàn tuyên truyền 1 do đồng chí Nủhắc Phumxavẳn, Bộ
trưởng Bộ Kinh tế làm trưởng đoàn, có nhiệm vụ hoạt động tuyên
truyền ở huyện Mương Xon, rồi phát triển sang hai huyện Pạc Xeng
và Mương Ngòi (thuộc tỉnh Luổng Phạbang). Đoàn tuyên truyền 2
do đồng chí Xỉxanạ Xixản, cán bộ Trung ương Neo Lào ítxalạ làm
trưởng đoàn, vào công tác ở các huyện Mương Xôi, Mương Xăm,
Xiêng Khọ (thuộc tỉnh Hủa Phăn).
Nhờ có sự cố gắng của các cấp chính quyền và các đơn vị bộ
đội Việt - Lào bảo vệ, Đoàn tuyên truyền 1 đã tổ chức được bảy
cuộc mít tinh (mỗi cuộc có từ 100 đến 300 người dự); mở các hội
nghị uỷ ban kháng chiến huyện, tàxẻng để bàn biện pháp đẩy
mạnh kháng chiến; tổ chức các cuộc triển lãm tranh ảnh, các buổi
nói chuyện thời sự, chính trị ở 16 bản; mở một lớp huấn luyện bảy
ngày cho cán bộ Uỷ ban huyện Mương Xon và gặp gỡ giải thích
chính sách khoan hồng cho 270 gia đình có con em đi lính hoặc
làm việc cho địch. Đoàn tuyên truyền 2 tuy bị địch vây quét, ngăn
chặn nhưng đã đi gặp gỡ, tuyên truyền được ở 50 bản thuộc sáu
tàxẻng: Xiêng Khọ, Mương ét, Xốp Xàng, Mương Pua, Mương
Liệt và Mương Hằng.
Nhân dân các địa phương nơi đoàn tuyên truyền đi qua rất tin
tưởng, phấn khởi, càng hăng hái giúp đỡ bộ đội, tham gia kháng
chiến. Nhận xét về chiến dịch tuyên truyền vận động cho khối liên
minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia, Hoàng thân
Xuphanuvông đã viết: “Chiến dịch tuyên truyền liên minh Việt -
Miên - Lào đã hoàn toàn đại thắng lợi, đã làm cho nhân dân càng
giác ngộ, phấn khởi đoàn kết và hăng hái chiến đấu hơn, đã làm
cho tình đoàn kết Việt - Miên - Lào càng thêm sâu rộng trong toàn
242 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

dân”1.
Về xây dựng chính quyền: đến giữa năm 1951, trong các vùng
giải phóng và khu du kích, cơ quan chính quyền các cấp được thành
lập từ trung ương đến địa phương. Đội ngũ cán bộ ngày càng phát
triển và trưởng thành. Chính quyền các cấp đã lãnh đạo, tuyên
truyền, giáo dục nhân dân địa phương mình thực hiện mọi chủ
trương, chính sách của Mặt trận và Chính phủ Kháng chiến Lào;
đồng thời động viên, hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân các bộ tộc đẩy
mạnh sản xuất để cải thiện đời sống cũng như đáp ứng yêu cầu của
cuộc kháng chiến cứu nước. Do trình độ giác ngộ chính trị được
nâng lên, nhân dân các bộ tộc Lào đóng góp ngày càng nhiều sức
người, sức của, góp phần thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển
mạnh mẽ.
Về văn hoá, xã hội: chính quyền kháng chiến các cấp đã cố
gắng khắc phục khó khăn, thiếu thốn, giải quyết được nhiều vấn đề
cấp bách như gìn giữ trật tự an ninh vùng giải phóng, phát động
phong trào vệ sinh phòng bệnh rộng rãi trong các bản làng, từng
bước xoá bỏ mê tín, hủ tục lạc hậu. Đồng thời để mở mang dân trí,
xoá nạn mù chữ trong nhân dân, Chính phủ Kháng chiến còn quy
định cách thức viết chữ Lào trong toàn quốc, mở các lớp bình dân
học vụ cho người lớn, mở trường cho trẻ em. “Nhân dân vùng giải
phóng rất hăng hái học tập nên công tác chống nạn mù chữ tiến bộ
nhanh chóng. Có vùng dân cư miền núi như Lào Thơng, Mèo xưa
kia không hề biết chữ, đến nay làng nào cũng có người biết đọc,
biết viết”2. Ngày 31 tháng 7 năm 1951, Thủ tướng Chính phủ

. Chủ tịch Neo Lào ítxalạ gửi ông Nủhắc (ngày 16 tháng 12 năm 1952), điện
1

số 154, hồ sơ 1574, phông PTT, Trung tâm Lƣu trữ quốc gia I, Cục Văn thƣ và
lƣu trữ Nhà nƣớc.
2
. “Tình hình kháng chiến Lào trong năm vừa qua”, Báo Nhân dân từ ngày 11
đến 15 tháng 3 năm 1953.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 243

Kháng chiến Lào ra chỉ thị về việc tổ chức các tổ văn hoá quần
chúng ở các căn cứ địa kháng chiến, đồng thời phát động một
phong trào sáng tác thơ ca rộng rãi trong quần chúng nhân dân để
phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến cứu nước.
Những kết quả to lớn, quan trọng trên đây đã góp phần nâng
cao uy tín của Mặt trận ítxalạ và Chính phủ Kháng chiến Lào, đem
đến cho nhân dân vùng giải phóng Lào một niềm tin tưởng và
“cuốn hút nhân dân vào phong trào cách mạng và ngày càng ủng hộ
Chính phủ và Mặt trận nhiều hơn”1.
Về ngoại giao: Chính phủ Kháng chiến và Mặt trận Lào ítxalạ
đã đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, cử các đoàn đại biểu đi tham gia
các hội nghị quốc tế, như: Hội nghị hoà bình châu á - Thái Bình
Dương họp ở Bắc Kinh (Trung Quốc), tháng 1 năm 1952; Hội nghị
hoà bình thế giới họp ở Viên (áo), tháng 12 năm 1952; Festival
thanh niên - sinh viên thế giới tổ chức ở Bucarét, thủ đô của
Rumani. Trong các hội nghị quốc tế này, các đại biểu nhân dân yêu
chuộng hoà bình thế giới đều tỏ ra hết sức đồng tình và ủng hộ cuộc
kháng chiến của nhân dân Lào, thông qua nghị quyết đòi chấm dứt
chiến tranh ở Lào và toàn Đông Dương. Nhân dân thế giới hiểu rõ
thêm về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các bộ tộc Lào,
vai trò và uy tín của Mặt trận ítxalạ và Chính phủ Kháng chiến Lào
ngày càng được đề cao trên trường quốc tế, đồng thời góp phần đập
tan âm mưu bao vây, cô lập cách mạng Lào và Đông Dương của
bọn thực dân, đế quốc.
Về mặt quân sự: qua quá trình chiến đấu, rèn luyện, học tập, lực
lượng vũ trang Lào đã có bước phát triển cả về số lượng và chất
lượng. Các đội dân quân du kích từng bước được tổ chức lại chặt
1
. Tài liệu về Chính phủ Kháng chiến Lào (1945 - 1954), hồ sơ 100, số 1665,
phông PTT, Trung tâm Lƣu trữ quốc gia I, Cục Văn thƣ và Lƣu trữ Nhà nƣớc,
tr.4.
244 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

chẽ. Bộ đội giải phóng Lào sau các đợt huấn luyện đã bắt đầu nắm
được chiến thuật đánh du kích. Trình độ tác chiến và chỉ huy của
đội ngũ cán bộ quân sự Lào được nâng cao thêm, nhất là ở Thượng
Lào, Viêng Chăn và Mặt trận Hạ Lào. Nắm vững phương châm du
kích chiến, phối hợp tác chiến cùng bộ đội tình nguyện Việt Nam,
bộ đội cách mạng Lào đã chủ động mở nhiều trận tập kích, phục
kích ở trên khắp các địa bàn Thượng, Trung và Hạ Lào, tiêu hao,
tiêu diệt được nhiều sinh lực địch.
Cùng với các trận tập kích, phục kích của quân tình nguyện
Việt Nam và bộ đội Lào, du kích ở các bản, mường cũng tăng
cường hoạt động, như du kích Bạn Huột (Đoông Lavên), Mương
Noòng (Xavẳnnakhệt), Keo Xẹt (Xiêng Khoảng), Phu Khun,
Mương Mẹt (Viêng Chăn)... đã dùng vũ khí thô sơ chống trả quyết
liệt quân địch càn quét, bảo vệ được tài sản, bản mường của mình.
Đồng thời, nhiều cơ sở chính trị được phát triển trong các thành
thị như Viêng Chăn, Xavẳnnakhệt, Pạc Xê... Phong trào đấu tranh
chính trị của nhân dân trong vùng địch kiểm soát như chống bắt
lính, bắt đi phu, chống quyên góp... đã nổ ra ở nhiều nơi, làm cho
địch gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong âm mưu “bình định” và
thực hiện chính sách vơ vét, bóc lột tiền của để phục vụ cuộc chiến
tranh xâm lược của chúng.
Những thành tích mà cách mạng Lào giành được trong hai năm
1951 - 1952 đánh dấu một bước tiến bộ mới của quân và dân Lào
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đồng thời, đó cũng
là thắng lợi, thành tích của sự phối hợp đoàn kết chiến đấu giữa
quân và dân hai nước Việt - Lào.
Nhận xét về mối quan hệ đoàn kết giữa hai dân tộc cùng chống
kẻ thù chung ở giai đoạn này, đồng chí Phumi Vôngvichít đã viết:
“Cán bộ và bộ đội quân tình nguyện Việt Nam đến giúp đã làm cho
lực lượng cách mạng chúng tôi mạnh thêm. Thái độ và đạo đức tốt
đẹp của cán bộ, bộ đội tình nguyện Việt Nam đã làm cho cán bộ, bộ
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 245

đội và nhân dân Lào yêu mến họ, làm cho tình đoàn kết Lào - Việt
Nam mà hai bên đã cùng nhau xây đắp bằng xương máu ngày càng
bền chặt. Đó cũng là nguyên nhân làm cho lực lượng của chúng tôi
trong năm 1952 phát triển mạnh mẽ, rộng khắp”1.
Kết quả hoạt động phối hợp đấu tranh giữa Việt Nam và Lào
trong hai năm 1951 - 1952 đã góp phần tạo thêm thế và lực mới cho
cuộc kháng chiến của nhân dân hai nước, đồng thời chuẩn bị các
yếu tố cần thiết để đưa liên minh chiến đấu Việt - Lào lên một bước
phát triển mới.

II. TĂNG CƢỜNG LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU VIỆT NAM - LÀO,
LÀO - VIỆT NAM, ĐƢA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP ĐẾN THẮNG LỢI HOÀN TOÀN (1953 - 1954)

1. Phối hợp mở chiến dịch Thượng Lào


Trong hai năm 1951 - 1952, việc Đảng Lao động Việt Nam ra
hoạt động công khai và thành lập Uỷ ban hành động Việt - Miên -
Lào đã củng cố khối đoàn kết thống nhất và liên minh chiến đấu
giữa nhân dân ba nước Đông Dương, làm phá sản chính sách “chia
để trị” thâm hiểm của thực dân Pháp. Cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia có thêm
nhiều thuận lợi cơ bản mới để phát triển lên một bước vững chắc và
toàn diện hơn.
Trên chiến trường chính Việt Nam, quân và dân cả nước đã ra
sức phấn đấu tăng cường lực lượng về mọi mặt, tiêu diệt một bộ
phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng chiến lược,
mở rộng và củng cố vùng tự do, xây dựng thêm nhiều căn cứ du
kích vững mạnh trong vùng sau lưng địch, đánh bại âm mưu bình

1
. Phumi Vôngvichít: Nhớ lại đời tôi trong quá trình lịch sử đất nước Lào
(Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.9.
246 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

định và phản công của chúng. Lực lượng vũ trang nhân dân Việt
Nam đã lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, có khả năng mở
các chiến dịch ở khắp các địa bàn trong cả nước và trên chiến
trường Đông Dương.
Trên chiến trường Lào, chiến tranh du kích ở vùng sau lưng
địch đã phát triển lớn mạnh hơn trước, phong trào đấu tranh chính
trị bước đầu được gây dựng ở một số đô thị, thị trấn, làm cho lực
lượng so sánh giữa ta và địch có những thay đổi có lợi cho cuộc
kháng chiến của nhân dân Lào. Quân tình nguyện Việt Nam chiến
đấu tại Lào được bồi dưỡng nâng cao trình độ về chính trị, quân sự,
được tôi luyện trong chiến đấu nên các hoạt động tác chiến, tuyên
truyền vận động quần chúng ngày càng có hiệu quả, được nhân dân
và quân đội Lào yêu mến, tin cậy.
Tuy vậy, bên cạnh những ưu điểm và thành tích đạt được, nhìn
cả quá trình phối hợp chiến đấu giữa Việt Nam và Lào và so với yêu
cầu, thì việc giúp cách mạng Lào xây dựng vùng giải phóng và các
căn cứ địa, xây dựng lực lượng vũ trang, nhất là các đơn vị chủ lực
của quân đội Lào còn chậm, chưa theo kịp nhiệm vụ. Do đó, phong
trào kháng chiến ở Lào vẫn chưa thật đều khắp, khả năng phối hợp
tác chiến với chiến trường chính Việt Nam còn hạn chế.
Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã chỉ ra những
khuyết điểm còn tồn tại trong công tác giúp Lào mà bộ đội tình
nguyện cần phải tích cực sửa chữa là: “... chưa nắm vững và thấu
triệt chính sách dân tộc của Đảng và Chính phủ nên còn phạm
nhiều tư tưởng và thái độ sai lầm đối với cán bộ, chiến sĩ, nhân dân
Lào. Chưa tin ở khả năng nhân dân Lào có thể đứng dậy làm cách
mạng tự giải phóng, chưa dùng thái độ bình đẳng đối xử, chưa thật
tôn trọng nhân dân, chưa thực sự chú ý dìu dắt đào tạo cán bộ nước
bạn. Chưa thấu triệt sự liên hệ chặt chẽ giữa kháng chiến và cách
mạng của ba nước Việt - Miên - Lào”. Do đó mà bộc lộ ra tinh thần
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 247

tạm bợ cầu an, dao động, ngại khó khăn gian khổ, “một số đồng chí
còn mang nặng đầu óc đại dân tộc...”1.
Những hạn chế, thiếu sót trên đây đã được Bộ Tổng Tư lệnh
Quân đội nhân dân Việt Nam kịp thời chỉ đạo các đơn vị quân tình
nguyện rút kinh nghiệm, từng bước khắc phục và phát huy mạnh
mẽ tinh thần đoàn kết, giúp đỡ bạn đưa kháng chiến Lào chuyển
sang giai đoạn mới.
Đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi và
góp phần tăng cường liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương,
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam đã họp từ ngày 25 đến 30 tháng 1 năm 1953. Trong Báo
cáo đọc tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cho đến nay,
chúng ta giúp kháng chiến Miên - Lào chưa đúng mức. Từ nay
chúng ta phải cố gắng giúp hơn nữa. Ta phải nhận rõ rằng: hai dân
tộc anh em Miên, Lào được giải phóng, thì nước ta mới được giải
phóng thật sự và hoàn toàn”2.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam cũng nhận định rằng: sau chiến dịch Tây Bắc,
cách mạng Việt Nam có điều kiện giúp đỡ và phối hợp với cách
mạng Lào hơn do hậu phương kháng chiến của Việt Nam được mở
rộng từ căn cứ địa Việt Bắc đến sát biên giới Việt - Lào. Vùng
Thượng Lào hiện là chỗ yếu và sơ hở của địch, mặc dầu địch đã
chú ý đến địa bàn này hơn trước, đặt Thượng Lào dưới quyền của
Bộ Chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Bộ và có kế hoạch sử dụng lực
lượng cơ động của Pháp ở Bắc Bộ Việt Nam ứng cứu bằng đường
không khi bị tiến công.

1
. Những tài liệu chỉ đạo cuộc đấu tranh vũ trang của Trung ương Đảng và
Tổng Quân uỷ (từ năm 1945 đến 1954), t.IV, tr.262-263.
2
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.18.
248 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Trong các tỉnh Thượng Lào, địch chọn thị xã Sầm Nưa làm khu
vực phòng thủ chủ yếu và tăng cường cho Sầm Nưa hai tiểu đoàn,
đưa quân số ở đây lên ba tiểu đoàn, gồm cả quân Pháp và quân
nguỵ Lào. Đồng thời, địch cũng tăng cường cho khu vực Cánh
đồng Chum ở Xiêng Khoảng thêm một tiểu đoàn.
Âm mưu của địch là nhằm biến Sầm Nưa thành một tập đoàn
cứ điểm mạnh “kiểu Nà Sản” ở Tây Bắc Việt Nam để ngăn chặn
các cuộc tiến công của quân chủ lực Việt Nam trên chiến trường
Thượng Lào và uy hiếp vùng tự do của cách mạng Việt Nam. Do
đó có đập tan được căn cứ Sầm Nưa, giải phóng Thượng Lào mới
có điều kiện giúp Lào xây dựng hậu phương kháng chiến, đồng thời
buộc địch tiếp tục phân tán lực lượng cơ động, ngăn chặn âm mưu
địch định cứu vãn tình hình ở Tây Bắc và bình định vùng đồng
bằng Bắc Bộ (Việt Nam).
Như vậy, trung thành với truyền thống đoàn kết anh em do
Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng
và vun đắp, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ
Việt Nam luôn luôn coi trọng việc củng cố mối quan hệ đoàn kết,
liên minh chiến đấu chống kẻ thù xâm lược giữa quân và dân ba
nước Đông Dương.
Thực hiện chủ trương tăng cường liên minh chiến đấu của
Đảng Lao động Việt Nam và quán triệt sự chỉ đạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, ngày 3 tháng 2 năm 1953, Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Kháng chiến Lào quyết
định phối hợp mở chiến dịch Thượng Lào nhằm: tiêu diệt một bộ
phận sinh lực địch, giải phóng một phần đất đai, xây dựng và mở
rộng khu căn cứ địa, tạo lập hậu phương kháng chiến, thúc đẩy
cuộc kháng chiến của Lào và phá thế bố trí chiến lược của địch ở
Bắc Đông Dương.
Mục đích của chiến dịch hoàn toàn phù hợp với yêu cầu phát
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 249

triển của cách mạng Lào, như đồng chí Cayxỏn Phômvihản lúc đó
mong muốn là sau chiến dịch này, Sầm Nưa sẽ là thủ đô kháng
chiến và Thượng Lào sẽ là căn cứ địa của kháng chiến và cách
mạng Lào1.
Sau khi thống nhất phương hướng, quyết tâm chiến dịch giữa
hai Chính phủ Việt Nam và Lào, từ cuối tháng 2 năm 1953, các lực
lượng tham gia chiến dịch bắt đầu triển khai về mọi mặt.
Bộ Chỉ huy chiến dịch Thượng Lào được thành lập gồm: phía
Việt Nam có đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội
nhân dân Việt Nam làm chỉ huy trưởng; đồng chí Nguyễn Chí
Thanh, chủ nhiệm chính trị; đồng chí Hoàng Văn Thái, tham mưu
trưởng; đồng chí Trần Đăng Ninh, chủ nhiệm cung cấp. Phía Lào
có Hoàng thân Xuphanuvông, Thủ tướng Chính phủ Kháng chiến
Lào; đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lào;
đồng chí Xỉngcapô, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và đồng chí Thạo
Ma Khảy Khămphithun, Bí thư Tỉnh uỷ Sầm Nưa.
Bước vào công tác chuẩn bị cho chiến dịch, từ đầu tháng 3
năm 1953, quân tình nguyện Việt Nam ở Thượng Lào cùng bộ đội
Pathết Lào đã luồn sâu nghiên cứu tình hình địch, địa hình ở khu
vực Sầm Nưa, Xiêng Khoảng. Tại Sầm Nưa, hơn 60 cán bộ, chiến
sĩ Việt - Lào, chủ yếu là Đại đội 234 quân tình nguyện, phối hợp
với quân báo chiến dịch thâm nhập sâu vào thị xã, điều tra nghiên
cứu từng cứ điểm địch để làm cơ sở cho Bộ Chỉ huy chiến dịch xây
dựng phương án tác chiến. ở hướng đường 7, Xiêng Khoảng, đội vũ
trang Pắtchây do đồng chí Thạo Tu chỉ huy dẫn trinh sát Đại đoàn
304 vào nghiên cứu nắm tình hình địch, địa hình ở cứ điểm Noỏng
Hét và thị xã Xiêng Khoảng.

1
. Dẫn theo Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp: Đường tới Điện Biên Phủ, Nxb.
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.412.
250 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Địa bàn tác chiến Thượng Lào ở rất xa các căn cứ hậu phương
của Việt Nam, Tổng Quân uỷ, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân
Việt Nam nhận định đây là một chiến dịch mà “vấn đề cung cấp là
khó khăn nhất”. Do đó, ngay khi có lệnh mở chiến dịch, Hội đồng
cung cấp mặt trận được tổ chức thành hệ thống từ trung ương đến
các liên khu, tỉnh.
Hội đồng cung cấp mặt trận trung ương do Phó Thủ tướng
Phạm Văn Đồng làm chủ tịch, đồng chí Tổng Thanh tra Chính phủ
Nguyễn Văn Trân làm phó chủ tịch. Hội đồng cung cấp mặt trận
liên khu và tỉnh có nhiệm vụ huy động nhân lực, vật lực của địa
phương, kết hợp với hậu cần quân đội, hậu cần chiến dịch phục vụ
chiến đấu.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam cử đồng
chí Trần Đăng Ninh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Uỷ viên Tổng
Quân uỷ, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Quân đội nhân dân Việt
Nam dẫn đầu một phái đoàn sang làm việc với Chính phủ Kháng
chiến Lào về vấn đề cung cấp cho chiến dịch. Các đồng chí
Cayxỏn Phômvihản, Nủhắc Phumxavẳn, Xỉngcapô... đã trao đổi
với đoàn về tình hình và khả năng đảm bảo hậu cần tại chỗ của
nhân dân Lào.
Chấp hành chủ trương của Trung ương Đảng về nghĩa vụ quốc
tế, các cấp bộ đảng, chính quyền và nhân dân ở các địa phương của
Việt Nam đều quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao, dồn sức
chi viện cho chiến dịch Thượng Lào.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp bạn là mình
tự giúp mình”, nhân dân các tỉnh Tây Bắc (Việt Nam) đã huy động
gần 35.000 dân công với 1.732.000 ngày công, 850 thuyền, 2.000
xe đạp thồ, 180 con ngựa thồ, cung cấp 4.975 tấn gạo, 3.640 con
trâu bò, 154 tấn muối, 108 tấn rau khô, 12 tấn đường... phục vụ kịp
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 251

thời cho chiến dịch1.


Các tỉnh Liên khu 4 Việt Nam, nhất là Thanh Hoá, Nghệ An,
Hà Tĩnh vốn là hậu phương trực tiếp của cách mạng Lào nên được
Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam tin cậy giao cho việc
huy động sức người, sức của chi viện cho cách mạng Lào. Trong
chiến dịch Thượng Lào năm 1953, hai tỉnh Nghệ An và Thanh Hoá
được giao nhiệm vụ phục vụ chiến dịch.
Theo kế hoạch phân công, nhân dân tỉnh Thanh Hoá đã cung
cấp, vận chuyển đảm bảo trên 60% yêu cầu hậu cần của chiến dịch
Thượng Lào. Khi địch rút chạy, bộ đội truy kích địch đến đâu, dân
công Thanh Hoá vận chuyển lương thực, thực phẩm và vũ khí, đạn
dược đến đó kịp thời. Trong chiến dịch này, Thanh Hoá đã huy
động 113.973 dân công dài hạn và 148.499 dân công ngắn hạn, 8
ôtô, 1.300 thuyền, 2.000 xe đạp thồ, 8.000 tấn gạo và hàng trăm tấn
mắm, muối, thịt, đậu2.
ở Nghệ An, khi được giao nhiệm vụ phục vụ chiến dịch
Thượng Lào, ngày 21 tháng 2 năm 1953, Đảng bộ và chính quyền
tỉnh đã mở Hội nghị Quân - Dân - Chính - Đảng quán triệt yêu
cầu: “Đảm bảo cung cấp đầy đủ cho liên quân Lào - Việt và các
lực lượng tham gia chiến dịch Thượng Lào. Tỉnh phải huy động lực
lượng dân công vận chuyển từ đồng bằng lên biên giới Việt - Lào
1.380 tấn gạo, 60 tấn vũ khí, 50 tấn muối và nhiều nhu yếu phẩm
khác phục vụ chiến dịch”. Ngay sau Hội nghị, Uỷ ban kháng chiến -
hành chính tỉnh ra quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận
và thành lập các trạm hậu cần ở Cửa Rào, Khe Kiền, Khe Nậm,
Khe Tùng, Tha Đo phục vụ việc vận chuyển, tiếp tế cho chiến dịch

1
, 2. Dẫn theo Ban Tuyên giáo Trung ƣơng - Tỉnh uỷ Thanh Hoá, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào tại các tỉnh biên giới và
một số địa phương”, Hà Nội, 2009, tr.7, 108.
252 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Thượng Lào1.
Tuyến đường vận chuyển từ Nghệ An đi Xiêng Khoảng dài hơn
400 km, nhiều đoạn đường chưa có dấu chân người, tỉnh đã huy
động 72.940 dân công, sửa chữa 170 km đường, làm 100 cầu tạm,
cầu phao trên tuyến đường 7 từ Phủ Diễn đến Đô Lương, lên
Mường Xén sang Lào. Khi các tuyến đường ra mặt trận được khai
thông, tháng 3 năm 1953, tiểu đoàn bộ đội địa phương 195 cùng
các đại đội 121, 123 và 12.000 dân công Nghệ An theo đường 7,
đường sông Lam, vận chuyển 700 tấn gạo, hàng nghìn con trâu bò,
hàng trăm tấn muối, cá khô, nước mắm kem và các hàng hoá khác
phục vụ chiến dịch2.
Với tinh thần giúp bạn hết sức khẩn trương, Việt Nam đã cung
cấp, tiếp tế cho chiến dịch Thượng Lào 6.300 tấn gạo, 200 tấn
muối, 290 tấn thịt, 190 tấn thực phẩm khô và huy động hàng nghìn
dân công, hơn 80 ôtô, 880 thuyền, 2.200 xe đạp thồ và 180 con
ngựa để vận chuyển vật chất phục vụ chiến dịch3. Chính phủ Kháng
chiến Lào cùng Bộ Tư lệnh quân tình nguyện ở Thượng Lào đã chỉ
đạo các địa phương trên địa bàn chiến dịch, trọng điểm là huyện
Xiêng Khọ và khu vực dọc theo đường Xốp Hào - Sầm Nưa đẩy
mạnh công tác vận động quần chúng nhằm phát huy cao nhất mọi
khả năng phục vụ cho chiến dịch.
Do tính chất và ý nghĩa quan trọng của chiến dịch đối với cuộc
kháng chiến của hai dân tộc, Chính phủ và Bộ Tổng Tư lệnh quân
đội hai nước Việt - Lào thống nhất quyết tâm huy động một lực

, 2. Dẫn theo Ban Tuyên giáo Trung ƣơng - Tỉnh uỷ Thanh Hoá, Kỷ yếu Hội
1

thảo khoa học “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào tại các tỉnh biên giới và
một số địa phương”, Tài liệu đã dẫn, tr.130.
3
. Dẫn theo Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các
chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb. Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.414.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 253

lượng lớn tham gia chiến dịch. Phía Việt Nam gồm có Đại đoàn
308, hai trung đoàn của Đại đoàn 312, Trung đoàn 98 của Đại đoàn
316, Đại đoàn 304 và Trung đoàn 148 của Quân khu Tây Bắc (tổng
cộng 10 trung đoàn) cùng các đoàn quân tình nguyện đang hoạt
động ở Thượng Lào. Lực lượng Lào gồm năm đại đội bộ đội tập
trung và hàng nghìn dân quân du kích của các tỉnh trong địa bàn
chiến dịch.
Đây là lần đầu tiên một bộ phận lớn chủ lực Việt Nam sang
chiến đấu trên chiến trường Lào, vừa xa hậu cứ, lại chưa quen địa
hình nên gặp rất nhiều khó khăn gian khổ. Do đó, cơ quan chính trị
các cấp đã khẩn trương lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị
tham gia chiến dịch mở nhiều đợt sinh hoạt chính trị, xây dựng cho
bộ đội quyết tâm chiến đấu, ý thức chấp hành chính sách đoàn kết
Việt - Lào và nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ.
Ngày 3 tháng 4 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư động
viên toàn thể cán bộ, chiến sĩ, dân công tham gia chiến dịch và đặt
giải thưởng cho những đơn vị và cá nhân có thành tích xuất sắc.
Trong thư, Người căn dặn: “Lần này là lần đầu tiên, các chú nhận
một nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang như nhiệm vụ này, tức là giúp
nhân dân nước bạn. Mà giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp
mình”1.
Người yêu cầu bộ đội:
“Vượt mọi khó khăn, thi đua diệt địch, chiến đấu anh dũng ở
bên đó cũng như ở ta;
Nêu cao tinh thần quốc tế, tôn trọng chủ quyền, tôn trọng
phong tục tập quán, kính yêu nhân dân của nước bạn;
Tuyệt đối giữ gìn kỷ luật, giữ gìn danh tiếng của Quân đội nhân
dân Việt Nam;

1
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.64.
254 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Tất cả phải có quyết tâm rất cao, rất bền, tranh nhiều thắng lợi”1.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam cũng gửi
thư cho Tổng Quân uỷ, các Đại đoàn uỷ và Ban Cán sự Thượng
Lào nêu rõ: “Theo chỉ thị của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, bộ
đội chủ lực ta lần đầu tiên có nhiệm vụ mang lực lượng lớn sang
giúp nước bạn. Đó là một nhiệm vụ quan trọng và vinh quang, một
mặt thì giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân nước bạn, củng cố
mối đoàn kết giữa hai dân tộc Việt - Lào để chống kẻ thù chung,
mặt khác còn có ảnh hưởng trực tiếp đến chiến trường Việt Nam ta,
đến việc xây dựng và rèn luyện cho bộ đội ta”. Vì vậy, bên cạnh
yêu cầu “nắm vững phương châm đánh thắng và phương châm tiêu
diệt sinh lực địch”, thì cần phải “nắm vững chính sách đoàn kết Lào
- Việt và chính sách dân tộc, phải giữ vững kỷ luật quần chúng, tôn
trọng chủ quyền nước bạn, tôn trọng phong tục tập quán, tính
mệnh, tài sản của nhân dân nước bạn như của nhân dân ta.
Trong mọi công tác, phải luôn luôn chú trọng tăng cường đoàn
kết Việt - Lào, tăng cường đoàn kết giữa bộ đội ta với bộ đội Lào
và nhân dân Lào”2.
Chấp hành chỉ thị của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhiệm vụ phối hợp với bạn chiến đấu trên
chiến trường Lào, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Quân
đội nhân dân Việt Nam, viết thư kêu gọi cán bộ, chiến sĩ các lực
lượng vũ trang tham gia chiến dịch Thượng Lào: “... Hãy anh dũng
chiến đấu, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch. Hãy tích cực vận động
quần chúng, mở rộng cơ sở, tăng cường đoàn kết giữa bộ đội và
nhân dân hai nước... Kiên trì với nhiệm vụ giúp đỡ cách mạng nước

1
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.64.
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.14, tr.163-164.
2
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 255

bạn đến cùng, giúp đỡ không điều kiện...”1.


Đồng thời, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ban
hành Mười điều quy định đối với cán bộ chiến sĩ sang làm nhiệm vụ
quốc tế tại Lào:
“1. Kiên quyết dũng cảm tiêu diệt địch, hoàn thành mọi nhiệm
vụ chiến đấu.
2. Đoàn kết chặt chẽ với bộ đội Lào, gương mẫu chủ động giúp
bộ đội Lào về mọi mặt.
3. Tôn trọng chủ quyền nước Lào, tôn trọng các cấp chính quyền
Lào, tôn trọng mọi chính sách pháp luật của Chính phủ Lào.
4. Đoàn kết chặt chẽ với nhân dân Lào, triệt để giữ vững kỷ luật
quần chúng (mượn gì của dân phải được dân đồng ý và phải trả, mất
hay hư hỏng phải bồi thường), không được trêu ghẹo phụ nữ.
5. Tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân, tôn trọng tín
ngưỡng tôn giáo, sư sãi, bảo vệ đền chùa, miếu mạo.
6. Tích cực tuyên truyền chính sách kháng chiến của Chính phủ
và Mặt trận ítxalạ Lào, chính sách đoàn kết hai dân tộc Lào - Việt
chống kẻ thù chung và kỷ luật của quân đội ta.
7. Bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, hết sức giúp đỡ nhân
dân.
8. Đối với tù hàng binh người Lào phải chú trọng tuyên truyền
giáo dục và trao trả chính quyền Lào xử lý.
9. Đối với Lào gian và nguỵ quyền Lào, việc bắt bớ, giam giữ,
xét xử đều do Chính phủ Lào phụ trách. Bộ đội không được tự
tiện can thiệp và có nhiệm vụ giúp đỡ đề nghị của chính quyền địa
phương.
10. Đối với việc mua bán, đổi chác, ngoài các bộ phận đã được
uỷ nhiệm phải làm theo đúng quy định, còn tuyệt đối không cá

1
. Vũ Cao: Đồng chí Tình nguyện quân Việt Nam, 1955.
256 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

nhân nào hay đơn vị nào được tự ý mua bán đổi chác”1.
Những quy định cụ thể đó được phổ biến đến từng đội viên, làm
cơ sở cho việc lãnh đạo, chỉ huy, tổ chức hoạt động trong các đơn vị.
Đồng thời, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam phát
hành tập sách nhỏ “Tự học tiếng Lào”, giúp cán bộ, chiến sĩ Việt
Nam có điều kiện tiếp xúc với cán bộ và nhân dân các bộ tộc Lào.
Tại huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An, đồng chí Nguyễn Chí
Thanh thay mặt Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Tổng
Quân uỷ cùng đồng chí Phumi Vôngvichít thay mặt Chính phủ
Kháng chiến và Mặt trận Lào ítxalạ đến động viên cán bộ, chiến sĩ
Đại đoàn 304 trước khi đơn vị hành quân sang nước bạn tham gia
chiến dịch Thượng Lào. Với tình cảm chân thành và niềm tin tưởng
chiến thắng, đồng chí Phumi Vôngvichít nói: “Cùng dựa lưng vào
dãy Trường Sơn, nhân dân hai nước Lào - Việt từng cùng nhau
đoàn kết chống ngoại xâm non một thế kỷ, chịu chung cảnh áp bức
bóc lột của thực dân Pháp. Bây giờ tới lúc nhân dân hai nước
chúng ta vùng lên đánh đuổi kẻ thù chung. Dẫu nước Lào còn
nghèo, dân Lào còn đói, nhưng sẵn sàng bằng mọi cách đem hết
sức mình cùng bộ đội Việt Nam đánh tan giặc Pháp, giải phóng dân
làng thân yêu, núi rừng tươi đẹp của nước Lào”2.
Trong không khí thi đua diệt giặc, Bộ Chỉ huy chiến dịch phát
động phong trào thi đua lập công, giành giải thưởng cao quý của
Bác Hồ.
Theo kế hoạch tác chiến của hai Bộ Tổng Tư lệnh, của Bộ Chỉ
huy chiến dịch, ngày 8 tháng 4 năm 1953, các đơn vị chủ lực Việt
Nam tiến quân sang đất Lào theo ba cánh. Cánh chủ yếu gồm các
1
. Bộ Tổng Tham mƣu, Ban Tổng kết - Biên soạn lịch sử: Lịch sử Bộ Tổng Tham
mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), 1991, tr.669.
2
. Sư đoàn 304, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980, t.1, tr.157.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 257

Đại đoàn 308, 312, Trung đoàn 98 từ biên giới Việt - Lào theo
đường 6 tiến sang Sầm Nưa, phối hợp với lực lượng vũ trang Lào
và quân tình nguyện đã ở sẵn trên các địa bàn, đang bám sát địch.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp và Hoàng thân Xuphanuvông cùng hành
quân với các đơn vị ở hướng chủ yếu của chiến dịch.
Cánh thứ yếu là Đại đoàn 304 từ Nghệ An theo đường 7 tiến
sang Xiêng Khoảng phối hợp với tiểu đoàn quân giải phóng Pathết
Lào do đồng chí Thạo Tu chỉ huy, chặn đường rút chạy của địch từ
Sầm Nưa xuống. Cùng đi với hướng này, có đồng chí Phumi
Vôngvichít, đại diện Chính phủ Kháng chiến Lào.
Cánh phối hợp là Trung đoàn 148 từ Điện Biên Phủ tiến sang
lưu vực sông Nặm U có nhiệm vụ tiêu diệt các vị trí địch ở khu vực
này, đồng thời tạo thế uy hiếp địch ở Luổng Phạbang.
Nhân dân các bộ tộc Lào ở vùng căn cứ dọc theo các đường bộ
đội hành quân tích cực tham gia vận chuyển, tiếp tế, giúp đỡ liên
quân Lào - Việt về mọi mặt với hết khả năng của mình.
Phối hợp với chiến trường Thượng Lào và nghi binh đánh lạc
hướng phán đoán của địch, trên chiến trường chính Việt Nam các
đơn vị thuộc Liên khu Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4 đều tổ
chức những trận đánh, những đợt hoạt động gây rối, tiêu hao để
kìm giữ lực lượng địch, buộc chúng phải phân tán đối phó khắp
nơi.
Phát hiện thấy liên quân cách mạng Việt - Lào, đêm 12 tháng 4
năm 1953, địch hốt hoảng bỏ Sầm Nưa rút chạy.
Bộ Chỉ huy chiến dịch lệnh cho các đơn vị truy kích thật nhanh,
thật mạnh, nhanh chóng đuổi kịp tiêu diệt địch, không để chúng
chạy thoát về Cánh đồng Chum. Quán triệt mệnh lệnh của cấp trên,
các đơn vị không kịp nghỉ ngơi đã tổ chức các phân đội gọn nhẹ,
tranh thủ thời gian đuổi bám địch. Mặc dù vừa qua hàng chục ngày
hành quân liên tục, nhiều ngày đêm phải ăn gạo rang thay cơm,
258 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

nhịn đói nhịn khát, các chiến sĩ vẫn bám đơn vị truy kích địch. Cán
bộ bám chiến sĩ, đảng viên bám quần chúng, liên tục động viên bộ
đội: “Lần theo vết giày địch mà đuổi”. “Đuổi địch đến cùng, tiêu
diệt bằng được binh đoàn rút lui của địch. Địch chạy xa 200
kilômét cũng đuổi, 300 kilômét cũng đuổi. Có lương thực cũng
đuổi, hết lương thực cũng đuổi”1.
Cuộc truy kích đầy gian nan thử thách, hy sinh của bộ đội Việt -
Lào đã diễn ra suốt bảy ngày đêm trên chặng đường 270 km, từ
Sầm Nưa đến đường 7, Bạn Ban, Lạt Bua... Phần lớn quân địch rút
chạy từ Sầm Nưa và quân đồn trú dọc đường từ Mương Pơn, Hủa
Mường... đã bị tiêu diệt, chỉ có khoảng 200 tên chạy thoát về Cánh
đồng Chum.
Trên hướng đường 7, bộ đội Việt - Lào bao vây tiêu diệt địch ở
Noỏng Hét rồi tiến sang Bạn Ban. Do bị uy hiếp mạnh và có nguy
cơ bị tiêu diệt, sáng ngày 19 tháng 4, địch rút chạy khỏi thị xã
Xiêng Khoảng.
Phát huy thắng lợi, Bộ Chỉ huy chiến dịch lệnh cho Trung đoàn
148 kịp thời tiến công tiêu diệt địch ở lưu vực sông Nặm U, giải
phóng một vùng đất đai rộng lớn và giàu có ở Tây Bắc Lào, đồng
thời tiến theo hai đường Mương Xon và Mương Xủi về uy hiếp
Luổng Phạbang, khiến địch phải tức tốc điều quân cơ động, để tăng
cường phòng thủ cố đô Lào.
Trong thời gian chiến dịch, nhân dân các bộ tộc Lào ở vùng
Mương ó, Pạc Xeng đã ra sức chi viện, ủng hộ liên quân Lào -
Việt trong hành quân, tác chiến. Đặc biệt ở Sằm Tớ, nhân dân bị
địch bóc lột rất nghèo khổ nhưng vẫn hăng hái giúp đỡ lương thực
và dẫn đường cho bộ đội truy kích địch. ở những tình huống khẩn
trương, cấp bách, nhân dân Lào cung cấp cho bộ đội gạo, thịt, rau

. Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp: Đường tới Điện Biên Phủ, Sđd, tr.421.
1
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 259

xanh, và nhận “phiếu vận động chiến”, sau đó, đơn vị đến thanh
toán bằng tiền Đông Dương, bằng muối hoặc nông cụ. Kết quả là,
các làng bản Lào đã cung cấp trên 220 tấn gạo, 10 tấn thực
phẩm,... góp phần cùng với hậu phương kháng chiến của Việt
Nam đảm bảo cho bộ đội đủ sức truy kích và đánh thắng địch ở
Thượng Lào.
Chiến dịch đã đạt được mục tiêu mà hai Chính phủ, hai Mặt
trận Việt Nam và Lào đề ra: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh
lực địch, gồm gần 2.800 binh lính và sĩ quan địch, chiếm 1/5 tổng
số địch ở Lào; giải phóng một vùng rộng lớn khoảng 35.000 km2
với hơn 40.000 dân, gồm toàn tỉnh Sầm Nưa, phần lớn tỉnh Xiêng
Khoảng và một phần tỉnh Luổng Phạbang, trong đó có lưu vực
sông Nặm U là một vùng có tầm chiến lược quan trọng, vùng giàu
có nhất ở Tây Bắc Lào.
Với thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào, hậu phương kháng
chiến của cách mạng Lào đã nối thông với vùng tự do của Việt
Nam, tạo thế phối hợp chiến lược giữa cách mạng Việt Nam và
cách mạng Lào. Từ đây, quân đội hai nước có điều kiện mở rộng
hoạt động, tiến sâu vào hậu phương địch và cơ động tiến đánh
chúng trên nhiều hướng, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp của nhân dân ba nước trên bán đảo Đông Dương tiến
lên một bước mới.
Thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào là thắng lợi của tinh thần
quốc tế vô sản cao cả, thắng lợi của sự phối hợp chiến đấu giữa
nhân dân hai nước Việt - Lào, giữa quân đội nhân dân Việt Nam và
quân giải phóng Lào. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam, của Mặt trận và Chính phủ Kháng chiến hai nước
Việt - Lào, lần đầu tiên sự phối hợp chiến đấu về mặt quân sự giữa
quân đội hai nước đã giành được thắng lợi to lớn, làm tiền đề cho
sự phối hợp chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước ngày
260 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

càng chặt chẽ và thắng lợi to lớn hơn. Đây cũng là lần đầu tiên một
chiến dịch thu hút đầy đủ Bộ Chỉ huy cấp cao nhất của cả Việt Nam
và Lào và hầu như tướng lĩnh tài giỏi nhất của hai nước đều ra
trận. Điều đó cho thấy sự tin tưởng và quyết tâm phối hợp chiến
đấu rất cao giữa hai dân tộc, hai quân đội trong cuộc chiến đấu
chống kẻ thù chung và đánh dấu thêm một mốc son mới trong lịch
sử liên minh chiến đấu đặc biệt Việt - Lào.
Đánh giá ý nghĩa của chiến thắng đối với mối quan hệ hai nước
Việt - Lào, trong Hội nghị tổng kết chiến dịch Thượng Lào (từ
ngày 2 đến 3 tháng 5 năm 1953), đồng chí Võ Nguyên Giáp nêu rõ:
“Thắng lợi này là thắng lợi đầu tiên của quân đội nhân dân ta, của
bộ đội chủ lực ta trong quá trình phối hợp chiến đấu với quân đội
và nhân dân nước bạn, thực hiện nhiệm vụ quốc tế của Đảng ta, của
nhân dân ta đối với cách mạng Pathết Lào. Đó cũng là thắng lợi lớn
nhất của nhân dân và quân đội Pathết Lào kể từ ngày bắt đầu kháng
chiến đến nay và cũng có thể nói là thắng lợi quân sự lớn nhất từ
trước đến nay trong lịch sử vận động cách mạng giải phóng dân tộc
của nhân dân Pathết Lào”.
Thay mặt bộ đội chủ lực và quân tình nguyện Việt Nam ở
Thượng Lào, đồng chí nhiệt liệt hoan nghênh Thủ tướng và các vị
Bộ trưởng trong Chính phủ Kháng chiến Lào đã tham dự Hội nghị
và bày tỏ niềm tin tưởng rằng: “Thắng lợi này sẽ làm cho mối đoàn
kết giữa hai dân tộc, giữa hai quân đội ngày càng bền chặt, vì đó là
thắng lợi chung của chúng ta”1.
Ngày 15 tháng 5 năm 1953, Chính phủ Kháng chiến Lào ra
thông cáo về chiến thắng Thượng Lào, trong đó có đoạn viết: “Sầm
Nưa giải phóng có một ý nghĩa rất quan trọng. Sầm Nưa giải phóng

1
. Bộ Tổng Tham mƣu, Ban Tổng kết - Biên soạn lịch sử: Lịch sử Bộ Tổng Tham
mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Sđd, tr.681.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 261

là một thắng lợi lớn trong cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ
của chúng ta. Thắng lợi đó là kết quả của lòng yêu nước nồng nàn
của quân đội và nhân dân Lào, của tình đoàn kết giúp đỡ của bộ đội
tình nguyện và nhân dân Việt Nam. Thắng lợi đó làm cho đồng bào
toàn quốc càng tích cực tham gia kháng chiến, càng nhiệt liệt hoan
nghênh quân đội giải phóng Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam,
càng ra sức thắt chặt mối đoàn kết giữa nhân dân Lào - Việt để tiêu
diệt kẻ thù chung, giành tự do, độc lập cho hai nước anh em và
càng thêm tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng”1.
Tại lễ mừng chiến thắng tổ chức trọng thể ở Sầm Nưa ngày 19
tháng 5 năm 1953, Hoàng thân Xuphanuvông khẳng định: “Sầm
Nưa giải phóng là kết quả của tinh thần đoàn kết anh em giữa hai
nước Việt - Lào, của sự giúp đỡ không điều kiện của nhân dân, của
quân đội Việt Nam tiêu diệt kẻ thù chung”2. Đồng chí Phumi
Vôngvichít cũng nói trong lễ mừng chiến thắng ở Xiêng Khoảng:
“Thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào là thắng lợi của tinh thần
quốc tế vô sản cao cả, thắng lợi của tinh thần đoàn kết giữa hai dân
tộc và hai quân đội Việt - Lào”3.

2. Phối hợp xây dựng lực lượng cách mạng Lào về mọi mặt
a) Củng cố vùng giải phóng, tăng cường xây dựng lực lượng
vũ trang cách mạng
Sau khi chiến dịch Thượng Lào kết thúc, Việt Nam khẩn

1
. Trích Thông cáo của Chính phủ Kháng chiến Lào. Tài liệu lƣu trữ tại Viện
Bảo tàng quốc gia Lào.
2
. Bộ Tổng Tham mƣu, Ban Tổng kết - Biên soạn lịch sử: Lịch sử Bộ Tổng
Tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Sđd, tr.678.
3
. Bộ Tổng Tham mƣu, Ban Tổng kết - Biên soạn lịch sử: Lịch sử Bộ Tổng
Tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Sđd, tr.678.
262 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

trương giúp cách mạng Lào củng cố vùng giải phóng và các căn cứ
kháng chiến. Theo yêu cầu của Chính phủ Kháng chiến Lào, Bộ
Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam để lại Trung đoàn 98
cùng các đơn vị quân tình nguyện ở Sầm Nưa và lưu vực sông Nặm
U phối hợp với lực lượng vũ trang Pathết Lào truy quét tàn binh
địch, tuyên truyền giác ngộ nhân dân, góp phần xây dựng chính
quyền và lực lượng vũ trang địa phương. Hướng Xiêng Khoảng,
Đại đoàn 304 cũng để lại hai tiểu đoàn để giúp Lào đẩy mạnh các
hoạt động, giành thêm thắng lợi.
Đồng thời, các đơn vị quân tình nguyện và các đội công tác của
Việt Nam ở Thượng Lào phối hợp với bạn tổ chức Tuần lễ đoàn kết
Việt - Lào, trong đó tập trung tuyên truyền giải thích ý nghĩa chiến
thắng Thượng Lào, đề cao uy tín của Chính phủ Kháng chiến Lào
và Mặt trận Lào ítxalạ, củng cố và tăng cường tình đoàn kết hữu
nghị Việt - Lào, Lào - Việt.
ở những vùng mới giải phóng, bộ đội Việt Nam sát cánh cùng
bộ đội Lào đi khắp các bản làng, từ vùng đồng bằng lên vùng núi
cao, tuyên truyền giải thích về chính sách đoàn kết dân tộc của
Chính phủ Kháng chiến Lào, giúp dân sản xuất, xây dựng cuộc
sống mới, thành lập chính quyền cách mạng, tổ chức các đội du
kích, giúp họ về súng đạn, huấn luyện quân sự để bảo vệ bản làng.
Đi đôi với công tác chiến đấu, tuyên truyền, giúp đỡ nhân dân
sản xuất, bộ đội Việt Nam còn giúp Lào xây dựng lực lượng vũ
trang, bồi dưỡng kỹ năng tác chiến, tổ chức chiến đấu bảo vệ nhân
dân, xây dựng, củng cố vùng giải phóng và căn cứ địa. Được rèn
luyện, thử thách trong thực tiễn chiến đấu vừa qua cùng những vũ
khí trang bị thu được của địch, lực lượng quân đội giải phóng Lào
có những bước phát triển mạnh mẽ và đã tiến hành nhiều trận đánh
địch từ các cứ điểm nống ra càn quét khu vực mới được giải phóng,
làm cho chúng phải co lại cố thủ trong các đồn bốt, không dám
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 263

ngang nhiên như trước.


Cùng thời gian này, theo đề nghị của bạn, Tiểu đoàn 195 tỉnh
Nghệ An ở lại giúp bạn xây dựng, củng cố vùng giải phóng Xiêng
Khoảng. Mặc dù địa bàn hoạt động rất rộng lớn nhưng cán bộ,
chiến sĩ đơn vị đã vượt qua nhiều gian khổ hy sinh, tự phấn đấu rèn
luyện, dựa vào dân để xây dựng cơ sở chính trị giúp bạn. Chỉ trong
một thời gian ngắn, Tiểu đoàn 195 giúp được 54 làng bản thành lập
ủy ban kháng chiến, 64 làng bản xây dựng cơ sở chính trị và tổ
chức tiểu đội du kích.
Đáp ứng nhu cầu xây dựng, củng cố vùng giải phóng rộng lớn
của bạn, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam giao cho các
tỉnh Liên khu 4 thực hiện nhiệm vụ giúp đỡ, chi viện cho vùng giải
phóng Bắc Lào. Cùng với việc dốc hết sức phục vụ bộ đội đánh
thắng địch ở chiến trường, từ sau chiến thắng Thượng Lào đến cuối
năm 1953, nhân dân các tỉnh Liên khu 4, trong đó Thanh Hoá là lực
lượng chính chịu trách nhiệm cung cấp lương thực, thực phẩm,
hàng hoá thiết yếu, công cụ sản xuất cho khu căn cứ kháng chiến
Lào. Chỉ tính từ tháng 5 đến tháng 12 năm 1953, nhân dân Thanh
Hoá đã cung cấp, vận chuyển cho bạn 15.130 xếp giấy, 14.741 bút
chì, 15.000 ngòi bút, 1.000 lọ mực, 3.000 mét vải, 500 chăn bông,
1.000 bộ quần áo bộ đội, 1.601 cái rìu, 4.522 con dao, 1.480 dao
găm, 880 cái thuổng, 57 tấn muối, 15 tấn thóc nếp giống, 27 tấn
gạo tẻ, 30 tấn thóc tẻ, 150 tấn gạo nếp. Các đợt về sau, Thanh Hoá
còn cung cấp 15.000 dân công, 709 xe đạp thồ và 47 con ngựa thồ
để vận chuyển lương thực, công cụ sản xuất, hàng hoá cung cấp
cho bạn1.
Sự chi viện và phối hợp chặt chẽ của quân và dân Việt Nam với
1
. Dẫn theo Ban Tuyên giáo Trung ƣơng - Tỉnh uỷ Thanh Hoá, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào tại các tỉnh biên giới và
một số địa phương”, Tài liệu đã dẫn, tr.108.
264 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

nhân dân Lào là nhân tố quan trọng, góp phần đưa thế và lực của
cách mạng Lào lên một bước phát triển mới.
Căn cứ vào tình hình thực tế của cách mạng Lào, tháng 5 năm
1953, Tổng Quân uỷ Việt Nam chủ động đề xuất một số nội dung
phối hợp và giúp đỡ cách mạng Lào, trọng tâm là: “Tăng cường
lực lượng vũ trang ở Lào để bảo vệ hậu phương và làm công tác
trong vùng mới giải phóng; đồng thời để tránh phân tán chủ lực,
cần xúc tiến chấn chỉnh bộ đội tình nguyện và xây dựng bộ đội
giải phóng Lào”1.
Trên cơ sở đó, tháng 7 năm 1953, Bộ Chính trị Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam quyết định củng cố, tăng cường bộ đội
tình nguyện Việt Nam ở Lào cho có đủ khả năng hoàn thành ba
nhiệm vụ là:
“1. Phối hợp với các lực lượng vũ trang và bán vũ trang Lào
phát triển du kích chiến tranh tiêu diệt sinh lực địch.
2. Giúp đỡ xây dựng và dìu dắt các lực lượng vũ trang Lào
tác chiến.
3. Tham gia việc tuyên truyền tổ chức quần chúng, tổ chức
chính quyền, xây dựng căn cứ địa.
Ba nhiệm vụ đó là những tiêu chuẩn chính để kiểm tra và nhận
xét công tác của bộ đội tình nguyện ở Lào”2.
Theo phương hướng đó, các lực lượng quân tình nguyện Việt
Nam ở Thượng Lào được sắp xếp thành ba bộ phận: dân chính,
quân sự và biệt phái; mỗi bộ phận có nhiệm vụ chuyên trách khác
nhau. Cả ba bộ phận này đều hoạt động giúp cách mạng Lào dưới
sự lãnh đạo thống nhất của Ban Cán sự Thượng Lào, do đồng chí

. Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân uỷ
1

và Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Tổng Tham mƣu xuất bản, 1963, t.5, tr.181-183.
2
, 2. Những tài liệu chỉ đạo cuộc đấu tranh của Trung ương Đảng, Tổng
Quân uỷ và Bộ Tổng Tư lệnh, Sđd, t.4, tr.187, 273.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 265

Nguyễn Khang, Uỷ viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
phụ trách.
Sát cánh với bạn, quân tình nguyện Việt Nam đã cùng bạn
chiến đấu, làm thất bại âm mưu bình định của địch, đồng thời giúp
đỡ bạn xây dựng các đơn vị bộ đội tập trung của tỉnh và vùng chiến
lược. Để tăng cường khả năng tác chiến và phối hợp chiến đấu với
chiến trường chính Việt Nam của quân đội cách mạng Lào, ngày 12
tháng 7 năm 1953, đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi thư cho đồng chí
Nguyễn Khang và các đồng chí trong Ban Cán sự Thượng Lào về
nhiệm vụ giúp Chính phủ Kháng chiến Lào xây dựng lực lượng vũ
trang. Đồng chí chỉ rõ: “Vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang Lào là
một vấn đề rất quan trọng, là một nhiệm vụ trung tâm trong công
cuộc xây dựng căn cứ địa và nói chung trong công cuộc vận động
giải phóng Lào. Vì vậy, các cán bộ ta cần phải thấm nhuần điểm đó
và làm cho anh em Lào thấm nhuần điểm đó, để có thể làm thật tích
cực... Chúng ta cũng cần quan niệm đó là một nhiệm vụ lâu dài,
gian khổ và muốn hoàn thành thì một mặt dựa vào sự nỗ lực của
Chính phủ và nhân dân Lào, nhưng một mặt khác cũng cần có sự
giúp đỡ tích cực của bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Lào”2 và
“Trong công cuộc xây dựng lực lượng vũ trang Lào thì vấn đề
trung tâm là vấn đề đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Có giải quyết
được vấn đề cán bộ thì mới xây dựng được quân đội Lào. Vì vậy,
sự giúp đỡ của chúng ta cũng cần lấy vấn đề đào tạo và bồi dưỡng
cán bộ làm vấn đề trung tâm”1.
Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và Tổng Quân uỷ, Bộ Tư
lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở Thượng Lào chủ trương, trong

1
. Những tài liệu chỉ đạo cuộc đấu tranh của Trung ương Đảng, Tổng Quân
uỷ và Bộ Tổng Tư lệnh, Sđd, t.4, tr.274.
266 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

năm 1953 xây dựng một số tiểu đoàn tập trung và các đại đội độc
lập, do Bộ Tư lệnh trực tiếp chỉ huy. Trước hết, Bộ Tư lệnh quân
tình nguyện chỉ đạo gấp rút xây dựng Tiểu đoàn 532 và Đại đội trợ
chiến 926 để kịp thời đáp ứng yêu cầu giúp bạn đẩy mạnh kháng
chiến ở Mặt trận Thượng Lào. Đồng thời, chuẩn bị đến cuối năm
1953 đầu năm 1954, xây dựng thêm một số tiểu đoàn mới.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam về nhiệm vụ giúp bạn xây dựng lực lượng quân sự, Bộ Tư lệnh
quân tình nguyện Việt Nam ở Mặt trận Thượng Lào đề ra phương
châm xây dựng bộ đội tình nguyện gắn liền với việc giúp đỡ xây
dựng lực lượng vũ trang Lào. Đó là: “Các đại đội độc lập cũng như
tiểu đoàn tập trung phải phụ trách một đơn vị Lào cùng đi theo để
giúp đỡ, xây dựng và dìu dắt tác chiến. Mỗi tiểu đoàn phụ trách một
đại đội giải phóng Lào. Mỗi đại đội độc lập phụ trách đại đội địa
phương của tỉnh, còn các đại đội độc lập khác trong thời gian hoạt
động ở hướng nào phải phụ trách bộ đội địa phương của hướng ấy...
Nơi nào có đại đội độc lập thì đại đội độc lập phải trực tiếp xây dựng
dìu dắt dân quân du kích, nơi nào không có đại đội độc lập thì các
đơn vị tình nguyện ở bên cạnh tổ chức những tổ đi luân lưu phối hợp
với chính quyền, mặt trận địa phương và cán bộ dân vận để tổ chức
và huấn luyện dân quân du kích ở những địa phương trên. Các tiểu
đoàn tập trung đi đến đâu phải phối hợp với đại đội độc lập, bộ đội
Lào và chính quyền, mặt trận địa phương đặt kế hoạch giúp đỡ xây
dựng, dìu dắt dân quân du kích”1.
Với tinh thần đó, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam được
bổ sung quân số, thường xuyên tổ chức huấn luyện quân sự, chính
trị giúp Lào và cùng với lực lượng vũ trang cách mạng Lào đẩy

. Những tài liệu chỉ đạo cuộc đấu tranh của Trung ương Đảng, Tổng Quân
1

uỷ và Bộ Tổng Tư lệnh, Sđd, t.4, tr.289.


Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 267

mạnh các hoạt động chống biệt kích, chống địch lấn chiếm, bảo vệ
vùng giải phóng và các khu căn cứ. Mỗi đợt tác chiến, mỗi trận
đánh của quân tình nguyện chỉ được coi là thắng lợi khi quân địch
bị tiêu diệt, khi có cán bộ, chiến sĩ Lào cùng tham gia và khi cơ sở
cách mạng của Lào được bảo toàn, mở rộng.
Trong sáu tháng cuối năm 1953, các đơn vị quân tình nguyện
Việt Nam ở Thượng Lào phối hợp cùng quân giải phóng Lào đã
đánh 96 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 505 tên địch, trong đó có 65
tên Pháp, làm bị thương 208 tên, bắt 79 tên, gọi hàng 34 tên, thu
nhiều súng đạn và đồ quân dụng, bắn rơi một máy bay địch1. Liên
quân cách mạng Việt - Lào cũng đánh bại nhiều cuộc tiến công lấn
chiếm của địch, giữ vững được nhiều vùng giải phóng và giam
chân nhiều lực lượng địch, không để chúng rảnh tay rút quân đi
đánh phá những nơi khác. Bộ đội cách mạng hai tỉnh Nghệ An -
Xiêng Khoảng tranh thủ thời cơ thuận lợi đã phối hợp mở đợt truy
quét bọn phỉ ẩn náu dọc biên giới Việt - Lào, góp phần làm sạch địa
bàn vùng giải phóng.
Trong cùng thời gian này, ở các vùng Trung Lào, Tây Lào, kể
cả các vùng đô thị, bộ đội tình nguyện Việt Nam cùng quân và dân
Lào đẩy mạnh các mặt hoạt động, giành thêm nhiều thắng lợi.
Phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân vùng địch kiểm soát,
nhất là ở các thành phố lớn như Viêng Chăn, Xavẳnnakhệt, Pạc
Xê..., gây cho địch thêm nhiều khó khăn, lúng túng trong âm mưu
càn quét bình định vùng địch hậu và tiến công lấn chiếm các vùng
mới giải phóng ở Thượng Lào.
Sự lớn mạnh của các lực lượng kháng chiến Lào đã buộc địch
phải căng mỏng và phân tán lực lượng đối phó cả trước mặt và sau

1
. Xem Báo cáo tổng kết sáu tháng cuối năm 1953 của Mặt trận Thượng Lào.
Tài liệu lƣu trữ của Bộ Tổng Tham mƣu.
268 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

lưng, tạo thuận lợi để Việt Nam và Lào phát huy thế chủ động, phối
hợp chặt chẽ trên các chiến trường, đẩy mạnh tiến công giành thắng
lợi lớn hơn nữa trong các chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954.
b) Thành lập “Ban Vận động thành lập Đảng Nhân dân Lào”
Từ sau chiến thắng Thượng Lào, trước yêu cầu phát triển của
cuộc kháng chiến, những người cộng sản Lào chủ trương xúc tiến
thành lập đảng mácxít để lãnh đạo cách mạng Lào thực hiện những
nhiệm vụ cấp bách đang đặt ra. Song quá trình này gặp khó khăn do
tình hình phát triển đảng về số lượng cũng như chất lượng đảng
viên ở Lào bị hạn chế, một số địa phương như Hạ Lào, Viêng Chăn
phát triển đảng viên khá rộng, trong đó có một số chưa đảm bảo
tiêu chuẩn.
Theo đề nghị của bạn, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam quyết định cử đồng chí Nguyễn Khang,
Uỷ viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Cán sự Đảng Lao động
Việt Nam tại Lào, trực tiếp giúp đỡ những người cộng sản Lào
chuẩn bị mọi mặt để tiến tới thành lập đảng cách mạng ở Lào. Xuất
phát từ thực tiễn công tác phát triển đảng ở Lào, đồng chí Nguyễn
Khang cùng Ban Cán sự Đảng Lao động Việt Nam thống nhất ý
kiến với các đồng chí cán bộ chủ chốt của Lào về việc lựa chọn một
số đảng viên Lào ưu tú, được rèn luyện, thử thách trong đấu tranh,
có trình độ, có phẩm chất, có uy tín, ảnh hưởng tốt trong cán bộ,
đảng viên và quần chúng để lập ra Ban Vận động thành lập Đảng
Nhân dân Lào.
Thực hiện chủ trương trên, Ban Vận động thành lập Đảng Nhân
dân Lào được thành lập, do đồng chí Cayxỏn Phômvihản làm
trưởng ban. Nhiệm vụ của Ban là, một mặt chỉ đạo công tác thẩm
tra, chọn lọc kỹ đảng viên trong tổng số 433 đảng viên Lào đã có,
một mặt nghiên cứu dự thảo Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng và
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 269

chuẩn bị triệu tập Đại hội đại biểu để thành lập Đảng.
Trong quá trình chuẩn bị về các mặt chính trị và tổ chức, Ban
Cán sự Đảng Lao động Việt Nam đã phối hợp và giúp đỡ Ban Vận
động thành lập Đảng Nhân dân Lào tiến hành thẩm tra lại số đảng
viên nhân dân, soát xét lại số trung kiên trong các “nhóm trung
kiên”, thải loại số kém, không đảm bảo tiêu chuẩn, đồng thời bồi
dưỡng thêm cho số đảng viên, trung kiên tốt. Đến cuối tháng 7 năm
1954, số đảng viên toàn Lào còn lại gồm 300 đồng chí và 600 đồng
chí trung kiên được tiếp tục bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng.
Trên cơ sở đó, các tổ chức đảng ở địa phương và cơ quan ở
Trung ương đã giới thiệu được 42 đại biểu trong số đảng viên Đảng
Cộng sản Đông Dương cũ về Ban Vận động thành lập Đảng Nhân
dân Lào để tiến hành chỉnh huấn, giáo dục công tác xây dựng đảng
Mác - Lênin của giai cấp công nhân Lào. Sau đợt học tập này, Ban
Vận động thành lập Đảng Nhân dân Lào đã lựa chọn được 20 đồng
chí đủ tiêu chuẩn làm đại biểu chính thức tham dự Đại hội thành
lập Đảng.
Như vậy, với việc thành lập Ban Vận động thành lập Đảng
Nhân dân Lào, công tác xây dựng đảng cách mạng, đội tiên phong
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các bộ tộc Lào đã tiến
thêm một bước mới, đạt được kết quả căn bản cả về chính trị và tổ
chức, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập Đảng và cho việc
củng cố, phát triển đảng về sau này. Trên thực tế, Ban Vận động
thành lập Đảng Nhân dân Lào đã cùng với Mặt trận Lào ítxalạ lãnh
đạo quân và dân Lào đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn
diện, góp phần cùng với nhân dân hai nước Việt Nam, Campuchia
đánh thắng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ.

3. Phối hợp trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, đỉnh
270 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ


Bước vào Đông Xuân 1953 - 1954, cuộc kháng chiến của nhân
dân ba nước Đông Dương chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn
đẩy mạnh tiến công quân địch giành thắng lợi lớn hơn nữa trên các
chiến trường. Còn thực dân Pháp sau những thất bại liên tiếp ở Hoà
Bình, Tây Bắc (Việt Nam), ở Thượng Lào và những khó khăn về kinh
tế, xã hội ở trong nước, càng lâm vào tình thế nguy ngập, bế tắc.
Trước tình hình đó, Chính phủ Pháp chủ trương xin thêm viện
trợ của Mỹ, tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh, nhằm tìm
ra một “lối thoát danh dự”, đồng thời vẫn duy trì được những quyền
lợi ở Việt Nam và giữ được Lào, Campuchia trong tay Pháp.
Ngày 7 tháng 5 năm 1953, được sự thoả thuận của Mỹ, Chính phủ
Pháp cử Tướng Nava làm tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông
Dương. Dựa theo ý đồ chính trị của giới cầm quyền Pháp và thái độ
của Mỹ đối với cuộc chiến tranh Đông Dương, ngày 2 tháng 7 năm
1954, Nava đã vạch ra một kế hoạch chiến lược nhằm kết thúc chiến
tranh trong vòng 18 tháng để cứu vãn danh dự cho nước Pháp.
Điểm trung tâm của kế hoạch Nava là tổ chức khối chủ lực cơ
động và dự tính tới năm 1954 sẽ có gấp ba lần số binh đoàn hiện
có. Do đó, Nava chủ trương thừa nhận quyền “độc lập” cho các
chính phủ tay sai ở Đông Dương để dùng bọn này đôn quân bắt lính
và cho rút lực lượng chiếm đóng về để tập trung quân.
Thực hiện kế hoạch Nava, Pháp đưa ngay 12 tiểu đoàn lấy từ
Pháp, Bắc Phi, Triều Tiên tăng viện cho đội quân viễn chinh, đưa
lực lượng cơ động chiến lược trên toàn Đông Dương trong Thu
Đông 1953 lên 84 tiểu đoàn. Đồng thời, từ giữa năm 1953 trở đi,
Pháp tăng lực lượng quân nguỵ ở Việt Nam cũng như ở Lào lên
mức cao hơn trước nhiều lần: ở Việt Nam, đến tháng 3 năm 1954,
Pháp tăng quân nguỵ thêm 9,5 vạn và ở Lào, số lính nguỵ phát triển
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 271

lên đến hơn 10.000 quân.


Được tăng cường thêm lực lượng, trong suốt Hè Thu 1953,
thực dân Pháp mở hàng chục trận càn quét tại các vùng sau lưng
địch ở Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên, Nam Bộ của Việt Nam và ở Bắc
Lào. Đồng thời, chúng tăng cường lực lượng biệt kích, tập kích,
đánh phá các vùng tự do, vùng căn cứ kháng chiến của ba nước
Việt Nam - Lào - Campuchia.
Với những hoạt động quân sự ráo riết kể trên, kế hoạch Nava
thể hiện sự nỗ lực cao nhất của thực dân Pháp trong cuộc chiến
tranh xâm lược Đông Dương và cho thấy sự câu kết giữa các thế
lực đế quốc với bọn tay sai phản động trên bán đảo Đông Dương để
chống lại cách mạng của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào,
Campuchia. Liên minh đoàn kết chiến đấu nhân dân ba nước Đông
Dương đứng trước những thử thách gay go mới.
Trước tình hình trên, tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam đề ra phương châm: “Tích cực, chủ
động, cơ động, linh hoạt” và xác định nhiệm vụ quân sự trong
Đông Xuân 1953 - 1954 là: “Sử dụng một bộ phận chủ lực mở
những cuộc tiến công vào những hướng địch sơ hở, đồng thời tranh
thủ cơ hội tiêu diệt địch trong vận động ở những hướng địch có thể
đánh sâu vào vùng tự do của ta; trong lúc đó, đẩy mạnh chiến tranh
du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch và tích cực tiến hành
mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân
quân du kích các vùng tự do để cho chủ lực rảnh tay làm nhiệm
vụ”1.
Theo phương hướng chiến lược ấy, Bộ Chính trị Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam đã thông qua kế hoạch tác chiến Đông

1
. Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà
Nội, 1979, tr.67.
272 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Xuân 1953 - 1954, nhằm giữ vững quyền chủ động đánh địch trên
cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, phối hợp chiến đấu trên
phạm vi cả nước và trên toàn Đông Dương. Cụ thể là: tiến công
tiêu diệt quân địch ở Lai Châu, giải phóng Tây Bắc, phối hợp với
quân dân Lào giải phóng Phôngxalỳ, đánh địch ở Trung, Hạ Lào và
Đông Bắc Campuchia; mở rộng vùng giải phóng sau lưng Sài Gòn;
đánh thông đường chiến lược Bắc - Nam Đông Dương, giành địa
bàn chiến lược Tây Nguyên, phá âm mưu bình định miền Nam của
địch.
Thực hiện chủ trương tác chiến chiến lược nói trên của Bộ
Chính trị, Tổng Quân uỷ - Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân
Việt Nam vừa theo dõi chặt chẽ âm mưu và hoạt động của địch,
chủ động đề xuất với Trung ương Đảng phương hướng giải quyết,
vừa chỉ đạo các lực lượng vũ trang toàn quốc đẩy mạnh hoạt động
trên các chiến trường theo kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953 - 1954
đã được Bộ Chính trị phê chuẩn.
Trong Báo cáo về chủ trương tác chiến ở Điện Biên Phủ, toàn
quốc và Đông Dương gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường
Chinh và Bộ Chính trị, đồng chí Võ Nguyên Giáp nêu nhận định:
“Sự phối hợp toàn quốc và giữa các chiến trường Việt - Miên - Lào
đã bắt đầu thực hiện trong hơn một tháng nay, nay phải đẩy mạnh lên
nữa. Đặc điểm của hoạt động Đông Xuân là bao gồm chiến trường
toàn quốc và Việt - Miên - Lào, chứ không phải hạn chế trong một
chiến trường nào”1.
Trên tinh thần ấy, Đề án quân sự trình Bộ Chính trị Đảng Lao
động Việt Nam ngày 20 tháng 12 năm 1953 của Tổng Quân uỷ đã đề

, 2, 3. Văn kiện quân sự của Đảng, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1977, t.3,
1

tr.535, 486, 497-499.


Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 273

ra chủ trương chiến lược: “Tăng cường chiến tranh du kích ở địch
hậu, tăng cường hoạt động ở các chiến trường miền Nam và Lào,
Miên, buộc địch phải phân tán lực lượng và do đó lâm vào bị động”2.
Tổng Quân uỷ cũng chỉ ra một cách cụ thể quan hệ giữa các chiến
trường: “Chiến trường miền Nam Việt Nam bao gồm Liên khu 5 và
Nam Bộ, đứng về địa lý và quân sự mà nói thì có quan hệ rất mật
thiết với chiến trường Cao Miên và miền Hạ Lào... Nếu hoạt động
Đông Xuân của ta thắng lợi thì vùng giải phóng ở Thượng, Trung và
Hạ Lào có thể chiếm đến 1/2 nước Lào. Vấn đề giúp đỡ nước bạn
xây dựng vùng giải phóng, xây dựng quân đội, mở mang kinh tế,
củng cố chính quyền, v.v. trở thành một vấn đề lớn...”3.
Phối hợp với quân dân Việt Nam và Campuchia anh em đánh
bại kế hoạch Nava, Trung ương Mặt trận Lào ítxalạ và Chính phủ
Kháng chiến Lào chủ trương tăng cường lực lượng, củng cố vùng
giải phóng về mọi mặt. Tháng 11 năm 1953, Chính phủ Kháng
chiến Lào ban hành nghị định về việc động viên nhân dân đóng góp
lương thực cho cuộc kháng chiến. Nghị định quy định cụ thể đối
với từng đối tượng đóng góp cũng như miễn, giảm cho các gia đình
thương binh, liệt sĩ; có con tham gia bộ đội hoặc diện nghèo, neo
đơn, gặp thiên tai..., nhằm khuyến khích sản xuất và bảo đảm hậu
cần tại chỗ. Về mặt quân sự, Bộ Chỉ huy tối cao của quân đội cách
mạng Lào chỉ đạo các địa phương, đơn vị tăng cường xây dựng bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương theo yêu cầu mỗi tỉnh phải có một
đại đội chủ lực, mỗi huyện có một đến hai trung đội, đồng thời kiện
toàn cơ quan lãnh đạo, chỉ huy các cấp, có kế hoạch phối hợp chiến
đấu với bộ đội chủ lực Việt Nam bảo vệ và mở rộng các vùng giải
phóng ở Lào.
Thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954,
tháng 12 năm 1953, một bộ phận quân chủ lực Việt Nam gồm
Trung đoàn 66 của Đại đoàn 304, Trung đoàn 101 và Trung đoàn
274 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

18 của Đại đoàn 325 phối hợp với bộ đội Lào ítxalạ và bộ đội tình
nguyện Việt Nam tại Lào mở chiến dịch Trung, Hạ Lào nhằm: tiêu
diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai trên một hướng chiến lược
quan trọng trong Đông Xuân 1953 - 1954, tạo thuận lợi cho các
chiến trường khác ở Đông Dương.
Thay mặt Tổng Quân uỷ và Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân
Việt Nam, đồng chí Hoàng Văn Thái, Phó Tổng Tham mưu trưởng,
phổ biến kế hoạch, phương châm tác chiến chiến dịch Trung, Hạ Lào
cho các đơn vị trước khi lên đường sang Lào chiến đấu. Đồng chí nêu
rõ: “Trung và Hạ Lào là nơi địch tương đối sơ hở... Mục đích của
chiến dịch nhằm tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng và củng cố vùng giải
phóng của Bạn. Cả hai nhiệm vụ đều phải coi trọng”1.
Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ Chỉ huy
tối cao Quân đội Lào ítxalạ quyết định thành lập Bộ Chỉ huy chiến
dịch Trung Lào, lấy mật danh là “Mặt trận D”. Các đồng chí được
cử tham gia Bộ Chỉ huy chiến dịch gồm: phía Việt Nam có các
đồng chí Hoàng Sâm - Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304, Trần Quý
Hai - Chính uỷ kiêm Đại đoàn trưởng Đại đoàn 325, Võ Thúc Đồng
- Bí thư Ban Cán sự Trung Lào; phía Lào là đồng chí Khăm Tày
Xiphănđon - Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến khu Trung Lào.
Căn cứ vào chủ trương chung và tình hình địch ở Trung, Hạ
Lào, Bộ Chỉ huy liên quân đề ra phương châm chỉ đạo tác chiến là:
bí mật, bất ngờ, đánh chắc thắng; chỉ đánh các vị trí trọng yếu,
tranh thủ tiêu diệt địch trong vận động. Từ đánh quỵ một bộ phận
sinh lực tinh nhuệ của địch trong vận động, tiến lên giải phóng một
phần đất đai; hết sức giữ gìn lực lượng để tiến công liên tục; đánh
dài hơi, kết hợp giữa tác chiến với địch vận, tác chiến với vận động

1
. Bộ Tổng Tham mƣu, Ban Tổng kết - Biên soạn lịch sử: Lịch sử Bộ Tổng
Tham mưu trong kháng chiến chống Pháp, Sđd, tr.726.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 275

quần chúng, cùng các lực lượng tại chỗ xây dựng các vùng mới giải
phóng thành căn cứ kháng chiến của cách mạng Lào.
Bước vào công tác chuẩn bị cho chiến dịch, đồng chí Võ Thúc
Đồng, Bí thư Ban Cán sự Trung Lào và đồng chí Trường Sinh,
Đoàn trưởng Đoàn 280 bộ đội tình nguyện ở Trung Lào đã cùng
đồng chí Khăm Tày Xiphănđon, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến khu
Trung Lào họp bàn chuẩn bị lực lượng, thống nhất kế hoạch hoạt
động trên chiến trường, tổ chức cấp tốc các lớp đào tạo cán bộ tỉnh,
huyện và xã ở Trung Lào để chuẩn bị thành lập chính quyền, tiếp
quản vùng giải phóng. Ban Cán sự còn tổ chức cho cán bộ Việt
Nam cùng cán bộ Lào đi vào từng bản ở vùng Mahả Xây, Bualapha,
Tà Ôi, Mương Noòng và khu vực Khăm Cợt để tuyên truyền, vận
động nhân dân Lào ủng hộ, đóng góp lương thực, thực phẩm cho
bộ đội, xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng vũ trang, sẵn sàng phối
hợp cùng bộ đội chiến đấu.
Trong điều kiện chiến trường rất rộng và yêu cầu về hậu cần
của chiến dịch rất lớn, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam giao
cho hai tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An đảm bảo cung cấp cho chiến dịch
Trung Lào, Hạ Lào. Dưới sự chỉ đạo của Liên khu uỷ 4, các cấp bộ
đảng, chính quyền và nhân dân các địa phương trên quyết tâm vượt
mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ được giao, dốc toàn lực
phục vụ chiến dịch thắng lợi.
ở Nghệ An, tỉnh đã huy động mọi khả năng có thể tham gia
phục vụ chiến dịch Trung Lào. Lực lượng dân công Nghệ An tham
gia chiến dịch lên tới 20.000 người, 1.500 xe đạp thồ, 1.006 chiếc
thuyền... Theo kế hoạch, ngày 10 tháng 11 năm 1953, tất cả dân
công Nghệ An phối hợp với 32.000 dân công và 1.800 xe đạp thồ
của tỉnh Hà Tĩnh, chuyển 4.600 tấn gạo lên Thanh Luyện - Chu Lễ -
Tân ấp - Xóm Cục, qua đường 15 lên đường 12, từ đó theo các đơn
276 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

vị bộ đội triển khai đi vào Trung Lào.


Trong quá trình phát triển của chiến dịch, ngoài công tác vận
chuyển, dân công Nghệ An còn tham gia đánh địch, cùng với bộ
đội tiến vào giải phóng Bạn Naphào, Nhômmalạt, Thà Khẹc...1.
ở Hà Tĩnh, để đảm bảo bí mật, khi bộ đội Việt Nam hành quân
sang đất bạn, tỉnh mới triển khai huy động dân công mở đường và
lập các cung trạm vận chuyển. Chiến dịch kéo dài sáu tháng liền
nên nhân dân Hà Tĩnh đã nỗ lực rất lớn để phục vụ bộ đội chiến
đấu dài ngày trên nước bạn. Trong toàn bộ chiến dịch, số dân công
phục vụ lên tới 80.909 người với 5.944.865 ngày công, trong đó Hà
Tĩnh đảm nhiệm phần lớn với 56.000 người; riêng số dân công của
Hà Tĩnh phục vụ trực tiếp trên chiến trường Lào là 28.300 người.
Bình quân mỗi dân công Hà Tĩnh đã phục vụ chiến dịch hơn hai
tháng rưỡi. Khối lượng vật chất của tỉnh Hà Tĩnh cung cấp cho
chiến dịch gồm: 3.409 tấn gạo, 154 tấn muối, 2.102 con trâu bò và
huy động tới 1.299 chiếc thuyền, 394 xe đạp thồ và hàng trăm
phương tiện vận tải thô sơ khác2.
Ngoài hai tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An, tỉnh Quảng Bình được
Liên khu uỷ 4 giao nhiệm vụ cung cấp một phần nhân công vật lực
cho chiến dịch Trung Lào. Toàn tỉnh đã lập được 29 trạm vận
chuyển, huy động 46.000 thanh niên xung phong, dân công với
4.944.986 ngày công và nhiều xe đạp thồ cùng hàng trăm phương
tiện vận tải thô sơ khác2.
Bằng công sức và cả xương máu, lực lượng dân công Hà Tĩnh,

, 2. Dẫn theo Ban Tuyên giáo Trung ƣơng - Tỉnh uỷ Thanh Hoá, Kỷ yếu Hội
1

thảo khoa học “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào tại các tỉnh biên giới và
một số địa phương”, Tài liệu đã dẫn, tr.131, 183.
2
. Dẫn theo Ban Tuyên giáo Trung ƣơng - Tỉnh uỷ Thanh Hoá, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào tại các tỉnh biên giới và
một số địa phương”, Tài liệu đã dẫn, tr.204.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 277

Nghệ An, Quảng Bình đã góp phần không nhỏ vào việc đảm bảo
cho chiến dịch Trung Lào giành thắng lợi. Tiêu biểu cho sự đóng
góp và vai trò quan trọng của dân công Liên khu 4 trong chiến dịch
là các đơn vị dân công Đức Thọ, Mỹ Châu, Thạch Hà (Hà Tĩnh),
Anh Sơn (Nghệ An)... và nhiều cá nhân điển hình khác.
Đêm 21 tháng 12 năm 1953, liên quân Lào - Việt nổ súng tiến
công quân địch ở Khăm He, giải phóng Thà Khẹc và nhiều vùng
quan trọng ở Trung Lào, uy hiếp Xavẳnnakhệt và Xê Nô. Lo sợ liên
quân Lào - Việt đánh xuống đường 9 và Hạ Lào, Nava phải điều
năm tiểu đoàn từ đồng bằng Bắc Bộ và Sài Gòn tới Xê Nô, lập một
tập đoàn cứ điểm mới dưới quyền chỉ huy của Tướng Phơrăngxi.
Cùng với đồng bằng Bắc Bộ và Điện Biên Phủ ở Việt Nam, Xê Nô
(Lào) trở thành một trong những nơi tập trung binh lực lớn của thực
dân Pháp.
Thừa thắng, liên quân Lào - Việt tiến xuống Hạ Lào, diệt cứ
điểm Pui, tập kích áttapư, tiêu diệt một tiểu đoàn địch, sau đó phát
triển xuống Xalavăn, giải phóng toàn bộ cao nguyên Bôlavên.
Sau hơn hai tháng liên tục chiến đấu, liên quân Lào - Việt đã
loại khỏi vòng chiến đấu 9.510 tên địch, thu nhiều vũ khí, giải
phóng một khu vực rộng 16.000 km2 với 600.000 dân1.
Như vậy, chiến thắng Trung Lào và Hạ Lào đã góp phần quan
trọng làm phá sản kế hoạch tập trung quân của Nava, buộc địch
phải phân tán lực lượng đối phó trên nhiều chiến trường, tạo điều
kiện cho quân và dân ba nước Đông Dương tiếp tục giành nhiều
thắng lợi to lớn hơn nữa. Thế phối hợp chiến lược giữa quân và dân
hai nước Việt Nam - Lào tiếp tục được củng cố và phát triển lên
một bước mới.

1
. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch
trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Sđd, tr.465.
278 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Trên chiến trường chính, từ đầu tháng 12 năm 1953, trước sự


tiến công của bộ đội chủ lực Việt Nam, quân Pháp phải bỏ Lai
Châu, rút về cố thủ ở Điện Biên Phủ. Địch tổ chức Điện Biên Phủ
thành một tập đoàn cứ điểm và quyết giữ vững bằng mọi giá để tiêu
hao, tiêu diệt quân chủ lực Việt Nam. Điện Biên Phủ trở thành
điểm trung tâm của kế hoạch Nava.
Ngày 6 tháng 12 năm 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ nhằm tiêu
diệt lực lượng tinh nhuệ của địch trong tập đoàn cứ điểm mạnh nhất
của chúng trên chiến trường Đông Dương, giải phóng hoàn toàn
vùng Tây Bắc Việt Nam và tạo điều kiện cho quân dân Lào giải
phóng vùng cực Bắc Lào. Chiến dịch lấy mật danh là Trần Đình và
đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt
Nam, được cử làm chỉ huy trưởng kiêm bí thư Đảng uỷ chiến dịch.
Đầu năm 1954, theo chỉ thị của Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà và Chính phủ Kháng chiến Lào, đoàn cán bộ Khu 1 (của
Bắc Lào), do Chính uỷ Đoàn 82 quân tình nguyện Việt Nam và
đồng chí Khăm Hùng phụ trách tham mưu tác chiến bộ đội ítxalạ
dẫn đầu đã tới Sở Chỉ huy Mường Phăng (Việt Nam) gặp đồng chí
Võ Nguyên Giáp và Bộ Tham mưu để báo cáo tình hình và thống
nhất kế hoạch phối hợp chiến đấu giữa Mặt trận Khu 1 (Bắc Lào)
với Mặt trận Điện Biên Phủ (Việt Nam).
Nhận thấy quân địch ngày càng tăng cường lực lượng phòng
ngự ở Điện Biên Phủ, Bộ Chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ quyết
định hoãn cuộc tiến công theo phương châm “đánh nhanh, giải
quyết nhanh”, chuyển sang đánh địch theo phương châm “đánh
chắc, tiến chắc”. Đồng thời để đánh lạc hướng quân địch, cô lập
hơn nữa Điện Biên Phủ, Bộ Tư lệnh tiền phương Việt Nam do đồng
chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy đã trao đổi, thống nhất với
Bộ Chỉ huy tối cao Quân đội Lào ítxalạ, mở chiến dịch Thượng Lào
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 279

nhằm đập tan tuyến phòng thủ của địch trên lưu vực sông Nặm U,
mở rộng vùng giải phóng Bắc Lào.
Lực lượng tham gia chiến dịch gồm: phía Việt Nam có Đại
đoàn 308, Trung đoàn 148 (Quân khu Tây Bắc), Đoàn 82 quân
tình nguyện Việt Nam ở Thượng Lào (có bốn đại đội độc lập, một
đội vũ trang tuyên truyền). Phía Lào có đại đội Chămpaxắc, đại
đội địa phương tỉnh Luổng Phạbang và bốn trung đội bộ đội địa
phương huyện.
Tranh thủ thời gian và gây bất ngờ cho địch, Đại đoàn 308 khẩn
trương hành quân sang chiến trường Lào, vừa đi vừa nắm tình hình
địch, vừa đi vừa dựa vào dân mà chuẩn bị hậu cần. Các đơn vị bộ
đội tình nguyện Việt Nam và bộ đội Lào ítxalạ đã phân chia thành
nhiều tổ nhóm dẫn đường cho các đơn vị của Đại đoàn 308, đồng
thời cùng với cán bộ dân - chính xuống từng làng bản vận động
nhân dân cung cấp lương thực, thực phẩm cho bộ đội đánh giặc.
Chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân các tỉnh Luổng Phạbang,
Huội Xài và Phôngxalỳ đã quyên góp được 2.000 tấn gạo và nhiều
thực phẩm phục vụ bộ đội tham gia chiến dịch.
Phát hiện Đại đoàn 308 tiến sang chiến trường Lào, ngày 25
tháng 1 năm 1954, quân địch bỏ phòng tuyến sông Nặm U rút chạy
về hướng Mương Xài và Luổng Phạbang. Không bỏ lỡ cơ hội, liên
quân Lào - Việt được nhân dân địa phương giúp đỡ tiến vào giải
phóng vùng lưu vực sông Nặm U, toàn bộ tỉnh Phôngxalỳ, bao vây
địch ở Mương Xài và tạo thế uy hiếp kinh đô Luổng Phạbang của
nước Lào. Lo sợ liên quân Lào - Việt đánh thẳng vào kinh đô Lào,
Nava buộc phải lập cầu hàng không, đưa 10 tiểu đoàn đến Luổng
Phạbang và Mương Xài, lập thêm hai tập đoàn cứ điểm mới.
Mương Xài, Luổng Phạbang lại trở thành nơi tập trung binh lực cơ
động của địch trên chiến trường Lào.
Qua hơn 10 ngày liên tục chiến đấu, truy kích địch trên quãng
280 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

đường dài hơn 200 km, liên quân Lào - Việt đã loại khỏi vòng
chiến đấu 17 đại đội địch, gồm 2.200 tên, trong đó có một tiểu đoàn
lính lê dương, thu hàng chục tấn vũ khí quân trang, quân dụng. Căn
cứ kháng chiến của nhân dân Lào được mở rộng thêm gần một vạn
kilômét vuông, nối liền khu giải phóng Thượng Lào với khu Tây
Bắc của Việt Nam. Phòng tuyến sông Nặm U, “con đường liên lạc
chiến lược” của địch với Điện Biên Phủ bị đập vỡ, đẩy tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ vào thế hoàn toàn bị cô lập.
Phối hợp với chiến trường Trung, Hạ Lào và lưu vực sông Nặm U,
các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Lào ítxalạ ở Tây
Lào được nhân dân giúp đỡ đã đẩy mạnh tiến công diệt nhiều đồn
bốt địch, như các trận tiến công Na Khai trên đường 13, bắc Viêng
Chăn (ngày 28 tháng 12 năm 1953); Xảm Phăn, thuộc huyện Phôn
Hoộng (đầu tháng 1 năm 1954); Bạn Xai, trên đường 13 (ngày 29
tháng 1 năm 1954); Phìa Lạt thuộc huyện Nặm Tòn (ngày 12 tháng 2
năm 1954); Thà Ngòn (ngày 1 tháng 3 năm 1954); Nặm He (ngày 16
tháng 3 năm 1954)..., làm tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch.
Những chiến thắng liên tiếp của quân tình nguyện Việt Nam và
bộ đội Lào ítxalạ ở khu Tây Lào đã góp phần đẩy địch vào thế bị
động, khốn quẫn, buộc chúng phải co về phòng thủ trong các thị xã,
thị trấn, tạo điều kiện cho cách mạng Lào xây dựng, phát triển lực
lượng, mở rộng các khu căn cứ phía sau lưng địch.
ở Hạ Lào, từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 2 năm 1954, Tiểu
đoàn 436 thuộc Trung đoàn 101, Đại đoàn 325 quân chủ lực Việt
Nam phối hợp với quân và dân Nam Lào đánh nhiều trận, loại khỏi
vòng chiến đấu gần 3.000 tên địch, giải phóng áttapư, cao nguyên
Bôlavên và nam Xalavăn rộng hơn 20.000 km2, nối liền vùng giải
phóng Trung Lào với Nam Lào.
Lo sợ bị mất thị xã Xalavăn và vùng Hạ Lào, thực dân Pháp vội
vã điều ngay một binh đoàn cơ động từ Bắc Bộ Việt Nam sang và
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 281

Binh đoàn nguỵ số 51 từ Xê Nô xuống, lập thêm hai cụm cứ điểm


mới ở thị xã Xalavăn và Pạc Xê. Khối quân cơ động của Pháp lại
một lần nữa bị phân tán ở chiến trường Lào, khiến cho Pháp không
thể tập trung lực lượng đối phó ở chiến trường chính Việt Nam.
Sự phối hợp chiến đấu giữa quân và dân hai nước Việt - Lào đã
thu được thắng lợi to lớn. Liên quân cách mạng Việt - Lào đã tiêu
diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn.
Trong chiến công chung đó, Việt Nam “ngoài 7.600 quân tình
nguyện Việt Nam tại chỗ, còn được tăng cường thêm 10.000 quân
chủ lực. Lực lượng dân công hoả tuyến lên tới 54.084 người với
hơn 1.974.000 ngày công”1 để phối hợp cùng với quân và dân Lào
anh em chiến đấu và chiến thắng. Tình đoàn kết chiến đấu keo sơn,
thuỷ chung giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt - Lào ngày
càng phát triển bền vững.
Đặc biệt, do sự lớn mạnh của phong trào kháng chiến ở cả ba
nước Đông Dương, khối cơ động chiến lược mà Nava và Bộ Chỉ
huy quân Pháp mất nhiều công sức xây dựng và định dùng nó để đè
bẹp quân chủ lực Việt Nam nay phải phân tán ra phòng ngự và bị
giam chân ở nhiều nơi như: Điện Biên Phủ, Luổng Phạbang -
Mương Xài, Xê Nô, Xalavăn, Pạc Xê, An Khê, Tuy Hoà, Quy
Nhơn,... Tình hình đó đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho quân và dân
Việt Nam tiến lên thực hiện trận quyết chiến chiến lược Điện Biên
Phủ, giành thắng lợi quyết định.
Ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân và dân Việt Nam mở cuộc
tiến công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Phối hợp với chiến
trường chính Việt Nam, quân và dân Lào tiếp tục đẩy mạnh các

1
. Sỉng Thoong Sỉnghảpănnha: Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với cuộc kháng
chiến của nhân dân Lào (1945-1954). Luận án Phó tiến sĩ lịch sử, Thƣ viện Quốc
gia, Hà Nội, 1991, ký hiệu L-3587, tr.124.
282 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

hoạt động quân sự từ Bắc xuống Nam Lào, đồng thời ủng hộ Mặt
trận Điện Biên Phủ (Việt Nam) 300 tấn gạo chiến lợi phẩm thu
được sau chiến thắng Thượng Lào1 và 400 viên đạn pháo 105 ly thu
được của địch ở Bạn Naphào2.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc
thắng lợi. Chiến công đó đã đánh bại cố gắng chiến tranh cao nhất
của thực dân Pháp được Mỹ viện trợ, giáng một đòn quyết định vào
ý chí xâm lược của bọn đế quốc và liên minh giữa bọn đế quốc với
bọn phản động tay sai ở ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi to lớn của nhân dân
Việt Nam và cũng là thắng lợi của khối đoàn kết, liên minh chiến
đấu giữa quân đội và nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia
mà Việt Nam làm trụ cột.
Trong nhật lệnh của Đại tướng, Tổng Tư lệnh nhân dịp lễ mừng
chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 13 tháng 5 năm 1954, đồng chí Võ
Nguyên Giáp nêu rõ: thắng lợi ở Điện Biên Phủ là kết quả của chín
năm kháng chiến anh dũng của quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đồng thời, đó cũng là “nhờ ở sự phối hợp chặt chẽ của quân đội giải
phóng hai nước anh em Khơme - Pathết Lào”2.
Nhận xét về sức mạnh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc trên
bán đảo Đông Dương, một học giả nước ngoài đã viết: “Không
nghi ngờ gì nữa, chính trình độ đoàn kết có hiệu quả thực sự ấy đã
dẫn tới thất bại của Pháp ở Đông Dương, mà tượng trưng là chiến
thắng lịch sử của Quân đội nhân dân Việt Nam tại Điện Biên Phủ.

1
, 2. Xem Hậu cần chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -
1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.124, 119.
2
. Những tài liệu chỉ đạo cuộc đấu tranh của Trung ương Đảng, Tổng Quân
uỷ và Bộ Tổng Tư lệnh, Sđd, t.4, tr.365.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 283

Chiến thắng đó là sản phẩm của những nỗ lực quân sự thống nhất
và có phối hợp”1.
Thắng lợi ở Điện Biên Phủ cũng là thắng lợi của phong trào
đấu tranh chống chiến tranh của nhân dân Pháp và nhân dân yêu
chuộng hoà bình thế giới. Cục diện chiến trường chuyển sang thế
có lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao ở Hội nghị Giơnevơ.

4. Phối hợp đấu tranh tại Hội nghị Giơnevơ


Một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 8 tháng 5 năm
1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương
bắt đầu khai mạc. Hội nghị có chín bên tham dự, gồm Liên Xô,
Trung Quốc, Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia.
Các đại diện lực lượng kháng chiến Pathết Lào và Khơme ítxarắc
cũng đã có mặt tại Giơnevơ, nhưng chưa được chính thức tham
gia Hội nghị.
Tại Hội nghị, theo chương trình nghị sự, đoàn Pháp phát biểu
trước. Đại biểu Pháp trình bày lập trường của Pháp về vấn đề Việt
Nam, gồm năm điểm: tập kết quân đội hai bên vào các vùng quy
định; giải giáp lực lượng dân quân du kích; trao trả tù quân sự và
dân sự; kiểm soát quốc tế; đình chỉ chiến sự. Về Lào và Cao Miên,
đại biểu Pháp nêu bốn điểm: rút tất cả các lực lượng Việt Nam; giải
giáp lực lượng dân quân du kích; trao trả tù quân sự và dân sự;
kiểm soát quốc tế.
Với tư thế đại diện cho một dân tộc chiến thắng, ngay từ phiên
họp đầu tiên, đồng chí Phạm Văn Đồng tuyên bố rõ lập trường của
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về việc lập lại hoà

1
. U. Bớcsét: Tam giác Trung Quốc - Campuchia - Việt Nam, Nxb. Thông tin lý
luận, Hà Nội, 1986, tr.23.
284 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

bình ở Đông Dương phải là một giải pháp hoàn chỉnh cả về quân sự
và chính trị cho cả Việt Nam, Lào, Campuchia, trên cơ sở tôn trọng
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước
Đông Dương. Trưởng Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Phạm Văn Đồng đề nghị Hội nghị mời đại biểu của Chính phủ
Kháng chiến Pathết Lào và Chính phủ Kháng chiến Khơme ítxarắc
tham gia Hội nghị. Đồng chí nói rõ: hai Chính phủ đó được nhân
dân ủng hộ, có uy tín và ảnh hưởng lớn trong toàn thể nhân dân hai
nước. Sự có mặt của đại biểu hai Chính phủ Kháng chiến Khơme
và Lào là cần thiết, đây sẽ là một đảm bảo cho Hội nghị thành
công1. Nhưng lời đề nghị của đồng chí Phạm Văn Đồng đã bị các
đại biểu Mỹ và Pháp kiên quyết bác bỏ. Do đó, tại Hội nghị
Giơnevơ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đại diện cho lập
trường, tiếng nói của Chính phủ Kháng chiến Lào và Campuchia.
Ngày 10 tháng 5 năm 1954, tại phiên họp toàn thể thứ hai, đồng
chí Phạm Văn Đồng nêu rõ quan điểm của Việt Nam về việc chấm
dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương là: “Nhân dân và
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, cũng như nhân dân
và Chính phủ Khơme và Pathết Lào nguyện dùng đường lối đàm
phán để giải quyết vấn đề khôi phục hoà bình ở Đông Dương trên
cơ sở nhìn nhận các quyền dân tộc của nhân dân Đông Dương: độc
lập và thống nhất dân tộc, tự do dân chủ, do đó mà tạo điều kiện
xây dựng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân Đông Dương và nước
Pháp trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng quyền lợi lẫn nhau. Đó là
con đường bảo đảm khôi phục theo công lý và danh dự một nền
hoà bình vững chắc và lâu dài ở Đông Dương; con đường duy nhất
bảo đảm thực sự hoà bình và an ninh của các nước Đông Nam á và
á châu và góp phần vào việc làm dịu bớt tình hình quốc tế, duy trì

. Báo Nhân dân, số 184, từ ngày 12 đến 15 tháng 5 năm 1954.


1
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 285

và củng cố hoà bình thế giới”1.


Trên lập trường đó, Trưởng đoàn Việt Nam đưa ra bản đề nghị
gồm tám điểm, trong đó nêu rõ những vấn đề có tính nguyên tắc, đó
là: nước Pháp phải công nhận chủ quyền và độc lập của nước Việt
Nam, công nhận chủ quyền và độc lập của hai nước Lào và
Campuchia; quân đội nước ngoài phải rút hết khỏi Đông Dương
trong một thời hạn do hai bên thoả thuận; việc thống nhất quốc gia
Việt Nam, Lào và Campuchia sẽ thông qua tổng tuyển cử tự do ở
mỗi nước, các nước ngoài không được can thiệp. Đề nghị đó thể
hiện rõ nguyện vọng, ý chí hoà bình của nhân dân và Chính phủ
Việt Nam cũng như của nhân dân và Chính phủ Kháng chiến Pathết
Lào và Khơme, phù hợp với hoà bình và an ninh của nhân dân các
nước châu á và thế giới.
Đồng thời với cuộc đấu tranh ở Hội nghị Giơnevơ, ngày 11
tháng 5 năm 1954, Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam ra Chỉ thị Về việc tổ chức một cuộc tuyên truyền động viên mở
rộng thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ. Chỉ thị viết: “Từ
trước đến nay chưa lúc nào quân ta phối hợp tác chiến rộng khắp và
liên tục và thu nhiều thắng lợi như hiện nay, không những ở Việt
Nam mà ở cả Lào - Miên”2. “Chiến thắng ở Điện Biên Phủ và ở các
chiến trường toàn quốc có tác dụng rất lớn trong công cuộc đấu
tranh giành độc lập, thống nhất, dân chủ, hoà bình của nhân dân
Việt Nam, cũng như của nhân dân Miên - Lào, đồng thời góp phần
đắc lực vào việc bảo vệ hoà bình thế giới”2. Trong công tác tuyên
truyền, Ban Bí thư nhắc nhở: “tuyên truyền chiến thắng Điện Biên
Phủ là chính nhưng phải gắn với chiến thắng trên các chiến trường

1
. Báo Nhân dân, số 185, từ ngày 16 đến 18 tháng 5 năm 1954.
2
, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.15, tr.100,
101, 102.
286 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

toàn quốc và chiến trường Lào - Miên”3.


Phối hợp với cuộc đấu tranh ngoại giao tại Giơnevơ, Trung
ương Đảng và Chính phủ Việt Nam động viên tinh thần quân và
dân trên các chiến trường, đặc biệt ở vùng sau lưng địch, tích cực
đánh giặc; ở vùng tự do, đẩy mạnh giảm tô, cải cách ruộng đất,
hăng hái tòng quân, đi dân công; trong vùng bị tạm chiếm, tích cực
chống địch bắt lính, đòi địch chấm dứt chiến tranh. Các lực lượng
vũ trang liên tục tiến công tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng thêm
nhiều vùng rộng lớn.
Nhất trí với lập trường của Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà tại Hội nghị Giơnevơ, ngày 21 tháng 5 năm 1954, thay
mặt Chính phủ Kháng chiến Lào, Thủ tướng Xuphanuvông ra tuyên
bố:
“1. Kẻ xâm lược Pathết Lào hiện nay là thực dân hiếu chiến
Pháp được can thiệp Mỹ viện trợ và thúc đẩy.
2. Nhân dân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà là bạn thân thiết của nhân dân Pathết Lào.
3. Muốn lập lại hoà bình ở Đông Dương, phải ngừng bắn và
đình chiến trên toàn cõi Đông Dương.
Việc tìm cách lập lại hoà bình ở Đông Dương tại Hội nghị
Giơnevơ phải có đại biểu Pathết Lào cũng như đại biểu Khơme
tham gia. Trong khi đại biểu của mình chưa tham dự Hội nghị
Giơnevơ, Chính phủ Kháng chiến Pathết Lào hoàn toàn đồng ý
và ủng hộ lập trường và đề nghị của đoàn đại biểu nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Giơnevơ về vấn đề ngừng
bắn và đình chiến trên toàn cõi Đông Dương để lập lại hoà bình
ở Đông Dương”1.

1
. Lời tuyên bố của Chính phủ Kháng chiến Pathết Lào (ngày 21 tháng 5 năm
1954), hồ sơ số 1522, tờ 101, phông PTT, Trung tâm Lƣu trữ quốc gia I, Cục Văn
thƣ và Lƣu trữ Nhà nƣớc.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 287

ở chiến trường Lào, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và
Ban Vận động thành lập Đảng Nhân dân Lào, Mặt trận, Chính phủ
và quân đội hai nước Việt - Lào thống nhất chủ trương: “Nhân đà
chiến thắng, có những điều kiện thuận lợi mới, để phối hợp với
cuộc đấu tranh ngoại giao, ta cần giữ vững và tăng cường hoạt động
khi có cơ hội khuếch trương thắng lợi, đồng thời ra sức củng cố mở
rộng vùng giải phóng và các căn cứ du kích”1.
Thực hiện chủ trương trên, quân và dân Lào được sự giúp đỡ và
phối hợp chặt chẽ với quân tình nguyện Việt Nam, tranh thủ thời cơ
thuận lợi, đẩy mạnh các hoạt động chiến đấu, xây dựng lực lượng,
tăng cường sức mạnh kháng chiến về mọi mặt.
Trước cuộc tiến công liên tục của các lực lượng cách mạng trên
chiến trường Đông Dương, quân đội viễn chinh Pháp càng sa vào
tình trạng nguy khốn. Để đối phó với tình hình sa sút trên chiến
trường, Chính phủ Pháp cử Tướng Êly làm cao uỷ Đông Dương
kiêm tổng chỉ huy các lực lượng Liên hiệp Pháp; đồng thời cầu cứu
Hoa Kỳ can thiệp.
Tuy nhiên, cuộc họp giữa ba phái đoàn quân sự cấp cao Mỹ,
Anh, Pháp ở Oasinhtơn ngày 3 tháng 6 năm 1954 đã không đưa ra
được biện pháp khẩn cấp nào để giúp Pháp ở Đông Dương. Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ cho rằng cuộc chiến tranh ở Đông Dương đã
vượt qua thời điểm có thể đảo ngược.
Ngày 14 tháng 6 năm 1954, Tổng thống Pháp Côty cử Nghị sĩ
Măngđét Phơrăng, thuộc phe chủ hoà trong chính giới Pháp, lập nội
các mới. Ngày 20 tháng 6, Thủ tướng mới Măngđét Phơrăng tuyên
bố sẽ từ chức nếu trong vòng một tháng không đạt được một cuộc
ngừng bắn ở Đông Dương.

1
. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân tình
nguyện Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại Lào, Sđd,
tr.334.
288 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Trước những diễn biến mới của cuộc đấu tranh ngoại giao ở Hội
nghị Giơnevơ, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp Hội nghị
lần thứ sáu từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954. Trong Báo cáo đọc
tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Sau chiến dịch Điện
Biên Phủ, âm mưu và kế hoạch can thiệp của Mỹ cũng thay đổi để
kéo dài chiến tranh Đông Dương, quốc tế hoá chiến tranh Đông
Dương, phá hoại Hội nghị Giơnevơ, tìm hết cách hất cẳng Pháp để
chiếm ba nước Việt, Miên, Lào, biến nhân dân Việt, Miên, Lào
thành nô lệ của Mỹ và gây thêm tình hình căng thẳng trên thế giới...
Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới, mà Mỹ đang biến
thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt, Miên, Lào”1. “Để
chống đế quốc Mỹ trực tiếp can thiệp, kéo dài và mở rộng chiến
tranh Đông Dương, ta phải nắm vững lá cờ hoà bình... Dùng lối nói
chuyện thì phải nhân nhượng nhau đúng mức”2, “mọi việc của ta đều
nhằm chống đế quốc Mỹ... Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững
chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”3. Hội nghị nhất trí phải
tiếp tục đấu tranh để sớm đi đến ký hiệp định đình chiến với Chính
phủ Pháp, không để cho đế quốc Mỹ và phái hiếu chiến Pháp kéo dài
Hội nghị và phá hoại đàm phán.
Cuộc đấu tranh trên bàn Hội nghị về phân chia giới tuyến tạm
thời, khu vực tập kết và địa vị chính trị của lực lượng kháng chiến
Lào và Campuchia giữa đại diện Việt Nam và đại diện Pháp diễn ra
rất quyết liệt, kéo dài trong nhiều phiên họp, nhiều thời gian. Nhà
sử học người Pháp Phrăngxoa Gioayô (Francois Joyaux) nhận xét
rằng, đại diện quân sự Việt Nam trong các cuộc đàm phán với đại
diện quân sự Pháp đã có thái độ cứng rắn về vấn đề này: “Nhân
danh Pathết Lào, Tạ Quang Bửu đấu tranh để Chính phủ cách mạng

1
, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.314, 316, 319.
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 289

Lào được kiểm soát phần nửa phía Đông nước Lào kể cả cao
nguyên Bôlavên ở phía Nam. Việt Minh cũng đặt vấn đề như vậy
trong một thời gian khi đợi công nhận quyền của Khơme ítxarắc
được có một vùng lãnh thổ”1.
Cuối cùng, do những thắng lợi to lớn trong chiến cuộc Đông
Xuân 1953 - 1954 của ba nước Đông Dương mà đỉnh cao là chiến
thắng Điện Biên Phủ, những khó khăn của Pháp ở Đông Dương và
ở ngay trong nước, đại diện Pháp đã phải chịu ký hiệp định đình chỉ
chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia.
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam gồm sáu loại điều
khoản với 47 điều, trong đó quy định lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến
quân sự tạm thời để lực lượng hai bên tập kết: lực lượng Quân đội
nhân dân Việt Nam ở phía bắc giới tuyến, lực lượng quân đội “Liên
hiệp Pháp” ở phía nam giới tuyến. Giới tuyến quân sự chỉ có tính
chất tạm thời, hoàn toàn không thể coi là một ranh giới về chính trị
hay lãnh thổ. Thời hạn quy định tổng tuyển cử ở Việt Nam là tháng
7 năm 1956.
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào gồm sáu chương, 40 điều,
trong đó công nhận nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
Lào, lực lượng Pathết Lào trở thành lực lượng chính trị độc lập hợp
pháp, có quân đội, có khu tập kết ở hai tỉnh Sầm Nưa và
Phôngxalỳ. Điều 14 của Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào ghi rõ:
“Trong khi chờ một giải pháp chính trị, các đơn vị chiến đấu
“Pathết Lào” tụ tập trong các khu đóng quân tạm thời, trừ những
chiến sĩ muốn được giải ngũ tại chỗ, sẽ chuyển đến các tỉnh
Phôngxalỳ và Sầm Nưa. Các lực lượng này sẽ được tự do đi lại
giữa hai tỉnh đó trong một hành lang dọc theo biên giới Lào - Việt,
phía Nam giới hạn bởi con đường Xốp Kin, Na Mi, Xốp Xàng,

1
. Xem Francois Joyaux: Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh
Đông Dương lần thứ nhất, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1981, tr.363.
290 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

Mương Xon”1. Hiệp định còn quy định rõ, để làm cho đất nước Lào
thống nhất, các nhà chức trách hai phái: phái Pathết Lào và phái
Vương quốc Lào sẽ tiến hành đàm phán với nhau để tìm ra biện
pháp giải quyết về chính trị trên cơ sở bảo đảm quyền tự do dân
chủ cho nhân dân, thành lập chính quyền liên hiệp, hoà hợp dân tộc
thông qua cuộc tổng tuyển cử tự do phổ thông đầu phiếu. Tổng
tuyển cử ở Lào sẽ tiến hành trong năm 1955.
Ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương
kết thúc bằng bản Tuyên bố cuối cùng gồm 13 điều về việc lập lại
hoà bình ở Đông Dương.
ý nghĩa chính trị to lớn của Hiệp định Giơnevơ là trong Tuyên
bố cuối cùng, điều 12 đã nêu rõ: các nước tham gia Hội nghị cam
kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và
tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước Việt
Nam, Lào và Campuchia. Đó là cơ sở pháp lý quốc tế rất quan
trọng để nhân dân ba nước Đông Dương tiến lên giành độc lập,
hoàn thành thống nhất đất nước ở mỗi nước.
Tại Hội nghị, tám đoàn đại diện chính thức tham gia Hội nghị
là Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Anh, Pháp,
Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia
tham gia ký kết các văn kiện hội nghị. Riêng phái đoàn Mỹ không
chịu ký, mà ra một tuyên bố riêng cam kết tôn trọng Hiệp định
Giơnevơ về Đông Dương...
Mặc dù giải pháp Giơnevơ chưa phản ánh đầy đủ những thắng
lợi của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên chiến
trường, nhưng nó đã đánh dấu sự kết thúc chiến tranh, lập lại hoà
bình ở Đông Dương, đáp ứng nguyện vọng hoà bình của nhân dân
Đông Dương và nhân dân thế giới. Cùng với chiến thắng Điện

. Bộ Ngoại giao: Hiệp định Giơnevơ 50 năm nhìn lại, Nxb. Chính trị quốc gia,
1

Hà Nội, 2008, tr.320.


Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 291

Biên Phủ, việc ký kết Hiệp định Giơnevơ là thắng lợi quan trọng
của sự nghiệp đoàn kết kháng chiến của nhân dân ba nước Đông
Dương nói chung, của nhân dân hai nước Việt Nam - Lào nói
riêng. Thắng lợi đó đã mở đầu cho cao trào giải phóng dân tộc
rộng lớn trên thế giới, cho thời kỳ tan rã của chủ nghĩa thực dân
cũ trên phạm vi thế giới.
Đánh giá về ý nghĩa của thắng lợi này, đồng chí Cayxỏn
Phômvihản đã khẳng định: “Đây là thắng lợi lịch sử của nhân dân
Lào cũng như của nhân dân hai nước Việt Nam và Campuchia,
chấm dứt ách thống trị kéo dài hơn 60 năm của thực dân Pháp, góp
phần vào việc mở màn và thúc đẩy quá trình sụp đổ của chủ nghĩa
thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới”1.
*
* *
Như vậy, trong lịch sử quan hệ đoàn kết đặc biệt, liên minh
chiến đấu của quân và dân hai nước Việt Nam - Lào, những năm
1951 - 1954 là một giai đoạn chiến đấu đầy khó khăn, quyết liệt,
song cũng rất đỗi sôi động và hào hùng.
Trong giai đoạn lịch sử này, cách mạng hai nước đã giải quyết
thành công những vấn đề mấu chốt như: thống nhất chủ trương
thành lập đảng mácxít ở mỗi nước Đông Dương, thành lập khối liên
minh Việt Nam - Lào - Campuchia dựa trên nguyên tắc tự nguyện,
bình đẳng, tôn trọng chủ quyền của nhau, nhằm mục tiêu đánh đuổi
bọn xâm lược, làm cho mỗi nước hoàn toàn độc lập. Việc Đảng
Lao động Việt Nam ra hoạt động công khai, sự ra đời của Liên
minh mặt trận Đông Dương và của Ban Vận động thành lập Đảng
Nhân dân Lào là cơ sở cho sự phát triển vượt bậc, có ý nghĩa chiến

1
. Cayxỏn Phômvihản: 25 năm chiến đấu và thắng lợi của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào, Sđd, tr.12.
292 Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu...

lược quan trọng trong quan hệ đoàn kết, liên minh chiến đấu ba
nước Đông Dương nói chung, Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam nói
riêng. Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, của
Ban Vận động thành lập Đảng Nhân dân Lào và Mặt trận Lào
ítxalạ, cách mạng hai nước Việt Nam - Lào càng phối hợp chặt chẽ
với nhau hơn trên mọi chủ trương, hành động chiến lược và trên
mọi mặt, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh bại kẻ thù chung là
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Với tư tưởng chỉ đạo chiến lược “Đông Dương là một chiến
trường”, lãnh đạo hai nước Việt Nam - Lào thống nhất lựa chọn,
quyết định xây dựng chiến trường Lào thành chiến trường phối hợp
đắc lực với chiến trường chính Việt Nam. Thực hiện chủ trương
trên, trong năm 1951, Đảng và Chính phủ Việt Nam tiếp tục cử hơn
một vạn cán bộ, chiến sĩ sang phối hợp và giúp đỡ nhân dân Lào
đẩy mạnh kháng chiến. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Giúp bạn là mình tự giúp mình”, coi nhân dân bạn như
nhân dân mình, coi sự nghiệp cách mạng của bạn là trách nhiệm
của mình, cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã kề vai sát
cánh cùng với bạn, vừa chiến đấu chống địch càn quét lấn chiếm,
vừa tiến hành xây dựng và củng cố các đoàn thể, chính quyền
kháng chiến, tăng cường lực lượng vũ trang, phát triển chiến tranh
du kích trên khắp các khu vực Thượng, Trung và Hạ Lào. Đồng
thời, thực tiễn chiến đấu, công tác trên các chiến trường Lào cũng
là cơ hội bồi dưỡng, rèn luyện rất bổ ích về các mặt quân sự, chính
trị, nhất là nâng cao thêm tinh thần đoàn kết quốc tế cho cán bộ,
chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam.
Sự lớn mạnh của phong trào kháng chiến Lào trong những năm
1951 - 1952 đã tạo điều kiện đưa chiến trường Lào tiến lên phối
hợp có hiệu quả với chiến trường chính Việt Nam. Từ năm 1953,
quân và dân hai nước Việt Nam - Lào phối hợp mở liên tiếp các
Ch-¬ng IV: T¨ng c-êng liªn minh chiÕn ®Êu... 293

chiến dịch tiến công lớn trên chiến trường Lào với quy mô lực
lượng của cả hai nước tham gia lớn hơn bất kỳ thời kỳ nào trước
đó, tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch, mở rộng
nhiều vùng giải phóng ở Lào. Đặc biệt, trong chiến cuộc Đông
Xuân 1953 - 1954, chiến trường Lào đã phát huy tác dụng là chiến
trường phối hợp đắc lực với chiến trường chính Việt Nam, thu hút
và giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động của địch,
góp phần tạo điều kiện cho các binh đoàn chủ lực Việt Nam tiêu
diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đưa đến việc ký kết Hiệp
định Giơnevơ năm 1954, lập lại hoà bình ở Đông Dương, kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -
1954) thể hiện nghị lực và quyết tâm của cả hai nước Việt Nam -
Lào trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung, kết tinh sức mạnh
đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu giữa nhân dân và quân đội
hai nước Việt - Lào. Thắng lợi đó tạo nền móng vững chắc cho sự
phối hợp, liên minh chiến đấu giữa hai nước Việt Nam và Lào ngày
càng được nâng cao trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ
xâm lược (1954 - 1975).
Chương V

PHỐI HỢP ĐẤU TRANH THỰC HIỆN


HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ, CHỐNG CHIẾN LƯỢC
CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA ĐẾ QUỐC MỸ,
THIẾT LẬP QUAN HỆ NGOẠI GIAO (1954 - 1962)

I. CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN LỰC LƢỢNG CÁCH MẠNG Ở LÀO

1. Âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ đối với Việt Nam và


Lào
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) thắng lợi,
Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết (ngày 21 tháng 7
năm 1954) đã làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ ở Đông Dương và gây
ảnh hưởng sâu rộng đến phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu á, châu Phi, châu Mỹ1.
1
. Trên lục địa châu Phi, tháng 8 năm 1954, Đảng Cộng sản Marốc tuyên bố đòi
Chính phủ Pháp phải chấm dứt các hành động đàn áp, khủng bố những người yêu nước,
đòi phải thả tù chính trị. ở các nước châu Phi khác như Tuynidi, Angiêri, Camơrun,
Mađagaxca, Cônggô, phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũng diễn ra rất
mạnh mẽ với khí thế sôi nổi chưa từng có.
ở châu á, nhiều quốc gia như ấn Độ, Mianma, Inđônêxia... ngày càng tích cực thực
hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, xoá bỏ ảnh hưởng của chủ nghĩa đế quốc. Tháng
6 năm 1954, chính phủ hai nước Trung Quốc và ấn Độ ra tuyên bố về năm nguyên tắc
cùng tồn tại hoà bình. Gần một năm sau (tháng 4 năm 1955), Hội nghị Băng Đung triệu tập
tại Inđônêxia với 29 nước á - Phi tham dự đã ra tuyên bố 10 nguyên tắc chung sống hoà
bình, trung lập.
295
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Sự vùng lên mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc và
phong trào hoà bình thế giới cùng với sự phát triển lớn mạnh của hệ
thống xã hội chủ nghĩa từ châu Âu sang châu á, trong đó những
thành tựu to lớn của Liên Xô, Trung Quốc trên các lĩnh vực xây
dựng kinh tế, củng cố quốc phòng đã góp phần quan trọng thúc đẩy
phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, bảo vệ hoà bình
trên thế giới.
Đối phó với tình hình trên, đế quốc Mỹ buộc phải điều chỉnh lại
chiến lược toàn cầu. Từ đối đầu gay gắt giữa hai phe, Mỹ chuyển
sang hoà hoãn với Liên Xô, tập trung lực lượng đánh phá phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Thực hiện âm mưu chiến lược mới này, Mỹ chọn Đông Dương
làm khu vực trọng điểm, bởi theo nhận định của giới quân sự Mỹ:
thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước Đông Dương
đang đe dọa quyền lợi của Mỹ ở Đông Nam á. Chính vì lẽ đó khi Hiệp
định Giơnevơ được ký kết, mặc dù Trưởng phái đoàn Chính phủ Mỹ
tuyên bố ghi nhận và cam kết tôn trọng quyết định của chín nước
thành viên Hội nghị Giơnevơ, nhưng liền sau đó Tổng thống Mỹ lại
tuyên bố không bị ràng buộc bởi Hiệp định này. Cùng với tuyên bố
trên, Mỹ ra sức cản trở việc thực hiện Hiệp định Giơnevơ và tìm cách
thay thế Pháp, can thiệp ngày càng sâu vào Đông Dương.
Để mở rộng xâm lược ba nước Đông Dương, Mỹ lôi kéo các nước
Anh, Pháp, Ôxtrâylia, Niu Dilân, Pakixtan, Philíppin, Thái Lan họp ở
Manila (thủ đô của Philíppin) thành lập khối quân sự trá hình lấy tên
là Tổ chức Hiệp ước Đông Nam á (SEATO). Ngày 8 tháng 9 năm
1954, các nước này ký Hiệp ước phòng thủ Đông Nam á. Điểm 4 của
Hiệp ước này ghi: trong trường hợp có xâm lược hay tiến công vũ
trang chống lại những nước thành viên, các nước ký kết sẽ cùng nhau
hành động... Một điều khoản phụ nêu những nước cần SEATO bảo vệ
để chống “xâm lược” và “lật đổ”, trong đó có Việt Nam và Lào. Với
296
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

việc đặt xứ Đông Dương vào khu vực bảo hộ của khối Đông Nam
á, Mỹ và các nước đồng minh của họ đã ngang nhiên hợp pháp hoá
việc chuẩn bị can thiệp vào các nước Đông Dương.
Mục tiêu chiến lược của Mỹ đối với ba nước Đông Dương là:
- Chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam, Lào và
Campuchia thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
- Dùng Nam Việt Nam, Lào làm bàn đạp tiến công nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà.
- Ngăn cản làn sóng cộng sản tràn vào các nước khác ở Đông
Nam á.
Thực hiện các mục tiêu trên, ngay sau Hiệp định Giơnevơ, đế
quốc Mỹ đã tăng cường viện trợ quân sự, kinh tế cho các chính
quyền thân Mỹ ở miền Nam Việt Nam và ở Lào1. Thông qua hệ
thống cố vấn và viện trợ, Mỹ không những chi phối toàn bộ nền
kinh tế của Nam Việt Nam, của Lào mà còn quyết định cả đường
lối chính trị của chính quyền Sài Gòn và chính quyền Viêng Chăn.
Sau Hiệp định Giơnevơ, Lào trở thành quốc gia độc lập có chủ
quyền. Bộ máy chính quyền thân Pháp trước đây tuy là sản phẩm của
chủ nghĩa thực dân nhưng về danh nghĩa là chính phủ quốc gia. Khi
can thiệp và xâm lược Lào, đế quốc Mỹ đã khai thác danh nghĩa
pháp lý và bản chất của chính quyền này để mua chuộc lôi kéo
những phần tử phản động cực hữu dựng lên chính phủ thân Mỹ.
Đi đôi với biện pháp quân sự, để nắm dân, mở rộng khu vực
kiểm soát, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai thân Mỹ ở Lào còn
đẩy mạnh các cuộc càn quét, dồn dân lập ra các “khu chấn hưng”,
“làng đoàn kết” nhằm mục đích giành dân, cô lập cách mạng. Cũng
tương tự như “ấp chiến lược”, “khu trù mật” của Mỹ ở miền Nam

. Số viện trợ Mỹ ở Việt Nam từ năm 1955 đến 1964 là 3.485,7 triệu USD; ở
1

Lào từ năm 1955 đến 1965 là 830 triệu USD.


297
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Việt Nam, “làng đoàn kết”, “khu chấn hưng” ở Lào là một thủ đoạn
thâm độc của Mỹ và tay sai nhằm tập trung các biện pháp chính trị,
kinh tế, tâm lý phục vụ cho âm mưu chủ nghĩa thực dân kiểu mới
của Mỹ, tách dân để cô lập, đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng
của nhân dân Lào1.
Cùng với viện trợ quân sự, kinh tế, Mỹ cho thành lập hệ thống
cố vấn nắm quyền chỉ huy điều hành các chính quyền thân Mỹ phục
vụ cho kế hoạch xâm lược của Mỹ ở Việt Nam và Lào. Trong mỗi
giai đoạn chiến tranh, các tổ chức cố vấn Mỹ đều có sự thay đổi về
tên gọi để phù hợp với tình hình cụ thể. ở miền Nam Việt Nam, Mỹ
thành lập tổ chức MAAG từ năm 1950 khi còn làm nhiệm vụ viện
trợ giúp Pháp. Đến giữa năm 1956, Mỹ cho thành lập ở Sài Gòn bốn
tổ chức cố vấn với những tên gọi khác nhau MAAG, TRIM, CATO,
TERM. Riêng phái đoàn MAAG ở miền Nam tính đến năm 1960 có
khoảng 2.000 tên (trong đó khoảng 800 là cố vấn quân sự).
Dưới sự chỉ huy của Mỹ, ngay sau khi có lệnh ngừng bắn, bọn
tay sai thân Mỹ ở Lào đã sử dụng các đơn vị quân đội Vương quốc
liên tiếp gây ra nhiều vụ khiêu khích, tấn công các đơn vị đồn trú
của Pathết Lào và quân tình nguyện Việt Nam, đồng thời cho quân
chiếm đóng trái phép một số điểm trong vùng giải phóng của Pathết
Lào ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ.
Sau Hiệp định Giơnevơ, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ

1
. Cuối năm 1959, số ngƣời bị đƣa vào trại tập trung tại hai vùng Sầm Nƣa
và Luổng Phạbang lên tới 7.000 ngƣời. Đầu năm 1960, tại các tỉnh này có gần
2.400 gia đình bị chúng dồn về xung quanh các đồn bốt. Để thực hiện thủ đoạn
lừa bịp, xoa dịu mâu thuẫn của nhân dân Lào, từ năm 1960, Mỹ còn đề ra chƣơng
trình phát triển nông thôn. Thực chất của chƣơng trình này là nhằm quản lý nhân
dân trong vùng chúng kiểm soát, kích động tâm lý nhân dân giữa hai vùng để
chống phá cách mạng Lào. Theo số liệu thống kê, năm 1960, Mỹ đầu tƣ cho
chƣơng trình này 2,4 triệu USD, năm 1964 tăng lên 4 triệu USD và năm 1965 lên
tới 6 triệu USD.
298
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

đấu tranh với những điều kiện thuận lợi mới nhưng cũng đầy những
khó khăn phức tạp: đất nước tạm thời chia làm hai miền với hai chế
độ chính trị khác nhau. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng đi lên
chủ nghĩa xã hội, miền Nam còn dưới sự thống trị của đế quốc Mỹ
và tay sai. Cuộc đấu tranh để giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước đặt ra cho nhân dân Việt Nam những nhiệm vụ mới rất nặng
nề. Để đi đến thắng lợi đòi hỏi phải có sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng Lao động Việt Nam, sự đoàn kết toàn dân và sự ủng hộ tích
cực của lực lượng hoà bình tiến bộ trên thế giới, trong đó có nhân
dân Lào, Campuchia anh em.
Đối với nhân dân Lào, Hiệp định Giơnevơ 1954 được ký kết là
một thắng lợi lớn, là bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc của nhân dân các bộ tộc Lào. Độc lập chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ Lào được hội nghị quốc tế thừa nhận. Lực lượng
cách mạng cũng được thừa nhận về pháp lý là một bên đối thoại để
giải quyết nội bộ vấn đề Lào.
Bối cảnh đó đặt mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam trước những thử thách lớn và thời cơ mới đòi hỏi hai
Đảng phải đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau vượt qua mọi khó khăn thử
thách để lãnh đạo nhân dân hai nước tiếp tục giương cao hai ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh đoàn kết ba nước Đông Dương và đoàn kết quốc tế
tạo thành sức mạnh chung đánh thắng kẻ thù.

2. Củng cố và xây dựng lực lượng cách mạng Lào về mọi mặt
a) Hoàn thành chuyển quân, củng cố vùng tập kết của Pathết
Lào
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, trước âm mưu thủ
đoạn mới của đế quốc Mỹ đối với ba nước Đông Dương, đặc biệt
là đối với Việt Nam và Lào, phân tích so sánh lực lượng địch, ta ở
bán đảo Đông Dương, xu thế phát triển chung của tình hình Đông
299
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Nam á và thế giới, Trung ương Mặt trận Lào ítxalạ và Chính phủ
Kháng chiến Lào đã đề ra nhiệm vụ của cách mạng Lào trong giai
đoạn mới là: “đoàn kết toàn dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình
chiến, xây dựng hai tỉnh tập kết thành căn cứ đấu tranh của cả
nước; giữ vững và phát triển cơ sở quần chúng ở các vùng ta vừa
rút quân, dựa vào lực lượng của ta và hiệp định đình chiến mà
thương lượng với Chính phủ Vương quốc, tiến hành tổng tuyển cử
tự do và thành lập Chính phủ Liên hiệp thống nhất, tiến tới xây
dựng một nước Lào dân chủ và hoàn toàn độc lập”1, trong đó đặc
biệt nhấn mạnh nhiệm vụ “bảo vệ và xây dựng hai tỉnh thành căn
cứ cách mạng của cả nước và xây dựng phát triển các lực lượng vũ
trang vững mạnh... là công tác trung tâm mấu chốt nhất trong giai
đoạn này”2.
Thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ 1954, ngày 22
tháng 7 năm 1954, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam
ra lệnh cho các lực lượng vũ trang ngừng bắn trên toàn chiến
trường Việt Nam và quân tình nguyện Việt Nam làm nhiệm vụ
quốc tế ở Lào, Campuchia. Tại Lào, ngày 23 tháng 7 năm 1954,
đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Chính
phủ Kháng chiến Lào ra nhật lệnh ngừng bắn trên toàn lãnh thổ và
thực hiện hiệp định đình chiến ở Lào. Lệnh ngừng bắn chính thức
có hiệu lực từ ngày 6 tháng 8 năm 1954.
Theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, lực lượng quân tình
nguyện Việt Nam sẽ rút khỏi Lào trong thời hạn 120 ngày kể từ
ngày ký đình chiến, cũng trong khoảng thời gian đó, lực lượng
Pathết Lào hoàn thành việc chuyển quân tập kết về hai tỉnh Sầm

1
, 2. Lịch sử quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào trong
kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002,
tr.14-15.
300
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Nưa và Phôngxalỳ.
Triển khai kế hoạch rút quân theo quy định, ngày 28 tháng 8
năm 1954, Đại tá Đặng Tính, Trưởng Đoàn đại biểu quân tình
nguyện Việt Nam và bộ đội Lào ítxalạ cùng với Đại tá Sore, Trưởng
Đoàn đại biểu lực lượng Liên hiệp Pháp và Quân đội Hoàng gia Lào
họp tại Khăng Khay bàn và ký các văn bản quy định những khu vực
đóng quân tạm thời, hành lang rút quân và thời hạn rút quân của các
đơn vị tham chiến ở Lào. Hai bên thoả thuận quy định các khu vực
đóng quân tạm thời cho hai bên tham chiến1.
Sau Hiệp định Giơnevơ, Việt Nam cũng như Lào đã được quốc
tế công nhận là các quốc gia độc lập, có chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ. Mỗi nước tiếp tục xây dựng lực lượng và đấu tranh vì nền độc
lập, thống nhất của mỗi nước. Mối quan hệ đoàn kết liên minh
chiến đấu giữa nhân dân và quân đội hai nước Việt Nam - Lào
trong bối cảnh quốc tế mới đòi hỏi phải tập trung xây dựng lực
lượng, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị nhằm củng
cố hoà bình, thực hiện hoà hợp dân tộc, đưa cách mạng mỗi nước
tiến lên giành thắng lợi mới.
Theo đề nghị của Mặt trận Lào ítxalạ và Chính phủ Kháng
chiến Lào, nhằm tăng cường xây dựng và phát huy khả năng tự lực
của lực lượng Pathết Lào đấu tranh giành thắng lợi trong giai
đoạn cách mạng mới, Đảng Lao động Việt Nam chủ trương tiếp tục
giúp cách mạng Lào toàn diện, cơ bản, trước mắt tập trung giúp

. Khu vực đóng quân tạm thời của các bên tham chiến nhƣ sau:
1

Các đơn vị Lào ítxalạ: Mƣơng Ngan, Mƣơng Pẹc (Xiêng Khoảng), Mƣơng
Ngòi (Luổng Phạbang), Mƣơng Phƣơng (Viêng Chăn), Mƣơng Noòng
(Xavẳnnakhệt), Lao Ngam (Xalavăn), Đoông Phia Phay (Chămpaxắc).
Các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam: Phôngxalỳ, Mƣơng Liệt, Xốp Hào
(Sầm Nƣa), Thulakhôm (Viêng Chăn), Bualapha (Thà Khẹc), Xê Nọi (áttapƣ).
Lực lƣợng thuộc quân đội Liên hiệp Pháp: Cánh đồng Chum, Luổng
Phạbang, Viêng Chăn, Xavẳnnakhệt, Pạc Xê.
301
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

“xây dựng các lực lượng vũ trang, củng cố khu căn cứ hai tỉnh, đào
tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ”1.
Do tình hình Lào và Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ có
những nét đặc thù riêng nên phương thức hợp tác giúp đỡ của Việt
Nam đối với cách mạng Lào cũng cần phải thay đổi cho phù hợp
với tình hình mới. Trên cơ sở bàn bạc thống nhất với Chính phủ
Kháng chiến và Bộ Quốc phòng Lào về các vấn đề chiến lược cách
mạng, trong đó có chiến lược quân sự, Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam chủ trương điều chỉnh tổ chức và bố trí lực lượng từ làm
nhiệm vụ quân tình nguyện sang làm nhiệm vụ cố vấn quân sự thực
hiện ở ba cấp: Bộ Quốc phòng (giúp chung mọi mặt); trường quân
chính (giúp đào tạo, huấn luyện cán bộ) và các đơn vị, địa phương
(mỗi nơi có một tổ cố vấn, gồm một cán bộ tiểu đoàn và một số cán
bộ đại đội).
Về phương châm giúp cách mạng Lào, Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam xác định phải đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng chủ
quyền của Lào. Hết sức đề cao lòng tự tin, tinh thần độc lập tự chủ
của cán bộ Lào, ra sức giúp đỡ bồi dưỡng cán bộ Lào tự đảm đương
lấy nhiệm vụ của Lào theo tinh thần “cách mạng Lào do nhân dân,
cán bộ, chiến sĩ Lào tự làm lấy là chủ yếu; tránh bao biện làm thay,
tránh chủ quan hấp tấp”2.
Triển khai nhiệm vụ giúp cách mạng Lào theo phương thức
mới, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã quyết định thành lập Đoàn 100
do đồng chí Chu Huy Mân làm trưởng đoàn kiêm bí thư Đảng uỷ

1
. Thƣ của Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đồng chí Nguyễn
Khang - Phụ trách Ban Cán sự miền Tây ngày 30 tháng 8 năm 1954, lƣu tại Viện
Lịch sử quân sự Việt Nam.
2
. Lịch sử các đoàn quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào
(1945 - 1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.20.
302
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

sang giúp bộ đội Pathết Lào1.


Sau các buổi làm việc với đồng chí Nguyễn Khang - Uỷ viên
Trung ương Đảng, Phụ trách Ban Cán sự miền Tây, đồng chí
Cayxỏn Phômvihản, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Chính phủ Kháng
chiến Lào; đồng chí Xỉxávạt Kẹo Bunphăn, Phụ trách tham mưu;
Bun Phôm Mahả Xây, Phụ trách chính trị quân đội Pathết Lào, căn
cứ vào tình hình thực tế và yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng và
quân đội Pathết Lào, chỉ huy Đoàn 100 đã tổ chức phân công các
đồng chí trực tiếp làm cố vấn giúp ba cơ quan Bộ Quốc phòng Lào,
Trường Quân chính Cômmađăm, hai tỉnh đội (Sầm Nưa,
Phôngxalỳ) và các địa phương, đơn vị.
Cuối tháng 11 năm 1954, các đơn vị quân đội Pathết Lào trong
cả nước (gồm một số đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân
quân du kích và các nhóm thanh niên yêu nước mới tập trung) tập
kết về hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ2.
Khu tập kết của Pathết Lào gồm hai tỉnh Sầm Nưa, Phôngxalỳ
và một dãy hành lang nối liền hai tỉnh, xuyên qua phía đông tỉnh
Luổng Phạbang, gọi là “Đàn Pẹt” (Tiểu khu 8). Đây là một vùng
đồi núi hiểm trở với diện tích khoảng 32.770 km2, là nơi cư trú của
32 vạn dân gồm nhiều bộ tộc sống xen kẽ nhau, từng là vùng căn
cứ Trung ương của cách mạng Lào trong kháng chiến chống thực
dân Pháp, nối liền với khu Tây Bắc và Liên khu 4 (Việt Nam), đã
hoàn toàn giải phóng, đây là điều kiện tốt để phát triển mối quan

. Đoàn uỷ Đoàn 100 buổi đầu sang giúp cách mạng Lào gồm các đồng chí:
1

Chu Huy Mân, Lê Tiến Phục, Nguyễn Đức Phƣơng, Võ Quốc Vinh và Đinh Văn
Tuy, do đồng chí Chu Huy Mân làm bí thƣ. Biên chế tổ chức Đoàn 100 gồm các
tổ cố vấn: Tham mƣu, Chính trị, Hậu cần, Trƣờng Quân chính Cômmađăm và tổ
cố vấn các địa phƣơng, đơn vị.
2
. Các lực lƣợng cách mạng Lào tập kết về hai tỉnh gồm 8.138 ngƣời, cộng
với lực lƣợng tại chỗ (1.000 ngƣời của hai tỉnh Sầm Nƣa và Phôngxalỳ), tổng số
là 9.138 ngƣời.
303
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

hệ giúp đỡ lẫn nhau giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt -
Lào.
Tuy nhiên, đời sống của nhân dân hai tỉnh Sầm Nưa và
Phôngxalỳ còn nhiều khó khăn, cơ sở cách mạng ở nhiều địa
phương chưa được củng cố; nền kinh tế nghèo nàn, chậm phát
triển, đời sống của nhân dân còn rất thiếu thốn. Bọn phỉ và tay sai
phản động địa phương còn khống chế một số vùng; chính quyền
các cấp đang hình thành, chưa phát huy được hiệu lực quản lý,
chính sách còn nhiều bất cập. Nguồn bảo đảm vật chất, đời sống
cho Chính phủ Kháng chiến Lào và quân đội chủ yếu dựa vào sự
đóng góp của nhân dân hai tỉnh và sự viện trợ của Việt Nam nên
còn nhiều hạn chế.
Căn cứ vào yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang đáp ứng
nhiệm vụ cách mạng Lào trước mắt cũng như lâu dài, lãnh đạo và
chỉ huy Đoàn 100 đã đi sâu nắm tình hình mọi mặt để xây dựng đề
án tổ chức lực lượng giúp quân đội Pathết Lào. Dựa vào kinh
nghiệm của Việt Nam trong giai đoạn đầu xây dựng lực lượng vũ
trang, Đoàn 100 đề xuất phương án tổ chức xây dựng quân đội
Pathết Lào gồm cơ quan Bộ Quốc phòng, một số tiểu đoàn bộ binh
và đơn vị trợ chiến.
Đầu tháng 12 năm 1954, tại một địa điểm ở khu vực bản Cang
Thạt và Cang Mùng thuộc huyện Mương Xôi, tỉnh Sầm Nưa, Hội
nghị quân chính Lào do đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng Chính phủ Kháng chiến Lào chủ trì đã thông qua
đề án xây dựng lực lượng vũ trang Pathết Lào.
Cũng tại Hội nghị này, trên cơ sở đề án xây dựng lực lượng
vũ trang Pathết Lào đã được xác định, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Lào nhấn mạnh nhiệm vụ cơ bản của quân đội Pathết Lào trong
thời gian tới là: “khuếch trương và củng cố các lực lượng vũ trang
Pathết Lào thành một quân đội cách mạng vững mạnh, có đủ khả
304
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

năng trước mắt phá tan được âm mưu quân sự của đối phương, bảo
vệ khu tập kết, hậu thuẫn vững chắc cho đấu tranh chính trị; về lâu
dài, nếu địch gây lại chiến tranh thì sẽ trở thành lực lượng nòng cốt
cho cuộc vũ trang toàn dân để tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân,
giải phóng hoàn toàn đất nước”1. Hội nghị cũng xác định phương
châm xây dựng quân đội Pathết Lào phải nắm vững những nội
dung chủ yếu: “lấy giáo dục chính trị tư tưởng làm chính, bồi
dưỡng cán bộ làm trọng tâm; tổ chức gọn nhẹ, dựa theo tính chất
dân tộc, thích hợp với trình độ chỉ huy của cán bộ, điều kiện chiến
trường và khả năng cung cấp tại chỗ; xây dựng bộ đội chủ lực,
đồng thời với xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích;
xây dựng đơn vị đồng thời xây dựng cơ quan; tăng cường xây dựng
hệ thống lãnh đạo của Đảng và hệ thống công tác chính trị trong
quân đội”2.
Sau Hội nghị quân chính tháng 12 năm 1954, Bộ Quốc phòng
Chính phủ Kháng chiến Lào quyết định thực hiện biểu biên chế
mới trong toàn quân. Theo đó, quân đội Pathết Lào có lực lượng
chủ lực tập trung và lực lượng vũ trang địa phương ở hai tỉnh. Biên
chế gồm: 3 cơ quan Bộ Quốc phòng (tham mưu, chính trị, hậu cần);
Trường Quân chính Cômmađăm; 9 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn
trợ chiến, 1 tiểu đoàn vận tải, 3 đại đội (thông tin, quân báo, công
binh), 1 trung đội bảo vệ cơ quan, 12 đại đội độc lập và đại đội địa
phương, 2 cơ quan tỉnh đội là Sầm Nưa và Phôngxalỳ. Tổng số có
7.267 cán bộ, chiến sĩ, trong đó có 67 cán bộ tiểu đoàn, 227 cán bộ
đại đội, 557 cán bộ trung đội, 1.517 cán bộ tiểu đội3.
Tập kết về hai tỉnh với quân số gần một vạn người, việc bảo
đảm đời sống cho cán bộ, chiến sĩ, phục vụ kịp thời các yêu cầu

, 2, 3. Lịch sử Quân đội nhân dân Lào, Nxb. Quân đội nhân dân Lào, Viêng
1

Chăn, 1996. Bản dịch tiếng Việt, lƣu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr.116,
117.
305
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

xây dựng chiến đấu của quân đội Pathết Lào là một nhiệm vụ rất
nặng nề trong điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật của Pathết Lào hầu
như không có gì. Để giúp quân đội Pathết Lào bảo đảm hậu cần
hàng ngày cho các cơ quan, đơn vị, Tổng cục Hậu cần Quân đội
nhân dân Việt Nam đã giúp quân đội Pathết Lào xây dựng nguồn
và tổ chức hệ thống cung cấp, bảo đảm ăn mặc cho cán bộ, chiến sĩ,
đồng thời đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hậu cần kỹ thuật trong
các cơ quan, đơn vị của Pathết Lào để cán bộ Lào từng bước tự
đảm đương nhiệm vụ.
Với sự giúp đỡ của Bộ Quốc phòng Việt Nam, quân đội Pathết
Lào đã tổ chức xây dựng được một bệnh viện quân đội 40 giường,
một cơ sở chế biến dược phẩm, tổ chức một số đội phẫu thuật, đội
sửa chữa vũ khí, khí tài lưu động phục vụ nhiệm vụ sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu.
Đối với việc xây dựng, củng cố khu căn cứ tập kết hai tỉnh
Sầm Nưa và Phôngxalỳ, theo yêu cầu của Chính phủ Kháng chiến
và Bộ Quốc phòng Lào, phối hợp với Ban Cán sự miền Tây, Đoàn
100 cử tổ cố vấn do đồng chí Nguyễn Hữu Nghị, Trung đoàn phó
phụ trách giúp tỉnh đội Sầm Nưa và tổ do đồng chí Đinh Văn Tuy,
Trung đoàn trưởng phụ trách tỉnh đội Phôngxalỳ cùng với các tổ
cố vấn tiểu đoàn giúp Lào xây dựng vững chắc khu tập kết hai
tỉnh.
Thực hiện chỉ thị của Bộ Chỉ huy tối cao Lào, các cơ quan, đơn
vị Pathết Lào ở các khu vực đóng quân có cố vấn Việt Nam giúp đỡ
đã tổ chức các đội chuyên trách công tác xây dựng cơ sở quần chúng,
giúp dân sản xuất, tổ chức khám, chữa bệnh cho nhân dân, dạy văn
hoá cho thanh niên, tuyên truyền về tình đoàn kết quân dân hai
nước Việt - Lào. Các cơ quan chính quyền ở hai tỉnh Sầm Nưa,
Phôngxalỳ đã tích cực phát động nhân dân tăng gia sản xuất, thực
hiện các chủ trương của Chính phủ Kháng chiến Lào. Nhờ đó, đời
306
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

sống của nhân dân các bộ tộc Lào trên địa bàn hai tỉnh đã được cải
thiện đáng kể, cơ sở quần chúng được tăng cường, củng cố ngày
càng vững chắc. Trong số 1.572 bản đã có 1.327 bản xây dựng
được cơ sở đoàn thể cách mạng và lực lượng du kích. ở nhiều nơi,
nhân dân tích cực đi dân công, động viên con em tham gia quân đội
Pathết Lào.
Không những hoàn thành nhiệm vụ chuyển quân tập kết nhanh
gọn, mà việc triển khai kế hoạch xây dựng, phát triển lực lượng vũ
trang cách mạng, giữ vững địa bàn tập kết hai tỉnh cũng được
nhanh chóng triển khai, tạo điều kiện ban đầu rất quan trọng để Mặt
trận Lào ítxalạ và Chính phủ Kháng chiến Lào tiếp tục củng cố lực
lượng đấu tranh, bảo vệ thành quả cách mạng.
b) Thành lập Đảng Nhân dân Lào
Cuối năm 1954 đầu năm 1955, tình hình Lào diễn biến rất phức
tạp do đế quốc Mỹ và bọn tay sai tăng cường các hoạt động phá
hoại Hiệp định Giơnevơ, cản trở hiệp thương chính trị.
Ngày 6 tháng 1 năm 1955, Hội nghị hiệp thương chính trị giữa
Neo Lào ítxalạ và Chính phủ Vương quốc Lào khai mạc tại Cánh
đồng Chum, tỉnh Xiêng Khoảng thì ngày 18 tháng 1 năm 1955 phải
ngừng do phái đoàn Chính phủ Vương quốc Lào tự ý bỏ về Viêng
Chăn1.
Trước áp lực của phong trào đấu tranh đòi hoà bình, đòi
nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Giơnevơ ở trong nước và dư luận

. Hội nghị hiệp thƣơng chính trị tại Cánh đồng Chum, tỉnh Xiêng Khoảng giữa
1

Neo Lào ítxalạ và Chính phủ Vƣơng quốc Lào khai mạc ngày 6 tháng 1 năm 1955.
Đoàn đại biểu Mặt trận Lào ítxalạ gồm ba thành viên do ông Phumi Vôngvichít,
Phó Thủ tƣớng kiêm Bộ trƣởng Bộ Nội vụ Chính phủ Kháng chiến Lào, làm
trƣởng đoàn. Đoàn đại biểu Vƣơng quốc Lào gồm sáu thành viên do ông
Thoongđi, Bộ trƣởng Bộ Canh nông trong chính phủ của Cátài, tay chân thân tín của
Cátài, làm trƣởng đoàn.
307
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

quốc tế, ngày 3 tháng 2 năm 1955, Hội nghị hiệp thương chính trị
giữa Neo Lào ítxalạ và Chính phủ Vương quốc Lào tại Cánh đồng
Chum được nối lại, hai bên tiếp tục thảo luận các vấn đề còn tồn tại
từ các phiên họp trước.
Sau hơn một tháng hiệp thương, ngày 9 tháng 3 năm 1955, Hội
nghị hiệp thương chính trị giữa Neo Lào ítxalạ và Chính phủ
Vương quốc Lào tại Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng ra tuyên bố
chung cam kết: chấm dứt ngay mọi hoạt động công kích lẫn nhau;
hai bên ra lệnh cho các lực lượng vũ trang đình chỉ mọi hoạt động
tấn công quân sự; hai bên thoả thuận chuyển địa điểm Hội nghị
hiệp thương chính trị từ Cánh đồng Chum, tỉnh Xiêng Khoảng về
Viêng Chăn.
Việc ký tuyên bố chung tại Hội nghị hiệp thương chính trị là
thắng lợi bước đầu của Neo Lào ítxalạ trong việc đấu tranh đòi đối
phương thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954 về Lào. Song, đế quốc
Mỹ và bọn tay sai vẫn tích cực chuẩn bị lực lượng quân sự để thực
hiện âm mưu thôn tính hai tỉnh tập kết.
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới của cuộc kháng chiến, những
người cộng sản Lào nhận thấy phải nhanh chóng tổ chức Đại hội
thành lập Đảng để lãnh đạo cách mạng Lào thực hiện những nhiệm
vụ cấp bách đang đặt ra.
Trải qua một quá trình dày công chuẩn bị, bằng sự nỗ lực vượt
bậc của những cán bộ, đảng viên ở các cơ sở cách mạng và Ban
Vận động thành lập Đảng Nhân dân Lào, được sự giúp đỡ chí tình
của cán bộ chuyên gia Việt Nam, đến đầu năm 1955, các điều kiện
để tiến tới thành lập Đảng của Lào đã chín muồi.
Từ ngày 22 tháng 3 đến 6 tháng 4 năm 1955, tại một địa điểm
gần biên giới Việt Nam - Lào, Đại hội thành lập Đảng Nhân dân
308
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Lào đã được tiến hành. Dự Đại hội có 19 đại biểu1 của Đảng Cộng
sản Đông Dương trước đây, thay mặt cho gần 300 đảng viên trong
cả nước.
Đại hội đã nghe đồng chí Cayxỏn Phômvihản trình bày báo
cáo về công tác chuẩn bị thành lập Đảng, trong đó xác định rõ yêu
cầu cấp bách phải tổ chức chính đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động Lào. Đảng Nhân dân Lào lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin làm kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Tổ chức của
Đảng gồm những người tiêu biểu trong cán bộ, chiến sĩ, quần
chúng nhân dân, là những người có lòng yêu nước thương nòi,
quyết tâm chống đế quốc vì lợi ích của dân tộc và nhân dân các bộ
tộc Lào.
Cùng với việc khẳng định Đảng Nhân dân Lào là đảng theo chủ
nghĩa Mác - Lênin, đại biểu chân chính của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, Đại hội đã xác định nhiệm vụ chung của Đảng
trong giai đoạn này là đoàn kết lãnh đạo toàn dân phấn đấu hoàn
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thực hiện một nước Lào hoà
bình, dân chủ, thống nhất và độc lập. Để thực hiện các mục tiêu
trên, Đảng chủ trương hợp tác với chính quyền Viêng Chăn, với các
lực lượng tiến bộ khác để cùng nhau thực hiện Hiệp định đình
chiến 1954, bảo vệ độc lập chủ quyền của Lào. Đảng xác định kẻ
thù của dân tộc là đế quốc Mỹ và bọn tay sai bán nước, phản dân
tộc.
Sau khi nghe các đại biểu thảo luận về tình hình trong nước,
tình hình thế giới, thế và lực cũng như những yêu cầu, nhiệm vụ
mới của cách mạng Lào, Đại hội đã đi đến thống nhất những chính

. Theo danh sách có 20 đồng chí, nhƣng vắng một đồng chí, chỉ có 19 đồng
1

chí dự Đại hội.


309
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

sách căn bản và chương trình hành động 12 điểm1.


Sau khi thông qua Báo cáo chính trị, Chính sách cơ bản, Cương
lĩnh hành động, Điều lệ Đảng, Đại hội đã bầu Ban Chỉ đạo toàn quốc
gồm năm đồng chí: Cayxỏn Phômvihản, Nủhắc Phumxavẳn,
Khăm Xẻng, Xỉxávạt Kẹo Bunphăn và Bun Phôm Mahả Xây. Đồng
chí Cayxỏn Phômvihản được bầu làm trưởng Ban Chỉ đạo2.

1
. Chƣơng trình hành động 12 điểm gồm: 1. Chống đế quốc Mỹ và thực dân
Pháp phá hoại Hiệp định đình chiến và bè lũ tay sai của chúng đang âm mƣu phá
hoại hoà bình, chia rẽ dân tộc ta, lôi cuốn nƣớc ta vào các khối xâm lƣợc và kéo
dài trình trạng nô dịch nƣớc ta; 2. Kêu gọi chính phủ nhà vua và các lực lƣợng yêu
nƣớc phải hợp tác với nhau một cách thực sự để thi hành Hiệp định đình chiến,
củng cố hoà bình, thực hiện đƣợc dân chủ, tiến hành tổng tuyển cử tự do để thống
nhất nƣớc Lào, thành lập Chính phủ Liên hiệp dân tộc và hoàn thành độc lập dân
tộc; 3. Đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi trên
cơ sở liên minh công - nông; 4. Xây dựng, củng cố lực lƣợng vũ trang và bán vũ
trang để giữ vững căn cứ địa, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh chính trị; 5. Cải
thiện đời sống cho các tầng lớp nhân dân, bảo đảm cho công nhân có công ăn việc
làm, nông dân có ruộng, phát triển nông nghiệp, những ngƣời lao động bằng trí óc
cần đƣợc trọng dụng và giúp đỡ để phát triển tài năng; 6. Thực hiện các quyền tự
do dân chủ cho nhân dân, tự do ngôn luận báo chí, tự do hội họp, tự do đi lại; 7.
Thực hiện nam, nữ bình quyền, chính sách dân tộc bình đẳng và đoàn kết, xoá bỏ
các thù hằn, chia rẽ các dân tộc trong nƣớc do thực dân, phong kiến gây ra; 8. Tôn
trọng tự do tín ngƣỡng và phong tục tập quán của nhân dân, xoá nạn mù chữ, phát
triển nền văn hoá của dân tộc; 9. Bảo đảm tính mạng, tài sản và quyền tự do kinh
doanh của ngoại kiều sinh sống ở Lào; ngoại kiều phải tôn trọng chủ quyền độc
lập của Lào; 10. Xây dựng mối quan hệ hữu nghị với tất cả những nƣớc tôn trọng
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Lào. Đặt quan hệ về mọi mặt giữa
Lào và các nƣớc khác trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên đều có lợi; 11. Tích
cực đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, đặc biệt chú trọng công, nông, cán bộ của các dân
tộc thiểu số; 12. Ra sức xây dựng Đảng Nhân dân Lào thành một đảng mạnh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, có đủ sức lãnh đạo cuộc cách mạng Lào
đi đến thắng lợi cuối cùng.
2
. Đến tháng 8 năm 1956, Ban Chỉ đạo đƣợc bổ sung thêm ba đồng chí:
Xuphanuvông, Phumi Vôngvichít, Phun Xipaxợt.
310
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Trong các ngày 14, 15, 16 tháng 4 năm 1955, Ban Chỉ đạo của
Đảng họp phiên đầu tiên, đặt kế hoạch xây dựng đảng, tổ chức các
cơ quan làm việc, định ra lề lối làm việc của Ban Chỉ đạo và Ban
Cán sự.
Đảng Nhân dân Lào ra đời là sự đơm hoa kết trái của cả quá
trình đấu tranh anh dũng của nhân dân Lào trong suốt những năm
đấu tranh chống sự thống trị của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, là
mốc son lịch sử “đánh dấu sự phát triển vượt bậc và bước ngoặt vĩ
đại trong lịch sử cách mạng Lào”1.
Với việc thành lập Đảng Nhân dân Lào, tổ chức tiên phong của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động Lào, cách mạng Lào từ
đây bước sang giai đoạn mới, giai đoạn nhân dân các bộ tộc Lào
đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, xây dựng một
nước Lào hoà bình, độc lập, thống nhất và phồn vinh. Từ đây, liên
minh Việt - Lào chuyển sang thời kỳ mới, từ chỗ chung một đảng,
nay là quan hệ tự nguyện liên minh hợp tác cùng nhau chiến đấu
chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ, giành độc lập tự do cho mỗi
dân tộc. Sau khi thành lập Đảng, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào
đã gửi điện cảm ơn đến Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, bày tỏ lòng cảm ơn trước sự
giúp đỡ của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với cách mạng Lào.
Bức điện có đoạn: “Chúng tôi thành công trong việc thành lập
Đảng Nhân dân Lào là nhờ công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
theo dõi, dìu dắt và sự giúp đỡ vô điều kiện của Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam trong thời gian qua”2.

. Cayxỏn Phômvihản: 25 năm chiến đấu và thắng lợi của Đảng Nhân dân
1

cách mạng Lào, Sđd, 1980.


2
. C100 (năm 1978), tình đoàn kết Việt - Lào, lƣu tại Thƣ viện Quân đội, ký
hiệu 327, T4055, tr.32.
311
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Cũng trong tháng 4 năm 1955, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân
Lào họp ra nghị quyết thành lập Đảng uỷ Quân sự Trung ương gồm
ba đồng chí, do đồng chí Cayxỏn Phômvihản làm bí thư Đảng uỷ
Quân sự Trung ương và chỉ huy tối cao các lực lượng vũ trang
Pathết Lào.
Đảng uỷ Quân sự Trung ương Lào được thành lập đã tạo cơ sở
vững chắc để tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng Nhân dân
Lào đối với quân đội Pathết Lào, đáp ứng tình hình mới, đồng thời
đẩy mạnh quan hệ đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau giữa hai Đảng, quân
đội hai nước Việt - Lào.
c) Củng cố, mở rộng Mặt trận thống nhất dân tộc Neo Lào
Hắc Xạt
Ngày 19 tháng 4 năm 1955, Hội nghị hiệp thương chính trị giữa
phái đoàn Neo Lào ítxalạ và Chính phủ Vương quốc Lào nhóm họp
trở lại ở Viêng Chăn. Nhưng Hội nghị chỉ họp được ba ngày lại bị
gián đoạn do phía Chính phủ Vương quốc Lào đưa ra những đề
nghị ngang ngược không thể chấp nhận được1. Để tạo thế hợp pháp
cho việc thực hiện mưu đồ thôn tính hai tỉnh tập kết và thủ tiêu lực
lượng vũ trang cách mạng, sau khi tuyên bố tổ chức tổng tuyển cử
riêng, ngày 28 tháng 5 năm 1955, Chính phủ Vương quốc Lào, do
Cátài Đônxảxổlít làm thủ tướng, cho thành lập “đặc khu hành
quân” để chỉ huy đánh chiếm hai tỉnh Sầm Nưa, Phôngxalỳ. Chúng
huy động 2/3 số quân2 cùng với hàng nghìn tên biệt kích do hai
tướng Bunpon và Xẳng chỉ huy, mở các cuộc tấn công quy mô lớn

1
. Đây là lần thứ năm Hội nghị hiệp thƣơng chính trị giữa hai bên bị gián
đoạn, kể từ phiên họp đầu tiên (ngày 6 tháng 1 năm 1955).
2
. ở thời điểm này, quân nguỵ Lào đã tăng lên 25.000 tên, không kể các sĩ
quan cố vấn Pháp, Mỹ và dân vệ.
312
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

vào hai tỉnh tập kết của Mặt trận Lào ítxalạ.
Trước những diễn biến phức tạp ở Lào, ngày 2 tháng 7 năm
1955, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào họp ra Nghị quyết 2 về tình
hình và nhiệm vụ cách mạng Lào trong giai đoạn mới. Nhận định
về tình hình, so sánh tương quan lực lượng địch - ta, Nghị quyết chỉ
rõ: “Sau gần một năm thi hành Hiệp định Giơnevơ, ảnh hưởng của
Mặt trận Lào ítxalạ lan rộng hơn trước, cơ sở quần chúng được giữ
vững và phát triển, lực lượng vũ trang được xây dựng và củng cố.
Song nhìn chung, sự phát triển về mọi mặt vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu của tình hình... So sánh tương quan lực lượng hiện tại thì
địch còn mạnh hơn ta, ta gặp nhiều khó khăn hơn địch...”1.
Xuất phát từ thực tiễn đặc điểm, tình hình, tương quan lực
lượng, Nghị quyết nhận định tình hình sắp tới có thể diễn ra một
trong ba khả năng:
- Lực lượng cách mạng duy trì được cuộc đấu tranh chính trị,
quân sự, giữ vững hai tỉnh tập kết, tình hình sẽ giằng co như hiện
nay và có thể kéo dài.
- Địch lấn được hai tỉnh, thành lập được chính quyền, lực lượng
cách mạng tạm thời phải rút vào bí mật.
- Do sự nỗ lực chủ quan kết hợp tình hình khách quan, phong
trào đấu tranh phát triển mạnh mẽ trong cả nước, lực lượng cách
mạng lớn mạnh hẳn lên buộc địch phải thương lượng với Neo Lào
ítxalạ, thành lập Chính phủ liên hiệp thì chúng sẽ dùng thủ đoạn
diễn biến hoà bình, mua chuộc, chia rẽ nội bộ để gạt bỏ lực lượng
cách mạng.
Từ phân tích các khả năng, Nghị quyết đề ra nhiệm vụ và một
số công tác trước mắt của cách mạng Lào là:
- Kiên trì đấu tranh chính trị, đòi phía Chính phủ Vương quốc

. Nguyễn Văn Vinh: Những sự kiện lịch sử ở Lào (1353 - 1975), Nxb. Lao
1

động, Hà Nội, 2008, tr.277.


313
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Lào thi hành Hiệp định đình chiến, thành thực thương lượng, thực
hiện tự do dân chủ, tiến hành tổng tuyển cử tự do, thống nhất nước
nhà, hoàn thành độc lập dân tộc.
- Đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất, kiên trì
đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao, giữ vững và phát triển cơ
sở quần chúng. Bảo vệ và xây dựng hai tỉnh tập kết thành căn cứ
địa cách mạng cho cả nước.
- Xúc tiến xây dựng đảng và tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, làm cho mọi
người hiểu rõ cuộc đấu tranh của nhân dân Lào còn phải lâu dài,
gian khổ, phức tạp nhưng cách mạng Lào nhất định vượt qua mọi
khó khăn thử thách để đi đến thắng lợi hoàn toàn. Đồng thời, quán
triệt sâu sắc sách lược đấu tranh của cách mạng Lào lúc này là tập
trung mũi nhọn vào đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai cực đoan phản
động. Đoàn kết tranh thủ bất kỳ phe phái, cá nhân nào có thể tranh
thủ đoàn kết được để phân hoá cô lập kẻ thù.
Trong tháng 8 và tháng 9 năm 1955, cùng với việc triển khai
thực hiện các nhiệm vụ và một số công tác trước mắt đã được Nghị
quyết Trung ương 2 xác định, Neo Lào ítxalạ khẩn trương chuẩn bị
mọi mặt thành lập ban vận động toàn quốc để lập ra một mặt trận
mới. Sau khi Hoàng thân Xuphanuvông, đại diện Neo Lào ítxalạ và
Cátài, Thủ tướng Chính phủ Vương quốc Lào gặp nhau tại
Rănggun (ngày 11 tháng 10 năm 1955) ký hiệp định về đình chỉ
mọi xung đột vũ trang ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ, ngày
12 tháng 10 năm 1955, Neo Lào ítxalạ đã tổ chức hội nghị trù bị
để chuẩn bị thành lập một mặt trận mới trên cơ sở mở rộng Neo
Lào ítxalạ. Hội nghị đã dự thảo Điều lệ, Cương lĩnh của mặt trận,
lập Ban Vận động mặt trận toàn quốc; phổ biến, tuyên truyền các
chủ trương chính sách của mặt trận, đồng thời định thời gian triệu
tập Đại hội toàn quốc. Hội nghị trù bị đã bầu Ban Vận động mặt trận
314
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

toàn quốc gồm 29 thành viên, do Hoàng thân Xuphanuvông làm chủ
tịch.
Trước bước phát triển mới của cách mạng Lào, để thực hiện Nghị
quyết của Đảng Nhân dân Lào (tháng 7 năm 1955) về đẩy mạnh cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, từ ngày 6 đến 31 tháng 1 năm 1956, Uỷ
ban Trung ương Neo Lào ítxalạ đã tiến hành Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II tại một địa điểm thuộc tỉnh Sầm Nưa.
Tham dự Đại hội có đông đủ đại biểu thay mặt các tầng lớp
nhân dân, các tôn giáo, đảng phái, nhân sĩ yêu nước trong toàn
quốc. Đại hội khẳng định, Mặt trận đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình, nay tình hình đã thay đổi, cần phải mở rộng Mặt trận
thống nhất dân tộc.
Sau khi thảo luận báo cáo chính trị của Ban Vận động thành lập
Mặt trận thống nhất, Đại hội đã thông qua cương lĩnh chính trị 12
điểm, trong đó nêu lên nhiệm vụ chủ yếu của Mặt trận là:
- Đoàn kết toàn dân trong Mặt trận để đấu tranh đòi thi hành
triệt để Hiệp định Giơnevơ, làm cho nước Lào hoà bình, độc lập,
dân chủ, thống nhất và thịnh vượng.
- Giữ vững và phát triển lực lượng yêu nước của nhân dân Lào,
tạo cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh chính trị của dân tộc.
Mặt trận chủ trương: về đối ngoại, theo đuổi chính sách hoà
bình trung lập, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân yêu
chuộng hoà bình trên thế giới; về đối nội, tiếp tục thực hiện đường
lối hoà hợp dân tộc, thống nhất quốc gia, tôn trọng ngôi vua, tôn
giáo, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân.
Về kinh tế - xã hội, tích cực chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân. Ban hành chính sách thuế khoá hợp lý, giúp đỡ nông
dân đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm công ăn việc làm cho công nhân,
chăm lo giáo dục - y tế, phát triển và bảo vệ nền văn hoá dân tộc.
Để phù hợp với yêu cầu lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn
315
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

mới, Đại hội quyết định đổi tên Neo Lào ítxalạ thành Neo Lào Hắc
Xạt (Mặt trận Lào yêu nước). Đổi tên tờ báo Lào ítxalạ - cơ quan
ngôn luận của Mặt trận (thực chất là của Đảng Nhân dân Lào, vì
lúc này Đảng chưa ra hoạt động công khai) - thành Lào Hắc Xạt.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Neo Lào Hắc Xạt
gồm 47 đại biểu, đại diện cho các tầng lớp nhân dân, các dân tộc,
tôn giáo trong cả nước do Hoàng thân Xuphanuvông làm chủ tịch,
các ông Phayđang Lô Blia Yao đại diện cho dân tộc Lào Xủng;
Xỉthôn Cômmađăm đại diện cho các bộ tộc Lào Thơng được bầu
làm phó chủ tịch.
Ngoài ra, Đại hội còn quyết nghị thông qua một số văn kiện
quan trọng như:
- Điện văn gửi Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Kiến nghị gửi Uỷ ban quốc tế giám sát và kiểm soát đình
chiến ở Lào, đòi phía Chính phủ Vương quốc Lào phải thi hành
nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ và các hiệp định về đình chỉ xung
đột vũ trang giữa hai bên.
- Thông qua tuyên bố phản đối Chính phủ Vương quốc Lào tổ
chức tổng tuyển cử riêng rẽ (ngày 25 tháng 12 năm 1955).
Đại hội thành công đánh dấu bước phát triển mới của cách
mạng Lào, là sự biểu dương ý chí đoàn kết thống nhất của nhân dân
các bộ tộc Lào trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sau Đại hội, Chủ tịch Xuphanuvông ra tuyên bố về chính sách
hoà bình trung lập của Lào, kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên
đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bọn phản động tay sai phá hoại
Hiệp định Giơnevơ 1954; đòi phía Chính phủ Vương quốc Lào
phải hợp tác thực sự với Pathết Lào trong việc thực hiện Hiệp định
Giơnevơ; kêu gọi lực lượng cách mạng kiên quyết chiến đấu bảo vệ
hai tỉnh tập kết.
316
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

II. PHỐI HỢP VIỆT NAM - LÀO ĐẤU TRANH THỰC HIỆN
HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ, TIẾN TỚI THÀNH LẬP CHÍNH PHỦ LIÊN
HIỆP LÀO LẦN THỨ NHẤT

1. Đế quốc Mỹ và lực lượng phản động tay sai tăng cường


phá hoại Hiệp định Giơnevơ 1954
Trong khi các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam tiến hành việc
rút quân khỏi Lào và các đơn vị chiến đấu Pathết Lào thực hiện
việc chuyển quân tập kết về hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ thì đế
quốc Mỹ thông qua các thế lực phản động Lào do Cátài Đônxảxổlít
và Phủi Xánánicon đứng đầu ráo riết tiến hành các hoạt động phá
hoại Hiệp định Giơnevơ 1954.
Để chấn chỉnh bộ máy nguỵ quyền thân Pháp không ăn cánh
với Mỹ và loại trừ những người có xu hướng tiến bộ, Mỹ cho tay
chân ám sát Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Cúvoravông (người có xu
hướng hoà bình trung lập trong Chính phủ Vương quốc Lào và
không tán thành kế hoạch tấn công hai tỉnh tập kết của Pathết Lào
do Mỹ vạch ra). Tiếp đó, trong tháng 11 năm 1954, đế quốc Mỹ và
tập đoàn tay sai dùng áp lực buộc Thủ tướng Hoàng thân Xuvănna
Phuma (một nhân vật thuộc phái ôn hoà, đồng thời là anh em cùng
cha khác mẹ với Hoàng thân Xuphanuvông, lãnh tụ Pathết Lào)
phải từ chức và đưa Cátài Đônxảxổlít, một tay sai cực đoan thân
Mỹ, lên làm thủ tướng.
Dưới áp lực của Mỹ, ngày 24 tháng 11 năm 1954, Vua Lào chỉ
định Cátài đứng ra lập chính phủ mới gồm 11 thành viên, phần lớn
là lực lượng thân Mỹ.
Vừa lên làm thủ tướng, Cátài đã công khai bài trừ Pháp, ra sức
xuyên tạc Hiệp định Giơnevơ, vu cáo Pathết Lào, Việt Nam. Một
mặt phá thương lượng với Pathết Lào, mặt khác ra sức phát triển
lực lượng vũ trang, cho quân chiếm đóng trái phép nhiều điểm
317
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

thuộc hai tỉnh tập kết của Pathết Lào. Ngày 31 tháng 12 năm 1954,
chính phủ Cátài huy động một lực lượng lớn quân đội tấn công hai
tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ, đồng thời tiến hành khủng bố những
người tham gia kháng chiến cũ trong phạm vi cả nước hòng uy hiếp
tinh thần, dập tắt phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định
Giơnevơ của nhân dân Lào.
ở 10 tỉnh1 dưới quyền kiểm soát của Chính phủ Vương quốc
Lào, tính từ tháng 8 năm 1954 đến tháng 4 năm 1955, quân đội
Vương quốc Lào đã mở trên 200 cuộc hành quân khủng bố, cướp
bóc tài sản của nhân dân tại các khu căn cứ cũ của Neo Lào ítxalạ.
Chúng trả thù, sát hại và bắt giam trên 1.000 người yêu nước kháng
chiến cũ. Tại các bản làng, chúng tổ chức các đội vũ trang dân vệ,
hình thành bộ máy kìm kẹp ở nông thôn.
Cùng với đẩy mạnh các cuộc tấn công lấn chiếm, phía quân đội
Vương quốc Lào còn ráo riết tổ chức lực lượng vũ trang ngầm ở hai
tỉnh tập kết. Đến tháng 12 năm 1955, quân đội Vương quốc Lào đã
thâm nhập kiểm soát 131 bản trong số 974 bản của toàn tỉnh Sầm
Nưa, đồng thời chúng sử dụng lực lượng từ một đại đội trở lên
chiếm đóng một số vị trí quan trọng của Pathết Lào như Mương
Pơn, Huội Thầu, Na Noọng, Tích Lang, Na Keng, Phả Kha, Phả
Thí, Huội Nhạ, Hủa Mường, Mương Lạp...
ở Phôngxalỳ, với ba tiểu đoàn chủ lực, năm đại đội địa phương,
600 quân phỉ các loại, quân đội Chính phủ Vương quốc Lào đã tổ
chức nhiều cuộc tấn công vào Hạt Nang, phía tây nam Mương
Khỏa, Huội Hoọc, Na Vải thuộc huyện Mương Bun và càn quét
dọc sông Nặm Bút (phía nam Mương Khỏa). Đến cuối năm 1955,
quân đội Vương quốc Lào đã chiếm giữ 195 bản trong tổng số 598

1
. Mƣời tỉnh gồm Huội Xài, Bò Kẹo, Luổng Phạbang, Xiêng Khoảng, Viêng
Chăn (Thƣợng Lào), Khăm Muộn, Xavẳnnakhệt (Trung Lào), Xalavăn, áttapƣ,
Chămpaxắc (Hạ Lào).
318
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

bản của tỉnh Phôngxalỳ. Ngoài ra quân đội Vương quốc Lào còn
cho hai tiểu đoàn đóng ở Hạt Xả, Xốp Chai (thuộc tỉnh Luổng
Phạbang) giáp Phôngxalỳ để uy hiếp các lực lượng Pathết Lào.

2. Đẩy mạnh đấu tranh thực hiện Hiệp định Giơnevơ, thành
lập Chính phủ liên hiệp Lào lần thứ nhất
Dự kiến đúng đắn các khả năng đế quốc Mỹ và lực lượng
phản động tay sai tăng cường phá hoại Hiệp định Giơnevơ, ngay
khi Hiệp định Giơnevơ chưa được ký kết, tại Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khoá II
(tháng 7 năm 1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo “về tình
hình mới và nhiệm vụ mới”, khi phân tích tình hình trong nước và
quốc tế đã nêu rõ: “hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân
dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của
nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống
đế quốc Mỹ. Bất kỳ người nào, nước nào không thân Mỹ đều có
thể làm một mặt trận thống nhất (dù là tạm thời) với ta”1. Đối với
Lào và Campuchia, báo cáo nhấn mạnh: Việt Nam phải giúp đỡ
nhân dân Lào và Campuchia đào tạo cán bộ, củng cố và mở rộng
mặt trận thống nhất, đòi lập lại hoà bình ở Đông Dương trên cơ sở
tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
ba dân tộc.
Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, theo yêu cầu của Chính phủ Kháng
chiến Lào, Đảng và Nhà nước Việt Nam quyết định để lại một bộ
phận chuyên gia tiếp tục giúp đỡ cách mạng Lào. Tổng số chuyên gia
gồm 964 đồng chí, trong đó có 314 người thuộc đoàn chuyên gia
quân sự, 650 cán bộ các ngành dân, chính, đảng. Đây là lực lượng rất
quan trọng đối với cách mạng Lào sau ngày đình chiến.

1
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 319.
319
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Thực hiện đề án đấu tranh ở hai tỉnh đã được Đảng Lao động
Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào thống nhất, được sự chỉ đạo phối
hợp của Ban Cán sự miền Tây, Đoàn 100 đã nghiên cứu đề xuất với
quân đội Pathết Lào kế hoạch tác chiến và tổ chức chiến đấu bảo vệ
hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ; tổ chức hai tỉnh Sầm Nưa và
Phôngxalỳ thành các khu chiến đấu liên hoàn, đáp ứng tình hình
thực tế của từng địa bàn, khả năng tổ chức, quản lý của cán bộ Lào,
đồng thời đề phòng chiến sự lan rộng. Trong trường hợp bị chia cắt,
từng khu có thể đảm bảo độc lập tác chiến. Được Ban Chỉ đạo
Đảng Nhân dân Lào nhất trí, Bộ Quốc phòng Chính phủ Kháng
chiến Lào tổ chức tỉnh Sầm Nưa hình thành ba khu vực tác chiến1;
tỉnh Phôngxalỳ được chia thành hai phân khu2; Bộ Chỉ huy tối cao
trực tiếp nắm lực lượng cơ động3, làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan
Trung ương Đảng, Chính phủ Kháng chiến và sẵn sàng chi viện
đánh địch trên các hướng khi cần.
Cùng với việc giúp Bộ Chỉ huy tối cao Lào xây dựng lực lượng

1
. Khu vực I gồm các huyện Mƣơng Xôi, Sằm Tớ, một phần Mƣơng Xăm
và các xã phía đông đƣờng 6 thuộc huyện Hủa Mƣờng do hai tiểu đoàn chủ lực,
ba đại đội bộ đội địa phƣơng huyện, một trung đội Lào Xủng đảm nhiệm; Khu
vực II gồm huyện Xiêng Khọ, một phần huyện Mƣơng Xăm và các xã phía tây
đƣờng 6 của huyện Hủa Mƣờng bố trí một đại đội chủ lực, hai đại đội địa
phƣơng huyện; Khu vực III gồm 145 bản thuộc 13 xã của huyện Mƣơng Xon, do
một đại đội chủ lực, hai đại đội địa phƣơng huyện đóng giữ. Ngoài ra, tỉnh Sầm
Nƣa còn có 1.711 du kích bám cơ sở ở các làng bản vùng tự do và một số bản
vùng địch tạm chiếm.
2
. Phân khu tỉnh miền Bắc gồm hai huyện Mƣơng U, Mƣơng Xừn và thị xã
Phôngxalỳ do một tiểu đoàn chủ lực, một đại đội trợ chiến, ba trung đội bộ đội
địa phƣơng đảm nhiệm. Phân khu tỉnh miền Nam gồm các huyện còn lại do một
tiểu đoàn chủ lực, hai trung đội bộ đội địa phƣơng huyện phụ trách. Ngoài ra còn
có 1.150 du kích hoạt động ở các bản làng.
3
. Gồm ba tiểu đoàn chủ lực, một tiểu đoàn trợ chiến, một tiểu đoàn vận tải
và các đại đội thông tin, quân báo, công binh.
320
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

vũ trang, huấn luyện bộ đội, Đoàn 100 còn tích cực giúp các địa
phương, đơn vị Pathết Lào triển khai các mặt công tác chuẩn bị
chiến trường, củng cố cơ sở ở các địa phương tạo ra một thế trận
vững chắc trên địa bàn hai tỉnh tập kết, góp phần đắc lực ngăn chặn
các cuộc tấn công của quân đội Vương quốc Lào vào vùng tập kết.
Sau khi dùng lực lượng đánh chiếm một số khu vực ở vùng
giáp ranh và tung biệt kích, gián điệp cài cắm hoạt động sâu trong
một số khu vực quan trọng ở Sầm Nưa và Phôngxalỳ, từ tháng 3
năm 1955, các thế lực phái hữu trong chính quyền và quân đội
Viêng Chăn tập trung một lực lượng lớn quân chủ lực mở các cuộc
tấn công ồ ạt vào các vùng căn cứ của Pathết Lào ở hai hướng đông
nam, tây bắc thị xã Sầm Nưa và khu vực tây nam Mương Khỏa,
Mương U Tày - U Nửa thuộc tỉnh Phôngxalỳ.
Dưới sự chỉ huy của Bộ Chỉ huy tối cao Lào, dựa vào thế trận
đã được chuẩn bị, bộ đội Pathết Lào và nhân dân các bộ tộc Lào đã
kiên cường chiến đấu ngăn chặn các cuộc tiến công của địch. Sau
năm tháng hoạt động từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1955, quân dân
tỉnh Sầm Nưa đã thu được một số thắng lợi, nhưng chưa có những
trận thắng lớn, chưa tạo được sự chuyển biến quan trọng. Quân
địch chưa bị đánh đau, tiếp tục lấn chiếm. Cuối tháng 5 năm 1955,
chúng đưa một lực lượng lớn đánh ra khu vực Na Xála - Xa Lới và
chuẩn bị tấn công vào khu vực Mương Hàm.
Theo dõi tình hình chiến sự, đồng chí Cayxỏn Phômvihản,
Tổng Tư lệnh Bộ Chỉ huy tối cao và đồng chí Xỉxávạt Kẹo Bunphăn,
Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Pathết Lào hạ quyết tâm đánh
một trận thắng lớn với yêu cầu diệt một tiểu đoàn địch để tạo thế so
sánh lực lượng có lợi cho cuộc chiến đấu của Pathết Lào. Thực hiện
quyết tâm đó, ngày 30 tháng 6 năm 1955, Bộ Chỉ huy tối cao Lào
đã sử dụng hai tiểu đoàn chủ lực (705 và 617), hai đại đội địa
321
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

phương, một đại đội trợ chiến tăng cường của Tiểu đoàn 605 trang
bị ĐKZ 57 và cối 81 tấn công các vị trí địch ở gần bản Na Xála, sau
đó tiếp tục truy kích địch đến Bạn Ngôn, gần khu vực Mương Pơn.
Trận này, bộ đội Pathết Lào diệt và làm bị thương hơn 100 tên địch,
bắt hơn 40 tên, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân dụng, giải phóng
khu vực Na Xála, Na Ngôn, Na Noọng, Na Keng. Chiến thắng Na
Xála gây tiếng vang lớn, làm nức lòng quân dân hai tỉnh Sầm Nưa
và Phôngxalỳ, đánh dấu bước trưởng thành về sử dụng lực lượng
đánh gần, phối hợp hiệp đồng chiến đấu giữa các đơn vị của bộ đội
Pathết Lào.
Song song với việc phối hợp cùng quân dân hai tỉnh đẩy mạnh
các hoạt động quân sự chống âm mưu lấn chiếm của quân đội
Vương quốc Lào, để kịp thời giúp cách mạng Lào thực hiện các
nhiệm vụ đang đặt ra, ngày 10 tháng 8 năm 1955, Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam quyết định thành lập Ban Cán sự Lào -
Miên gồm năm đồng chí, do đồng chí Lê Đức Thọ làm trưởng ban.
Ban Cán sự Lào - Miên có nhiệm vụ giúp việc cho Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam nghiên cứu mọi diễn biến ở Lào, từ đó đề
xuất và xin ý kiến chỉ đạo của Trung ương trong công tác giúp Lào.
Ngoài ra, Ban Cán sự Lào - Miên còn có nhiệm vụ nghiên cứu công
tác viện trợ kinh tế cho Lào và đẩy mạnh công tác tuyên truyền
nhằm củng cố tình hữu nghị truyền thống giữa ba nước Việt Nam -
Lào - Campuchia.
Trong khi Đảng Nhân dân và Chính phủ Kháng chiến Lào kiên
trì con đường hoà bình trung lập, thực hiện năm nguyên tắc chung
sống hoà bình thì quân đội Vương quốc Lào với sự tiếp tay của đế
quốc Mỹ liên tục đẩy mạnh các cuộc tiến công lấn chiếm hai tỉnh.
Sau khi tấn công lấn chiếm khu vực Phả Thí, trong tháng 8 và
tháng 9 năm 1955, quân đội Vương quốc Lào tiếp tục tiến công
Huội Nhạ, uy hiếp thị xã Sầm Nưa từ phía tây, ngăn chặn đường
322
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

liên lạc vào các huyện địch hậu Mương Xon, Hủa Mường.
Trước tình hình đó, thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu
Quân đội nhân dân Việt Nam, Đoàn 100 đã nghiên cứu giúp quân
đội Pathết Lào triển khai lực lượng đánh địch ở khu vực Huội Nhạ1.
Do làm tốt công tác chuẩn bị chiến đấu, các đơn vị Pathết Lào đánh
chiếm Phả Chon nhanh gọn, làm thất bại âm mưu lấn chiếm trái
phép của địch, bảo vệ được đường thuỷ tiếp tế từ Việt Nam sang
Lào.
Cùng với việc giúp lực lượng Pathết Lào đánh địch bảo vệ hai
tỉnh tập kết, Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà còn
tích cực giúp Chính phủ Kháng chiến Lào xây dựng chính quyền,
đồng thời viện trợ về kinh tế nhằm giúp nhân dân Lào ổn định đời
sống, phát triển sản xuất, xây dựng lực lượng cách mạng.
Về xây dựng chính quyền: ở Phôngxalỳ, sau ngày đình
chiến, Chính phủ Kháng chiến Lào mới nắm được một số bản,
đến cuối năm 1955 đã tổ chức được chính quyền ở 21 trong số 52
xã. ở Sầm Nưa, chính quyền được tổ chức trong toàn tỉnh (trừ bảy
xã với 137 bản do địch kiểm soát).
Trong năm 1955, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
đã tiếp tế cho nhân dân hai tỉnh của Lào được 3.255 kg thóc giống,
2.552 tấn gạo, 1.284 triệu đồng ngân hàng, 10,5 triệu đồng Đông
Dương cũ, 7.612 đồng bạc trắng, 22 tấn muối và hàng vạn bộ quần
áo, chăn màn... Bộ Giáo dục Việt Nam đã đào tạo cho hai tỉnh tập

. Lực lƣợng Pathết Lào tham gia trận đánh ngày 12 tháng 9 năm 1955 có
1

Tiểu đoàn 609, một đại đội của Tiểu đoàn 705, một đại đội trợ chiến của Tiểu
đoàn 605, một đại đội độc lập của tỉnh và các đơn vị kỹ thuật phục vụ chiến đấu
của Bộ Chỉ huy tối cao Lào. Đồng chí Xỉxávạt Kẹo Bunphăn, Tổng Tham mƣu
trƣởng Quân đội Pathết Lào trực tiếp chỉ huy trận đánh. Cùng thời gian này, các
lực lƣợng vũ trang Pathết Lào ở tỉnh Sầm Nƣa đẩy mạnh các hoạt động đánh
địch ở Huội Thầu, Mƣơng Pơn và một số nơi khác. ở tỉnh Phôngxalỳ, Tiểu đoàn
701 phối hợp với lực lƣợng vũ trang địa phƣơng tiến công đồn Phả Chon.
323
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

kết của Lào được 138 giáo viên. Tỉnh Sầm Nưa mở được 50
trường, tỉnh Phôngxalỳ mở được 21 trường tiểu học1.
Cùng với thắng lợi trên mặt trận quân sự, xây dựng chính
quyền cách mạng, trên mặt trận đấu tranh chính trị, ngoại giao,
Đảng Nhân dân và Neo Lào Hắc Xạt cũng giành được nhiều thắng
lợi quan trọng. Phong trào đấu tranh đòi hoà bình trung lập ở 10
tỉnh, nhất là ở Viêng Chăn, dâng cao, được dư luận quốc tế đồng
tình ủng hộ đã làm cho uy tín của Đảng Nhân dân và Neo Lào Hắc
Xạt ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân.
Trái lại, Chính phủ Vương quốc Lào do Cátài làm thủ tướng ngày
càng bị cô lập và lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Ngày 14 tháng
2 năm 1956, Cátài buộc phải xin từ chức. Ngày 15 tháng 3 năm
1956, Hoàng thân Xuvănna Phuma được Thái tử Xavang Vắtthana
đề nghị đứng ra lập chính phủ mới.
Ngày 15 tháng 5 năm 1956, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào
họp ra nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ của cách mạng Lào.
Sau khi nhận định tình hình thế giới, phong trào cách mạng ở ba
nước Đông Dương, sự chuyển biến của phong trào đấu tranh đòi
hoà bình, trung lập, nghị quyết đề ra chủ trương đấu tranh cho một
nước Lào trung lập, trong đó xác định: “làm cho Lào dần dần thoát
khỏi sự kiềm chế và ảnh hưởng của đế quốc Mỹ. Về đối nội, phải
thực hiện quyền tự do dân chủ, độc lập thống nhất quốc gia. Về đối
ngoại, phải trung thành năm nguyên tắc chung sống hoà bình, bảo
vệ độc lập, chủ quyền dân tộc”2.
Để đạt được mục tiêu trên, nghị quyết nêu một số nhiệm vụ chủ
yếu:

1
. Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam - phông 73,
đơn vị bảo quản 141: Báo cáo tình hình Lào năm 1955 của đồng chí Nguyễn
Khang, Ban Cán sự miền Tây.
2
. Nguyễn Văn Vinh: Những sự kiện lịch sử ở Lào (1353 - 1975), Sđd, tr.293.
324
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

- Đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng lực lượng ở hai tỉnh tập
kết và cơ sở quần chúng trong 10 tỉnh. Kiên quyết đập tan mọi âm
mưu lấn chiếm hai tỉnh của phía Vương quốc Lào.
- Mở rộng Neo Lào Hắc Xạt, vận động tiến tới thành lập một
Mặt trận chống đế quốc Mỹ xâm lược, đoàn kết rộng rãi mọi lực
lượng và thống nhất hành động.
- Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh của quần chúng và ở hội nghị
hiệp thương, giữa phong trào đấu tranh trong nước với đấu tranh của
phe xã hội chủ nghĩa và phong trào hoà bình dân chủ thế giới.
Ngày 28 tháng 5 năm 1956, Hoàng thân Xuphanuvông, Thủ
tướng Chính phủ Kháng chiến Lào, Chủ tịch Neo Lào Hắc Xạt ra
tuyên bố về chính sách trung lập của Neo Lào Hắc Xạt và kêu gọi
nối lại các cuộc hiệp thương chính trị giữa hai phái. Một số nhóm
trong quốc hội thuộc các đảng “độc lập”, “dân chủ”, “tiến bộ”
tuyên bố chống lại chế độ độc tài của Cátài, yêu cầu củng cố hoà
bình, độc lập dân tộc và kiến nghị giải quyết các xung đột bằng con
đường thương lượng.
Nhằm phát huy những thành quả đã đạt được, tiếp tục sâu sát
lãnh đạo cách mạng Lào giành những thắng lợi mới, ngày 30
tháng 5 năm 1956, Neo Lào Hắc Xạt thông qua “Đề án tăng cường
đấu tranh cho nước Lào trung lập, tạo điều kiện thuận lợi thực hiện
nước Lào hoà bình, độc lập, dân chủ và thống nhất”1.
Để đấu tranh làm cho nước Lào trung lập, đề án nêu một số nội
dung quan trọng cần tập trung thực hiện tốt là:
“- Xúc tiến hơn nữa công tác củng cố lực lượng ở hai tỉnh và
cơ sở quần chúng ở 10 tỉnh, xây dựng phong trào ở hai tỉnh làm

. Đề án gồm bốn phần: I. Những chuyển biến mới của tình hình nƣớc ta; II.
1

Chủ trƣơng đấu tranh cho nƣớc nhà trung lập; III. Đấu tranh hiệp thƣơng và
ngoại giao trong toàn bộ cuộc đấu tranh cho nƣớc nhà trung lập; IV. Mấy công
tác căn bản trong cuộc đấu tranh cho nƣớc nhà trung lập.
325
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

hậu thuẫn mạnh mẽ cho đấu tranh chính trị trong cả nước. Kiên
quyết chiến đấu tự vệ làm thất bại âm mưu của nhà vua dùng vũ
lực để chiếm hai tỉnh. Luôn luôn chủ động khắc phục mọi khó
khăn, đánh tan âm mưu phá hoại của Mỹ và bọn thân Mỹ, đưa
cuộc đấu tranh chính trị tiến lên, đồng thời ra sức phát huy mọi
khả năng hoạt động hợp pháp, nhất là ở trong các thành phố, để
động viên, tổ chức và lãnh đạo đảng đưa quần chúng đấu tranh đòi
nước nhà độc lập...
- Kết hợp chặt chẽ đấu tranh của nhân dân với đấu tranh ở hội
nghị hiệp thương, kết hợp các cuộc đấu tranh đó với cuộc vận động
ngoại giao của phe ta, tranh thủ dư luận trong nước và thế giới, kịp
thời vạch trần âm mưu phá hoại của Mỹ và bọn thân Mỹ, nêu rõ
thiện chí hoà bình của ta”1.
Trong khi Neo Lào Hắc Xạt thông qua và triển khai thực hiện
đề án thì Mỹ và tay sai tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động phá hoại
Hiệp định Giơnevơ, ngăn trở hiệp thương chính trị. Cùng với việc
đòi lập Uỷ ban đặc biệt điều tra tình hình ở hai tỉnh Sầm Nưa và
Phôngxalỳ (ngày 5 tháng 6 năm 1956), yêu cầu một số thành viên
trong Uỷ ban quốc tế giám sát và kiểm soát đình chiến ở Lào họp
để bàn về tình hình Lào (ngày 23 tháng 6), chính quyền Vương
quốc Lào tiếp tục cho quân đội lấn chiếm một số điểm ở khu vực
Phùng Nhang, cho biệt kích gián điệp thâm nhập khu vực nam Thà
Teng (giáp vùng Bun Nửa).
Song song với nhiệm vụ giúp bộ đội Pathết Lào đánh địch lấn
chiếm giữ vững hai tỉnh tập kết, theo yêu cầu của Chính phủ Kháng
chiến và Bộ Quốc phòng Lào, các đơn vị công an vũ trang, bộ đội
địa phương các tỉnh Việt Nam có biên giới giáp Lào còn phối hợp

1
. Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng Đảng, phông 82, đơn vị bảo quản 1049,
“Đề án tăng cƣờng đấu tranh cho nƣớc Lào trung lập, tạo điều kiện thuận lợi thực
hiện nƣớc Lào hoà bình, độc lập, dân chủ và thống nhất”, tr.8.
326
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

chặt chẽ với các đơn vị Pathết Lào kịp thời ngăn chặn bọn biệt
kích, gián điệp hoạt động ở vùng biên giới Việt - Lào.
Những ngày cuối tháng 7 đầu tháng 8 năm 1956, cùng với
phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân các bộ tộc Lào, được
sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế
giới, cuộc chiến đấu bảo vệ hai tỉnh tập kết của lực lượng Pathết
Lào giành được nhiều thắng lợi, đã có tác động mạnh đến Chính
phủ Vương quốc Lào do Hoàng thân Xuvănna Phuma làm thủ
tướng. Sau khi Chính phủ Vương quốc Lào ra tuyên bố thực hiện
chính sách hoà bình trung lập, giải quyết vấn đề Lào theo tinh thần
Hiệp định Giơnevơ, từ ngày 1 đến 5 tháng 8 năm 1956, Đoàn đại
biểu Neo Lào Hắc Xạt do Hoàng thân Xuphanuvông làm trưởng
đoàn đã tiến hành đàm phán với phía Chính phủ Vương quốc Lào
tại Thủ đô Viêng Chăn.
Vào thời điểm này, công tác tiếp tế cho miền Tây để sang Lào
gặp rất nhiều khó khăn do mưa lũ kéo dài, đường 217 mới làm từ
Làng Tra đến biên giới Việt - Lào bị hư hỏng nặng. Đường dài 90 km,
nhưng xe chỉ còn chạy được đến Km 17. Lương thực bị nghẽn lại
dọc đường, trong khi đó các cơ quan, đơn vị Pathết Lào gạo chỉ còn
đủ ăn đến ngày 5 tháng 9, thực phẩm đã hết từ ngày 8 tháng 8.
Trước tình hình đó, ngày 19 tháng 8 năm 1956, Ban Bí thư
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Thông tri số 50-TT/TW
về việc thực hiện kịp thời công tác tiếp tế miền Tây “theo đề nghị...
các ngành giao thông, lao động, tài chính, thương nghiệp, Văn
phòng kinh tế Thủ tướng phủ, Tổng cục Hậu cần, Ban Biên chính
Trung ương và đại biểu Ban Cán sự miền Tây, Trung ương... phải
kịp thời có kế hoạch khắc phục mọi khó khăn để đảm bảo việc tiếp
tế cho miền Tây đúng theo số lượng và chất lượng đã quy định”1.

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.17, tr.381-383.
1
327
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Chấp hành chỉ thị của Ban Bí thư, các bộ, ban, ngành đã ra sức
khắc phục mọi khó khăn, phối hợp chặt chẽ nhằm đảm bảo tốt việc
vận chuyển cho miền Tây. Đến cuối tháng 8 năm 1956, việc đảm
bảo lương thực, thực phẩm cho các đơn vị Pathết Lào cơ bản đã
được giải quyết.
Việc đảm bảo tiếp tế kịp thời cho miền Tây, cho Lào trong thời
điểm cách mạng Lào đứng trước những khó khăn thử thách lớn đã
góp phần đắc lực củng cố hậu phương, tạo niềm tin vững chắc để
nhân dân hai tỉnh tập kết và lực lượng vũ trang Pathết Lào yên tâm
chiến đấu, xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng Lào vừa giành
được.
Đến tháng 8 năm 1956, với tinh thần vượt mọi khó khăn, tích
cực chủ động triển khai các kế hoạch đề ra, cách mạng Lào đã
giành được nhiều thành tựu trên các mặt công tác.
Về xây dựng đảng, đến tháng 8 năm 1956, bộ máy lãnh đạo của
Đảng Nhân dân Lào đã hình thành từ trung ương xuống các địa
phương. Ban Chỉ đạo Trung ương gồm tám đồng chí: Cayxỏn
Phômvihản, Tổng Bí thư; các đồng chí Xuphanuvông, Phumi
Vôngvichít, Nủhắc Phumxavẳn, Phun Xipaxợt, Bun Phôm Mahả Xây,
Xỉxávạt Kẹo Bunphăn, Khăm Xẻng là uỷ viên; hệ thống cơ quan
trung ương gồm các ban: Tổ chức, Tuyên huấn, Mặt trận, Vận động
sản xuất, Kinh tài và Văn phòng; các chi bộ cơ sở gồm 76 chi bộ
(trong đó 30 nông thôn, 25 cơ quan, 21 bộ đội) với tổng số 428
đảng viên.
Để giúp Đảng Nhân dân Lào chỉ đạo các hoạt động, Ban Cán
sự miền Tây đã tổ chức các ban cán sự ở tây nam gồm bốn tỉnh Hạ
Lào: Khăm Muộn, Xiêng Khoảng, Viêng Chăn, Phôngxalỳ; ba khu
thuộc Sầm Nưa và ba ban phụ trách (Huội Xài, Luổng Phạbang,
328
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Liên huyện 90)1.


Về phân công giúp các cơ quan trung ương của Đảng Nhân dân
Lào, Ban Cán sự miền Tây phân công: đồng chí Nguyễn Khang,
Trung ương ủy viên, Bí thư, phụ trách chung; các đồng chí Nguyễn
Chính Giao, Võ Thúc Đồng, Đào Việt Hưng phụ trách công tác tổ
chức và tuyên huấn; Đinh Văn Khanh, phụ trách văn phòng kinh tế,
mặt trận; Mai Văn Quang phụ trách Phôngxalỳ; Chu Huy Mân phụ
trách đoàn cố vấn quân sự.
Trong hai ngày 28 và 29 tháng 8 năm 1956, Đoàn đại biểu cấp
cao Chính phủ Vương quốc Lào do Hoàng thân Xuvănna Phuma -
Thủ tướng Chính phủ - làm trưởng đoàn thăm hữu nghị nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà2.
Trên cơ sở kết quả các cuộc hội đàm, ngày 29 tháng 8, Thủ
tướng Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Xuvănna Phuma đã ký Tuyên
bố chung tại Hà Nội. Đoàn đại biểu Chính phủ hai nước khẳng
định: “Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng, xa xưa vốn đã có
mối quan hệ giao hữu, nay tiếp tục nối lại và phát triển mối bang
giao đó dựa trên năm nguyên tắc chung sống hoà bình; các điều
khoản của Hiệp định Giơnevơ 1954 cần được thực hiện ở Việt Nam
và Lào để củng cố hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam á và thế
giới; Vương quốc Lào kiên quyết thực hiện chính sách hoà bình
trung lập; Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ghi nhận

. Các ban cán sự biên chế ba đến bảy ngƣời, các ban phụ trách có từ một đến
1

ba ngƣời; mỗi huyện có một bộ phận do một đến ba cán bộ phụ trách.
2
. Thành phần Đoàn đại biểu Chính phủ Vƣơng quốc Lào gồm có các vị:
Hoàng thân Xuvănna Phuma - Thủ tƣớng Chính phủ kiêm Bộ trƣởng các bộ ngoại
giao, quốc phòng, thông tin - trƣởng đoàn; Cátài Đônxảxổlít - Phó Thủ tƣớng;
Lƣợm Inxỉxiêngmẩy - Bộ trƣởng Bộ Tài chính, kinh tế, kế hoạch; Thoong Xệtthỉ
Vôngnarạt - Thứ trƣởng Bộ Thông tin; Chạu Xổmxạnít - Thứ trƣởng Bộ Nội vụ,
Cứu tế; Xỉ Xúc Ná Chămpaxắc - Tổng Thƣ ký Hội đồng Chính phủ.
329
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

chính sách hoà bình trung lập của Vương quốc Lào”1.
Bày tỏ sự hợp tác với Chính phủ Vương quốc Lào, ngày 30
tháng 8 năm 1956, Hoàng thân Xuphanuvông, Chủ tịch Neo Lào
Hắc Xạt ra tuyên bố hoan nghênh bản Tuyên bố chung ký kết giữa
phái đoàn Chính phủ Vương quốc Lào với Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Bản tuyên bố trên một lần nữa xác nhận chính
sách đối ngoại được ký kết tại Viêng Chăn giữa đại diện Neo Lào
Hắc Xạt và Chính phủ Vương quốc Lào, đảm bảo nước Lào đi theo
con đường hoà bình, trung lập.
Ngày 25 tháng 9 năm 1956, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào
ra nghị quyết “về tình hình mới, nhiệm vụ mới”. Trên cơ sở nhận
định tình hình và dự kiến các khả năng có thể xảy ra, nghị quyết đề
ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Lào là: đoàn kết toàn dân đấu
tranh chống đế quốc Mỹ, cô lập bọn tay sai đầu sỏ thân Mỹ, đòi
Chính phủ Vương quốc Lào thực hiện nghiêm chỉnh những điều đã
ký kết giữa hai bên ở Viêng Chăn; gấp rút củng cố cơ sở và chính
quyền các cấp ở hai tỉnh, xây dựng hai tỉnh tập kết thành chỗ dựa
vững chắc cho phong trào đấu tranh trong cả nước; kịp thời chấn
chỉnh chính sách, củng cố mở rộng mặt trận để tập hợp rộng rãi mọi
lực lượng chống Mỹ xâm lược, tán thành hoà bình trung lập và
công khai hoá mặt trận và các tổ chức chính trị khác của Neo Lào
Hắc Xạt; đặc biệt chú ý xây dựng Đảng Nhân dân Lào thành chính
đảng tiền phong và vững mạnh của dân tộc; thống nhất tư tưởng,
tăng cường đoàn kết nội bộ. Và yêu cầu: “cán bộ, chiến sĩ và nhân
dân trong cả nước cần chuẩn bị đề phòng tình hình có thể diễn biến
xấu, không có lợi cho cách mạng. Phải nâng cao cảnh giác, giữ
vững ý chí chiến đấu”2.

1
. Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng Đảng, Ban Cán sự miền Tây, phông
73, đơn vị bảo quản 124.
2
. Nguyễn Văn Vinh: Những sự kiện lịch sử ở Lào (1353 - 1975), Sđd, tr.303-
330
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Để kịp thời lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, từ ngày
12 đến 15 tháng 10 năm 1956, Uỷ ban Trung ương Neo Lào Hắc
Xạt đã tiến hành Hội nghị mở rộng để sửa đổi, bổ sung chương
trình hoạt động do đại hội đề ra hồi tháng 1 năm 1956 cho phù hợp
với chuyển biến mới của cách mạng. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ
chủ yếu của nhân dân các bộ tộc Lào trong giai đoạn này là:
- Đoàn kết toàn dân, ủng hộ Chính phủ Vương quốc do Hoàng
thân Xuvănna Phuma làm thủ tướng, đòi triệt để thi hành Hiệp định
Giơnevơ 1954 và các hiệp định đã được ký kết giữa hai bên, thực
hiện chính sách hoà bình trung lập, đấu tranh xây dựng một nước
Lào hoà bình, dân chủ, thống nhất, độc lập và thịnh vượng, góp
phần bảo vệ hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam á và thế giới.
- Kiên quyết chống lại âm mưu của mọi thế lực phản động
ngoại quốc và bọn tay sai bán nước đầu sỏ ngoan cố, phá hoại hoà
bình, trung lập, hoà hợp dân tộc, biến Lào thành một thuộc địa kiểu
mới và căn cứ quân sự.
- Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của chính phủ và nhân dân các
nước yêu chuộng hoà bình, công lý trên thế giới.
Triển khai thực hiện các nhiệm vụ đã được Neo Lào Hắc Xạt
xác định, cùng với việc đẩy mạnh hoạt động trên các mặt chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội và ngoại giao, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân
Lào đặc biệt chú trọng sắp xếp cán bộ, chiến sĩ và nhân viên ở hai
tỉnh tập kết, trong đó bố trí cán bộ nòng cốt, có bản lĩnh chính trị
vững vàng vào các vị trí chủ chốt của tỉnh, huyện, xã, trong các đơn
vị vũ trang, cảnh giác đề phòng địch cài cắm người vào các tổ chức
của Pathết Lào...
Thực hiện thoả thuận giữa hai bên, từ ngày 16 tháng 11 đến 24
tháng 12 năm 1956, Hội nghị hiệp thương chính trị giữa Neo Lào

304.
331
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Hắc Xạt và Chính phủ Vương quốc Lào tiếp tục họp tại Viêng
Chăn để thảo luận một số nội dung quan trọng về hoà hợp dân tộc,
bảo đảm quyền bình đẳng cho tất cả mọi công dân Lào, bảo đảm
quyền hoạt động hợp pháp của Neo Lào Hắc Xạt.
Trong khi Hội nghị hiệp thương đang tiến hành thì đế quốc Mỹ
và tay sai tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động phá hoại đàm phán ở
Viêng Chăn, phá hoại hoà bình trung lập.
Trước âm mưu mới của đế quốc Mỹ và tay sai, để đáp ứng kịp
thời các tình huống có thể xảy ra, ngày 28 tháng 11 năm 1956, Ban
Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào ra chỉ thị về tình hình mới và những
công tác cần kíp của các cấp, các ngành, trong đó nhấn mạnh:
“Nhiệm vụ của ta là phải tích cực thi hành nhiệm vụ đã đề ra trong
nghị quyết tháng 8 năm 1956, cụ thể là: mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi
người bất cứ ở đâu, làm việc gì đều phải làm công tác mặt trận,
thực hiện việc đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc để chống âm
mưu phá hoại hoà bình trung lập, lật đổ chính phủ của Phuma,
chống nguy cơ chia cắt đất nước, đấu tranh ủng hộ và thúc đẩy
chính phủ nhà vua thực hiện những điều đã ký kết ở Viêng Chăn,
kiên quyết đi theo con đường hoà bình trung lập. Tiếp tục củng cố
cơ sở hai tỉnh, giữ vững và phát triển lực lượng cách mạng trong
toàn quốc để tiến tới xây dựng một nước Lào hoà bình, dân chủ,
thống nhất và thịnh vượng”1.
Sau hơn một tháng hiệp thương, ngày 24 tháng 12 năm 1956, đại
diện phái đoàn Neo Lào Hắc Xạt và đại diện phái đoàn Chính phủ
Vương quốc Lào tại Hội nghị hiệp thương chính trị ở Viêng Chăn đã
ký hiệp định về bảo đảm quyền công dân, cấm phân biệt đối xử, trả
thù người của Neo Lào Hắc Xạt và người kháng chiến cũ.

. Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng Đảng, phông 73, đơn vị bảo quản
1

159.
332
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Trên cơ sở những thoả thuận đã đạt được trong các cuộc hội
đàm, ngày 28 tháng 12 năm 1956, tại Thủ đô Viêng Chăn, Hoàng
thân Xuphanuvông đại diện cho Neo Lào Hắc Xạt và Hoàng thân
Xuvănna Phuma đại diện cho Chính phủ Vương quốc Lào ký
Tuyên bố chung thoả thuận thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc
có Neo Lào Hắc Xạt tham gia và nâng tổng số nghị sĩ quốc hội từ
39 lên 60 đại biểu.
Song song với việc giúp Neo Lào Hắc Xạt đấu tranh thành lập
Chính phủ liên hiệp dân tộc, xây dựng cơ sở đảng và phát triển lực
lượng vũ trang ngày càng vững mạnh1, Đảng, Nhà nước Việt Nam
còn tăng cường giúp đỡ cách mạng Lào về kinh tế, giáo dục, y tế.
Về viện trợ: năm 1956, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà đã giúp Chính phủ Kháng chiến Lào: 535 triệu đồng
ngân hàng, 30 vạn đồng tiền Lào, 31 nghìn bạt (tiền Thái Lan),
2.525 tấn gạo, 26 tấn lúa, 7.500 tấn muối, 64.421 nông cụ, 91.600 mét
vải, 18.764 lít xăng dầu. Ngoài ra, Việt Nam còn giúp Lào dụng cụ
y tế, thuốc men, quần áo, giày dép, phương tiện máy móc thông tin,
v.v., tổng cộng là 75 tấn với giá trị 745 triệu đồng2.
Về công tác xây dựng tổ chức quần chúng, phát triển sản xuất,
ổn định đời sống nhân dân vùng giải phóng của Pathết Lào, tính
đến cuối năm 1956, Neo Lào Hắc Xạt đã xây dựng được tổ chức

. Đến tháng 12 năm 1956, số lƣợng đảng viên trong cả nƣớc đã lên đến
1

2.289 đồng chí, sinh hoạt trong 334 chi bộ (182 chi bộ nông thôn, 88 chi bộ cơ
quan và 64 chi bộ trong các đơn vị bộ đội); lực lƣợng vũ trang Pathết Lào đã có
7.518 ngƣời (trong đó có 313 ngƣời thuộc bộ đội địa phƣơng Sầm Nƣa,
Phôngxalỳ) đƣợc tổ chức thành 9 tiểu đoàn chủ lực, 11 đại đội độc lập, 3 đại đội
vận tải, một đại đội công binh, một đại đội bảo vệ, một đội quân báo và một số
cán bộ, chiến sĩ các cơ quan chính trị, tham mƣu, hậu cần. Về cán bộ, có 74 cán bộ
tiểu đoàn, 275 cán bộ đại đội, 585 cán bộ trung đội, 1.467 cán bộ tiểu đội.
2
. Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng Đảng, phông 73, đơn vị bảo quản
141.
333
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

quần chúng ở 5.422 bản trong tổng số 9.500 bản ở cả 12 tỉnh. So


với cuối năm 1955, phong trào phát triển nhiều và mạnh hơn, nhất
là ở Huội Xài, Viêng Chăn, Sầm Nưa, Phôngxalỳ. Trong năm 1956
đã xây dựng được cơ sở cách mạng ở 35 thị trấn và thị xã trong số
59 thị trấn và thị xã toàn Lào. ở Sầm Nưa, đến cuối năm 1956, toàn
tỉnh đã có 1.214 tổ đoàn kết sản xuất, thu hút được trên 12.000 gia
đình, khoảng 70% dân số (toàn tỉnh có 105.516 người, trong đó có
17.668 người Mèo). Trong năm đã tiến hành vận động đoàn kết sản
xuất, cải thiện dân sinh, củng cố cơ sở trong ba đợt. Riêng hai đợt
đầu kết thúc ngày 10 tháng 12 đã làm trong 42 xã, 313 bản với
39.686 người thuộc bốn huyện: Mương Xôi, Sằm Tớ, Xiêng Khọ
và Mương Xăm. Về chính quyền, toàn tỉnh đã có chính quyền trong
915 bản, 114 xã, 6 huyện. Đối phương còn kiểm soát 6 xã và 59
bản, ước độ 4.000 dân.
ở Phôngxalỳ, đến cuối năm 1956, toàn tỉnh đã tổ chức được
1.000 tổ đoàn kết sản xuất với gần 20.000 hội viên và chấn chỉnh
xong các uỷ ban mặt trận chính quyền các cấp từ tỉnh đến huyện.
Cùng với việc vận động nhân dân tăng gia sản xuất, hai tỉnh đã
chấn chỉnh lại hệ thống giáo dục, ấn hành thêm các sách giáo khoa,
mở các lớp để bổ túc giáo viên. Đến cuối năm 1956, hai tỉnh đã
chấn chỉnh được 89 trường tiểu học và vỡ lòng với 5.765 học sinh,
hàng nghìn tổ học chữ với hàng vạn học viên.
Ngày 22 tháng 2 năm 1957, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào
ra chỉ thị về “công tác vận động quần chúng đấu tranh đòi phía
Chính phủ Vương quốc thi hành các hiệp định đã được ký kết giữa
các bên”. Sau khi vạch rõ âm mưu của Mỹ và bọn tay sai, chỉ thị đã
xác định một số nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Lào là: đẩy
mạnh đấu tranh đòi thi hành các điều đã được ký kết giữa hai bên;
tăng cường củng cố hai tỉnh để làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc
đấu tranh trước mắt và lâu dài; củng cố và phát triển lực lượng
chính trị, lực lượng vũ trang và bán vũ trang; vận động đẩy mạnh
334
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

tăng gia sản xuất, cải thiện dân sinh.


Đầu tháng 3 năm 1957, Đảng Nhân dân Lào tổ chức Hội nghị
cán bộ đảng toàn quốc, rút kinh nghiệm xây dựng đảng và thảo luận
nghị quyết mới của Ban Chỉ đạo Trung ương. Hội nghị chỉ rõ: do
lãnh đạo chưa sát và có phần thiếu tập thể dân chủ, do tổ chức và
sinh hoạt chưa hợp lý, do đảng phát triển mau, sự giáo dục chưa
chủ động, do phương pháp công tác không khéo léo, lộ bí mật, nên
lẻ tẻ một số địa phương và cả ở các cơ quan trung ương đã xảy ra
hiện tượng mất đoàn kết nội bộ, giữa Đảng và quần chúng, không
có lợi cho tình hình và công tác hiện nay.
Từ đó, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào yêu cầu các địa
phương tiếp tục bồi dưỡng cán bộ và chỉnh đốn bộ máy nhằm nâng
cao tinh thần yêu nước, tinh thần trách nhiệm, ý chí chiến đấu của
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Cũng trong thời gian này, Ban Cán sự miền Tây sơ kết công
tác giúp cách mạng Lào. Theo chủ trương của Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam, Ban Cán sự đã giúp Đảng Nhân dân Lào xác
định đúng tình hình, chống các tư tưởng lệch lạc (lạc quan cho
rằng việc hợp tác với Chính phủ Vương quốc diễn ra dễ dàng,
hoặc tư tưởng bi quan, thiếu tin tưởng), giúp Đảng Nhân dân Lào
đánh giá phong trào cơ sở từng tỉnh và tình hình công tác của
trung ương cũng như mỗi ngành để có kế hoạch chỉ đạo cho sát,
đúng; giúp mở các hội nghị đảng và mặt trận ở trung ương để
thống nhất nhận định tình hình, thông suốt nhiệm vụ và thông suốt
tư tưởng; gợi ý để phía Lào đề đạt kế hoạch củng cố lực lượng ở
hai tỉnh, đề phòng địch lấn ra và âm mưu gây phỉ điệp ở hai tỉnh;
góp ý kiến chấn chỉnh tổ chức lề lối làm việc và tăng cường quan
hệ trên dưới, v.v..
Để đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh của nhân dân các bộ tộc
Lào, kiên quyết đập tan các âm mưu phá hoại của Mỹ và tay sai,
ngày 4 tháng 5 năm 1957, Trung ương Đảng Nhân dân Lào ra chỉ
335
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

thị bổ sung tình hình nhiệm vụ cho cấp uỷ hai tỉnh Sầm Nưa và
Phôngxalỳ.
Sau khi vạch trần những âm mưu thủ đoạn của Mỹ và tay sai,
những khó khăn chúng đang gặp phải, chỉ ra những thuận lợi cơ
bản của cách mạng Lào, chỉ thị đã đề ra một số công tác trước mắt
cho quân dân hai tỉnh tập kết là:
- Bằng mọi hình thức tuyên truyền giải thích cho nhân dân hiểu
rõ chính sách hoà bình trung lập và sự cần thiết phải thành lập
Chính phủ liên hiệp.
- Ra sức củng cố lực lượng vũ trang và bán vũ trang vững
mạnh, giữ vững khu tập kết làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh
chính trị.
- Tích cực vận động nhân dân phối hợp với lực lượng vũ trang
chống âm mưu lấn chiếm, phá hoại của địch.
- Phối hợp chặt chẽ giữa chính trị với quân sự, giữa hậu phương
với tiền phương, giữa hai tỉnh tập kết với phong trào đấu tranh trong
cả nước và tại Hội nghị hiệp thương chính trị ở Viêng Chăn.
Ngày 23 tháng 5 năm 1957, đồng chí Chu Huy Mân báo cáo
và đề nghị với Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng một số vấn
đề về tình hình lực lượng Lào. Căn cứ vào đề nghị của đồng chí
Chu Huy Mân, ngày 11 tháng 6 năm 1957, Tổng Quân uỷ ra Quyết
định số 110/TQU về tổ chức và xác định nhiệm vụ mới của Đoàn
100 ở Lào1.

1
. Theo đó, Đoàn 100 vẫn là một đơn vị trực thuộc Tổng Quân uỷ nhƣng để
chỉ đạo đƣợc tập trung và thống nhất, Tổng Quân uỷ giao cho Bộ Tổng Tham
mƣu chịu trách nhiệm theo dõi chung, từng thời kỳ nghe báo cáo tình hình và giải
quyết các công việc cho Đoàn 100.
Về tổ chức, Tổng Quân uỷ phân công đồng chí Văn Tiến Dũng - Tổng Tham
mƣu trƣởng chịu trách nhiệm theo dõi Đoàn 100; cử đồng chí Đinh Văn Tuy làm
đoàn trƣởng thay đồng chí Chu Huy Mân, đồng chí Lê Tự Lập làm phó đoàn
trƣởng thứ nhất, đồng chí Đức Phƣơng làm phó đoàn trƣởng thứ hai.
336
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Cùng với việc giúp quân đội Pathết Lào trên lĩnh vực quân sự,
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Lào cũng được đẩy
mạnh trong các nhà trường, các cơ quan, ban, ngành của Việt Nam
giúp cách mạng Lào. Ngày 22 tháng 6 năm 1957, Ban Biên chính
Trung ương quyết định thành lập ở hai trường (T50 và T51), mỗi
nơi một ban cán sự Việt thuộc Ban Biên chính Trung ương1 để giúp
ban phụ trách hai trường trong việc điều khiển nhà trường, trong
công tác lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị văn hoá cho cán bộ
Lào. Trong hai tháng 7 và 8 năm 1957, Tiểu ban Phụ vận Trung
ương Việt Nam còn mời 19 đồng chí đoàn cán bộ Pathết Lào làm
công tác phụ vận sang nghiên cứu phương pháp tổ chức các hoạt
động công đoàn, thanh niên, phụ nữ của Việt Nam.
Vừa nghiên cứu học tập lý luận, đoàn vừa dự một số buổi nói
chuyện về hoạt động quốc tế của phụ nữ Việt Nam, nghe báo cáo
của các cơ sở phụ nữ ở Hà Nội, Hải Phòng, tham quan các nhà máy
xi măng, khu mỏ Cẩm Phả, Cửa Ông, Vịnh Hạ Long, v.v.. Những
hoạt động trên đã góp phần nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau và tình
đoàn kết keo sơn Việt - Lào.
Thắng lợi của cách mạng Lào có tác động tích cực đến xu
hướng và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân ở đô thị, ở một
vài nơi đã chuyển thành phong trào chống đế quốc Mỹ và tay sai,
ủng hộ đường lối hoà bình trung lập, mong hai bên chóng hợp tác
để thống nhất quốc gia.
Ngày 2 tháng 11 năm 1957, Hoàng thân Xuphanuvông đại diện
Neo Lào Hắc Xạt và Hoàng thân Xuvănna Phuma đại diện Chính
phủ Vương quốc Lào ký tuyên bố chung thoả thuận thành lập
Chính phủ liên hiệp có Neo Lào Hắc Xạt tham gia và công nhận

. T50, Nguyễn Văn Bình - trƣởng Ban Cán sự; các đồng chí Bạch Nhật, Vũ
1

Phi Hùng, Mai Huy Chƣớc là ủy viên Ban Cán sự. T51, Lê Quỳnh Vân - trƣởng
ban; các đồng chí Châu Văn Phép, Nguyễn Ngọc Tình là uỷ viên.
337
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

các hiệp nghị đã được ký kết từ ngày 24 tháng 12 năm 1956 đến 2
tháng 11 năm 1957. Cũng trong ngày 2 tháng 11, tại Hội nghị hiệp
thương chính trị, hai phái đoàn Neo Lào Hắc Xạt và Chính phủ
Vương quốc Lào ký hiệp định thoả thuận tổ chức sáp nhập hai tỉnh
tập kết vào Vương quốc Lào. Cùng thời gian này tại Viêng Chăn,
Hội nghị liên hiệp quân sự giữa Neo Lào Hắc Xạt và Chính phủ
Vương quốc Lào ký hiệp định giải quyết lực lượng vũ trang của
Neo Lào Hắc Xạt1.
Nhân dịp ký kết các hiệp định về hoà hợp dân tộc, thống nhất
quốc gia, thành lập Chính phủ liên hiệp giữa Neo Lào Hắc Xạt với
Chính phủ Vương quốc Lào, ngày 15 tháng 11 năm 1957, Ban Chỉ
đạo Đảng Nhân dân Lào gửi thư cho các cấp bộ đảng và toàn thể
đảng viên trong cả nước kêu gọi toàn thể đảng viên: “quyết tâm,
bền bỉ đấu tranh cho một nước Lào hoà bình trung lập, hoà hợp dân
tộc, nhân dân có quyền tự do dân chủ; mỗi đảng viên dù ở cương vị
công tác nào, phải là nòng cốt, xung phong gương mẫu hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao; củng cố sự đoàn kết và thống nhất nội bộ,
đoàn kết hoà hợp với mọi người yêu nước, dựa vào nhân dân, tin
tưởng ở lực lượng của nhân dân trong cuộc đấu tranh lâu dài và
gian khổ; luôn nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, giữ bí mật,
1
. Hai bên thoả thuận: Chính phủ Vƣơng quốc Lào bảo đảm sáp nhập tất cả
quân đội, vũ khí của Neo Lào Hắc Xạt vào quân đội quốc gia; những ngƣời tình
nguyện ở lại quân đội sẽ đƣợc đƣa vào quân thƣờng trực của Vƣơng quốc Lào.
Các đơn vị quân đội của Neo Lào Hắc Xạt gia nhập quân đội quốc gia sẽ đƣợc
hƣởng quyền lợi bình đẳng về mọi mặt. Sau khi sáp nhập với quân đội quốc gia,
các đơn vị quân đội của Neo Lào Hắc Xạt sẽ đóng tại quân khu cũ của mình. Sĩ
quan và chuyên viên kỹ thuật đƣợc biên chế vào các đơn vị của họ; những ngƣời
xin giải ngũ sẽ đăng ký làm quân dự bị quốc gia; Chính phủ Vƣơng quốc Lào
nhận giải quyết quyền lợi, chính sách đối với các chiến sĩ giải ngũ, thƣơng binh
và các gia đình của quân nhân; thời hạn sáp nhập các đơn vị vũ trang của Neo Lào
Hắc Xạt vào quân đội quốc gia là 60 ngày kể từ ngày thành lập Chính phủ liên
hiệp dân tộc.
338
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

bảo vệ Đảng, giữ vững kỷ luật”1.


Sau khi Quốc hội Vương quốc Lào thông qua danh sách Chính
phủ liên hiệp dân tộc có Neo Lào Hắc Xạt tham gia, trong tháng 11
năm 1957, Hội nghị Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào xác định
nhiệm vụ và phương châm đấu tranh của cách mạng Lào trong thời
gian sắp tới: nhiệm vụ chủ yếu hiện nay là tập trung mọi lực lượng
đấu tranh đòi thực hiện các hiệp định đã ký để củng cố và phát triển
những thắng lợi đã giành được.
Về phương châm, Hội nghị chủ trương: chuyển phương châm
đấu tranh từ đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân sự bảo
vệ hai tỉnh tập kết, sang đấu tranh công khai hợp pháp trên toàn
quốc, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh nghị
trường và đấu tranh pháp lý, buộc phía Vương quốc phải thực hiện
đúng đắn các thoả thuận giữa hai bên.
Ngày 18 tháng 12 năm 1957, Neo Lào Hắc Xạt tổ chức lễ
chuyển giao tỉnh Sầm Nưa và tỉnh Phôngxalỳ cho Chính phủ liên
hiệp dân tộc, tiếp đó ngày 25 tháng 12 năm 1957, cơ quan đại diện
Neo Lào Hắc Xạt chính thức ra mắt và hoạt động công khai hợp
pháp tại Thủ đô Viêng Chăn.
Cũng trong thời gian này, Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 quân đội
Pathết Lào gồm 1.500 cán bộ, chiến sĩ sáp nhập với quân đội
Vương quốc. Lựa chọn 330 người trong số lực lượng còn lại (trong
đó có gần 700 đảng viên) cho đi đào tạo tại Việt Nam, chuẩn bị lực
lượng cán bộ lâu dài. Số còn lại phục viên về các địa phương (10
tỉnh) để làm lực lượng nòng cốt cho phong trào đấu tranh cách
mạng trong cả nước.
Nhân dịp giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện
hoà hợp dân tộc, thống nhất quốc gia, thành lập Chính phủ liên
hiệp, ngày 10 tháng 1 năm 1958, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào

. Lịch sử Quân đội nhân dân Lào, Sđd, tr.137.


1
339
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu rõ: “Cuộc kháng chiến trường kỳ
chống thực dân Pháp xâm lược và cuộc đấu tranh thi hành Hiệp
định Giơnevơ thực hiện hoà bình thống nhất nước Lào của Neo Lào
Hắc Xạt đã giành được thắng lợi to lớn. Trong kháng chiến cũng
như trong đấu tranh thực hiện hoà bình, thống nhất đất nước, cách
mạng Lào luôn được sự giúp đỡ tận tình của cách mạng Việt Nam,
Đảng Lao động Việt Nam. Sở dĩ cách mạng Lào đạt được những
thắng lợi to lớn đó là do tinh thần đoàn kết đấu tranh anh dũng kiên
cường của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Lào dưới sự lãnh đạo của
Đảng Nhân dân Lào, đồng thời cũng do sự đóng góp quan trọng
của đồng chí và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã hết lòng
theo dõi giúp đỡ chúng tôi trong mỗi giai đoạn của cách mạng.
Trước nhiệt tình và sự giúp đỡ vô điều kiện đó, chúng tôi xin thành
thực tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với đồng chí, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam và nhân dân Việt Nam”1. Cũng
trong dịp này, Neo Lào Hắc Xạt gửi thư cho Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam bày tỏ tình đoàn kết keo sơn giữa hai dân tộc
Lào - Việt.
Nhằm phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ được giao, ngày 10 tháng 1 năm 1958, Ban Chỉ đạo Đảng
Nhân dân Lào đã có cuộc trao đổi với Ban Cán sự miền Tây (trực
thuộc Trung ương Đảng Lao động Việt Nam) về những việc hai
bên đã làm được và những mặt còn tồn tại trong phối hợp thực hiện
các nhiệm vụ.
Thực hiện thoả thuận giữa hai bên, ngày 18 tháng 1 năm 1958,
Tiểu đoàn 1 và 2 của Neo Lào Hắc Xạt (mỗi tiểu đoàn biên chế 750
cán bộ, chiến sĩ), sáp nhập với quân đội Vương quốc Lào. Sau khi

1
. Nguyễn Văn Vinh: Những sự kiện lịch sử ở Lào (1353 - 1975), Sđd,
tr.326.
340
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

sáp nhập, Tiểu đoàn 1 đóng quân tại Xiêng Ngân (tỉnh Luổng
Phạbang), Tiểu đoàn 2 đóng tại Cánh đồng Chum (tỉnh Xiêng
Khoảng).
Theo hiệp định được ký kết giữa hai bên về tổng tuyển cử bổ
sung có Neo Lào Hắc Xạt tham gia và luật bầu cử sửa đổi tiến bộ
do phía Neo Lào Hắc Xạt đề nghị, bảy giờ sáng ngày 4 tháng 5 năm
1958, cả nước Lào đã tiến hành tuyển cử bổ sung để bầu thêm 21
nghị sĩ1.
Mặc dù bọn tay sai phản động có những hành động gian lận, đe
doạ nhân dân ở một số địa phương thuộc các tỉnh Luổng Phạbang,
Sầm Nưa, Viêng Chăn, nhưng với tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của
các tầng lớp nhân dân, cuộc bỏ phiếu vẫn được tiến hành đúng quy
định. Các ứng cử viên của Neo Lào Hắc Xạt và Đảng Hoà bình
trung lập đã giành được thắng lợi lớn trong cuộc bầu cử này, trong
đó Hoàng thân Xuphanuvông thu được số phiếu cao nhất (37.389
phiếu) trong số 21 ứng cử viên đắc cử. Bà Khăm Pheng Búpphả,
cán bộ Hội Phụ nữ Neo Lào Hắc Xạt, là đại biểu đầu tiên giành
được số phiếu cao nhất ở tỉnh Luổng Phạbang2. Trong những ngày
này, các trụ sở cơ quan đại diện của Neo Lào Hắc Xạt công khai
hoạt động, báo Lào Hắc Xạt phát hành rộng rãi, tạo nên một khí thế

. Số đại biểu bổ sung đƣợc chia ra trong các tỉnh nhƣ sau: Nặm Thà 1; Viêng
1

Chăn 2; Luổng Phạbang 4; Khăm Muộn 2; Phôngxalỳ 1; Xavẳnnakhệt 3; Sầm


Nƣa 1; Xalavăn 2; Xaynhabuli 1; Chămpaxắc 2; Xiêng Khoảng 1; áttapƣ 1. Số
ứng cử viên của các đảng phái ra tranh cử trong 12 tỉnh có 105 ngƣời gồm: Neo
Lào Hắc Xạt (Mặt trận Lào yêu nƣớc): 13 ngƣời; Đảng Xạt Kaonạ (Quốc gia
tiến bộ): 32 ngƣời; Đảng Páxathipatây (Dân chủ): 4 ngƣời; Đảng Xểli (Tự do): 5
ngƣời; Đảng Lao Luôm Xẳm Phăn (Lào liên minh): 5 ngƣời; Đảng Xẳntiphạp
Pên Kang (Hoà bình trung lập): 4 ngƣời; không đảng phái: 42 ngƣời.
2
. Kết quả cụ thể: Neo Lào Hắc Xạt, 9 ghế; không đảng phái, 5 ghế; Đảng
Hoà bình trung lập, 4 ghế; Đảng Quốc gia tiến bộ, 3 ghế. Ngày 13 tháng 5 năm
1958, Quốc hội Vƣơng quốc Lào thông qua kết quả cuộc tổng tuyển cử.
341
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

cách mạng sôi nổi, làm nức lòng quần chúng trong cả nước.
Lần đầu tiên tất cả các cử tri trong toàn quốc được quyền đi bỏ
phiếu. Các ứng cử viên của Pathết Lào và phía Hoà bình trung lập
đều giành thắng lợi với 13/21 ghế trong Quốc hội. Kết quả này,
cùng với việc thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc lần thứ nhất và
sửa đổi hiến pháp, là thắng lợi quan trọng của đường lối hoà bình,
trung lập, độc lập, dân chủ, thống nhất đúng đắn của Đảng Nhân
dân Lào.

III. PHỐI HỢP CHUYỂN HƢỚNG ĐẤU TRANH CHỐNG CHIẾN


LƢỢC CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA MỸ Ở LÀO

1. Đế quốc Mỹ và tay sai tăng cường các hoạt động phá hoại
Chính phủ liên hiệp và hoà hợp dân tộc
Trước thắng lợi của lực lượng Pathết Lào, đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai đẩy mạnh các hoạt động lật lọng, từng bước xoá bỏ các
hiệp ước hoà hợp dân tộc đã được ký kết để cuối cùng trắng trợn
xoá bỏ Chính phủ liên hiệp và hoà hợp dân tộc.
Ngày 18 tháng 8 năm 1958, Quốc hội Vương quốc Lào thông
qua chính phủ do Phủi Xánánicon thành lập gồm chín thành viên1.
Cùng ngày Phủi Xánánicon tuyên bố đứng về thế giới tự do, chống
lại sự xâm nhập và phát triển của chủ nghĩa cộng sản và cho thực
thi hàng loạt chính sách cực kỳ phản động. Chúng gạt hết người

1
. Chín thành viên gồm: 1. Phủi Xánánicon, Thủ tƣớng kiêm các bộ Kế
hoạch, Công chính, viễn thông; 2. Cátài Đônxảxổlít, Phó Thủ tƣớng kiêm các bộ
Quốc phòng, Cựu binh, Nội vụ; 3. Bôngxụ Vănnạvông, Bộ trƣởng Bộ Giáo dục,
y tế, lễ nghi; 4. Khăm Phăn Pănnha, Bộ trƣởng Bộ Ngoại giao; 5. Lƣỡmrada
Xổmbặt, Bộ trƣởng Bộ Kinh tế, tài chính; 6. Xỉxúc Chămpaxắc, Bộ trƣởng Bộ
Thông tin tuyên truyền; 7. Kholạnhốt Xụvănnạvông, Thứ trƣởng Bộ Quốc
phòng; 8. Tănchun Lạmuntin, Thứ trƣởng Bộ Y tế; 9. Panxỉxu Phănthoong, Thứ
trƣởng Bộ Công chính, viễn thông.
342
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

của Neo Lào Hắc Xạt ra khỏi Quốc hội và Chính phủ; nhiều công
chức của Neo Lào Hắc Xạt bị cách chức hoặc bị bắt giam; tờ báo
Lào Hắc Xạt bị đóng cửa.
Thực thi âm mưu của Mỹ, ngày 8 tháng 5 năm 1959, cùng với
việc ngừng cung cấp lương thực thực phẩm, sử dụng bốn tiểu đoàn
do Khăm Xúc chỉ huy triển khai bao vây Tiểu đoàn 2 Pathết Lào,
quân đội Vương quốc Lào còn dùng các loa phóng thanh liên tục
doạ dẫm sẽ tấn công tiêu diệt Tiểu đoàn 2, nếu không chấp hành
mệnh lệnh của tổng chỉ huy. Tiếp đó, ngày 9 tháng 5, Tổng Tham
mưu trưởng Quân đội Vương quốc Lào Uộn Rathicun ra lệnh cho
tất cả sĩ quan hai tiểu đoàn 1 và 2 Pathết Lào phải tập trung tại sân
bay Xiêng Khoảng để bay về căn cứ Chinaimô (Viêng Chăn) làm lễ
phong quân hàm.
Được sự hậu thuẫn của đế quốc Mỹ, bất chấp dư luận phản đối
mạnh mẽ ở trong nước và thế giới, ngày 26 tháng 7 năm 1959,
Chính phủ phản động Phủi Xánánicon ra lệnh bắt giam 16 nhà lãnh
đạo, cán bộ của Neo Lào Hắc Xạt khi vào Thủ đô Viêng Chăn tham
gia Hội nghị hiệp thương chính trị và Chính phủ liên hiệp dân tộc
(trong đó có Hoàng thân Xuphanuvông và các ông: Phumi
Vôngvichít, Nủhắc Phumxavẳn, Phun Xipaxợt, Xỉthôn Cômmađăm).
Cùng với hành động trên, Chính phủ phản động Phủi Xánánicon
còn điều quân đội tăng cường uy hiếp tỉnh Sầm Nưa.
Sau khi dùng tám máy bay C46 chở vũ khí, quân dụng viện trợ
khẩn cấp cho quân đội Lào và hối thúc Liên hợp quốc cử một tiểu
ban gồm bốn nước (Nhật Bản, Tuynidi, Italia và áchentina) đến
điều tra tình hình Lào, ngày 12 tháng 9 năm 1959, Bộ Quốc phòng
Mỹ quyết định đưa thêm quân vào Lào dưới danh nghĩa “các đơn vị
liên lạc”. Các đơn vị này đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Tham mưu
Mỹ ở Thái Bình Dương.
Việc Mỹ đẩy mạnh can thiệp quân sự, tăng cường viện trợ vũ
343
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

khí, phương tiện chiến tranh, đôn quân nguỵ tăng lên nhanh chóng từ
25.000 tên (năm 1955) lên 44.000 tên (năm 1959), liên minh với
nguỵ quyền Nam Việt Nam, chính quyền Thái Lan, đã bộc lộ dã tâm
phá hoại Chính phủ liên hiệp, phá hoại sự hoà hợp dân tộc để phát
động cuộc chiến tranh với quy mô lớn hơn nhằm tiêu diệt lực lượng
Neo Lào Hắc Xạt và lực lượng hoà bình trung lập ở Lào.

2. Đảng Lao động Việt Nam phối hợp giúp Đảng Nhân dân
Lào chuyển hướng đấu tranh
Trước tình hình căng thẳng do đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai gây
ra ở Lào, ngày 28 tháng 8 năm 1958, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân
Lào ra chỉ thị cho các cấp bộ đảng về “tình hình nhiệm vụ mới”.
Phân tích âm mưu, thủ đoạn mới của Mỹ và tay sai, Ban Chỉ
đạo Đảng Nhân dân Lào chủ trương: “Tập hợp mọi lực lượng, kiên
quyết đấu tranh buộc chính phủ do Phủi Xánánicon làm thủ tướng
phải từ chức để thành lập Chính phủ liên hiệp có đại diện Neo Lào
Hắc Xạt và các nhân sĩ tiến bộ tham gia, thi hành chính sách hoà
bình trung lập như chương trình của Chính phủ liên hiệp trước đó.
Bằng mọi cách làm cho tình hình bớt căng thẳng đồng thời ra sức
củng cố lực lượng, đề phòng tình hình xấu có thể xảy ra”1.
Về một số công tác trước mắt, chỉ thị xác định:
- Tiếp tục chuyển hướng hoạt động để làm tình hình bớt căng
thẳng và bảo tồn lực lượng.
- Kịp thời lãnh đạo thông suốt tư tưởng cán bộ, chiến sĩ và nhân
dân trước tình hình hiện nay.
- Tích cực củng cố và phát triển lực lượng về mọi mặt để phát
huy tinh thần đấu tranh bền bỉ của cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp

1
. Một số tư liệu về quan hệ đặc biệt Việt - Lào. Lƣu tại Bộ môn Lịch sử tổ
chức quân sự - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
344
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

nhân dân.
- Ra sức tranh thủ quân đội, cảnh sát và công chức phía Vương
quốc.
- Củng cố đường dây liên lạc công khai và bí mật giữa trung
ương với địa phương, giữa tỉnh với huyện để đảm bảo sự lãnh đạo
kịp thời của Đảng.
Trước việc Mỹ và bọn tay sai ra sức thi hành chính sách khủng
bố đối với cán bộ cách mạng và những người có tư tưởng hoà bình,
tiến bộ, đã có nhiều cán bộ Pathết Lào và thường dân Lào ở các
tỉnh biên giới chạy sang đất Việt Nam để tránh sự đàn áp, bắt bớ
của địch. Để tạo điều kiện giúp cách mạng Lào, ngày 13 tháng 12
năm 1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
ra Chỉ thị số 120/CT-TW về chủ trương đối với cán bộ và nhân dân
Lào chạy qua biên giới, trong đó nêu rõ: “Xuất phát từ lợi ích của
cách mạng Lào và mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng và nhân
dân hai nước, đồng thời căn cứ ở tình hình trên, chủ trương của ta
là hết lòng giúp đỡ cho số cán bộ và thường dân Lào vì tránh khủng
bố mà chạy sang biên giới ta về mọi mặt tinh thần, vật chất theo
khả năng của ta... Để thực hiện tốt chủ trương trên, cần coi trọng
công tác điều tra, nghiên cứu để đối xử thận trọng với từng người
cho chính xác, tránh nhầm lẫn giữa người tốt, kẻ xấu và bọn gián
điệp. Đồng thời cần chú ý động viên tinh thần cán bộ và nhân dân
bạn, hết sức tránh những gì có thể làm tổn thương đến tinh thần và
tình cảm của bạn”1.
Cùng với việc giúp đỡ cán bộ, nhân dân Lào ở các tỉnh biên
giới, ngày 23 tháng 12 năm 1958, Ban Liên lạc đối ngoại Trung
ương gửi Công văn số 418/BLL đến Khu uỷ Việt Bắc yêu cầu cung
cấp đủ tiêu chuẩn phụ cấp cho các đồng chí cán bộ, học sinh Lào ở

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.19, tr.625.
1
345
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Thái Nguyên. Trong lúc điều kiện kinh tế của Việt Nam sau hoà
bình còn rất nhiều khó khăn, những việc làm nghĩa tình đó càng
làm cho quan hệ vừa là đồng chí vừa là anh em giữa hai Đảng, hai
quân đội và nhân dân hai nước Việt - Lào thêm keo sơn, gắn bó.
Sau khi Chính phủ Vương quốc Lào cho quân đội tăng cường
hoạt động vũ trang ở biên giới giáp các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh của
Việt Nam, trong các ngày 28 tháng 12 năm 1958 và 1 tháng 1 năm
1959, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã
gửi công hàm cho Chính phủ Vương quốc Lào phản đối hành động
khiêu khích của quân đội Vương quốc Lào ở vùng Hướng Lập
(Nghệ An) và yêu cầu sớm có biện pháp chấm dứt.
ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phản đối các
hoạt động khiêu khích của quân đội Vương quốc Lào, ngày 11
tháng 1 năm 1959, Hoàng thân Xuphanuvông, Chủ tịch Neo Lào Hắc
Xạt đã gửi thư cho Chủ tịch Uỷ ban quốc tế ở Lào Tura Sinh Bah tố
cáo những hành động vi phạm Hiệp định Giơnevơ và Hiệp định
Viêng Chăn của phía Chính phủ Vương quốc Lào sau khi Uỷ ban
quốc tế giám sát và kiểm soát đình chiến ở Lào ngừng hoạt động.
Để giúp Trung ương Đảng Nhân dân Lào kịp thời đấu tranh
chống địch đàn áp khủng bố, ngày 30 tháng 1 năm 1959, Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam gửi thư trao đổi ý kiến với Trung
ương Đảng Nhân dân Lào1 về phương hướng đấu tranh của cách
mạng Lào, trong đó nhấn mạnh cần rút ngay một bộ phận bí mật
chuyển ra vùng căn cứ để lãnh đạo phong trào đấu tranh, kiên quyết
bảo vệ cho được lực lượng của cách mạng Lào.
Theo dõi sát những diễn biến mới ở Lào, ngày 15 tháng 3 năm
1959, Ban Cán sự miền Tây đã có báo cáo tình hình và dự kiến các

1
. Từ năm 1959, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào gọi là Ban Chấp hành
Trung ƣơng, Trƣởng Ban Chỉ đạo gọi là Tổng Bí thƣ.
346
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

nội dung giúp cách mạng Lào để trình Ban Bí thư, Bộ Chính trị
Đảng Lao động Việt Nam. Về âm mưu của Mỹ, Ban Cán sự miền
Tây nhận định: “Sự xâm nhập và hoạt động của đế quốc Mỹ có tính
chất toàn diện, nhanh, trắng trợn nhưng kín đáo với một kế hoạch
từng bước với những thủ đoạn tương đối khôn khéo, xảo quyệt và
thâm độc hơn trước. Hiện nay Mỹ đã nắm chính phủ trung ương và
đang tích cực xuống nắm cấp tỉnh...”1.
Về tình hình Lào, Ban Cán sự miền Tây nêu rõ: sau khi hợp tác
thống nhất, cách mạng Lào giành thắng lợi trong tổng tuyển cử bổ
sung. Phong trào lúc đó lên mạnh ở nông thôn và thành thị. Cơ sở
của Lào được mở rộng, ảnh hưởng và uy tín của Lào lan rộng khắp
nơi. Lào đã tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của cách
mạng một cách rộng rãi và công khai. Các tầng lớp nhân dân tán
thành đường lối, chính sách của cách mạng và ủng hộ Pathết Lào.
Nhưng từ khi Phủi Xánánicon lên làm thủ tướng đến nay và qua
các cuộc khủng bố liên tiếp, phong trào xẹp xuống, cơ sở cũ ở
nhiều nơi bị thu hẹp lại.
Trên cơ sở đó, Ban Cán sự miền Tây đề xuất phương hướng
phối hợp với cách mạng Lào trong thời gian tới là “tích cực ra sức
củng cố và bảo tồn lực lượng của cách mạng Lào, đoàn kết và tập
hợp lực lượng yêu nước, yêu hoà bình, tiếp tục đấu tranh chính trị
để duy trì địa vị hợp pháp của Neo Lào Hắc Xạt và chống mọi âm
mưu của đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng để đối
phó với tình hình xấu, nghĩa là cần thiết thì chuyển sang đấu tranh
vũ trang...”2.

1
. Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng Đảng, phông 73, đơn vị bảo quản 1058,
Ban Công tác miền Tây: Báo cáo tình hình và chủ trương của ta ở Lào, tr.1.
2
. Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng Đảng, phông 73, đơn vị bảo quản
1058, Ban Công tác miền Tây: Báo cáo tình hình và chủ trương của ta ở Lào,
tr.14.
347
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Sau khi nắm tình hình mọi mặt về Lào, ngày 4 tháng 5 năm
1959, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam đã có cuộc trao đổi
với đại diện Đảng Nhân dân Lào về tình hình, chủ trương và nhiệm
vụ trước mắt của cách mạng Lào. Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt
Nam nhất trí với chủ trương của Đảng Nhân dân Lào, đồng thời
nhấn mạnh phải tích cực xây dựng, phát triển lực lượng để chuyển
sang đấu tranh vũ trang khi cần.
Căn cứ vào chủ trương đã được hai Đảng, hai quân đội thống
nhất, ngày 11 tháng 5 năm 1959, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội
nhân dân Việt Nam chỉ đạo Cục Tác chiến giúp Bộ Chỉ huy tối cao
Lào soạn thảo dự án chủ trương đấu tranh vũ trang của cách mạng
Lào.
Ngày 13 tháng 5 năm 1959, trước hành động đe doạ dùng vũ
lực của Chính phủ Vương quốc Lào, cùng với việc động viên cán
bộ, chiến sĩ hai tiểu đoàn giữ vững tinh thần chiến đấu và có các
biện pháp phòng vệ cần thiết, Hoàng thân Xuphanuvông, Chủ tịch
Neo Lào Hắc Xạt, đã gửi thư cho Uỷ ban quốc tế ở Lào tố cáo hành
động bao vây hai tiểu đoàn vũ trang của Neo Lào Hắc Xạt, giam
lỏng tại gia (nội bất xuất, ngoại bất nhập) các lãnh tụ Neo Lào Hắc
Xạt và tuyên bố tình trạng giới nghiêm, thiết quân luật của Chính
phủ Vương quốc Lào.
Sau khi Bộ Chỉ huy tối cao quân đội Vương quốc Lào ra lệnh
cho hai tiểu đoàn 1 và 2 Pathết Lào phải đầu hàng trong vòng 24
giờ, nếu không thực hiện sẽ bị tiêu diệt, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn
2 vũ trang của Neo Lào Hắc Xạt đóng tại Cánh đồng Chum - Xiêng
Khoảng đã dũng cảm, mưu trí, bí mật lợi dụng đêm tối vượt qua
vòng vây của địch ra vùng núi phía đông và rút dần về vùng biên
giới giáp Việt Nam.
Biết rõ trên đường hành quân, Tiểu đoàn 2 gặp rất nhiều khó
348
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

khăn về đạn dược, lương thực, số người đi theo đông (91 gia đình,
phần lớn là vợ con cán bộ, chiến sĩ), quân nguỵ Viêng Chăn đã sử
dụng Tiểu đoàn 10 truy kích hòng tiêu diệt lực lượng Pathết Lào.
Dự đoán đúng âm mưu và thủ đoạn tác chiến của địch, chỉ huy Tiểu
đoàn 2 đã tổ chức lực lượng phục kích đánh tan tiểu đoàn địch ở
Xiêng Khoảng. Không cam chịu thất bại, quân ngụy Viêng Chăn
tiếp tục cho Tiểu đoàn dù số 2 nhảy dù xuống Mương Ngan chặn
đường hành quân của Tiểu đoàn 2 Pathết Lào. Nhờ sự giúp đỡ che
chở của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 2 đã đánh lui được
quân địch ở Mương Ngan, tiếp tục hành quân ra vùng căn cứ.
Trải qua 15 ngày đêm vừa hành quân vừa chiến đấu dũng cảm,
mưu trí, ngày 2 tháng 6 năm 1959, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 2
Pathết Lào đã vượt qua vòng vây của quân thù, bảo toàn được lực
lượng, trở về căn cứ ở vùng núi Kày Khẳn, biên giới Lào - Việt
Nam.
Việc Tiểu đoàn 2 phá vây, bảo toàn được lực lượng trở về căn
cứ là một thắng lợi của cách mạng Lào. Từ thời điểm này, Tiểu
đoàn 2 cùng nhân dân các dân tộc Lào trong cả nước thực hiện nghị
quyết của Trung ương Đảng Nhân dân Lào, chuyển hướng sang đấu
tranh vũ trang tự vệ kết hợp với phong trào khởi nghĩa của quần
chúng, đòi phía chính quyền Vương quốc thi hành nghiêm chỉnh
Hiệp định Giơnevơ và các hiệp định Viêng Chăn.
Cũng trong thời gian này, Tiểu đoàn 1 vũ trang của Neo Lào
Hắc Xạt đóng ở huyện Xiêng Ngân (tỉnh Luổng Phạbang), do nhiều
nguyên nhân, trong đó trở ngại nhất là thông tin liên lạc nên việc
rút quân không thực hiện được theo ý định. Sau khi Tiểu đoàn 2 đã
vượt vòng vây trở về căn cứ, địch càng tăng cường đối phó hết sức
nghiêm ngặt. Do vậy, đến đầu năm 1960, Tiểu đoàn 1 mới rút ra
được nhưng quân số thiếu hụt gần một nửa (về hoà hợp dân tộc,
349
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

tiểu đoàn biên chế 750 cán bộ, chiến sĩ, quá trình rút quân nhiều
cán bộ, chiến sĩ bị thương vong, một số bị địch bắt giam nên khi về
đến căn cứ quân số của tiểu đoàn chỉ còn hơn 400 người). Tuy có bị
thiệt hại về lực lượng nhưng về cơ bản Pathết Lào vẫn duy trì được
lực lượng vũ trang, đây là yếu tố vô cùng quan trọng để xây dựng,
củng cố và phát triển đội ngũ cán bộ của quân giải phóng nhân dân
Lào sau này.
Trong quá trình diễn ra sự kiện Tiểu đoàn 2 Pathết Lào chiến
đấu phá vây, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Thường vụ
Quân uỷ Trung ương Việt Nam, từ trung tuần tháng 5 đến đầu
tháng 6 năm 1959, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt
Nam chỉ đạo các quân khu, các cơ quan, đơn vị có nhiệm vụ giúp
cách mạng Lào tạo mọi điều kiện giúp đỡ Tiểu đoàn 2 và các lực
lượng Pathết Lào chiến đấu, bảo vệ lực lượng trên đường hành
quân ra vùng biên giới Việt - Lào.
Ngày 20 tháng 5 năm 1959, Tổng Quân uỷ họp bàn về tình
hình Lào. Trên cơ sở phân tích âm mưu của địch ở Lào trong
thời gian tới, Tổng Quân uỷ đề ra một số công tác cần tiến hành,
trong đó nhấn mạnh: “tổ chức bộ đội vũ trang giải phóng Lào; tổ
chức cơ quan chỉ đạo, chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam ở Lào;
chuẩn bị cho việc giải phóng một khu vực ở Lào làm căn cứ cho
phong trào cách mạng toàn quốc và căn cứ chỉ đạo của cách mạng
Lào; đào tạo đội ngũ cán bộ của cách mạng Lào; chuẩn bị về sự
giúp đỡ của Việt Nam cho cách mạng Lào; chuẩn bị kế hoạch hoạt
động quân sự để thực hiện chủ trương giải phóng một khu vực làm
căn cứ hoặc chỗ đứng cho các lực lượng cách mạng Lào”1.
Cũng trong thời gian này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp điện chỉ
thị các đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh, Nguyễn Đôn (Quân khu 4),

1
. Biên niên sự kiện Bộ Tổng Tham mưu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1955 - 1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, t.1, tr.299-300.
350
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

yêu cầu Quân khu chuẩn bị điện đài, cán bộ và bộ đội để sẵn sàng
thực hiện kế hoạch giúp đỡ Tiểu đoàn 2 Pathết Lào. Tiếp đó, ngày
30 tháng 5, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Quân khu 4, trong đó
yêu cầu “tổ chức nhiều tổ nhỏ (3 - 4 người) phái vào phân tán hoạt
động trên một khu vực tương đối rộng để giúp Tiểu đoàn 2 Pathết
Lào khi Tiểu đoàn 2 về đến biên giới. Để giúp Tiểu đoàn 2 tác
chiến, cần chi viện cho bạn hoả lực (cối 82 hoặc ĐKZ), bộc phá
đạn dược, lương thực và điều tra vị trí địch; đôn đốc các vùng, các
đồn biên phòng bảo đảm tiếp tế và nắm tình hình giúp bạn”1.
Ngày 1 tháng 6 năm 1959, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân
dân Việt Nam điện gửi đồng chí Tùng, Trưởng Ban Trinh sát Z20c:
“Để yểm hộ Tiểu đoàn 2 rút quân, cần nắm vững tình hình địch,
dùng bộ đội Tiểu đoàn 2 tiêu diệt quân truy kích nhưng phải chắc
thắng mới đánh, không chắc thì đánh tiêu hao; lực lượng sử dụng ở
mức trung đội tăng cường. Để tiến tới diệt địch ở Then Phun và
Mương Ngạt, cần chuẩn bị điều tra địch, nắm nhân dân, lập tổ vũ
trang, làm công tác tư tưởng và động viên cán bộ, chiến sĩ Tiểu
đoàn 2”2. Riêng Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu đã cử một
trung đội trinh sát do đồng chí Tâm chỉ huy đi đón và hỗ trợ dẫn
đường cho Tiểu đoàn 2 về Mường Xén. Những hoạt động trên của
các đơn vị quân đội nhân dân Việt Nam đã góp phần tích cực giúp
đỡ để Tiểu đoàn 2 Pathết Lào rút lui thành công về vùng biên giới
giáp Việt Nam.
Ngày 3 tháng 6 năm 1959, Trung ương Đảng Nhân dân Lào ra
nghị quyết về tình hình nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Lào,
trong đó nhấn mạnh: “Đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào các

. Điện của Bộ Tổng Tham mƣu gửi các đơn vị. Lƣu tại Cục Cơ yếu, Bộ
1

Tổng Tham mƣu Quân đội nhân dân Việt Nam.


2
. Điện của Bộ Tổng Tham mƣu gửi các đơn vị. Lƣu tại Cục Cơ yếu, Bộ
Tổng Tham mƣu Quân đội nhân dân Việt Nam.
351
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

mặt chính trị, kinh tế và quân sự của Lào. Theo lệnh đế quốc Mỹ,
chính phủ Phủi Xánánicon đã gây tình hình nghiêm trọng ở Lào.
Chúng ngang nhiên phá hoại Hiệp định Giơnevơ và các hiệp định
Viêng Chăn. Trắng trợn hơn là chúng đã bao vây hai tiểu đoàn vũ
trang 1 và 2, giam lỏng các lãnh tụ của Neo Lào Hắc Xạt, tấn công
các lực lượng vũ trang của Neo Lào Hắc Xạt. Khả năng hoà bình,
thực hiện hoà hợp dân tộc đã mất. Dù bọn tay sai phản động ra sức
khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của quần chúng, song lực
lượng cách mạng vẫn ngày càng lớn mạnh. Các lực lượng nhân dân
ngày càng ủng hộ đường lối đúng đắn của Neo Lào Hắc Xạt”1.
Trên cơ sở phân tích tình hình, âm mưu của địch, nghị quyết
vạch ra một số nhiệm vụ và hình thức đấu tranh, đó là:
- Chuyển sang hình thức đấu tranh vũ trang là chủ yếu, kết hợp
với các hình thức đấu tranh khác.
- Đoàn kết rộng rãi các lực lượng yêu nước, yêu hoà bình với
phương châm đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết được, trung
lập mọi lực lượng có thể trung lập được, phân hoá mọi lực lượng có
thể phân hoá được.
- Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Viêng Chăn và các hiệp
nghị đã được ký kết giữa hai bên để xây dựng một nước Lào hoà
bình, trung lập, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng.
Nghị quyết xác định: “tiếng súng chiến đấu tự vệ của Tiểu đoàn
2 Pathết Lào báo hiệu cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Lào
đang chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn từ đấu tranh công
khai hợp pháp là chủ yếu, chuyển sang đấu tranh vũ trang là chủ
yếu, kết hợp đấu tranh chính trị”2.

1
. Một số tư liệu về quan hệ đặc biệt Việt - Lào. Lƣu tại Bộ môn Lịch sử tổ
chức quân sự - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
2
. Một số tư liệu về quan hệ đặc biệt Việt - Lào. Lƣu tại Bộ môn Lịch sử tổ
chức quân sự - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
352
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Cũng trong thời gian này, Tổng Quân uỷ Việt Nam chỉ thị cho
Quân khu Tây Bắc đưa lực lượng sang phối hợp với quân đội
Pathết Lào tiến công một số cứ điểm của địch sát biên giới và vận
động nhân dân Lào chuẩn bị cho những hoạt động lớn sau này.
Ngày 2 tháng 7 năm 1959, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt
Nam nhận định về tình hình Lào và đề ra chủ trương giúp cách
mạng Lào đáp ứng yêu cầu xây dựng phát triển lực lượng trong tình
hình mới.
Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam xác định nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam đối với cách mạng Lào
là: “tích cực ủng hộ cách mạng Lào phải được coi là một nhiệm vụ
quốc tế hết sức quan trọng của Đảng và nhân dân ta, là một công
tác có ý nghĩa trọng đại đối với sự nghiệp củng cố miền Bắc và đấu
tranh thống nhất nước nhà. Chúng ta cần phải thống nhất tư tưởng
trong Đảng và trong cán bộ về tình hình và nhiệm vụ của cách
mạng Lào, về nhiệm vụ quốc tế của Đảng ta đối với cách mạng
Lào”1.
Từ nhận định trên, để giúp Đảng Nhân dân Lào xây dựng phát
triển lực lượng, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, Bộ Chính trị
Đảng Lao động Việt Nam đã giao nhiệm vụ cho đoàn cán bộ Việt
Nam (Đoàn 959) giúp Lào xây dựng phát triển Tiểu đoàn 2 thành ba
tiểu đoàn (1, 2, 3). Quân số mỗi tiểu đoàn khoảng 200 người. Căn cứ
vào tình hình thực tế, đoàn cán bộ Việt Nam đã cử ba tổ cán bộ giúp
xây dựng ba tiểu đoàn, mỗi tổ có một đồng chí phụ trách và bộ phận
cơ yếu điện đài. Ngoài ra theo yêu cầu của Lào, Đoàn 959 còn bổ
sung vũ khí, trang bị, quân trang, quân dụng và tổ chức huấn luyện
về kỹ thuật, chiến thuật cho các đơn vị Pathết Lào.

. Một số tư liệu về quan hệ đặc biệt Việt - Lào. Lƣu tại Bộ môn Lịch sử tổ
1

chức quân sự - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


353
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Ngày 3 tháng 7 năm 1959, hai Bộ Chính trị Việt Nam và Lào
họp bàn quyết định mở đợt hoạt động quân sự trong mùa mưa năm
1959 nhằm củng cố căn cứ, cải thiện thế đứng chân của các đơn vị
Pathết Lào. Để kịp thời nắm tình hình chỉ đạo các mặt công tác
giúp Lào, ngày 6 tháng 7 năm 1959, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam quyết định thành lập Ban Công tác Lào
(CP31) do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm trưởng ban, đồng chí
Nguyễn Khang làm phó ban, đồng chí Nguyễn Chính Giao làm uỷ
viên thường trực và một số uỷ viên khác như Nguyễn Văn Vịnh,
Nguyễn Đức Dương, Lê Chưởng. Nhiệm vụ chính của Ban là chủ
động theo dõi, nghiên cứu, hướng dẫn mọi diễn biến về Lào, qua đó
đề xuất và xin ý kiến chỉ đạo của Trung ương thực hiện kế hoạch
viện trợ cho Lào. Tiếp đó, ngày 11 tháng 7 năm 1959, Ban Bí thư
ra Chỉ thị số 147-CT/TW về việc tăng cường lãnh đạo công tác
củng cố và mở mang miền Tây, các tỉnh Liên khu 4 cũ.
Bộ Chính trị hai Đảng xác định cách mạng Lào chuyển hướng
đấu tranh từ công khai hợp pháp sang đấu tranh vũ trang là chủ yếu.
Quán triệt tinh thần đó, ngày 15 tháng 7 năm 1959, Bộ Tổng Tham
mưu Quân đội nhân dân Việt Nam đã xác định phương hướng hoạt
động quân sự và giúp cách mạng Lào xây dựng lực lượng vũ trang
trong thời gian tới.
Về hoạt động quân sự, hướng hoạt động quân sự chủ yếu là
Thượng Lào, lấy hai tỉnh Phôngxalỳ và Sầm Nưa làm căn cứ;
Trung Lào là hướng hoạt động phối hợp; ở Hạ Lào, xây dựng lực
lượng chính trị quân sự bí mật rồi tiến tới đấu tranh vũ trang.
Về xây dựng lực lượng vũ trang, phấn đấu đến cuối năm 1959,
mỗi tỉnh của Lào có từ hai trung đội đến một đại đội; mỗi huyện có
từ một tiểu đội đến một trung đội bộ đội địa phương; bộ đội chủ lực
có từ ba đến năm tiểu đoàn ở cơ sở, tổ chức lực lượng du kích để
hoạt động vũ trang tuyên truyền.
354
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Trong mùa mưa, dùng lực lượng quân sự mở các đợt hoạt động
vũ trang tuyên truyền, đánh nhỏ ở vùng sâu, vùng biên giới và vùng
trọng điểm. Phương châm hoạt động là kết hợp quân sự với chính
trị, tác chiến tuyên truyền với xây dựng.
Để giúp lực lượng Pathết Lào hoạt động và xây dựng theo
phương châm trên, “cần trang bị súng cho lực lượng bộ đội chủ lực,
cấp dưỡng hoàn toàn cho cơ quan lãnh đạo, cho bộ đội chủ lực, một
phần cho bộ đội địa phương và giúp đỡ nhân dân bạn phát triển sản
xuất để tự túc”1.
Thực hiện chủ trương giúp lực lượng Pathết Lào mở đợt hoạt
động trong mùa mưa năm 1959, ngày 18 tháng 7 năm 1959, Tổng
Quân uỷ Việt Nam chỉ thị cho Quân khu Tây Bắc và Quân khu 4 cử
một số đơn vị cấp đại đội, tiểu đoàn, phối hợp với các đơn vị Pathết
Lào tiến công một số cứ điểm của địch ở sát biên giới Việt - Lào,
sau đó chia thành ba bộ phận theo ba hướng trở về Lào chiến đấu.
Bộ phận thứ nhất gồm Tiểu đoàn 2, do đồng chí Cayxỏn
Phômvihản, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Lào, trực tiếp chỉ đạo;
đồng chí Lê Chưởng, phụ trách - đoàn trưởng đoàn cán bộ Việt
Nam giúp Lào - cùng đi với tiểu đoàn tiến từ đông nam Sầm Nưa
lên vùng đông nam Xiêng Khoảng (hướng chủ yếu). Bộ phận thứ
hai gồm Tiểu đoàn 4, do đồng chí Khăm Tày Xiphănđon, Uỷ viên
Trung ương Đảng Nhân dân Lào, trực tiếp chỉ đạo, tiến từ Mương
Xon - bắc Sầm Nưa, Phôngxalỳ - Luổng Phạbang đến Xiêng Ngân
(hướng thứ yếu). Bộ phận thứ ba do một đại đội của Tiểu đoàn 1
phụ trách từ bắc đường 8 đến đường 12 - Khăm Muộn (hướng phối
hợp). Các tiểu đoàn 1, 2, 4 đều có một tổ chuyên gia và bộ phận
điện đài đi cùng theo từng hướng.

1
. Biên niên sự kiện Bộ Tổng Tham mưu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1955 - 1975), Sđd, t.1, tr.30.
355
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Được sự hỗ trợ của các đơn vị Pathết Lào, nhân dân các địa
phương đã nổi dậy đập tan ách kìm kẹp của địch, giải phóng các
huyện Mương Xăm, Sằm Tớ, Mương Xon (tỉnh Sầm Nưa), Xốp
Nao, Xốp Hùn (tỉnh Phôngxalỳ); Pạc Khao, Xốp Văn (tỉnh Luổng
Phạbang), khu vực Xảm Chè (Xiêng Khoảng), vùng Khăm Cợt,
Bolịkhăn (tỉnh Bolikhămxay), Na Pê, Na Hương, Lắc Xao (tỉnh
Khăm Muộn). Phối hợp chặt chẽ với hoạt động vũ trang, công tác
tuyên truyền vận động nhân dân đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ
được triển khai rộng khắp. Ngày 2 tháng 8 năm 1959, Uỷ ban Trung
ương Neo Lào Hắc Xạt kêu gọi nhân dân cả nước đẩy mạnh phong
trào đấu tranh, đòi nhà cầm quyền Vương quốc Lào trả tự do cho các
nhà lãnh đạo Neo Lào Hắc Xạt, đòi đình chỉ chiến tranh, lập Chính
phủ liên hiệp và thực hiện đường lối hoà bình trung lập.
Từ ngày 18 tháng 8 đến 15 tháng 9 năm 1959, một số đơn vị
quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với các đơn vị Pathết Lào mở
đợt hai hoạt động trong mùa mưa. Trong đợt hoạt động này, quán
triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân
Việt Nam, một số đơn vị quân tình nguyện Việt Nam (chủ yếu là lực
lượng Quân khu 4 tác chiến ở các tỉnh Xiêng Khoảng, Liên huyện 90
và Khăm Muộn) đã vận dụng nhiều hình thức tác chiến linh hoạt như
phục kích, tập kích, bao vây, bắn tỉa, địch vận, phá hoại cầu đường,
đốt kho tàng của địch, đánh cứ điểm bằng đặc công kết hợp hoả lực,
v.v.. Đi đôi với tác chiến, các đơn vị tình nguyện Việt Nam đã tích
cực giúp Lào củng cố cơ sở, phát động nhân dân ủng hộ kháng
chiến, tham gia các lực lượng dân quân tự vệ chiến đấu bảo vệ vùng
mới giải phóng. Các đơn vị quân tình nguyện phối hợp chiến đấu
chặt chẽ với lực lượng Pathết Lào và nhân dân địa phương đánh 40
trận, giải phóng thêm 13 điểm. Sau đợt hoạt động này, các tiểu đoàn
1, 2, 4 Pathết Lào được lệnh rút ra hoạt động ở vùng biên giới Việt -
Lào, sau đó sang tập trung ở huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ (Việt
356
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Nam) để chấn chỉnh lực lượng. Theo yêu cầu của Trung ương Neo
Lào Hắc Xạt, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã giúp xây dựng hai tiểu
đoàn 1 và 2 Pathết Lào thành hai tiểu đoàn chủ lực mạnh, quân số
mỗi tiểu đoàn từ 650 đến 700 người; đồng thời bổ sung vũ khí, trang
bị và cử các tổ chuyên gia giúp hai tiểu đoàn cả về quân sự, chính trị
và chuyên môn kỹ thuật.
Do yêu cầu chi viện chiến trường Lào ngày càng lớn, ngày 12
tháng 9 năm 1959, Bộ Quốc phòng Việt Nam ra Quyết định số
446/QĐ-QP thành lập Đoàn 959 (còn gọi là Đoàn Công tác miền
Tây). Nhiệm vụ của Đoàn là làm chuyên gia về quân sự cho Quân
uỷ Trung ương và Bộ Chỉ huy tối cao Quân đội Pathết Lào, tổ chức
chi viện vật chất của Việt Nam cho cách mạng Lào và trực tiếp chỉ
huy các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam hoạt động ở khu vực
Sầm Nưa, Xiêng Khoảng, Viêng Chăn. Thiếu tướng Lê Chưởng -
Uỷ viên Ban Công tác Lào, phụ trách - đoàn trưởng đoàn cán bộ
Việt Nam được cử làm đoàn trưởng kiêm bí thư Đoàn uỷ Đoàn
959. Đồng chí Lê Tiến Phục, cán bộ quân đội và các đồng chí Đinh
Văn Khanh, Mai Văn Quang, Đào Ngọc Hưng (cán bộ dân chính)
làm uỷ viên Đoàn uỷ1.
Với sự chuyển hướng đấu tranh kịp thời và sáng tạo của Đảng
Nhân dân Lào cùng với sự phối hợp giúp đỡ toàn diện, có hiệu quả
của Việt Nam, cách mạng Lào đã đồng loạt đấu tranh bằng nhiều
hình thức, chủ yếu là quân sự và đã giành được những thắng lợi
quan trọng, tạo điều kiện để xây dựng căn cứ, củng cố lực lượng vũ
trang, tiếp tục cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai ở Lào
trong giai đoạn mới.

IV. PHỐI HỢP CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ VÀ MỞ RỘNG VÙNG GIẢI

. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sáu mươi năm Quân đội
1

nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.185.
357
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

PHÓNG, ĐẤU TRANH ĐÒI THÀNH LẬP CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP
LẦN THỨ HAI, TIẾN TỚI HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ VỀ LÀO,
THIẾT LẬP QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA HAI NƢỚC

1. Tiếp tục xây dựng lực lượng, liên minh với lực lượng
trung lập thực hiện hoà hợp dân tộc
Trước sự can thiệp trắng trợn của đế quốc Mỹ vào Lào, phá
hoại nghiêm trọng Hiệp định Giơnevơ 1954 và các hiệp định Viêng
Chăn, ngày 20 tháng 9 năm 1959, Trung ương Đảng Nhân dân Lào
tiến hành Hội nghị lần thứ hai, ra Nghị quyết về tình hình và nhiệm
vụ cụ thể trước mắt của cách mạng Lào. Đánh giá về âm mưu của
Mỹ và tay sai cũng như chuyển biến của tình hình Lào từ khi
Tiểu đoàn 2 phá vòng vây trở về căn cứ và quân dân Lào trong cả
nước chuyển hướng sang đấu tranh vũ trang là chủ yếu, Nghị quyết
chỉ rõ: “Địch đã dùng lực lượng vũ trang tấn công Neo Lào Hắc
Xạt gây lại cuộc chiến tranh, buộc nhân dân ta phải chiến đấu tự
vệ. Với chủ trương chuyển hướng đấu tranh đúng đắn và kịp thời,
quân dân Lào đã nổi dậy, đẩy mạnh hoạt động vũ trang chống lại
đế quốc Mỹ và bọn tay sai phản động. Chỉ trong một thời gian
ngắn, nhiều vùng đất đai rộng lớn đã được giải phóng, ảnh hưởng
của Neo Lào Hắc Xạt ngày càng được nâng cao ở trong nước và
thế giới”1.
Để chủ động đối phó với các âm mưu của địch, giành thắng lợi
trong mọi tình huống, Nghị quyết đề ra nhiệm vụ cụ thể trước mắt
của Đảng Nhân dân Lào trong giai đoạn mới là: “Phát động quần
chúng trong toàn quốc đẩy mạnh chiến tranh du kích; ra sức củng
cố và tăng cường lực lượng cách mạng về mọi mặt. Mở rộng các
khu căn cứ ở miền núi, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động vào vùng

1
, 2. Nguyễn Văn Vinh: Những sự kiện lịch sử ở Lào (1353 - 1975), Sđd,
tr.361.
358
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

đồng bằng và đô thị; phát động phong trào đấu tranh chính trị rộng
rãi, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, các hiệp định Viêng Chăn và
đòi Uỷ ban quốc tế ở Lào hoạt động trở lại”2. Thực hiện Nghị quyết
Trung ương lần thứ hai, dựa vào lực lượng quần chúng, đồng thời
dựa vào cơ sở pháp lý của Hiệp định Giơnevơ để phát động một
phong trào đấu tranh mạnh mẽ trên toàn quốc, cuối tháng 9 năm
1959, ở Luổng Phạbang đã có hàng nghìn người ký kiến nghị phản
đối chính phủ Phủi Xánánicon. Tiếp đó, ngày 1 tháng 10, một số
giới ở Viêng Chăn mít tinh đòi chính phủ chấm dứt chính sách vũ
lực, trả tự do cho Hoàng thân Xuphanuvông và các lãnh tụ Neo Lào
Hắc Xạt bị bắt giam. Phong trào ở Viêng Chăn rất mạnh, nhất là
trong giới trí thức, sư sãi, sinh viên, học sinh. ở các nơi khác, phong
trào xây dựng lực lượng vũ trang, đánh địch bảo vệ vùng giải
phóng cũng thu được những thắng lợi đáng kể.
Ngày 22 tháng 10 năm 1959, tại vùng căn cứ địa Sầm Nưa, Neo
Lào Hắc Xạt khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III nhằm
đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ từ Hội nghị mở rộng Ban
Chấp hành Trung ương Neo Lào Hắc Xạt tại căn cứ địa Sầm Nưa
(ngày 10 tháng 1 năm 1958) đến hội nghị này.
Trong hơn một năm ra hoạt động công khai hợp pháp ở một
số đô thị lớn và qua bốn tháng chuyển hướng sang đấu tranh vũ
trang, cách mạng Lào từ chỗ bị địch lật lọng, bị khủng bố trên
toàn quốc đã từng bước giành lại được những thắng lợi quan
trọng, uy tín của Neo Lào Hắc Xạt được phục hồi ở trong nước và
trên thế giới. Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, Đại hội kêu gọi quân
dân các dân tộc Lào đoàn kết chặt chẽ xung quanh Đảng Nhân
dân Lào, Neo Lào Hắc Xạt, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh vũ
trang kết hợp với các hình thức đấu tranh khác, từng bước làm
thất bại âm mưu gây lại chiến tranh ở Lào của đế quốc Mỹ và bọn
tay sai cực đoan phản động. Trước mắt, yêu cầu Mỹ và Chính phủ
359
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Vương quốc phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ
1954, các hiệp định Viêng Chăn đã được hai bên ký kết, đưa
nước Lào đi theo đường lối hoà bình trung lập, hoà hợp dân tộc,
thống nhất quốc gia, thực hiện các quyền dân chủ. Đại hội còn
thông qua một số chính sách quan trọng như: vận động viên chức,
chính sách đối với sư sãi và thông qua tuyên bố: Neo Lào Hắc
Xạt sẵn sàng đàm phán với nhà cầm quyền Lào để giải quyết vấn
đề tranh chấp ở Lào.
Trước âm mưu mở rộng chiến tranh, tiến công lực lượng cách
mạng Lào của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, xuất phát từ đặc điểm
chiến trường, nhiệm vụ cách mạng, phương châm hoạt động vũ
trang đã được các Nghị quyết Trung ương hai và ba xác định, ngày
6 tháng 11 năm 1959, Trung ương Đảng Nhân dân Lào ra chỉ thị về
việc tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của các đại đội độc lập.
Cùng với đẩy mạnh hoạt động của đại đội độc lập, vấn đề khôi
phục sản xuất, phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống nhân dân trong
các vùng giải phóng cũng được Đảng và Neo Lào Hắc Xạt tập
trung lãnh đạo. Ngày 25 tháng 12 năm 1959, Trung ương Đảng
Nhân dân Lào ra chỉ thị về việc tích cực vận động tăng gia, sản xuất
lương thực, thực phẩm, trong đó yêu cầu toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân phải “ra sức đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất, chống
đói, cải thiện đời sống nhân dân, cán bộ, bộ đội, từng bước thực
hiện tự cấp tự túc nhằm thực hiện tốt phương châm đấu tranh
trường kỳ gian khổ, tự lực cánh sinh, nhất định thắng lợi”1.
Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, cùng với việc đẩy
mạnh tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống, các địa phương đã tích
cực xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh chiến tranh du kích.

. Nguyễn Văn Vinh: Những sự kiện lịch sử ở Lào (1353 - 1975), Sđd, tr.367-
1

368.
360
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Đến cuối năm 1959, chiến tranh du kích đã phát triển ở khắp nơi.
Lực lượng vũ trang Pathết Lào được sự giúp đỡ của Việt Nam đã
phát triển, xây dựng Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 thành hai tiểu đoàn
chủ lực mạnh, quân số mỗi tiểu đoàn từ 650 đến 700 người. Ngoài
ra, Đoàn 959 còn giúp các tỉnh của Lào xây dựng được hơn 100
trung đội bộ đội địa phương và tổ chức thêm nhiều trung đội, tiểu
đội du kích chiến đấu tại chỗ. Với lực lượng đó, bộ đội Pathết Lào
không chỉ đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, mà còn
mở rộng vùng giải phóng, làm chủ nhiều địa bàn quan trọng ở đông
bắc Luổng Phạbang, đông bắc Pạc Xan, miền đông Khăm Muộn,
miền đông Hạ Lào và toàn bộ vùng nông thôn Thượng Lào.
Trong khi cách mạng Lào có bước phát triển mới thì Chính
phủ Vương quốc Lào do Phủi Xánánicon làm thủ tướng lâm vào
khủng hoảng nghiêm trọng. Phủi Xánánicon phải đệ đơn xin từ
chức và đưa Kúpaxít Aphay (Chủ tịch Hội đồng nhà vua) lên làm
thủ tướng. Ngày 5 tháng 2 năm 1960, Chính phủ Vương quốc Lào
cho sửa đổi Luật tổng tuyển cử1 nhằm hạn chế quyền tự do dân chủ,
ngăn cản Neo Lào Hắc Xạt và các đảng phái tiến bộ khác tham gia
tổng tuyển cử.
Trước tình hình trên, cùng với việc chỉ thị cho đảng uỷ các cấp
phải lãnh đạo nhân dân kiên quyết đấu tranh vạch mặt và đánh đổ

. Trong Luật tổng tuyển cử sửa đổi, chính phủ phản động đã đƣa ra một số
1

điều kiện vô lý đối với những ngƣời ứng cử nhƣ: phải có bằng tiểu học hoặc
bằng cao đẳng Phật học bậc 9 (mahả 9); nếu là công chức phải có thâm niên 15
năm trở lên; là nhà buôn phải có môn bài cấp 10 và đã liên tục kinh doanh 5 năm;
phải là công dân Lào đã sinh sống liên tục 5 năm trên đất nƣớc Lào tính đến
ngày 1 tháng 1 năm 1960; ngƣời ra ứng cử phải ký quỹ 5.000 kíp và tiền bảo
đảm 20.000 kíp; về khu vực bầu cử, không dựa vào đơn vị hành chính hiện hành
mà dựa vào địa hình để cắt hoặc nhập các xã, mƣờng nhằm bảo đảm mỗi khu
vực có từ 25.000 đến 30.000 cử tri. Thực chất đây là âm mƣu làm đảo lộn các
vùng cơ sở của Neo Lào Hắc Xạt.
361
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

bọn phản động cầm đầu “Uỷ ban bảo vệ quyền lợi quốc gia”; tranh
thủ liên minh với những người tiến bộ để tập hợp lực lượng chống
Mỹ; phát triển du kích chiến tranh, chống địch càn quét, củng cố
căn cứ địa và mở rộng hoạt động vào các vùng đồng bằng, đô thị,
Trung ương Đảng Nhân dân Lào quyết định di chuyển một số cơ
quan lãnh đạo của Đảng và Bộ Quốc phòng Lào đóng trên đất Việt
Nam (khu vực Lam Sơn, Thanh Hoá) về nước để trực tiếp lãnh đạo
nhân dân kháng chiến chống Mỹ.
Ngày 3 tháng 3 năm 1960, Ban Chấp hành Trung ương Neo
Lào Hắc Xạt ra tuyên bố phản đối cuộc tổng tuyển cử do chính
phủ phản động bất hợp pháp tổ chức (dự định vào ngày 24 tháng 4
năm 1960).
Để nhân dân trong cả nước thấy rõ đường lối chính trị của Neo Lào
Hắc Xạt trong cuộc tổng tuyển cử và để tập hợp lực lượng quần
chúng, ngày 1 tháng 4 năm 1960, Ban Chấp hành Trung ương Neo
Lào Hắc Xạt đề ra chương trình chính trị gồm 10 điểm1, thể hiện

1
. Chƣơng trình chính trị 10 điểm gồm:
- Hai bên đình chỉ ngay tức khắc các cuộc xung đột vũ trang, các cuộc hành
quân càn quét, khủng bố nhân dân. Đại diện hai bên gặp nhau để đàm phán nhằm
thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ 1954 và các hiệp định Viêng Chăn.
- Thi hành chính sách đối ngoại hoà bình, trung lập, thực sự chống sự can
thiệp của đế quốc Mỹ, đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nƣớc không phân
biệt chế độ chính trị theo nguyên tắc chung sống hoà bình.
- Tôn trọng hiến pháp hiện hành, nhà vua, tôn giáo, bảo đảm quyền tự do dân
chủ cho nhân dân.
- Bảo đảm quyền tự do hoạt động của Neo Lào Hắc Xạt và các đảng phái chính
trị khác. Trả lại quyền tự do ngay cho Hoàng thân Xuphanuvông và các cán bộ khác
của Neo Lào Hắc Xạt bị bắt giam trái phép.
- Thành lập Chính phủ liên hiệp có đại biểu của Neo Lào Hắc Xạt, các đảng
phái chính trị tiến bộ và đại biểu các dân tộc tham gia.
- Tất cả các dân tộc ở Lào đều có quyền bình đẳng, đoàn kết thƣơng yêu,
giúp đỡ lẫn nhau.
- Nam, nữ đều có quyền bình đẳng.
362
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

các mặt đối nội, đối ngoại nhằm thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định
Giơnevơ 1954 và các hiệp định Viêng Chăn, xây dựng nước Lào
hoà bình, trung lập và phát triển thịnh vượng.
Tháng 4 năm 1960, các thế lực phản động tay sai thân Mỹ tổ
chức tổng tuyển cử và bầu chính phủ mới, đưa Xổmxanít lên làm
thủ tướng (nhưng thực tế quyền hành vẫn do Phumi Nòxavẳn nắm
giữ). Bất chấp sự phản đối của nhân dân trong nước và dư luận
quốc tế, đầu tháng 5 năm 1960, Uỷ ban bảo vệ quyền lợi quốc gia
họp hội nghị tại Viêng Chăn quyết định thành lập Đảng chính trị
mới lấy tên là “Pạxaxẳngkhôm (Xã hội dân chủ)” do Phumi
Nòxavẳn làm chủ tịch.
Trước những diễn biến phức tạp ở Lào do Mỹ và tay sai gây ra,
ngày 5 tháng 5 năm 1960, Trung ương Đảng Nhân dân Lào đã họp
bàn về tổng tuyển cử và hướng đấu tranh ở Lào. Một vấn đề lớn
được Bộ Chính trị quan tâm là phải tìm mọi cách giải thoát cho các
cán bộ của Trung ương Neo Lào Hắc Xạt đang bị bọn tay sai thân
Mỹ bắt giam, đưa các đồng chí này trở về tiếp tục lãnh đạo phong
trào cách mạng đang diễn ra sôi động trong cả nước Lào.
Trước đó một năm (tháng 5 năm 1959), ngay khi Hoàng thân
Xuphanuvông và một số nhà lãnh đạo của Neo Lào Hắc Xạt mới bị
chính quyền Phủi Xánánicon bắt giam lỏng ở Viêng Chăn, theo yêu
cầu của Trung ương Đảng Nhân dân Lào, Quân uỷ Trung ương Việt
Nam đã giao cho Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu Quân đội

- Nâng giá đồng Kíp lên ngang giá trƣớc đây. Tranh thủ sự viện trợ không có
điều kiện ràng buộc của tất cả các nƣớc để xây dựng nền kinh tế quốc gia, không
nhận viện trợ quân sự.
- Cải thiện đời sống các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tiếp tế muối, vải, nông
cụ cho nhân dân các bộ tộc. Xoá bỏ chế độ cuông, lam, các thứ thuế bất công, giảm
nhẹ các loại thuế quá nặng nề. Chống bắt phu, bắt lính.
- Phát triển nền văn hoá, giáo dục dân tộc. Phát triển y tế, phòng bệnh chữa
bệnh, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.
363
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

nhân dân Việt Nam lập một tổ công tác đặc biệt gồm chín đồng chí
có năng lực và thông thạo tỉnh Viêng Chăn trước đây, do đồng chí
Phan Dĩnh (nguyên Uỷ viên Ban Cán sự Đảng tỉnh Viêng Chăn) làm
tổ trưởng, bí mật trở lại Viêng Chăn, bắt liên lạc với các đồng chí
cán bộ Lào hoạt động bí mật trong nội thành để tổ chức cuộc giải
thoát cho các đồng chí bị giam, kết hợp với việc truyền đạt, triển
khai nghị quyết của Trung ương Đảng Nhân dân Lào chuyển hướng
chiến lược từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh quân sự - chính trị
kết hợp, nhưng quân sự là chủ yếu. Quán triệt chỉ thị của đồng chí
Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Lào, là “phải gắn
chặt việc giải thoát các đồng chí lãnh đạo bị giam giữ với việc triển
khai nghị quyết chuyển hướng chiến lược, phát động trở lại chiến
tranh du kích song song với đấu tranh chính trị trên toàn quốc Lào,
có chuyển hướng như vậy mới phục hồi và duy trì được cơ sở quần
chúng yêu nước và phong trào đấu tranh của nhân dân, có phong trào
đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị của nhân dân mới có điều kiện
để giải thoát các đồng chí bị bắt giam được”1, các đồng chí trong tổ
công tác đặc biệt Việt Nam và Tỉnh uỷ Viêng Chăn cùng các đồng
chí cán bộ Lào hoạt động bí mật trong nội thành Viêng Chăn đã tìm
cách tiếp cận nhà tù Phôn Khêng để xây dựng các phương án giải
cứu các đồng chí bị giam.
Sau nhiều tháng chuẩn bị cơ sở bên trong và bên ngoài trại
giam, tổ chức giao thông liên lạc, theo dõi, nghiên cứu bản đồ, thực
địa, nhiều lần bàn bạc, cân nhắc các phương án với sự hỗ trợ của tổ
công tác đặc biệt Việt Nam, cuối cùng Ban Chỉ đạo quyết định lựa
chọn phương án: cho các đồng chí trong tù cải trang thành lính hiến
binh địch, chọn thời cơ cùng đi lẫn vào tiểu đội hiến binh đã được

1.
Phan Dĩnh: Cuộc vượt ngục kỳ diệu, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội,
2009, tr.39.
364
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

giác ngộ đi tuần ban đêm để thoát ra ngoài về căn cứ của tỉnh uỷ
bằng đường bí mật được chuẩn bị sẵn.
Đêm 23 rạng ngày 24 tháng 5 năm 1960, dưới sự lãnh đạo của
Tỉnh uỷ Viêng Chăn, cơ sở ở nội thành phối hợp với binh lính, sĩ
quan gác trại giam đã đưa Hoàng thân Xuphanuvông và 15 đồng
chí bị bắt (Nủhắc Phumxavẳn, Phumi Vôngvichít, Phun Xipaxợt,
Mừn Xổmvichít, Ma Khảy Khămphithun, Xỉxanạ Xixản, Xỉngcapô
Xỉkhốt Chunlamany, Khăm Phải Búpphả, Maha Xổmbun Vông
Nôbunthăm, Xỉthôn Cômmađăm, Khăm Phẹt Phômmạvăn, Phạu
Phimphachăn, Phukhâu, Bua Xỉ Chalơnxúc, Manạvông Isản) ra
khỏi trại giam Phôn Khêng về căn cứ an toàn.
Cuộc vượt ngục thành công chẳng những là nguồn cổ vũ, động
viên tinh thần to lớn đối với lực lượng cách mạng và nhân dân
trong cả nước Lào, mà còn giáng một đòn đau vào bọn tay sai phản
động thân Mỹ, làm cho hàng ngũ chúng phân hoá, tinh thần binh
lính địch hoang mang, dẫn đến những biến động lớn trên chính
trường Lào, góp phần tạo ra cục diện so sánh lực lượng có lợi cho
cách mạng Lào sau này.
Tháng 6 năm 1960, Trung ương Đảng Nhân dân Lào ra nghị
quyết xác định nhiệm vụ cơ bản và trước mắt của cách mạng Lào.
Đánh giá về khả năng can thiệp và âm mưu thủ đoạn của Mỹ và
tay sai, nghị quyết chỉ rõ: “Đế quốc Mỹ có thể can thiệp sâu hơn
nữa vào Lào, bọn tay sai phản động có thể đàn áp phong trào cách
mạng Lào trắng trợn hơn nữa; do nắm được lực lượng quân đội,
chiếm được đa số ghế trong quốc hội, bọn phản động có thể sửa
đổi hiến pháp, đặt Neo Lào Hắc Xạt ra ngoài vòng pháp luật, xoá
bỏ quyền tự do dân chủ, ráo riết thực hiện kế hoạch củng cố nông
thôn, dồn dân vào các làng “chấn hưng”, mua chuộc, gây chia rẽ
365
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

dân tộc”1.
Về nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Lào, nghị quyết xác định:
“Đánh đổ đế quốc và phong kiến để giành độc lập cho đất nước, tự
do dân chủ cho nhân dân. Hai nhiệm vụ đó có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Nhưng nhiệm vụ trước mắt là chống đế quốc Mỹ
xâm lược, kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân các dân tộc Lào; đối
với phong kiến, cần tập trung chống bọn phong kiến làm tay sai cho
đế quốc Mỹ và tư sản mại bản thân Mỹ... Để thực hiện được các
nhiệm vụ trên, Đảng Nhân dân Lào cần nêu cao ngọn cờ hoà bình,
trung lập, độc lập, dân chủ. Tranh thủ đoàn kết rộng rãi mọi tầng
lớp nhân dân, mọi lực lượng trung gian yêu nước, yêu hoà bình; ra
sức xây dựng lực lượng về mọi mặt để tiến lên đánh bại mọi âm
mưu của đế quốc Mỹ xâm lược, chấm dứt chiến tranh, giành thắng
lợi to lớn hơn”2.
Nghị quyết của Trung ương Đảng Nhân dân Lào đã góp phần
tích cực thúc đẩy phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước Lào,
ảnh hưởng mạnh mẽ đến tầng lớp nhân sĩ, trí thức, binh lính và
cảnh sát của chính quyền Vương quốc, thôi thúc họ đứng lên chống
lại chính quyền tay sai phản động.
Ngày 9 tháng 8 năm 1960, trong lúc hầu hết các bộ trưởng của
Chính phủ Xổmxanít đi dự lễ hoả táng Vua Lào (Xỉxávàngvông) thì
Tiểu đoàn dù 2, một số đơn vị cơ giới, Tiểu đoàn bộ binh số 25, một
số phi đội không quân phối hợp với đông đảo học sinh, sinh viên ở
Viêng Chăn dưới sự chỉ huy của Đại uý Koongle và Thạo Đươn
Xúnnalạt đã nổi dậy làm đảo chính lật đổ chính phủ của Xổmxanít.
Ngay sau khi xảy ra cuộc đảo chính, Koongle đã cử Trung uý

. Nguyễn Văn Vinh: Những sự kiện lịch sử ở Lào (1353 - 1975), Sđd, tr.378-
1

379.
. Nguyễn Văn Vinh: Những sự kiện lịch sử ở Lào (1353 - 1975), Sđd, tr. 378-
2

379.
366
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Đươn Xúnnalạt làm đại diện, bí mật đáp máy bay sang Hà Nội đưa
thư và xin gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng đề nghị Chính phủ Việt
Nam giúp đỡ khẩn cấp.
Cũng trong thời gian này, Ban Chấp hành Trung ương Neo Lào
Hắc Xạt ra tuyên bố hoàn toàn ủng hộ cuộc đảo chính và các chủ
trương, chính sách lớn do “Uỷ ban đảo chính” tuyên bố trong các
thông cáo số 2 và số 4, đồng thời nêu rõ quan điểm: sẵn sàng tiếp
xúc, đàm phán với Uỷ ban đảo chính hoặc một chính phủ sẽ được
thành lập ra nay mai, bảo đảm thực hiện đường lối, chính sách do
Uỷ ban đảo chính đã công bố, nhằm nhanh chóng giải quyết tình
hình rối ren ở trong nước, lập lại trật tự an ninh, thực hiện hoà hợp
dân tộc. Trung ương Đảng Nhân dân Lào chỉ thị cho đoàn cán bộ
vượt ngục tổ chức thành hai bộ phận: một bộ phận do đồng chí
Xuphanuvông dẫn đầu tiếp tục hành quân về Sầm Nưa, lúc này đã
được giải phóng. Một bộ phận do đồng chí Nủhắc Phumxavẳn lãnh
đạo quay trở lại nội thành Viêng Chăn để đại diện cho Trung ương
Neo Lào Hắc Xạt vào hợp tác với Uỷ ban đảo chính của Koongle.
Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam cũng lệnh cho tổ
công tác đặc biệt chia làm hai: tổ đồng chí Quý và Vinh đi theo
phục vụ đoàn của Chủ tịch Xuphanuvông về căn cứ phía bắc; tổ
đồng chí Dĩnh và đồng chí Khiết trở lại nội thành Viêng Chăn giúp
bộ phận đồng chí Nủhắc Phumxavẳn và tiếp tục xây dựng căn cứ,
chỉ đạo nội thành.
Cùng với việc gửi điện cho Tỉnh uỷ Viêng Chăn chỉ rõ: đây là sự
kiện chính trị rất quan trọng có lợi cho phong trào đấu tranh chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân các dân tộc Lào, yêu cầu tỉnh uỷ phát
động phong trào quần chúng rộng rãi nổi dậy ủng hộ cuộc đảo chính
bằng mọi hình thức, Trung ương Đảng Nhân dân Lào còn chỉ thị tỉnh
uỷ các tỉnh trong toàn quốc xác định nhiệm vụ mới của các địa
phương sau cuộc đảo chính, trong đó nhấn mạnh: phải triệt để lợi
367
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

dụng thời cơ địch đang hoang mang, dao động, đẩy mạnh hoạt động,
phát triển lực lượng, mở rộng ảnh hưởng của Neo Lào Hắc Xạt; bằng
mọi cách bắt liên lạc với các đơn vị quân đội Vương quốc, giúp đỡ
họ nổi dậy chống lại bọn phản động Xổmxanít - Phumi Nòxavẳn.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Neo Lào Hắc Xạt, ngày 13 tháng 8
năm 1960, hơn 10.000 người dân Thủ đô Viêng Chăn đã biểu tình
trước trụ sở Quốc hội Lào, đòi Chính phủ Xổmxanít từ chức, ủng
hộ đường lối của Uỷ ban đảo chính. Những người biểu tình nêu
khẩu hiệu “chính phủ phải từ chức”, “tống cổ Mỹ và những tên tay
sai của chúng”, “nước Lào độc lập, thống nhất, dân chủ, hoà bình,
trung lập muôn năm”.
Theo yêu cầu của Uỷ ban đảo chính, ngày 17 tháng 8 năm 1960,
Vua Lào cử Hoàng thân Xuvănna Phuma thành lập Chính phủ mới.
Ngay sau khi Chính phủ mới được Quốc hội Lào nhất trí biểu quyết
tán thành, ngày 18 tháng 8 năm 1960, Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà ra tuyên bố hoan nghênh chính sách hoà bình
trung lập của Chính phủ Vương quốc Lào do Hoàng thân Xuvănna
Phuma làm thủ tướng và Uỷ ban đảo chính do Đại uý Koongle
đứng đầu. Tiếp đó, ngày 19 tháng 8 năm 1960, Hoàng thân
Xuphanuvông công bố lập trường của Neo Lào Hắc Xạt, hoan
nghênh cuộc đảo chính ngày 9 tháng 8 và hoàn toàn ủng hộ chính
sách trung lập và hoà hợp dân tộc của Chính phủ mới, đồng thời kêu
gọi: “toàn thể đồng bào ở nông thôn và thành phố... đồng tâm hiệp
lực ủng hộ chính sách của Uỷ ban đảo chính, đả phá mọi âm mưu
mới của đế quốc và bè lũ tay sai, tập trung mọi lực lượng và khả
năng xây dựng nước Lào yêu quý của chúng ta thành một nước hoà
bình, trung lập, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng”1.
Phối hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh của nhân dân các

1
. Lịch sử Lào, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr.421.
368
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

địa phương trong cả nước, đầu tháng 9 năm 1960, Bộ Chỉ huy tối
cao Pathết Lào sử dụng Tiểu đoàn 1 Pathết Lào phối hợp với Tiểu
đoàn 3 quân tình nguyện Việt Nam tấn công các vị trí địch ở vòng
ngoài sát biên giới Việt - Lào.
Trong các ngày từ 16 đến 19 tháng 9, quân đội Thái Lan từ bên
kia sông Mê Công liên tiếp bắn súng cối, liên thanh sang Viêng
Chăn, đồng thời tiếp tay cho quân phiến loạn Phumi Nòxavẳn đánh
chiếm thị trấn Pạc Xan (cách Viêng Chăn 150 km về phía nam).
Để kịp thời trừng trị các cuộc tấn công lấn chiếm của địch, từ
ngày 26 đến 30 tháng 9 năm 1960, bộ đội Pathết Lào và Tiểu đoàn
3 quân tình nguyện Việt Nam đánh chiếm điểm cao Huội Thầu và
dùng súng cối bắn vào sân bay Sầm Nưa. Tiếp đó, truy kích tiêu
diệt quân địch ở Mương Pơn. Ngày 30 tháng 9, liên quân Lào -
Việt giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa với 11 vạn dân1.
Sau giải phóng, Trung ương Đảng Nhân dân Lào quyết định
chuyển một bộ phận quan trọng các cơ quan của Trung ương, Tổng
Quân uỷ và Bộ Chỉ huy tối cao vào Sầm Nưa, xây dựng Sầm Nưa
thành căn cứ địa kháng chiến của Trung ương và cả nước.

2. Sát cánh bên nhau chiến đấu chống chiến lược Chiến
tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ; thành lập Chính phủ liên hiệp
dân tộc lần thứ hai; Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào; thiết lập
quan hệ ngoại giao giữa hai nước
Từ ngày 5 đến 10 tháng 9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam được tiến hành tại Hà Nội.

. Trong đợt chiến đấu này, liên quân Lào - Việt đã loại khỏi vòng chiến đấu
1

hơn 2.000 tên địch (gồm 3 tiểu đoàn bộ binh và một đại đội dù), hơn 1.000 dân vệ
tan rã và đầu hàng. Lực lƣợng cách mạng Lào xây dựng đƣợc hàng trăm trung
đội du kích, cơ sở cách mạng ở Sầm Nƣa và các vùng xung quanh.
369
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Đoàn đại biểu Đảng Nhân dân Lào do Tổng Bí thư Cayxỏn
Phômvihản dẫn đầu dự Đại hội. Nghị quyết Đại hội đề ra hai nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, đồng thời chỉ rõ Đông
Dương là một chiến trường, nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia
phải kiên quyết sát cánh bên nhau chống kẻ thù chung là đế quốc
Mỹ xâm lược. Đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Lào, Đảng và
Nhà nước Việt Nam khẳng định: “Chúng ta ủng hộ cuộc đấu tranh
của nhân dân Lào để thực hiện đường lối hoà bình trung lập, hoà
hợp dân tộc, và mong sẽ xây dựng được quan hệ hữu nghị lâu dài
và bền chặt với Vương quốc Lào”1.
Trong khi Đoàn đại biểu Đảng Nhân dân Lào tham dự Đại hội
III Đảng Lao động Việt Nam thì ở Lào, được sự giúp đỡ của đế
quốc Mỹ, tập đoàn phản động Thái Lan và chính quyền Sài Gòn,
ngày 10 tháng 9 năm 1960, bọn Phumi - Bun ùm thành lập Uỷ ban
cách mạng, mưu toan chia cắt đất nước, chống lại chính phủ hợp
pháp do Hoàng thân Xuvănna Phuma làm thủ tướng.
Trước tình hình trên, ngày 13 tháng 9 năm 1960, Neo Lào Hắc Xạt
ra tuyên bố nêu rõ lập trường cùng nhân dân cả nước kiên quyết
chống lại mọi âm mưu và hành động bán nước, chia cắt lãnh thổ
của bọn phản động Phumi - Bun ùm, đồng thời sẵn sàng hợp tác
với tất cả các lực lượng chính trị, đảng phái, chính quyền các cấp,
các tổ chức tán thành đấu tranh cho một nước Lào hoà bình trung
lập, hoà hợp dân tộc và chính phủ hợp pháp. Cùng ngày, hơn
30.000 nhân dân Thủ đô Viêng Chăn họp mít tinh phản đối bọn
phiến loạn, ủng hộ đường lối hoà bình trung lập, hoà hợp dân tộc
của Chính phủ Vương quốc Lào và Uỷ ban đảo chính.
Cùng với việc tuyên bố một số nguyên tắc căn bản trong cuộc
đàm phán giữa Neo Lào Hắc Xạt với Chính phủ Vương quốc Lào

1
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.21, tr.626.
370
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

và đề nghị gồm sáu điểm để giải quyết vấn đề Lào, ngày 20 tháng
10 năm 1960, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào ra
Nghị quyết lần thứ năm về tình hình và chủ trương công tác mới
của cách mạng Lào. So sánh ba lực lượng ở Lào, Trung ương Đảng
Nhân dân Lào chủ trương: “Ra sức phát động nhân dân, tăng cường
lực lượng về mọi mặt, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất để đấu
tranh cho hoà bình, trung lập, hoà hợp dân tộc. Tích cực mở rộng,
xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ra sức củng cố và xây dựng căn
cứ địa Sầm Nưa. Kiên quyết cùng lực lượng đảo chính bảo vệ Thủ
đô Viêng Chăn. Đẩy mạnh các hoạt động quân sự, chính trị chống
lại mọi hoạt động của đế quốc Mỹ và bè lũ Phumi Nòxavẳn, thúc đẩy
chính phủ Phuma từng bước thực hiện chính sách hoà bình, trung lập
thực sự và thành lập chính phủ liên hiệp dân tộc”1. Về phương
châm hoạt động, Nghị quyết chỉ rõ: “phải kết hợp chặt chẽ giữa đấu
tranh chính trị và quân sự, vừa đánh vừa đàm, ra sức tăng cường về
mọi mặt”2.
Thống nhất cao với đánh giá và chủ trương của Đảng Nhân
dân Lào, ngày 12 tháng 11 năm 1960, Bộ Chính trị Đảng Lao
động Việt Nam ra nghị quyết về công tác giúp Đảng Nhân dân
Lào. Sau khi phân tích tình hình, so sánh lực lượng các bên ở Lào,
Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam thống nhất với Trung ương
Đảng Nhân dân Lào chủ trương: chiến đấu bảo toàn lực lượng,
kéo dài thời gian cầm cự để tạo thế tấn công mới, đồng thời chuẩn
bị các điều kiện để thành lập một chính phủ mới nếu Chính phủ
Phuma sụp đổ. Củng cố hậu phương Viêng Chăn, củng cố căn cứ
địa Sầm Nưa.
Theo đề nghị của Đảng Nhân dân Lào và yêu cầu của chính

. Nguyễn Văn Vinh: Những sự kiện lịch sử ở Lào (1353 - 1975), Sđd, tr.392.
1

2
. Lịch sử quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào trong
kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr.105.
371
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

phủ của Phuma do Uỷ ban đảo chính thành lập, ngày 7 tháng 12
năm 1960, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quyết định cử Thiếu tướng Chu
Huy Mân sang Viêng Chăn vừa trực tiếp giúp Trung ương Đảng
Nhân dân Lào, vừa là phái viên của Chính phủ Việt Nam làm việc
với đại diện Chính phủ Phuma và Uỷ ban đảo chính Koongle. Sau
khi đến Viêng Chăn, được các đồng chí cán bộ lãnh đạo Lào và tổ
công tác đặc biệt ở Viêng Chăn thông báo tình hình “quân địch ở
sát cửa thủ đô, có thể ngày mai chúng sẽ trực tiếp đánh Viêng
Chăn”, đồng chí Chu Huy Mân bắt tay ngay vào việc nắm tình
hình, giúp các đồng chí lãnh đạo Lào tổ chức lực lượng đánh địch.
Trước tình hình địch tập trung lực lượng và hoả lực đánh chiếm
Thủ đô Viêng Chăn, theo đề nghị của Neo Lào Hắc Xạt và đồng chí
Chu Huy Mân, ngày 9 tháng 12 năm 1960, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp quyết định chi viện pháo binh giúp cách mạng Lào. Lực lượng
pháo binh chi viện gồm 29 đồng chí được trang bị 2 khẩu pháo 105
ly, 2 khẩu cối 120 ly và một số đạn. Đồng chí Lê Kích, Chủ nhiệm
pháo binh Quân khu Tây Bắc được phân công chỉ huy chung về
pháo binh và làm tham mưu về hoả lực cho đồng chí Chu Huy
Mân.
Cùng với chỉ thị tổ chức lực lượng pháo binh chi viện cho quân
dân Lào đánh địch bảo vệ Thủ đô Viêng Chăn, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp còn chỉ thị cho Quân khu 4: “địch tăng cường lực
lượng ở phía Nam, có âm mưu đánh chiếm thành phố trong đêm 9
tháng 12, yêu cầu Quân khu giúp bạn hành động hết sức nhanh
chóng, phô trương thanh thế, uy hiếp hướng Thà Khẹc, buộc địch
phải rút một phần lực lượng về, phối hợp bảo vệ Viêng Chăn”1. Tiếp
đó, ngày 10 tháng 12, đồng chí Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản đã bí
1
. Điện của Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp và Bộ Tổng Tham mƣu chỉ đạo hoạt
động ở Lào tháng 12 năm 1960, lƣu tại Cục Cơ yếu, Bộ Tổng Tham mƣu.
372
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

mật bay vào Viêng Chăn để cùng đồng chí Chu Huy Mân bàn các
phương án bảo vệ Viêng Chăn và bảo toàn lực lượng.
Sau các hoạt động thăm dò, vào hồi 14 giờ ngày 13 tháng 12 năm
1960, quân phiến loạn Phumi Nòxavẳn có cố vấn Mỹ và các đơn vị
pháo binh Thái Lan, quân nguỵ Sài Gòn tham gia từ các hướng nam,
tây nam, đông nam đồng loạt mở cuộc tấn công quy mô lớn vào Thủ
đô Viêng Chăn. Đồng thời với việc mở cuộc tấn công lớn vào Thủ đô
Viêng Chăn, ngày 13 tháng 12 năm 1960, tại Xavẳnnakhệt, Phumi
Nòxavẳn tuyên bố thành lập một chính phủ lâm thời do Bun ùm làm
thủ tướng và Phumi Nòxavẳn làm phó thủ tướng.
Trước tình hình nghiêm trọng ở Lào do bọn phiến loạn Phumi
Nòxavẳn gây ra, ngày 17 tháng 12 năm 1960, Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, nhân danh là một nước tham gia Hội nghị
Giơnevơ 1954, đã đề nghị họp lại Hội nghị Giơnevơ và khôi phục
sự hoạt động của Uỷ ban quốc tế ở Lào.
Được sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân, thanh niên, học sinh
Thủ đô Viêng Chăn, các lực lượng vũ trang trung lập yêu nước và
bộ đội Pathết Lào được sự chi viện của pháo binh Việt Nam đã
chiến đấu anh dũng bảo vệ Thủ đô Viêng Chăn, chặn đứng các mũi
tiến công của địch trong suốt bảy ngày đêm, tiêu diệt hơn 400 tên
và làm nhiều tên khác bị thương.
Để bảo toàn lực lượng tiếp tục chiến đấu lâu dài, sau khi tiêu
diệt một bộ phận sinh lực của địch, trong hai ngày 17 và 18 tháng
12 năm 1960, đồng chí Chu Huy Mân, Cố vấn - Trưởng đoàn
chuyên gia quân sự Việt Nam đã trao đổi ý kiến với đồng chí
Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Lào, dự kiến ba
phương án rút khỏi Viêng Chăn ra vùng giải phóng của Neo Lào
Hắc Xạt.
Ta nhận định, Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng là địa bàn
chiến lược, một vùng cao nguyên rộng lớn, địch sơ hở, dùng lực
373
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

lượng không lớn đánh đòn bất ngờ chớp nhoáng có thể giành thắng
lợi. Thực hiện phương án này chính là quán triệt tư tưởng chiến
lược tiến công của lực lượng kháng chiến Lào, từ Viêng Chăn tiến
lên Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, nối liền với tỉnh Sầm Nưa,
mở rộng căn cứ địa, tạo thế và lực mới cho cách mạng Lào phát
triển. Qua trao đổi, các bên thống nhất thực hiện phương án thứ ba:
sử dụng lực lượng quân trung lập kết hợp lực lượng Pathết Lào rút
lui từ Viêng Chăn, có pháo binh Việt Nam yểm trợ, vừa hành quân
vừa tác chiến lên thẳng Cánh đồng Chum và tỉnh Xiêng Khoảng.
Lực lượng quân tình nguyện Việt Nam mở các cuộc tấn công phối
hợp ở Bạn Ban, Noỏng Hét... buộc địch phải phân tán lực lượng,
tạo điều kiện cho hướng Cánh đồng Chum.
Thực hiện chủ trương giải phóng tỉnh Xiêng Khoảng, mở rộng
căn cứ địa miền Thượng Lào để chuyển các cơ quan thuộc Chính
phủ hoà hợp dân tộc, lực lượng trung lập yêu nước và lực lượng
đảo chính từ Viêng Chăn lên, ngày 23 tháng 12 năm 1960, Bộ Chỉ
huy Quân đội Pathết Lào đã khẩn trương tập hợp lực lượng, tổ chức
ba mũi tiến công vào thị xã Xiêng Khoảng. Tiếp đó, ngày 24 tháng
12, bộ đội Pathết Lào và lực lượng đảo chính tấn công các đồn địch
ở Hỉn Hợp, thị trấn Văng Viêng, huyện lỵ Ka Xỷ.
Trong hai ngày 27 và 28 tháng 12 năm 1960, các đơn vị Pathết
Lào, lực lượng đảo chính tiến công, làm chủ Xála Phu Khun, một
căn cứ lớn của địch án ngữ ngã ba tiếp giáp giữa quốc lộ 13 và
đường 7. Sau khi tiêu diệt căn cứ Xála Phu Khun, bộ đội Pathết
Lào phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục tấn công tiêu
diệt các đồn bốt địch trên đường 7. Ngày 30 và 31 tháng 12 năm
1960, bộ đội Pathết Lào, quân tình nguyện Việt Nam tấn công giải
phóng Noỏng Hét (một huyện biên giới giáp Nậm Cắn, huyện Kỳ
Sơn, tỉnh Nghệ An). Tiếp đó, các lực lượng Pathết Lào và quân tình
nguyện Việt Nam đánh chiếm thị trấn Bạn Ban (huyện Mương
Khăm). Sau khi Noỏng Hét, Bạn Ban thất thủ, các đơn vị thuộc
374
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

lực lượng đặc biệt Vàng Pao vội vã rút về sào huyệt ở Pà Đông,
Xảm Thông, Loòng Chẹng. Phát huy thắng lợi, đêm 31 tháng 12
năm 1960, bộ đội Pathết Lào, lực lượng trung lập đồng loạt tấn
công giải phóng Cánh đồng Chum.
Tiếp đó, một số đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam, bộ đội
Pathết Lào và lực lượng trung lập, được sự chi viện của pháo binh
Việt Nam, tiến đánh thị xã Xiêng Khoảng. Chiều ngày 1 tháng 1
năm 1961, lực lượng Pathết Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam
làm chủ thị xã, thu nhiều vũ khí, đạn dược, đồng thời tổ chức truy
kích địch về Thà Thôm, Mương Xủi.
Với việc giải phóng Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, nối
liền Cánh đồng Chum với Sầm Nưa, cách mạng Lào đã tạo được
căn cứ địa vững chắc, tạo điều kiện cho Chính phủ hợp pháp của
Hoàng thân Xuvănna Phuma đặt trụ sở chính thức ở Khăng Khay
(Xiêng Khoảng).
Sau khi lực lượng vũ trang Pathết Lào, lực lượng trung lập yêu
nước và bộ đội tình nguyện Việt Nam giải phóng Cánh đồng Chum,
Phumi Nòxavẳn ra lệnh cho các tiểu đoàn dù 1 (1BP), 11 (11BP) và
Tiểu đoàn 5 (5BI) nhảy dù mở các cuộc phản kích hòng chiếm lại
Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng.
Được sự chi viện của pháo binh quân tình nguyện Việt Nam, từ
ngày 2 đến 5 tháng 1 năm 1961, các đơn vị Pathết Lào đã đập tan các
cuộc phản kích của địch, diệt và bắt hơn 100 tên, buộc lực lượng còn
lại phải tháo chạy khỏi Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng.
Mặc dù bị thất bại trong các cuộc phản kích chiếm lại Cánh
đồng Chum, nhưng được sự giúp đỡ của Mỹ và các đồng minh thân
Mỹ, từ ngày 5 đến 20 tháng 1 năm 1961, Phumi Nòxavẳn tiếp tục
mở hai cuộc hành quân Xản Nông và Phu Phiêng hòng đánh chiếm
lại Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng và ngã ba Xála Phu Khun,
Mương Xủi. Được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, các
375
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

lực lượng vũ trang Pathết Lào đã đập tan hai cuộc hành quân của
địch, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng.
Ngày 6 tháng 1 năm 1961, đại diện lãnh đạo Đảng Lao động
Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào tiến hành hội đàm thống nhất
quan hệ giữa hai Đảng theo năm nguyên tắc chung. Tinh thần cốt
lõi của năm nguyên tắc là: sự nghiệp cách mạng Lào do nhân dân
các bộ tộc Lào tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Lào;
quan hệ giữa Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào là
quan hệ đồng chí, bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng độc lập chủ quyền,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; chống tư tưởng
nước lớn và tư tưởng dân tộc hẹp hòi; chống bao biện làm thay;
chống ỷ lại, tự ti và mọi biểu hiện làm phương hại đến tình đoàn
kết hữu nghị giữa hai Đảng và nhân dân hai nước. Hai Đảng thống
nhất tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế, giúp đỡ nhau vì lợi ích
của phong trào cách mạng thế giới và lợi ích của hai Đảng, hai
nước và của mỗi quốc gia. Về quan hệ nhà nước, hai Đảng làm hết
sức mình để tranh thủ những lực lượng tiến bộ, cô lập và làm thất
bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Lào và cách mạng
Việt Nam của đế quốc Mỹ và tay sai.
Trên cơ sở thoả thuận giữa hai Đảng, ngày 9 tháng 1 năm 1961,
Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt
Nam xác định nhiệm vụ quốc tế của chuyên gia và quân tình
nguyện Việt Nam đối với cách mạng Lào trong năm năm (1961 -
1965) với những công tác cụ thể là: “giúp đỡ các lực lượng vũ trang
cách mạng Lào về chuyên gia quân sự, đào tạo cán bộ; củng cố, xây
dựng vùng giải phóng và phát triển lực lượng vũ trang của bạn; Khi
bạn có yêu cầu, tổ chức bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp
chiến đấu với bộ đội bạn”1.

1
. Lịch sử quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào trong
376
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Căn cứ vào nhiệm vụ trên, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân
dân Việt Nam quyết định biên chế thời chiến cho Sư đoàn 325, Lữ
đoàn 341, Trung đoàn 224 thuộc Quân khu 4; Lữ đoàn 316, Lữ
đoàn 335 và Trung đoàn 148 thuộc Quân khu Tây Bắc, sẵn sàng chi
viện cho chiến trường miền Nam và chiến trường Lào.
Sau khi Thái tử Xihanúc nêu sáng kiến triệu tập một hội nghị
quốc tế để giải quyết vấn đề Lào, đã có nhiều nước lên tiếng ủng
hộ1. Trong khi đó, Mỹ, các nước chư hầu và bọn phản động ở Lào
mưu toan đưa Liên hợp quốc hoặc khối quân sự SEATO can thiệp
vào Lào. Không những thế, từ ngày 24 đến 26 tháng 1 năm 1961,
Phumi Nòxavẳn còn huy động GM11 từ Luổng Phạbang, các GM51,
GM52 từ Phôn Hoộng có hoả lực pháo binh chi viện tấn công theo
hai hướng dọc theo đường 13 đánh chiếm ngã ba Xála Phu Khun để
làm bàn đạp hòng đánh chiếm lại Cánh đồng Chum.
Trước việc Mỹ ngang nhiên câu kết, tiếp tay cho bọn phản
động thân Mỹ phá hoại hiệp định, để giúp quân đội Pathết Lào đối
phó có hiệu quả với các hoạt động của địch, trong các buổi gặp và
làm việc (ngày 10 và 15 tháng 2 năm 1961) với Đoàn đại biểu
Trung ương Đảng Nhân dân Lào, Bộ Chính trị Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam đã xác định rõ nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam và Lào, trong đó nhấn mạnh: “lực lượng Pathết Lào cần phối
hợp chặt chẽ với quân tình nguyện Việt Nam, kiên quyết đập tan
các hoạt động phiêu lưu quân sự của địch, giữ vững vùng giải
phóng và các cơ quan đầu não của Trung ương Đảng Nhân dân Lào

kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr.122.


1
. Tính đến ngày 18 tháng 1 năm 1961, Neo Lào Hắc Xạt, lực lƣợng trung
lập yêu nƣớc Lào và chính phủ các nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Liên Xô,
Trung Quốc, Ba Lan, Inđônêxia và ấn Độ đều tuyên bố tán thành và hoan nghênh
sáng kiến của Quốc trƣởng Nôrôđôm Xihanúc.
377
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

trong mọi tình huống”1.


Thực hiện chủ trương trên, ngày 23 tháng 2 năm 1961, Tiểu
đoàn 3 quân tình nguyện Việt Nam, tiểu đoàn Pathết Lào và một
đại đội của lực lượng trung lập phối hợp tổ chức thành Mặt trận A
do đồng chí Nguyễn Hoà làm chỉ huy trưởng, đồng chí Phạm
Nghiêm (Chính uỷ Lữ đoàn 316) làm chính uỷ, đồng chí Ay (chỉ
huy lực lượng Pathết Lào và trung lập) làm chỉ huy phó. Ngay
trong buổi ra quân đầu tiên, liên quân Lào - Việt trong Mặt trận A
đã đẩy lùi các cuộc tấn công của hai tiểu đoàn địch vào Phu Sủng,
Xála Phu Khun.
Trên hướng Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, sau khi đẩy lùi
các cuộc tấn công của hai tiểu đoàn địch vào Phu Sủng, từ ngày 4
tháng 3 đến 22 tháng 4, liên quân Lào - Việt tiến công quân địch ở
Xála Phu Kẹng, Phả Cọc, cao điểm Vành Khăn, Phả Hỉn, Phả Tòng
Chinh, Phả Hom, Phả Tặng. Sau khi giải phóng Văng Viêng, cắm
cờ phân chia ranh giới giữa Pathết Lào và lực lượng phái hữu ở
giữa cầu Hỉn Hợp trên sông Nặm Lịch, các lực lượng Pathết Lào đã
triển khai lực lượng phòng ngự bảo vệ các mục tiêu. Tiểu đoàn 3
quân tình nguyện Việt Nam đóng quân ở Văng Viêng làm nhiệm vụ
hỗ trợ lực lượng Pathết Lào phòng ngự, truy quét tàn quân địch,
xây dựng chính quyền, mặt trận và củng cố vùng giải phóng.
ở hướng Trung Lào, lợi dụng lúc địch tập trung lực lượng lớn
lên phía bắc nhằm chiếm lại Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, sơ
hở hướng Trung, Hạ Lào, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 được lệnh phối
hợp với lực lượng Pathết Lào tiến công giải phóng đường 8.
Trên hướng Hạ Lào, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 (Việt Nam) sử
dụng Trung đoàn 101 (Sư đoàn 325), được tăng cường Tiểu đoàn 4
(Trung đoàn 95), một đại đội cao xạ và một số đơn vị bảo đảm

1
. Lịch sử quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào trong
kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr.122.
378
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

cùng Tiểu đoàn 19 (bộ đội biên phòng), Tiểu đoàn 927 (tỉnh Hà
Tĩnh), Tiểu đoàn 6 (Vận tải 559) và một tiểu đoàn Pathết Lào tiến
đánh các vị trí địch ở khu vực đường 9 - Nam Lào, chiếm thị trấn
Mương Phin, Xê Pôn, Thà Khoổng, đập tan tuyến phòng thủ dài hơn
100 km của địch, loại khỏi chiến đấu 400 tên địch. Trong đợt hoạt
động này, liên quân Lào - Việt đã giải phóng được Xê Pôn (một vị
trí quan trọng ở Nam Lào), góp phần mở rộng vùng giải phóng của
Lào ở tỉnh Xavẳnnakhệt, nối với căn cứ kháng chiến của Việt Nam
ở phía tây tỉnh Quảng Nam và tây tỉnh Quảng Bình.
Những tháng đầu năm 1961, cùng với những thắng lợi giòn giã
trên các hướng chiến trường, việc xây dựng, phát triển lực lượng vũ
trang Pathết Lào cũng có bước chuyển biến rõ rệt. Bộ đội Pathết
Lào được củng cố và nhanh chóng phát triển từ hai tiểu đoàn lên 10
tiểu đoàn và cơ động phần lớn lực lượng (sáu trong tổng số 10 tiểu
đoàn) về khu vực Cánh đồng Chum, phối hợp cùng quân đội của
Koongle đánh lui các đợt tấn công của địch, giữ vững địa bàn có ý
nghĩa chiến lược này.
Cũng trong thời gian này, ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ
và quân đội Sài Gòn đẩy mạnh đánh phá ngăn chặn, gây nhiều khó
khăn cho việc vận chuyển của Đoàn 559 trên tuyến đông Trường
Sơn. Để đáp ứng yêu cầu chi viện ngày càng lớn cho chiến trường
miền Nam và Lào, trên cơ sở đề nghị của Đoàn 559, Bộ Tư lệnh
Quân khu 4 và Tỉnh uỷ Xavẳnnakhệt, Trung ương Đảng Nhân dân
Lào và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã thảo luận và đi
đến thống nhất chủ trương mở đường vận chuyển chiến lược sang
phía tây Trường Sơn. Tháng 4 năm 1961, đồng chí Võ Bẩm “trực
tiếp dẫn một nhóm cán bộ trinh sát soi đường dọc theo biên giới và
sang đất bạn”1.

. Kỷ yếu hội thảo: “Đường Hồ Chí Minh, khát vọng độc lập tự do và thống
1

nhất Tổ quốc”, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, tr.96.
379
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Được sự giúp đỡ tận tình của các bộ tộc Lào trên tuyến tây
Trường Sơn, chỉ trong một thời gian ngắn, các đoàn công tác
thuộc Đoàn 559 và Quân khu 4 đã xây dựng được nhiều cơ sở
cách mạng trong đồng bào các dân tộc Vân Kiều, Tà Ôi, Cà Tu và
Lào Thơng, phục vụ cho việc mở tuyến đường mới dọc tây
Trường Sơn trên đất Lào.
Việc chuyển hướng vận chuyển chiến lược sang tây Trường
Sơn1 không chỉ tạo ra thế và lực mới cho cách mạng hai nước,
mà còn là hành động cao đẹp thể hiện ý chí quyết tâm cao của hai
Đảng và nhân dân hai nước Việt - Lào trong cuộc chiến đấu chống
kẻ thù chung, giành độc lập tự do cho hai dân tộc.
Từ ngày 26 đến 28 tháng 4 năm 1961, Hoàng thân Xuvănna
Phuma, Thủ tướng Vương quốc Lào và Hoàng thân Xuphanuvông,
Chủ tịch Neo Lào Hắc Xạt dẫn đầu Đoàn cán bộ cấp cao của Chính
phủ Vương quốc và Neo Lào Hắc Xạt thăm Việt Nam. Trong ba
ngày ở thăm và làm việc tại Việt Nam, Đoàn đã tiến hành hội đàm
với Đoàn cán bộ cấp cao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, ký hiệp định
về trao đổi và hợp tác kinh tế, văn hoá. Cùng ngày, đại diện Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đại diện Chính phủ
Vương quốc Lào ký hiệp nghị về việc trao đổi hàng hoá giữa hai
nước Việt Nam - Lào.
Trong khi dư luận quốc tế hưởng ứng lời kêu gọi ngừng bắn

1
. Đến đầu tháng 5, một tuyến đƣờng giao liên hành quân mới đƣợc hình
thành, bắt đầu từ Vítthúlu (cao điểm 592) chạy ngang qua động Vàng Vàng, vƣợt
biên giới sang bản Tạt Hây (cao điểm 1034) thuộc đất Lào, vƣợt sông Xê Pôn (tại
khu vực Bạn Kẹng) qua Sa Đi, Mƣơng Noòng vào tới La Hạp. Đến hết tháng 6,
đƣờng mới từ Lằng Khằng (đƣờng 12) đã băng qua nhiều cánh rừng, sông suối
vào tới Pạc Pha Năng và cuối năm 1961, đã nối thông với đƣờng 9 ở Mƣơng
Phin. Là trục nối đƣờng 12 với đƣờng 9 nên đƣờng này có tên là đƣờng 129.
380
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

của đồng Chủ tịch Hội nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương thì
ngày 29 tháng 4 năm 1961, Tổng thống Mỹ Kennơđi triệu tập Hội
đồng An ninh quốc gia để bàn về vấn đề Lào. Cùng ngày, Mỹ ra
tuyên bố yêu cầu các nước trong khối quân sự SEATO can thiệp
vào Lào và đe dọa sẽ đưa vấn đề Lào ra Liên hợp quốc. Cùng với
tuyên bố trên, Mỹ và chính quyền tay sai còn ép Vua Lào
Xỉxávàng Vắtthana ký Dụ số 90 cách chức ông Kínim Phônxêna,
Bộ trưởng và ông Khăm Phượn, Thứ trưởng trong Chính phủ
Vương quốc Lào.
Trước những diễn biến mới của tình hình Lào, ngày 30 tháng 4
năm 1961, Trung ương Đảng Nhân dân Lào họp thông qua Nghị
quyết (lần thứ sáu) về tình hình, nhiệm vụ của quân dân Lào.
Sau khi phân tích, nhận định tình hình một cách toàn diện, nghị
quyết đề ra chủ trương, nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Lào là:
“đoàn kết toàn dân, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, kết hợp
giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến tới xây dựng
nước Lào thành một quốc gia hoà bình, trung lập, độc lập, dân chủ,
thống nhất và thịnh vượng”1.
Những ngày cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1961, chấp hành chỉ
thị của cấp trên về đẩy mạnh hoạt động của quân tình nguyện Việt
Nam ở Lào trước ngày ngừng bắn, Quân khu 4 và Quân khu Tây
Bắc đã tích cực giúp Pathết Lào “mở thêm vùng giải phóng Trung -
Hạ Lào; giữ vững các nơi ta giữ được, nhất là Mahả Xây,
Nhômmalạt, Văng Viêng, Mương Xài; tích cực quét phỉ để củng cố
hậu phương...”2, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các đơn vị Pathết

. Một số tư liệu về quan hệ đặc biệt Việt - Lào, lƣu tại Viện Lịch sử quân
1

sự Việt Nam.
2
. Trung tâm Lƣu trữ Bộ Quốc phòng, phông Quân ủy Trung ƣơng, hồ sơ
261, phông Cục Tác chiến, hồ sơ 643.
381
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Lào tổ chức tấn công địch giải phóng Xê Pôn, Xála Phu Khun.
Thắng lợi của đấu tranh quân sự và chính trị đã tác động mạnh
mẽ đến đấu tranh ngoại giao. Ngày 3 tháng 5 năm 1961, đại diện ba
phái (Neo Lào Hắc Xạt, Phuma và Bun ùm - Phumi) gặp nhau ở
Hỉn Hợp, sau đó ở Na Mon (ngày 13 tháng 5), thoả thuận công bố
lệnh ngừng bắn, tiếp đó ngày 16 tháng 5 năm 1961 khai mạc Hội
nghị quốc tế tại Giơnevơ bàn về vấn đề Lào gồm 14 nước tham dự.
Từ chỗ rất khó khăn nhưng nhờ sự đoàn kết, phối hợp hoạt động
của cách mạng Lào - Việt, cách mạng Lào đã giành được thắng lợi to
lớn trên các lĩnh vực. Vùng giải phóng của Neo Lào Hắc Xạt được
mở rộng, chiếm hai phần ba diện tích đất đai và một phần ba dân số
cả nước, trong đó có những địa bàn quan trọng như Sầm Nưa, Cánh
đồng Chum - Xiêng Khoảng, Xê Pôn. Lực lượng vũ trang Pathết
Lào đã tổ chức được 10 tiểu đoàn, 34 đại đội độc lập và 70 trung đội
bộ đội địa phương. Các ban chỉ huy quân sự cấp huyện và cấp tỉnh
đã hình thành ở hầu hết các vùng giải phóng của Lào.
Nhằm giúp Neo Lào Hắc Xạt củng cố vùng giải phóng, tăng
cường hơn nữa thực lực cách mạng để có thể “vừa đánh vừa đàm”
với địch, tháng 6 năm 1961, Quân khu 4 phối hợp với quân đội
Pathết Lào mở chiến dịch Thà Khoổng giải phóng sáu huyện nam,
bắc đường 9 - một vùng đất rộng lớn, đông dân thuộc Nam Lào.
Sau chiến dịch này, cùng với việc giúp các đơn vị Pathết Lào
củng cố giữ vững vùng giải phóng, các đơn vị quân tình nguyện
Việt Nam ở Lào tiến hành điều chỉnh lại lực lượng1.
1
. Các đơn vị giúp Lào ở các tỉnh Phôngxalỳ, Sầm Nƣa, Luổng Phạbang rút về
nƣớc 1.203 ngƣời và hai tiểu đoàn công binh làm đƣờng. ở Cánh đồng Chum -
Xiêng Khoảng, Viêng Chăn, các đơn vị quân tình nguyện rút 2.373 ngƣời, ở
Trung - Hạ Lào rút 1.872 ngƣời. Để đề phòng bất trắc và bảo đảm sẵn sàng
chiến đấu, đến tháng 6 năm 1961, theo yêu cầu của Đảng Nhân dân Lào, Bộ Quốc
phòng Việt Nam còn duy trì bốn tiểu đoàn quân tình nguyện ở Mƣơng Xài, Cánh
đồng Chum, đƣờng 12, đƣờng 9 và một số nhân viên kỹ thuật.
382
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Trước bước phát triển mới của cách mạng Lào, ngày 9 tháng 7
năm 1961, Trung ương Đảng Nhân dân Lào và Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam hội đàm để thống nhất một số nguyên tắc trong
quan hệ giữa hai Đảng, đặc biệt trong điều kiện Việt Nam còn có
quan hệ với Chính phủ Vương quốc Lào và bàn về phương hướng
của cách mạng Lào. Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự và căn dặn:
“Nhất trí nhưng không miễn cưỡng, phải bàn bạc phân minh, nêu
cho hết ý kiến nhưng quyết định là Đảng Lào, vì cách mạng Lào là
do người Lào làm lấy... giúp nhiều mấy cũng chỉ được 1/10 còn tự
lực là 9/10”1.
Ngày 20 tháng 7 năm 1961, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Nhân dân Lào họp Hội nghị lần thứ bảy (khoá I). Trong Báo cáo
chính trị đọc tại Hội nghị, Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản nhận
định: “cách mạng Lào đang trên đà thắng lợi về chính trị cũng như
quân sự, ảnh hưởng và địa vị của Pathết Lào ngày càng được nâng
cao trong nước cũng như trên thế giới, đường lối đúng đắn của ta
ngày càng được mọi tầng lớp nhân dân nhiệt tình ủng hộ. Địch
đang ở thế bị động và cô lập nhưng lực lượng của địch chưa bị tiêu
diệt, lực lượng ta chưa hơn hẳn địch. Cuộc đấu tranh sẽ còn lâu dài
phức tạp”2.
Phân tích âm mưu của đế quốc Mỹ và tay sai, Hội nghị quyết
định chủ trương: “ra sức củng cố thắng lợi, tăng cường lực lượng
mọi mặt; đồng thời ra sức phát động phong trào đấu tranh của nhân
dân các vùng do phái Phumi - Bun ùm kiểm soát, tập hợp thật đông
đảo mọi lực lượng yêu nước chống Mỹ, đòi thành lập Chính phủ
liên hiệp do Phuma làm thủ tướng và có Pathết Lào tham gia với
địa vị xứng đáng”2.

. Những sự kiện chính trị ở Lào, tài liệu của CP38, tr.140.
1

, 2. Biên niên sự kiện đấu tranh cách mạng Lào (1954 - 1975), lƣu tại Viện
2

Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-1231.


383
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Về phương châm đấu tranh, trên cơ sở nhận định tình hình đã


thay đổi, việc thực hiện ngừng bắn được thực hiện trên các chiến
trường chính, Hội nghị Na Mon và Giơnevơ đã khai mạc, do đó
phương châm đấu tranh phải trở lại lấy đấu tranh chính trị làm
chính, phải mạnh bạo tấn công địch về chính trị nhưng phải ra sức
xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang làm lực lượng hậu thuẫn
vững chắc cho cuộc đấu tranh chính trị và chuẩn bị sẵn sàng đánh
bại mọi âm mưu tấn công của địch.
Sau cuộc hội đàm giữa hai Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt
Nam và Đảng Nhân dân Lào, tháng 8 năm 1961, trên cơ sở quan
điểm xây dựng lực lượng vũ trang đã được hai bên nhất trí, ngày 4
tháng 9 năm 1961, Bộ Quốc phòng Việt Nam tổ chức hội nghị bàn
về nhiệm vụ Đoàn 959 giúp cách mạng Lào.
Sau hội nghị này, ngày 9 tháng 9 năm 1961, Bộ trưởng Phủ
Thủ tướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký quyết định về
việc Cục Truyền thanh Việt Nam giúp Neo Lào Hắc Xạt xây dựng
một đài phát thanh.
Những ngày cuối tháng 9 năm 1961, Phumi Nòxavẳn huy động
ba binh đoàn và một số tiểu đoàn độc lập tấn công ra đường 8,
đường 9, đường 12 lấn chiếm vùng Mương Phin (Xavẳnnakhệt) và
Mahả Xây (đường 12, tỉnh Khăm Muộn) nhằm phá hành lang vận
chuyển của lực lượng Pathết Lào xuống Hạ Lào và từ miền Bắc vào
miền Nam Việt Nam.
Kịp thời đối phó lại các hoạt động lấn chiếm của địch, ngày 18
tháng 11 năm 1961, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng chỉ
đạo Quân khu 4 và Quân khu Tây Bắc tăng cường phối hợp giúp bộ
đội Pathết Lào đẩy mạnh các hoạt động chiến đấu, ngăn chặn địch
bảo vệ hành lang vận chuyển.
Ngày 22 tháng 11 năm 1961, tại một địa điểm của tỉnh Sầm
Nưa, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào họp Hội
nghị toàn thể lần thứ tám. Trên cơ sở phân tích tình hình, so sánh
384
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

tương quan lực lượng giữa các phe phái ở Lào, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Nhân dân Lào xác định nhiệm vụ trước mắt của
cách mạng Lào là: “ra sức đấu tranh đòi thành lập Chính phủ liên
hiệp trên nguyên tắc bảo đảm thực hiện chính sách hoà bình, trung
lập, bảo đảm việc củng cố và phát triển mặt trận với Hoàng thân
Phuma, với các lực lượng yêu nước khác và thân với phe xã hội chủ
nghĩa”1.
Sau bảy tháng họp, ngày 14 tháng 12 năm 1961, Hội nghị 14
nước tại Giơnevơ đã thông qua bản tuyên bố về nền trung lập
của Lào và nghị định thư về bản tuyên bố đó. Các nước tham gia
Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, trung lập, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Lào. Không can thiệp vào công việc
nội bộ và không lôi kéo Lào vào các liên minh trái với nền trung
lập của Lào. Quân đội và nhân viên nước ngoài phải rút khỏi Lào,
không được lập căn cứ quân sự ở Lào hoặc dùng lãnh thổ Lào vào
mục đích quân sự. Các nước tham gia Hội nghị Giơnevơ đã trao đổi
ý kiến trong trường hợp độc lập, chủ quyền và trung lập của Lào bị
xâm phạm, v.v.. Tiếp đó, ngày 3 tháng 2 năm 1962, tại Giơnevơ đã
khai mạc Hội nghị cấp cao ba phái ở Lào để thảo luận về tổ chức
Chính phủ liên hiệp và cử một phái đoàn thống nhất của Chính phủ
Lào dự Hội nghị quốc tế 14 nước ở Giơnevơ.
Theo thoả thuận bước đầu, Chính phủ liên hiệp Lào sẽ gồm 18
ghế phân chia theo tỷ lệ 10 - 4 - 42. Đạt được kết quả trên là một
thắng lợi của liên minh các lực lượng yêu nước Lào.

. Biên niên sự kiện đấu tranh cách mạng Lào (1954 - 1975), lƣu tại Viện
1

Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-1231.


2
. Phái Phuma giữ ghế thủ tƣớng kiêm chức một bộ trƣởng và 7 ghế bộ
trƣởng, 2 ghế thứ trƣởng; Neo Lào Hắc Xạt giữ một ghế phó thủ tƣớng kiêm
một bộ trƣởng, một ghế bộ trƣởng và 2 ghế thứ trƣởng; phái Bun ùm giữ một
ghế phó thủ tƣớng kiêm một bộ trƣởng, một ghế bộ trƣởng và 2 ghế thứ trƣởng.
385
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Ngày 20 tháng 2 năm 1962, Quân uỷ Trung ương Việt Nam ra


Nghị quyết số 28/QUTƯ về công tác quân sự ở Lào. Trên cơ sở
phân tích tình hình địch, ta, Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho quân
tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào tiếp tục tranh
thủ giúp Lào củng cố căn cứ địa, tích cực tiêu diệt địch bảo vệ vùng
giải phóng; đẩy mạnh hoạt động quân sự vùng sau lưng địch, đồng
thời củng cố liên minh với lực lượng Koongle nhằm làm cơ sở cho
đấu tranh chính trị; tích cực chống càn, tiễu phỉ ở vùng trọng điểm,
chú trọng bảo vệ đường giao thông của ta.
Những ngày cuối tháng 3 đầu tháng 4 năm 1962, địch tập trung ở
khu vực Nặm Thà - Mương Xỉnh một lực lượng lớn quân đội hòng
tạo thế uy hiếp quân đội Pathết Lào ở khu vực Thượng Lào. Để
tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, tạo đà phát triển
cho cách mạng Lào, ngày 10 tháng 4 năm 1962, Trung ương Đảng
Nhân dân Lào họp nhận định tình hình, xác định nhiệm vụ của bộ
đội Pathết Lào cùng các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam mở
chiến dịch tấn công Nặm Thà nhằm: “tiêu diệt một bộ phận sinh lực
quan trọng của địch, giải phóng Luổng Nặm Thà và Mương Xỉnh,
mở rộng khu căn cứ Thượng Lào, đồng thời rèn luyện cho bộ đội
trưởng thành lên một bước. Sau khi giải phóng Mương Xỉnh, Nặm
Thà, hướng Mương Xỉnh phát triển đến Mương Long, hướng Nặm
Thà phát triển đến Viêng Phu Kha”1.
Để thống nhất chỉ huy, ngày 15 tháng 4 năm 1962, hai Bộ Quốc
phòng Lào và Việt Nam đã quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chiến
dịch Nặm Thà2. Tham gia Bộ Chỉ huy chiến dịch phía Việt Nam có

1
. Biên niên sự kiện đấu tranh cách mạng Lào (1954 - 1975), lƣu tại Viện
Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-1231.
2
. Lực lƣợng tham gia chiến dịch có Lữ đoàn bộ binh 316 đã đứng chân ở địa
bàn chiến dịch, Lữ đoàn 335, Tiểu đoàn 3 (Lữ đoàn 330), một tiểu đoàn sơn
pháo 75 mm (13 khẩu), một tiểu đoàn súng cối 120 mm (12 khẩu), một tiểu đoàn
phòng không 12,7 mm (12 khẩu); Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 701 Pathết Lào, đại
386
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Thiếu tướng Bằng Giang (Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở
Bắc Lào) làm tư lệnh. Phía Lào có đồng chí Xỉxávạt Kẹo Bunphăn,
Uỷ viên Trung ương Đảng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội
Pathết Lào.
Ngày 24 tháng 4 năm 1962, Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 1 Lữ
đoàn 335 quân tình nguyện Việt Nam nổ súng tiến công các cao
điểm 1620, 1680 thuộc ngoại vi Nặm Thà, đánh tan Tiểu đoàn dù
55 của địch. Tiếp đó, ngày 3 tháng 5 năm 1962, lực lượng vũ trang
tỉnh Luổng Nặm Thà phối hợp với Tiểu đoàn 2 quân tình nguyện
Việt Nam tấn công cứ điểm Mương Xỉnh. Trận này, liên quân Lào -
Việt diệt 35 tên, bắt 194 tù binh, bắn hỏng một máy bay, thu 12 ôtô
vận tải, 279 súng các loại. Sau khi giải phóng Mương Xỉnh, liên quân
Lào - Việt phát triển đánh chiếm Mương Long, một mũi đánh chiếm
Bạn Kha; một mũi phát triển xuống Viêng Phu Kha hình thành thế
bao vây chiến dịch tiêu diệt quân địch bỏ chạy từ Nặm Thà.
Sau khi tấn công tiêu diệt các cứ điểm ngoại vi, đêm 4 tháng 5,
Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 701 Pathết Lào cùng lực lượng bộ đội địa
phương tỉnh Luổng Nặm Thà phối hợp với năm tiểu đoàn quân tình
nguyện Việt Nam tấn công cụm cứ điểm Nặm Thà, đến trưa ngày 6
tháng 5, liên quân Lào - Việt hoàn toàn làm chủ chiến trường1.
Chiến thắng Nặm Thà có ý nghĩa rất quan trọng về quân sự và
chính trị. Liên quân Lào - Việt không chỉ tiêu diệt được một bộ
phận sinh lực tinh nhuệ của địch vừa mới được xây dựng, mà còn
giáng đòn mạnh về chính trị, đánh vào âm mưu của Mỹ và chính

đội địa phƣơng Na Mô, đại đội địa phƣơng Nặm Thà, một số trung đội địa
phƣơng huyện và dân quân du kích các xã. Tổng quân số tham gia chiến dịch
khoảng 7.800 ngƣời.
1
. Toàn chiến dịch, liên quân Lào - Việt loại khỏi vòng chiến đấu gần 1.800
tên thuộc lực lƣợng cơ động chiến lƣợc của quân nguỵ Viêng Chăn, trong đó
GM11 bị tiêu diệt hoàn toàn; GM15 và GM18 bị thiệt hại nặng, thu 400 súng và
gần 600 tấn đạn, giải phóng một khu vực gần 8.000 km2 với hơn 7 vạn dân.
387
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

quyền tay sai Phumi Nòxavẳn, làm cho tinh thần đội quân đánh
thuê thêm hoang mang, dao động. Uy tín của Neo Lào Hắc Xạt,
quân đội Pathết Lào được nâng cao, khu giải phóng được mở rộng
thành căn cứ liên hoàn đến tận biên giới Trung Quốc.
Ngay sau chiến dịch, Quân uỷ Trung ương Việt Nam điện
khen ngợi bộ đội tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại
Lào: “Các đồng chí đã nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, góp phần
tích cực vào thắng lợi to lớn của cách mạng Lào, làm xoay chuyển
tình thế có lợi cho cách mạng Lào”1.
Từ ngày 7 đến 9 tháng 6 năm 1962, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Nhân dân Lào họp Hội nghị toàn thể lần thứ chín (khoá
I). So sánh tương quan lực lượng giữa các phái, Hội nghị nhận định
tình hình Lào có thể diễn ra theo ba khả năng:
- Chính phủ liên hiệp được thành lập, Hội nghị quốc tế
Giơnevơ về Lào thành công.
- Hội nghị Giơnevơ kéo dài, Chính phủ liên hiệp không thành
lập được, tiếp tục trong tình trạng vừa đánh vừa đàm.
- Các cuộc đàm phán bị cắt đứt, chiến sự mở rộng, địch thực
hiện được âm mưu chia cắt đất đai.
Căn cứ vào tương quan lực lượng hiện tại, khả năng thứ nhất
còn có một số khó khăn và khả năng thứ hai đang diễn ra.
Sau khi phân tích cụ thể tình hình các mặt của cách mạng, Hội
nghị quyết định: ra sức tăng cường lực lượng cách mạng về mọi
mặt, ra sức củng cố lực lượng vũ trang, củng cố căn cứ địa, xây
dựng kinh tế và cải thiện dân sinh, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ
mà Neo Lào Hắc Xạt là nòng cốt. Trước hết, phải củng cố mặt trận
với Hoàng thân Phuma và lực lượng trung lập yêu nước, thúc đẩy

1
. Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam
(1944 - 2000), Sđd, tr.941.
388
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

mọi hình thức đấu tranh, phân hoá địch đến tột độ, phá hoại mọi âm
mưu mới của Mỹ - Phumi, tiến lên giành thắng lợi mới.
Về phương châm hoạt động, chính trị kết hợp với quân sự, tuỳ
trường hợp, tuỳ tình hình từng nơi, có lúc nặng về mặt này nhẹ về
mặt kia...
Từ ngày 9 đến 12 tháng 6 năm 1962, Hội nghị cấp cao ba phái
họp tại Cánh đồng Chum. Sau ba ngày thảo luận, trên cơ sở những
thoả thuận đã đạt được trong các bản tuyên bố chung Hỉn Hợp,
Duyrích, Cánh đồng Chum và Giơnevơ, ba Hoàng thân
Xuphanuvông, Xuvănna Phuma và Bun ùm đại diện ba phái đã
thoả thuận lập một chính phủ liên hiệp gồm 19 người do Hoàng
thân Xuvănna Phuma làm thủ tướng.
Ngày 2 tháng 7 năm 1962, sau một thời gian gián đoạn, Hội
nghị quốc tế 14 nước tại Giơnevơ họp trở lại để bàn các vấn đề bảo
đảm hoà bình, trung lập, chủ quyền, thống nhất của Lào. Ngày 23
tháng 7, Hiệp định Giơnevơ về Lào được ký kết. Các nước tham
gia ký kết Hiệp định Giơnevơ thừa nhận tôn trọng nền độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Lào; cam kết không can
thiệp bằng bất cứ cách nào vào công việc nội bộ của Lào; không đề
nghị hoặc thúc ép Lào tham gia vào bất cứ liên minh quân sự nào
không phù hợp với nền trung lập của Lào.
Việc ký Hiệp định Giơnevơ 1962, giải quyết hoà bình vấn đề
Lào là một thắng lợi to lớn của lực lượng cách mạng Lào liên minh
với những người trung lập yêu nước, của phe xã hội chủ nghĩa và
phong trào hoà bình dân chủ thế giới. Bằng việc long trọng xác
nhận những nguyên tắc căn bản của Hiệp định Giơnevơ 1954 về
Đông Dương, Hội nghị quốc tế Giơnevơ 1962 về Lào đã mặc nhiên
lên án sự can thiệp trắng trợn của đế quốc Mỹ vào Lào, đồng thời
nêu ra những việc cụ thể cần làm để giúp Lào bảo đảm nền hoà
bình, trung lập và xây dựng một nước Lào độc lập, thống nhất, dân
chủ và phồn vinh. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, nước Lào được
389
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

quốc tế cam kết tôn trọng nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ. Pathết Lào có vùng giải phóng rộng lớn chiếm
2/3 đất đai và hơn 1/3 dân số toàn quốc.
Sau Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào, thực hiện cam kết của
mình, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định rút toàn bộ
quân tình nguyện và đại bộ phận chuyên gia quân sự về nước1.
Trong thời gian này, các đồng chí lãnh đạo Đảng Nhân dân Lào,
Neo Lào Hắc Xạt đã tổ chức nhiều chuyến đi nắm tình hình ở các
tỉnh, các quân khu để điều chỉnh bố trí lại lực lượng, đồng thời
thăm hỏi động viên các đơn vị quân tình nguyện và chuyên gia Việt
Nam đã phối hợp chiến đấu, xây dựng và bảo vệ vùng giải phóng
trong thời gian vừa qua. Đây cũng là lúc Chính phủ liên hiệp Lào
thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước. Do vậy, trong buổi họp
với cán bộ quân đội Lào, khoảng giữa tháng 9 năm 1962, tại Cánh
đồng Chum - Xiêng Khoảng, có các đồng chí Xỉngcapô Xỉkhốt
Chunlamany, Xámản Vinhakệt, Xiphon tham dự, Hoàng thân
Xuphanuvông nói: “Sau khi đặt quan hệ ngoại giao với các nước,
chúng ta có thêm nhiều bạn bè, nhưng người bạn cùng sống chết,
chung một chiến hào với ta chỉ có Việt Nam”2.
Ngày 5 tháng 9 năm 1962, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà và Chính phủ Vương quốc Lào chính thức thiết lập quan

1
. Theo đó, Đoàn 959 với quân số 3.085 ngƣời (giữa năm 1962) rút gọn còn
một bộ phận chuyên gia quân sự gồm 49 ngƣời do các đồng chí Nguyễn Hoà -
tham mƣu trƣởng; Lê Xuân - chủ nhiệm hậu cần; Hà Minh Tân - phụ trách phòng
chính trị của Đoàn ở lại giúp ba cơ quan thuộc Quân uỷ và Bộ Tổng Tƣ lệnh Quân
đội Pathết Lào.
2
. Theo lời kể của đồng chí Xámản Vinhakệt, Uỷ viên Bộ Chính trị, Trƣởng
Ban Chỉ đạo công tác tƣ tƣởng, lý luận, văn hoá Trung ƣơng Đảng Nhân dân cách
mạng Lào, Trƣởng Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử quan hệ đặc biệt Lào - Việt
Nam tại Tam Đảo (tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam) ngày 26 tháng 10 năm 2010.
390
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

hệ ngoại giao. Đại sứ Việt Nam Lê Văn Hiến và Đại sứ Lào Thạo
Pheng là những sứ giả đầu tiên của hai nước. Sau khi hai nước thiết
lập quan hệ ngoại giao, đầu năm 1963, Vua Lào Xỉxávàng Vắtthana
dẫn đầu Đoàn đại biểu Hoàng gia Lào sang thăm Việt Nam. Trong
buổi chiêu đãi Vua Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “... hai
dân tộc Việt và Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, cùng có
chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa
vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như anh em... Ngày nay chúng ta lại
đang giúp đỡ nhau để xây dựng một cuộc sống mới. Tình nghĩa
láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai
nhạt được”1.
Với tình cảm chân thành đó, trong buổi lễ tiễn đưa Nhà vua Lào
lên đường về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng khắc hoạ sâu đậm
hơn nghĩa tình nồng thắm của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam: “Cuộc đi thăm nước Việt Nam của Nhà vua và các vị làm cho
hai nước chúng ta đã gần nhau về địa dư lại càng gần nhau về tình
nghĩa. Sự hiểu biết lẫn nhau và mối quan hệ hợp tác thân thiện giữa
hai dân tộc anh em đã tiến lên một giai đoạn mới mẻ và tốt đẹp.
Hôm nay, Nhà vua và các vị rời đất nước chúng tôi, song
những hình ảnh đẹp đẽ của cuộc đi thăm vẫn lưu lại lâu dài trong
lòng chúng tôi.
Thật là:
Thương nhau mấy núi cũng trèo,
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
Việt - Lào, hai nước chúng ta,
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”2.
*

1
, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.37, 44.
391
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

* *
Thời kỳ 1954 - 1962 là thời kỳ cuộc đấu tranh cách mạng ở Lào
và Việt Nam đứng trước những khó khăn, thử thách mới với nhiều
diễn biến phức tạp do sự can thiệp ngày càng sâu của Mỹ vào các
nước Đông Dương. Phát huy truyền thống hữu nghị và hợp tác
trong kháng chiến chống Pháp, bước vào cuộc kháng chiến chống
Mỹ, với sự dốc sức tự vươn lên của cách mạng Lào và tiếp nhận sự
giúp đỡ chân tình, không điều kiện của Việt Nam, lực lượng cách
mạng Lào không ngừng lớn mạnh, bảo vệ vững chắc hai tỉnh tập
kết, mở rộng vùng giải phóng, phát triển cơ sở và phong trào quần
chúng, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ, chi viện của phe xã hội
chủ nghĩa, của dư luận hoà bình tiến bộ trên thế giới, từng bước đấu
tranh đòi đế quốc Mỹ và Chính phủ Vương quốc Lào thực hiện
Hiệp định Giơnevơ, tiến tới thành lập Chính phủ liên hiệp lần thứ
nhất (tháng 11 năm 1957).
Sau khi đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tiến hành lật đổ Chính phủ
liên hiệp dân tộc, xoá bỏ các hiệp định hoà hợp dân tộc, đưa cố vấn
và phương tiện chiến tranh vào Lào, thực hiện chiến lược Chiến
tranh đặc biệt, mở các chiến dịch khủng bố và tấn công quân sự
trên toàn quốc, Trung ương Đảng Nhân dân Lào, với sự giúp đỡ
của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, đã kịp thời chuyển
hướng từ đấu tranh chính trị là chủ yếu sang đấu tranh vũ trang là
chủ yếu kết hợp với đấu tranh chính trị.
Lực lượng cách mạng Lào liên tiếp giành những thắng lợi to
lớn, buộc đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai phải chấp nhận thành lập
Chính phủ liên hiệp dân tộc ba phái; tiếp đó Hiệp định Giơnevơ
1962 về Lào được ký kết, Vương quốc Lào và Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà thiết lập quan hệ ngoại giao.
Có được những thành công trên trước hết là do Đảng Lao
động Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào ngay từ đầu đã xác định
392
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

đúng đắn tầm quan trọng có ý nghĩa đặc biệt của mối quan hệ
chiến lược cách mạng giữa hai Đảng và nhân dân hai nước trong
cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ. Trên cơ sở đó,
hai Đảng đã sớm thống nhất chủ trương, đường lối chính trị, quân
sự để lãnh đạo nhân dân hai nước đấu tranh giành độc lập, tự do
cho mỗi nước.
Để đảm bảo sự thống nhất về đường lối chính trị, quân sự,
bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng Lao động Việt Nam
và Đảng Nhân dân Lào tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội do Đảng Cộng sản Đông Dương đề ra.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, thông qua các cuộc hội
đàm cấp cao, hai Đảng đã thống nhất ý kiến, cùng nhau rút kinh
nghiệm, kịp thời đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, đưa cách
mạng hai nước tiến lên. Trên cơ sở thống nhất về đường lối chính
trị, quân sự, dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, lực lượng vũ trang và
mặt trận dân tộc thống nhất ở hai nước đã phát huy tích cực vai trò
của mình trong việc tập hợp đông đảo lực lượng các tầng lớp nhân
dân yêu nước, tranh thủ các tầng lớp trung gian, cô lập và phân
hoá kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính của dân tộc là đế quốc
Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Lào, được sự giúp đỡ
có hiệu quả của Việt Nam, các lực lượng cách mạng Lào đã vượt
qua mọi khó khăn, thử thách, bảo vệ vững chắc hai tỉnh tập kết,
kết hợp đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở 10 tỉnh, tích cực xây dựng
và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân, tạo ra thế và lực đưa
cách mạng Lào từng bước đi lên. Quân đội Pathết Lào được sự hỗ
trợ đắc lực của bộ đội tình nguyện Việt Nam đã chống lại có hiệu
quả các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, bảo vệ căn cứ địa
cách mạng ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ, làm thất bại âm
mưu bao vây, cô lập, tiêu diệt lực lượng cách mạng của đế quốc
Mỹ và tay sai.
393
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Cùng với sự thống nhất về đường lối chính trị, quân sự, Đảng
và Nhà nước Việt Nam luôn nhận thức đúng đắn quan hệ chiến đấu
bảo vệ độc lập của Việt Nam và Lào là quan hệ bình đẳng giữa hai
dân tộc, là mối quan hệ của những người anh em, đồng chí sống
chết có nhau, cùng chống kẻ thù chung. Để củng cố và phát triển
mối quan hệ đặc biệt này, vấn đề quan trọng hàng đầu đặt ra là hai
bên đều phải tôn trọng đầy đủ các nguyên tắc trong quan hệ quốc
gia và quốc tế. Để “phát triển quan hệ hữu nghị với tất cả các nước
theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và độc lập của
nhau, trước hết với các nước xã hội chủ nghĩa và dân tộc chủ
nghĩa”1 như chính sách đối ngoại của Đảng Nhân dân Lào đã xác
định. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn đề cao nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của
Lào, kiên quyết chống tư tưởng nước lớn, tư tưởng ban ơn... Quán
triệt tinh thần đó, trong quá trình giúp cách mạng Lào, các chuyên
gia và quân tình nguyện Việt Nam luôn xác định rõ vai trò và trách
nhiệm của mình là giúp cách mạng Lào thực hiện mục tiêu chiến
lược không chỉ là nghĩa vụ quốc tế mà còn là trách nhiệm của cách
mạng Việt Nam và coi “giúp bạn là mình tự giúp mình”.
Ghi nhận sự giúp đỡ của Việt Nam cho sự nghiệp giải phóng
của Lào, Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản nêu rõ: nhiều đồng chí
Việt Nam đã hy sinh trên chiến trường Sầm Nưa, Cánh đồng Chum...,
nhiều cán bộ Việt Nam đã sang Lào hoạt động từ lúc cách mạng
mới bắt đầu cho đến khi tóc bạc, coi nhân dân Lào như nhân dân
mình, coi sự nghiệp cách mạng Lào như sự nghiệp cách mạng Việt
Nam. Đối với Việt Nam, sự hết lòng yêu quý, giúp đỡ của nhân dân
các bộ tộc Lào luôn là một nguồn động viên, cổ vũ mạnh mẽ tinh

1
. Cayxỏn Phômvihản: Về cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Lào, Nxb. Sự
thật, Hà Nội, 1986, tr.85.
394
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

thần chiến đấu của bộ đội tình nguyện và các chuyên gia Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc đấu tranh chống Mỹ ở Lào đã phối hợp và hỗ
trợ tích cực cho cuộc đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam, bảo vệ
miền Bắc. Đặc biệt, nhân dân Lào đã cùng chia sẻ với nhân dân
Việt Nam trước bom đạn ác liệt của giặc Mỹ, tạo mọi điều kiện để
bộ đội Việt Nam mở đường Trường Sơn và mở các chiến dịch lớn,
góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Có thể nói, mối quan hệ đoàn kết Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam giai đoạn 1954 - 1962 đã được hai Đảng và nhân dân hai nước
củng cố, phát triển lên một tầm cao mới, đáp ứng kịp thời, có hiệu
quả nhiệm vụ cách mạng của mỗi nước. Việt Nam luôn là hậu
phương, là chỗ dựa vững chắc trong sự nghiệp đấu tranh của cách
mạng Lào. Về phần mình, Đảng Nhân dân Lào cũng thường xuyên
giáo dục nhân dân nêu cao tinh thần chiến đấu “đồng thời góp hết
mình vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam, Campuchia
anh em, sẵn sàng nhận phần khó khăn về mình, tạo mọi điều kiện
thuận lợi để giúp cách mạng của nhân dân hai nước anh em phát
triển và giành thắng lợi”1. Mối quan hệ tốt đẹp đó là cơ sở vững
chắc để quân dân hai nước tiếp tục sát cánh bên nhau chiến đấu và
giành nhiều thắng lợi mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và tay
sai, giành độc lập, tự do cho mỗi nước.

. Cayxỏn Phômvihản: Về cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Lào, Sđd,
1

tr.254.
395
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Chương VI

PHÁT TRIỂN LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU,


ĐÁNH THẮNG CÁC CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH
CỦA ĐẾ QUỐC MỸ, GIÀNH THẮNG LỢI HOÀN TOÀN
(1963 - 1975)

I. PHỐI HỢP XÂY DỰNG VÙNG GIẢI PHÓNG LÀO, XÂY DỰNG
TUYẾN VẬN TẢI CHIẾN LƢỢC TÂY TRƢỜNG SƠN, TỪNG BƢỚC
ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƢỢC CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT Ở LÀO
VÀ CHIẾN TRANH CỤC BỘ Ở VIỆT NAM (1963 - 1968)

1. Phối hợp giữ vững địa bàn Cánh đồng Chum - Xiêng
Khoảng và mở thông tuyến vận tải tây Trường Sơn
Từ năm 1963, tình hình cách mạng Việt Nam đã có bước phát
triển quan trọng. Ngay từ đầu năm 1963, quân dân tỉnh Mỹ Tho đã
lập nên chiến thắng ấp Bắc vang dội208, lần đầu tiên một tiểu đoàn
quân giải phóng miền Nam cùng lực lượng vũ trang địa phương đánh
bại các biện pháp chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của
địch, đánh dấu bước phát triển mới của phong trào đấu tranh cách
mạng ở miền Nam. Bộ đội chủ lực của miền Nam và các khu đều
được tăng cường nhanh chóng. Phong trào phá ấp chiến lược,

208
. Trong trận đánh, quân dân ấp Bắc đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 450
tên địch (trong đó có 9 cố vấn Mỹ), bắn rơi, bắn hỏng 9 máy bay trực thăng, phá
huỷ 3 xe M113 và 2 tàu trên sông.
396
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

phong trào đấu tranh chính trị của đông đảo quần chúng cách mạng
dâng lên mạnh mẽ, chính quyền Sài Gòn lâm vào tình trạng khủng
hoảng triền miên, quốc sách “ấp chiến lược” của Mỹ, nguỵ đứng
trước nguy cơ bị phá sản, báo hiệu sự thất bại không tránh khỏi của
chiến lược Chiến tranh đặc biệt ở miền Nam.
ở miền Bắc, nhân dân hăng hái tham gia công cuộc lao động,
xây dựng đất nước, đã đạt được nhiều thành tựu trong việc thực
hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất - xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội mới, với quan
hệ sản xuất mới và những cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội bước đầu được thiết lập. Đặc biệt, 10 triệu nông dân tham gia
hợp tác xã, đoàn kết giúp đỡ nhau trong sản xuất, không những đã
đưa sản lượng nông nghiệp năm 1963 cao hơn hai lần năm 1939 (là
năm có sản lượng cao nhất trong thời Pháp chiếm đóng), mà quan
trọng hơn là đã tạo điều kiện để Đảng, Nhà nước Việt Nam củng cố
phát triển nông thôn - địa bàn chiến lược rộng lớn nhất của căn cứ
địa miền Bắc, tạo nên sự nhất trí cao về chính trị, tinh thần, động
viên và tổ chức được hàng triệu thanh niên ra tiền tuyến chiến đấu.
Đúng như đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Chính
trị đặc biệt (tháng 3 năm 1964): “... miền Bắc nước ta đã tiến những
bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và
con người đều đổi mới”209.
Tháng 12 năm 1963, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam tổ chức Hội nghị lần thứ chín (khoá III) để xác định
những vấn đề về đường lối chiến tranh cách mạng miền Nam cũng
như đường lối đoàn kết quốc tế. Hội nghị đã biểu thị tinh thần kiên
quyết bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và hướng
mọi hoạt động quốc tế của toàn Đảng, toàn dân vào việc kết hợp

209
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.224.
397
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Về cách mạng miền Nam, Trung ương Đảng đã quyết định nhiều
vấn đề chiến lược nhằm thúc đẩy cuộc chiến tranh cách mạng phát
triển mạnh mẽ hơn, như: nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ
trang để chủ động và kịp thời đối phó với hành động tăng cường
chiến tranh leo thang của địch; xác định đấu tranh vũ trang ngày
càng đóng vai trò quyết định trực tiếp tiêu diệt lực lượng quân sự
địch; quyết định đưa từng đơn vị chủ lực (tiểu đoàn, trung đoàn) từ
miền Bắc vào miền Nam, lập các khối chủ lực ở chiến trường, tăng
dần quy mô tác chiến tập trung ở miền Nam. Như vậy, từ đây, việc
chi viện từ miền Bắc vào miền Nam qua tuyến đường Trường Sơn
sẽ ngày một tăng cao.
Tại Lào, sau khi Hiệp định Giơnevơ 1962 được ký kết, đế
quốc Mỹ vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm lược Lào. Trước tình hình
mới, đế quốc Mỹ đã thực hiện chính sách hai mặt: một mặt, dùng
mọi thủ đoạn để khống chế Chính phủ liên hiệp, phá vỡ sự hợp tác
giữa Neo Lào Hắc Xạt với lực lượng trung lập; mặt khác, chúng ra
sức củng cố lực lượng phái hữu để phục vụ cho ý đồ xâm lược đã
vạch ra. Theo Hiệp định, ngày 7 tháng 10 năm 1962 là thời hạn
cuối cùng cho việc rút quân đội và nhân viên quân sự nước ngoài
(cụ thể là Mỹ) ra khỏi lãnh thổ Lào, nhưng chính quyền Kennơđi
chỉ cho rút 666 tên, còn phần lớn nhân viên trong các đoàn cố vấn
quân sự như PEO (Programs Evaluation Office - Cơ quan đánh giá
chương trình viện trợ), MAAG (Military Assistance Advisory
Group - Phái đoàn cố vấn quân sự), PAG (Police Advisory Group -
Phái đoàn cố vấn cảnh sát) và cơ quan viện trợ USOM (United
States Operation Mission - Phái đoàn công tác của Mỹ) chuyển
sang khoác áo dân sự dưới cái tên USAID (United States
Assistance International Development - Cơ quan phát triển quốc
tế Mỹ), đồng thời duy trì một số lớn nhân viên quân sự Nam Việt
398
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Nam và Thái Lan ở các đơn vị của phái hữu. Chúng tăng cường
viện trợ cho Phumi Nòxavẳn, tăng số quân nguỵ Viêng Chăn từ
54.000 tên năm 1962 lên 63.000 tên vào cuối năm 1963; xúc tiến
khôi phục lại các binh đoàn cơ động (GM) bị tan rã trong chiến
dịch Nặm Thà; tổ chức khôi phục lực lượng phỉ dưới tên gọi “lực
lượng đặc biệt” lên tới 17.000 tên do Vàng Pao chỉ huy và đặt dưới
sự điều khiển trực tiếp của CIA và cố vấn Mỹ210.
Dưới sự giật dây của Mỹ, lực lượng phái hữu ra sức thao túng,
phá hoại Chính phủ liên hiệp, lôi kéo mua chuộc Hoàng thân
Phuma và Koongle; tung hàng trăm sĩ quan và binh sĩ của Phumi
Nòxavẳn vào lực lượng trung lập nhằm gây rối nội bộ, lôi kéo lực
lượng này. Do bị lôi kéo, mua chuộc nên nội bộ lực lượng trung lập
diễn biến phức tạp. Một bộ phận phản bội cách mạng, đi theo phái
hữu. Một bộ phận có xu hướng tiến bộ tách ra, do Đại tá Đươn
Xúnnalạt chỉ huy, tiếp tục đứng về phe cách mạng, chống đế quốc
Mỹ và bọn tay sai phản động. Bộ phận tiến bộ thường xuyên bị lực
lượng trung lập phản bội, đe dọa khủng bố.
Trắng trợn hơn, đầu năm 1963, đế quốc Mỹ và tay sai còn tổ
chức ám sát ông Kínim Phônxêna, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
(ngày 1 tháng 4 năm 1963), uy hiếp các thành viên Neo Lào Hắc
Xạt ở Viêng Chăn, buộc các thành viên của Neo Lào Hắc Xạt trong
Chính phủ liên hiệp phải rút về Khăng Khay (ngày 14 tháng 4 năm
1963).
Sau khi lôi kéo được Koongle và một bộ phận lực lượng trung
lập (tháng 3 năm 1963), địch mở nhiều đợt tiến công hòng chiếm
toàn bộ khu vực Xiêng Khoảng, biến nơi này thành khu vực chiến

. Bộ Tổng Tham mƣu Quân đội nhân dân Việt Nam: Lịch sử Bộ Tổng Tham
210

mưu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb. Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 2003, t.2, tr.190.
399
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

trường ác liệt. Cuối năm 1963, chúng mở rộng chiến tranh ra cả


nước, trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ 1962, làm cho Chính
phủ liên hiệp chỉ còn trên danh nghĩa. Tháng 11 năm 1963, địch
chiếm được khu vực Na Kay - đường 9; tháng 12, chúng tiến công
uy hiếp đường 7 và Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng. Tình hình
Lào ngày càng căng thẳng.
Không chỉ thế, dọc biên giới Lào - Việt Nam từ đường 9 đến
Apa Chai, lực lượng vũ trang và bán vũ trang của bọn phản động
Lào đóng thành bảy vùng lớn với 89 vị trí có quân. Các khu vực
này trở thành bàn đạp để bọn biệt kích Mỹ, nguỵ ở miền Nam xâm
nhập phá hoại miền Bắc Việt Nam và uy hiếp tuyến vận tải chiến
lược tây Trường Sơn. Thêm nữa, trước sự kích động, dụ dỗ, cưỡng
ép của Mỹ, nguỵ, một số phần tử phản động tề nguỵ cũ trong các
dân tộc Thái, Mông ở khu vực biên giới bắt đầu ngóc đầu hoạt
động trở lại. Rải rác ở một số vùng tại Thanh Hoá, Điện Biên, Sơn
La đã có hiện tượng xưng vua. Những hành động cấu kết giữa Mỹ,
nguỵ Sài Gòn với nguỵ Lào đều nhằm thực hiện âm mưu đánh phá,
cắt đường tiếp tế giữa Việt Nam và Lào, giữa miền Bắc với miền
Nam, cô lập cách mạng Lào, cách mạng miền Nam, đồng thời làm
cho tình hình an ninh biên giới hai nước trở nên phức tạp, căng
thẳng.
Trước tình hình có chiều hướng phức tạp, ngày 15 tháng 2 năm
1963, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào họp Hội
nghị lần thứ 11211. Sau khi xem xét kỹ tình hình mọi mặt từ sau khi
thành lập Chính phủ liên hiệp, Hội nghị đã đề ra hai nhiệm vụ cho
cách mạng Lào trong thời gian trước mắt, đó là đấu tranh duy trì
Chính phủ liên hiệp, bảo vệ hoà bình và ra sức củng cố, phát triển
211
. Dẫn theo tập Nghị quyết Trung ƣơng Đảng Nhân dân Lào từ Nghị
quyết 1 đến Nghị quyết 17 (phần nhận định tình hình âm mƣu của địch và chủ
trƣơng đối phó của ta), Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4278.
400
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

lực lượng cách mạng về mọi mặt. Hội nghị cũng xác định nhiệm vụ
của quân đội là phải tích cực hoạt động quân sự, làm hậu thuẫn cho
đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ
trang, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch, làm chuyển biến tình
hình có lợi cho cách mạng.
Để giúp Lào thực hiện nhiệm vụ do Hội nghị lần thứ 11 Ban
Chấp hành Trung ương đề ra, ngày 18 tháng 6 năm 1963, Thường
trực Quân uỷ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định
phương hướng giúp Lào về quân sự, ra sức củng cố lực lượng vũ
trang, lấy việc huấn luyện làm trung tâm, giữ vững và củng cố vùng
giải phóng, phối hợp với lực lượng vũ trang trung lập tiến bộ giữ
vững địa bàn quan trọng, nhất là khu vực Cánh đồng Chum; tăng
cường giúp về vật chất kỹ thuật, phương tiện thông tin chỉ huy và
một số chuyên gia quân sự để bảo đảm tác chiến, giữ vững khu vực
Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng. Thường trực Quân uỷ Trung
ương cũng đã quyết nghị những nguyên tắc tổ chức cơ quan công
tác ở Lào, như: Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục
Hậu cần chịu trách nhiệm trực tiếp giúp Thường trực Quân uỷ
Trung ương chỉ đạo công tác Lào, các cơ quan phải tổ chức bộ
phận chuyên trách công tác Lào...
Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam cũng đã tổ
chức một số đoàn chuyên gia quân sự để giúp Lào giữ vững khu
vực Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng và một số địa bàn quan
trọng khác, như: ngày 15 tháng 4 năm 1963, thành lập Đoàn 463
chuyên gia quân sự Việt Nam bên cạnh Quân khu Cánh đồng Chum
- Xiêng Khoảng, do Trung tá Nguyễn Bình Sơn làm trưởng đoàn;
ngày 28 tháng 5 năm 1963, thành lập Đoàn công tác đặc biệt ở Lào
(Đoàn 5), do Thượng tá Nguyễn Hữu An làm trưởng đoàn; ngày 18
tháng 7 năm 1963, quyết định thành lập Đoàn công tác đặc biệt thứ
hai, do Trung tá Lê Kích làm chỉ huy trưởng.
Để có phương hướng giúp đỡ nhau toàn diện hơn, tháng 7 năm
401
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

1963, Bộ Chính trị của hai Đảng đã có cuộc hội đàm, trao đổi bàn
về phương hướng phát triển của cách mạng Lào. Tham dự cuộc hội
đàm có đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam và đồng chí Cayxỏn Phômvihản,
Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Lào.
Trong cuộc hội đàm, hai bên đã thống nhất nhận định thắng
lợi của cách mạng Lào trong thời gian vừa qua là rất to lớn. Hiện
nay, Mỹ - nguỵ đang ra sức phá hoại Chính phủ liên hiệp, tiến
công lấn chiếm vùng giải phóng. Tuy nhiên, chúng vẫn đang
trong thế phòng thủ, thực hiện chính sách hai mặt lợi dụng
Hoàng thân Phuma, lôi kéo Koongle giương cao ngọn cờ trung
lập và thân phương Tây để chống lại Pathết Lào. Hai Đảng thống
nhất trong lúc này cần phải tranh thủ thời gian để xây dựng lực
lượng cả về quân sự và chính trị, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu
lâu dài.
Sau cuộc hội đàm, phía Lào đã có công hàm chính thức đề nghị
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tăng cường lực lượng
chuyên gia sang giúp Lào toàn diện, từ chủ trương, chính sách đến
tổ chức thực hiện. Trong đó, về quân sự, giúp thực hiện hai nhiệm
vụ cơ bản là xây dựng chính trị tư tưởng, tổ chức đảng trong quân
đội và củng cố phát triển phong trào chiến tranh du kích.
Tháng 12 năm 1963, Quân uỷ Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam có phiên họp bàn về phương hướng giúp cách mạng
Lào, xác định: tình hình Lào hiện nay đang có tính giằng co phức
tạp; phương châm đấu tranh của cách mạng Lào trong giai đoạn
tới là quân sự kết hợp chính trị, lấy đấu tranh chính trị làm chính,
đấu tranh quân sự thích đáng làm áp lực để hỗ trợ cho đấu tranh
chính trị, tranh thủ đưa cách mạng Lào tiến lên.
Đối với công tác giúp Lào, Quân uỷ Trung ương (Việt Nam)
402
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

khẳng định sự giúp đỡ của Việt Nam về nhiều mặt là nhân tố


quan trọng tạo điều kiện cho cách mạng Lào giành được thắng
lợi và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, vẫn còn một số thiếu
sót, khuyết điểm: nhận thức về công tác giúp Lào chưa thật đầy
đủ nên lúc cần thiết Việt Nam đưa lực lượng sang giúp Lào thì
giành thắng lợi nhanh chóng, nhưng sau khi lực lượng Việt Nam
rút hết thì Lào lại hết sức khó khăn trong việc củng cố và giữ
vững thắng lợi đã giành được. Trong công tác giúp Lào còn nặng
về đối phó với tình hình trước mắt, chưa có kế hoạch giúp lâu dài
và toàn diện; những chủ trương đề ra giúp Lào thì đúng nhưng
chưa có kế hoạch giúp cụ thể trong tổ chức thực hiện, chưa đào
tạo được đội ngũ cán bộ giúp Lào một cách lâu dài và cơ bản.
Nhằm khắc phục những khuyết điểm trên, Quân uỷ Trung ương
chủ trương phải tăng cường hệ thống cố vấn và chuyên gia trực tiếp
giúp Lào cả ở trung ương và đơn vị cơ sở. Cần phải có cố vấn giúp
Tổng Quân uỷ và Bộ Tổng Tư lệnh, cố vấn giúp các quân khu (liên
tỉnh) và tỉnh, cố vấn và chuyên gia giúp các đơn vị tiểu đoàn chiến
đấu, cố vấn về công tác huấn luyện và nhà trường, cố vấn và
chuyên gia giúp lực lượng trung lập tiến bộ.
Ngoài lực lượng chuyên gia và cố vấn, Việt Nam cũng cần
giúp một số đội công tác và một số đơn vị bộ đội để phối hợp
cùng Lào tiễu phỉ và củng cố cơ sở, củng cố khu giải phóng. Giúp
đỡ lương thực và các nhu cầu vật chất khác, đồng thời giúp sửa
chữa những khí tài, phương tiện hư hỏng và xây dựng cho Lào
những cơ sở sửa chữa cần thiết...
Đáp ứng yêu cầu của Lào, đồng thời thực hiện chỉ thị của Bộ
Chính trị và Quân uỷ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, cuối
năm 1963 và đầu năm 1964, hơn 2.000 cán bộ các cấp của quân đội
được điều động tăng cường cho Đoàn 959 để thực hiện nhiệm vụ
chuyên gia giúp Lào. Hầu hết các cán bộ được điều động trong thời
403
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

gian này đều là các đồng chí đã công tác ở Lào, rút về nước trong
năm 1962.
ở miền Nam Việt Nam, bước sang năm 1963, lực lượng vũ trang
cách mạng phát triển nhanh, nhu cầu vận chuyển lực lượng và vật
chất từ miền Bắc vào chi viện cho miền Nam tăng nhanh. Trong khi
đó, Mỹ - nguỵ tập trung đánh phá quyết liệt tuyến hành lang đông
Trường Sơn. Chỉ trong mấy tháng đầu năm 1963, địch mở liên tiếp
bốn cuộc càn vào miền tây Trị - Thiên, dọc theo đường 9...
Nhận thấy tuyến hành lang đông Trường Sơn bị đánh chặn
quyết liệt, đồng thời được sự ủng hộ, nhất trí của Trung ương Đảng,
Mặt trận và Bộ Chỉ huy Quân đội Lào, ngày 24 tháng 1 năm 1964,
Bộ Quốc phòng Việt Nam đã quyết định giao nhiệm vụ cho Đoàn
559 chuyển toàn bộ hoạt động sang tuyến tây Trường Sơn, chuyển
hàng và dẫn quân từ làng Ho vào khu vực ngã ba biên giới. Chỉ tiêu
vận chuyển năm 1964 của Đoàn là 1.000 tấn hàng cho miền Nam
và Lào, 220 tấn gạo bảo đảm giao liên hành quân.
Trước đòi hỏi phải kiên quyết giữ vững vùng giải phóng Lào,
đồng thời giữ vững tuyến vận tải tây Trường Sơn, đầu năm 1964,
bộ đội Lào - Việt đã mở hoạt động quân sự, chủ yếu ở khu vực
đường 9 - Trung Lào và Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng. Từ
ngày 27 tháng 1 đến 12 tháng 2 năm 1964, các đơn vị tình nguyện
của Quân khu 4 Việt Nam cùng bộ đội Lào mở chiến dịch 128, tiến
công quân địch ở Na Kay, loại khỏi vòng chiến đấu gần 900 tên,
giải phóng toàn bộ khu vực cao nguyên Na Kay và các vùng lân
cận trên tuyến biên giới Việt - Lào từ đường 8 đến đường 12 với
chiều dài gần 700 km, mở thông hành lang tuyến vận tải tây
Trường Sơn từ bắc xuống nam, tạo thế vững chắc cho vùng giải
phóng Trung Lào, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc
vận chuyển trên đường tây Trường Sơn. Đây là hoạt động quân sự
lớn đầu tiên ở Lào, sau khi địch phá vỡ Hiệp định Giơnevơ 1962.
404
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Sau chiến dịch 128, ngày 17 tháng 3 năm 1964, Trung ương
Đảng Nhân dân Lào tổ chức Hội nghị lần thứ 12 và chỉ rõ212: do âm
mưu phá hoại của địch, Chính phủ liên hiệp chỉ còn là hình thức; đế
quốc Mỹ và tay sai đã gây tình hình căng thẳng ở Lào; nhiệm vụ
trước mắt của Đảng là đẩy mạnh đấu tranh chính trị kết hợp với đấu
tranh quân sự làm thất bại mọi âm mưu của địch; ra sức củng cố,
tăng cường lực lượng cách mạng về mọi mặt. Hội nghị đã đề ra
năm nhiệm vụ lớn là: tăng cường xây dựng mặt trận thống nhất
chống Mỹ và tay sai; ra sức đẩy mạnh đấu tranh trong hậu phương
địch bằng chính trị, kết hợp với vũ trang và vận động binh lính
địch; xây dựng, củng cố vùng giải phóng về mọi mặt; ra sức củng
cố lực lượng bán vũ trang; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, bồi
dưỡng cán bộ.
Sau Hội nghị lần thứ 12 của Trung ương Đảng Nhân dân Lào,
Đảng bộ các cấp trong cả nước Lào đã chuyển hướng lãnh đạo phù
hợp với tình hình mới. Từng bộ phận đã lãnh đạo theo định hướng
kháng chiến trường kỳ, tự lực cánh sinh; ở vùng địch tạm chiếm, cơ
sở chính trị đã có bước phát triển; lực lượng vũ trang và bán vũ
trang đã được củng cố và phát triển.
Trước sự lớn mạnh của cách mạng Lào, đế quốc Mỹ ồ ạt tăng
viện trợ cho phái hữu nhằm tăng cường sức mạnh và thúc ép phái
hữu đẩy mạnh hoạt động lấn chiếm vùng giải phóng. Ngày 19
tháng 4 năm 1964, đế quốc Mỹ đã sử dụng bọn cực hữu, hiếu chiến
Kúpaxít Aphay và Xihổ Lamphatacun làm đảo chính quân sự, lật
đổ Chính phủ liên hiệp ba phái. Chúng tổ chức chính phủ mới
không có Neo Lào Hắc Xạt và vẫn để Phuma làm thủ tướng để sử

. Dẫn theo tập Nghị quyết của Đảng Nhân dân Lào từ Nghị quyết 1 đến
212

Nghị quyết 17 (phần nhận định tình hình âm mƣu của địch và chủ trƣơng đối
phó của ta), Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4278.
405
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

dụng danh nghĩa “trung lập” và “Chính phủ liên hiệp” giả hiệu.
Chúng còn sáp nhập quân của Koongle trung lập vào lực lượng
phái hữu nhằm biến Chính phủ liên hiệp thành một chính quyền bù
nhìn, là công cụ phục vụ cho âm mưu của đế quốc Mỹ. Tại khu vực
Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, chúng đã triển khai một lực
lượng lớn quân chủ lực213 nhằm chiếm giữ lâu dài địa bàn chiến
lược này, từng bước tiêu diệt lực lượng Pathết Lào và uy hiếp vùng
biên giới miền Bắc Việt Nam.
Trước âm mưu thâm độc của địch, đồng thời tận dụng thời cơ
sau đảo chính, nội bộ chính quyền Viêng Chăn vẫn lục đục, Trung
ương Đảng Nhân dân Lào quyết định mở chiến dịch 74A, tiến công
quét bọn phái hữu ra khỏi Cánh đồng Chum. Đầu tháng 3 năm
1964, Bộ Tư lệnh chiến dịch 74A (chiến dịch đường 7 và đường 4)
được thành lập do Thiếu tướng Nguyễn Bằng Giang, Tư lệnh Quân
khu Tây Bắc làm tư lệnh. Phía Lào có các đồng chí Xỉngcapô, phó
tư lệnh và Xámản Vinhakệt, chính uỷ Quân khu Cánh đồng Chum -
Xiêng Khoảng (Pathết Lào), Đại tá Đươn Xúnnalạt (trung lập) tham
gia Bộ Chỉ huy chiến dịch214.
Ngày 27 tháng 4 năm 1964, chiến dịch mở màn. Sau khi tiến
công tiêu diệt các vị trí địch ở Phả Kha, Phu Noỏng, Noỏng Khạng,
Mương Pơn..., ngày 15 tháng 5 năm 1964, bộ đội Việt - Lào tiến
công vào khu vực Cánh đồng Chum. Đồng chí Khăm Tày
Xiphănđon, Tổng Chỉ huy Quân đội Pathết Lào trực tiếp đến đài

213
. Gồm: 13 tiểu đoàn bộ binh thuộc GM13 và GM17, cùng 3 tiểu đoàn hỗn
hợp, 54 đại đội phỉ, 2 tiểu đoàn pháo 105 ly và 85 ly, 2 đại đội súng cối 120 ly và
106,7 ly, một đại đội súng máy phòng không 12,7 ly, 37 xe tăng và thiết giáp.
214
. Lực lƣợng tham gia chiến dịch có Lữ đoàn 316 và Lữ đoàn 335 (Quân
khu Tây Bắc), Tiểu đoàn 8 (Sƣ đoàn 304), Tiểu đoàn 925 (Quân khu 4), 14 đại
đội biên phòng; phía Lào có 7 tiểu đoàn Pathết Lào và trung lập yêu nƣớc (13, 1,
2, 15, Pắtchây, 701, 500).
406
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

quan sát chiến dịch ở đồi Bạn Gion để chỉ đạo, chỉ huy. Sau gần hai
tháng tiến công, ngày 8 tháng 6 năm 1964, chiến dịch kết thúc
thắng lợi. Ta đã quét sạch địch ra khỏi Cánh đồng Chum, chiếm
được Phu Cút - dãy điểm cao khống chế vô cùng quan trọng, bảo vệ
cửa ngõ phía tây Cánh đồng Chum, giải phóng 28 tàxẻng với
30.000 dân; loại khỏi vòng chiến đấu 1.600 tên địch, thu hàng trăm
súng, bắn cháy 19 xe tăng, xe bọc thép, bắn rơi 4 máy bay.
Đây là thắng lợi có ý nghĩa rất quan trọng cả về chính trị và
quân sự. Từ đây, vùng giải phóng Lào đã nối liền từ Trung Lào đến
Sầm Nưa, đường 7 nối với Việt Nam đã được mở thông, lực lượng
vũ trang Lào có bước trưởng thành vượt bậc, càng tự tin vào khả
năng chiến đấu của mình. Qua chiến dịch, một số sĩ quan trung lập
đã nhận rõ âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, sự
phản bội của Koongle và Phuma, đồng thời cũng thấy được đường
lối đúng đắn của Mặt trận Lào yêu nước nên đã từ bỏ quân đội phái
hữu trở về hợp tác với cách mạng. Sự phân hoá tất yếu trong lực
lượng trung lập đã tạo nên một liên minh vững chắc hơn giữa lực
lượng trung lập yêu nước và Pathết Lào, góp phần tạo thế và lực
mới cho cách mạng Lào.
Từ giữa năm 1964, cách mạng miền Nam chuyển sang thế tiến
công và liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn, đẩy chiến lược
Chiến tranh đặc biệt của Mỹ đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn.
Để cứu vãn thất bại, đế quốc Mỹ quyết định tiến hành cuộc chiến
tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc
nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế - quốc phòng, cắt đứt sự chi viện
của quốc tế cho Việt Nam, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc
cho miền Nam, làm lay chuyển quyết tâm đánh Mỹ của nhân dân
Việt Nam, hỗ trợ các chiến lược chiến tranh của Mỹ và cứu nguy
cho sự sụp đổ của quân đội Sài Gòn ở miền Nam.
Sau khi tiến hành các hoạt động khiêu khích và dựng lên Sự
407
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

kiện vịnh Bắc Bộ để đánh lừa dư luận quốc tế và gây áp lực trước
Quốc hội Mỹ, ngày 5 tháng 8 năm 1964, Mỹ huy động 64 lần các
máy bay A1, A4, F4, F8 đánh phá vào hàng loạt các mục tiêu
quân sự và dân sự ở một số vùng ven biển miền Bắc Việt Nam,
như cửa sông Gianh, Vinh, Bến Thuỷ, Lạch Trường (Thanh Hoá)
và thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh). Do có sự chuẩn bị từ trước và
với tinh thần cảnh giác cao, quân dân miền Bắc đã ngoan cường
đánh trả, bắn rơi tám máy bay, bắn hỏng nhiều chiếc khác, bắt
sống một phi công. Cuộc tiến công đầu tiên của Mỹ bằng không
quân đã bị thất bại.
Sau thất bại, ngày 5 tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ liên tục cho
tàu chiến và máy bay khiêu khích, bắn phá các vị trí từ nam sông
Gianh trở vào. Tại Lào, Mỹ thực hiện kế hoạch bí mật do
Lêônaongơ, Đại sứ Mỹ ở Lào trực tiếp chỉ huy. Chúng sử dụng 25 -
40 máy bay mang nhãn hiệu không quân Hoàng gia Lào nhưng do
phi công Mỹ và Thái Lan điều khiển, thực hiện các phi vụ ném
bom một số vị trí trên tuyến hành lang tây Trường Sơn, như:
Mương Phin, Xê Pôn, Cha Ky, Mương Noòng, Cù Bai, Lằng
Khằng, Xẻng Phăn, Ta Long, Ca Vát... Bộ binh địch nống ra Na
Bò, Noỏng Bua, Đoông Mốt, Xê Kuncam (khu vực đường 9) và
thọc sâu vào một số điểm trên tuyến hành lang.
Địch đánh phá ác liệt, thời tiết phức tạp, khiến cho việc vận
chuyển hàng hoá và dẫn quân của Đoàn 559 trên tuyến tây Trường
Sơn gặp rất nhiều khó khăn. Trong quý III năm 1964, chỉ có 1.065
cán bộ, chiến sĩ hành quân vào Nam, 336 người hành quân ra Bắc.
Có thời điểm đường tắc, khách qua tuyến dồn ứ hàng nghìn người
ở các trạm giao liên gần một tháng. Tình hình bảo đảm lương
thực, thực phẩm cho bộ đội trở thành vấn đề “nước sôi, lửa bỏng”.
Trước tình hình đó, chỉ huy Đoàn 559 cùng Đoàn chuyên gia
763 ở Hạ Lào trực tiếp đề xuất với Tỉnh uỷ Távên Oọc của Lào vận
408
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

động nhân dân địa phương giúp đỡ. Với tinh thần quốc tế cao cả,
trong sáng, nhân dân tỉnh Távên Oọc, đặc biệt là các huyện Cà
Lươn, Xê Camản... đã nhanh chóng thu gom thóc, giã gạo phục vụ
bộ đội Việt Nam. Mặc dù là địa phương nghèo, nhân dân sống phân
tán, nhưng chỉ trong thời gian nửa tháng, bạn đã huy động được
hơn 30 tấn lương thực, góp phần giải quyết khó khăn trước mắt cho
Đoàn 559.
Cũng trong năm 1964, quân dân tỉnh Távên Oọc còn tạo điều
kiện và giúp Đoàn 559 khai thác tuyến vận tải đường sông từ Bạc
đi Pạc Káđin. Tuyến đường sông này hiểm trở, nhiều ghềnh thác,
vận chuyển vào ban đêm rất khó khăn. Nhưng để vận chuyển được
ban ngày thì ta phải nhổ được đồn Phu Lakay do quân nguỵ Lào
chiếm giữ ở bờ tây sông Xê Coong.
Được sự đồng ý của Tỉnh uỷ Távên Oọc, một trung đội của
Trung đoàn 70 thuộc Đoàn 559 phối hợp với bộ đội địa phương
tỉnh vừa dùng tiếng nổ uy hiếp, vừa tuyên truyền địch vận, đã
nhanh chóng đánh chiếm đồn, khai thông tuyến đường sông, bảo
đảm vận chuyển bằng thuyền ban ngày, tạo nguồn hàng để vận
chuyển tiếp vào tàxẻng thuộc tỉnh áttapư (khu vực ngã ba biên
giới).
Giữa năm 1964, trước tình hình chiến tranh ở Lào có nhiều khả
năng lan rộng, hai Đảng chủ trương củng cố tổ chức chuyên gia
quân sự Việt Nam tại Lào. Ngày 30 tháng 6 năm 1964, Bộ Tổng
Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam ra quyết định thành lập
Đoàn chuyên gia quân sự giúp Lào, lấy phiên hiệu là Đoàn 664.
Theo quyết định, Đoàn 664 là một bộ phận của cơ quan Tổng Cố
vấn và là một đơn vị đầu mối trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Đoàn có hệ thống tổ chức từ trên xuống dưới, gồm: đoàn chuyên
gia bên cạnh cơ quan Tổng Tư lệnh Lào; tổ (hoặc đoàn) chuyên gia
bên cạnh Bộ Tư lệnh các quân khu và tỉnh đội; tổ chuyên gia ở các
409
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

đơn vị từ cấp tiểu đoàn và tương đương trở lên... Đoàn 664 có
nhiệm vụ giúp Lào nghiên cứu toàn diện kế hoạch xây dựng lực
lượng vũ trang; giúp xây dựng kế hoạch tác chiến, xây dựng và
củng cố các vùng căn cứ...
Tiếp đó, trong những tháng cuối năm 1964, Thường trực Quân
uỷ và Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam đã có các
quyết định kiện toàn tổ chức Đoàn chuyên gia quân sự ở Lào, như:
ngày 21 tháng 10, ra quyết định cử Thiếu tướng Nguyễn Trọng
Vĩnh, Cục trưởng Cục Tổ chức, Tổng cục Chính trị làm trưởng
đoàn kiêm bí thư Đảng uỷ Đoàn 664; ngày 27 tháng 11, Tổng
Tham mưu trưởng ký quyết định thay phiên hiệu Đoàn 664 thành
Đoàn 959.
Trong tháng 8 năm 1964, cán bộ chuyên gia và nhân viên kỹ
thuật của Việt Nam đã giúp Lào xây dựng mới ba tiểu đoàn pháo
phòng không 37 mm và năm đại đội súng máy phòng không 12,7
mm, bố trí ở ba khu vực trọng điểm là Sầm Nưa, Cánh đồng Chum
và Trung Lào. Đầu tháng 9 năm 1964, Việt Nam giúp Lào huấn
luyện 1.450 chiến sĩ mới ở Quân khu 4 và Quân khu Tây Bắc, sau
đó đưa sang bàn giao ở Sầm Nưa và Khăng Khay.
Trong hai ngày 17 và 18 tháng 10 năm 1964, Đoàn đại biểu
quân sự Việt Nam và Đoàn đại biểu Quân giải phóng nhân dân Lào
đã có cuộc hội đàm để kiểm điểm tình hình và bàn chủ trương hoạt
động trong mùa khô tới. Phía Việt Nam có đồng chí Trần Quý Hai,
Tổng Tham mưu phó làm trưởng đoàn. Phía Lào, đồng chí Khăm
Tày Xiphănđon làm trưởng đoàn. Hai đoàn đã thống nhất kết luận:
để củng cố thắng lợi của cách mạng Lào, phải củng cố toàn diện
vùng giải phóng Lào, kiên quyết đánh địch lấn chiếm, truy quét
phỉ; tăng cường đoàn kết dân tộc, tranh thủ lực lượng trung lập tiến
bộ... Phía Lào đề nghị Việt Nam đưa quân tình nguyện và chuyên
gia sang giúp lâu dài, ở Lào ít nhất là ba năm, không nên vừa đưa
410
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

sang lại chuyển về ngay.


Mùa mưa năm 1964, Quân uỷ và Bộ Tổng Tư lệnh quân giải
phóng Lào quyết định tổ chức một đợt sinh hoạt chính trị, tư tưởng
nhằm nâng cao ý chí chiến đấu và năng lực lãnh đạo, chỉ huy cho
cán bộ cơ sở. Đội ngũ chuyên gia các cấp đã cùng các cán bộ Lào
tổ chức quán triệt các nghị quyết 10, 11, 12 của Trung ương Đảng
Nhân dân Lào; tổ chức triển khai cuộc vận động “xây dựng chi bộ
bốn biết”; triển khai chế độ đại hội ở các chi bộ, xây dựng các tổ
chức quần chúng, các chế độ sinh hoạt ở đơn vị... Đợt sinh hoạt
chính trị này đã góp phần nâng cao một bước chất lượng đội ngũ
cán bộ cơ sở, từ đó nâng cao một bước hiệu quả chiến đấu ở các
đơn vị bộ đội Lào.
Cùng với tổ chức sinh hoạt chính trị, bộ đội Lào đã cùng bộ đội
tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đánh bại nhiều cuộc
tấn công lấn chiếm của địch, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng. ở
Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, ta đã bẻ gãy cuộc hành quân
Xảm Xỏn của hơn bốn binh đoàn (từ ngày 25 tháng 7 đến 26 tháng
10 năm 1964); ở Trung Lào, ta đánh bại các cuộc hành quân Xỏn
Xây I, Xỏn Xây II (từ tháng 10 năm 1964 đến tháng 3 năm 1965),
diệt hơn 500 tên địch...
Cuối năm 1964, Trung ương Đảng Nhân dân Lào mở “cuộc vận
động thu phục phỉ” nhằm ổn định vùng giải phóng. Để giúp Lào
thực hiện “cuộc vận động thu phục phỉ”, Việt Nam đã giúp Lào các
sản phẩm thiết yếu như muối, vải, quần áo, thuốc men..., đồng thời
tại Lào, các đơn vị quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã
sát cánh cùng quân dân Lào triển khai có hiệu quả cuộc vận động
nêu trên. Do có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt và làm thí điểm
ở Sầm Nưa trước, sau đó mới triển khai trên toàn quốc nên Lào đã
411
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

giải quyết được nhiều ổ phỉ lâu đời215 như Thặm La, Na Khằng,
Hủa Mường, Mương Hiềm, Phả Thí, Giang Tơi, Khoa Phát, Chòm
Văn, Thà Teng, Nha Hớn..., tạo được sự ổn định mọi mặt cho các
vùng giải phóng.
Như vậy, sau khi Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào được ký
kết, Việt Nam đã rút toàn bộ chuyên gia và quân tình nguyện về
nước. Nhưng đến cuối tháng 4 năm 1963, theo yêu cầu của cách
mạng Lào, Việt Nam lại cử chuyên gia cố vấn giúp từ trung ương
đến tỉnh đội, tiểu đoàn và một số đại đội. Trong năm 1964, Việt
Nam đã cử nhiều đơn vị tình nguyện sang phối hợp tác chiến cùng
với bộ đội Lào. Quân khu 4 là đơn vị có lực lượng quân tình
nguyện sang giúp Lào nhiều nhất, gồm 4 tiểu đoàn biên phòng,
một trung đoàn bộ binh của Sư đoàn 325 và một số đơn vị phòng
không. Quân khu 3 có 2 trung đoàn của Sư đoàn 304 và Tiểu đoàn
bộ binh 923. Quân khu Tây Bắc có Lữ đoàn 316 và Tiểu đoàn
325... Chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam đã cùng quân
dân Lào chiến đấu giữ vững vùng giải phóng, xây dựng, phát triển
lực lượng vũ trang Lào và chiến đấu bảo vệ thông suốt tuyến vận
tải chiến lược tây Trường Sơn, góp phần đẩy mạnh cuộc chiến đấu
của nhân dân Việt Nam.

2. Xây dựng vùng giải phóng Lào về mọi mặt theo quy mô
một quốc gia, phát triển, bảo vệ tuyến vận tải tây Trường Sơn,
góp phần đánh bại bước đầu chiến lược Chiến tranh cục bộ của
Mỹ ở chiến trường miền Nam Việt Nam
Bước vào năm 1965, tình hình Đông Dương đã có những
chuyển biến mới. Nhân dân Việt Nam giành được nhiều thắng lợi
trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp

. Từ năm 1965 đến 1969, chúng ta đã thu phục đƣợc 5.138 tên phỉ.
215
412
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

đấu tranh giải phóng miền Nam. Chiến lược Chiến tranh đặc biệt
của Mỹ ở miền Nam Việt Nam bị thất bại nặng nề, nguỵ quyền Sài
Gòn lâm vào cuộc khủng hoảng triền miên. ở Lào, vùng giải phóng
đã chiếm 2/3 đất đai và 1/2 dân số, nối liền với miền Bắc Việt Nam
và vùng căn cứ phía tây miền Nam, tạo ra hành lang chiến lược tây
Trường Sơn của cách mạng Đông Dương.
Để cứu vãn thất bại ở miền Nam Việt Nam, từ giữa năm 1965,
đế quốc Mỹ đã thực hiện bước leo thang chiến tranh, tiến hành
chiến lược Chiến tranh cục bộ, ồ ạt đưa quân vào miền Nam, đồng
thời mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ra
miền Bắc.
Nhằm phối hợp với chiến lược Chiến tranh cục bộ ở miền Nam
Việt Nam, đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở Lào, tăng
cường Chiến tranh đặc biệt, phát triển các binh đoàn cơ động, thúc
quân phái hữu tiến công vùng giải phóng Lào. Địch chủ trương
biến cuộc chiến tranh ở Lào diễn biến ngày càng ác liệt hơn bằng
những phương thức tác chiến mới, dùng lực lượng cơ động kết hợp
với lực lượng đặc biệt tiến công quy mô lớn, hiệp đồng binh chủng,
lấn chiếm vùng giải phóng. Mỹ còn lập ra Trung tâm hành quân
liên hợp do Mỹ trực tiếp nắm, tăng cường hoạt động của không
quân Mỹ216 nhằm tăng hiệu quả các cuộc hành quân quy mô lớn
của quân nguỵ.
Trước các hành động của Mỹ và tay sai, Việt Nam và Lào đã
phối hợp đấu tranh mạnh mẽ trên mặt trận ngoại giao. Đoàn đại
biểu của hai nước đã tham dự Hội nghị nhân dân Đông Dương họp
tại Phnôm Pênh từ ngày 1 đến 9 tháng 3 năm 1965 và thống nhất ra

216
. Hãng thông tấn AFP ngày 6 tháng 1 năm 1966 cho biết: mỗi ngày có tới
300 lƣợt máy bay ném gần 1.000 tấn bom, rốckét xuống vùng giải phóng Lào. Dẫn
theo Lịch sử Lào, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr.201.
413
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

nghị quyết về vấn đề Lào, khẳng định tình hình căng thẳng tại Lào
là do đế quốc Mỹ gây ra; nghiêm khắc lên án Mỹ và quân đội thân
Mỹ đã dùng máy bay đánh phá và tiến công vùng giải phóng Lào;
đòi Mỹ chấm dứt việc sử dụng lãnh thổ của Lào để tiến công Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, chấm dứt các hành động khiêu khích và
xâm lược Việt Nam.
Tại Lào, tháng 5 năm 1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Nhân dân Lào họp Hội nghị lần thứ 13, ra nghị quyết về tình hình
cách mạng Lào217, đề ra sáu nhiệm vụ lớn: “Phát triển chiến tranh
nhân dân, ra sức xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân; củng cố
và phát triển các tổ chức cách mạng, cố gắng giải quyết đời sống
cho nhân dân; ra sức củng cố phát triển vùng giải phóng toàn diện
theo quy mô một quốc gia, làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu
tranh của nhân dân; đẩy mạnh hoạt động trong vùng địch tạm
chiếm; tăng cường đấu tranh chính trị, tranh thủ sự ủng hộ của các
nước anh em...; ra sức bồi dưỡng cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng”.
Về quân sự, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 chỉ rõ: phải đẩy
mạnh hoạt động quân sự, phát động chiến tranh nhân dân sâu rộng,
giữ vững và mở rộng vùng giải phóng; ra sức củng cố và tăng
cường lực lượng vũ trang, nhanh chóng giải quyết tình trạng mất
cân đối giữa ba thứ quân trong lực lượng vũ trang.
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 13 của Đảng Nhân dân Lào,
từ ngày 22 đến 29 tháng 6 năm 1965, tại Hà Nội diễn ra cuộc hội
đàm giữa đại diện Đảng Lao động Việt Nam với đại diện Đảng
Nhân dân Lào. Phía Việt Nam có đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ

. Dẫn theo tập Nghị quyết của Đảng Nhân dân Lào từ Nghị quyết 1 đến
217

Nghị quyết 17 (phần nhận định tình hình âm mƣu của địch và chủ trƣơng đối
phó của ta), Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4278.
414
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Võ Nguyên Giáp,
Uỷ viên Bộ Chính trị, và một số đồng chí uỷ viên Trung ương khác.
Đoàn đại biểu Đảng Nhân dân Lào gồm các đồng chí Cayxỏn
Phômvihản, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nủhắc
Phumxavẳn, Hoàng thân Xuphanuvông, Phumi Vôngvichít, Khăm
Tày Xiphănđon, Uỷ viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương
Đảng.
Trong cuộc hội đàm, đồng chí Cayxỏn nhấn mạnh: xuất phát
từ đặc điểm riêng của Lào, nhiệm vụ dân tộc hiện nay của cách
mạng Lào là giành độc lập dân tộc, thực hiện sự thống nhất quốc
gia, củng cố ý thức quốc gia dân tộc; nhiệm vụ trước mắt của
cách mạng Lào là bảo vệ vững chắc khu giải phóng và mở rộng
có trọng điểm; xây dựng khu giải phóng một cách toàn diện về
chính trị, kinh tế, quân sự... với quy mô một quốc gia để làm chỗ
dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh lâu dài, đồng thời để phát huy
ảnh hưởng chính trị của Neo Lào Hắc Xạt trong cả nước và trên
thế giới.
Đồng chí Lê Duẩn nhất trí với những ý kiến do đồng chí
Cayxỏn Phômvihản trình bày, đồng thời nhấn mạnh: Lào là tiền
đồn của phong trào giải phóng dân tộc và xã hội chủ nghĩa; cách
mạng Lào không chỉ là cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược, mà
còn thể hiện cả cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai phe. Vì vậy, cách
mạng Lào còn phải đấu tranh lâu dài và không thể tách khỏi nhân
tố xã hội chủ nghĩa. Về mối quan hệ giữa cách mạng ba nước Đông
Dương, chủ yếu là cách mạng Việt Nam và Lào, đồng chí Lê Duẩn
phân tích: do tình hình cụ thể của mỗi nước cho nên hình thức tiến
lên có khác nhau, nhưng có những vấn đề khách quan ràng buộc ba
nước với nhau, không thể tách rời nhau được. Đối với hai nước
Việt Nam và Lào, càng có mối quan hệ chặt chẽ hơn. Tuy là hai
dân tộc, hai quốc gia nhưng cùng một mục tiêu cách mạng, cùng kẻ
415
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

thù, cùng trận tuyến chống Mỹ xâm lược218.


Sau khi thống nhất với nhau về tình hình cách mạng Lào, đại
diện hai Đảng đã xác định những nội dung cần giúp Lào trong thời
gian tới, trong đó tập trung giúp xây dựng vùng giải phóng về mọi
mặt với quy mô một quốc gia và giúp xây dựng lực lượng vũ trang.
Sau cuộc hội đàm giữa hai Đảng, ngày 3 tháng 7 năm 1965, Bộ
Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ra nghị quyết về giúp đỡ cách
mạng Lào và đẩy mạnh hoạt động trong thời gian tới. Nghị quyết
nhấn mạnh: “Hiện nay, trước âm mưu đẩy mạnh chiến tranh xâm
lược của Mỹ và tay sai, vận mệnh của hai dân tộc và sự nghiệp
cách mạng của hai nước đang đứng trước những thử thách nghiêm
trọng, đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa cách mạng hai
nước và sự giúp đỡ tích cực hơn nữa của Đảng, Chính phủ, quân
đội và nhân dân ta đối với cách mạng Lào. Ta cần phải nỗ lực đáp
ứng đến mức cao nhất mọi yêu cầu đối với công cuộc phát triển
cách mạng của bạn”219.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng Việt
Nam khẩn trương tăng cường lực lượng sang giúp Lào đẩy mạnh
hoạt động tác chiến, củng cố, mở rộng vùng giải phóng. Chỉ trong
mấy tháng đầu năm 1965, Bộ Tổng Tham mưu đã cử hơn 100 trinh
sát đặc công thuộc Cục Tình báo, theo chế độ tình nguyện sang

218
. Vào thời điểm này, đồng chí Lê Duẩn nhận định về cách mạng Lào nhƣ
sau: cách mạng Lào liên hệ chặt chẽ với cách mạng miền Nam. Hạ Lào là con
đƣờng đi vào miền Nam, sống chết Mỹ cũng phải cố giữ cho đƣợc... Nếu Việt
Nam đánh thắng Mỹ trong Chiến tranh đặc biệt thì cách mạng Lào có thể vừa giữ
vững và phát triển lực lƣợng, vừa đấu tranh hoà bình trong Chính phủ liên hiệp.
Còn nếu xảy ra Chiến tranh cục bộ thì Hạ Lào và miền Nam trở thành chiến
trƣờng chung. Thông báo tình hình Lào, tháng 7 năm 1965, Cục Lƣu trữ Văn
phòng Trung ƣơng, phông 82, đơn vị bảo quản 1058.
219
. Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ƣơng Đảng về công tác Lào, hồ sơ
TƢ 364, tr.28, lƣu tại Văn phòng Bộ Quốc phòng.
416
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

tăng cường cho Đoàn 559 và Đoàn 763; cử một bộ phận Trung
đoàn 203 thuộc Quân khu 3 (gồm ba đại đội cao xạ 37 mm và một
đại đội 14,5 mm) sang tăng cường cho khu vực Sầm Nưa, Mương
Hùn và Xa Lới; cử nhiều đơn vị bộ binh, phòng không tăng cường
cho Đoàn 559 làm nhiệm vụ bảo vệ tuyến vận tải tây Trường Sơn
trên đất Trung và Hạ Lào.
Về lực lượng chuyên gia, Bộ Quốc phòng Việt Nam chủ trương
tăng thêm chuyên gia về công tác chính trị, công tác dân quân, công
tác hậu cần và chuyên gia giúp một số huyện trọng điểm. Tổng số
chuyên gia trong vài năm lên tới 8.500 người, trong đó đội ngũ
chuyên gia quân sự và nhân viên kỹ thuật khoảng 2.000 người. Về
tổ chức, Đoàn chuyên gia quân sự 959 tiếp tục giúp ba cơ quan của
quân giải phóng nhân dân Lào, đồng thời thành lập thêm đoàn
chuyên gia quân sự và quân tình nguyện ở khu vực Nam Lào.
Thực hiện chủ trương trên, ngày 19 tháng 5 năm 1965, tại xã
Đức Lạc, Đức Thọ, Hà Tĩnh (thuộc Quân khu 4), Đoàn chuyên gia
quân sự và quân tình nguyện Việt Nam mang phiên hiệu Đoàn
565220 được thành lập với hai nhiệm vụ chủ yếu: chuyên gia giúp
địa phương xây dựng lực lượng từ tỉnh đến các đại đội, cùng các
địa phương trên địa bàn phát triển quần chúng xây dựng cơ sở cách
mạng ở vùng giải phóng, trong vùng địch hậu; bộ đội tình nguyện
phối hợp với lực lượng địa phương đánh địch lấn chiếm vùng giải
phóng, diệt phỉ, bảo vệ và mở rộng địa bàn, bảo vệ tuyến hành lang
559...
Đoàn 565 được tổ chức trên cơ sở lực lượng chuyên gia và
quân tình nguyện đang hoạt động tại Nam Lào, có tăng cường đội
ngũ chuyên gia, một số đơn vị tình nguyện và Đoàn 763 (Hạ Lào)

. Đại tá Đồng Sĩ Nguyên (nguyên Phó Tƣ lệnh Quân khu 4), Tƣ lệnh kiêm
220

Chính uỷ; Thƣợng tá Lê Kích (nguyên Đoàn trƣởng Đoàn 763), Phó Tƣ lệnh
Đoàn 565.
417
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

đang hoạt động tại huyện Đắc Chưng, tỉnh Távên Oọc (nay là tỉnh
Xê Coong).
Cùng với việc tăng cường đội ngũ chuyên gia và quân tình
nguyện sang Lào, ngày 17 tháng 9 năm 1965, Tổng cục Chính trị
Quân đội nhân dân Việt Nam ra chỉ thị về nhiệm vụ công tác đảng,
công tác chính trị đối với bộ đội đang phối hợp chiến đấu với lực
lượng vũ trang cách mạng Lào, nhấn mạnh: phải làm cho cán bộ,
đảng viên thông suốt và nhất trí cao với mọi chủ trương, nhiệm vụ
giúp Lào, coi sự nghiệp cách mạng của nước Lào như sự nghiệp
cách mạng của Việt Nam; “Thực sự khiêm tốn, tôn trọng bạn, kiên
nhẫn, tận tình hướng dẫn giúp đỡ bạn tiến bộ, thực hiện miệng nói
tay làm, đồng cam cộng khổ cùng với quân và dân bạn chiến đấu,
công tác và sản xuất. Kiên quyết chống mọi biểu hiện tư tưởng
nước lớn, ban ơn, xem thường bạn, tạm bợ, ngại khó ngại khổ,
thiếu an tâm làm nhiệm vụ giúp bạn”221.
Tại Lào, cán bộ chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam đã
cùng cán bộ, chiến sĩ Lào triển khai thực hiện các nhiệm vụ mà Hội
nghị Trung ương lần thứ 13 Đảng Nhân dân Lào đề ra. Chuyên gia
Việt Nam cùng các cơ quan trung ương Lào tổ chức Hội nghị chính
trị liên hiệp toàn quốc giữa Neo Lào Hắc Xạt và các lực lượng
trung lập yêu nước tại Sầm Nưa từ ngày 3 đến 13 tháng 10 năm
1965. Hội nghị đã đưa ra Tuyên bố chung về “lập trường bốn điểm
và giải pháp năm điểm” của nhân dân Lào; khẳng định mục tiêu
của Mặt trận Lào yêu nước và lực lượng trung lập là đấu tranh cho
một nước Lào hoà bình, trung lập, độc lập, tự do và thịnh vượng;
kêu gọi toàn thể nhân dân Lào mang hết sức mình, không ngại hy
sinh, cùng với nhân dân Việt Nam và Campuchia anh em đứng
vững trên trận tuyến chống Mỹ ở Đông Dương; ủng hộ mạnh mẽ

221
. Hồ sơ CĐ-11-MQ-619, Tổng cục Chính trị, tr.190.
418
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ miền Bắc, giải phóng
miền Nam, hoà bình, thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt
Nam222...
Thành công của Hội nghị chính trị liên hiệp toàn quốc là một
thắng lợi lớn của khối đại đoàn kết các bộ tộc Lào trên mặt trận
chống Mỹ, đồng thời cũng khẳng định sự ủng hộ tinh thần to lớn
của nhân dân Lào đối với cuộc chiến đấu của quân dân Việt Nam.
Để thực hiện chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng
Nhân dân Lào, cuối năm 1965, chuyên gia và quân tình nguyện
Việt Nam đã giúp Tổng Quân uỷ, Trung ương Lào tiến hành cuộc
vận động “Toàn dân tham gia xây dựng lực lượng vũ trang”.
Chuyên gia quân sự đã phối hợp với chuyên gia dân chính xuống
từng địa phương giúp tổ chức nhiều cuộc tuyên truyền, giáo dục
rộng rãi trong nhân dân; phân công cán bộ, đảng viên ở từng địa
phương cùng bộ đội thâm nhập, vận động từng gia đình động viên
con em đi bộ đội, tham gia du kích.
Do làm tốt công tác vận động, tuyên truyền nên cuộc vận động
thu được kết quả tốt. Ngay trong vùng tạm chiếm cũng có nhiều
thanh niên bí mật ra vùng giải phóng xin nhập ngũ. Trong đợt vận
động đã có 5.000 thanh niên vào bộ đội và 2 vạn người tham gia du
kích, đưa tổng số quân của Lào trong năm 1966 lên 22.500 người
và 44.000 du kích (trong đó có 8.700 du kích nữ). Việt Nam đã
giúp Lào xây dựng thêm năm tiểu đoàn bộ binh, nâng số đơn vị chủ
lực lên 22 tiểu đoàn; thành lập thêm một tiểu đoàn cao xạ 37 ly và
một số đại đội súng máy cao xạ 12,8 ly..., giúp Lào bố trí các tiểu
đoàn chủ lực cho từng khu vực để tạo thế trận tại chỗ: Cánh đồng
Chum - Xiêng Khoảng bố trí 10 tiểu đoàn (có ba tiểu đoàn binh
chủng); Nam Lào tám tiểu đoàn; Sầm Nưa ba tiểu đoàn bộ binh và

. Bước phát triển trong củng cố liên minh chống Mỹ ở Lào, Nxb. Sự thật,
222

Hà Nội, 1966.
419
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

một tiểu đoàn cao xạ 37 ly; Bắc Lào hai tiểu đoàn; giúp Lào kiện
toàn các đơn vị pháo mặt đất, tổ chức thêm một đại đội công binh,
đại đội hoá học và đặc biệt là thành lập đơn vị pháo binh nữ ở Cánh
đồng Chum; giúp tổ chức mỗi tiểu đoàn có một đại đội tinh nhuệ,
biết đánh theo kiểu đặc công, mỗi xã, mỗi huyện có một tiểu đội
hoặc trung đội du kích nòng cốt, cơ động chiến đấu trong khu vực.
Cùng với tăng cường đội ngũ chuyên gia quân sự, Việt Nam
cũng từng bước tăng cường đội ngũ chuyên gia chính trị, kinh tế và
văn hoá để giúp Lào xây dựng vùng giải phóng. Sau khi Hiệp định
Giơnevơ về Lào được ký kết năm 1962, Việt Nam đã rút phần lớn
đội ngũ chuyên gia về nước, chỉ để lại một bộ phận nhỏ ở Trung
ương và các tỉnh. Từ năm 1964, trước tình hình mới, theo yêu cầu
của Lào, Việt Nam đã tăng cường thêm lực lượng chuyên gia chính
trị, kinh tế và văn hoá (nhất là chuyên gia kinh tế và văn hoá) để
giúp Lào một cách toàn diện, mà trước mắt là giúp xây dựng vùng
giải phóng về mọi mặt như quy mô một quốc gia. Năm 1964, tổng
số chuyên gia chính trị, kinh tế và văn hoá Việt Nam hỗ trợ cho
Lào là 279 người.
Nhiệm vụ của Đoàn chuyên gia chính trị, kinh tế và văn hoá
được Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quy định là: “Thực
hiện đường lối, chủ trương giúp bạn của Trung ương Đảng ta, theo
dõi, nghiên cứu giúp ý kiến với Trung ương bạn trong các chủ
trương, chính sách và kế hoạch công tác theo tình hình, đường lối,
phương châm của Đảng bạn”223. Nhiệm vụ này được xác định từ
tình hình cách mạng Lào và đề nghị của Trung ương Đảng Nhân
dân Lào trong thư của đồng chí Cayxỏn Phômvihản gửi Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam ngày 20 tháng 7 năm 1963: “Xây

223
. Nghị quyết của Ban Bí thƣ ngày 25 tháng 7 năm 1963. Dẫn theo Báo cáo
tổng kết 10 năm làm công tác chuyên gia giúp cách mạng Lào, lƣu tại Viện Lịch
sử quân sự Việt Nam, TK-636.
420
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

dựng đảng, đào tạo cán bộ, đặc biệt là củng cố, kiện toàn hệ thống
tổ chức lãnh đạo của Đảng; nghiên cứu một số chính sách cụ thể,
tổng kết một số kinh nghiệm; xây dựng lực lượng vũ trang về chính
trị, tư tưởng, đặc biệt là lực lượng du kích; củng cố, phát triển
phong trào du kích chiến tranh trong toàn quốc; giúp tổ chức thực
hiện xây dựng thí điểm, tổ chức các hội nghị chuyên đề rút kinh
nghiệm”.
Về phạm vi và phương pháp giúp, Trung ương Đảng Nhân dân
Lào xác định: giúp Trung ương, khu, tỉnh và một số huyện quan
trọng; giúp các ngành xung quanh Trung ương như Tuyên huấn, Tổ
chức, Dân vận, Quân sự, Kinh tế, Văn hoá, Công an...; “trường hợp
Lào chưa có người thì Việt Nam làm giúp, đồng thời cùng nhau ra
sức đào tạo cán bộ Lào”.
Từ năm 1964, Việt Nam đã cố gắng bố trí chuyên gia theo yêu
cầu trên của Lào. Để tăng cường hiệu lực giúp Lào, tháng 7 năm
1966, Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra nghị
quyết về chấn chỉnh và kiện toàn tổ chức giúp Lào, nhằm tập trung
các mặt công tác lớn giúp Lào thành một mối, trong đó giao cho
Ban Công tác miền Tây vừa nghiên cứu công tác Lào, vừa làm
chuyên gia giúp Đảng Nhân dân Lào. Về mặt chuyên gia, Ban
Công tác miền Tây cử một đoàn chuyên gia giúp Trung ương Lào,
đồng thời chịu trách nhiệm chỉ đạo lực lượng chuyên gia Việt Nam
ở các khu, tỉnh...
Để đảm bảo nguyên tắc về mối quan hệ giữa Việt Nam và Lào,
Nghị quyết xác định một trong những yêu cầu về kiện toàn tổ chức
là: “tổ chức giúp bạn của ta phải đảm bảo sự lãnh đạo tập trung
thống nhất của Trung ương ta trong công tác giúp bạn, đồng thời
bảo đảm cho các bộ phận chuyên gia của ta trực tiếp giúp bạn, tôn
trọng sự lãnh đạo độc lập và chủ quyền của bạn ở các cấp cũng như
421
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

hệ thống lãnh đạo của bạn từ trung ương đến các cấp”224.
Cùng với việc cử chuyên gia, Việt Nam còn giúp Lào về mọi
mặt để bạn có điều kiện vừa đánh địch, vừa phát triển vùng giải
phóng, đồng thời quy định trách nhiệm của các tỉnh thực hiện kế
hoạch giúp đỡ các tỉnh thuộc vùng giải phóng Lào xây dựng kinh
tế, phát triển văn hoá225.
Năm 1965, Việt Nam đã giúp Lào xây dựng đài phát thanh tại
Hoà Bình, đồng thời cải tiến bộ phận kỹ thuật của Đài Tiếng nói
Pathết Lào đang đặt tại Hà Nội. Bộ Thuỷ lợi đề ra phương hướng
viện trợ cho vùng giải phóng Lào trong hai năm 1966 - 1967, đó
là: nghiên cứu, khảo sát và xây dựng các đập nước nhỏ; nghiên
cứu xây dựng những trạm thuỷ điện nhỏ; cử các đoàn cán bộ khảo
sát thống kê các công trình tại các tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng,
Khăm Muộn, Xavẳnnakhệt, Xalavăn, áttapư...; triển khai xây
dựng các công trình có yêu cầu vật tư, cán bộ kỹ thuật viện trợ từ
Việt Nam sang; tích cực đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật cho
Lào...
Ngay trong quý I năm 1966, ngành thuỷ lợi cùng cán bộ, công
nhân Lào khởi công xây dựng 10 công trình thuỷ lợi nhỏ ở các
vùng thuộc ba tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng và Khăm Muộn để
bước đầu có thể tưới cho 2.500 ha ruộng. Đến cuối năm 1967, số
cán bộ ngành thuỷ lợi Việt Nam được điều sang giúp vùng giải
phóng Lào lên tới 339 người (không kể số công nhân được tạm
điều chuyển sang giúp xây dựng các công trình lớn).

224
. Nghị quyết số 144-NQ/TW tháng 7 năm 1966. Dẫn theo Báo cáo tổng kết
10 năm làm công tác chuyên gia giúp cách mạng Lào, lƣu tại Viện Lịch sử quân
sự Việt Nam, TK-636.
225
. Thông tƣ của Ban Bí thƣ, số 192-TT/TW, ngày 16 tháng 3 năm 1967. Dẫn
theo Báo cáo tổng kết 10 năm làm công tác chuyên gia giúp cách mạng Lào, lƣu
tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-636.
422
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Cũng trong ba tháng đầu năm 1966, ngành thương nghiệp, nông
nghiệp Việt Nam có năm đoàn cán bộ kỹ thuật sang vùng giải
phóng thuộc các tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng giúp phát triển các
ngành chăn nuôi, may mặc và sản xuất bánh kẹo. Bộ Giao thông đã
cử cán bộ, công nhân sang xây dựng quãng đường từ Sầm Nưa đi
Bạn Ban. Tháng 7 năm 1966, Việt Nam còn cử đoàn cán bộ tài
chính, thương nghiệp gồm sáu đồng chí, đi theo tuyến đường Vân
Nam - Trung Quốc để sang giúp các tỉnh Bắc Lào.
Đáp ứng yêu cầu của Lào, số chuyên gia các ngành của Việt
Nam được điều sang công tác ở Lào ngày càng tăng. Giữa năm
1965, tổng số chuyên gia Việt Nam ở Lào là 1.298 người; đến
tháng 6 năm 1966, số chuyên gia tăng lên 2.705 người226. Ngoài ra,
còn có khoảng 22.000 người thuộc các đơn vị chủ lực, tình nguyện,
công binh và hậu cần, cùng xấp xỉ 1.800 người thuộc các đội công
tác và các đội công nhân làm đường 42 (Phôngxalỳ), bảo dưỡng
đường 217 (Na Mèo - Sầm Nưa).
Trong kế hoạch hai năm 1966 - 1967, Việt Nam giúp đỡ Lào
xây dựng kinh tế, văn hoá trong vùng giải phóng, cụ thể là: xây
dựng trên 100 công trình lớn, nhỏ thuộc 15 ngành như nông nghiệp,
thuỷ lợi, giao thông, bưu điện, y tế, giáo dục, địa chất, tuyên huấn,
dệt; ngân sách dự chi trong hai năm 1966 - 1967 là 90 triệu đồng
(trong đó, sáu tháng đầu năm 1966 đã chi hết 20 - 25 triệu đồng);
lực lượng cán bộ, công nhân được điều sang xây dựng các ngành
kinh tế, văn hoá ở Lào tính đến cuối năm 1967 lên tới 15.000 người
(kể cả công binh).
Dưới ánh sáng Nghị quyết 13 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Nhân dân Lào về xây dựng vùng giải phóng toàn diện theo

. Cụ thể, gồm: dân - chính - đảng là 463 ngƣời; quân sự và nhân viên kỹ
226

thuật quân sự là 1.513 ngƣời; kinh tế, văn hoá là 466 ngƣời; phục vụ là 263
ngƣời.
423
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

mô hình một quốc gia, được sự giúp đỡ về mọi mặt của Việt Nam,
quân dân Lào đã xây dựng vùng giải phóng Lào không ngừng lớn
mạnh, trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Lào.
Việc cấp thiết đầu tiên trong xây dựng vùng giải phóng là xây
dựng chính quyền cách mạng và cơ quan Neo Lào Hắc Xạt các cấp.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh thành lập Chính phủ
liên hiệp, Trung ương Đảng Nhân dân Lào chủ trương không xây
dựng chính quyền ở cấp trung ương, mà chỉ xây dựng chính quyền
ở cấp tỉnh trở xuống. Uỷ ban Trung ương Neo Lào Hắc Xạt vừa
lãnh đạo công tác mặt trận, vừa quản lý điều hành các hoạt động
của đất nước. Chính quyền trong vùng giải phóng phải là chính
quyền đại diện cho nhân dân. Tháng 7 năm 1970, Trung ương Neo
Lào Hắc Xạt ra Chỉ thị về công tác bầu cử chính quyền cơ sở trong
vùng giải phóng, xác định: “Chính quyền trong khu giải phóng phải
do dân trong tàxẻng, bản bầu ra bằng phiếu bầu phổ thông, bình
đẳng, trực tiếp và phiếu kín. Mọi công dân Lào từ 18 tuổi trở lên
đều có quyền bầu cử và từ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử”. Đây là
bước tiến quan trọng của Lào trong công cuộc xây dựng vùng giải
phóng, thể hiện tính hơn hẳn của vùng giải phóng Lào, góp phần
tạo uy tín chính trị của Neo Lào Hắc Xạt đối với nhân dân Lào và
nhân dân thế giới.
Bên cạnh việc thiết lập chính quyền cách mạng, về chính trị,
Đảng Nhân dân Lào hết sức quan tâm xây dựng ý thức quốc gia,
dân tộc thống nhất, tinh thần đoàn kết giữa các bộ tộc; chú trọng
giáo dục quan điểm giai cấp đúng đắn để xoá dần sự cách biệt giữa
các bộ tộc, thực hiện quyền bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau; quan
tâm xoá bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột trong các nhóm dân tộc
ít người, đưa nhiều tù trưởng, tộc trưởng có năng lực, uy tín vào cơ
quan Neo Lào Hắc Xạt các cấp.
424
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Cùng với việc chăm lo xây dựng đội ngũ đảng viên227, Đảng
Nhân dân Lào hết sức chú trọng củng cố, phát triển khối đoàn kết
liên minh công nông, chú trọng xây dựng các tổ chức quần chúng
nhằm vận động mọi tầng lớp thanh niên, phụ nữ, sư sãi... tham gia
kháng chiến. Thông qua chính quyền cách mạng và các tổ chức
quần chúng, nhân dân các bộ tộc Lào ngày càng tham gia tích cực
vào việc xây dựng vùng giải phóng. Phong trào du kích được đẩy
mạnh, mạng lưới du kích phát triển rộng, lực lượng phụ nữ tham
gia du kích ngày càng đông. Nhân dân các bộ tộc Lào đóng góp
hàng chục vạn ngày công để phục vụ các chiến dịch. Du kích trở
thành lực lượng quan trọng bảo vệ làng bản, bảo vệ vùng giải
phóng. Nhiều khu du kích liên hoàn ra đời, như ở Xiêng Khoảng,
Sầm Nưa, Phôngxalỳ, áttapư, Xalavăn, Viêng Chăn Tây, Viêng
Chăn Đông, Uđômxay228..., hình thành thế cài răng lược, liên kết
chặt chẽ với nhau, tạo thế vững chắc cho căn cứ Trung ương.
Về kinh tế, Đảng Nhân dân Lào chú trọng phát triển sản xuất
nông nghiệp ở vùng giải phóng. Chuyên gia Việt Nam cùng cán bộ
Lào đi vào từng bản làng phát động nhân dân đẩy mạnh tăng gia sản
xuất, đồng thời tích cực đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi,
thuỷ điện nhỏ, các phòng thí nghiệm phục vụ sản xuất và hướng dẫn
nhân dân áp dụng kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp. Trong
hai năm 1966 - 1967, vùng giải phóng Lào đã xây dựng được 25
công trình thuỷ điện, thuỷ lợi nhỏ ở các tỉnh Hủa Phăn, Xiêng

. Lực lƣợng đảng viên cũng phát triển không ngừng: từ năm 1959 đến 1965,
227

Lào đã phát triển đƣợc hàng ngàn đảng viên, cơ sở đảng ở căn cứ đƣợc củng cố.
Trong số 5.681 bản ở Nam Lào, có 2.082 bản đƣợc giải phóng; 3.343 bản có cơ sở,
chiếm 58,8%; số bản có đảng viên là 1.925, chiếm 22,79%.
228
. Đến năm 1968, ta đã có 44.313 du kích, trong đó có 8.350 nữ du kích. Du
kích đã phối hợp với bộ đội địa phƣơng đánh 1.052 trận, loại khỏi vòng chiến
đấu 5.149 tên địch. Dẫn theo Biên niên sự kiện Lào, lƣu tại Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam, TK-937, tr.228.
425
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Khoảng, Khăm Muộn, Xavẳnnakhệt, Xalavăn, áttapư, bảo đảm tưới


cho 3.452 ha ruộng, đồng thời còn vận động nhân dân làm thuỷ lợi
nhỏ nhằm đảm bảo nước cho những vùng đồng ruộng nhỏ hẹp.
Do có sự quan tâm thích đáng cho sản xuất nông nghiệp, diện
tích trồng trọt và năng suất lúa, cây hoa màu ở vùng giải phóng Lào
tăng lên đáng kể, đời sống nhân dân được cải thiện, sự đóng góp
của nhân dân cho cách mạng cũng tăng lên. Trong hai năm 1966 -
1967, nhân dân tại chín tỉnh trong vùng giải phóng đã đóng góp
5.472 tấn thóc (đạt 99,8% kế hoạch), bán cho chính quyền 2.883
tấn lương thực (đạt 64,9% kế hoạch). Việc đóng góp thóc cứu nước
là một thành công bước đầu của đường lối xây dựng kinh tế trong
vùng giải phóng của Đảng Nhân dân Lào, đồng thời cũng thể hiện
tính ưu việt của chế độ mới ở vùng giải phóng.
Cùng với nông nghiệp, Việt Nam còn giúp Lào phục hồi phát
triển tiểu thủ công nghiệp để đáp ứng một phần nhu cầu sản xuất,
chiến đấu; xây dựng một số cơ sở công nghiệp nhẹ, như xí nghiệp
dệt vải, dệt kim, may mặc, sửa chữa ôtô, chế biến gỗ, luyện thép,
sản xuất bánh kẹo, dược phẩm...; giúp tổ chức mạng lưới thương
nghiệp từ trung ương đến địa phương. Nhiều mặt hàng lâm - thổ
sản truyền thống được khuyến khích khai thác để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng và xuất khẩu, trao đổi các mặt hàng công nghiệp cần
thiết. Nhiều cửa hàng của nhà nước được xây dựng, mậu dịch biên
giới với Việt Nam không ngừng phát triển.
Về giao thông, được sự giúp đỡ của Việt Nam, nhân dân Lào đã
xây dựng xong tuyến đường Sầm Nưa đi Bạn Ban, dài 158 km.
Tuyến đường này không chỉ phục vụ công tác vận chuyển cho
chiến trường Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, mà còn thỏa mãn
nhu cầu dân sinh và phát triển kinh tế ở vùng giải phóng.
Trên lĩnh vực văn hoá - giáo dục, Đảng Nhân dân Lào đã ban
hành nghị quyết về chuyển hướng giáo dục (tháng 5 năm 1967),
426
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

trong đó chỉ ra vị trí, chức năng quan trọng của công tác giáo dục
trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời xác định: công tác giáo dục -
đào tạo phải góp phần bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, cán bộ khoa học,
nâng cao nhận thức cho thanh niên, đào tạo họ trở thành các cán bộ,
chiến sĩ cách mạng; giáo dục còn là công cụ nâng cao giác ngộ cách
mạng cho quần chúng, góp phần đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời
sống của toàn xã hội; văn hoá cánh mạng là công cụ đấu tranh
chống lại nền giáo dục nô dịch của đế quốc, phong kiến.
Mặc dù điều kiện chiến tranh hết sức ác liệt, nhưng do có sự
quan tâm lãnh đạo của Đảng Nhân dân Lào và sự giúp đỡ của Việt
Nam mà trực tiếp là đội ngũ chuyên gia giáo dục, sự nghiệp văn hoá -
giáo dục ở vùng giải phóng Lào không ngừng phát triển. Số trường
phổ thông và bổ túc được tăng lên, từng bước xoá bỏ nạn mù chữ.
Tính đến năm 1967, vùng giải phóng đã có 400 trường cấp I, cấp II
với 36.000 học sinh và khoảng 1.500 giáo viên, gồm đủ các dân tộc.
Việt Nam còn giúp Lào xây dựng một số trường dạy nghề sơ
cấp và trung cấp, đào tạo dạy nghề, trung học và đại học nhằm tạo
nguồn cán bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và quản lý đất nước sau
này. Tính đến tháng 8 năm 1966, Việt Nam đã giúp đào tạo tại Việt
Nam 2.520 học sinh, sinh viên Lào, trong đó có 1.200 người được
đào tạo kiến thức quân sự; 640 học sinh phổ thông (cấp I, II và III);
215 sơ cấp chuyên nghiệp, 372 trung cấp chuyên nghiệp; 82 học
sinh ngành nghệ thuật; 11 sinh viên đại học các ngành. Đây là sự
giúp đỡ hết sức quý báu của Việt Nam, đồng thời là nỗ lực to lớn
của Đảng Nhân dân Lào trong thực hiện chiến lược xây dựng và
phát triển đội ngũ cán bộ phục vụ cho việc xây dựng, củng cố vùng
giải phóng.
Việt Nam cũng giúp Lào trong phát triển văn hoá, văn nghệ
cách mạng. Trên cơ sở phát huy tinh hoa văn hoá dân tộc, đội ngũ
văn nghệ sĩ cách mạng Lào đã phát huy sáng tạo, phản ánh sinh
427
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

động hoạt động sản xuất và chiến đấu của quân dân bằng nhiều
hình thức phong phú, góp phần tích cực tuyên truyền giác ngộ, cổ
vũ nhân dân. Nhiều tác phẩm văn hoá - văn nghệ xuất sắc ra đời,
sống mãi trong tâm trí nhiều thế hệ. Từ năm 1965 đến 1968, Nhà
xuất bản Neo Lào Hắc Xạt đã phát hành hàng trăm tác phẩm lý
luận, chính trị, thơ ca, truyện ký, phổ biến khoa học kỹ thuật... Báo
chí, đài phát thanh hoạt động thường xuyên và có hiệu quả.
Về y tế, Việt Nam giúp Lào tổ chức mạng lưới y tế từ trung
ương xuống đến xã, vừa làm nhiệm vụ chữa bệnh vừa hướng dẫn
nhân dân phòng bệnh có kết quả. Nhiều bệnh viện, trạm xá được
xây dựng; nhiều xã đã có trạm xá, nhiều bản có tủ thuốc chữa bệnh
và y tá tại chỗ.
Những thành tựu về xây dựng kinh tế, văn hoá - xã hội và xây
dựng chính quyền dân chủ nhân dân trong vùng giải phóng đã góp
phần nâng cao đời sống vật chất - tinh thần cho nhân dân các bộ tộc
Lào, tạo ra những biến đổi sâu sắc trong quan hệ xã hội: nhân dân
đã bước đầu ý thức được mình là người làm chủ đất nước, làm chủ
bản làng, đặc biệt là ý thức dân tộc, ý thức quốc gia ngày càng
được củng cố vững chắc, chính vấn đề đó đã góp phần tạo nên sức
mạnh đoàn kết các bộ tộc Lào. Nhân dân Lào đã ý thức được phải
có trách nhiệm với cuộc đấu tranh chung của cả dân tộc. Thắng lợi
của việc xây dựng chế độ mới của Đảng Nhân dân Lào đã củng cố
vững chắc lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp cách mạng do Đảng
lãnh đạo.
Phát triển mạng lưới đường tây Trường Sơn góp phần đánh bại
chiến lược Chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam
Từ sau khi chuyển toàn bộ hoạt động sang tuyến tây Trường
Sơn trên đất Lào (tháng 1 năm 1964), Đoàn 559 đã tổ chức nghiên
cứu, phát triển mạng lưới đường cơ giới nhằm tăng cường xe
hoạt động trên tuyến, bảo đảm vận chuyển một khối lượng hàng
428
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

lớn gấp ba lần năm 1963 và bảo đảm cho bộ đội hành quân vào
chiến trường tăng gấp hai lần. Đoàn đã tổ chức được đội vận tải ôtô
264 chạy cung Mương Phin - Xê Pôn; bắt đầu mở đường vận tải cơ
giới từ Mương Noòng đi Bạc. Việc vận chuyển cho miền Nam có
điều kiện thuận lợi hơn, các trung đoàn chủ lực có thể hành quân
theo đường tây Trường Sơn vào chiến trường Tây Nguyên, rồi tiến
sâu vào các chiến trường khác để chiến đấu dài ngày.
Đến giữa tháng 3 năm 1965, Đoàn 559 được tăng cường khá
toàn diện cả về lực lượng, phương tiện vận tải cơ giới và phương
tiện thi công cầu đường. Được sự giúp đỡ của quân và dân Lào,
đường 559 từ tây Trường Sơn đến Tây Nguyên được củng cố và
thường xuyên thông suốt. Đa phần việc vận tải hàng qua đường tây
Trường Sơn trên đất Lào vào đến Tây Nguyên đã sử dụng phương
tiện cơ giới. Đầu năm 1966, Tổng cục Hậu cần tổ chức hai đoàn xe
chở 1.000 tấn đạn từ Hà Nội vào tàxẻng Hạ Lào (khu vực ngã ba
biên giới). Chuyến vận tải này khẳng định rằng việc vận chuyển
hàng hoá từ miền Bắc theo đường tây Trường Sơn trên đất Lào đến
cửa ngõ Tây Nguyên đã có thể thực hiện hoàn toàn bằng phương
tiện cơ giới. Không dừng lại ở đây, bộ đội Đoàn 559 còn mở đường
128 vận chuyển cơ giới từ tàxẻng vào nam đường 19 và các đường
hành lang chạy xuống phía đông. Đây là những điều kiện quyết
định đối với hoạt động tác chiến lớn ở chiến trường Tây Nguyên và
chiến trường Khu 5 Việt Nam.
Do có sự chi viện mạnh mẽ của miền Bắc, lực lượng vũ trang
ba thứ quân Việt Nam ở chiến trường Khu 5, Nam Bộ và đặc biệt là
Tây Nguyên đã có bước phát triển hơn hẳn. Các căn cứ kháng chiến
của hai nước Việt Nam, Lào dọc hành lang chiến lược tây Trường
Sơn phát triển mạnh. Riêng ở Tây Nguyên, lực lượng chủ lực đã có
bốn trung đoàn bộ binh, một tiểu đoàn đặc công, một tiểu đoàn
pháo cối, một tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7 mm.
Do có lực lượng lớn mạnh và có căn cứ đứng chân trên đất Lào
429
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

nên ngay khi quân Mỹ vừa nhảy vào miền Nam, Mặt trận Tây
Nguyên đã quyết định mở chiến dịch Plâyme (từ ngày 19 tháng 10
đến 26 tháng 11 năm 1965), ở khu vực từ Bầu Cạn - Plâyme đến
Đức Cơ - Ia Đrăng, vùng rừng núi gần ngã ba biên giới, nhằm đánh
đòn phủ đầu quân chủ lực Mỹ. Lực lượng tham gia chiến dịch có
bốn trung đoàn bộ binh cùng một số tiểu đoàn hoả lực, đặc công,
trong đó có trung đoàn được huấn luyện cơ bản ở miền Bắc, vừa
hành quân theo đường tây Trường Sơn vào đến vùng căn cứ ngã ba
biên giới. Trong chiến dịch, bộ đội Việt Nam, với cách đánh thông
minh, sáng tạo, qua 38 ngày đêm chiến đấu, đã loại khỏi vòng
chiến đấu khoảng 2.900 tên địch (trong đó có 1.700 tên Mỹ), phá
huỷ 88 xe quân sự, 5 pháo, bắn rơi 59 máy bay.
Chiến dịch Plâyme là chiến dịch đánh Mỹ đầu tiên của Mặt trận
Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ. Chiến dịch thể hiện
trình độ, khả năng đánh lớn của bộ đội Tây Nguyên đã có bước
phát triển mới, đồng thời cũng thể hiện sự chi viện lớn của miền
Bắc đối với Tây Nguyên và miền Nam, cũng như sự giúp đỡ vô giá
của nhân dân Lào đối với cuộc chiến đấu ở vùng rừng núi Tây
Nguyên (bộ đội Việt Nam sau khi đánh địch đã rút quân an toàn về
căn cứ ở vùng rừng núi Hạ Lào, trước sự truy quét điên cuồng của
Sư đoàn kỵ binh bay Mỹ).
Cay cú vì với lực lượng quân sự hùng hậu, phương tiện hiện đại
nhưng không thể “tìm diệt” được bộ đội chủ lực Việt Nam ở vùng
ngã ba biên giới, đế quốc Mỹ đã sử dụng máy bay B52 oanh tạc
vùng giải phóng Lào và trắng trợn tuyên bố: quân đội Mỹ từ miền
Nam Việt Nam có quyền bất cứ lúc nào cũng có thể bắn phá và xâm
phạm lãnh thổ Lào với lý do là để “tự vệ” và “truy kích Việt cộng”.
Trước hành động trên của Mỹ, ngày 17 tháng 1 năm 1966,
Trung ương Neo Lào Hắc Xạt ra tuyên bố cực lực lên án âm mưu
và hành động của Mỹ. Yêu cầu Mỹ phải từ bỏ âm mưu đưa lục
430
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

quân Mỹ vào Lào và chấm dứt các hành động ném bom bắn phá
vùng giải phóng Lào. Đồng thời, Trung ương Neo Lào Hắc Xạt
cũng đòi chính quyền Viêng Chăn phải ngừng chiến dịch vu khống
Neo Lào Hắc Xạt và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà229.
Sau chiến thắng Plâyme, từ cuối năm 1965, Mặt trận Tây
Nguyên Việt Nam thành lập Sư đoàn bộ binh 1. Đến năm 1967,
khối chủ lực của Tây Nguyên tổ chức thành một sư đoàn và bốn
trung đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo binh hỗn hợp. Do có sự
chi viện lớn của miền Bắc và căn cứ đứng chân ở Hạ Lào, trong
giai đoạn này, Tây Nguyên đã tổ chức nhiều chiến dịch quy mô từ
một sư đoàn đến gần hai sư đoàn, như: chiến dịch Sa Thầy 1 (năm
1966), quy mô một sư đoàn tăng cường; chiến dịch Sa Thầy 2 (năm
1967), lực lượng gồm một sư đoàn và hai trung đoàn bộ binh cùng
trung đoàn pháo binh; chiến dịch Đắc Tô (năm 1967), quy mô một
sư đoàn và hai trung đoàn bộ binh... Các chiến dịch này đều đã
giành thắng lợi vang dội, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện
chiến tranh của Mỹ, đồng thời góp phần nâng cao khả năng tác
chiến hiệp đồng binh chủng của bộ đội chủ lực trên chiến trường
Tây Nguyên.
Tại Lào, năm 1965, Pathết Lào và quân tình nguyện Việt Nam
đã đánh 1.840 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 9.277 tên,
trong đó bắt 2.662 tên, thu 2.566 súng các loại, phá 7 xe, 108 máy
vô tuyến điện, bắn rơi 218 máy bay các loại. Đặc biệt, từ tháng 7
đến tháng 12 năm 1965, các chuyên gia, quân tình nguyện Việt
Nam cùng bộ đội và nhân dân các tỉnh Xalavăn, Xavẳnnakhệt,
Xiêng Khoảng, Hủa Phăn, Phôngxalỳ, Luổng Phạbang, Uđômxay

. Tuyên bố ngày 17 tháng 1 năm 1966 của Trung ƣơng Neo Lào Hắc Xạt.
229

Tài liệu lƣu trữ tại Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng, phông số 82, đơn vị bảo
quản 1049.
431
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

đã tuyên truyền, vận động được hàng trăm phỉ, giải phóng 16.000
dân khỏi sự kìm kẹp của địch. Những tháng cuối năm 1965, Bộ Tư
lệnh Quân khu 4 Việt Nam đã điều Tiểu đoàn 3 thuộc Sư đoàn 341
sang tỉnh áttapư (Hạ Lào), Tiểu đoàn 4 sang Trung Lào phối hợp
với Đoàn chuyên gia quân sự và quân tình nguyện 565 giúp xây
dựng, bảo vệ vùng giải phóng, xây dựng lực lượng vũ trang.
Tháng 7 năm 1966, trước tình hình địch tăng cường các hoạt
động quân sự uy hiếp căn cứ địa Sầm Nưa, Bộ Tổng Tham mưu
Quân đội nhân dân Việt Nam cử hai trung đoàn quân tình nguyện
sang Sầm Nưa và Xiêng Khoảng làm nhiệm vụ giúp Lào tổ chức
lực lượng phòng thủ dài ngày, bảo vệ vững chắc và mở rộng vành
đai vùng giải phóng Sầm Nưa. Đoàn 766 gồm hai tiểu đoàn bộ
binh, một tiểu đoàn pháo phòng không 37 mm, đặt dưới sự chỉ đạo,
chỉ huy của Bộ Chỉ huy tối cao Quân giải phóng nhân dân Lào, có
nhiệm vụ cùng lực lượng vũ trang Lào đánh địch lấn chiếm Sầm
Nưa, chống không quân địch oanh tạc, truy quét phỉ, trừ gian, củng
cố cơ sở, bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở khu vực Viêng Xây, Na
Kay. Đoàn 866 gồm hai tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo cao
xạ 37 mm và hai đội công tác, có nhiệm vụ bảo vệ hành lang đường
6 và đường 4.
Cũng trong năm 1966, Bộ Tổng Tham mưu còn cử Trung đoàn
công binh 217 sang giúp Lào bảo đảm giao thông, mở đường mới
và xây dựng các công trình bảo đảm an toàn cho các lãnh tụ và các
cơ quan trung ương Lào tại căn cứ Na Kay. Với lực lượng gồm tám
tiểu đoàn (hơn 5.000 người), trong điều kiện địch thường xuyên
ném bom đánh phá và sử dụng lực lượng phỉ, biệt kích đến phá
hoại, trung đoàn đã xây dựng, sửa chữa, bảo đảm giao thông trên
tám tuyến đường với chiều dài 647 km, thuộc hai tỉnh Hủa Phăn và
Xiêng Khoảng, Tiểu đoàn 6 của trung đoàn được giao nhiệm vụ
xây dựng các công trình phòng thủ vĩnh cửu của trung ương. Trong
432
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

suốt sáu năm khoét núi, xây hầm, tiểu đoàn đã xây dựng được 51
công trình lớn nhỏ, cải tạo nhiều hang động, bảo đảm an toàn cho
hoạt động của các đồng chí lãnh đạo và cơ quan trung ương.
Về tác chiến, đầu năm 1966, quân tình nguyện Việt Nam cùng
bộ đội Lào đã đánh lui cuộc hành quân “In Ta” của địch càn vào
khu vực Lao Ngam - Thà Teng và bắc cao nguyên Bôlavên; đánh
bại cuộc càn của địch vào khu vực Phu Văng, tỉnh Khăm Muộn.
Tại mặt trận Phu Cút, lực lượng vũ trang hai nước đã đẩy lùi
nhiều cuộc tiến công của địch, diệt gần 600 tên, giữ vững điểm
cao Phu Cút, cánh cửa phía tây của Cánh đồng Chum - Xiêng
Khoảng. Từ ngày 4 tháng 2 đến 24 tháng 4 năm 1966, quân giải
phóng nhân dân Lào phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam
đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của ba binh đoàn quân
Phumi Nòxavẳn cấu kết với quân Koongle, giữ vững được khu
chiến lược Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng.

3. Cùng quân dân Lào phát triển lực lượng, đẩy mạnh
phong trào đấu tranh về mọi mặt
Nhằm thắt chặt quan hệ giữa hai Đảng hơn nữa, tháng 8 năm
1967, Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân
Lào do đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Cayxỏn Phômvihản dẫn đầu,
đã tiến hành hội đàm tại Hà Nội. Trong cuộc hội đàm, Đoàn đại
biểu Đảng Nhân dân Lào khẳng định: từ sau cuộc hội đàm giữa hai
Đảng (năm 1965), mặc dù Việt Nam có nhiều khó khăn do Mỹ tăng
cường chiến tranh ở miền Nam, đánh phá ác liệt ở miền Bắc, nhưng
Đảng và nhân dân Việt Nam đã cố gắng rất lớn để giúp Đảng và
nhân dân Lào xây dựng, củng cố vùng giải phóng, chống các cuộc
tấn công lấn chiếm của địch... Về phương pháp giúp trong hai năm
cũng có nhiều tiến bộ.
Để thực hiện nhiệm vụ trong ba năm tới, hai Đảng thống nhất
433
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

cần tiếp tục giúp đỡ Lào đẩy mạnh tiến công cả về quân sự, chính
trị và xây dựng kinh tế, văn hoá. Trong quân sự, chú trọng giúp Lào
xây dựng bộ đội đặc công, bộ đội địa phương, dân quân du kích,
xây dựng tổ tình báo chiến lược. Trong kinh tế, giúp xây dựng thêm
một số công trình thuỷ lợi, chăn nuôi, phát triển cây công nghiệp,
một số cơ sở công nghiệp địa phương như dệt, rèn, cơ khí... Việt
Nam sẽ nỗ lực tối đa để đáp ứng các yêu cầu của cách mạng Lào.
Sau cuộc hội đàm, ngày 10 tháng 10 năm 1967, Bộ Chính trị
Đảng Lao động Việt Nam ra nghị quyết tăng cường giúp đỡ cách
mạng Lào. Sau khi phân tích vị trí chiến lược của Lào, mối quan hệ
láng giềng gắn bó về nhiều mặt giữa hai dân tộc trong lịch sử, trong
cuộc chiến đấu chống đế quốc xâm lược, Bộ Chính trị xác định:
nhiệm vụ giúp cách mạng Lào là nhiệm vụ quốc tế quan trọng nhất
của Đảng; cán bộ, chiến sĩ Việt Nam sang trực tiếp giúp cách mạng
Lào đã được Đảng và nhân dân Lào đánh giá cao, đã góp phần tăng
cường tình hữu nghị giữa hai dân tộc; tuy nhiên, bên cạnh những
ưu điểm, cũng có một số nhược điểm như sự giúp đỡ chưa đầy đủ
về các mặt, quân số lớn nhưng chất lượng không đều, giúp xây
dựng kinh tế, văn hoá còn chậm.
Trước sự phát triển của tình hình, Bộ Chính trị chủ trương kiên
quyết huy động thêm lực lượng để đẩy mạnh công tác giúp cách
mạng Lào nhằm giúp Đảng Nhân dân Lào phát triển lực lượng, đẩy
mạnh phong trào đấu tranh về mọi mặt một cách mạnh mẽ và đều
khắp. Bộ Chính trị đã xác định một số việc trước mắt cần giải quyết
là: phát huy đến mức cao nhất khả năng của đội ngũ chuyên gia;
tích cực giúp Lào phát triển kinh tế, văn hoá, coi đó là khâu đòn
bẩy quan trọng nhất trong việc xây dựng vùng giải phóng, củng cố,
tăng cường lực lượng cách mạng Lào về mọi mặt; cải tiến hơn nữa
các tổ chức giúp Lào nhằm giúp Trung ương và Quân uỷ Trung
ương chỉ đạo công tác, phát huy được hiệu lực của các lực lượng
434
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

sang giúp Lào.


Tại Lào, trong năm 1967, Đoàn chuyên gia quân sự 959 đã giúp
Tổng Quân uỷ và Bộ Chỉ huy tối cao Lào triệu tập Hội nghị cán bộ
quân chính trong toàn quân tại Na Kay - Sầm Nưa (từ ngày 20 đến
30 tháng 7 năm 1967). Đồng chí Cayxỏn Phômvihản và đồng chí
Khăm Tày Xiphănđon chủ trì hội nghị. Trong hội nghị, Tổng Quân
uỷ và Bộ Chỉ huy tối cao Lào chủ trương phải hết sức coi trọng xây
dựng chất lượng chính trị, nâng cao bản chất của quân đội cách
mạng, nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, phấn đấu trở thành
“Đơn vị ba giỏi”, “Chiến sĩ ba giỏi”230. Tăng cường sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng đối với quân đội. Trước
yêu cầu phát triển lực lượng vũ trang cách mạng trong giai đoạn
mới, hội nghị thống nhất đổi tên bộ đội Pathết Lào thành Quân đội
giải phóng nhân dân Lào. Đồng chí Khăm Tày Xiphănđon được cử
làm tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang.
Sau hội nghị, Đoàn chuyên gia quân sự 959 tiếp tục cử một số
chuyên gia cùng cán bộ Lào xuống các đơn vị giúp Lào nghiên cứu
chiến trường, chuẩn bị các phương án tác chiến và bố trí lực lượng
sẵn sàng chiến đấu. Các đoàn chuyên gia và quân tình nguyện Việt
Nam, theo địa bàn và nhiệm vụ được giao, tiếp tục giúp Lào tổ
chức xây dựng lực lượng vũ trang, đánh địch bảo vệ vùng giải
phóng, củng cố chính quyền cách mạng.
Về phía địch, bị thất bại liên tiếp trong mùa khô 1965 - 1966,
đế quốc Mỹ vẫn không từ bỏ âm mưu xâm lược Lào. Chúng tăng
cường viện trợ quân sự và hối thúc bọn tay sai tiếp tục mở các cuộc
hành quân lấn chiếm vùng giải phóng. Từ tháng 8 năm 1967, dưới
sự hối thúc của Mỹ, quân nguỵ Lào đã mở cuộc tiến công lấn chiếm

. Tiêu chuẩn “Đơn vị ba giỏi” và “Chiến sĩ ba giỏi”: chiến đấu giỏi, xây
230

dựng cơ sở giỏi và tăng gia sản xuất giỏi.


435
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Nặm Bạc, một vùng đất đông dân, có vị trí chiến lược, nằm dọc
sông Nặm U, thuộc tỉnh Luổng Phạbang, nhằm biến nơi đây thành
căn cứ lâu dài, bảo vệ Luổng Phạbang, mở rộng và phát triển vùng
hoạt động của bọn phỉ, thu hẹp, chia cắt vùng giải phóng Thượng
Lào và uy hiếp vùng Tây Bắc Việt Nam. Địch đã thể nghiệm
phương thức tác chiến mới: tập trung các binh đoàn quân nguỵ
Viêng Chăn làm lực lượng tiến công và chiếm đóng, kết hợp với
“lực lượng đặc biệt” của Vàng Pao đóng chốt trên các điểm cao,
cắm sâu vào vùng giải phóng. Công thức này đã được thể hiện
trong các cuộc hành quân Thêvađa I, II ở Hạ Lào nhưng với quy
mô nhỏ, nên Mỹ coi Nặm Bạc là chiến trường thể nghiệm quan
trọng. Sau khi chiếm được Nặm Bạc, quân địch tổ chức nống ra
xung quanh để mở rộng phạm vi kiểm soát. Chúng tập trung ở đây
10 tiểu đoàn bộ binh của các binh đoàn 11, 12, 15, 23 và Tiểu đoàn
dù 99. Trước khi ta tiến công, địch còn tăng thêm hai binh đoàn và
một số đơn vị pháo binh.
Nhận thấy đây là cơ hội diệt quân chủ lực địch, tạo điều kiện
giúp Lào mở rộng vùng giải phóng, xây dựng và phát triển lực
lượng, đồng thời để nghi binh tạo điều kiện cho chiến trường miền
Nam Việt Nam chuẩn bị Tổng tiến công Mậu Thân 1968 và đẩy
địch ra xa vùng biên giới Tây Bắc Việt Nam, Bộ Quốc phòng Việt
Nam và Bộ Chỉ huy quân giải phóng Lào quyết định mở chiến
dịch tiến công giải phóng Nặm Bạc. Bộ Chỉ huy chiến dịch gồm:
đồng chí Vũ Lập, Tư lệnh Quân khu Tây Bắc làm tư lệnh; đồng
chí Huỳnh Đắc Hương, Phó Chính uỷ Quân khu làm chính uỷ.
Phía Lào có đồng chí Xỉxổmphon Lòvănxay, ủy viên Trung ương
Đảng Nhân dân Lào, thay mặt Quân uỷ tham gia Bộ Tư lệnh chiến
dịch.
436
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Ngày 12 tháng 1 năm 1968, bộ đội Việt - Lào231 bắt đầu tiến
công vào tập đoàn cứ điểm Nặm Bạc. Sau 10 ngày chiến đấu, chiến
dịch Nặm Bạc toàn thắng, loại khỏi vòng chiến đấu 3.200 tên, trong
đó bắt sống 2.000 tên (có 84 sĩ quan, 335 hạ sĩ quan); đánh thiệt hại
nhiều binh đoàn; bắn rơi, phá huỷ 14 máy bay, thu nhiều vũ khí;
giải phóng hoàn toàn khu vực Nặm Bạc - Khăm Đeng với trên một
vạn dân, nối liền vùng giải phóng Thượng Lào thành khu vực liên
hoàn, tạo thế vững chắc cho hậu phương cách mạng Lào. Cũng
trong thời gian này, bộ đội Lào - Việt Nam còn tiến công giải quyết
xong ổ phỉ lâu đời ở Phả Thí, loại khỏi vòng chiến đấu 812 tên (cả
đợt), diệt đài rađa dẫn đường cho máy bay Mỹ ném bom vùng giải
phóng Lào và miền Bắc Việt Nam (đài TACAN).
Chiến thắng Nặm Bạc đã phá tan căn cứ chiến lược và kế hoạch
tiến công vùng giải phóng của quân nguỵ Lào, đánh dấu sự lớn
mạnh về trình độ tác chiến của quân đội giải phóng nhân dân Lào,
góp phần làm thay đổi một bước quan trọng tương quan lực lượng
có lợi cho cách mạng Lào, đồng thời còn có ý nghĩa nghi binh, phối
hợp với chiến trường miền Nam Việt Nam trong Tổng tiến công
Mậu Thân 1968.
Sau Tổng tiến công Mậu Thân 1968 ở Việt Nam, trước những
yêu cầu mới trên chiến trường ba nước Đông Dương, để đáp ứng
nhiệm vụ tác chiến trên địa bàn Trung - Hạ Lào, cũng như nhiệm vụ
bảo vệ vững chắc tuyến vận tải chiến lược tây Trường Sơn, Quân ủy
Trung ương, Bộ Quốc phòng hai nước Việt Nam - Lào thống nhất
chủ trương kiện toàn các lực lượng chuyên gia quân sự và quân tình
nguyện Việt Nam ở Nam Lào, phát triển lên một bước mới để đủ sức
hoàn thành các nhiệm vụ chiến lược đang đặt ra.

. Phía Lào có Tiểu đoàn 409 và đại đội địa phƣơng Luổng Phạbang; phía
231

Việt Nam có Sƣ đoàn 316, Trung đoàn 5, Trung đoàn 335.


437
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Theo chủ trương đó, ngày 28 tháng 6 năm 1968, Bộ Tổng


Tham mưu ra Quyết định số 98/TM-QĐ tách Đoàn chuyên gia
quân sự và quân tình nguyện Việt Nam 565 tại Nam Lào thành hai
lực lượng: lực lượng chuyên gia quân sự mang phiên hiệu Đoàn
565 trực thuộc Đoàn chuyên gia quân sự 959 (Lào) và lực lượng
quân tình nguyện Nam Lào mang phiên hiệu Đoàn 968 trực thuộc
Quân khu 4 (Việt Nam). Biên chế các cơ quan Đoàn 565 cơ bản
vẫn giữ nguyên các phòng ban. Bộ Chỉ huy Đoàn 968 ban đầu có
các đồng chí: Thượng tá Hà Tuấn Khanh (phụ trách Tư lệnh),
Thượng tá Phạm Sinh (Chính uỷ). Các đơn vị tình nguyện thuộc Bộ
Tư lệnh Đoàn 968 gồm năm tiểu đoàn bộ binh (1, 2, 3, 4, 5), Đại
đội S4 đặc công, Đại đội 5 cao xạ, Đại đội 6 pháo hỗn hợp... và Đội
điều trị 49 quân y.
Về phía Lào, ngày 3 tháng 8 năm 1968, Trung ương Đảng
Nhân dân Lào họp Hội nghị lần thứ 16 đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh
kháng chiến trong thời gian tới, trong đó nhấn mạnh: quân và dân
Lào phải tiếp tục tấn công địch, ra sức xây dựng và bảo vệ vùng
giải phóng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở vùng địch hậu, mở
rộng đấu tranh cả ba mặt quân sự, chính trị, ngoại giao để củng cố
thắng lợi đã giành được, nỗ lực vươn lên giành thắng lợi có tính
chất quyết định...
Trên chiến trường, phối hợp với cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy Mậu Thân, Xuân Hè 1968 ở miền Nam Việt Nam, quân và dân
Lào cũng giành được thắng lợi to lớn, toàn diện, làm thay đổi so
sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra một tình thế mới có lợi cho
cách mạng Lào. Trên địa bàn Nam Lào, vùng giải phóng dọc tuyến
hành lang chiến lược được giữ vững và mở rộng, nối thông với các
vùng giải phóng của Việt Nam ở Quảng Trị, Thừa Thiên, tạo điều
kiện cho công tác vận chuyển phát triển sâu vào các chiến trường.
Tại Xiêng Khoảng, địch bị mất Thà Thôm, Thà Viêng. Trên bốn tỉnh
438
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Bắc Lào, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân dân Lào
tiễu phỉ, bảo vệ vùng giải phóng, đồng thời tiến hành đánh giao
thông trên sông Mê Công.
Năm 1968 kết thúc bằng cuộc hội đàm giữa hai Đảng tại Hà
Nội vào tháng 12. Đoàn đại biểu Đảng Nhân dân Lào gồm các
đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Nủhắc Phumxavẳn, Xuphanuvông,
Khăm Tày Xiphănđon và Phumi Vôngvichít; Đoàn đại biểu Đảng
Lao động Việt Nam gồm các đồng chí Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp,
Nguyễn Duy Trinh và Lê Văn Lương. Trong cuộc hội đàm, đồng
chí Cayxỏn Phômvihản đã khẳng định sự lớn mạnh của cách mạng
Lào, đồng thời cảm ơn sự giúp đỡ chân thành của Việt Nam. Đồng
chí nêu rõ: đây là lần thứ ba hai Đảng tiến hành hội đàm. Cứ mỗi
lần hội đàm, càng làm sáng tỏ mối quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng,
về mối quan hệ của hai dân tộc và vận mệnh hai nước. Sự giúp đỡ
của Việt Nam cho cách mạng Lào hết sức tận tình và vô tư. Các
đồng chí đã giúp chúng tôi cả vật chất và xương máu. Xương máu
của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào và
nền độc lập của Lào... Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào đã xây
dựng nên mối quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng
đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Giai đoạn 1963 - 1968 đối với cách mạng Lào là giai đoạn đầy
thử thách, hy sinh, gian khổ. Đế quốc Mỹ và tay sai ký Hiệp định
Giơnevơ 1962 về Lào không phải để chấm dứt chiến tranh ở Lào
mà là để thực hiện âm mưu tách Việt Nam ra khỏi Lào, chia rẽ các
lực lượng kháng chiến Lào. Khi không thực hiện được âm mưu
trên, chúng đã ngang nhiên phá hoại Hiệp định, tiến hành lấn chiếm
vùng giải phóng Lào, làm chiến tranh lan rộng ra khắp đất nước
Lào.
Được sự giúp đỡ về mọi mặt của Việt Nam, quân và dân Lào đã
đẩy nhanh quá trình xây dựng lực lượng, kiên quyết đánh địch, bảo
439
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

vệ và mở rộng vùng giải phóng. Được chăm lo xây dựng, lực lượng
vũ trang Lào đã không ngừng lớn mạnh, trở thành lực lượng nòng
cốt đập tan các cuộc tiến công lấn chiếm của địch, tiến hành các
chiến dịch thu phục phỉ, bảo vệ và mở rộng vùng giải phóng, làm
cho hậu phương cách mạng ngày càng lớn mạnh. Tính đến cuối
năm 1967 và đầu năm 1968, vùng giải phóng của Lào trải rộng trên
68 huyện, chiếm 58%, với 667 tàxẻng cùng 909.290 dân232. Vùng
tranh chấp giữa ta và địch là 71 tàxẻng, trong đó chúng ta đã xây
dựng căn cứ du kích ở 35 tàxẻng, còn lại 36 tàxẻng đều có du kích
của ta hoạt động.
Đặc biệt, dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần
thứ 13 của Đảng Nhân dân Lào, quân dân Lào được sự giúp đỡ của
Việt Nam đã ra sức xây dựng vùng giải phóng về mọi mặt với quy
mô một quốc gia. Những thành tựu về xây dựng kinh tế, văn hoá -
xã hội và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân trong vùng giải
phóng đã góp phần nâng cao đời sống vật chất - tinh thần cho nhân
dân các bộ tộc Lào, tạo ra những biến đổi sâu sắc trong quan hệ xã
hội, tạo nên sức mạnh đoàn kết các bộ tộc Lào. Vùng giải phóng
Lào ngày càng được mở rộng, trở thành chỗ dựa vững chắc cho
cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và hỗ trợ thiết thực cho cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam và Campuchia.
Cách mạng Lào phát triển, vùng giải phóng Lào vững mạnh
chính là những điều kiện tiên quyết để quân dân Lào tạo điều kiện
và cùng góp công sức xây dựng tuyến đường chiến lược tây Trường
Sơn và các căn cứ đứng chân của bộ đội chủ lực ở khu vực biên
giới, góp phần quan trọng tạo điều kiện cho Việt Nam đánh thắng
Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng
không quân, hải quân của Mỹ ở miền Bắc, đồng thời cũng góp phần

232
. Toàn bộ nƣớc Lào thời gian này có 18 tỉnh, 117 huyện, 1.077 xã với dân
số khoảng 2.804.290 ngƣời.
440
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

trực tiếp cho việc xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng Lào
và Campuchia.

II. LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƢỢC


VIỆT NAM HOÁ CHIẾN TRANH CỦA MỸ Ở MIỀN NAM VIỆT NAM
VÀ CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT TĂNG CƢỜNG Ở LÀO (1969 - 1973)

1. Bước đầu đánh bại chiến lược Chiến tranh đặc biệt tăng
cường của Mỹ ở Lào
Cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Nam Việt
Nam trong năm 1968 đã giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm
lược, làm phá sản chiến lược Chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ,
đồng thời tác động mạnh mẽ đến tình hình và chính sách của nước
Mỹ, làm dấy lên phong trào chống chiến tranh ở Mỹ cũng như
trên thế giới. Đế quốc Mỹ buộc phải từ bỏ chiến lược Chiến tranh
cục bộ, tuyên bố ngừng bắn phá miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến
20 trở ra, chấp nhận đàm phán với Việt Nam tại Hội nghị Pari và
rút dần quân Mỹ, thực hiện “phi Mỹ hoá” cuộc chiến tranh ở Việt
Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 tạo bước
ngoặt lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân Việt Nam, làm thay đổi thế trận có lợi cho cách mạng Việt
Nam và cách mạng Lào.
Trước tình hình thế giới và chiến tranh ở Việt Nam có những
biến động không có lợi cho Mỹ, khi Níchxơn (R.Nixon) chính thức
nhậm chức Tổng thống Mỹ (ngày 20 tháng 1 năm 1969), giới cầm
quyền Mỹ đã đưa ra chiến lược toàn cầu mới mang tên “Học thuyết
Níchxơn” dựa trên ba nguyên tắc: “Sức mạnh của Mỹ, chia sẻ trách
nhiệm và thương lượng trên thế mạnh” nhằm tiếp tục thực hiện
chính sách bá chủ toàn cầu. ở Đông Dương, cái gọi là “chia sẻ
441
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

trách nhiệm” của Níchxơn thực chất là nhằm huy động sự tham gia
tập thể của các lực lượng tay sai ở Đông Dương và Đông Nam á
vào việc thực hiện chính sách “dùng người Đông Dương đánh
người Đông Dương”, “dùng người châu á đánh người châu á”.
Chính quyền Níchxơn đã dựng lên một liên minh quân sự khu vực
Băng Cốc - Viêng Chăn - Phnôm Pênh - Sài Gòn, trong đó Thái
Lan nổi lên như một tên lính xung kích của Mỹ.
Đối với Việt Nam, Mỹ điều chỉnh chủ trương “phi Mỹ hoá”
thành chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh nhằm tiếp tục âm mưu
bám giữ miền Nam, từng bước giảm bớt sự dính líu trực tiếp nhưng
vẫn phải giành thế mạnh trên chiến trường để ép đối phương ở bàn
hội nghị theo những điều kiện của Mỹ. Mỹ đã đẩy mạnh viện trợ vũ
khí, trang bị để hiện đại hoá, tăng cường sức chiến đấu cho nguỵ
quân. Mỹ cũng rất chú trọng kế hoạch bình định, coi đây là “mục
tiêu của Việt Nam hoá chiến tranh”, “xác định sự tồn vong của chế
độ Việt Nam cộng hoà”. Chúng chủ trương: bước một, từ đầu năm
1969 đến giữa năm 1970, tranh thủ thời gian đồng loạt phản kích,
truy quét, bình định để lực lượng kháng chiến không kịp trở tay đối
phó; bước hai, từ giữa năm 1970 đến hết tháng 6 năm 1971, bình
định được tất cả các vùng đông dân quan trọng, làm cho lực lượng
chủ lực và địa phương của Việt Nam suy yếu, quân Mỹ rút được
một phần lực lượng chiến đấu; bước ba, đến ngày 30 tháng 6 năm
1972, cơ bản bình định được miền Nam Việt Nam. Các căn cứ của
Việt Nam ở Lào, Campuchia hoàn toàn bị xoá bỏ. Quân nguỵ đủ
sức ngăn chặn được “xâm lăng từ bên ngoài vào” và bảo đảm an
ninh bên trong. Mỹ sẽ rút hết lực lượng chiến đấu ra khỏi miền
Nam.
ở Lào, thông qua việc nắm Phuma và chính phủ tay sai dưới cái
mác “liên hiệp trung lập”, đế quốc Mỹ chủ trương đẩy cuộc chiến
tranh lên mức độ cao hơn bằng chiến lược Chiến tranh đặc biệt
442
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

tăng cường. Thực chất của chiến lược này là “dùng người Lào đánh
người Lào” bằng vũ khí của Mỹ và có sự tham gia của một bộ phận
không quân Mỹ cùng đội quân tay sai chư hầu. Chúng đã tăng
cường viện trợ quân sự cho các lực lượng tay sai thân Mỹ, tích cực
phát triển quân nguỵ Lào, nhất là lực lượng đặc biệt của Vàng Pao.
Tăng cường không quân đánh phá tuyến vận tải chiến lược và trực
tiếp chi viện cho quân nguỵ Lào trong các cuộc hành quân lấn
chiếm vùng giải phóng. Công khai đưa quân Thái Lan và quân
nguỵ Sài Gòn vào chiến đấu ở chiến trường Lào233.
Sau khi dừng ném bom miền Bắc Việt Nam, Mỹ đã tăng cường
không quân ném bom, đánh phá có tính huỷ diệt vùng giải phóng
Lào, trực tiếp chi viện cho quân nguỵ và quân Vàng Pao chiến đấu.
Chúng không phân biệt mục tiêu chính trị, văn hoá, xã hội. Hàng
trăm chùa chiền, bệnh viện, trường học, nhà ở cùng hàng ngàn
người dân vô tội đã bị bom đạn Mỹ đốt phá, giết hại. Từ năm 1964
đến 1971, máy bay Mỹ ném trung bình 3.000 tấn bom/ngày xuống
các làng bản; theo ước tính sơ bộ, mỗi năm Mỹ cũng phải chi
khoảng 2 tỷ USD cho hoạt động này, chưa kể đến việc phải chi cho
50.000 nhân viên tham gia vào cuộc chiến tranh này234. Cuộc chiến
tranh bằng không quân của Mỹ đã làm cho hàng ngàn người dân
phải rời bỏ nơi chôn nhau, cắt rốn của mình để sống trong các hang

. Mỹ đã tăng số tiền viện trợ cho quân sự Lào lên gấp hai lần so với trƣớc
233

(dƣới thời Giônxơn mỗi năm khoảng 60 - 70 triệu USD, thời Níchxơn mỗi năm là
146 - 255 triệu USD, tài khoá 1970 - 1971 Mỹ đã chi 350 triệu USD), phát triển
quân nguỵ Lào từ 130 lên 150 tiểu đoàn, “lực lƣợng đặc biệt” Vàng Pao tăng từ
64 lên 86 tiểu đoàn. Số cố vấn Mỹ tăng tới 12.000 tên. Từ năm 1969, lính Thái
Lan chính thức tham chiến ở Lào và đến năm 1972 đã lên tới 40.000 tên. Dẫn
theo Lược sử Lào, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr.209.
. Fred Branfman: Cuộc chiến tranh của Tổng thống Mỹ ở Lào, bản dịch
234

tiếng Việt, số 1283, lƣu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr.12.
443
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

hốc hoặc di tản về đồng bằng dọc sông Mê Công. Trong các vụ
ném bom nói trên, điển hình là vụ không quân Mỹ bắn tên lửa vào
hang Thặm Piu (Xiêng Khoảng), làm chết hơn 370 người dân vô tội
đang lánh nạn trong hang, mà phần lớn là người già và trẻ em.
Ý đồ của chính quyền Níchxơn đối với Lào là: đánh chiếm, thu
hẹp vùng giải phóng, chiếm lại một số địa bàn chiến lược trọng yếu
để thoát khỏi thế bị động cố thủ, phá hoại hậu phương cách mạng,
đồng thời chia cắt chiến trường Đông Dương nhằm ngăn chặn sự
chi viện, giúp đỡ lẫn nhau của cách mạng ba nước Việt Nam - Lào -
Campuchia. Chúng tăng cường bình định vùng kiểm soát, nối vùng
chúng kiểm soát với Thái Lan tạo thành tuyến phòng thủ sông Mê
Công, đồng thời làm bàn đạp tiêu diệt cách mạng Lào và cách
mạng ba nước Đông Dương. Đầu năm 1969, ngoài việc tăng cường
đánh phá bằng không quân vào vùng giải phóng Lào, địch liên tiếp
mở các cuộc hành quân mang tên Xámắckhi 1, 2, 3 với lực lượng
22 tiểu đoàn bộ binh, chủ yếu là quân Vàng Pao, có sự tham gia của
hai tiểu đoàn pháo binh Thái Lan và được máy bay Mỹ chi viện
đánh ra khu vực Phả Thí, Na Khằng - Thặm La (Hủa Phăn) và
Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng.
Chiến trường Lào từ trước đến nay luôn có một vị trí chiến lược
vô cùng quan trọng đối với chiến trường ba nước Đông Dương.
Trong bối cảnh đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra
toàn bán đảo Đông Dương, vị trí của Lào càng trở nên đặc biệt
quan trọng, nhất là đối với Việt Nam.
Trước tình hình Mỹ thực hiện Chiến tranh đặc biệt tăng cường
ở Lào, Trung ương Đảng Nhân dân Lào đã xác định: tiếp tục thực
hiện thắng lợi các Nghị quyết Trung ương 15 và 16, quyết tâm đánh
bại các bước leo thang của Mỹ và bè lũ tay sai trong bất kỳ tình
huống nào; phát động toàn Đảng, toàn quân và toàn dân quyết tâm
vượt qua mọi gian lao, thử thách, kiên cường đánh giặc, xây dựng
444
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

và bảo vệ vùng giải phóng, đẩy mạnh hoạt động ở vùng sau lưng
địch. Trung ương Đảng Nhân dân Lào đã đề ra nhiều chính sách cụ
thể về xây dựng hậu phương, chính sách đối với cán bộ hoạt động
trong vùng địch chiếm đóng nhằm huy động sức người, sức của cho
cuộc chiến đấu chống xâm lược; công bố 10 điểm lập lại hoà bình ở
Lào (ngày 8 tháng 3 năm 1969), đồng thời đẩy mạnh hoạt động
quân sự trên khắp chiến trường.
Xác định đúng tầm quan trọng của chiến trường Lào, trên cơ sở
Nghị quyết 16 của Trung ương Đảng Nhân dân Lào, cuối năm 1968
đầu năm 1969, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã
có một số cuộc gặp gỡ trao đổi với Quân uỷ Trung ương và Bộ Chỉ
huy tối cao Lào. Sau khi thống nhất các nội dung giúp Lào trên lĩnh
vực quân sự, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã chỉ thị cho các đoàn
chuyên gia quân sự và quân tình nguyện thực hiện tốt các chủ
trương giúp Lào, trong đó tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu là:
đẩy mạnh đấu tranh ở cả hai vùng (nông thôn và thành thị), trên cả
ba mặt quân sự, chính trị, ngoại giao; củng cố vững chắc các địa
bàn đứng chân, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng; tập trung
đánh mạnh vào hai lực lượng chiến lược của địch (lực lượng đặc
biệt Vàng Pao và quân chủ lực Viêng Chăn), giải phóng thêm một
số vùng trọng điểm, tạo điều kiện mở rộng vùng giải phóng, tạo
thành thế liên hoàn...
Trong thời gian này, Đoàn 959 tiếp tục thực hiện nhiệm vụ
đoàn chuyên gia quân sự giúp Trung ương Đảng, cơ quan Quân uỷ
Trung ương và Bộ Chỉ huy tối cao Quân giải phóng nhân dân Lào;
Đoàn 463 giúp cơ quan và các đơn vị thuộc Quân khu Cánh đồng
Chum - Xiêng Khoảng; Đoàn 565 giúp Nam Lào; các đoàn quân
tình nguyện 766 chiến đấu ở căn cứ địa Sầm Nưa, 866 ở Cánh đồng
Chum - Xiêng Khoảng, 335 ở Bắc Lào, 968 ở Nam Lào. Ngoài ra,
còn có các đơn vị chủ lực như Sư đoàn 316, Sư đoàn 312, Sư
445
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

đoàn 338 và một số đơn vị binh chủng sang từng thời gian theo yêu
cầu của Lào.
ở Bắc Lào, Đoàn 335 (gồm hai tiểu đoàn) tích cực giúp triển
khai các kế hoạch chiến đấu chống địch lấn chiếm, tiễu phỉ và củng
cố các đơn vị vũ trang. Đoàn đã giúp Bắc Lào xây dựng thêm một
số đơn vị chủ lực, khẩn trương huấn luyện nâng cao sức mạnh
chiến đấu của ba thứ quân; giúp đưa lực lượng lớn vào vùng địch
hậu, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch. Những
tháng đầu năm 1969, Đoàn 335 sử dụng lực lượng nhỏ, cùng các
tiểu đoàn, đại đội địa phương Lào tổ chức các đội công tác, các đội
vũ trang tuyên truyền phát động nhân dân thu phục phỉ, truy quét
lực lượng phản động ngầm hoạt động ở khu vực giáp ranh ba tỉnh
Bắc Lào; triệt phá hang ổ quan trọng của bọn phỉ ở Nặm Miệng, Pa
Mao, Khăm Ngừm; cử cán bộ, chiến sĩ giúp tuyển quân, huấn luyện
lực lượng vũ trang, xây dựng chính quyền cơ sở; tổ chức một số
trận đánh vào các kho tàng, sân bay Luổng Phạbang, phá huỷ hai
kho đạn, một kho xăng và bốn máy bay T28 của địch.
Tại tỉnh Hủa Phăn, khi địch đánh ra Phả Thí, bộ đội tình nguyện
Việt Nam235 đã cùng quân giải phóng Lào mở chiến dịch phản công
Phả Thí (bắt đầu từ giữa tháng 3 năm 1969), đánh bật địch khỏi khu
vực này, sau đó tiếp tục tiến công phỉ ở Mương Hiềm - Na Khằng, loại
khỏi vòng chiến đấu 507 tên, thu 165 súng các loại, bắn rơi hai máy
bay, giải phóng toàn bộ khu vực Mương Hiềm, Na Khằng, Hỉn Đa
với trên 5.000 dân.
Khi địch mở các cuộc hành quân Xámắckhi đánh chiếm khu vực
Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, Bộ Chỉ huy tối cao Lào quyết định

235
. Lực lƣợng tham gia chiến dịch gồm: Đại đoàn 316, các trung đoàn bộ
binh 766 và 866 của Việt Nam; các tiểu đoàn 613, 705 và 585, bộ đội địa phƣơng,
dân quân du kích tỉnh Sầm Nƣa.
446
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam mở tiếp chiến dịch tiến
công Mương Xủi236 nhằm thu hồi lại khu vực Cánh đồng Chum -
Xiêng Khoảng. Đồng chí Khăm Tày Xiphănđon, Tổng Chỉ huy
Quân giải phóng nhân dân Lào, trực tiếp tham gia chỉ huy chiến
dịch. Qua 20 ngày chiến đấu (từ ngày 14 tháng 6 đến 4 tháng 7 năm
1969), ta tiêu diệt được một lực lượng quan trọng địch lấn chiếm,
loại khỏi vòng chiến đấu 1.312 tên địch, đánh tan rã sáu tiểu đoàn
bộ binh, diệt một tiểu đoàn pháo binh Thái Lan, bắn rơi tám máy
bay, thu nhiều súng, pháo; thu hồi vùng nam Cánh đồng Chum và
thị xã Xiêng Khoảng, giải phóng thêm Mương Xủi, vùng giải
phóng Lào mở rộng đến Xála Phu Khun.
Ngay sau chiến dịch Mương Xủi, đầu tháng 7 năm 1969, Đoàn
chuyên gia quân sự 959 giúp Tổng Quân uỷ và Bộ Chỉ huy tối cao
Lào tổ chức Hội nghị quân sự toàn quân để bàn về cách đánh của
lực lượng vũ trang. Hội nghị đã tổng kết kinh nghiệm và rút ra
những kết luận về nguyên tắc xây dựng, phương thức tác chiến của
quân đội, về phương hướng, nhiệm vụ của quân đội Lào trong thời
gian tới. Sau Hội nghị, chuyên gia còn giúp tổ chức nhiều lớp bồi
dưỡng ngắn ngày cho cán bộ và bộ đội theo nội dung mà Hội nghị
đã đề ra, đồng thời giúp tuyển chọn cán bộ đi học để nâng cao khả
năng chiến đấu của bộ đội.
Ngày 18 tháng 7 năm 1969, tại Hà Nội, Đoàn cán bộ đại diện
Quân uỷ Trung ương Việt Nam, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp dẫn
đầu, hội đàm với Đoàn cán bộ Quân uỷ Trung ương Lào, do đồng
chí Khăm Tày Xiphănđon dẫn đầu. Hai đoàn đã thông báo về
nhận định tình hình cuộc kháng chiến chống Mỹ trên các chiến

. Lực lƣợng tham gia chiến dịch gồm: Tiểu đoàn 1, 2, 13, tiểu đoàn pháo
236

binh, đại đội xe tăng, đại đội cao xạ Pathết Lào. Tiểu đoàn 4, 5, 6 bộ đội trung
lập Lào cùng Sƣ đoàn 316 quân tình nguyện Việt Nam. Dẫn theo Lịch sử Quân
đội nhân dân Lào (1945 - 1975), bản dịch tiếng Việt, tr.198.
447
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

trường, đề ra chủ trương chiến lược và biện pháp hoạt động cụ thể
trong mùa khô 1969 - 1970 và những năm tiếp theo. Hai đoàn đã
thống nhất đánh giá: địch thua phải xuống thang, rút dần quân Mỹ,
nhưng chúng còn ngoan cố kéo dài chiến tranh. Vì vậy, phải chuẩn
bị tư tưởng kiên trì đánh lâu dài, trên cơ sở đánh lâu dài mà tranh
thủ xây dựng, củng cố lực lượng ta, phải nâng cao chất lượng ba
thứ quân, coi trọng đấu tranh chính trị ở cả nông thôn và đô thị, chú
trọng xây dựng vùng giải phóng, vùng căn cứ nông thôn và đô thị,
chú trọng sản xuất, bồi dưỡng sức dân.
Trên cơ sở đánh giá, dự kiến những âm mưu lâu dài của Mỹ
trên chiến trường ba nước Đông Dương, trong đó có chiến trường
Lào, hai đoàn đã xác định bốn vấn đề tác chiến lớn: quét phỉ ở vùng
giải phóng; đánh địch lấn chiếm; đẩy mạnh chiến tranh du kích
trong vùng địch hậu; tiêu diệt địch, mở rộng vùng giải phóng.
Trong đó, ở Nam Lào, nhiệm vụ tăng cường lực lượng bảo vệ tuyến
hành lang vận chuyển, bảo đảm việc chi viện cho chiến trường
thông suốt trong mọi tình huống được xác định là nhiệm vụ hàng
đầu của chuyên gia, quân tình nguyện Việt Nam và các đơn vị quân
giải phóng nhân dân Lào.
Cuối tháng 7 năm 1969, lợi dụng thời tiết đang giữa mùa mưa
và các đơn vị bộ đội Việt Nam - Lào đang tập trung về Mương
Khăm để củng cố, Mỹ - nguỵ sử dụng 18 tiểu đoàn và 52 đại đội
thuộc lực lượng đặc biệt Vàng Pao cùng 5.000 quân Thái Lan, dưới
sự chỉ huy của hàng trăm cố vấn Mỹ, mở cuộc hành quân Cù Kiệt
đánh ra Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng. Trong cuộc hành quân
này, Mỹ đã huy động từ 100 đến 150 lượt máy bay mỗi ngày, chi
viện trực tiếp cho quân ngụy Lào và tổ chức từng đợt oanh tạc, tập
trung đánh phá có tính huỷ diệt vùng giải phóng Cánh đồng Chum
và Sầm Nưa. Quân địch đi đến đâu cũng thực hiện “đốt sạch, giết
sạch”, gây nhiều thiệt hại về người và của cho nhân dân Mương
448
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Pẹc, Mương Khun, Mương Khăm. Cù Kiệt là cuộc hành quân lớn
điển hình của Học thuyết Níchxơn ở Lào theo công thức quân nguỵ
Lào + quân Thái Lan + hậu cần và hoả lực tối đa của không quân
Mỹ.
Cùng phối hợp với cuộc hành quân Cù Kiệt, trên hướng Nam
Lào, chúng còn huy động năm tiểu đoàn đánh ra thị trấn Mương
Phin, đồng thời đẩy mạnh hoạt động của các toán phỉ ở Hủa Phăn,
Bolikhămxay, Luổng Nặm Thà; dùng máy bay rải chất độc xuống
vùng căn cứ Nhọt Ngừm, Phu Phalavẹc (tỉnh Viêng Chăn Đông)...
Trước cuộc tiến công lớn của địch, Bộ Tư lệnh Quân khu Cánh
đồng Chum (do đồng chí Xỉ Phon làm tư lệnh, đồng chí Xámản
Vinhakệt làm chính uỷ) quyết định đưa toàn bộ cơ quan, cán bộ,
chiến sĩ cùng nhân dân Xiêng Khoảng ra phía Bạn Ban - Noỏng Pết
để bảo đảm an toàn; các đơn vị còn lại tổ chức gọn nhẹ, sát cánh
cùng quân tình nguyện Việt Nam kiên quyết chiến đấu để chặn
địch, bảo vệ nhân dân, đồng thời tạo điều kiện mở chiến dịch phản
công tiêu diệt địch.
ở hướng nam, sau khi bị Trung đoàn 174 ngăn chặn, địch tăng
cường quân đánh phá ra đường 7B. Phát hiện ý đồ chiếm các điểm
cao ở Phu Nốc Cốc (núi chim đầu đàn) để cắt đường vận chuyển
của ta từ Mường Xén (Việt Nam) sang Xiêng Khoảng, Trung đoàn
866 đã triển khai lực lượng bảo vệ các kho trạm ở khu vực Na Đu,
Bạn Thặm; tiếp đó, triển khai bảo vệ kho tàng và Viện 952 của mặt
trận ở khu vực Phu Hoọc, Noỏng Pết. Cuộc chiến đấu cầm chân
địch có hiệu quả của các đơn vị trong trung đoàn đã tạo điều kiện
để nhân dân các bản của huyện Mương Pẹc sơ tán về phía Bạn Xon
để đi Then Phun, ra đường 7B rồi sang Nghệ An.
Tại khu vực điểm cao 1505, Lạt Huồng, sau khi địch dùng trực
thăng đổ quân xuống chiếm Phu Tôn, Cang Xẻng - Phu Hủa Xàng,
chúng dùng cối 106,7 ly và pháo 105 mm từ trung tâm Cánh đồng
449
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Chum bắn phá rất ác liệt các điểm cao xung quanh. Tiểu đoàn 924
thuộc Trung đoàn 866 đã kiên quyết giữ vững điểm cao 1505, Bạn
Thặm, đồng thời giúp nhân dân và cơ quan bạn sơ tán khỏi khu
vực. Tuy lực lượng chiến đấu có hạn nhưng các đại đội vẫn cử ra
một số tổ công tác để hướng dẫn và giúp dân sơ tán. Trong bom
đạn ác liệt, bộ đội tình nguyện đã chiến đấu quên mình, giúp đỡ
nhân dân, nhường cơm sẻ áo hoặc sẵn sàng xông pha vào những
nơi nguy hiểm để bảo vệ nhân dân. ở xưởng may của tỉnh Xiêng
Khoảng, khi địch càn đến gần, anh chị em công nhân được lệnh di
chuyển nhưng có một chị tàn tật không đi được phải bò vào rừng
lánh nạn. Biết tin đó, tổ công tác của trung đoàn đã vào rừng tìm
kiếm, cứu được chị đưa về nơi sơ tán an toàn. Trong những ngày ác
liệt này, bộ đội Việt Nam đã phối hợp với các cơ sở đảng, chính
quyền đưa hơn 16.000 dân và gia đình cán bộ đi sơ tán ở Mường
Xén, Kỳ Sơn (Nghệ An). Nhân dân Nghệ An đã nhiệt tình đón tiếp,
nhường cơm sẻ áo, cùng nhân dân Lào xây dựng nhà cửa, bệnh xá,
trường học, ổn định cuộc sống nơi sơ tán. Những tấm gương trong
sáng, quên mình của bộ đội tình nguyện, sự đón tiếp tận tình của
nhân dân Nghệ An trong những ngày gian khó này đã góp phần làm
cho tình đoàn kết chiến đấu của quân dân Việt Nam - Lào càng
thêm keo sơn, gắn bó.
Trước hành động lấn chiếm quy mô lớn của địch, mặc dù quân
dân hai nước đang rất đau buồn khi nghe tin “Bác Hồ kính yêu đã
từ trần”, song Quân uỷ Trung ương hai Đảng đã thống nhất mở
chiến dịch phản công Toàn Thắng, nhằm đánh bại cuộc hành quân
Cù Kiệt, khôi phục, mở rộng Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng,
tạo thế và lực mới cho cách mạng Lào. Ngày 13 tháng 9, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp trực tiếp giao nhiệm vụ và chỉ thị cho các đơn vị
quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tham gia chiến
450
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

dịch237 (chiến dịch có mật danh 139, là số ghép của ngày 13 tháng
9). Bộ Tư lệnh chiến dịch gồm: đồng chí Vũ Lập làm tư lệnh, đồng
chí Huỳnh Đắc Hương làm chính uỷ; phía Lào có đồng chí Xỉ
Phon, Tư lệnh Quân khu Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, làm
phó tư lệnh về quân sự.
Sau sáu tháng chiến đấu liên tục (từ ngày 25 tháng 10 năm
1969 đến 25 tháng 4 năm 1970), các lực lượng tham gia chiến
dịch đã đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công lấn chiếm của địch, loại
khỏi vòng chiến đấu 6.668 tên, bắn rơi và phá huỷ 117 máy bay,
thu 597 súng các loại và nhiều phương tiện chiến tranh, giải
phóng một vùng rộng khoảng 6.000 km2 với hơn 16.000 dân, nối
liền vùng giải phóng Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, Mương
Xủi, Xảm Thông, nam Cang Xẻng - Xen Chồ với Sầm Nưa và bốn
tỉnh Bắc Lào.
Thắng lợi của chiến dịch 139 đánh bại cuộc hành quân Cù Kiệt
có ý nghĩa rất to lớn. Ta đã giữ vững và mở rộng được vùng chiến
lược Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, giáng một đòn đau vào lực
lượng đặc biệt Vàng Pao và quân Thái Lan, bước đầu đánh bại Học
thuyết Níchxơn ở Lào, tạo chuyển biến mới về tương quan lực
lượng có lợi cho cách mạng Lào, mở ra triển vọng cho cuộc đấu
tranh của Lào trên cả ba lĩnh vực quân sự, chính trị và ngoại giao;
đồng thời, thắng lợi này cũng thể hiện tinh thần đoàn kết, chiến
đấu ngoan cường của quân dân hai nước. Trong Hội nghị tổng kết

237
. Lực lƣợng tham gia chiến dịch gồm: quân tình nguyện Việt Nam có hai
sƣ đoàn bộ binh (312 và 316), Đoàn 866, Trung đoàn pháo binh 16, một đại đội
xe tăng, Trung đoàn công binh 45, 12 đội đặc công, 5 tiểu đoàn phòng không;
quân giải phóng nhân dân Lào có các tiểu đoàn 1, 2, 13, 24, 701, Pắtchây, đơn vị
pháo mặt đất, đại đội xe tăng, đại đội đặc công, các đơn vị bảo đảm (công binh,
thông tin, vận tải, quân y); lực lƣợng trung lập yêu nƣớc có các tiểu đoàn 15, 16,
46, 48, Tiểu đoàn dù 1 và một số đơn vị bảo đảm chiến đấu.
451
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

chiến dịch, đồng chí Khăm Tày Xiphănđon đã khẳng định: “Sự hy
sinh chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam là vô cùng to lớn...
Chúng ta phải luôn ghi nhớ mối tình ruột thịt Lào - Việt Nam, ghi
nhớ công ơn Bác Hồ”.
ở Nam Lào, từ đầu năm 1969, địch cũng tăng cường các cuộc
hành quân đánh chiếm vùng giải phóng. Do Nam Lào có vị trí
chiến lược đặc biệt quan trọng, nơi có tuyến vận tải chiến lược tây
Trường Sơn, nên sau khi ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam,
địch đã tập trung phần lớn bom đạn đánh phá tuyến vận chuyển,
đồng thời mở nhiều cuộc hành quân lấn chiếm ra khu vực này
hòng phá các kho tàng, cơ sở hậu cần của ta. Sự đánh phá điên
cuồng của địch đã gây cho Việt Nam và Lào nhiều khó khăn. ở
nhiều nơi, bộ đội Lào, Việt Nam bị bật ra khỏi dân. Tình hình vận
chuyển vào Nam cuối năm 1968 đầu năm 1969 đạt hiệu quả thấp,
ảnh hưởng không nhỏ đến các kế hoạch tác chiến của bộ đội Việt
Nam trên các chiến trường, bộ đội nhiều nơi thiếu gạo, thiếu đạn
trầm trọng.
Trước tình hình đó, cuối năm 1968 đầu năm 1969, được sự uỷ
nhiệm của Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng, Thiếu tướng
Trần Quý Hai, Phó Tổng Tham mưu trưởng đã vào Quân khu 4
cùng với Bộ Tư lệnh Quân khu giao nhiệm vụ cho lực lượng
chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam ở Nam Lào: 1) Giữ vững
và mở rộng tuyến vận tải chiến lược, cùng lực lượng vũ trang Lào
tiến công có trọng điểm, bằng những phương thức thích hợp để tạo
bàn đạp đưa lực lượng áp sát các căn cứ lớn, tạo điều kiện giải
phóng một loạt vị trí dọc hành lang, đánh thông đường vận chuyển
từ Trung Lào vào nam đường 9 và đi suốt vào Tây Nguyên, Đông
Nam Bộ; 2) Tích cực giúp Lào củng cố vùng giải phóng, chống lấn
chiếm, ra sức tiễu phỉ, thu phục phỉ; 3) Đẩy mạnh xây dựng căn cứ
kháng chiến ở Nam Lào, tiến lên giải phóng cao nguyên Bôlavên,
452
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

tạo thời cơ để giành thắng lợi quyết định.


Thực hiện chủ trương trên, mùa khô 1968 - 1969, Đoàn chuyên
gia quân sự 565 và Đoàn quân tình nguyện 968 đã phối hợp với
Quân khu Nam Lào mở chiến dịch tiến công giải phóng thị trấn
Thà Teng thuộc tỉnh Xalavăn, nhằm tạo thế tiến công giải phóng thị
xã Pạc Xoòng, thị xã áttapư khi có thời cơ. Trong gần bốn tháng
đầu năm 1969 đánh địch tại mặt trận Thà Teng, Đoàn chuyên gia
quân sự 565 đã phối hợp với quân dân Lào và các đơn vị quân tình
nguyện trên địa bàn tác chiến loại khỏi vòng chiến đấu 1.022 tên
địch, bắn cháy 13 máy bay, phá huỷ 32 xe quân sự, thu hàng trăm
khẩu súng và nhiều phương tiện chiến tranh của địch, giải phóng
gần một vạn dân ở 537 bản, mở rộng vùng giải phóng Nam Lào
liên hoàn từ đông đường 9 xuống tỉnh áttapư. Tạo điều kiện uy hiếp
địch trên các thị xã Pạc Xoòng, Xalavăn, áttapư, góp phần bảo vệ,
giữ vững hành lang tuyến vận tải chiến lược tây Trường Sơn qua
địa bàn Trung - Hạ Lào.
Trong sáu tháng đầu năm 1969, với sự giúp đỡ của chuyên gia
Việt Nam, lực lượng vũ trang ba thứ quân trên chiến trường Nam
Lào đã có bước phát triển vững chắc, toàn diện. Quân chủ lực phát
triển thêm được một tiểu đoàn, du kích phát triển được hơn 1.000
người. Đặc biệt, do làm tốt công tác tuyên truyền giác ngộ, nhân
dân hăng hái tăng gia sản xuất ủng hộ kháng chiến, đã có gần
2.000 người tình nguyện đi dân công phục vụ hoả tuyến, nhiều
người trực tiếp cùng bộ đội chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng. Sau
Hội nghị quân chính toàn quân (tháng 7 năm 1969), để giúp triển
khai các nhiệm vụ đã được Tổng Quân uỷ và Bộ Chỉ huy tối cao
Lào xác định, Đoàn chuyên gia 565 đã cử một số cán bộ xuống
các tỉnh đội giúp mở các lớp huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ
ngắn ngày cho cán bộ chỉ huy các đơn vị ở Nam Lào. Các lớp bồi
dưỡng đã góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, kịp thời
453
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ huấn luyện và đánh địch bảo vệ
vùng giải phóng.
Phối hợp chặt chẽ với chiến trường Cánh đồng Chum - Xiêng
Khoảng trong chiến dịch 139, ở Nam Lào, các chuyên gia và quân
tình nguyện Việt Nam cũng tích cực đẩy mạnh các hoạt động giúp
bộ đội Lào đánh địch, giành nhiều thắng lợi. Khi địch tập trung
quân đánh ra Mương Phin (Xavẳnnakhệt), Đoàn 565 cùng Đoàn
968 quân tình nguyện, Tiểu đoàn 46 địa phương Quảng Bình đã
phối hợp chặt chẽ với quân giải phóng Lào giải phóng thị trấn
Mương Phin, giữ thông hành lang Mương Phin - Na Khao - Tăng
Vải - Bun Xạng chạy dọc tỉnh lộ 11, phía nam đường 9 với chiều
dài khoảng 70 km.
Tháng 3 năm 1970, Việt Nam và Lào thành lập Mặt trận X để
thực hiện nhiệm vụ tiến công giải phóng thị xã áttapư, tiến tới giải
phóng thị xã Xalavăn, mở rộng vùng giải phóng Hạ Lào. Đại tá
Hoàng Kiện, Phó Tư lệnh Quân khu 4 được cử làm tư lệnh, kiêm
chính uỷ mặt trận. Sau một thời gian ngắn đánh địch, ngày 29 tháng
4 năm 1970, các đơn vị tham gia chiến dịch238 đã giải phóng thị xã
áttapư, loại khỏi vòng chiến đấu một tiểu đoàn, năm đại đội địch,
diệt 200 tên, bắt hơn 700 tên, bắn rơi hai trực thăng, thu hàng trăm
súng các loại. áttapư giải phóng đã tạo thế liên hoàn cho hành lang
chiến lược tây Trường Sơn đến vùng Đông Bắc Campuchia. Sau
thắng lợi này, Bộ Tư lệnh 559 đã mở thêm tuyến đường dọc theo
sông Xê Xan, từ Nặm Bạc - áttapư - S’tung T’reng - Cratié - Tây
Ninh để chi viện cho Nam Bộ, với cự ly và thời gian rút ngắn gần
một nửa.

238
. Lực lƣợng thuộc Mặt trận X có hai tiểu đoàn bộ binh (2 và 3), Đại đội
đặc công S4 của Đoàn 968; Trung đoàn 24 Mặt trận B3 (Tây Nguyên - Việt Nam);
lực lƣợng vũ trang của Lào và chuyên gia quân sự sang hoạt động ở Hạ Lào.
454
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Cùng với tiến công địch về quân sự, Trung ương Đảng Nhân
dân Lào đã chủ trương đẩy mạnh tiến công về chính trị và ngoại
giao. Ngày 6 tháng 3 năm 1970, Neo Lào Hắc Xạt đưa ra giải pháp
năm điểm để giải quyết vấn đề Lào và cử phái viên đến Viêng Chăn
trao công hàm về giải pháp năm điểm đó cho chính phủ của Phuma.
Giải pháp của Lào đã nhận được sự ủng hộ của dư luận trong nước
cũng như quốc tế. Đây là đòn tiến công ngoại giao sắc bén và kịp
thời, làm cho địch ngày càng lún sâu vào tình thế bị động, lúng
túng.
Tiếp đó, Lào và Việt Nam đã tích cực đóng góp cho thành công
của Hội nghị cấp cao nhân dân ba nước Đông Dương họp từ ngày
24 đến 25 tháng 4 năm 1970. Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt
trận thống nhất chống Mỹ, khẳng định lập trường đoàn kết chống
Mỹ của ba dân tộc Việt Nam - Lào - Campuchia.
Tháng 4 năm 1970, sau khi Hội nghị cấp cao nhân dân ba nước
Đông Dương thống nhất cương lĩnh đấu tranh, chuyên gia Việt
Nam đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Lào kịp thời soạn
thảo các tài liệu giáo dục và đi xuống cơ sở giáo dục, vận động bộ
đội, nhân dân nâng cao nhận thức chính trị, đoàn kết hiệp đồng
chiến đấu chống các âm mưu xuyên tạc, chia rẽ của kẻ thù.
Mặc dù bị tổn thất nặng nề, nhưng được Mỹ tiếp tay, quân nguỵ
Lào tiếp tục mở các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của
các lực lượng vũ trang yêu nước Lào, đồng thời Mỹ tiếp tục dùng
không quân mở nhiều đợt đánh phá tuyến hành lang vận chuyển
chiến lược tây Trường Sơn.
Trước âm mưu, thủ đoạn chiến tranh mới của địch, ngày 7
tháng 5 năm 1970, Thường trực Quân uỷ Trung ương Việt Nam ra
nghị quyết xác định phương hướng giúp đỡ cách mạng Lào,
trong đó nhấn mạnh: phải tiếp tục hoàn chỉnh thế trận liên hoàn
vùng giải phóng Bắc Lào, mở rộng vùng giải phóng Trung, Hạ Lào,
455
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

xây dựng thành căn cứ địa vững chắc, đồng thời chuẩn bị tốt mọi
mặt sẵn sàng đánh bại các âm mưu của địch tiến công ra hành lang
vận chuyển chiến lược, bảo vệ vững chắc cơ sở vật chất - kỹ thuật,
kho tàng của ta ở khu vực này. Đi đôi với sẵn sàng chiến đấu, đập
tan các hành động tiến công của địch ra khu vực hành lang vận
chuyển chiến lược, phải đẩy mạnh mọi hoạt động nhằm giải phóng
khu vực Xalavăn, tiến tới làm chủ hoàn toàn cao nguyên Bôlavên.
Đẩy mạnh mọi mặt hoạt động ra giáp sông Mê Công với phương
thức thích hợp nhằm mở rộng quyền làm chủ vùng nông thôn. Trên
cơ sở xác định chiến trường Trung, Hạ Lào sắp tới sẽ là chiến
trường trọng điểm, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Đoàn chuyên
gia 565 và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện 968 phải nhanh chóng
cùng Lào giải phóng thị xã Xalavăn, Noỏng Bua, Bạn Khoộc.
Thực hiện chủ trương trên, ngày 19 tháng 5 năm 1970, Bộ
Tư lệnh Quân khu 4 thành lập Mặt trận Z, do đồng chí Hoàng
Biền Sơn, Đoàn trưởng 968, làm tư lệnh, để cùng các lực lượng
Lào tiến công giải phóng thị xã Xalavăn. Từ ngày 9 đến 25 tháng
6, các đơn vị của Mặt trận Z (bốn tiểu đoàn bộ binh, một đại đội
đặc công) cùng Tiểu đoàn 12 quân giải phóng Lào và lực lượng
vũ trang tỉnh Xalavăn đã tiến công giải phóng thị xã và các căn
cứ Bạn Khoộc, Noỏng Bua, đập tan các đợt phản kích của địch
hòng chiếm lại thị xã239.
Sau áttapư, Xalavăn là thị xã thứ hai ở Hạ Lào được giải phóng.
Đây là thắng lợi to lớn, tạo điều kiện cho cách mạng Lào đẩy mạnh
hoạt động ra giáp sông Mê Công, mở rộng quyền làm chủ vùng đồng
bằng rộng lớn, đồng thời góp phần quan trọng bảo vệ hành lang vận

239
. Trong chiến dịch này, bộ đội Việt Nam - Lào đã loại khỏi vòng chiến đấu
657 tên nguỵ Lào, gọi hàng 250 tên, bắn rơi hai máy bay, thu và phá huỷ hơn 700
súng các loại, 187 ôtô và nhiều phƣơng tiện chiến tranh khác của địch; giải phóng
một khu vực rộng khoảng 3.600 km2 với 80 bản và trên một vạn dân.
456
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

chuyển chiến lược tây Trường Sơn, bảo vệ vững chắc cơ sở vật chất
- kỹ thuật, kho tàng của hai nước ở khu vực này.
Sau chiến thắng mùa khô 1969 - 1970, ngày 25 tháng 6 năm
1970, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Nhân dân Lào họp nhận
định tình hình và xác định nhiệm vụ trong hai năm tới của cách
mạng Lào là: tiếp tục động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đấu
tranh bền bỉ lâu dài, phát huy thắng lợi đã giành được, chủ động tấn
công địch về mọi mặt; tăng cường đoàn kết với nhân dân Việt Nam
và nhân dân Campuchia anh em... Thường vụ Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Nhân dân Lào cũng nhấn mạnh hướng Trung, Hạ
Lào trong hai năm tới sẽ càng trở nên đặc biệt quan trọng vì liên
quan trực tiếp đến tuyến vận tải chiến lược 559 của Việt Nam.
Để kịp thời giúp Lào triển khai các chủ trương mà Nghị quyết
Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào đề ra,
ngày 15 tháng 7 năm 1970, Bộ Quốc phòng Việt Nam ra quyết định
thành lập Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào (trên cơ
sở biên chế tổ chức của Đoàn chuyên gia quân sự 959 có bổ sung
một số lực lượng), gọi tắt là Bộ Tư lệnh 959, trực thuộc Bộ Tổng
Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiếp đó, ngày 29 tháng 7
năm 1970, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 119/QĐ chuyển giao
lực lượng tình nguyện Nam Lào (Đoàn 968), trước đây do Bộ Tư
lệnh Quân khu 4 chỉ huy, nay thuộc quyền lãnh đạo chỉ huy của Bộ
Tư lệnh 559 (Binh đoàn Trường Sơn) và điều động một số lực
lượng tăng cường cho Đoàn chuyên gia quân sự 565 để đáp ứng
tình hình mới ở Nam Lào.
Theo yêu cầu của Lào, Quân uỷ Trung ương Việt Nam chủ
trương tăng cường cán bộ cho các đoàn chuyên gia quân sự ở Lào
có đủ số lượng và chất lượng, đảm bảo đáp ứng yêu cầu giúp Lào
từ trung ương đến tỉnh, trong đó chú trọng tăng cường chuyên gia
các tỉnh đội, giúp Lào đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, công tác
457
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

quân sự địa phương. Tổ chức một số đơn vị độc lập, kết hợp với
các đội công tác cơ sở ở các vùng mới giải phóng để trong một thời
gian nhất định giúp truy quét phỉ, phá các cơ sở ngầm của địch, xây
dựng và củng cố vững chắc cơ sở cách mạng ở các vùng mới giải
phóng. ở Nam Lào, sau khi Quân uỷ Trung ương quyết định Đoàn
quân tình nguyện 968 và Đoàn chuyên gia quân sự 565 cùng thuộc
quyền lãnh đạo, chỉ huy của Đoàn 559240, đồng chí Hà Tuấn Khanh
được bổ nhiệm làm phó tư lệnh Đoàn 559, phụ trách khối chuyên
gia. Về tổ chức, Đoàn 565 giữ nguyên các tổ chuyên gia ở Nam
Lào. Riêng 11 huyện trên đường Trường Sơn do các binh trạm sư
đoàn khu vực phụ trách. Ngoài nhiệm vụ chuyên gia giúp quân khu
và các tỉnh Nam Lào, Đoàn 565 còn hình thành khung chuyên gia
giúp tổ chức hai cụm chủ lực ở đường 9 và Hạ Lào.
Bước vào mùa khô năm 1970, quân nguỵ Viêng Chăn phối hợp
với quân Thái Lan tổ chức nhiều cuộc hành quân càn quét các căn
cứ du kích của ta, như: cuộc hành quân Kăn Nha Kiệt đánh vào
hành lang Tạt Hây, Mương Noòng, Mương Phin (Xavẳnnakhệt);
cuộc hành quân Thánôngkiệt với lực lượng 17 tiểu đoàn đánh vào
Thà Thôm, Thà Viêng, hòng chiếm lại vùng Xiêng Khoảng - Cánh
đồng Chum; đưa Trung đoàn 3 quân Thái Lan vào cao nguyên
Bôlavên hỗ trợ cho các lực lượng ở Xalavăn. Các cuộc hành quân
càn quét, lấn chiếm của địch đều bị lực lượng bộ đội địa phương,
du kích và chủ lực Lào kết hợp với quân tình nguyện Việt Nam
ngăn chặn và đánh thiệt hại nặng. Gần 4.500 tên địch bị diệt, 30
máy bay bị bắn rơi, trong đó riêng ở khu vực nam Xiêng Khoảng,
ta đã diệt hơn 3.000 tên địch, bắn rơi 24 máy bay.

240
. Trƣớc đó, Đoàn chuyên gia 565 thuộc quyền lãnh đạo chỉ huy của Bộ Tƣ
lệnh 559, Đoàn 968 thuộc quyền lãnh đạo chỉ huy của Quân khu 4. Đến tháng 10
năm 1970, cả hai đoàn về đội hình Đoàn 559.
458
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

2. Chiến thắng đường 9 - Nam Lào và Đại hội lần thứ II


Đảng Nhân dân Lào
Sau hai năm thực hiện Học thuyết Níchxơn, với nguồn viện trợ
quân sự lớn241, Mỹ đã xây dựng ở ba nước Đông Dương một đội
quân tay sai có số lượng đông và trang bị mạnh hơn nhiều so với
trước đây242. Để thực hiện ý đồ rút quân Mỹ về nước nhằm xoa dịu
dư luận và phong trào chống chiến tranh đang bùng phát mạnh mẽ
trong lòng nước Mỹ, đồng thời tạo một tình thế chiến lược có lợi
cho Mỹ - ngụy trên chiến trường Đông Dương, đế quốc Mỹ quyết
định mở ba cuộc hành quân lớn: cuộc hành quân Lam Sơn 719,
đánh sang đường 9 - Nam Lào; cuộc hành quân Toàn Thắng 171
đánh sang Đông Bắc Campuchia; và cuộc hành quân Quang
Trung 4 đánh vào vùng ngã ba biên giới Tây Nguyên Việt Nam -
Nam Lào - Campuchia. Trong đó, hướng đường 9 - Nam Lào là
hướng tiến công chủ yếu của địch.
Cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh ra đường 9 - Nam Lào là
cuộc hành quân có quy mô lớn nhất trong ba cuộc hành quân trong
năm 1971 đánh phá tuyến vận tải chiến lược của ba nước Đông
Dương243. Trong cuộc hành quân này, đế quốc Mỹ dự định sử dụng
241
. Dƣới thời Giônxơn, viện trợ quân sự hàng năm của Mỹ cho quân nguỵ
Lào khoảng 60 - 70 triệu USD, thời Níchxơn tăng lên 350 triệu USD trong tài
khoá 1970 - 1971.
242
. Năm 1968, quân nguỵ Lào mới có gần 30 vạn tên. Năm 1970 tăng lên 60
vạn, đầu năm 1970 là 63 vạn tên đƣợc tổ chức thành 183 tiểu đoàn, trong đó có
113 tiểu đoàn đặc biệt. Thành phần binh chủng kỹ thuật (xe tăng, pháo binh,
không quân, công binh) trong các đơn vị chiến đấu tăng 2,5 lần so với năm 1968.
243
. Ngay từ giữa năm 1964, đế quốc Mỹ đã sử dụng không quân đánh phá
nhằm ngăn chặn hoạt động vận chuyển của ta trên tuyến đƣờng chiến lƣợc tây
Trƣờng Sơn. Từ năm 1966 đến 1971, số máy bay Mỹ đánh phá ở Lào đã lên tới
531.000 lƣợt chiếc, trong đó 388.000 lƣợt chiếc đánh vào tuyến đƣờng chiến
lƣợc và 143.000 lƣợt chiếc đánh ở Bắc Lào. Số bom đạn Mỹ ném xuống đất Lào
từ năm 1965 đến 1971 lên tới 1.644.000 tấn. Vào từng thời điểm, từng địa bàn,
459
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

một khối lượng lớn máy bay trực thăng đổ quân chốt giữ các điểm
cao dọc theo nam - bắc đường 9, đồng thời sử dụng bộ binh cơ
động dọc theo đường 9, thọc lên Xê Pôn, hợp điểm với quân nguỵ
Lào và quân Thái Lan từ Mương Phin sang chốt chặn lâu dài, hình
thành hàng rào Mắc Namara kiểu mới, cắt đứt tuyến chi viện chiến
lược tây Trường Sơn, phá huỷ kho tàng, căn cứ chiến lược ba nước
Đông Dương, đe dọa miền Bắc Việt Nam, uy hiếp cách mạng Lào.
Ngày 31 tháng 1 năm 1971, Mỹ và quân nguỵ Sài Gòn bắt đầu
cuộc hành quân. Chúng đã huy động một lực lượng khổng lồ gồm
hơn 40.000 quân nguỵ Sài Gòn, trên 6.000 quân Mỹ, với một lực
lượng lớn không quân, xe tăng, thiết giáp, pháo binh yểm trợ244.
Trong khi bộ binh, cơ giới địch tiến chậm chạp theo đường 9 về
phía tây, thì một lực lượng lớn trực thăng đổ quân đánh chiếm các
điểm cao dọc theo đường 9. Quân nguỵ Lào phối hợp hoạt động ở
phía tây đường 9, sử dụng hai binh đoàn cơ động (GM) đánh ra
Mương Noòng, Mương Phin. Mục tiêu đầu tiên của địch trong cuộc
hành quân này là nhanh chóng đánh chiếm Xê Pôn, chiếm giữ
đường 9 đoạn Bạn Đông - Xê Pôn lập thành tuyến ngăn chặn cắt
đôi Đông Dương, lùng sục đánh phá kho tàng, đường sá xung
quanh Xê Pôn, tiếp đó chuyển xuống đánh phá kho tàng khu vực Sa

đế quốc Mỹ và tay sai còn tiến hành nhiều cuộc hành quân với mọi quy mô để
chặn bằng đƣợc tuyến chi viện chiến lƣợc. Từ khi Lon Non lên nắm chính quyền
ở Campuchia (tháng 3 năm 1970), cảng Xihanúc Vin bị khoá chặt, các đoàn hậu
cần của Việt Nam đứng chân trên đất Campuchia gặp khó khăn, tuyến vận tải
chiến lƣợc tây Trƣờng Sơn của Đoàn 559 trở thành tuyến vận chuyển chi viện
chiến lƣợc duy nhất của ba nƣớc Đông Dƣơng; do vậy, ngăn chặn bằng đƣợc
tuyến 559 tây Trƣờng Sơn đã trở thành một mục tiêu chiến lƣợc của đế quốc
Mỹ.
244
. Lực lƣợng địch trên địa bàn chiến dịch lúc cao nhất là 55.000 quân, gồm
15 trung đoàn bộ binh, 3 thiết đoàn thiết giáp, 578 xe tăng, xe bọc thép, 318 pháo,
700 máy bay các loại. Ngoài ra, còn có 2 binh đoàn quân nguỵ Lào.
460
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Đi - Mương Noòng đến A Túc, A Sầu, A Lưới.


Trước âm mưu của địch, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương
Việt Nam quyết định mở chiến dịch phản công đường 9 - Nam
Lào245 để đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719. Ngày 4 tháng 2
năm 1971, Bộ Chỉ huy chiến dịch đường 9 - Nam Lào được thành
lập, do đồng chí Lê Trọng Tấn, Tổng Tham mưu phó làm tư lệnh
và đồng chí Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm
chính uỷ. Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam còn cử Thượng
tướng Văn Tiến Dũng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân uỷ
Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng vào chiến trường làm đại diện
của Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh tại mặt trận.
Với phương châm chỉ đạo đúng đắn, kế hoạch tác chiến được
chuẩn bị kỹ càng, bộ đội Việt Nam đã chủ động đón đánh từng
cánh quân địch, kết hợp với lực lượng phòng không tại chỗ được tổ
chức rộng khắp và bố trí dày đặc ở những nơi dự kiến địch sẽ đổ
quân, bắn rơi nhiều máy bay lên thẳng của địch, tạo thời cơ đánh
những trận hiệp đồng binh chủng lớn, tiêu diệt từng trung đoàn, lữ
đoàn địch. Từ ngày 12 tháng 2 đến 3 tháng 3 năm 1971, lực lượng
chủ lực Việt Nam tiến công dồn dập, bẻ gãy cánh quân chủ lực phía
bắc đường 9 của địch, tiêu diệt những cụm cứ điểm then chốt ở các
điểm cao 500, 543, đập tan cuộc phản kích lớn của Lữ đoàn dù số 3
và Trung đoàn thiết giáp số 17 quân nguỵ Sài Gòn, bắt sống Đại tá
Nguyễn Văn Thọ cùng Ban Tham mưu lữ đoàn, đánh thiệt hại nặng
Liên đoàn biệt động quân số 1.
Về phía Lào, tháng 6 năm 1970, Ban Thường vụ Trung ương

. Lực lƣợng tham gia chiến dịch gồm: 5 sƣ đoàn bộ binh; 4 tiểu đoàn xe
245

tăng, xe thiết giáp; 4 trung đoàn pháo binh; 4 trung đoàn phòng không; 3 trung
đoàn công binh; một số tiểu đoàn đặc công và lực lƣợng chiến đấu tại chỗ của
các mặt trận B4, B5, Đoàn 559, các đơn vị bộ đội tình nguyện và bộ đội Trung -
Hạ Lào, tổng số khoảng 60.000 quân chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
461
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Đảng Nhân dân Lào đã họp và đưa ra nhận định: hướng Trung, Hạ
Lào trong hai năm tới sẽ càng trở nên đặc biệt quan trọng vì liên
quan trực tiếp đến tuyến vận tải chiến lược 559 của Việt Nam. Tiếp
đó, tháng 10 năm 1970, Quân uỷ Trung ương Lào đã ra nghị quyết
về phương hướng nhiệm vụ, kế hoạch quân sự mùa khô 1970 - 1971,
trong đó xác định: “Phải chuẩn bị sẵn sàng đánh bại mọi cuộc tiến
công quy mô lớn của quân nguỵ Sài Gòn và một số quân Mỹ, quân
Thái Lan vào Trung, Hạ Lào và Cánh đồng Chum - Xiêng
Khoảng... phải phối hợp chặt chẽ với chiến trường miền Nam Việt
Nam và Campuchia sẵn sàng đón thời cơ giành thắng lợi lớn
hơn...”246. Đồng thời, Tổng Quân uỷ và Bộ Chỉ huy tối cao Lào
quyết định thành lập năm cụm chiến đấu (tương đương trung đoàn)
bố trí sẵn ở những khu vực quan trọng, trong đó hướng Nam Lào
bố trí hai cụm.
Dự đoán trước âm mưu của địch ở khu vực đường 9 - Nam
Lào, đầu mùa khô 1970 - 1971, Đoàn chuyên gia quân sự 565 và
quân tình nguyện ở Hạ Lào tổ chức các lực lượng thường xuyên
phối hợp chặt chẽ với bộ đội Lào nắm chắc địch, đồng thời đẩy
mạnh các hoạt động sau lưng địch, phá bước chuẩn bị chiến trường
của chúng. Ngày 20 tháng 11 năm 1970, lực lượng tình nguyện
Đoàn 968 đã phối hợp với bộ đội Lào mở đợt tiến công dãy điểm
cao phía đông Bôlavên, các cứ điểm PS38, LS165, Phu Lẳng Kẹo.
Sau khi làm chủ ba căn cứ phía đông Bôlavên, đầu tháng 1 năm
1971, Đoàn 968 tiếp tục tiến công tiêu diệt căn cứ Huội Xài, đồng
thời cùng các đơn vị Lào khẩn trương chuẩn bị chiến trường, tổ
chức các lực lượng chiến đấu sẵn sàng phối hợp với bộ đội chủ lực
Việt Nam, tiến hành sơ tán nhân dân và kho tàng. Những hoạt động

246
. Lịch sử Quân đội nhân dân Lào, bản tiếng Việt, lƣu tại Viện Lịch sử
quân sự Việt Nam, tr.213.
462
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

này đã góp phần tích cực tạo nên sức mạnh để bộ đội hai nước
bước vào cuộc đọ sức quyết liệt với kẻ thù khi chúng mở cuộc hành
quân lớn đánh ra đường 9 - Nam Lào.
Phối hợp với bộ đội chủ lực ở hướng chính, ở phía nam, từ
ngày 7 tháng 3 năm 1971, bộ đội tình nguyện thuộc Đoàn 968 cùng
bộ đội Lào tiến công căn cứ LS165 (Nặm Tiêng), căn cứ PS22 (Nặm
Lực), bao vây căn cứ PS38 (In Thi). ở phía tây đường 9, các tổ công
tác của Đoàn chuyên gia quân sự 565 đã cùng các đại đội 91, 93
quân giải phóng nhân dân Lào và du kích chặn đánh tiêu diệt nhiều
sinh lực của GM33 khi chúng từ Huội Mừn, Tùm Lan tiến ra hỗ trợ
cho cánh quân nguỵ Sài Gòn đánh vào Mương Noòng. Một tổ
chuyên gia khác cùng Tiểu đoàn 14 Quân khu Trung Lào tổ chức các
trận phục kích GM31 ở khu vực Đoông Mốt, Huội Xála, đánh thiệt
hại nặng một tiểu đoàn và sở chỉ huy GM31... Các hoạt động của bộ
đội Lào và quân tình nguyện Việt Nam ở Lào đã góp phần phân tán
sự đối phó của địch, tạo điều kiện để bộ đội chủ lực Việt Nam đánh
những trận tiêu diệt lớn, giành thắng lợi cho chiến dịch.
Ngày 23 tháng 3 năm 1971, sau khi giải phóng Bạn Đông,
chiến dịch phản công đường 9 - Nam Lào kết thúc. Kết quả, quân
dân Việt Nam - Lào đã tiêu diệt và làm bị thương 19.960 tên, bắt
1.142 tù binh, bắn rơi, phá huỷ 556 máy bay, 1.138 xe quân sự, 112
khẩu pháo cối, thu 2 máy bay trực thăng và nhiều vũ khí, phương
tiện quân sự.
Chiến dịch phản công đường 9 - Nam Lào toàn thắng. Cuộc
hành quân Lam Sơn 719, cố gắng cuối cùng trong cơn “giãy chết”
trong chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ đã thất bại thảm
hại. Âm mưu cắt đứt tuyến đường Trường Sơn bằng sức mạnh tổng
lực trong tổng thể chiến lược chiến tranh ngăn chặn của Mỹ hoàn
toàn thất bại. Địch hy vọng làm chủ và biến đường 9 thành “lưỡi
dao” cắt ngang tuyến vận tải quân sự Trường Sơn, song ta đã làm
463
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

chủ con đường này từ Bạn Đông đến Mương Phin. Bộ Chỉ huy
tiền phương Trường Sơn vẫn trụ vững tại huyện lỵ Xê Pôn, sát
cánh cùng các cấp uỷ và chính quyền địa phương Lào trong suốt
chiến dịch.
Thắng lợi ở đường 9 - Nam Lào đã đánh gục vai trò nòng cốt
của quân nguỵ Sài Gòn trong âm mưu “dùng người Đông Dương,
đánh người Đông Dương” của Mỹ, mở ra triển vọng mới cho cách
mạng Lào và toàn bộ chiến trường Đông Dương. Chiến thắng
đường 9 - Nam Lào không chỉ khẳng định sức mạnh to lớn của
quân đội và nhân dân Việt Nam, mà còn là sự khẳng định sức mạnh
vĩ đại của tình đoàn kết Việt Nam - Lào trong suốt cuộc kháng
chiến.
Đồng chí Đồng Sĩ Nguyên, nguyên Tư lệnh Đoàn 559 đã có
những lời nói cảm động về sự ác liệt và hình ảnh những người chiến
sĩ Việt Nam - Lào trong chiến dịch này: “Trong cuộc chiến này, khi
mà đối phương huy động tối đa sức mạnh tổng lực hòng xoá con
đường Trường Sơn; khi mà biết bao đồng chí, đồng bào ngã xuống,
nằm lại vĩnh viễn với những đồi lau xơ xác, những bìa rừng khuất
nẻo... vì sự sống của con đường, vì sự toàn thắng của chiến dịch, nếu
như ai đó thi vị hoá hết thảy sẽ là tội lỗi. Nhưng nếu không tìm thấy
cội nguồn chiến thắng từ những bước chân nhún nhảy của những
chàng trai, cô gái Pa Cô trên đường tải đạn, trong âm vang réo rắt
tiếng đàn ta lư, hay điệu lăm vông của những nam nữ chiến sĩ quân
giải phóng Lào sau từng trận đánh..., thì cũng khó lý giải hết tầm thế
của chiến công này..., và vì sao ta chiến thắng!”247.
Tại Mặt trận Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, trong thời gian
diễn ra chiến dịch phản công ở đường 9 - Nam Lào, Quân khu

247
. Đồng Sĩ Nguyên: Đường xuyên Trường Sơn, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà
Nội, 1999, tr.224.
464
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng phối hợp cùng bộ đội tình
nguyện Việt Nam mở chiến dịch 74B (từ ngày 21 tháng 2 đến 30
tháng 4 năm 1971), giải phóng được Mương Xủi, Buôm Loộng,
loại khỏi vòng chiến đấu 2.800 tên.
Phối hợp với đấu tranh quân sự trên mặt trận đường 9, quân
dân Lào đã đẩy mạnh đấu tranh chính trị, ngoại giao và xây dựng cơ
sở ở vùng địch tạm chiếm. Phong trào đấu tranh của học sinh, sinh
viên Lào đòi chấm dứt chiến tranh, thực hiện hoà hợp dân tộc phát
triển rộng rãi trong các đô thị. Trên mặt trận đấu tranh ngoại giao,
ngay sau chiến thắng đường 9 - Nam Lào, ngày 27 tháng 3 năm
1971, Trung ương Neo Lào Hắc Xạt đã đưa ra sáng kiến hoà bình
mới, bổ sung cho giải pháp chính trị năm điểm (đưa ra ngày 26
tháng 3 năm 1970), đòi Mỹ phải chấm dứt ném bom hoàn toàn và
không điều kiện ở Lào thì mới có ngừng bắn và thành lập Chính
phủ liên hiệp dân tộc lâm thời. Những hoạt động mạnh mẽ của
quân dân Lào đã đẩy quân ngụy Lào vào thế bị động, lúng túng.
Tháng 7 năm 1971, lợi dụng mùa mưa, địch huy động 21 tiểu
đoàn quân đặc biệt Vàng Pao, 10 tiểu đoàn lính Thái Lan (sau đó
tăng lên 33 tiểu đoàn) lấn chiếm tây nam Cánh đồng Chum, đồng
thời sử dụng hai trung đoàn của Sư đoàn 1 ngụy Viêng Chăn (thời
gian này địch thành lập hai sư đoàn làm thí điểm) từ Xála Phu
Khun tiến đánh Mương Xủi. Mục tiêu của chúng là chiếm lại
Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, tiến sát biên giới Lào - Việt
Nam, uy hiếp Sầm Nưa và miền Bắc Việt Nam. Sau cuộc hành
quân Cù Kiệt thì cuộc hành quân này được coi là thử nghiệm lớn
thứ hai nhằm kiểm chứng sức mạnh và vai trò của “lực lượng đặc
biệt” trong chiến lược mới Chiến tranh đặc biệt tăng cường. Tuy
nhiên, các cánh quân của chúng đã bị các lực lượng thuộc Quân
khu Cánh đồng Chum, lực lượng trung lập và dân quân du kích địa
phương Lào phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam chặn đánh
465
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

quyết liệt, loại khỏi vòng chiến đấu 7.118 tên, buộc phải dừng lại
phòng ngự trước sân bay Cánh đồng Chum.
Kiên quyết không để địch lấn sâu vào vùng Xiêng Khoảng,
Quân uỷ Trung ương Lào và Việt Nam đã thống nhất tập trung lực
lượng để bảo vệ và củng cố khu vực chiến lược trọng yếu này. Hai
bên đã quyết định mở chiến dịch tiến công mùa khô 1971 - 1972
(chiến dịch mang mật danh Z) nhằm giải phóng Xảm Thông -
Loòng Chẹng, đập tan hệ thống phòng ngự của địch ở tuyến ngoài,
phát triển vào hậu cứ Na Xịa của Quân khu 2 Vàng Pao; trên cơ sở
đó, tổ chức phòng thủ vững chắc và lâu dài khu vực Cánh đồng
Chum - Xiêng Khoảng - Mương Xủi248.
Ngày 18 tháng 12 năm 1971, chiến dịch mở màn. Qua hơn 110 ngày
đêm (từ ngày 18 tháng 12 năm 1971 đến 5 tháng 4 năm 1972) chiến đấu
quyết liệt, gian khổ, bộ đội Lào - Việt Nam đã đập tan tập đoàn
phòng ngự lớn nhất từ trước tới nay của địch từ Cánh đồng Chum
đến Mương Xủi, uy hiếp “thủ đô Loòng Chẹng” của Vàng Pao,
buộc địch phải dùng 18 tiểu đoàn để giữ Loòng Chẹng. Chiến dịch
đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên, trong đó có 3.532 lính
Thái Lan; giải phóng một vùng rộng lớn với hơn 1 vạn dân từ Ka
Xỷ đến Xála Phu Khun, Kìu Kachăm, Bạn Na, Thặm Lửng, Phu
Phả Xây; đánh bại nỗ lực lớn nhất của Mỹ trong việc áp dụng công

248
. Lực lƣợng tham gia chiến dịch gồm: 2 sƣ đoàn bộ binh (316, 312), 2
trung đoàn quân tình nguyện (335, 866), 2 tiểu đoàn pháo binh (42, 16), 4 tiểu
đoàn phòng không, 2 tiểu đoàn trinh sát đặc công, 1 tiểu đoàn tăng thiết giáp, 3
tiểu đoàn công binh. Phía Lào có: các tiểu đoàn 1, 2, 13, Pắtchây, tiểu đoàn pháo
binh, Đại đội nữ pháo binh 769, đại đội xe tăng, các tiểu đoàn 15, 48, 116 trung
lập, 3 đại đội địa phƣơng, 1 đại đội pháo binh, lực lƣợng dân quân du kích địa
phƣơng. Bộ Tƣ lệnh chiến dịch do đồng chí Vũ Lập làm tƣ lệnh, đồng chí Huỳnh
Đắc Hƣơng làm chính uỷ. Đồng chí Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mƣu trƣởng,
đại diện Bộ Quốc phòng và Quân uỷ Trung ƣơng đi cùng trực tiếp chỉ đạo chiến
dịch.
466
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

thức “quân Thái Lan làm nòng cốt phối hợp với quân Vàng Pao
dưới sự chi viện của không quân Mỹ”.
ở Hạ Lào, mùa mưa năm 1971, địch huy động các binh đoàn
30, 33, 40, 42 quân phái hữu, 11 tiểu đoàn quân đặc biệt Vàng Pao
và bốn tiểu đoàn quân Thái Lan, được sự chi viện của không quân
Mỹ, tiến công chiếm lại Xalavăn, Pạc Xoòng, Lao Ngam, Bạn
Phôn, Thà Teng và có ý định tiến công chiếm lại áttapư. Trước tình
hình trên, cuối tháng 11 năm 1971, Bộ Tổng Tham mưu Việt Nam
đã điều Trung đoàn 141 (Sư đoàn 2 Quân khu 5) tăng cường cho
Hạ Lào, đồng thời giao nhiệm vụ cho các lực lượng quân tình
nguyện Đoàn 968 phối hợp với chuyên gia quân sự và quân dân Hạ
Lào thực hiện tốt các nhiệm vụ: kiên quyết bảo đảm và giữ vững
tuyến chi viện chiến lược Đoàn 559; giải phóng và giữ vững những
khu vực then chốt ở Hạ Lào; chuẩn bị tốt mọi mặt, giữ vững thắng
lợi để tiếp tục phát triển tiến công...
Từ ngày 6 tháng 12, các đơn vị của Đoàn 968 quân tình nguyện
Việt Nam phối hợp cùng Tiểu đoàn 11, Đại đội 26 của tỉnh Xalavăn
nổ súng tiến công Xalavăn, Thà Teng, Pạc Xoòng. Kết quả, ta tiêu
diệt và bắt sống 2.400 tên địch (trong đó có 300 lính Thái Lan), bắn
rơi tám máy bay Mỹ, thu hồi toàn bộ khu vực cao nguyên Bôlavên,
Xalavăn.
Đầu năm 1972, cùng với chiến dịch phản công đánh bại cuộc
phản kích quy mô lớn của địch ra khu vực Cánh đồng Chum -
Xiêng Khoảng, dồn chúng vào Loòng Chẹng, bộ đội Lào - Việt
Nam còn quét và thu phục phỉ ở Luổng Phạbang, Luổng Nặm
Thà; đánh bại cuộc hành quân của quân nguỵ Lào phối hợp với
quân Thái Lan ra vùng Xalavăn, Mương Pha Lan, Pạc Xoòng, dồn
địch ra bờ sông Mê Công. Đây là những thắng lợi có tầm quan
trọng chiến lược, làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho
cách mạng Lào.
467
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng Nhân dân Lào
Nhận thức rõ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân các bộ tộc Lào đang ở giai đoạn bước ngoặt, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Nhân dân Lào triệu tập Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II để xác định đường lối đưa cách mạng tiến nhanh
trong giai đoạn mới. Sau một thời gian họp trù bị, Đại hội chính
thức khai mạc ngày 3 tháng 2 và kết thúc ngày 6 tháng 2 năm 1972
tại Viêng Xây, tỉnh Hủa Phăn. Về dự Đại hội lần này có 125 đại
biểu đại diện cho hàng vạn đảng viên trong cả nước. Đồng chí
Cayxỏn Phômvihản đã trình bày báo cáo chính trị, tổng kết công
tác lãnh đạo của Đảng Nhân dân Lào trong 26 năm qua và khẳng
định sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng Lào.
Đại hội đã phân tích tình hình thế giới và tình hình trong nước,
tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo trong nhiệm kỳ qua và đề ra nhiệm
vụ của cách mạng trong giai đoạn mới là: “Đoàn kết nhân dân các
bộ tộc, đánh đổ đế quốc xâm lược, tập đoàn tư sản mại bản quan
liêu, quân phiệt và giai cấp phong kiến, hoàn thành cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, chuẩn bị mọi điều kiện cần
thiết để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua con đường phát
triển tư bản chủ nghĩa, làm cho nước Lào thành một nước hoà
bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng, tích cực góp
phần vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương, Đông Nam á và thế giới”249.
Đại hội đã thông qua bản sửa đổi điều lệ Đảng và quyết định
đổi tên Đảng thành Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Đại hội đã
nhất trí suy tôn đồng chí Hồ Chí Minh là lãnh tụ của Đảng và quyết

249
, 2. Cayxỏn Phômvihản: Về cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Lào, Sđd,
tr.69, 85.
468
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

định đặt tượng của Người ở vị trí trang nghiêm của Đại hội. Đại hội
còn thông qua bản Nghị quyết “Tăng cường đoàn kết Lào - Việt
Nam”, trong đó xác định tình đoàn kết Lào - Việt Nam trên cơ sở
chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh thần quốc tế vô sản, là mối quan hệ
đặc biệt. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 23 ủy
viên chính thức và sáu ủy viên dự khuyết. Đồng chí Cayxỏn
Phômvihản được Trung ương bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội II của Đảng là sự kiện có ý nghĩa lịch sử, có tầm quan
trọng trong đời sống chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào; đánh
dấu sự trưởng thành về chính trị và tổ chức của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào, người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách
mạng Lào. Nghị quyết của Đại hội là bó đuốc soi đường cho toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân Lào vững bước tiến lên chiến thắng kẻ
thù, đưa cách mạng Lào tiến lên giai đoạn mới2.
Trong quá trình Lào chuẩn bị Đại hội, Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam, mà trực tiếp là các đồng chí chuyên gia, đã góp
phần cùng Trung ương Lào nghiên cứu đường lối cách mạng Lào,
đề ra cương lĩnh chính trị và điều lệ sửa đổi. Ngay từ năm 1970, đại
diện Đảng Nhân dân Lào và đại diện Đảng Lao động Việt Nam,
đứng đầu là các đồng chí Cayxỏn Phômvihản và Lê Duẩn, đã tiến
hành hội đàm để trao đổi về bản dự thảo cương lĩnh chính trị của
Đảng Nhân dân Lào. Chuyên gia Việt Nam cũng đã cử nhiều tổ
công tác xuống cơ sở nghiên cứu các mặt kinh tế, xã hội Lào làm
cơ sở để Trung ương Lào xây dựng cương lĩnh. Chuyên gia còn
góp phần cùng các cơ quan trung ương và địa phương Lào tổ chức
đại hội các cấp và tổ chức đại hội thành công, an toàn. Trong điều
kiện vùng giải phóng Lào phân tán, giao thông khó khăn, chiến
tranh ác liệt, việc tổ chức Đại hội lần thứ II Đảng Nhân dân Lào là
một cố gắng rất lớn của toàn quân, toàn dân Lào, cũng như đội ngũ
chuyên gia Việt Nam.
469
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Đảng Lao động Việt Nam đã cử một đoàn đại biểu, do đồng chí
Võ Nguyên Giáp, ủy viên Bộ Chính trị dẫn đầu, đến dự Đại hội
Đảng Nhân dân Lào. Sau thời gian tham dự Đại hội, đồng chí Võ
Nguyên Giáp đã dành thời gian thăm hỏi, trao đổi với các đồng chí
lãnh đạo đoàn chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam về tình
hình bộ đội Việt Nam ở Lào thời gian qua và nhiệm vụ trong thời
gian tới. Đồng chí căn dặn cán bộ các đoàn chuyên gia và quân tình
nguyện tập trung mọi nỗ lực giúp Lào tốt hơn nữa, làm cho mối quan
hệ hữu nghị Việt Nam - Lào ngày càng thêm keo sơn, gắn bó.
Sau Đại hội, Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách
mạng Lào chủ trương tiến hành chỉnh huấn Đảng lần thứ ba. Đội
ngũ chuyên gia Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
giáo dục, tuyên truyền của Trung ương Lào biên soạn tài liệu, cụ
thể hoá Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng; tiếp đó cùng các cơ
quan tổ chức tiến hành chỉnh huấn sâu rộng trong toàn Đảng.
Nhiệm vụ chỉnh huấn Đảng trong quân đội được Tổng Quân uỷ
Lào xác định vào đầu mùa mưa năm 1972. Để kịp thời giúp triển
khai đợt chỉnh huấn Đảng trong các lực lượng vũ trang Lào, chuyên
gia quân sự đã phối hợp với các cơ quan chức năng xuống các đơn
vị cơ sở tổ chức sinh hoạt chính trị, quán triệt Nghị quyết Đại hội
Đảng, nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang.

3. Phối hợp đẩy mạnh tiến công, buộc Mỹ và tay sai phải ký
Hiệp định Pari và Hiệp định Viêng Chăn
Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của lực lượng cách mạng Đông
Dương, mà đặc biệt là các chiến trường đường 9 - Nam Lào, Đông
Bắc Campuchia, Tây Nguyên trong Xuân - Hè 1971 đã làm thất bại
nặng nề chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ. Trên chiến
trường miền Nam, địch phải chuyển hẳn vào thế phòng ngự, quân
Mỹ tiếp tục rút khỏi chiến trường, quân nguỵ bị sa sút về tinh thần,
470
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

thiếu quân cơ động, sức chiến đấu giảm.


Để thúc đẩy chiều hướng phát triển của tình hình có lợi cho
cách mạng, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam tháng 5 năm 1971, chủ trương: phát triển thế tiến công chiến
lược trên toàn chiến trường, đánh bại chiến lược Đông Dương hoá
chiến tranh của đế quốc Mỹ, giành thắng lợi có tính quyết định
trong năm 1972, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương
lượng trên thế thua; trước mắt, mở các chiến dịch tiến công lớn của
bộ đội chủ lực trên các hướng chiến lược quan trọng là miền Đông
Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị - Thiên, đồng thời đẩy mạnh tiến công
quân sự rộng khắp, kết hợp với quần chúng nổi dậy phá kế hoạch
“bình định” của chúng ở nông thôn rừng núi và nông thôn đồng
bằng, thúc đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng ở các đô thị,
làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Công tác chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược được tiến
hành khẩn trương. Từ giữa năm 1971, toàn bộ lực lượng trên toàn
tuyến 559 tập trung xây dựng, cải tạo hệ thống cầu đường nhằm tạo
ra một thế trận mới có chính diện vượt khẩu, kéo dài 250 km, với
sáu tuyến cắt ngang dãy Trường Sơn, nối mạng tây Trường Sơn với
tuyến đông Trường Sơn chạy sát sườn địch, nhanh chóng tiếp cận
chiến trường, đồng thời lợi dụng sự trái ngược thời tiết đông và tây
Trường Sơn để vận chuyển cả hai mùa; có tuyến đường kín mang
ý nghĩa chiến lược, gây cho địch bất ngờ, có khả năng vô hiệu hoá
đối tượng cực kỳ nguy hiểm là máy bay AC130; đồng thời cho
phép vận tải ban ngày theo đội hình lớn, chạy thẳng cung dài từ đầu
tuyến theo đường tây Trường Sơn trên đất Lào đến vùng ngã ba
biên giới (Tây Nguyên).
Từ ngày 20 tháng 10 đến 15 tháng 11 năm 1971, trên 20.000 bộ
đội cùng 1.200 xe, 250 khẩu pháo và hàng trăm tấn khí tài công
binh, thông tin nhập tuyến, vượt cửa khẩu sang Lào, hành quân vào
471
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

các chiến trường chuẩn bị cho cuộc tiến công. Đường ống xăng dầu
của Việt Nam cũng dẫn được hơn 1 vạn tấn vào miền Nam. Các
đơn vị: Sư đoàn 320, các trung đoàn 24B, 27, 271; 20 tiểu đoàn xe
tăng, xe thiết giáp, pháo binh, cao xạ, vận tải cơ giới; 9 tiểu đoàn và
44 đại đội bộ đội địa phương lần lượt hành quân vào chiến trường.
Đến đầu năm 1972, các khối chủ lực của các mặt trận Trị - Thiên,
Khu 5, Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ đã được bổ sung nhiều
đơn vị binh chủng kỹ thuật, như súng cối 160 mm, pháo nòng dài
122 mm và 130 mm, tên lửa B72, tên lửa A72. ở miền Đông Nam
Bộ đã thành lập Đoàn pháo binh 75, Trung đoàn thiết giáp 26, bảo
đảm đủ lương thực cho bộ đội cả năm 1972. Vùng ngã ba biên giới
như bừng lên một sức sống mới. Bộ đội đi lại nhộn nhịp, nhiều khu
trú quân mới mọc lên và từ hành lang chiến lược, những chiếc xe
tăng, xe kéo pháo, xe vận tải nối đuôi nhau rẽ vào chiến trường.
Đường tây Trường Sơn và quân, dân Lào trên tuyến đường đã góp
phần không nhỏ trong việc chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược
năm 1972 trên chiến trường miền Nam.
Ngày 30 tháng 3 năm 1972, cuộc tiến công chiến lược mở màn.
Trên hướng chủ yếu Trị - Thiên, trong năm ngày đầu chiến dịch,
bộ đội Việt Nam đã phá vỡ tuyến phòng thủ cơ bản của địch; giải
phóng hoàn toàn hai huyện Gio Linh và Cam Lộ; diệt và bắt toàn
bộ Trung đoàn 56 địch. Tiếp đó, tiến công tiêu diệt được tập
đoàn cứ điểm Đông Hà - Lai Phước, các cụm quân địch ở ái Tử,
La Vang, thị xã Quảng Trị, giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị
(tỉnh đầu tiên được giải phóng ở miền Nam). Trên hướng Tây
Nguyên, các sư đoàn chủ lực Việt Nam có xe tăng và pháo binh
hạng nặng đã tiến công giải phóng Đắc Tô - Tân Cảnh và vùng đất
đai rộng lớn, áp sát thị xã Kon Tum. Trên hướng miền Đông Nam
Bộ, chiến trường sát nách Sài Gòn, bộ binh và xe tăng Việt Nam
cũng dồn dập tiến công giải phóng thị xã Lộc Ninh, đập tan toàn
472
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

bộ hệ thống phòng thủ phía trước trên vòng cung phía bắc Sài
Gòn của địch. Trên cả ba hướng, bộ đội Việt Nam đã loại khỏi
vòng chiến đấu gần 10 vạn tên địch, đẩy quân nguỵ trước nguy cơ
sụp đổ nghiêm trọng.
Phối hợp với chiến trường Việt Nam, lực lượng vũ trang của
Lào đẩy mạnh hoạt động trên các chiến trường. Tại Hạ Lào, Tiểu
đoàn 11 và các đơn vị địa phương phối hợp với Đoàn 968 quân tình
nguyện Việt Nam giải phóng Pạc Xoòng, Huội Coòng, đánh thiệt
hại bốn tiểu đoàn của quân phái hữu và hai tiểu đoàn quân Thái
Lan. Đại đội 26 và bộ đội huyện đã tập kích và giải phóng thị trấn
Khôngxêđôn (phía bắc Pạc Xê 50 km). Tiểu đoàn địa phương
Chămpaxắc chiếm thị trấn Phia Phay (nam Pạc Xê 45 km). Tại
Trung Lào, quân giải phóng Lào cùng bộ đội tình nguyện Việt Nam
đánh bại nhiều cuộc tiến công lấn chiếm của địch, bảo vệ được
vùng giải phóng, đồng thời liên tục tổ chức tiến công địch ở Xê Nô,
Thà Khẹc, Mương Pha Lan, Đồng Hến... Tại Bắc Lào, bộ đội Lào,
Việt Nam tiến công giải phóng Pạc U, Pạc Xương, tập kích địch ở
Xiêng Ngân và sân bay Luổng Phạbang...
Trên chiến trường trọng điểm Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng,
sau chiến dịch phản công thắng lợi, Bộ Chỉ huy tối cao Quân giải
phóng nhân dân Lào cùng Quân uỷ Trung ương Việt Nam quyết
định tổ chức chiến dịch phòng ngự nhằm đánh bại âm mưu giành
lại địa bàn quan trọng này trong mùa mưa của địch, đồng thời góp
phần bảo vệ sườn phải cho cuộc tiến công chiến lược của Việt Nam
ở Trị - Thiên, Tây Nguyên. Phạm vi phòng ngự nằm trong tứ giác
Mương Xủi - Noỏng Pết - Thặm Lửng - Xiêng Khoảng.
Đây là chiến dịch phòng ngự có quy mô lớn nhất250 và diễn ra

. Lực lƣợng Việt Nam tham gia chiến dịch gồm Sư đoàn 316 (có 2 trung
250

đoàn 174 và 149), 2 trung đoàn độc lập (335 và 866), 2 tiểu đoàn đặc công (27,
473
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

trong thời gian dài nhất trên chiến trường Lào (từ ngày 20 tháng 5
đến 15 tháng 11 năm 1972). Với nhiều cách đánh linh hoạt, sáng
tạo và tinh thần chiến đấu kiên cường dũng cảm, quân tình nguyện
Việt Nam cùng quân dân Lào đã đánh bại các đợt tiến công của 8
binh đoàn cơ động của Vàng Pao, 9 tiểu đoàn đặc biệt (BS), 4 tiểu
đoàn tình nguyện (BV), 18 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn pháo binh
của Thái Lan, 2 binh đoàn, 2 lữ đoàn bộ binh nguỵ và có sự chi
viện tối đa của không quân Mỹ; loại khỏi vòng chiến đấu 5.631 tên
địch, bắn rơi 38 máy bay, đánh thiệt hại nặng 3 binh đoàn nguỵ và
3 tiểu đoàn lính Thái Lan.
Thắng lợi của chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum - Xiêng
Khoảng mùa mưa 1972 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, ta đã đánh
bại cố gắng cao nhất của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai muốn chiếm
địa bàn chiến lược để giành thế có lợi cho giải pháp chính trị của
chúng. Chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng
góp phần tạo thế hơn hẳn của cách mạng Lào trong đàm phán tìm
giải pháp chính trị.
Phối hợp chặt chẽ với quân, dân Cánh đồng Chum, ở Hạ Lào
mùa mưa năm 1972, quân tình nguyện Việt Nam cùng các đơn vị
quân giải phóng nhân dân Lào đã đập tan cuộc hành quân Sư tử đen
của quân phái hữu Viêng Chăn vào khu vực Khôngxêđôn, đường
23, Pạc Xoòng, Xalavăn, Thà Teng, Bôlavên, loại khỏi vòng chiến
đấu nhiều đơn vị của các binh đoàn 32, 41, 42, bảo vệ được vùng
giải phóng và tuyến vận tải chiến lược 559. Bước vào mùa khô

41), 1 tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp, 2 tiểu đoàn cao xạ 37 ly, 2 tiểu đoàn súng
phòng không 14,5 mm và 12,7 mm, Tiểu đoàn pháo binh 42... (đến tháng 10 năm
1972, Bộ Tổng Tham mƣu tăng cƣờng thêm Trung đoàn 88 thuộc Sư đoàn 308C).
Lực lƣợng của Lào có 7 tiểu đoàn bộ binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội pháo xe
kéo, 1 đại đội pháo mang vác, 2 đại đội cao xạ, 1 đại đội công binh, cùng 1 đại
đội (Quân khu), 1 đại đội của tỉnh và 8 trung đội của hai huyện Mƣơng Pẹc và
Mƣơng Khăm.
474
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

1972 - 1973, địch tăng cường quân ở Hạ Lào lên 35 tiểu đoàn bộ
binh, một tiểu đoàn cơ giới, một trung đoàn và 11 tiểu đoàn quân
Thái Lan, tổ chức phòng thủ trên cả hai hướng Pạc Xê, Khôngxêđôn,
đồng thời mở một số cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng và
phá tuyến vận chuyển chiến lược 559.
Theo dõi các diễn biến về địch, sáng ngày 18 tháng 10 năm
1972, Trung đoàn 9 nổ súng tấn công ngã ba Lao Ngam. Trung
đoàn 39 tiến công Lữ đoàn 22 ở Cút Ta Bèng, Cút Nặm Ly, Na
Káxao, Phu Khoổng. ở hướng Xalavăn, ngày 19 và 20 tháng 10,
địch dùng trực thăng đổ GM41, GM42 xuống tây nam thị xã. Tiểu
đoàn 6 Trung đoàn 19 chiến đấu ngoan cường, song đến chiều ngày
26 tháng 10, địch vẫn chiếm được thị xã. Do yêu cầu hỗ trợ cho đấu
tranh chính trị và ngoại giao trên bàn đàm phán của bạn, quân tình
nguyện Việt Nam cùng các đơn vị quân giải phóng Lào đã tập
trung lực lượng giải phóng thị xã Xalavăn vào ngày 15 tháng 11.
Những ngày cuối năm 1972 đầu năm 1973, địch tập trung quân hai
lần đánh chiếm lại thị xã Xalavăn nhưng đều bị thất bại. Đầu tháng
1 năm 1973, địch lại tập trung quân ở Pạc Xê theo đường 23 đánh
chiếm lại thị xã Pạc Xoòng. Trong thời điểm chuẩn bị có giải pháp
chính trị về Lào, theo yêu cầu của Bộ Chỉ huy tối cao Lào, quân
tình nguyện Việt Nam và bộ đội Lào đã kiên quyết tiến công đẩy
địch ra khỏi thị xã Pạc Xoòng, giữ vững thị xã Xalavăn.
Trong thời điểm chuẩn bị có hiệp định ngừng bắn, diễn biến tư
tưởng của cán bộ, chiến sĩ có nhiều phức tạp, công tác chính trị đã
được các chuyên gia Việt Nam đặc biệt coi trọng. Chuyên gia đã
giúp tổ chức các đội công tác bám sát từng đơn vị, nhất là ở những
địa bàn quan trọng, tiến hành giáo dục để bộ đội thấy rõ âm mưu
thủ đoạn của kẻ thù; quán triệt và tổ chức tốt công tác xây dựng cơ
sở quần chúng cách mạng trong nhân dân, công tác binh vận, địch
vận... Đặc biệt, về công tác xây dựng đảng trong lực lượng vũ
trang, chuyên gia Việt Nam đã giúp kiện toàn tổ chức các cấp uỷ,
475
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

phát triển đảng viên có đủ số lượng, bảo đảm chất lượng. Số lượng
đảng viên của Lào năm 1972 so với năm 1962 tăng lên 7,15 lần. Tỷ
lệ lãnh đạo trong quân đội đạt 20 - 21%.
Trên lĩnh vực xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, tháng 6 năm
1969, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam đã ra nghị quyết giúp Lào phát triển kinh tế, văn hoá ở
vùng giải phóng, xác định: giúp Lào xây dựng nền kinh tế dân chủ
nhân dân, phát triển văn hoá dân tộc trong vùng giải phóng là một
nội dung hết sức quan trọng trong công tác chi viện cho cách mạng
Lào hiện nay; nội dung giúp Lào xây dựng kinh tế, phát triển văn
hoá bao gồm các mặt như giúp ý kiến, kinh nghiệm, đường lối,
phương châm, chính sách, kế hoạch và chuyên gia; phương châm
giúp là toàn diện, cơ bản, liên tục, lâu dài, lấy việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công nhân kỹ thuật và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật làm khâu quan trọng nhất để tạo điều kiện cho bạn ngày càng
phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, tiến lên một cách vững chắc;
trực tiếp xây dựng một số công trình kinh tế, văn hoá để phát triển
sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân ở các vùng giải phóng...
Sau khi có nghị quyết của Bộ Chính trị, các bộ, ngành của Việt
Nam đã chú trọng tăng cường đội ngũ chuyên gia cũng như cơ sở vật
chất giúp Lào. Một số địa phương giáp biên giới cũng mở rộng quan
hệ giúp đỡ bạn. Ngay từ tháng 5 năm 1967, tỉnh Thanh Hoá đã ký
kết hiệp định giúp tỉnh Hủa Phăn phát triển kinh tế, văn hoá - xã
hội. Tiếp đó, tháng 6 năm 1967, tỉnh đã cử đoàn cán bộ đầu tiên sang
giúp Lào. Cuối năm 1969, hai đoàn đại biểu tỉnh Thanh Hoá và Hủa
Phăn tiến hành hội đàm để nhận định về sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau
xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá trong ba năm qua, đồng thời ký
hiệp định tiếp tục hợp tác giúp đỡ nhau về mọi mặt trong hai năm
1970 - 1971. Theo hiệp định, trong hai năm 1970 - 1971, Thanh Hoá
sẽ giúp Hủa Phăn đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là trọng tâm, nhằm
nhanh chóng tự túc được lương thực - thực phẩm, đáp ứng được yêu
476
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

cầu chiến đấu, sản xuất và đời sống nhân dân.


Tiếp tục giúp Lào xây dựng vùng giải phóng vững mạnh,
chuyên gia chính trị đã cùng các cơ quan của Lào nghiên cứu, tham
mưu để Thường vụ Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào đề
ra nghị quyết (tháng 8 năm 1971) phát triển kinh tế trong ba năm
(1971 - 1973). Nội dung chính của nghị quyết là tập trung mọi lực
lượng cán bộ, bộ đội, nhân dân đẩy mạnh sản xuất nhằm đáp ứng
yêu cầu chiến đấu và đời sống của nhân dân về lương thực, thực
phẩm và đồ dùng sinh hoạt; tạo tiền đề để xây dựng nền kinh tế
vững mạnh khi có điều kiện. Chú ý phát triển toàn diện nông
nghiệp, thủ công nghiệp nhưng nông nghiệp là chủ yếu...
Sau Đại hội lần thứ II Đảng Nhân dân cách mạng Lào, các bộ,
ngành của Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định hợp tác, giúp đỡ với
các bộ, ngành của Lào như lâm nghiệp, công nghiệp nhẹ, thủ công
nghiệp và địa chất (tháng 2 năm 1972), giao thông vận tải (tháng 4
năm 1972) và thuỷ lợi (tháng 5 năm 1972), nhằm nâng cao tốc độ
phát triển kinh tế trong vùng giải phóng Lào.
Được sự giúp đỡ của Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa,
đến cuối năm 1972, vùng giải phóng Lào chẳng những được giữ
vững mà còn được mở rộng và củng cố, đã nối liền từ Bắc đến Nam
và từng bước xây dựng theo quy mô một quốc gia. Nhân dân các bộ
tộc Lào trong vùng giải phóng từ địa vị nô lệ trở thành người làm
chủ đất nước và đang tích cực tham gia xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân, xây dựng cuộc đời mới của mình. Sản xuất phát triển,
mạng lưới giao thông và lưu thông phân phối ngày càng mở rộng.
Mặc dù chiến tranh ác liệt nhưng đời sống nhân dân trong vùng giải
phóng cơ bản được giữ vững. Vùng giải phóng đã có nền tài chính
riêng, có một số xí nghiệp công nghiệp nhỏ, có thương nghiệp quốc
doanh, nhiều tỉnh đã bước đầu tự túc được lương thực...
Trước những thắng lợi to lớn về mọi mặt của cách mạng ba
nước Đông Dương, tháng 10 năm 1972, trên bàn Hội nghị Pari,
477
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Mỹ đã nhất trí với dự thảo văn bản “Hiệp định về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam”. Nhưng với bản chất hiếu
chiến và ngoan cố, ngày 18 tháng 12 năm 1972, đế quốc Mỹ đã mở
cuộc tập kích lớn251 bằng không quân chiến lược vào Hà Nội, Hải
Phòng và một số cơ sở công nghiệp ở miền Bắc Việt Nam, hòng
bắt nhân dân Việt Nam phải khuất phục và ký Hiệp định Pari có
lợi cho Mỹ - ngụy.
Dự đoán trước âm mưu của Mỹ, nhân dân Việt Nam anh hùng
trong 12 ngày đêm đánh trả cuộc tập kích đã bắn rơi 81 máy bay,
trong đó có 34 pháo đài bay B52, làm nên một “Điện Biên Phủ trên
không” oanh liệt. Chiến dịch phòng không đập tan cuộc tập kích
đường không chiến lược của Mỹ trong tháng 12 năm 1972 ở Hà Nội,
Hải Phòng là chiến dịch đầu tiên trên thế giới bắn rơi nhiều máy bay
B52, giáng cho không quân Mỹ đòn thất bại nặng nề nhất trong lịch
sử, đánh bại cố gắng cuối cùng của đế quốc Mỹ trong năm 1972.
Nỗ lực cuối cùng của Mỹ ở Việt Nam bị thất bại, buộc chúng
phải ký Hiệp định Pari (ngày 27 tháng 1 năm 1973) chấm dứt chiến
tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Hiệp định này buộc Mỹ và chư
hầu không những phải rút khỏi Đông Dương, mà còn phải cam kết
tôn trọng chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và
Campuchia, mở ra cục diện mới cho cuộc đấu tranh cách mạng trên

251
. Cuộc tập kích mang mật danh cuộc hành quân Lainơbếchcơ II. Trong
cuộc tập kích, Mỹ sử dụng hầu hết số máy bay của Tập đoàn Không quân số 8,
gồm: Liên đội 43 và 76 ở Guyam; Liên đội 307 ở Utapao (Thái Lan), với 193
chiếc B52, chiếm 50% số máy bay B52 hiện có của Mỹ; hai đại đội F111A gồm
48 chiếc, cùng 999 máy bay chiến đấu các loại bố trí ở Thái Lan, miền Nam Việt
Nam và trên 6 tàu sân bay ở biển Đông. Ngoài ra, còn có một số máy bay tiếp dầu
KC135 và các máy bay bảo đảm khác. Số tàu chiến ở vịnh Bắc Bộ tăng từ 18 lên
66 tàu, chiếm 60% tổng số tàu chiến đấu và tàu đổ bộ của Hạm đội 7. Toàn bộ
lực lƣợng này đƣợc đặt dƣới sự chỉ huy của Bộ Chỉ huy Tập đoàn Không quân
chiến lƣợc lâm thời số 57, sở chỉ huy đặt tại Guyam.
478
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

toàn bộ bán đảo Đông Dương.


Trước khi chính thức ký kết Hiệp định Pari, ngày 20 tháng 1
năm 1973, Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam, do đồng chí
Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất dẫn đầu, và Đoàn đại biểu Đảng Nhân
dân cách mạng Lào, do đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư
Đảng Nhân dân cách mạng Lào làm trưởng đoàn, đã tiến hành hội
đàm tại Hà Nội, thông báo về việc ký kết Hiệp định Pari và phương
hướng đấu tranh trong hội đàm ký kết Hiệp định Viêng Chăn của
Lào. Đồng chí Lê Duẩn đã thông báo cho Đoàn đại biểu Lào về
việc Việt Nam và Mỹ sắp ký kết các hiệp định và khẳng định đây là
một thắng lợi rất to lớn và quan trọng của cách mạng Việt Nam
cũng như ba nước Đông Dương.
Về tình hình Lào, đồng chí Lê Duẩn cho rằng: các vấn đề cơ
bản giữa Lào và Việt Nam đều giống nhau. Tuy nhiên, ở Lào, phía
Phuma và bọn phản động muốn hoà bình, còn Thiệu thì lại không
muốn; Lào có vùng giải phóng rộng lớn, có tiền lệ là đã thành lập
Chính phủ liên hiệp từ năm 1957, mà miền Nam Việt Nam không
có. Với những đặc điểm trên, ta phải tranh thủ hoà bình, giữ cho
được hoà bình lâu dài. Có hoà bình ta sẽ tranh thủ được nhân dân.
Tiếp theo, đồng chí Cayxỏn khẳng định, thắng lợi của Việt Nam đã
tạo sức ép rất lớn đối với quân ngụy Lào, đồng thời cổ vũ mọi
tầng lớp nhân dân Lào đi theo cách mạng. Nếu Mỹ chịu ký Hiệp
định Pari về Việt Nam, sẽ có tác động đưa cuộc đấu tranh trên bàn
Hội nghị Viêng Chăn ở Lào đi đến thắng lợi. Trong hội đàm, hai
bên cũng đã trao đổi về tình hình quân sự, xác định yêu cầu phải
đạt được khi ký Hiệp định Viêng Chăn252.
Trên chiến trường Lào, thất bại của đế quốc Mỹ ở Việt Nam đã

. Biên bản hội đàm giữa hai Đảng Việt Nam và Lào tại Hà Nội ngày 20
252

tháng 1 năm 1973, lƣu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4556.
479
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

tác động sâu sắc đến tinh thần quân ngụy Lào, buộc chúng phải ngồi
vào đàm phán với đại diện Mặt trận Lào yêu nước và chấp nhận giải
pháp năm điểm của Mặt trận. Để hỗ trợ cho cuộc đấu tranh trên bàn
hội nghị, chuyên gia quân sự Việt Nam đã giúp Quân khu Cánh đồng
Chum tổ chức tiến công giải phóng Xála Phu Khun, truy kích địch đến
Kìu Kachăm, Ka Xỷ. Những chiến thắng về quân sự của quân tình
nguyện Việt Nam và quân giải phóng nhân dân Lào cuối năm 1972
đầu năm 1973 đã trực tiếp góp phần quan trọng buộc chính quyền
Viêng Chăn phải nhanh chóng ký kết hiệp định ngừng bắn với những
điều khoản có lợi cho cách mạng Lào.
Ngày 21 tháng 2 năm 1973, Hiệp định Viêng Chăn về chấm dứt
chiến tranh và lập lại hoà bình ở Lào được ký kết. Mỹ và ngụy
quyền Lào phải công nhận quyền dân tộc cơ bản, quyền tự do dân
chủ của nhân dân các bộ tộc Lào, công nhận vùng giải phóng của
Mặt trận Lào yêu nước, trung lập hoá hai thành phố Viêng Chăn và
Luổng Phạbang, thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc lâm thời và
Hội đồng Tư vấn liên hiệp chính trị quốc gia. Đây là một thắng lợi
to lớn, toàn diện, vững chắc, có ý nghĩa chiến lược không những
trên chiến trường Lào, chiến trường Đông Dương, mà còn là thất
bại của chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ. Thắng lợi này tạo ra
những điều kiện mới hết sức cơ bản để đưa cách mạng Lào tiến lên
giành thắng lợi hoàn toàn.
Từ năm 1969 đến đầu năm 1973 là giai đoạn cực kỳ khó khăn
và cũng là giai đoạn giành thắng lợi quyết định của cách mạng
Việt Nam và cách mạng Lào. Trước thất bại nặng nề của Mỹ trong
chiến lược Chiến tranh cục bộ ở miền Nam, đế quốc Mỹ vẫn tiếp
tục tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam bằng chiến lược Việt
Nam hoá chiến tranh, đồng thời mở rộng chiến tranh ra toàn cõi
Đông Dương, tiến hành một loạt các biện pháp tàn bạo và thâm
độc về quân sự, chính trị, ngoại giao. Chúng vừa từng bước rút
480
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

quân Mỹ, vừa ra sức củng cố và tăng cường ngụy quân, ngụy
quyền; vừa xuống thang chiến tranh, vừa phản công và tiến công
rất quyết liệt hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng. Những âm mưu,
thủ đoạn và hành động chiến tranh mới của Mỹ, ngụy đặt sự
nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam trước tình thế mới,
vừa thuận lợi nhưng cũng có nhiều khó khăn, phức tạp. Song,
trong khó khăn ác liệt, quân và dân Việt Nam ở cả hai miền Nam
- Bắc vẫn giữ vững ý chí quyết tâm, kiên cường và bền bỉ kháng
chiến, từng bước khôi phục lại thế liên hoàn làm chủ và tiến công
địch trên cả ba vùng chiến lược; từ đó, tổ chức phản công và tiến
công địch, giành thắng lợi ngày một to lớn, toàn diện, buộc đế
quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh, rút hết
quân Mỹ về nước.
Tại Lào, Mỹ tiến hành Chiến tranh đặc biệt tăng cường với sự
tham gia ngày càng nhiều của không quân Mỹ, quân đánh thuê Thái
Lan và quân ngụy Sài Gòn, hòng thu hẹp vùng giải phóng, tiêu diệt
lực lượng cách mạng Lào, chia cắt Đông Dương, chia cắt hành lang
vận chuyển chiến lược tây Trường Sơn. Trước âm mưu thủ đoạn mới
của kẻ thù, Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã động viên toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân cùng quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam
vượt qua mọi khó khăn, thử thách, kiên quyết đánh bại các cuộc hành
quân của địch, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, đặc biệt là vùng
đất chiến lược Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng và khu vực hành
lang tây Trường Sơn. Vừa đánh địch, bảo vệ vùng giải phóng, quân và
dân Lào tiếp tục xây dựng vùng giải phóng theo quy mô một quốc gia;
xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân lớn mạnh; đồng thời đẩy
mạnh đấu tranh chính trị và ngoại giao, dồn địch vào thế bất lợi, buộc
địch phải ký Hiệp định Viêng Chăn với những điều khoản có lợi cho
cách mạng Lào.
Trong giai đoạn này, hai Đảng tiếp tục có những cuộc hội đàm
481
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

thường kỳ nhằm phối hợp hành động trên các mặt đấu tranh, tạo sức
mạnh tổng hợp đánh thắng Mỹ. Hai Đảng đã tăng cường phối hợp,
mở rộng liên minh trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại
giao, kinh tế, văn hóa, trong đó liên minh chiến đấu giữa quân và dân
hai nước trong giai đoạn này là yếu tố quyết định nhất tạo nên thắng
lợi của cách mạng hai nước. Quân và dân hai nước đã cùng chiến đấu
bảo vệ vùng giải phóng Lào, đặc biệt là cùng chiến đấu đánh bại cuộc
hành quân Lam Sơn 719 ở khu vực đường 9 - Nam Lào, bảo vệ hành
lang chiến lược tây Trường Sơn, góp phần vào sự phát triển thế và lực
của cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng Lào. Quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đã góp phần quan trọng tạo điều kiện
cho quân và dân hai nước vượt qua giai đoạn đầy khó khăn, thử thách,
giành thắng lợi quyết định, đưa cách mạng hai nước bước vào giai
đoạn mới với những thuận lợi rất cơ bản.

III. GIỮ VỮNG LIÊN MINH VIỆT NAM - LÀO, PHỐI HỢP ĐẨY MẠNH
ĐẤU TRANH GIÀNH THẮNG LỢI HOÀN TOÀN (1973 - 1975)

1. Tiếp tục giữ vững liên minh Việt Nam - Lào trong tình hình
mới
Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt
Nam được ký kết (tháng 1 năm 1973), đế quốc Mỹ buộc phải rút
hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam, cam kết tôn trọng các
quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, chấm dứt mọi dính
líu quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt
Nam.
Tuy vậy, đế quốc Mỹ và ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn vẫn âm
mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam, tiếp tục thực hiện chiến
lược Việt Nam hoá chiến tranh, dưới hình thức mới “quân ngụy cộng
viện trợ kinh tế, quân sự và cố vấn Mỹ”. Đế quốc Mỹ đã tăng cường
482
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

viện trợ cho Sài Gòn253, tiếp tục dùng ngụy quân, ngụy quyền Sài
Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Mỹ
còn tiếp tục duy trì lực lượng không quân, hải quân Mỹ ở các vùng
phụ cận Việt Nam làm “lực lượng răn đe” để hỗ trợ cho quân nguỵ,
đồng thời tiếp tục tăng cường các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để
ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Được sự hậu thuẫn của Mỹ, quân nguỵ Sài Gòn ra sức phá hoại
Hiệp định Pari, liên tục mở các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải
phóng. Địch tập trung lực lượng lớn tiến công có trọng điểm các
vùng giải phóng quan trọng của Việt Nam ở Cửa Việt (Quảng Trị),
Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Đại Lộc (tây Quảng Nam), bắc Kon Tum,
nam - bắc đường 4, Chương Thiện (Nam Bộ)...
Trước tình hình trên, tháng 7 năm 1973, Hội nghị lần thứ 21
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam xác định:
cách mạng miền Nam chỉ có thể giành được thắng lợi bằng con
đường bạo lực cách mạng; nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền
Nam trong giai đoạn mới là tiếp tục thực hiện chiến lược cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân; nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh
trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao..., phải kiên quyết
phản công và tiến công địch.
Dưới ánh sáng Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng, từ cuối
năm 1973, bộ đội Việt Nam đã kiên quyết phản công và tiến công
địch, giành được những thắng lợi to lớn trên khắp các chiến trường.
Khu 9: đánh bại nhiều cuộc hành quân lấn chiếm của địch, xoá bỏ
nhiều đồn bốt, giải phóng hơn 400 ấp với gần 80 vạn dân. Khu 8:

. Mỹ viện trợ cho chính quyền nguỵ Sài Gòn sau Hiệp định Pari: 652 máy
253

bay các loại, 70 khẩu pháo mặt đất và pháo phòng không các loại, 220 xe tăng, xe
thiết giáp cùng nhiều khí tài, vật chất khác. Hồ sơ TK-19, lƣu tại Viện Lịch sử
quân sự Việt Nam.
483
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

vượt qua thời kỳ khó khăn, chuyển sang tiến công tiêu diệt nhiều
đồn bốt địch, giải phóng thêm 200 ấp với trên 10 vạn dân. Khu 7:
tiếp tục duy trì thế tiến công, đánh bại các cuộc hành quân lấn
chiếm giải toả của địch, giữ vững các lõm giải phóng, bàn đạp ở
vùng ven và phía bắc Sài Gòn. ở Tây Nguyên, sau trận tiến công
Chư Nghé (tháng 9 năm 1973), bộ đội tiếp tục tiến công đánh
chiếm Đắc Pét, Măng Bút, Măng Đen, Iaxúp, mở rộng thêm được
vùng giải phóng và hành lang chiến lược. ở Trị - Thiên, bộ đội tiêu
diệt lớn quân địch lấn chiếm Cửa Việt, áp sát vùng giáp ranh, uy
hiếp địch ở nông thôn, đồng bằng. Khu 5: tiến hành tổ chức các
chiến dịch tiến công tiêu diệt các chi khu, quận lỵ của địch như
Nông Sơn, Trung Phước, Thượng Đức, mở rộng bàn đạp ở vùng
giáp ranh và đồng bằng...
Cùng với việc kiên quyết phản công, tiến công địch, từ sau khi
Hiệp định Pari được ký kết, Việt Nam tranh thủ tận dụng những
điều kiện có lợi để củng cố và xây dựng lực lượng về mọi mặt. Các
quân đoàn chủ lực được thành lập trên cơ sở các đơn vị quân binh
chủng hợp thành, đứng chân trên các địa bàn chiến lược254, đáp ứng
yêu cầu tác chiến hiệp đồng binh chủng tiêu diệt lớn quân địch.
Việt Nam cũng tập trung mở rộng, nâng cấp đường Trường
Sơn, bảo đảm cho tác chiến lớn. Trên toàn tuyến, các đơn vị đã mở
mới 5.560 km đường, đưa tổng số chiều dài tuyến đường này lên
đến 16.790 km. Tại các chiến trường, các quân khu, địa phương đã
mở mới và nâng cấp 6.000 km đường chiến dịch, nối thông hệ
thống đường này với đường chiến lược Trường Sơn. Đường ống
dẫn dầu đi theo đường Trường Sơn cũng vươn tới Bù Gia Mập,

254
. Quân đoàn 1 đƣợc thành lập tháng 10 năm 1973 ở miền Bắc, Quân đoàn
2 đƣợc thành lập tháng 5 năm 1974 ở Trị - Thiên, Quân đoàn 4 đƣợc thành lập
tháng 7 năm 1974 ở Đông Nam Bộ.
484
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Nam Bộ. Lượng dự trữ vật chất của Việt Nam ở chiến trường miền
Nam đã có 700.000 tấn đạn, 107.000 tấn xăng dầu, 80.000 tấn
lương thực - thực phẩm, 2.400 tấn thuốc và 5.400 tấn vật chất khác.
Đến mùa Hè năm 1974, đường đông và tây Trường Sơn hình thành
một hệ thống liên hoàn, vững chắc. Đồng thời, tuyến hành lang
Đông - Tây Trường Sơn hình thành một căn cứ hậu cần chiến lược,
chiến dịch rộng trên 130.000 km2, nối liền hậu phương lớn miền
Bắc với các chiến trường.
Tại Lào, theo Hiệp định Viêng Chăn (tháng 2 năm 1973), cục
diện nước Lào sẽ hình thành ba vùng với hai chính quyền song
song tồn tại, đó là: vùng giải phóng với 4/5 đất đai và hơn một nửa
số dân do Pathết Lào quản lý; vùng do chính quyền phái hữu chiếm
đóng; vùng thứ ba là vùng “trung lập hoá” gồm hai đô thị Viêng
Chăn và Luổng Phạbang, có lực lượng của cả hai bên cùng tham
gia quản lý, bảo vệ; Chính phủ liên hiệp lâm thời lần thứ ba và Hội
đồng Chính trị hiệp thương được thành lập với thành phần đại biểu
của hai bên ngang nhau.
Với Hiệp định Viêng Chăn, cách mạng Lào bước vào thời kỳ
mới với thế và lực lớn hơn hẳn so với hai lần hoà hợp trước. Lực
lượng vũ trang với hơn 3 vạn quân tập trung cùng hơn 5 vạn dân
quân du kích trên khắp mọi miền của đất nước đã vượt qua gian
lao, thử thách, hoàn thành những nhiệm vụ nặng nề, chiến thắng
địch trong những trận đọ sức quyết định. Hiệp định Viêng Chăn lại
tạo ra cơ sở chính trị, pháp lý để nhân dân Lào thực hiện hoà hợp
dân tộc và hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ trong cả nước.
Mặt khác, sau khi Mỹ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam (ngày 2
tháng 3 năm 1973), cục diện trên chiến trường Đông Dương đã có
sự thay đổi lớn có lợi cho các lực lượng cách mạng, làm cho chính
quyền nguỵ Lào hoang mang, lo sợ.
Tuy vậy, đế quốc Mỹ vẫn chưa từ bỏ âm mưu thôn tính Lào.
485
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Chúng khai thác triệt để những điều khoản có lợi của Hiệp định, cố
tách quân tình nguyện Việt Nam ra khỏi Lào và ngăn cản sự chi
viện của nhân dân Việt Nam đối với cách mạng Lào. Mặt khác,
chúng ra sức phá hoại, gây trở ngại cho việc thi hành Hiệp định.
Trong tài khoá 1973 - 1974, đế quốc Mỹ viện trợ cho chính quyền
Viêng Chăn 310 triệu USD và để ở Lào 2.000 nhân viên CIA, cố
vấn quân sự đội lốt dân sự, duy trì 10 vạn quân nguỵ tiếp tục đánh
phá cách mạng Lào. Chúng vẫn ngang nhiên giữ lại 20 tiểu đoàn
quân Thái Lan ở Lào, dùng quân Thái Lan thay thế cho quân nguỵ
Lào trong nhiệm vụ chiếm đóng, thúc ép quân nguỵ Lào, phối hợp
với quân Thái Lan mở nhiều cuộc càn quét, hòng chiếm lại nhiều vị
trí chiến lược trong vùng giải phóng như Thà Thôm, Thà Viêng
(nam Xiêng Khoảng), Na Xê, Thặm La (Thà Khẹc), Pạc Thà
(Xaynhabuli). Mỹ còn chỉ đạo lực lượng Vàng Pao sáp nhập vào
quân phái hữu để tránh phải giải thể “lực lượng đặc biệt”; tổ chức
“lực lượng phát triển nông thôn” nhằm khống chế vùng nông thôn
do chúng kiểm soát; xúi giục một số sĩ quan phản động do tướng
Thạo Ma cầm đầu, phối hợp với Phủi Xánánicon làm đảo chính ở
Viêng Chăn (ngày 20 tháng 8 năm 1973) nhằm ngăn cản việc thi
hành Hiệp định, gây lại tình hình căng thẳng ở Lào.
Để đánh bại các âm mưu thủ đoạn của địch và xây dựng vùng
giải phóng trong điều kiện mới, ngay sau khi Hiệp định Viêng
Chăn được ký kết (tháng 4 năm 1973), Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã gửi điện tới Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam yêu cầu Việt Nam tiếp tục
viện trợ cho Lào trong năm 1973, cụ thể: tiếp tục cử chuyên gia
giúp các ngành hành chính sự nghiệp, kinh tế, văn hoá...; giúp cơ
quan đại diện Neo Lào Hắc Xạt tại Hà Nội; tiếp tục giúp tiếp nhận,
bảo quản, đóng gói và vận chuyển các thiết bị vật tư hàng hoá của
các nước anh em gửi giúp Lào và vận chuyển hàng hoá của Lào
486
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

trao đổi với các nước bạn; tiếp tục tiếp nhận đào tạo học sinh, thực
tập sinh và nghiên cứu sinh Lào; tiếp tục giúp đỡ một số vật tư thiết
bị, lương thực - thực phẩm, giúp xây dựng một số cơ sở kinh tế,
văn hoá trong vùng giải phóng; giúp xây dựng một số sân bay ở
Thà Khoổng, Xalavăn, Mương Mày... và xây dựng hai thị trấn Sầm
Nưa và Na Kay; giúp khai thác mỏ mănggan ở Na Kay; giúp xây
dựng một số cơ sở chăn nuôi.
Về phía Việt Nam, để đáp ứng tình hình mới ở cả hai nước, ngày
21 tháng 4 năm 1973, Bộ Quốc phòng ra quyết định chuyển Bộ Tư
lệnh Mặt trận 316 thành Bộ Tư lệnh Mặt trận 31 và Sư đoàn 316 trực
thuộc Bộ Tổng Tư lệnh. Mặt trận 31 (có Trung đoàn 335 ở Bắc
Lào và Trung đoàn 866 ở khu vực Cánh đồng Chum - Xiêng
Khoảng) có nhiệm vụ: giữ vững vùng giải phóng, làm hậu thuẫn
vững chắc cho đấu tranh chính trị của Lào, tham gia công tác vận
động quần chúng, vận động binh lính địch... Sư đoàn 316 được tăng
cường thêm một số đơn vị, trở thành sư đoàn chủ lực của Bộ. Sau
khi tái lập lại (tháng 5 năm 1973), sư đoàn vừa củng cố, huấn
luyện, vừa tham gia bảo vệ vùng giải phóng Lào, tạo áp lực cho
nhân dân đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở vùng địch tạm chiếm.
Tháng 12 năm 1973, sư đoàn được lệnh hành quân về nước nhận
nhiệm vụ mới. Riêng Trung đoàn 174, theo yêu cầu của Lào, ở lại
thêm sáu tháng nữa, giúp gây áp lực cho đấu tranh thi hành Hiệp
định Viêng Chăn.
Do Nam Lào có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng đối với
cả hai nước, nên Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng Việt Nam
giao nhiệm vụ cho Đoàn 565: “Chuyên gia giúp địa phương, cụ thể
là vùng Nam Lào xây dựng lực lượng từ tỉnh xuống các đại đội,
cùng các địa phương phát động quần chúng xây dựng cơ sở cách
mạng ở vùng giải phóng, trong vùng địch hậu. Ngoài ra, Đoàn
chuyên gia 565 còn giúp vận chuyển hàng hoá, phục vụ các chiến
487
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

trường Nam Lào, xây dựng cơ sở vững chắc ở vùng giải phóng và
vùng địch hậu, phối hợp với bộ đội địa phương, bảo vệ tuyến vận
tải hành lang 559”255. Đoàn 968 quân tình nguyện được bổ sung
thêm một số trung đoàn bộ binh và đơn vị binh chủng để chuyển
thành Sư đoàn 968256, giúp bạn bố trí lực lượng, huấn luyện quân
sự, tổ chức, lãnh đạo nhân dân đấu tranh buộc địch phải thi hành
Hiệp định Viêng Chăn.
Trước sự phát triển nhanh chóng của cách mạng ba nước
Đông Dương và yêu cầu của cách mạng Lào, trong Hội nghị lần
thứ 21 (tháng 7 năm 1973), Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam tiếp tục xác định: “Đoàn kết ba nước Việt
Nam - Lào - Campuchia là vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa
sống còn đối với ba nước Đông Dương. Lợi ích dân tộc chân
chính của mỗi nước gắn bó chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu
tranh chung cho hoà bình và độc lập dân tộc không những trước
mắt mà cả lâu dài về sau. Đoàn kết, hữu nghị, bình đẳng, tôn
trọng và giúp đỡ nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực
dân mới của đế quốc Mỹ và xây dựng đất nước theo con đường
của mỗi nước là nguyên tắc chỉ đạo mối quan hệ giữa nhân dân
ta với nhân dân hai nước Lào và Campuchia theo tinh thần quốc
tế vô sản chân chính”257.
Trên tinh thần đó, trong giai đoạn cách mạng mới, Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam chủ trương giúp Lào phát huy thắng lợi đã
đạt được, củng cố và đẩy mạnh các hoạt động buộc đế quốc Mỹ phải
thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Viêng Chăn. Trung ương đã chỉ

255
. Hồ sơ 866-B1, lƣu tại Thƣ viện Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh.
256
. Quyết định số 60, ngày 13 tháng 4 năm 1973 của Bộ Quốc phòng.
257
. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ƣơng, lƣu tại Viện
Lịch sử quân sự Việt Nam.
488
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

thị cho các đoàn quân tình nguyện và chuyên gia sang giúp Lào:
“Phải tăng cường đội ngũ cán bộ, chuyên gia nhằm thực hiện tốt việc
tiếp quản hai thành phố Viêng Chăn, Luổng Phạbang... Hướng dẫn
bạn ra sức phát động quần chúng đấu tranh với ba hình thức. Mở cấp
tốc các lớp, các đợt huấn luyện ngắn hạn, đào tạo cho bạn những
kiến thức cơ bản về quân sự, chính trị, kinh nghiệm đấu tranh binh
vận... Củng cố hệ thống tổ chức từ tỉnh đến các huyện”258.
Với tinh thần cảnh giác cao độ, đồng thời được sự giúp đỡ tận
tình của Việt Nam, quân và dân Lào đã đánh bại mọi thủ đoạn phá
hoại việc thi hành Hiệp định Viêng Chăn của đế quốc Mỹ và bè lũ
tay sai, buộc chúng phải ký Nghị định thư, giải quyết những vấn đề
cụ thể về chính trị và quân sự để thi hành Hiệp định Viêng Chăn
vào ngày 14 tháng 9 năm 1973259, tạo điều kiện thuận lợi để quân
dân Lào đẩy mạnh cuộc đấu tranh đi đến thắng lợi trọn vẹn.
Trước tình hình mới, ngày 4 tháng 10 năm 1973, Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào họp,
xác định: tiếp tục giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập, hoà hợp
dân tộc..., đoàn kết nhân dân cả nước, phát huy thắng lợi đã giành
được..., dựa trên cơ sở pháp lý của Hiệp định và Nghị định thư
Viêng Chăn, đấu tranh buộc đối phương phải thi hành nghiêm
chỉnh và đầy đủ mọi điều kiện đã ký; tiếp tục nâng cao cảnh giác,
đánh bại mọi âm mưu phá hoại của bọn tay sai cực đoan, duy trì
hoà bình lâu dài, tạo điều kiện tăng cường củng cố cách mạng về

. Báo cáo số 630-L193 “Về tình hình và nhiệm vụ của Đảng Nhân dân cách
258

mạng Lào”, lƣu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


259
. Nghị định thƣ quy định: việc tổ chức Chính phủ lâm thời, tỷ lệ phân phối
các bộ; việc thành lập Hội đồng Chính trị liên hiệp, các nguyên tắc, lề lối làm
việc; quy định về cơ cấu chính quyền và lực lƣợng hỗn hợp hai bên đƣa vào hai
thành phố trung lập; quy định kế hoạch cụ thể về việc rút hết quân đội nƣớc
ngoài...
489
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

mọi mặt, tiến lên giành những thắng lợi to lớn trong việc xây
dựng một nước Lào độc lập, dân chủ, trung lập thống nhất và
thịnh vượng.
Sau khi có Nghị quyết của Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách
mạng Lào (tháng 10 năm 1973), theo yêu cầu của Lào, chuyên gia
Việt Nam giúp Quân uỷ Trung ương Lào lập kế hoạch đưa toàn bộ
đơn vị bộ đội chủ lực và các tiểu đoàn tập trung của các quân khu,
tỉnh lên phía trước tiếp cận với đối phương. Nhanh chóng triển khai
thế trận, gây áp lực hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh, đồng thời nắm
chắc tình hình đối phương, sẵn sàng chiến đấu, đánh bại các âm
mưu lấn chiếm của địch.
Đoàn 959 giúp Quân uỷ Lào xây dựng kế hoạch phân chia
chiến trường từ Bắc xuống Nam Lào thành bốn khu vực: khu vực
Hạ Lào đối tượng là Quân khu 4 của địch, thành phố Xalavăn và
Pạc Xê; Trung Lào đối tượng là Quân khu 3 của địch, thành phố
Xavẳnnakhệt và Thà Khẹc; Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng đối
tượng là Quân khu 2 và Quân khu 5 của địch, hướng hoạt động là
Xảm Thông, Loòng Chẹng và Thủ đô Viêng Chăn; Bắc Lào trọng
tâm hoạt động hướng vào Quân khu 1 của địch và thành phố Luổng
Phạbang. Đoàn đã xây dựng kế hoạch giúp Bộ Tổng Tham mưu
Lào thành lập các Ban Chỉ huy Mặt trận thống nhất ở từng khu
vực, tổ chức hệ thống thông tin liên lạc từ Bộ đến thẳng Mặt trận
và xây dựng mạng lưới hậu cần riêng cho từng khu vực; cử một số
cán bộ xuống các mặt trận giúp triển khai lực lượng, đưa cán bộ có
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ vào thành phố Viêng Chăn, dựa
vào Đại sứ quán Việt Nam, giúp bộ phận hoạt động nội thành của
Lào chỉ đạo công tác vận động binh lính địch và đấu tranh thi hành
các điều khoản của Hiệp định Viêng Chăn.
Đoàn còn phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân khu Thủ đô, Quân
khu Tây Bắc, Quân khu 3 và Tổng cục Hậu cần giúp Lào chuẩn bị
490
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

và đưa các tiểu đoàn quân giải phóng nhân dân Lào vào làm nhiệm
vụ cảnh vệ và cảnh sát liên hiệp ở hai thành phố Viêng Chăn và
Luổng Phạbang theo quy định của Nghị định thư. Chỉ trong ba
tháng, các đơn vị trong nước cùng Tổng cục Hậu cần và Đoàn 959
đã giúp Lào xây dựng hoàn chỉnh hai đơn vị làm nhiệm vụ cảnh sát
liên hiệp, hai đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ; đưa các đơn vị này cùng
hàng nghìn tấn hàng hoá, trang bị vào hai thành phố Viêng Chăn và
Luổng Phạbang an toàn, tạo điều kiện cho Hoàng thân
Xuphanuvông và đoàn cán bộ Neo Lào Hắc Xạt tham gia thành lập
Chính phủ liên hiệp.
Theo quy định của Nghị định thư, tháng 1 năm 1974, Tiểu đoàn
1 và Tiểu đoàn 15 vào thành phố Viêng Chăn và hai tiểu đoàn (406
và 409) vào Luổng Phạbang. Các đơn vị của Pathết Lào vào Viêng
Chăn và Luổng Phạbang đã được nhân dân chào đón nồng nhiệt.
Quân phái hữu đã đưa ra những điều kiện vô lý để ngăn cản các tiểu
đoàn này vào hai thành phố trung lập. Nhưng trước sự kiên trì đấu
tranh của phái đoàn Neo Lào Hắc Xạt trong các tổ chức liên hợp,
cuối cùng lực lượng phái hữu cũng phải để cho các tiểu đoàn vào hai
thành phố như đã thoả thuận ở Nghị định thư.
Song song với việc đưa quân vào bảo vệ an ninh hai thành phố
trên, bộ đội tình nguyện Việt Nam và bộ đội Lào đã cảnh giác đập
tan các cuộc hành quân lấn chiếm của địch ra các vùng giải phóng
ở Luổng Phạbang, tây Mương Xủi - Xála Phu Khun, đông và nam
Thà Khẹc, nam đường 9, nam Pạc Xê, bảo vệ vững chắc thành quả
cách mạng và hỗ trợ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh của nhân
dân ở vùng địch tạm chiếm.
Tại khu vực Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, đầu năm 1974,
Mặt trận 31 cử nhiều tổ công tác cùng các cán bộ Lào làm nhiệm
vụ xây dựng cơ sở, củng cố các đội du kích trong các bản làng.
491
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Mặc dù hoạt động sâu trong vùng địch, kẻ thù ráo riết cản phá, đời
sống khó khăn, thiếu thốn nhưng cán bộ, chiến sĩ của Mặt trận luôn
kiên trì bám dân tuyên truyền vận động, gây dựng được nhiều cơ sở
trong quần chúng, dìu dắt nhiều tổ du kích trong các bản làng người
Lào Xủng, tạo ra lực lượng tại chỗ để giành chính quyền khi thời
cơ đến.
Tại Nam Lào, trên cơ sở lực lượng chuyên gia đã có tại các
tỉnh, Đoàn chuyên gia quân sự 565 khẩn trương giúp các địa
phương xây dựng lực lượng, tiến công địch bằng ba mũi giáp công
(nổi dậy của quần chúng, binh biến trong quân nguỵ, hậu thuẫn của
lực lượng vũ trang cách mạng). Theo yêu cầu của Lào, ở bảy tỉnh
thuộc Nam Lào (Khăm Muộn, Xavẳnnakhệt, Xalavăn, áttapư,
Chămpaxắc, Távên Oọc và Xiphănđon), Trường Quân chính Quân
khu và Đặc khu Bôlavên đều bố trí các tổ chuyên gia Việt Nam có
cấp tương đương cán bộ Lào. ở các đơn vị, vẫn duy trì chuyên gia ở
cấp tiểu đoàn. Ngoài công tác huấn luyện và chiến đấu bảo vệ vùng
giải phóng, Đoàn chuyên gia quân sự 565 còn giúp Nam Lào điều
chỉnh một bước về tổ chức lực lượng, trong đó tập trung kiện toàn
hai cụm chủ lực ở Hạ Lào và Trung Lào (phát triển lực lượng mỗi
cụm lên tương đương một lữ đoàn). Tiếp đó, xây dựng lực lượng,
tạo thế vững chắc cho các tỉnh thuộc trung ương để tiến tới giải thể
Quân khu Nam Lào. ở tất cả các đơn vị của Nam Lào, việc phối
hợp làm việc của chuyên gia ta với chỉ huy của các đơn vị ngày
càng có hiệu quả. Tuy địch vẫn duy trì bọn phỉ hoạt động quấy rối,
ra sức tuyên truyền chia rẽ tình hữu nghị Việt Nam - Lào, nhưng
nhờ làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục, nên cán bộ, nhân dân
Lào ngày càng tin tưởng ở chuyên gia quân sự Việt Nam, khắc
phục được các biểu hiện mất đoàn kết chia rẽ trong nội bộ một vài
đơn vị Lào. Về xây dựng và bảo vệ vùng giải phóng, chuyên gia
Việt Nam đã giúp tổ chức phòng ngự vững chắc các vị trí quan
492
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

trọng như: Mương Pha Lan, Đồng Hến, Kẹng Koọc, Khôngxêđôn,
Pạc Xoòng, Bôlavên. Đoàn cũng đã giúp Tiểu đoàn 11 thuộc vùng
Nam Lào và bộ đội tỉnh Khăm Muộn thực hiện tốt công tác binh
vận đối với quân nguỵ Lào260; triển khai nhiều đợt hoạt động kết
hợp phong trào đấu tranh của quần chúng với sử dụng lực lượng vũ
trang, giải phóng vùng Khăm Muộn và bắc Xavẳnnakhệt... Những
hoạt động này đã thiết thực góp phần củng cố chính quyền cách
mạng, xây dựng và mở rộng vùng giải phóng.
Trên mặt trận đối ngoại, từ cuối năm 1973, Đảng Lao động
Việt Nam đã tổ chức các đoàn đại biểu đại diện cho Đảng và Nhà
nước sang thăm hữu nghị chính thức vùng giải phóng Lào, như:
chuyến thăm của Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ, do đồng chí
Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương dẫn dầu, từ
ngày 2 đến 6 tháng 11 năm 1973; chuyến thăm của Đoàn đại biểu
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam và Chính phủ cách mạng
lâm thời miền Nam Việt Nam, do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ dẫn
đầu (tháng 1 năm 1974); chuyến thăm của Đoàn đại biểu phụ nữ
giải phóng miền Nam, do bà Nguyễn Thị Định dẫn đầu (tháng 4
năm 1974)...
Việt Nam cũng giúp Lào đón nhiều đoàn đại biểu của các nước
đến thăm vùng giải phóng Lào, như: Đoàn đại biểu Quốc hội Thuỵ
Điển, Đoàn đại biểu kinh tế Cuba (tháng 1 năm 1974); Đoàn đại
biểu Đảng Công nhân xã hội thống nhất Hunggari, Đoàn đại biểu
Đảng Cộng sản Bungari (tháng 2 năm 1974); Đoàn đại biểu Đảng
và Chính phủ Cuba (tháng 2 năm 1974)...
Các chuyến thăm chính thức của Việt Nam cũng như việc giúp

. Sáu tháng đầu năm 1973, tỉnh Khăm Muộn đã vận động đƣợc hàng trăm
260

binh sĩ địch bỏ ngũ, trong đó có hơn 50 ngƣời chạy sang hàng ngũ quân giải
phóng.
493
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Lào đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao, không chỉ có ý nghĩa thắt
chặt hơn nữa mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, mà còn góp
phần nâng cao vị thế và uy tín của Lào trên trường quốc tế, tạo thế
và lực cho cuộc đấu tranh ở trong nước.
Sau gần một năm lãnh đạo cách mạng trong điều kiện hoà
bình, trong các ngày 10 và 11 tháng 12 năm 1973, Đoàn đại biểu
cấp cao hai Đảng đã có cuộc hội đàm tại Đồ Sơn bàn về tình
hình cách mạng hai nước và phương hướng hợp tác trong thời
gian tới. Đoàn Việt Nam có các đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ
nhất Ban Chấp hành Trung ương; Nguyễn Duy Trinh, Uỷ viên
Bộ Chính trị; Hoàng Anh, Bí thư Ban Bí thư; Nguyễn Đôn, Uỷ
viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương. Đoàn đại biểu Đảng
Nhân dân cách mạng Lào gồm các đồng chí: Cayxỏn Phômvihản,
Tổng Bí thư; Xuphanuvông, Nủhắc Phumxavẳn, Phumi Vôngvichít,
Khăm Tày Xiphănđon, Xỉxổmphon Lòvănxay, Uỷ viên Bộ Chính
trị. Tham dự hội đàm còn có các đồng chí Đặng Thí, Bộ trưởng;
Đào Việt Hưng và Nguyễn Chính Giao, Uỷ viên Ban Công tác
miền Tây.
Trong cuộc hội đàm, đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã trình bày
hai vấn đề: tình hình nhiệm vụ, phương hướng công tác lớn của
cách mạng Lào và làm thế nào để Đảng Lao động Việt Nam giúp
cách mạng Lào có hiệu quả hơn trong thời kỳ mới. Đồng chí đã
khái quát quá trình phát triển của cách mạng Lào và khẳng định sự
giúp đỡ to lớn của Việt Nam cũng như những cống hiến to lớn của
đội ngũ chuyên gia, quân tình nguyện Việt Nam đối với cách mạng
Lào. Về vấn đề chuyên gia trong thời kỳ mới, đồng chí nói: “hiện
nay tổ chức chuyên gia ở Lào, trên Trung ương có Đoàn chuyên
gia, Đoàn 959, ở các tỉnh uỷ, huyện uỷ, một số xã, một số tiểu đoàn
đều có tổ chuyên gia; các cơ quan trung ương như: Tuyên giáo, Tổ
chức, Kinh tế, Tài chính... đều có tổ chuyên gia... Vì vậy, nảy sinh
494
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

tình trạng ỷ vào chuyên gia Việt Nam của cán bộ Lào. Thêm nữa,
trong thời gian qua, do yêu cầu của phía Lào, số lượng chuyên gia
Việt Nam tăng nhiều, nên một số chuyên gia không đáp ứng được
yêu cầu, kinh nghiệm công tác không phù hợp với đặc điểm của
Lào.
Phương hướng thời gian tới nên: tập trung vào giúp những vấn
đề cơ bản nhất, những khâu then chốt nhất, tạo điều kiện cho Lào
nhanh chóng đảm đương công việc một cách độc lập, tự chủ; hai
Đảng trao đổi với nhau toàn diện về các vấn đề quân sự, chính trị,
kinh tế, ngoại giao, nhưng chuyên gia thì không nên giúp toàn diện
nữa. Về kinh tế, văn hoá nên tăng cường giúp, nhưng chính trị,
quân sự thì từng bước giảm bớt, đi đến bỏ hẳn chuyên gia; yêu cầu
Việt Nam giúp một số chuyên gia nghiên cứu cơ bản cho trung
ương về kinh tế và quân sự; cần bỏ hệ thống dọc của chuyên gia, bỏ
các đoàn chuyên gia ở trung ương cũng như các địa phương. Tất cả
chuyên gia do phía Lào trực tiếp chỉ đạo, giao công tác”261.
Riêng về quân sự, đồng chí Khăm Tày đề nghị: quân tình
nguyện cần ở lại chiến đấu với Lào, lực lượng này bố trí ở các khu
vực chiến lược như Luổng Phạbang, Cánh đồng Chum - Xiêng
Khoảng, cao nguyên Bôlavên và vùng bắc Hỉn Hợp; cần có tổ
chuyên gia quân sự giúp công tác tổng kết, tổng hợp tình hình và tổ
chuyên gia giúp các cụm chủ lực cần thiết.
Hai đoàn thống nhất xác định: vấn đề quan trọng quyết định
nhất trong tình hình hiện nay để đưa cách mạng Lào tiến lên là phải
củng cố, xây dựng vùng giải phóng, nắm chắc lực lượng vũ trang,
đi đôi với việc sử dụng Chính phủ liên hiệp, đẩy mạnh đấu tranh
chính trị trong hai thành phố trung lập và trong vùng đối phương

. Biên bản hội đàm giữa hai Đảng tháng 12 năm 1973, lƣu tại Viện Lịch
261

sử quân sự Việt Nam, TK-4565.


495
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

quản lý. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện Hiệp định và
Nghị định thư Viêng Chăn, cần phải bố trí lại lực lượng, đưa các
đơn vị quân tình nguyện Việt Nam đứng chân ở tuyến sau, giúp bảo
vệ, giữ vững vùng giải phóng, đề phòng địch bất ngờ tiến công lấn
chiếm; đưa bộ đội giải phóng Lào lên phía trước, trực tiếp tiếp xúc
với địch, gây áp lực, làm chỗ dựa cho quần chúng đấu tranh và sẵn
sàng tiến công địch khi cần thiết.
Về vấn đề chuyên gia, hai bên nhất trí rút phần lớn chuyên
gia Việt Nam về nước, nhưng phải bàn bạc cụ thể, làm từng bước
thận trọng.
Thực hiện chủ trương của hai Đảng trong cuộc hội đàm tháng
12 năm 1973, Việt Nam từng bước rút chuyên gia ở tỉnh và huyện
về nước (rút trước tháng 5 năm 1974), đồng thời điều chỉnh lại các
lực lượng chuyên gia và quân tình nguyện còn lại để giúp Lào thực
hiện nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Đoàn chuyên gia
quân sự 959 rút phần lớn cán bộ về nước, chỉ còn lại 100 đồng chí.
Đoàn không còn hệ thống tổ chức giúp từ trung ương đến các đơn
vị cơ sở nữa, mà chỉ hình thành các bộ phận nghiên cứu giúp Quân
uỷ Trung ương và Bộ Chỉ huy tối cao Lào những vấn đề cơ bản về
chủ trương, chính sách và sau đó giúp tổ chức thực hiện, rút kinh
nghiệm để chỉ đạo chung.
Cũng trên tinh thần cuộc hội đàm giữa hai Bộ Chính trị Đảng
Nhân dân cách mạng Lào và Đảng Lao động Việt Nam (tháng 12
năm 1973), tháng 4 năm 1974, tại Mương Viêng Xây (Sầm Nưa),
Đoàn đại biểu Neo Lào Hắc Xạt và Đoàn đại biểu Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tiến hành hội đàm để giải quyết
vấn đề biên giới giữa hai nước. Hai bên đã thống nhất nhận định:
do quyền lợi thiết thân trong đời sống hằng ngày, cán bộ, bộ đội
và nhân dân ở dọc biên giới hai nước có khi còn hiểu lầm hoặc
496
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

chưa hiểu sâu sắc về nhau. Trong lúc đó, một số kẻ có ý đồ xấu,
nhất là do âm mưu chia rẽ của địch, nên đã có dư luận không tốt
làm tổn thương đến tình đoàn kết đặc biệt giữa hai Đảng và nhân
dân hai nước.
Hai bên nhất trí rằng việc giải quyết vấn đề biên giới nhằm
mục đích: bảo vệ, củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị anh
em đặc biệt vốn có từ lâu đời giữa nhân dân hai nước, để cùng
nhau tiến lên giành thắng lợi to lớn hơn nữa cho cách mạng của
hai nước; để cho nhân dân dọc biên giới hai nước có trách nhiệm
cùng nhau bảo vệ biên giới, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho
việc qua lại, làm ăn của nhân dân dọc biên giới hai nước được ổn
định, góp phần đập tan âm mưu chia rẽ và phá hoại của địch.
Cuối cùng, hai bên thống nhất đề ra những nguyên tắc cần thiết
để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước một cách công bằng
và bình đẳng.
Tháng 2 năm 19741, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân
dân cách mạng Lào tiến hành Hội nghị toàn thể lần thứ hai để xác
định nhiệm vụ trong tình hình mới. Hội nghị đã cụ thể hoá đường
lối của Đại hội Đảng lần thứ II (năm 1972), nhằm hoàn thành thắng
lợi cách mạng dân chủ nhân dân trong cả nước. Hội nghị cũng phổ
biến về nội dung cuộc hội đàm tháng 12 năm 1973 giữa hai Đảng
và bàn những nội dung cần tiến hành để thực hiện các thoả thuận
giữa hai Đảng.
Nhằm quán triệt Nghị quyết Trung ương tháng 2 năm 1974 và
nội dung hội đàm giữa hai Đảng, Trung ương Đảng Nhân dân
cách mạng Lào triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc từ ngày 18

. Lịch sử văn hoá Lào. Theo Biên niên các sự kiện Lào, Hội nghị Trung ƣơng
1

diễn ra vào tháng 3, còn theo Lịch sử Đảng là tháng 4.


497
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

tháng 3 đến 8 tháng 5 năm 1974262 (có tài liệu nói ngày 13 tháng 5
năm 1974). Về dự Hội nghị có 145 đại biểu, gồm các đồng chí
thường vụ tỉnh uỷ, trưởng, phó ban, ngành trung ương trở lên. Hội
nghị đã dành nhiều thời gian để các đại biểu bộc lộ tâm tư nhằm
củng cố tình cảm đặc biệt Việt Nam - Lào. Hội nghị đã thống nhất
đánh giá những thành tích, ưu điểm to lớn của Việt Nam trong
việc giúp đỡ cách mạng Lào, đồng thời cũng chỉ ra những thiếu
sót cần khắc phục trong thời gian tới. Tại Hội nghị, đồng chí
Cayxỏn Phômvihản phát biểu một số nội dung xoay quanh vấn đề
quan điểm của Đảng Nhân dân cách mạng Lào về mối quan hệ
Lào - Việt Nam.
Đồng chí khẳng định: mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam
được hình thành, vun đắp và thử thách trong quá trình cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, gay go ác liệt chống đế quốc Mỹ,
mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam không những được củng cố,
tăng cường mà còn tạo một sức mạnh và niềm tin vào chiến thắng.
Mỗi bước đi đến thắng lợi của cách mạng Lào đều kết hợp chặt chẽ
giữa sự nỗ lực chủ quan của Đảng ta, dân tộc ta với sự giúp đỡ của
phe xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng dân tộc dân chủ và
hoà bình thế giới, trong đó liên minh chiến đấu giữa Đảng ta,
nhân dân ta với Đảng Lao động Việt Nam, nhân dân Việt Nam là
điều kiện cơ bản mà chúng ta coi trọng như một yếu tố của thắng
lợi. Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào không những do yêu cầu
khách quan, mà còn do lợi ích gắn bó với nhau bởi truyền thống tốt
đẹp hiếm có trong lịch sử đấu tranh cách mạng lâu dài từ trước đến
nay, cũng như từ nay về sau, vẫn còn là một yêu cầu thiết thân sống

. Tài liệu Hội nghị cán bộ toàn quốc Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Cục
262

Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam, phông 82, đơn vị bảo
quản 1057.
498
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

còn của mỗi nước. Thái độ của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đối
với quan hệ Lào - Việt Nam là: chân thành, trung thực, không ích
kỷ; tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau; thông cảm và thương yêu nhau;
tự phê bình và phê bình đúng đắn; chủ động lãnh đạo quần chúng.
Về mối quan hệ giữa tự lực cánh sinh với sự giúp đỡ của Việt
Nam, phải tự lực cánh sinh như thế nào trước sự cải tiến cách giúp
của chuyên gia Việt Nam, đồng chí nhấn mạnh mặt nhận thức tư
tưởng: phát huy mạnh mẽ tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục hạn
chế tư tưởng tự ty, ỷ lại vào sự giúp đỡ của nước ngoài; có ý thức
phấn đấu vươn lên, khắc phục mọi khó khăn, bi quan, dao động, đa
nghi khi gặp khó khăn; nâng cao tinh thần chủ động, tích cực, tinh
thần dám nghĩ dám làm...
Cuối cùng, đồng chí Cayxỏn Phômvihản đề ra một số công tác
trước mắt cho các ngành, các địa phương phải tiến hành một cách
khẩn trương trước tình hình đang thay đổi hiện nay.
Sau khi các tiểu đoàn quân giải phóng Lào vào hai thành phố
trung lập bảo đảm an ninh, ngày 3 tháng 4 năm 1974, Hoàng thân
Xuphanuvông, Chủ tịch Neo Lào Hắc Xạt và đoàn cán bộ Lào vào
Viêng Chăn xúc tiến việc thành lập Chính phủ liên hiệp và Hội
đồng quốc gia chính trị liên hiệp Lào. Ngày 5 tháng 4, Chính phủ
liên hiệp do Hoàng thân Xuvănna Phuma làm thủ tướng, Hội đồng
quốc gia chính trị liên hiệp do Hoàng thân Xuphanuvông làm chủ
tịch chính thức ra mắt nhân dân cả nước. Các bộ chủ chốt được
chia đều cho các bên, các thứ trưởng đều là người của phía bên
kia tham gia. Quá trình thực hiện các điều khoản chủ yếu được
diễn ra theo đúng tinh thần Hiệp định. Tháng 5 năm 1974, Hội
đồng quốc gia chính trị liên hiệp thông qua báo cáo chính trị
khẳng định: việc ký kết văn bản Hiệp định Viêng Chăn thành lập
Hội đồng quốc gia chính trị liên hiệp và Chính phủ liên hiệp lâm
thời là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử quan trọng, tạo ra bước
499
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

ngoặt lớn trên con đường tiến lên của dân tộc Lào; phải tăng
cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân mới của Mỹ và những phần tử phản động... Tiếp đó,
ngày 25 tháng 5 năm 1974, Hội đồng quốc gia chính trị liên hiệp
thông qua Cương lĩnh chính trị 18 điểm do Neo Lào Hắc Xạt đưa
ra nhằm xây dựng một nước Lào hoà bình, trung lập, dân chủ,
thống nhất và thịnh vượng.
Trước sự đấu tranh kiên quyết và mạnh mẽ của nhân dân Lào,
tháng 5 năm 1974, Mỹ và Thái Lan đã phải rút hết quân ra khỏi
lãnh thổ Lào. Sự kiện này làm cho quân phái hữu vốn đã yếu nay
lại càng suy yếu hơn. Trong khi đó, phong trào đấu tranh của nhân
dân và sinh viên ngày càng phát triển, tạo thành cao trào trong
toàn quốc. Ngày 9 tháng 7, học sinh, sinh viên và quần chúng
cách mạng ở Thủ đô Viêng Chăn mít tinh trước trụ sở “Quốc hội
Viêng Chăn”, đốt các biểu ngữ và áp phích phản động của bọn
cực hữu. Sĩ quan và binh lính ở Phôn Khêng chống lại lệnh, không
đi đàn áp cuộc biểu tình của nhân dân. Ngày 10 tháng 7, Chính
phủ liên hiệp ra một quyết định quan trọng: giải tán “Quốc hội
Viêng Chăn” - thành luỹ chính trị của giai cấp tư sản phản động
thân Mỹ.
Ngoài việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại Lào về quân sự, chính
trị, sau ngày ký kết các hiệp định hoà bình, Việt Nam đã tập trung
cùng Lào giải quyết những yêu cầu cấp bách để mau chóng ổn định
sản xuất, đời sống của nhân dân, đồng thời xúc tiến công tác điều
tra cơ bản để chuẩn bị các mặt cho việc phát huy kinh tế của vùng
giải phóng trong những năm tới.
Trong nông nghiệp, Việt Nam đã giúp đẩy mạnh sản xuất ở
vùng giải phóng lên một bước. ở Sầm Nưa, Phôngxalỳ, nhân dân
Lào đã làm vụ chiêm, làm ruộng nương bậc thang, định canh định
cư, giảm bớt tình trạng phá rừng. Chuyên gia Việt Nam giúp xây
500
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

dựng được 20 tổ nông nghiệp cơ sở để xây dựng xã, bản có sản


xuất khá và vững mạnh về các mặt; giúp tổ chức mạng lưới thú y,
giúp một trại sản xuất tổng hợp nuôi lợn, bò, gà, cá và trồng rau,
cây ăn quả; giúp khảo sát vùng cao nguyên Bôlavên...
Về thuỷ lợi, đã giúp phát triển mạng lưới thuỷ lợi nhỏ ở các địa
phương, xây dựng 131 cơ sở thuỷ lợi nhỏ, tưới được 16.000 ha, trên
tổng số 40.000 ha ruộng nước, xây dựng ba trạm thuỷ điện nhỏ.
Về lâm nghiệp, xây dựng một số lâm trường khai thác gỗ ở Sầm
Nưa, mỗi năm khai thác từ 700 - 800 m3. Mở rộng cơ sở nghiên cứu
kiến đỏ ở Sầm Nưa, xây dựng một cơ sở xẻ gỗ 1.000m3/năm ở
Mương Xôi. Tiến hành nghiên cứu điều tra để tổ chức khai thác, chế
biến gỗ ở Trung Lào.
Về công nghiệp và thủ công nghiệp, khôi phục một số nghề
truyền thống trong nhân dân như dệt, rèn, gốm, cải tiến kỹ thuật nấu
đường mía, nấu muối... Trong khu vực quốc doanh, giúp xây dựng
được 26 cơ sở rèn, ba xưởng cơ khí thông dụng từ 20 - 50 tấn/năm,
một xưởng trùng tu xe ôtô 50 xe/năm, một xưởng bảo dưỡng xe cấp
ba, một xưởng mộc 300 m3/năm, một xưởng dệt có phân xưởng dệt
kim (24 máy), 10 cơ sở dệt cải tiến (quy mô 10 - 20 khung cửi dệt),
hai cơ sở may mặc (10 - 40 máy), tám cơ sở xay xát gạo (34 máy), ba
cơ sở sản xuất bánh kẹo, một cơ sở sản xuất bánh mì nhỏ.
Về thăm dò địa chất, Việt Nam giúp điều tra phát hiện được
200 điểm báo quặng trong vùng giải phóng; giúp tìm nguồn nước
ngầm phục vụ khu trung ương, điều tra quặng sắt vùng Xiêng
Khoảng, fêrít sắt vùng Sầm Nưa, than đá vùng Xalavăn.
Về giao thông vận tải, phía Việt Nam giúp bảo đảm giao thông
vận tải trên các đường chiến lược, giúp Lào thêm 1.240 km đường
mới bảo đảm chạy vào mùa khô và đang giúp rải nhựa nâng cấp
đường 6 và 17B. Ngoài ra, còn giúp công cụ, kỹ thuật để nhân dân
501
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

vùng giải phóng tự làm khoảng 2.000 km đường nhỏ ngắn đi lại
giữa các địa phương. Từ năm 1971 trở về trước, ngành vận tải Việt
Nam vận chuyển khoảng 13 - 18 ngàn tấn hàng hoá, vũ khí đạn
dược phục vụ kịp thời cho sự nghiệp kháng chiến của nhân dân
Lào. Sang năm 1972 - 1973, khối lượng vận chuyển được tăng dần.
Riêng mùa khô 1972 - 1973 đã chuyển được 28.000 tấn, mùa khô
1973 - 1974 tăng lên 340 tấn và 300 tấn hàng theo yêu cầu đột xuất
cho các tỉnh phía Bắc.
Về bưu điện, giúp xây dựng xong đường tải ba Na Mèo - Sầm
Nưa - Hà Nội, giúp công tác bưu chính, điện báo bảo đảm liên lạc
từ trung ương xuống các tỉnh, giữa tỉnh tới huyện, giữa Viêng Chăn
tới trung ương.
Về xây dựng cơ bản, giúp xây cất được khoảng 57.400 m2 nhà
các loại. Giúp cải tạo và xây dựng 7.000 m2 hang đá làm bệnh viện
và cơ quan của Đảng, Mặt trận ở Sầm Nưa.
Về tài mậu, giúp xây dựng các ngành tài chính, ngân hàng,
thương nghiệp từ trung ương xuống các tỉnh, hình thành mạng lưới
thương nghiệp trong toàn vùng giải phóng. Giúp hình thành một số
chế độ, thể lệ đưa dần công tác tài mậu vào nền nếp. Giúp phát
hành đồng kíp mới (đồng kíp giải phóng), giữ vật giá tương đối ổn
định, doanh số hàng năm đều tăng góp phần thúc đẩy sản xuất phát
triển.
Về văn hoá, giáo dục, y tế, dù trong hoàn cảnh chiến tranh ác
liệt gặp nhiều khó khăn, ngành giáo dục Việt Nam vẫn giúp vùng
giải phóng Lào duy trì và phát triển giáo dục cả ba hệ thống phổ
thông, bổ túc và bình dân. Số học sinh chiếm 8% số dân trong vùng
giải phóng. Ngoài ra, còn giúp xây dựng một số trường chuyên
nghiệp trung cấp, sơ cấp như giao thông, bưu điện, nông nghiệp,
thương nghiệp, y tế, sư phạm. Đặc biệt trong thời gian này, Việt
Nam đã giúp Lào mở Trường Đại học Sư phạm Viêng Xây - trường
502
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

đại học đầu tiên trong vùng giải phóng Lào. Một mạng lưới y tế
được hình thành và hoạt động đều từ trung ương xuống đến xã.
Trong toàn vùng giải phóng đã xây dựng 20 bệnh viện, 76 bệnh xá
(với 1.949 giường bệnh), 2/3 số xã có trạm xá, 1/2 số bản có tủ
thuốc, thành lập 11 trại chữa bệnh hủi, một xưởng sản xuất thuốc
chữa bệnh ở trung ương.
Bộ Văn hoá nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giúp xây dựng
Đoàn văn công ở trung ương và một số tỉnh, một đoàn xiếc trung
ương, xây dựng ngành điện ảnh và đã quay được một số bộ phim
thời sự, tài liệu phục vụ kịp thời cho công tác tuyên truyền, giáo
dục; giúp công tác sáng tác văn học, âm nhạc, xuất bản, in các tài
liệu tuyên truyền, giáo dục, sách giáo khoa... giúp xây dựng Đài
Phát thanh Pathết Lào và đài trung lập, đảm bảo hoạt động liên tục
trong mọi tình huống.
Công tác đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật: từ năm 1960, Lào
bắt đầu gửi học sinh sang học tập ở Việt Nam. Các trường chuyên
nghiệp Việt Nam (trừ các trường quân sự, công an) đã đào tạo hàng
nghìn cán bộ thuộc đủ mọi ngành, nghề thuộc lĩnh vực kinh tế, văn
hoá, giáo dục. Số học sinh Lào đang học tập tại Việt Nam có 1.917
người thuộc các trường chuyên nghiệp, 4.318 học sinh phổ thông
các cấp.
Ngoài ra, từ năm 1968, các tỉnh có biên giới với Lào cũng được
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam giao nhiệm vụ trực tiếp giúp
các tỉnh thuộc vùng giải phóng Lào có chung biên giới với Việt
Nam. Riêng Đoàn 559 có nhiệm vụ giúp đỡ toàn diện 14 huyện dọc
tuyến đường miền Nam Lào.
Tại Việt Nam, cuối năm 1974, trước tình hình nhiệm vụ
chuyên gia giúp Lào có sự thay đổi, từ ngày 5 đến 17 tháng 12,
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã tổ chức Hội nghị
chuyên gia chính trị, kinh tế, văn hoá để tổng kết, đánh giá sự
503
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

đóng góp của chuyên gia Việt Nam trong 10 năm qua đối với
cách mạng Lào (1964 - 1974), bàn phương hướng, nội dung giúp
cách mạng Lào trong tình hình mới. Hơn 100 đại biểu thuộc các
ngành công tác ở các địa phương của Lào đã về họp. Đồng chí
Lê Duẩn và đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã đến thăm và nói
chuyện với Hội nghị.
Hội nghị tập trung thảo luận các vấn đề như: cuộc chiến
tranh xâm lược Lào của đế quốc Mỹ trong 10 năm qua (1964 -
1974); sự giúp đỡ của chuyên gia, ưu khuyết điểm và những bài
học kinh nghiệm. Hội nghị thống nhất nhận định: trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa qua, ngoài sự nỗ lực vượt
bậc của quân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào và Neo Lào Hắc Xạt, còn có lực lượng chuyên gia
Việt Nam được Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, cử sang sát cánh cùng quân dân Lào
trong cuộc đấu tranh kiên cường chống kẻ thù chung. Phong trào
cách mạng Lào càng phát triển mạnh mẽ, do yêu cầu của Đảng
Nhân dân cách mạng Lào, số lượng chuyên gia Việt Nam thuộc
các ngành chính trị, kinh tế, văn hoá ngày càng tăng, nhất là từ
năm 1964 đến 1972.
Đánh giá về thành tựu của chuyên gia, báo cáo tổng kết nhắc
lại nhận định của đồng chí Cayxỏn tại cuộc hội đàm hai Đảng
tháng 12 năm 1973: “Chuyên gia đã giúp tạo cho Lào những
nhân tố quyết định để đảm bảo đi tới thắng lợi cuối cùng; giúp
hình thành lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, mặt trận dân
tộc thống nhất; giúp giành, giữ và xây dựng vùng giải phóng...
Quan trọng và quyết định nhất là đã giúp xây dựng đảng Mác -
Lênin chân chính, đội ngũ cán bộ, đảng viên từ ít đến nhiều, đã
tiến bộ một bước khá dài, tự đảm đương được nhiều mặt công
504
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

tác, tinh thần tự lực, tự cường tiến lên từng bước sâu hơn”263.
Hội nghị xác định: có được những thành tựu trên của đội ngũ
chuyên gia, trước hết là nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Trung
ương Đảng ta, sự tin cậy và giúp đỡ tận tình của các cấp ủy đảng,
cán bộ và nhân dân Lào; đa số chuyên gia đã nêu cao tinh thần
quốc tế trong sáng, kiên định lập trường chiến đấu, nhiệt tình cách
mạng, chân thành, thuỷ chung, chí tình, chí nghĩa với bạn, coi sự
nghiệp cách mạng của bạn như sự nghiệp của mình; có phẩm chất,
năng lực và kinh nghiệm công tác, nhiều đồng chí lăn lộn nhiều
năm với phong trào cách mạng Lào...
Hội nghị cũng thẳng thắn nêu ra các khuyết điểm của đội ngũ
chuyên gia, đó là: trong giữ nguyên tắc, một số chuyên gia đã
không thực hiện đúng lời dạy của Bác Hồ trong cuộc hội đàm giữa
hai Đảng năm 1961 là “Chuyên gia phải đặt dưới sự lãnh đạo của
Trung ương Đảng bạn”, nên có đồng chí coi nhẹ sự chỉ đạo của cấp
trên bạn, ít lắng nghe bạn, gò ép bạn theo ý định có sẵn của mình.
Một số chuyên gia rập khuôn máy móc, thường đem kinh nghiệm,
kiểu cách Việt Nam áp dụng máy móc vào Lào, không chịu khó
nghiên cứu đặc điểm Lào, kể cả đặc điểm từng địa phương, từng
dân tộc để vận dụng cho phù hợp; chưa làm tốt công tác điều tra,
nghiên cứu, tổng kết rút kinh nghiệm.
Về bộ máy tổ chức, lẽ ra chuyên gia phải thu hẹp từng bước
theo sự trưởng thành của bạn như đồng chí Lê Duẩn đã chỉ đạo:
“Bộ máy của bạn càng được kiện toàn bao nhiêu thì bộ máy của
ta càng phải nhỏ bấy nhiêu”, nhưng chúng ta đã tính toán chủ
quan, theo ý muốn được việc, không ngừng tăng cường đội ngũ

263
. Báo cáo tổng kết 10 năm chuyên gia chính trị, kinh tế, văn hoá giúp
cách mạng Lào (1964 - 1974), lƣu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
505
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

chuyên gia, bố trí còn dàn trải, chưa tập trung vào những khâu cơ
bản...
Về nguyên nhân của những khuyết điểm trên, Hội nghị xác
định: nguyên nhân cơ bản là một số chuyên gia chưa quán triệt đầy
đủ tính chất đặc biệt và những nguyên tắc trong quan hệ giữa hai
Đảng, hai Nhà nước. Nhiều đồng chí thường nhấn mạnh tính đặc
biệt mà lãng quên mặt nguyên tắc của quan hệ.
Cuối cùng, Hội nghị xác định: cách mạng Lào đã giành được
thắng lợi to lớn, vượt bậc toàn diện, có cơ sở vững chắc, có ý nghĩa
chiến lược, lịch sử và tính thời đại (năm 1973), nhiệm vụ của
chuyên gia Việt Nam cũng góp phần kết thúc một giai đoạn lịch sử.
Nhưng cuộc đấu tranh của nhân dân Lào còn đang tiếp diễn, ta còn
phải tiếp tục giúp đỡ. Chúng ta cần khắc phục thiếu sót, tìm những
hình thức mới cho phù hợp với bước ngoặt của cách mạng Lào
nhằm đạt những thành tích cao hơn nữa.
Hội nghị chuyên gia chính trị, kinh tế, văn hoá là một dịp
quan trọng để tổng kết, đánh giá sự đóng góp của chuyên gia Việt
Nam trong 10 năm qua đối với cách mạng Lào. Tuy còn có những
khuyết điểm, nhưng thành tích và ưu điểm của chuyên gia Việt
Nam vẫn là mặt cơ bản. Đội ngũ chuyên gia đã không phụ lòng tin
của Trung ương Đảng Nhân dân Lào, hoàn thành tốt nhiệm vụ của
hai Đảng giao phó, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh
của nhân dân các bộ tộc Lào, góp phần vun đắp tình hữu nghị đặc
biệt Việt Nam - Lào.

2. Phối hợp đẩy mạnh đấu tranh giành thắng lợi hoàn toàn
năm 1975
Tại Lào, trước những thắng lợi cơ bản của cách mạng, tháng
11 năm 1974, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã họp
506
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

đánh giá thắng lợi của hơn một năm thực hiện Hiệp định và đề ra
nhiệm vụ của cách mạng Lào trong thời gian tới. Hội nghị đánh giá:
phong trào cách mạng trong các tầng lớp nhân dân, công nhân, sinh
viên, công chức và một bộ phận quân đội, cảnh sát thuộc phái hữu
được cách mạng giác ngộ ngày càng lên cao. Phạm vi kiểm soát
tạm thời của phái Viêng Chăn bị thu hẹp (chỉ còn dọc bờ sông Mê
Công), nhưng lại bị chia thành hai khu (khu trung lập và khu chính
quyền Viêng Chăn quản lý) và cả hai khu đều có cơ sở của cách
mạng.
Trên cơ sở phân tích, nhận định, đánh giá đầy đủ tình hình,
Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào đề ra nhiệm vụ và mục
tiêu trước mắt là: “Phải kiên quyết đấu tranh xoá bỏ sự thao túng và
khống chế của đế quốc Mỹ; tranh thủ phân hoá lực lượng phái hữu
làm cho chúng bị cô lập... kiên quyết không để cho bọn phản động
lật đổ Chính phủ liên hiệp và gây lại xung đột vũ trang. Đấu tranh
làm cho bộ máy chính quyền Viêng Chăn từ trung ương tới cơ sở bị
tê liệt, không có điều kiện thực hiện các chủ trương phản động.
Tranh thủ sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, từng bước cải
tiến cơ cấu kinh tế, tài chính ngày càng có lợi cho sự phát triển kinh
tế của cả nước...”.
Phương châm hành động trong giai đoạn tới được xác định là:
giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập, dân chủ, hoà hợp dân tộc,
thống nhất quốc gia. Tranh thủ tiến công địch nhưng phải biết nhân
nhượng, nhằm tranh thủ mọi lực lượng (có thể được), trung lập hoá
mọi lực lượng, kể cả tranh thủ Nhà vua và Hoàng tộc...
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương Đảng Nhân dân
cách mạng Lào, phong trào đấu tranh của quần chúng ngày càng
lan rộng và sôi nổi. Từ cuộc đấu tranh vì sự công bằng, đòi quyền
sống trong hoà bình, quyền dân chủ tiến tới cuộc nổi dậy giành
507
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

chính quyền từng phần.


ở Viêng Chăn, sau nhiều phiên họp, cuối tháng 12 năm 1974,
Chính phủ liên hiệp và Hội đồng quốc gia chính trị liên hiệp buộc
phải chấp nhận Cương lĩnh chính trị 18 điểm và Chương trình hành
động 10 điểm của phía cách mạng đưa ra và coi Cương lĩnh 18
điểm là nguyên tắc hoạt động đối nội, đối ngoại của Chính phủ liên
hiệp lần này.
Những thành công của Lào trên mặt trận đấu tranh pháp lý và
sự có mặt của lực lượng vũ trang cách mạng ở hai thành phố trung
lập đã làm hậu thuẫn cho nhân dân sôi nổi đứng lên đấu tranh.
Ngụy quân, ngụy quyền hoang mang dao động và xuất hiện sự
phân hoá sâu sắc. Nội bộ địch vốn đã có nhiều mâu thuẫn, nay
những mẫu thuẫn đó lại càng sâu thêm, nhiều nơi chúng đã dùng
lực lượng quân sự để tranh giành quyền lực, đem quân thanh toán
lẫn nhau, như ở bắc và nam Thà Khẹc.
Tháng 12 năm 1974, binh lính và sĩ quan tiến bộ của Tiểu đoàn
BC102 ở Huội Xài do Chăn Xúc chỉ huy đã nổi dậy đấu tranh
chống các phần tử thân Mỹ, đòi thi hành Hiệp định và Nghị định
thư, đòi trừng trị bọn phá hoại Hiệp định và bọn tham nhũng. Được
sự phối hợp của lực lượng cách mạng, lực lượng này đã ly khai
khỏi sự điều hành của Phân khu Huội Xài và xin được hợp tác với
Neo Lào Hắc Xạt. Quân dân Huội Xài đã nhanh chóng kết hợp
cùng lực lượng binh biến nổi dậy giành chính quyền huyện và tỉnh.
Bọn địch ở đây bị bất ngờ, tháo chạy, lực lượng cách mạng làm chủ
toàn bộ khu vực Huội Xài. Tại Quân khu 1, quân nguỵ đưa lực lượng
từ Luổng Phạbang đến để phản kích. Neo Lao Hắc Xạt sử dụng thế
hợp pháp của Chính phủ liên hiệp yêu cầu địch phải rút về, tình
hình trở lại ổn định.
Từ thắng lợi Huội Xài, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân
508
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

dân cách mạng Lào rút ra kết luận: với tình thế cách mạng hiện
nay, chủ trương kết hợp tiến công địch bằng ba đòn chiến lược
(nổi dậy của quần chúng, binh biến ly khai trong binh lính địch, áp
lực quân sự của các lực lượng vũ trang cách mạng) và mũi đấu
tranh pháp lý để giành chính quyền từng khu vực là đúng đắn và
sáng tạo. Bộ Chính trị quyết định phổ biến kịp thời kinh nghiệm
Huội Xài cho các địa phương trong cả nước, yêu cầu các địa
phương học tập để đẩy mạnh đấu tranh.
Tại Việt Nam, vào nửa cuối năm 1974, thế và lực cách mạng ở
miền Nam đã mạnh hơn hẳn, quân nguỵ ngày càng suy yếu rõ rệt,
nội bộ nước Mỹ đang khủng hoảng nghiêm trọng. Tuy nhiên, về
điều kiện quốc tế, Việt Nam có những khó khăn mới: cả Liên Xô và
Trung Quốc đều chấm dứt viện trợ quân sự cho Việt Nam.
Căn cứ vào tình hình trong nước và quốc tế, Bộ Chính trị và
Quân uỷ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam hạ quyết tâm: phải
nhanh chóng giải phóng miền Nam với thời gian nhanh nhất có thể.
Từ ngày 18 tháng 12 năm 1974 đến 8 tháng 1 năm 1975, Hội nghị
Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã xác định: giải phóng miền Nam
trong hai năm 1975 - 1976 và nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối
năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Sau khi hoàn thành các mặt chuẩn bị cả về thế và lực, đầu tháng
3, Việt Nam bắt đầu tiến hành cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa
Xuân 1975. Mở đầu là chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4 tháng 3
đến 3 tháng 4 năm 1975), tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 -
Quân khu 2 nguỵ, giải phóng Tây Nguyên, tạo sự thay đổi cơ bản
về so sánh lực lượng và thế chiến lược, dẫn tới sự sụp đổ về chiến
lược và tinh thần của địch. Đồng thời với hướng Tây Nguyên, tại
Quân khu Trị - Thiên và Quân khu 5, quân dân Việt Nam mở chiến
dịch Trị - Thiên - Huế (từ ngày 5 đến 26 tháng 3), chiến dịch Đà
509
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

Nẵng (từ ngày 26 đến 29 tháng 3), diệt và làm tan rã phần lớn Quân
đoàn 1 - Quân khu 1, giải phóng năm tỉnh miền Trung, trong đó có
hai thành phố lớn là Huế và Đà Nẵng, đập tan âm mưu co cụm
chiến lược của địch, tạo bước phát triển nhảy vọt về cục diện chiến
tranh. Tiếp đó, sau khi quét sạch địch ở Phan Rang (ngày 16 tháng
4), Xuân Lộc (ngày 21 tháng 4), các quân đoàn chủ lực Việt Nam
từ nhiều hướng tiến về tập trung mở chiến dịch Hồ Chí Minh (từ
ngày 26 đến 30 tháng 4), tiến công giải phóng Sài Gòn. Đúng 11
giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, lá cờ “Quyết chiến quyết
thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đã tung bay trên
nóc Dinh Độc lập. Chính quyền Sài Gòn tuyên bố đầu hàng vô điều
kiện. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam toàn
thắng.
Trải qua cuộc trường chinh 30 năm với ba mốc son chói lọi:
Cách mạng tháng Tám 1945, Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 và
Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 toàn thắng, dân tộc Việt
Nam đã hoàn thành vẻ vang sự nghiệp cứu nước. ách thống trị của
chủ nghĩa thực dân cũ và mới kéo dài hơn một thế kỷ trên đất nước
Việt Nam đã vĩnh viễn chấm dứt. Việt Nam hoàn toàn độc lập,
thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên thế giới, đây là
lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh của các dân tộc nhỏ, vốn là
thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế kém phát triển đã vùng lên tự
giải phóng và liên tiếp đánh thắng những cường quốc đế quốc chủ
nghĩa, chủ yếu bằng sức của chính mình, nêu một tấm gương anh
dũng, bất khuất, trí tuệ, tài năng trong phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới. Cụm từ “Việt Nam - Hồ Chí Minh” đi vào ngôn
ngữ các dân tộc, đồng nghĩa với lương tri và phẩm giá con người,
với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Tại Lào, bước sang năm 1975, khí thế đấu tranh chính trị của
510
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

quần chúng ngày càng lên cao, mở đầu là cuộc biểu tình của 300
học sinh Pạc Xê diễn ra trong nhiều tuần lễ. Tiếp đến là cuộc đấu
tranh của nhân dân mường Noỏng Bốc từ ngày 4 tháng 1 đến ngày
21 tháng 2 năm 1975, dưới sự lãnh đạo của chi bộ đảng ở địa
phương. Trước sự đàn áp của địch, nhiều đảng viên đã anh dũng hy
sinh, nhưng cuộc đấu tranh vẫn được giữ vững. Chính phủ liên hiệp
phải chấp nhận giải quyết mọi yêu sách của quần chúng. Cuộc nổi
dậy của nhân dân Noỏng Bốc đã châm ngòi nổ cho một cao trào
mới của cách mạng Lào.
Trước thắng lợi dồn dập to lớn của nhân dân Việt Nam,
Campuchia trong tháng 4 năm 1975 và tình hình thuận lợi của cách
mạng Lào, sau khi tới Hà Nội trao đổi với đồng chí Lê Duẩn về vấn
đề tiến hành khởi nghĩa ở Lào và hành động phối hợp của Việt
Nam, đồng chí Cayxỏn Phômvihản triệu tập Hội nghị Bộ Chính trị
vào tháng 4 năm 1975, quyết định đẩy mạnh công tác chuẩn bị mọi
mặt để tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, dự
kiến vào mùa khô 1975 - 1976.
Thắng lợi của hai nước Việt Nam và Campuchia, đặc biệt là
thắng lợi ngày 30 tháng 4 năm 1975 của nhân dân Việt Nam đã cổ
vũ to lớn đối với quân, dân Lào, đồng thời làm cho bọn phái hữu
ngày càng hoang mang lo sợ. Ngày 1 tháng 5, hàng vạn công nhân
viên chức, học sinh, sinh viên cùng các tầng lớp nhân dân ở Viêng
Chăn xuống đường biểu tình, thị uy đòi thi hành nghiêm chỉnh
Hiệp định, yêu cầu bọn cực hữu ra khỏi Chính phủ liên hiệp. Khí
thế đấu tranh cách mạng sục sôi lan rộng khắp mọi miền đất nước
Lào.
Trước thời cơ cách mạng đang chín muồi, ngày 5 tháng 5
năm 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng
Lào tổ chức Hội nghị mở rộng. Hội nghị đã nhất trí hoàn toàn
với nhận định của đồng chí Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản:
511
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

“Cách mạng Lào đang đứng trước thời cơ thuận lợi; vấn đề giành
chính quyền về tay nhân dân cần được tiến hành gấp rút. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, chúng ta có đủ khả
năng hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi toàn
quốc chỉ trong thời gian ngắn”. Bộ Chính trị đã thống nhất kế
hoạch giành chính quyền trên toàn quốc và kêu gọi toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân trên cả ba vùng chiến lược nắm vững thời cơ
ngàn năm có một “nổi dậy đồng loạt và tiến công toàn diện, liên
tục, mạnh mẽ giành chính quyền về tay nhân dân trong thời gian
ngắn nhất bằng ba đòn chiến lược và một mũi đấu tranh pháp
lý”264.
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về
việc giành chính quyền, các cấp uỷ đảng đã lãnh đạo các cuộc nổi
dậy của quần chúng nhân dân dưới mọi hình thức, như: mít tinh,
tuần hành biểu dương lực lượng, đưa kiến nghị... làm cho bộ máy
nguỵ quân, nguỵ quyền bị uy hiếp. Về quân sự, ngày 6 tháng 5, một
cánh quân lớn quân giải phóng nhân dân Lào, gồm các tiểu đoàn 1,
2, 13, 701 và 705 cùng các đại đội pháo binh, xe tăng do các đồng
chí Chummaly Xaynhaxỏn và Khẻm Phon chỉ huy, đã đập tan cụm
phòng ngự của Lữ đoàn 2 quân đặc biệt Vàng Pao ở ngã ba Xála
Phu Khun, sau đó phát triển lực lượng về hai hướng Viêng Chăn và
Luổng Phạbang. Nguỵ quyền Viêng Chăn lâm vào tình trạng hoang
mang, dao động đến cực điểm.
Đêm 7 tháng 5 năm 1975, Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Nhân
dân cách mạng Lào họp khẩn cấp xem xét tình hình, hạ quyết tâm:
“đưa toàn bộ lực lượng vũ trang ở các hướng nhanh chóng tràn vào
vùng đối phương đang kiểm soát”, kiềm chế địch, hỗ trợ phong

. Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Nhân dân
264

cách mạng Lào, tháng 5 năm 1975.


512
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

trào nổi dậy của quần chúng, phong trào binh biến của binh lính
địch, giành chính quyền tại chỗ. Thường vụ Bộ Chính trị cũng có
kế hoạch hiệp đồng với phía Việt Nam, nhờ Việt Nam làm hậu
thuẫn bảo vệ vùng giải phóng và hỗ trợ khi cần thiết.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, ngày 8 tháng 5, Bộ
Chỉ huy tối cao Lào ra lệnh cho các hướng đưa bộ đội nhanh
chóng áp sát địch, chiếm lĩnh các vị trí xung yếu trong thành
phố, thị xã. Trên hướng đường 13 - Xála Phu Khun, sau khi
chiếm Phôn Xỉ Đa, quân giải phóng nhân dân Lào thọc xuống thị
trấn Ka Xỷ và ngày 8 tháng 5, chiếm Phả Hom, truy kích địch về
Văng Viêng. Hướng lên Luổng Phạbang, Tiểu đoàn 13 chiếm
Phả Đeng, Phả Khêm, sau đó phối hợp với lực lượng trong thành
phố, vận động Tiểu đoàn (BI) 106 của nguỵ nổi dậy làm nội ứng,
cùng bộ đội chiếm thị trấn Xiêng Ngân, cắt đứt con đường chiến
lược nối hai thành phố lớn Viêng Chăn và Luổng Phạbang. Cánh
quân thứ hai của Quân khu Xiêng Khoảng, gồm các tiểu đoàn 24,
15, 16, 48 và Pắtchây do đồng chí Koong Xỉ chỉ huy, tiến vào áp
sát Xảm Thông - Loòng Chẹng, Xa Nu. Cánh quân thứ ba, gồm
Tiểu đoàn 613 cùng đại đội đặc công và các đơn vị địa phương,
do đồng chí Khăm Pha chỉ huy tiến qua khu du kích Phu
Phalavẹc - Loọng Xan vào chiếm Phu Khẩu Khoai - một vị trí
quan trọng trong tuyến phòng thủ vòng ngoài của Thủ đô Viêng
Chăn. Cánh quân thứ tư gồm các đơn vị đặc công, một số đơn vị
địa phương do đồng chí Xa Thiến chỉ huy tiến qua Thà Thôm,
xuống Mương Cầu vào chiếm thị xã Pạc Xan (tỉnh lỵ
Bolikhămxay và là sở chỉ huy Phân khu nam Viêng Chăn thuộc
Quân khu 5 của địch).
Sau khoảng hơn 10 ngày thực hiện mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy
tối cao, các lực lượng vũ trang quân giải phóng nhân dân Lào đã
513
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

triển khai xong lực lượng tạo thế bao vây, chia cắt trên chiến
trường cả nước, từng khu vực và cả ở các thành phố, thị xã. Việc
triển khai lực lượng vũ trang đã tạo ra sự áp đảo đối với địch ở
vùng chúng kiểm soát, có tác dụng to lớn thúc đẩy khí thế của quần
chúng thành cao trào cách mạng, làm chỗ dựa cho phong trào binh
biến nổi dậy của binh lính địch.
Để đối phó với tình hình, đế quốc Mỹ âm mưu lùi một bước
để bảo toàn lực lượng, chờ thời cơ phản kích lại bằng cách cho
bọn tay sai đầu sỏ như Xỉ Xúc Ná Chămpaxắc, Ngồn Xánánicon,
Vàng Pao xin từ chức, đồng thời cho bọn tay sai trong quân đội
làm binh biến giả, tuyên bố ly khai, xin trực thuộc Chính phủ liên
hiệp và hợp tác với các lực lượng Pathết Lào.
Nhưng trước cao trào đấu tranh sôi sục của quần chúng, sau
thất bại của bọn tay sai ở Sài Gòn, Phnôm Pênh, bọn phái hữu vô
cùng hoang mang, dao động. Từ ngày 9 tháng 5, nhiều tên phản
động đầu sỏ trong bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền bỏ trốn sang
Thái Lan, nên bọn phản động còn lại như rắn mất đầu, bị tan rã
từng mảng.
Nắm vững thời cơ, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, một mặt,
lãnh đạo nhân dân đưa kiến nghị yêu cầu quân giải phóng nhân dân
Lào vào bảo vệ các thành phố, đồng thời ép Phuma chấp nhận yêu
sách trên của quần chúng và giao cho tướng Khăm Uộn Búpphả
(thuộc lực lượng Trung lập yêu nước, ở Phôngxalỳ) giữ chức quyền
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (bộ trưởng là Xixúc đã bỏ chạy) phụ
trách trực tiếp và toàn diện quân đội phía Viêng Chăn.
Ngày 13 tháng 5, Đại đội 2 thuộc Tiểu đoàn 1 quân giải phóng
nhân dân Lào chiếm trại lính Chinaimô, một trung tâm quân sự lớn
nhất ở Viêng Chăn. Ngày 14 tháng 5, nhân dân, học sinh và binh
lính cùng cảnh sát, gồm hơn 1 vạn người đã tuần hành lên án chính
514
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

quyền phản động, đòi cơ quan USAID của Mỹ phải chấm dứt hoạt
động. Cùng ngày, Tiểu đoàn 1 tiếp tục chiếm cơ quan và trường
hiến binh ở Km 5.
ở Xavẳnnakhệt, trên 4.000 học sinh, sinh viên cùng nhân dân
và binh lính đã biểu tình thị uy đòi cơ quan USAID của Mỹ phải
cút về nước. Ngày 15 tháng 5, hàng ngàn nhân dân thị xã Văng
Viêng, đã nổi dậy lật đổ chính quyền cũ. Bộ đội địa phương Viêng
Chăn chiếm được thị trấn Phôn Hoộng. Cùng ngày, quân và dân
Chămpaxắc nổi dậy làm chủ Pạc Xê, trung tâm của Quân khu 4.
Đến giữa tháng 5, lực lượng vũ trang cách mạng Lào đã hình
thành thế bao vây, chia cắt chiến lược đối với hai phân khu xung yếu
của địch. Bọn đầu sỏ và bọn ác ôn tìm cách bỏ chạy sang Thái Lan.
Ngày 16 tháng 5, các tiểu đoàn 24, 46, Pắtchây đánh chiếm căn cứ
Xảm Thông - Loòng Chẹng sào huyệt cuối cùng của lực lượng đặc
biệt Vàng Pao. Ngày 17 tháng 5, nhân dân, học sinh biểu tình thị uy
ở thị xã Thà Khẹc và Noỏng Bốc... Cùng ngày, các tiểu đoàn 407,
406, 409 chiếm một số mục tiêu quan trọng ở Luổng Phạbang. Ngày
18 tháng 5, các tiểu đoàn 705, 701, 586, có pháo binh, xe tăng đi
cùng đã tiến vào nội đô Viêng Chăn. Ngày 19, quân và dân Lào làm
chủ Thà Khẹc; ngày 21, làm chủ Xavẳnnakhệt - trung tâm của Quân
khu 3. Trước áp lực đang gia tăng của cách mạng, ngày 22 tháng 5,
Chính phủ liên hiệp ra quyết định giải tán cơ quan USAID và ngày
27 tháng 5, đại diện Mỹ tại Lào phải ký Văn bản bảy điểm, chấp
nhận rút toàn bộ cơ quan USAID ra khỏi Lào. Bộ máy thực dân kiểu
mới của Mỹ ở Lào bị xoá bỏ hoàn toàn.
Cũng trong thời gian này, trên hướng đường 23 (Hạ Lào), các
đơn vị thuộc Mặt trận 23 gồm: ba tiểu đoàn chủ lực số 10, 11, 12;
tiểu đoàn pháo binh, đại đội xe tăng và các đại đội địa phương của
các tỉnh Chămpaxắc, Xalavăn, áttapư... đã phối hợp với lực lượng
515
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

thanh niên và hàng chục ngàn nhân dân địa phương nổi dậy giải
phóng các tỉnh ở Hạ Lào.
Dựa vào áp lực quân sự, cao trào đấu tranh giành chính quyền
của quần chúng diễn ra bằng “ba đòn chiến lược” tiếp tục phát triển
mạnh mẽ ở nhiều nơi. Phong trào binh biến cũng diễn ra ở nhiều
đơn vị, tính đến ngày 31 tháng 5, đã có 45 nơi có binh lính nguỵ
nổi dậy ly khai quân đội Vương quốc, trở về hợp tác với chính
quyền cách mạng. Làn sóng đấu tranh của quần chúng trong tháng
5 đã có tới hàng vạn lượt người tham gia. Tính đến 28 tháng 5, lực
lượng cách mạng Lào đã thành lập chính quyền ở 15 tỉnh, thành và
67 huyện, thị.
Phối hợp với phong trào nổi dậy của quần chúng, Neo Lào
Hắc Xạt đã tận dụng cơ sở pháp lý, cách chức bọn chỉ huy phái
hữu phản động, tạm giữ một số sĩ quan cao cấp, tập trung vũ khí,
không cho địch điều động lực lượng, đồng thời mở phiên toà xét
xử bọn phản động. Đến thời điểm này, lực lượng cảnh sát, quân
đội Viêng Chăn gần như đã bị xoá bỏ, vũ khí, phương tiện kỹ
thuật của chúng đã thuộc lực lượng yêu nước quản lý. Chính
quyền Viêng Chăn cùng quan thầy Mỹ lâm vào tình thế bế tắc
hoàn toàn.
Ngày 7 và 8 tháng 7, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân
cách mạng Lào ra chỉ thị xoá bỏ hoàn toàn chính quyền và quân đội
của địch, đồng thời thành lập chính quyền cách mạng trong cả
nước. Sau khi họp Bộ Chính trị, đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã có
cuộc hội đàm với đồng chí Lê Duẩn tại thành phố Hồ Chí Minh,
trong hai ngày 10 và 11 tháng 7 năm 1975. Đồng chí Cayxỏn
Phômvihản đã thông báo về diễn biến của cuộc nổi dậy đầy mạnh
mẽ của các tầng lớp nhân dân Lào và một số chủ trương của Bộ
Chính trị, như: sau khi cải tổ Chính phủ liên hiệp xong (tháng 10
516
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

năm 1975), Đảng Nhân dân cách mạng Lào dự định phát động một
phong trào dân chủ trong cả nước để bầu ra các cơ quan chính
quyền địa phương, rồi tiến tới tổ chức tổng tuyển cử vào năm 1976,
lập một chính phủ chính thức do người của Đảng làm thủ tướng,
Phuma thôi giữ chức thủ tướng; Trong Trung ương Đảng Nhân dân
cách mạng Lào có một số đồng chí chủ trương duy trì Chính phủ
liên hiệp vì cho rằng Phuma từ chức, Mỹ sẽ cắt viện trợ. Nhưng Bộ
Chính trị đã họp thảo luận đi đến kết luận phải làm triệt để; Bộ
Chính trị dự định khoảng từ tháng 3 hoặc tháng 4 năm 1976, sẽ tiến
hành bầu cử quốc hội và lập chính phủ do cách mạng nắm hoàn
toàn.
Đồng chí Lê Duẩn thay mặt Đoàn đại biểu Việt Nam nhất trí
với chủ trương của Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào.
Đồng chí nêu một số vấn đề cần nghiên cứu quyết định cho phù
hợp, đó là: ta nắm được chính quyền các tỉnh, quân đội phái hữu
không còn nữa, vậy ta có thể không cần cải tổ chính phủ mà Hội
đồng chính phủ do ta làm thủ tướng, còn ông Phuma làm chủ tịch
hội đồng; dự định tiến hành tổng tuyển cử vào đầu năm 1976 có
chậm không; phải đề phòng họ phản kích ta, phá ta.
Sau cuộc hội đàm, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng
Lào đã đẩy nhanh tiến trình giành chính quyền ở Lào. Từ tháng 6
đến tháng 8 năm 1975, nhân dân ở các tỉnh Bolịkhăn
(Bolikhămxay), Xiêng Khoảng, Chămpaxắc, Xaynhabuli, Luổng
Phạbang dưới sự lãnh đạo của đảng bộ cơ sở đã lần lượt nổi dậy
giành chính quyền. Ngày 23 tháng 8, hàng vạn nhân dân Thủ đô
Viêng Chăn mít tinh trọng thể tại quảng trường Thạt Luổng đón
nhận sự ra đời của chính quyền thủ đô. Ngay sau khi giành được
chính quyền ở Viêng Chăn, Trung ương Đảng Lào chỉ đạo các
địa phương tiến hành vận động bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ
517
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

ban hành chính các cấp.


Trước sức mạnh đấu tranh của “ba đòn chiến lược”, ngày 25
tháng 11 năm 1975, tại Thủ đô Viêng Chăn, Hội đồng quốc gia
chính trị liên hiệp đã họp và đi đến quyết định chấp nhận yêu cầu
chính đáng của nhân dân là xoá bỏ chế độ quân chủ, giải tán Chính
phủ liên hiệp, triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc, thành
lập chính quyền dân chủ nhân dân. Ngày 29 tháng 11 năm 1975,
Vua Xỉxávàng Vắtthana tuyên bố thoái vị, trao lại toàn bộ quyền
hành cho nhân dân, chấm dứt chế độ quân chủ tồn tại hàng trăm
năm ở nước Lào.
Trong không khí tưng bừng của những ngày chiến thắng, Đại
hội đại biểu nhân dân toàn quốc Lào được tổ chức tại Thủ đô
Viêng Chăn (ngày 1 và 2 tháng 12 năm 1975), với sự tham gia của
264 đại biểu đại diện cho các tầng lớp của nhân dân các bộ tộc,
các tôn giáo, các tổ chức quần chúng, các vị lão thành, trí thức và
lực lượng vũ trang, trong đó phần lớn là đại biểu của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận Lào yêu nước và
liên minh các lực lượng trung lập yêu nước. Đại hội đã quyết định
xoá bỏ chế độ quân chủ và thiết lập chế độ cộng hoà dân chủ nhân
dân. Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào ra đời, Hoàng thân
Xuphanuvông được cử giữ chức chủ tịch nước, đồng chí Cayxỏn
Phômvihản được cử làm thủ tướng. Cuộc đấu tranh gian khổ, kéo
dài suốt 30 năm liên tục của nhân dân các bộ tộc Lào dưới sự lãnh
đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã giành thắng lợi trọn
vẹn.
Đây là thắng lợi trọn vẹn và triệt để nhất của dân tộc Lào từ
trước đến nay, chẳng những đã khôi phục nền độc lập của Tổ quốc
bị chà đạp trên hai thế kỷ, mà lần đầu tiên nhân dân Lào có một nền
dân chủ thực sự. Chính quyền cách mạng được thiết lập trên phạm
518
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

vi cả nước, chế độ mới, chế độ dân chủ nhân dân được xây dựng và
kiện toàn, các quyền lợi cơ bản của người dân về chính trị, kinh tế,
xã hội, văn hoá được bảo đảm. Thắng lợi của 30 năm chiến tranh
giải phóng thực sự “đã làm cho vận mệnh dân tộc và xã hội Lào
thay đổi sâu sắc, mở ra một kỷ nguyên mới cho công cuộc xây
dựng Tổ quốc Lào muôn vàn yêu quý của chúng ta tiến nhanh,
tiến mạnh trên con đường độc lập, tự chủ, thống nhất và phồn vinh,
bảo đảm vĩnh viễn cho nhân dân các dân tộc Lào cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc”265. Thắng lợi này còn nâng cao uy tín và vị trí
của nước Lào trên trường quốc tế...
Sau khi Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà
bình ở Việt Nam (tháng 1 năm 1973) và Hiệp định Viêng Chăn về
Lào (tháng 2 năm 1973) được ký kết, cục diện quân sự và chính trị
trên chiến trường Đông Dương đã có sự thay đổi cơ bản. Xu thế tất
thắng của cách mạng Đông Dương đã trở nên rõ rệt, không thể nào
đảo ngược. Trước tình hình và vận hội mới, quan hệ đặc biệt Lào -
Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển. Vùng giải phóng hai nước, hành
lang chiến lược Đông - Tây Trường Sơn tiếp tục mở rộng, hoàn
chỉnh vẫn là cơ sở quan trọng giúp cho cách mạng hai nước đi tới
ngày toàn thắng.
Một điểm nổi bật trong quan hệ của hai Đảng trong giai đoạn
này là mặc dù trong điều kiện hoà bình nhưng hai Đảng vẫn thường
xuyên có các cuộc hội đàm để thống nhất những chủ trương
phương pháp giúp nhau hiệu quả, đưa cách mạng Lào ngày một
phát triển. Hai Đảng đã có sự thống nhất về quan điểm chính trị, về
phương thức giành thắng lợi của cách mạng mỗi nước. Hai Đảng

. Cayxỏn Phômvihản: Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu nhân dân toàn
265

quốc, ngày 2 tháng 12 năm 1975.


519
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

cũng rất thẳng thắn nêu những ưu, khuyết điểm trong quá trình giúp
nhau và cùng nhau bàn cách khắc phục để quan hệ Việt Nam - Lào
ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn.
Mặc dù đất nước Lào chuyển từ chiến tranh sang hoà bình,
song âm mưu của Mỹ và phái hữu vẫn không thay đổi. Vì vậy,
theo yêu cầu của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, chuyên gia quân
sự và lực lượng quân tình nguyện Việt Nam vẫn tiếp tục ở lại Lào
giúp đỡ việc xây dựng, bảo vệ vùng giải phóng, đồng thời sẵn
sàng đối phó với mọi tình huống khi có chiến tranh xảy ra. Tuy
nhiên, khác với giai đoạn trước, việc bố trí chuyên gia và quân
tình nguyện Việt Nam ở giai đoạn này đã giảm đi nhiều và đòi hỏi
phải phù hợp với tình hình chính trị mới cũng như phù hợp với sự
phát triển của Lào.
Quan hệ về kinh tế và văn hoá giữa hai nước cũng tiếp tục phát
triển. Việt Nam vẫn tiếp tục chi viện về vật chất cho cách mạng
Lào. Hai bên đã ký kết nhiều hiệp định hợp tác trao đổi và tương
trợ kinh tế, văn hoá. Nhiều đoàn chuyên gia kinh tế, văn hoá thuộc
nhiều cấp bộ, ngành của Việt Nam sang Lào triển khai thực hiện
các hiệp định, nghị định thư đã ký kết. Trong lĩnh vực đào tạo, giáo
dục Việt Nam đã giúp Lào có hiệu quả hơn.
*
* *
Giai đoạn 1963 - 1975, Việt Nam và Lào tiếp tục kháng chiến
chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược. Quan hệ Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam trong giai đoạn này thực sự là liên minh chiến
đấu toàn diện, vững chắc, đặc biệt trong sáng và đóng vai trò hết
sức quan trọng và có tính quy luật trong sự nghiệp đấu tranh cách
mạng của mỗi nước.
Hai Đảng đã xác định Đông Dương là một chiến trường thống
520
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

nhất để phát huy sức mạnh đoàn kết liên minh, thường xuyên phối
hợp chặt chẽ với nhau trên mọi chủ trương, hành động chiến lược
và trên tất cả các lĩnh vực nhằm tạo ra thế chiến lược tiến công
chung cho cả ba nước, đánh bại từng kế hoạch, từng biện pháp
chiến lược lớn của địch ở Đông Dương.
Trong lĩnh vực đấu tranh chính trị, ngoại giao, Lào và Việt
Nam đã vạch mặt đế quốc Mỹ chính là kẻ thù xâm lược, là nguồn
gốc gây ra chiến tranh ở Lào và Việt Nam, từ đó, động viên nhân
dân hai nước Lào, Việt đoàn kết đứng lên đánh đuổi xâm lược, và
thúc đẩy nhân dân tiến bộ thế giới đứng về phía cuộc đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân hai nước Lào, Việt Nam.
Trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, giao thông vận tải...
nhân dân hai nước đã mang hết sức mình xây dựng hậu phương
chiến lược của từng nước liên kết với nhau hình thành hậu phương
chiến lược chung của cả Đông Dương. Dưới ánh sáng Nghị quyết
Trung ương 13 Đảng Nhân dân Lào, quân dân Lào được sự giúp
đỡ của Việt Nam đã ra sức xây dựng vùng giải phóng về mọi mặt
với quy mô như một quốc gia, góp phần nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho nhân dân các bộ tộc Lào, tạo ra những biến đổi
sâu sắc trong quan hệ xã hội và sức mạnh đoàn kết các bộ tộc Lào.
Vùng giải phóng Lào ngày càng được mở rộng đã trở thành chỗ
dựa vững chắc cho cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và hỗ trợ
thiết thực cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và
Campuchia.
Cách mạng Lào phát triển, vùng giải phóng Lào vững mạnh
chính là những điều kiện tiên quyết để quân dân Lào tạo điều kiện
và cùng góp công sức xây dựng tuyến đường chiến lược tây Trường
Sơn và các căn cứ đứng chân của bộ đội chủ lực ở khu vực biên
giới, góp phần quan trọng tạo điều kiện cho Việt Nam đánh thắng
521
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

các chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hoá chiến tranh”
của Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải
quân của Mỹ ở miền Bắc; đồng thời cũng góp phần trực tiếp cho
việc xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng Lào và Campuchia.
Nói về sự đóng góp của nhân dân các bộ tộc Lào đối với đường
Trường Sơn và sự nghiệp chống Mỹ của dân tộc Việt Nam, Tổng
Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào Cayxỏn Phômvihản khẳng
định: “Do có đường mòn Hồ Chí Minh qua đất Lào và nhân dân
Lào đã hy sinh chịu đựng với 3 triệu tấn bom của giặc Mỹ, đã góp
phần làm cho Việt Nam có điều kiện thuận lợi trong việc giải
phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam”266.
Có thể khẳng định: nhân dân Lào đã góp phần xứng đáng vào
việc xây dựng, phát triển tuyến đường Hồ Chí Minh - tây Trường
Sơn, một căn cứ kháng chiến hết sức quan trọng, một hậu phương
chiến lược vĩ đại của ba nước Đông Dương. Tuyến đường đã trực
tiếp gắn bó các chiến trường ba nước bằng hệ thống đường huyết
mạch và hệ thống kho tàng, căn cứ vận chuyển từ hậu phương lớn
miền Bắc Việt Nam vào. Trên tuyến đường Trường Sơn, bộ đội
Lào cùng bộ đội Việt Nam liên minh chiến đấu, phân công phối
hợp giữ vững vùng trời, vùng đất cho hệ thống giao thông thông
suốt liên tục. “Tuyến đường vận tải chiến lược Trường Sơn là biểu
tượng trong sáng mối tình đoàn kết, gắn bó liên minh giữa ba nước
trong cuộc chiến đấu chung trên một chiến trường thống nhất. ở đó
vừa thể hiện sự chi viện giữa hậu phương lớn với các chiến trường,
vừa biểu hiện sự hy sinh cao cả của ba dân tộc dựa lưng vào nhau

266
. Cayxỏn Phônvihản: “30 năm đấu tranh bất khuất, 30 năm thắng lợi vẻ vang”,
Tạp chí Học tập, tháng 11 năm 1975, tr.42.
522
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

chống kẻ thù chung”267.


Trên lĩnh vực quân sự, Việt Nam với tinh thần quốc tế vô sản
và phương châm “giúp bạn là mình tự giúp mình”, tiếp tục đáp ứng
những yêu cầu cơ bản của Lào, mang hết khả năng giúp Lào xây
dựng, phát triển lực lượng. Đặc biệt, trong xây dựng lực lượng vũ
trang, đã giúp cả về cơ sở vật chất, về xây dựng tổ chức ba thứ
quân và về nghệ thuật quân sự; giúp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, đáp
ứng được yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
Quân tình nguyện Việt Nam đã cùng quân giải phóng nhân dân
Lào mở nhiều chiến dịch cùng hàng loạt trận chiến đấu đánh bại
từng bước cuộc “Chiến tranh đặc biệt” rồi “Đặc biệt tăng cường”
của Mỹ ở Lào, làm cho đế quốc Mỹ phải phân tán lực lượng đối
phó, góp phần hỗ trợ đắc lực, tạo thời cơ thuận lợi cho các bước
chuyển biến của chiến tranh cách mạng ở Việt Nam và tạo đà phát
triển đi lên của cách mạng Campuchia.
Đúng như đồng chí Đại tướng Khăm Tày Xiphănđon, trên
cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lào đã khẳng định: Nhân
dân Lào sẽ không bao giờ quên hình ảnh của các chiến sĩ quốc tế
Việt Nam vượt qua sự vây chặn dày đặc của quân thù đến với
Lào khi cách mạng hãy còn trong trứng nước, chịu đựng đói rét
bệnh tật, âm thầm len lỏi đi sâu vào quần chúng giúp Lào xây
dựng cơ sở chính trị, phát triển lực lượng vũ trang... Từ rừng núi
đến đồng bằng, từ vùng giải phóng đến vùng địch hậu, biết bao
chiến sĩ quốc tế Việt Nam đã đem máu xương của mình hoà với
máu xương chiến sĩ và nhân dân Lào, trở thành những người con
bất tử của dân tộc Lào, làm rạng rỡ thêm non sông đất nước Lào

. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc
267

kháng chiến chống Mỹ cứu nước - Thắng lợi và bài học, Sđd, tr.240.
523
Ch-¬ng V: phèi hîp ®Êu tranh thùc hiÖn...

thân yêu268.
Thành công của quân tình nguyện Việt Nam tại Lào là thành
quả của sự giúp đỡ lẫn nhau giữa hai Đảng, hai quân đội Việt
Nam - Lào. Đây là một điển hình mẫu mực về quan hệ đoàn kết,
liên minh chiến đấu và hợp tác giữa quân đội hai nước độc lập, có
chủ quyền, tôn trọng, tin cậy lẫn nhau trong cuộc kháng chiến
chống kẻ thù chung. Quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu tại Lào
đã góp phần quan trọng tạo nên mối quan hệ giữa hai dân tộc và
thực sự là biểu tượng sinh động nhất cho tình đoàn kết hữu nghị
đặc biệt Việt Nam - Lào
Như vậy, sau 30 năm đấu tranh đầy hy sinh gian khổ dưới sự
lãnh đạo của đảng Mác - Lênin chân chính, nhân dân Việt Nam
và nhân dân Lào đã cùng nhau đánh đuổi thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, giành thắng lợi trọn vẹn cho cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc của hai nước. Thắng lợi trọn vẹn của nhân
dân Việt Nam và nhân dân Lào thực sự là thắng lợi của 30 năm
liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

268
. Khăm Tày Xiphănđon: Những bài chọn lọc về quân sự, Sđd, tr.221.
PHÇN THø ba

QUAN HÖ §OµN KÕT §ÆC BIÖT,


HîP T¸C TOµN DIÖN
VIÖT NAM - LµO, LµO - VIÖT NAM
Tõ N¡M 1976 §ÕN 2007
Chương VII

I. QUAN HỆ VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM


TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH,
ỔN ĐỊNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC (1976-1981)

1. Bối cảnh lịch sử và những yêu cầu mới đặt ra trong quan
hệ giữa Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam sau năm 1975
Từ sau năm 1975, quan hệ giữa Việt Nam và Lào bước sang
một thời kỳ mới - thời kỳ từ quan hệ chủ yếu giữa hai Đảng và
nhân dân hai nước, chuyển sang quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai
Đảng cầm quyền, hai Nhà nước và hai quốc gia độc lập, có chủ
quyền, cùng khảo nghiệm, tìm tòi từng bước đổi mới để đưa đất
nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là thời kỳ
Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã lớn mạnh thật sự, vươn lên làm
chủ sự nghiệp cách mạng và vận mệnh của đất nước mình. Do vậy,
cả hai nước tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp đã từng gắn bó
keo sơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, xây dựng và
tăng cường quan hệ liên minh, liên kết và hợp tác toàn diện cả
chính trị, quốc phòng - an ninh, kinh tế, văn hoá, giáo dục... Đây là
đặc điểm quan trọng nhất, chi phối dẫn tới sự thay đổi về chất trong
nội dung, phương thức và các nguyên tắc quan hệ giữa hai quốc gia
- dân tộc, nâng quan hệ hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện giữa
hai nước lên tầm cao mới.
528 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

Nhân dân hai nước bước vào thời kỳ mới với hào khí của
những người chiến thắng, nô nức phấn khởi bắt tay vào xây dựng
đất nước dưới sự lãnh đạo của hai Đảng cùng chung mục tiêu, lý
tưởng, được rèn luyện qua quá trình đấu tranh cách mạng đầy cam
go, thử thách chống giặc ngoại xâm, khối đoàn kết dân tộc thống
nhất của hai nước ngày càng được củng cố và mở rộng. Đó là
những tiền đề thuận lợi, mở đường cho hai nước thực hiện mục tiêu
chiến lược tiếp theo: xây dựng và bảo vệ đất nước theo con đường
xã hội chủ nghĩa.
Với những thuận lợi cơ bản kể trên, từ năm 1975, sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước của cả Việt Nam và Lào cũng đứng
trước những khó khăn, thách thức to lớn. Những năm tháng đầu
tiên sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
cùng với niềm hạnh phúc được sống trong hoà bình, độc lập, tự
do, đất nước thống nhất, nhân dân hai nước Việt Nam và Lào đều
phải đương đầu với hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh kéo
dài. Ngoài ra, còn nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình khôi
phục và phát triển đất nước sau chiến tranh đòi hỏi hai nước cần
phải giải quyết kịp thời. Đặc biệt là nền kinh tế nông nghiệp của
hai nước đều lạc hậu, trình độ canh tác, năng suất, sản lượng
thấp...
ở Việt Nam, hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh vô cùng ác
liệt đã tác động sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống xã hội1.
Việt Nam là một nước kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, nhưng
từ sau năm 1975 đến giữa những năm 1980, sản xuất lương thực
không đủ đáp ứng nhu cầu tối thiểu trong nước. Đời sống nhân dân

1
. Bom đạn Mỹ đã giết hại gần 2 triệu người, làm 2 triệu người bị tàn tật và 2
triệu người bị nhiễm chất độc hóa học, trong đó có khoảng 5 vạn trẻ em bị dị dạng. Sau
ngày giải phóng, 3 triệu người ở thành thị và nông thôn miền Nam không có việc
làm; hàng chục vạn dân nghèo, thiếu đói và 27 vạn thương, bệnh binh cần được giúp
đỡ ổn định cuộc sống;...
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 529

rất khó khăn... Nhiều vấn đề kinh tế - xã hội cấp thiết đòi hỏi phải
giải quyết.
Thêm vào đó, tuy bị thất bại hoàn toàn trong cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam, nhưng đế quốc Mỹ và các thế lực phản động
vẫn không từ bỏ chính sách chống phá cách mạng Việt Nam. Ngày
16 tháng 5 năm 1975, Chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố cấm vận đối với
Việt Nam hòng ngăn cản quá trình khôi phục hậu quả chiến tranh,
phát triển kinh tế và xây dựng đất nước của Việt Nam. Chúng sử
dụng bọn phản động, lực lượng tham gia trong quân đội và chính
quyền Sài Gòn còn ngoan cố, tiến hành các vụ khiêu khích phá
hoại, tác động đến tâm lý người dân, hòng gây ra các cuộc bạo loạn
phản cách mạng ở miền Nam...
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào sau khi ra đời cũng phải
đương đầu với bộn bề những khó khăn, thách thức to lớn. Cuộc
chiến tranh kéo dài 30 năm đã để lại hậu quả thật nặng nề2.
Về kinh tế, thời gian này Lào vẫn là nước chậm phát triển, lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đều lạc hậu. Một bộ phận không
nhỏ dân cư sống du canh, du cư, làm nương rẫy. Hàng năm, Lào
phải nhập 30 vạn tấn lương thực. Thu nhập bình quân đầu người
thuộc loại thấp nhất thế giới - khoảng 130 USD/người; 85% dân số
Lào sản xuất tiểu nông, với nền kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên.
Tỷ lệ người mù chữ cao...
Sau năm 1975, Mỹ triển khai mạnh chiến lược diễn biến hòa
bình, gây bạo loạn lật đổ ở Lào. Chúng sử dụng Thái Lan làm bàn
đạp tập hợp các lực lượng phản động lưu vong Lào, nhằm nhanh
chóng đảo ngược tình thế ở Lào bằng các biện pháp tổng hợp: đóng

2
. Hầu hết các thị xã, thị trấn, 40% bản, mường trong vùng giải phóng cũ, các
trường học, bệnh viện, nhiều tuyến đường giao thông, các kênh mương thuỷ lợi... bị
tàn phá nặng nề. Số trâu, bò chỉ còn một nửa so với thời kỳ trước chiến tranh, 10 vạn
ha trên tổng số 50 vạn ha ruộng bị bỏ hoang...
530 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

cửa biên giới, bao vây cấm vận, nuôi dưỡng và chỉ đạo lực lượng
Vàng Pao từ đất Thái trở về xây dựng căn cứ phỉ, chuẩn bị lực
lượng ngầm gây bạo loạn, lật đổ; đồng thời tăng cường câu kết với
các thế lực phản động nằm vùng hoạt động chống phá cách mạng
Lào. Tính đến năm 1976, lực lượng này có khoảng 25.000 tên, lập
các đảng phái chính trị phản động như “Chính phủ hoàng gia Lào”
do Phủi Xánánicon làm thủ tướng; lập Bộ Chỉ huy của “Mặt trận
cứu quốc Lào” do Phumi Nòxavẳn và Vàng Pao đứng đầu; lập
“Mặt trận cứu nước trung lập” do Koongle nắm. Chúng nhiều lần
dùng tàn quân phái hữu kết hợp với các nhóm phản động nằm vùng
gây bạo loạn ở những nơi chính quyền cách mạng còn non yếu; lôi
kéo hàng vạn người Lào di tản, tổ chức mạng lưới gián điệp, lực
lượng ngầm, xây dựng cơ sở chính trị phản động ở nội địa Lào, đưa
lực lượng người Lào lưu vong tổ chức các đơn vị vũ trang vào hoạt
động chiếm một số vùng quan trọng nhằm lật đổ chế độ mới ở Lào
và ám hại cán bộ lãnh đạo ngay tại Thủ đô Viêng Chăn; mua chuộc,
lôi kéo cán bộ, đảng viên, chia rẽ hàng ngũ Đảng Nhân dân cách
mạng Lào, chia rẽ Lào với Việt Nam để tách Lào khỏi mối quan hệ
với Việt Nam.
Chính quyền cách mạng Lào còn non trẻ, nhưng phải gánh vác
nhiệm vụ nặng nề: củng cố độc lập, chủ quyền mới giành được,
củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng và phát triển nền
kinh tế của đất nước, cải thiện đời sống của nhân dân, tăng cường
lực lượng cách mạng.
Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam từ sau
năm 1975 được thực hiện trong tình hình mỗi nước đều có những
khó khăn chồng chất và những thuận lợi cơ bản như đã đề cập ở
phần trên, đồng thời mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
cũng chịu tác động mạnh mẽ bởi những thay đổi của bối cảnh quốc
tế và khu vực.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 531

Trước hết, đó là quan hệ hợp tác của hai nước được mở rộng
trong bối cảnh dư luận quốc tế và lực lượng tiến bộ trên thế giới
ủng hộ các nước mới giành được độc lập, trong đó có Việt Nam và
Lào; có hậu thuẫn là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ,
chi viện. Vì thế, cũng như Việt Nam, Lào đưa ra quan điểm “Tranh
thủ được sự viện trợ quốc tế to lớn, nhất là của các nước xã hội chủ
nghĩa anh em”3. Việt Nam và Lào ký với các nước xã hội chủ nghĩa
nhiều hiệp ước hoà bình, hữu nghị và hợp tác, nhiều hiệp định, hiệp
nghị kinh tế, văn hoá để tăng cường, mở rộng quan hệ với các
nước. Đồng thời trong bối cảnh trên thế giới, cuộc cách mạng khoa
học công nghệ đang diễn ra như vũ bão, đẩy nhanh xu thế quốc tế
hoá, toàn cầu hoá trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do
đó, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam và Lào, có cơ
hội và điều kiện để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, sử
dụng các thành tựu khoa học công nghệ của thế giới để có thể đẩy
nhanh quá trình phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Tuy nhiên, đi
cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt dẫn tới nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế, là sự lợi dụng việc đầu tư vào các nước đang phát triển
để thực hiện mục tiêu chính trị, làm cho các nước này phụ thuộc về
kinh tế, dẫn đến phụ thuộc về chính trị.
Sau năm 1975, cục diện mới trong khu vực đã tạo điều kiện
thuận lợi cho các nước ASEAN có khả năng độc lập, tự chủ hơn
trong chính sách, chiến lược đối ngoại. Từ tháng 2 năm 1976, tại
Hội nghị thượng đỉnh lần thứ nhất của ASEAN, các nước ASEAN
đã ký kết Hiệp ước thân thiện và hợp tác (Hiệp ước Bali) nhằm xây
dựng Đông Nam á thành một khu vực hoà bình, ổn định, thể hiện
xu hướng mong muốn cải thiện quan hệ với các nước Đông Dương.

3
. Đại hội III Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1983,
tr.24.
532 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

Tháng 6 năm 1976, khối quân sự SEATO đã giải thể theo đề nghị
của các nước ASEAN. Để góp phần giữ gìn hoà bình, ổn định xây
dựng đất nước, Việt Nam chủ trương sẵn sàng thiết lập và phát
triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trong khu vực trên cơ
sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình
đẳng và cùng có lợi, cùng tồn tại hoà bình4. Ngày 5 tháng 7 năm
1976, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh công
bố Chính sách 4 điểm của Việt Nam đối với khu vực, trong đó
khẳng định những nguyên tắc cơ bản cho việc phát triển quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước Đông Nam á. Quan hệ song
phương được chính thức thiết lập giữa Việt Nam với Philíppin
(tháng 7 năm 1976) và Thái Lan (tháng 8 năm 1976). Đến thời
điểm này, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với năm nước
thành viên ASEAN. Trong những năm 1977 - 1978, quan hệ Việt
Nam với từng nước thành viên ASEAN phát triển mạnh mẽ, hàng
loạt các hiệp định hợp tác kinh tế - thương mại được ký kết. Thiện
chí của Việt Nam cùng với những cố gắng của các nước ASEAN
đã tạo ra những cơ sở đầu tiên cho việc xây dựng một Đông Nam á
hoà bình, ổn định và hợp tác.
Trong khi đó, chính sách cấm vận của Mỹ cùng với những hoạt
động của các lực lượng chống đối mặc dù bị thất bại nhưng vẫn
nuôi dưỡng mưu đồ và tìm cách chống phá, lật đổ chính quyền mới,
chia rẽ mối quan hệ Việt - Lào. Trong thời kỳ này, quan hệ hợp tác
giữa hai nước gặp phải không ít khó khăn do sự tiếp tục chống phá
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bị bao vây, cấm vận
về kinh tế và những diễn biến phức tạp trong khu vực. Sự tranh

. Ngay sau khi ký Hiệp định Pari (tháng 1 năm 1973), Việt Nam đã bắt đầu
4

triển khai chính sách khu vực, đẩy mạnh quan hệ song phương với các nước
ASEAN. Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với Malaixia vào tháng 3 năm
1973 và Xingapo vào tháng 8 năm 1973.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 533

giành ảnh hưởng của các nước lớn đối với khu vực Đông Nam á đã
trở thành một trong những lý do để khu vực này lại trở thành điểm
nóng vào cuối thập niên 70 và thập niên 80 thế kỷ XX. Các lực
lượng thù địch trong khu vực và trên thế giới cũng tăng cường các
hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam. Sau khi Campuchia
giành được độc lập, lực lượng Khơme đỏ đã thực hiện chính sách
diệt chủng đối với nhân dân trong nước và tiến hành khiêu khích,
xâm phạm biên giới Việt Nam, Thái Lan và Lào, đặc biệt là biên
giới Tây Nam Việt Nam. Hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận đoàn
kết dân tộc cứu nước Campuchia, ngày 7 tháng 1 năm 1979, quân
đội Việt Nam đã giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đổ lực lượng
Khơme đỏ, giúp Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, xây dựng
cuộc sống mới, hồi sinh đất nước. Trong bối cảnh đầy khó khăn
phức tạp, Việt Nam vừa triển khai các hoạt động ngoại giao gắn
việc giải quyết vấn đề Campuchia với xây dựng hoà bình, ổn định ở
Đông Nam á, vừa thúc đẩy đối thoại giữa hai nhóm nước Đông
Dương và ASEAN, đẩy lùi đối đầu, phân hoá liên minh chống Việt
Nam, chia rẽ đoàn kết Việt - Lào.
Cùng với những diễn biến phức tạp trên, quan hệ Việt Nam -
Lào sau năm 1975 diễn ra trong điều kiện chủ nghĩa xã hội thế giới,
đặc biệt là ở Liên Xô và các nước Đông Âu dần lâm vào tình trạng
trì trệ dẫn đến khủng hoảng vào những năm 1980. Trong cuộc đấu
tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc, cách mạng Việt Nam và Lào đã
nhận được sự giúp đỡ to lớn và có hiệu quả về cả vật chất và tinh
thần từ các nước xã hội chủ nghĩa. Bước vào công cuộc xây dựng
đất nước, cả hai dân tộc đi lên từ điểm xuất phát thấp, lại bị chiến
tranh tàn phá nặng nề, do vậy, sự trì trệ, khủng hoảng của chủ nghĩa
xã hội thế giới, đặc biệt là ở Liên Xô và Đông Âu, đã tác động
không nhỏ tới sự phát triển của cả Việt Nam và Lào trong điều kiện
lịch sử mới.
534 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

2. Việt Nam và Lào chủ trương từng bước mở rộng quan hệ


hợp tác toàn diện (1976 - 1981)
a) Quan hệ hai nước trong thời gian đầu khắc phục hậu quả
chiến tranh, ổn định xây dựng đất nước (từ năm 1976 đến tháng
7 năm 1977)
Trong cuộc đấu tranh lâu dài chống kẻ thù chung là đế quốc
Pháp, Mỹ và bọn phản động tay sai giành độc lập, tự do cho dân
tộc, mối quan hệ giữa hai Đảng, quân đội và nhân dân hai nước
dựa trên truyền thống đoàn kết giữa hai dân tộc, tinh thần quốc tế
vô sản được hai Đảng và lãnh tụ hai nước dày công vun đắp, đã
trở thành mối quan hệ đặc biệt thuỷ chung, trong sáng, mẫu mực,
hiếm có và là nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với
thắng lợi của cách mạng mỗi nước. Bước sang giai đoạn cách
mạng mới, cả hai nước đều lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, cùng thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh
tế, xây dựng và củng cố chế độ mới, không ngừng cải thiện đời
sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho nhân dân, nhanh chóng đuổi
kịp trình độ phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đặc điểm này chi phối mạnh mẽ, sâu sắc mối quan hệ Việt - Lào,
Lào - Việt Nam cũng như yêu cầu khách quan tất yếu đòi hỏi phải
củng cố, mở rộng và phát triển một cách toàn diện mối quan hệ
Việt - Lào trong thời kỳ mới.
Đảng và Nhà nước Việt Nam sau khi thống nhất đất nước, đã
thực hiện chính sách đối ngoại nhằm góp phần cùng các nước xã
hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, củng cố
khối đoàn kết, tăng cường giúp đỡ lẫn nhau. ở Lào, ngay trong Báo
cáo chính trị tại Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc của Lào ngày
1 tháng 12 năm 1975 tại Thủ đô Viêng Chăn, đồng chí Cayxỏn
Phômvihản khẳng định: “Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập,
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 535

hòa bình, hữu nghị và không liên kết nhằm xây dựng thành công
một nước Lào hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất, phồn vinh,
tiến bộ xã hội”; “xây dựng mối quan hệ hoà bình, hữu nghị với các
nước láng giềng”, “đoàn kết và hợp tác với nhân dân Việt Nam và
Campuchia anh em để bảo vệ mọi thành quả của cách mạng và xây
dựng đất nước cho phù hợp với nguyện vọng của nhân dân ta”5.
Hơn một tháng sau khi cách mạng Lào thắng lợi, ngày 5 tháng
2 năm 1976, Đoàn đại biểu cấp cao của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào, Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào do đồng chí
Cayxỏn Phômvihản - Tổng Bí thư Đảng, Thủ tướng Chính phủ dẫn
đầu sang thăm chính thức Việt Nam. Thành viên của Đoàn gồm các
đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Trung ương Đảng Nhân
dân cách mạng Lào nắm giữ các vị trí quan trọng trong Chính phủ
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào: hai Phó Thủ tướng và nhiều Bộ
trưởng: Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ
trưởng Bộ Công nghiệp và Thương nghiệp, Bộ trưởng Bộ Thông
tin truyền thông, văn hoá và du lịch, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Đây
là lần đầu tiên đoàn đại biểu cấp cao nhất của Lào đi thăm nước
ngoài sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc.
Tiếp các đồng chí lãnh đạo Đảng và Chính phủ Lào, thay mặt
Đảng và Chính phủ Việt Nam, đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư
Đảng Lao động Việt Nam bày tỏ quan điểm rằng: nhân dân Việt Nam
đời đời ghi lòng tạc dạ sự giúp đỡ vô giá, tình nghĩa thuỷ chung của
cách mạng Lào, đã góp phần quan trọng vào thắng lợi hoàn toàn
của cách mạng Việt Nam. Đồng chí khẳng định, Đảng, Chính phủ
và nhân dân Việt Nam nguyện làm hết sức mình ủng hộ Đảng,
Chính phủ và nhân dân Lào xây dựng thành công một nước Lào

5
. Cayxỏn Phômvihản: Về cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Lào,
Sđd, tr.176, 177, 178.
536 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

hoà bình, độc lập, dân chủ, thống nhất, thịnh vượng và tiến lên chủ
nghĩa xã hội, nguyện góp phần công sức cùng nhân dân Lào khắc
phục hậu quả chiến tranh và xây dựng đất nước trong giai đoạn
cách mạng mới, tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước sẽ gắng sức
vun đắp cho tình đoàn kết hữu nghị và hợp tác anh em mãi mãi
xanh tươi, đời đời bền vững, đưa Việt Nam và Lào vững bước tiến
lên giành thắng lợi mới cho cách mạng hai nước. Trong dịp này, hai
đoàn đại biểu lãnh đạo Đảng và Nhà nước của hai nước đã tiến
hành hội đàm trao đổi các vấn đề mà hai bên cùng quan tâm, ra
Tuyên bố chung Việt Nam - Lào ngày 11 tháng 2 năm 1976. Tuyên
bố chung khẳng định hai nước bước sang giai đoạn cách mạng mới,
nhân dân hai nước quyết tâm phấn đấu củng cố độc lập dân tộc và
xây dựng đất nước phồn vinh, phù hợp với điều kiện và đặc điểm
riêng của mỗi nước.
Trên tinh thần đó, ngày 30 tháng 4 năm 1976, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết số 251-NQ/TW
về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai
đoạn mới. Nghị quyết nêu rõ: “Đảng ta khẳng định phương châm
nỗ lực đáp ứng cao nhất các yêu cầu khách quan của cách mạng
Lào với hết khả năng của mình và tiếp tục vận dụng tinh thần nghị
quyết đã đề ra trước đây là giúp cơ bản, toàn diện, liên tục, lâu dài,
một cách thích hợp với điều kiện mới và làm cho việc giúp đỡ có
hiệu quả cao”. Nghị quyết khẳng định: trong tình hình mới, hai
Đảng đều đã nắm chính quyền trong cả nước, mối quan hệ giữa
Việt Nam với Lào có điều kiện phát triển và được triển khai toàn
diện, giữa các tổ chức, các ngành và các cấp tương đương, thông
qua các hình thức hoạt động đối ngoại giữa Đảng với Đảng, Nhà
nước với Nhà nước và giữa các đoàn thể nhân dân với nhau...
Chính phủ Việt Nam sẽ hết sức giúp Lào về vốn, về chuyên gia,
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 537

kỹ thuật và lực lượng lao động, tranh thủ hợp tác về kinh tế, văn
hoá, quân sự, xây dựng đường sá, sân bay, cơ sở quốc phòng, khai
thác tài nguyên đất nước, trao đổi hàng hoá, văn hoá phẩm... Phối
hợp với Lào trong các hoạt động quốc tế, đấu tranh ngoại giao, bảo
vệ độc lập chủ quyền của nhau: “Bộ Chính trị yêu cầu toàn thể cán
bộ, đảng viên và quân, dân cả nước phải nâng cao tinh thần quốc tế
vô sản, quán triệt sâu sắc và ra sức phấn đấu thực hiện nhiệm vụ
quốc tế cao cả của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với cách
mạng Lào, coi đó là một bộ phận khăng khít và hết sức quan trọng
gắn chặt với nhiệm vụ đối với Tổ quốc và cách mạng nước ta”6.
Ba tháng sau khi Nghị quyết của Bộ Chính trị về tăng cường
quan hệ đặc biệt Việt - Lào ra đời, ngày 5 tháng 7 năm 1976, Việt
Nam công bố chính sách 4 điểm đối với các nước Đông Nam á,
trong đó có Lào, khẳng định những nguyên tắc cơ bản cho việc
phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước Đông Nam á.
Chính sách này có tác dụng tích cực đến tình hình Đông Nam á.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 251 của Bộ Chính trị, từ ngày
29 tháng 8 đến 1 tháng 9 năm 1976, Đoàn đại biểu Chính phủ Việt
Nam do đồng chí Lê Thanh Nghị, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ
tướng Chính phủ dẫn đầu đã sang thăm chính thức Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào. Đây là đoàn đại biểu Chính phủ Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đầu tiên đến thăm Lào sau khi Nhà nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời. Trong quá trình thăm đất nước
Lào, Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam đã làm việc với Đoàn đại
biểu Chính phủ Lào do đồng chí Nủhắc Phumxavẳn làm trưởng
đoàn. Hai bên thông báo cho nhau rất nhiều vấn đề về tình hình hai

. Nghị quyết số 251-NQ/TW về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách
6

mạng Lào trong giai đoạn mới, ngày 30 tháng 4 năm 1976. Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.37, tr.111.
538 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

nước. Những ý kiến mà Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam đưa ra
được Lào đánh giá cao, thể hiện được quan điểm, lập trường rõ ràng
của Việt Nam trong việc ủng hộ về chính trị, giúp đỡ về kinh tế một
cách vô tư đối với cách mạng Lào. Trong chuyến làm việc này, Lào
đã thể hiện sự tin tưởng đối với Việt Nam qua việc trao đổi bàn bạc
với Việt Nam trước khi tuyên bố lập trường của Lào về vấn đề hợp
tác với nước ngoài.
Kết quả đáng ghi nhận của chuyến làm việc này là một loạt
hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với
Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã được ký kết (ngày
31 tháng 8 năm 1976): Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa
học - kỹ thuật; Hiệp định về thành lập Uỷ ban Hợp tác kinh tế, văn
hoá, khoa học - kỹ thuật; Hiệp định về liên vận và quá cảnh hàng
hoá, hành khách, hành lý; Hiệp định về thương mại; Hiệp định viện
trợ và cho vay 1976 - 19777. Các hiệp định được ký kết nhằm mục
tiêu tăng cường mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào, phát triển sự hợp
tác toàn diện về mọi mặt giữa hai nước.
Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả Hiệp định, hai Chính phủ đã
ký Hiệp định thành lập Uỷ ban Hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa
học - kỹ thuật hoạt động thường xuyên giữa hai Chính phủ. Uỷ ban
này có nhiệm vụ xem xét những vấn đề phát triển, mở rộng và
làm tốt đẹp thêm các mối quan hệ kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ
thuật giữa hai nước, đồng thời xem xét quá trình thực hiện và đề ra
các biện pháp để thực hiện tốt Hiệp định...8.

. Trước đó, ngày 25 tháng 1 năm 1976, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp định
7

vận chuyển hàng không dân dụng.


8
. Ngày 7 tháng 3 năm 1977, Uỷ ban Hợp tác kinh tế Lào - Việt Nam họp
phiên thứ nhất. Trong phiên họp này hai đoàn thoả thuận ký kết một số vấn đề cụ
thể về viện trợ cho Lào năm 1977, về hợp tác kinh tế, về khoa học - kỹ thuật, về
việc Việt Nam để Lào sử dụng cảng Đà Nẵng.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 539

Chuyến thăm Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào của Đoàn đại
biểu Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và việc hai
nước ký một loạt các hiệp định đã tạo cơ sở pháp lý, tăng cường
tình đoàn kết chiến đấu, tin cậy, hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau
về mọi mặt giữa hai nước.
Cuối năm 1976, từ ngày 14 đến 20 tháng 12 năm 1976 diễn ra
một sự kiện trọng đại đối với toàn Đảng, toàn quân và toàn dân
Việt Nam. Đó là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng Lao
động Việt Nam - Đại hội đầu tiên sau ngày đất nước Việt Nam
thống nhất. Đại hội đã quyết định đưa cả nước tiến lên con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội cũng quyết định đổi tên Đảng
thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về mối quan hệ với Lào và Campuchia, Báo cáo chính trị của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội
nêu rõ: “Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân
dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, tăng
cường tình đoàn kết chiến đấu, lòng tin cậy, sự hợp tác lâu dài và
giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa nước ta với hai nước anh em trên
nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lợi ích chính đáng của
nhau, làm cho ba nước vốn đã gắn bó với nhau trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc sẽ mãi mãi gắn bó với nhau trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì độc lập và phồn vinh của
mỗi nước”9.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam được ghi trong Báo
cáo chính trị tại Đại hội IV của Đảng một lần nữa khẳng định quyết
tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam tiếp tục củng cố,
tăng cường hơn nữa tình đoàn kết hữu nghị và hợp tác với Đảng,

9
. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam tại Đại hội lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1972, tr.178-179.
540 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

Nhà nước và nhân dân Lào.


Dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng Nhân dân cách mạng Lào sang dự
Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Cayxỏn
Phômvihản trong bài phát biểu chào mừng Đại hội, đã nhấn mạnh: “...
Tôi xin thành thật nói rằng, trong mọi thành công của cách mạng Lào
đều có sự đóng góp trực tiếp của cách mạng Việt Nam; trên mọi chiến
trường của Tổ quốc thân yêu của chúng tôi đều có xương máu của các
chiến sĩ quốc tế Việt Nam hoà lẫn với xương máu của cán bộ, chiến sĩ
và nhân dân các dân tộc Lào chúng tôi. Trong sự trưởng thành mọi
mặt nhanh chóng và vững chắc của cách mạng Lào hiện nay đều có sự
giúp đỡ lớn lao, vô giá của cách mạng Việt Nam”.
Đồng chí khẳng định, Đảng Nhân dân cách mạng Lào và nhân
dân các dân tộc Lào: “... nguyện ra sức củng cố và tăng cường mối
quan hệ đặc biệt đó, bảo vệ tình đoàn kết Lào - Việt như bảo vệ con
ngươi của mắt mình, đồng thời ra sức xây dựng và phát triển mối
quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau một cách toàn diện, lâu dài mãi
mãi, để cùng nhau bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng đất nước
giàu mạnh...”10.
Sự kiện Đoàn đại biểu Đảng Nhân dân cách mạng Lào sang
dự Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với bài phát biểu
của Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản đã có tác động tích cực
trong việc tăng cường quan hệ Việt - Lào trong giai đoạn cách
mạng mới. Từ tháng 5 năm 1976 đến tháng 12 năm 1976, diễn ra
các cuộc gặp gỡ và hội đàm giữa Tổng Bí thư, Bộ Chính trị của
hai Đảng.
Nhằm thực hiện tốt Nghị quyết 251 của Bộ Chính trị, căn cứ
vào tình hình thực tế ở Lào và quan hệ Việt Nam - Lào, ngày 30
tháng 12 năm 1976, Ban Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam ra

10
. Báo Nhân dân, số 8289, ngày 17 tháng 12 năm 1976.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 541

Thông báo số 03-TB/TW: Quyết định của Bộ Chính trị về việc


phân công trong nhiệm vụ tăng cường giúp đỡ cách mạng Lào đối
với một số ban chuyên môn của Trung ương Đảng: Ban Đối
ngoại, Ban Tuyên huấn, Ban Cán sự Đảng ngoài nước, Ban Công
tác miền Tây. Theo đó, Ban Đối ngoại Trung ương có nhiệm vụ
giúp Trung ương theo dõi tình hình mọi mặt ở Lào; nghiên cứu đề
xuất các vấn đề thuộc về chủ trương, đường lối để Trung ương
góp ý với Lào; trực tiếp nghiên cứu giúp Lào một số vấn đề về
chính trị theo yêu cầu; giúp Trung ương theo dõi các ngành, các
địa phương thực hiện nhiệm vụ giúp đỡ cách mạng Lào đảm bảo
cho mối quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng, hai dân tộc ngày càng
được củng cố và tăng cường.
Ban Tuyên huấn Trung ương trực tiếp quản lý và chỉ đạo các
trường Đảng miền Tây đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng Lào.
Ban Cán sự Đảng ngoài nước có nhiệm vụ quản lý toàn bộ đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam giúp Lào trên đất Lào. Ban Công tác miền
Tây sẽ tập trung tổng kết công tác giúp Lào trong hai cuộc kháng
chiến và sẽ giải thể sau khi hoàn thành một số việc còn lại.
Ngày 10 tháng 5 năm 1977, Bộ Chính trị Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam ra Chỉ thị về tăng cường quan hệ Việt Nam -
Lào và công tác giúp Đảng Lào (1977 - 1980). Cùng ngày, Ban
Bí thư ra Thông tư số 13-TT/TW về việc chọn cán bộ sang giúp
Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Thông tư nêu rõ, theo yêu cầu
của Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Bộ Chính trị
Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định cử một số cán bộ các ngành
công tác Đảng và Chính phủ Việt Nam sang giúp các ngành của
Trung ương và Chính phủ Lào, với tổng số khoảng 70 đồng chí
và phải đảm bảo chất lượng và đủ số lượng. Theo đúng thời gian
đã được thoả thuận, số cán bộ này sẽ sang nước Lào trước tháng
7 năm 1977.
542 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

Để đảm bảo thống nhất quản lý việc giúp đỡ, hợp tác các mặt
chính trị, kinh tế, văn hoá với Lào, ngày 16 tháng 5 năm 1977, Ban
Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Quyết định số 02-
QĐ/TW về tổ chức và nhân sự Ban Cán sự Đảng về công tác giúp
Lào (Ban Cán sự Đảng về công tác C), do đồng chí Đặng Thí làm
bí thư, đồng chí Nguyễn Chính Giao và đồng chí Phan Hiền, uỷ
viên. Ban Cán sự Đảng về công tác giúp Lào có nhiệm vụ, theo yêu
cầu của Lào, phối hợp với các ban của Trung ương Đảng và các cơ
quan nhà nước tổ chức nghiên cứu các vấn đề thuộc đường lối, chủ
trương để Trung ương gợi ý với Lào; hướng dẫn các ngành, địa
phương trong công tác giúp đỡ và hợp tác với Lào, tổng hợp tình
hình để báo cáo lên Trung ương; quản lý, chỉ đạo đội ngũ cán bộ
được cử sang giúp các cơ quan lãnh đạo và cùng Ban Cán sự Đảng
ngoài nước làm công tác chính trị, tư tưởng trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên, đoàn viên được cử sang giúp Lào.
Hợp tác quốc phòng, an ninh trong bối cảnh tình hình Lào có
biến động, an ninh chính trị, chủ quyền lãnh thổ đứng trước sức ép
từ phía các thế lực phản động trong nước, khu vực và quốc tế vào
cuối năm 1976 đầu năm 1977.
Là một nước có đường biên giới dài 1.650 km với Thái Lan,
trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ
xâm lược của nhân dân các dân tộc Lào vì độc lập, tự do của dân
tộc, Thái Lan luôn thi hành chính sách thù địch, cấu kết với các
thế lực đế quốc phản động ngăn cản bước tiến của cách mạng
Lào. Khi cách mạng Lào thắng lợi, nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào ra đời, Thái Lan lại mở cửa đón bọn phản động
Lào. Thái Lan trở thành nơi chứa chấp, nuôi dưỡng, giúp chúng
thành lập Chính phủ Lào lưu vong. Cùng với Mỹ, Thái Lan trực
tiếp huấn luyện, trang bị vũ khí và đưa chúng trở lại phá Lào từ
bên trong. Ngày 20 tháng 9 năm 1976, theo Đài BBC, một số lớn
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 543

quân đội phái hữu Lào đã vượt sang Thái nay trở về mang theo
súng, đạn mưu toan gây bạo loạn ở một số nơi như Luổng
Phạbang, Viêng Phu Kha, Chămpaxắc. Phối hợp với hoạt động
của bọn phản động Lào, Thái Lan tăng cường các hoạt động
khiêu khích, cho máy bay, thuyền chiến xâm phạm lãnh thổ
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào... Về kinh tế, cuối tháng 5 đầu
tháng 6 năm 1976, Thái Lan đã chi hàng tỷ kíp để rút hàng hoá ở
các thành phố mới giải phóng của Lào, ngăn không cho Lào xuất
khẩu gỗ qua Thái Lan; ra lệnh ngừng chở dầu quá cảnh sang
Lào; cấm đưa vào Lào các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất,
đời sống nhân dân như thóc giống, sữa bột, thuốc chữa bệnh,
dụng cụ y tế...11.
Trước tình hình đó, đáp ứng yêu cầu của cách mạng Lào, quân
tình nguyện Việt Nam trở lại Lào vào cuối năm 1976. Tháng 1 và
tháng 4 năm 1977, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt
Nam và Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Lào gặp nhau ở
Viêng Chăn để bàn việc đưa quân tình nguyện Việt Nam trở lại Lào.
Hai bên nhất trí triển khai bố trí lực lượng cụ thể trên một số địa bàn
trọng yếu. Cùng với quân tình nguyện, theo yêu cầu của bạn, các
tổng cục tổ chức các đoàn chuyên gia chuyên ngành và một số đơn
vị chuyên môn sang giúp bạn xây dựng cơ sở hạ tầng và dự trữ
lương thực ở hai khu căn cứ hậu cần chiến lược (Cánh đồng Chum
và Mương Phin). Đây không chỉ là biểu hiện của tinh thần sẵn sàng
giúp đỡ cách mạng Lào của quân và dân Việt Nam, mà còn chính là
sự tiếp tục thực hiện theo lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
“giúp bạn là mình tự giúp mình” trong điều kiện lịch sử mới, đầy
khó khăn thách thức của cách mạng hai nước. Trong bối cảnh chịu

11
. Xem Sự thật về quan hệ Thái Lan - Campuchia, Thái Lan - Lào, Nxb. Sự
thật, Hà Nội, 1985, tr.102-108.
544 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

nhiều tác động trong quan hệ quốc tế sau chiến tranh, Việt Nam bị
bao vây, cấm vận trên trường quốc tế, chính sự tin cậy của Đảng,
Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào đối với Việt Nam trong những
năm tháng đầy khó khăn này, không chỉ góp phần tạo môi trường
hòa bình, ổn định trong khu vực để cùng phát triển, mà còn góp phần
rất quan trọng củng cố niềm tin vào con đường mà hai Đảng, hai
Nhà nước và nhân dân hai quốc gia đã lựa chọn, động viên, khích lệ,
giúp nhân dân Việt Nam vững tin vượt qua chặng đường gian nan
sau chiến tranh để từng bước ổn định và phát triển.
Tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác toàn diện giữa hai nước,
ngày 17 tháng 7 năm 1977, Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào và Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Hiệp
định thị thực xuất nhập cảnh và quá cảnh cho công dân hai nước
mang hộ chiếu công vụ và ngoại giao.
Căn cứ vào Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ
thuật và Hiệp định về liên vận quá cảnh hàng hoá, hành khách,
hành lý giữa hai nước, để giúp Lào giải quyết vấn đề mà Thái Lan
sử dụng để gây sức ép đối với Lào, đó là vấn đề hàng hoá của Lào
xuất khẩu, nhập khẩu quá cảnh qua Thái Lan, ngày 13 tháng 7 năm
1977, Bộ Giao thông vận tải Việt Nam và Bộ Giao thông công
chính vận tải Lào ký Thoả thuận về việc hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu của Lào quá cảnh qua cảng Đà Nẵng của Việt Nam. Theo đó,
phía Việt Nam cam kết hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của Lào quá
cảnh qua cảng Đà Nẵng sẽ được tạo điều kiện dễ dàng và thuận lợi
nhất, được ưu tiên bốc xếp, các tàu đến giao nhận hàng được hưởng
quyền lợi như các tàu đến giao nhận hàng của Việt Nam, được dành
riêng một khu vực kho bãi không phải trả tiền thuê và phía Lào tự
quản lý, được miễn thuế hải quan. Thoả thuận có hiệu lực ngay sau
khi hai bên ký kết.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 545

Bước sang thời kỳ mới, công tác đối ngoại nhân dân được hai
Đảng và hai Nhà nước quan tâm, coi trọng. Mục đích là tăng
cường hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước, xây dựng quan
hệ quần chúng, nền tảng nhân dân cho đối ngoại Đảng và ngoại
giao Nhà nước trong bối cảnh lịch sử mới. Hoạt động của các tổ
chức quần chúng ở hai nước thể hiện sinh động, dưới nhiều hình
thức phong phú. Hội Hữu nghị Việt - Lào12 có mối quan hệ gắn bó
với Hội Hữu nghị Lào - Việt13, Uỷ ban Bảo vệ hoà bình thế giới
của Việt Nam14 và Uỷ ban Hoà bình và đoàn kết Lào, cùng các tổ
chức hoà bình, đoàn kết, hữu nghị của hai nước từng bước được
củng cố, kiện toàn về tổ chức, bổ sung hoàn thiện chức năng,
nhiệm vụ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ cách mạng mới.
Liên hiệp các Tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội Hữu nghị Việt -
Lào cùng nhiều tổ chức như Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên,
Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Tổng
Liên đoàn lao động... của Việt Nam và những tổ chức tương ứng
của Lào tham gia tích cực vào việc củng cố, tăng cường quan hệ
nhân dân hai nước.
b) Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam (tháng 7 năm 1977) - cơ sở pháp lý vững chắc, lâu dài cho
quan hệ hai nước trong thời kỳ mới
Trước yêu cầu khách quan của cách mạng hai nước trước
tình hình mới, từ ngày 15 đến 18 tháng 7 năm 1977, Đoàn đại
biểu cấp cao của Đảng và Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn
Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào. Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Cộng hòa xã

12
. Thành lập ngày 15 tháng 1 tháng 1975.
13
. Thành lập ngày 3 tháng 5 năm 1975 tại huyện Viêng Xây, tỉnh Hủa Phăn.
14
. Thành lập ngày 19 tháng 11 năm 1950.
546 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

hội chủ nghĩa Việt Nam tiến hành hội đàm với Đoàn đại biểu
Đảng và Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào do đồng
chí Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư - Thủ tướng Chính phủ dẫn
đầu. Trong bầu không khí hữu nghị, thắm thiết tình đồng chí anh
em, hai bên đã trao đổi ý kiến về các vấn đề quốc tế quan trọng,
các vấn đề hai bên cùng quan tâm cũng như các vấn đề nhằm
phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Đảng, Chính phủ
và nhân dân hai nước trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng thiết tha
và lợi ích sống còn của hai dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ độc
lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường sự hợp tác
lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt vì lợi ích bảo vệ và xây
dựng đất nước của nhân dân mỗi nước, đồng thời thúc đẩy xu thế
độc lập, hoà bình và trung lập thật sự ở Đông Nam á, góp phần
xây dựng mối quan hệ đúng đắn giữa các Đảng, các nước xã hội
chủ nghĩa anh em. Ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước đã thoả
thuận ký kết các Hiệp ước và ra Tuyên bố chung, tăng cường sự
tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước: Hiệp ước hữu nghị và
hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia
giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước về Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam viện trợ không hoàn lại và cho vay không lấy lãi
trong ba năm (1978 - 1980).
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (tháng 7 năm 1977)15
là Hiệp ước toàn diện đặc biệt quan trọng mang tính chiến lược
lâu dài, là cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng để củng cố và tăng

. Hiệp ước có giá trị trong 25 năm và sẽ được mặc nhiên gia hạn thêm từng
15

10 năm nếu một trong hai bên không thông báo cho bên kia ý định huỷ bỏ Hiệp ước
ít nhất là một năm trước khi hết hạn.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 547

cường lâu dài tình đoàn kết, mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào. Hiệp
ước nêu rõ: hai bên cam kết ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào, không ngừng tăng cường tình đoàn kết và
tin cậy lẫn nhau, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt
trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và theo nguyên tắc hoàn
toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau.
Hiệp ước khẳng định mối quan hệ hữu nghị đặc biệt, liên minh
đoàn kết chiến đấu và hợp tác toàn diện giữa hai dân tộc không
chỉ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc mà còn cả trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau chiến tranh. Đây là mốc lịch sử
quan trọng đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước.
Việc ký kết hiệp ước đó còn có ý nghĩa quốc tế quan trọng, nêu
cao tinh thần quốc tế trong sáng giữa hai nước đang cùng hướng
tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội và phát huy ảnh hưởng tích cực
trong khu vực.
Theo tinh thần của nội dung Hiệp ước, Bộ trưởng Ngoại giao
hai nước tăng cường phối hợp chặt chẽ về đường lối hoạt động đối
ngoại. Các hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao cùng với những hoạt
động ngoại giao phát huy hiệu quả công tác đối ngoại mỗi nước và
sức mạnh của ba nước Đông Dương trên trường quốc tế, góp phần
làm cho môi trường an ninh chính trị Đông Nam á đi dần vào ổn
định, thể hiện thiện chí của các nước Đông Dương xây dựng khu
vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
Hai bên cam kết sẽ tăng cường quan hệ hợp tác xã hội chủ nghĩa,
hai bên cùng có lợi về nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, giao
thông vận tải, khai thác tài nguyên thiên nhiên và về các lĩnh vực
khác; hết lòng viện trợ cho nhau về kinh tế và kỹ thuật; giúp nhau
đào tạo cán bộ; trao đổi chuyên gia các ngành kinh tế, văn hoá, khoa
548 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

học - kỹ thuật; mở rộng quan hệ mậu dịch theo chế độ ưu đãi đặc
biệt.
Hai bên sẽ mở rộng trao đổi khoa học - kỹ thuật, hợp tác về văn
hoá, nghệ thuật, giáo dục, y tế, thông tấn, báo chí..., tăng cường tiếp
xúc giữa các ngành hữu quan. Hai bên cam kết quyết tâm xây dựng
biên giới Việt - Lào thành biên giới hữu nghị anh em trên cơ sở
Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước; cam kết
hoàn toàn tôn trọng và ủng hộ đường lối quốc tế độc lập, tự chủ của
nhau....
Sau khi Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, Hiệp ước hoạch định
biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Lào được ký kết, Đảng và
Nhà nước Việt Nam liên tục đẩy mạnh và mở rộng công tác tuyên
truyền, giáo dục về quan hệ đặc biệt Việt - Lào, đấu tranh chống
các quan điểm sai trái về mối quan hệ Việt - Lào, bảo vệ tình đoàn
kết Việt - Lào. Đảng, Nhà nước Lào tổ chức nhiều đợt học tập,
chỉnh huấn về tình hình nhiệm vụ và quan hệ Lào - Việt từ trung
ương xuống tận cơ sở, tạo bước chuyển biến quan trọng trong
nhận thức của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân các bộ tộc Lào về quan
hệ đặc biệt Lào - Việt.
Về phía Việt Nam, để thực hiện tốt các hiệp ước vừa được ký
kết giữa hai nước, đồng thời tiếp tục quán triệt Nghị quyết 251 của
Bộ Chính trị, ngày 18 tháng 10 năm 1977, Ban Bí thư ra Chỉ thị số
21-CT/TW về tăng cường quan hệ đặc biệt Việt - Lào. Chỉ thị nêu
rõ, Đảng và Chính phủ Việt Nam coi việc ký kết và thực hiện Hiệp
ước hữu nghị và hợp tác, Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia
giữa hai nước vừa là nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào, vừa
là lợi ích thiết thực trước mắt và lâu dài của cách mạng Việt Nam.
Độc lập, tự do và hạnh phúc của hai dân tộc gắn bó chặt chẽ với
nhau. Thắng lợi và sự phát triển cách mạng hai nước hiện nay và
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 549

sau này không thể tách rời nhau16.


Về xây dựng biên giới hữu nghị lâu dài, Ban Bí thư giao cho
Ban Biên giới Trung ương, các ngành, các địa phương có nhiệm vụ
giúp Lào và cùng phía Lào thực hiện tốt việc phân định ranh giới
trên thực địa, cắm mốc, xác định cửa khẩu qua lại giữa hai nước,
sớm ban hành quy chế biên giới hữu nghị Việt - Lào, đồng thời
tăng cường giáo dục cán bộ, chiến sĩ, nhân dân sống dọc biên giới
tôn trọng và thực hiện nghiêm túc quy chế.
Để thực hiện Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia, ngày 11
tháng 11 năm 1977, Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ra Chỉ thị về công tác phân giới và cắm mốc đường
biên giới Việt - Lào. Từ ngày 17 đến 19 tháng 11 năm 1977, Ban Bí
thư Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức hội nghị đại biểu các ngành,
các địa phương có liên quan đến công tác giúp đỡ và hợp tác với
Lào để phổ biến Nghị quyết số 251 của Bộ Chính trị và Chỉ thị số
21 của Ban Bí thư. Tiếp đó, ngày 7 tháng 1 năm 1978, Phủ Thủ
tướng ra Chỉ thị số 316-TTg về việc giải quyết một số vấn đề liên
quan đến việc thực hiện Hiệp ước hoạch định biên giới Việt - Lào.
Chỉ thị nêu phương hướng, biện pháp cần thiết để giải quyết tốt,
đúng thời gian quy định công tác phân giới và cắm mốc đúng biên
giới Việt - Lào; các vấn đề liên quan đến việc chuyển giao cho Lào
một số vùng theo thoả thuận điều chỉnh đường biên giữa hai nước
nhằm thực hiện nghiêm Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia
Việt - Lào, góp phần củng cố, tăng cường hơn nữa quan hệ đoàn
kết hữu nghị giữa hai nước.
Cuối năm 1978, Chính phủ hai nước ký Nghị định thư về trao
đổi hàng hoá và trả tiền năm 1979. Hai bên thoả thuận sẽ trao đổi
16
. Xem Chỉ thị của Ban Bí thư, số 21-CT/TW ngày 18 tháng 10 năm 1977 về
việc tăng cường quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Cục Lưu trữ Văn phòng Trung
ương Đảng, phông Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, phông số 82, đơn vị bảo
quản 2375.
550 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

hàng hoá trị giá khoảng 10 triệu USD theo nguyên tắc cân bằng.
Vấn đề cử chuyên gia sang giúp Lào tiếp tục được Ban Bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo sát sao. Ngày 21 tháng 12 năm
1977, Ban Bí thư ra Thông tri số 25-TT/TW cho các đảng đoàn các
bộ, ngành thi hành một số công việc cụ thể: nghiên cứu yêu cầu của
Lào về chuyên gia, nhất là chuyên gia giúp cho lãnh đạo các ngành;
lựa chọn những cán bộ có phẩm chất tốt, có khả năng phù hợp với
yêu cầu cụ thể để cử sang Lào, bồi dưỡng trước khi cử sang để các
chuyên gia nắm được tình hình, đường lối của Đảng, nắm được
phương châm, thái độ, phương pháp giúp đỡ, Ban Bí thư giao cho
Ban Cán sự Đảng về công tác giúp Lào phối hợp với cán bộ, ngành
trao đổi ý kiến với lãnh đạo các ngành và trung ương của Lào về
nội dung, chương trình công tác, thời gian.
Công tác tuyên huấn đóng vai trò rất quan trọng trong việc
củng cố, tăng cường quan hệ đặc biệt Việt - Lào, căn cứ vào thoả
thuận giữa Trung ương hai Đảng, căn cứ vào yêu cầu của Trung
ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, ngày 28 tháng 10 năm 1978,
Ban Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam ra Quyết định số 30-QĐ/TW
Thành lập Đoàn cán bộ tuyên huấn giúp Lào bên cạnh Trung ương
Đảng Lào. Nhiệm vụ của Đoàn là nghiên cứu giúp Lào toàn diện
về công tác tuyên truyền - huấn luyện, báo chí xuất bản, thông tin
văn hoá, đề xuất kiến nghị với Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam về công tác tuyên truyền - huấn luyện, văn hoá nhằm tăng
cường tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa hai Đảng và nhân dân
hai nước. Đồng chí Phan Hiền, trợ lý đặc biệt công tác giúp Lào
của Ban Tuyên huấn Trung ương được chỉ định làm trưởng đoàn.
Trực tiếp chỉ đạo thực hiện chủ trương của Trung ương
Đảng, thực hiện các hiệp ước vừa được ký kết giữa hai nước, Chỉ
thị 21-CT/TW (tháng 10 năm 1977) của Ban Bí thư về tăng cường
quan hệ đặc biệt Việt - Lào, ngày 15 tháng 4 năm 1978, Ban Bí thư
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 551

ra thông tư nêu một số nhiệm vụ cụ thể cần làm trong các công tác
như công tác biên giới, công tác Việt kiều, công tác viện trợ và hợp
tác kinh tế, công tác giúp Lào, công tác mở rộng quan hệ giữa các
địa phương của hai nước.
Quan hệ Việt Nam và Lào được triển khai thông qua các tổ chức
đoàn thể nhân dân và các ban, ngành, địa phương. Quán triệt Chỉ thị
21 (tháng 10 năm 1977) của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam về tăng cường quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, các tổ chức
đoàn thể nhân dân, các ngành, các cấp, các địa phương, các đơn vị đã
chủ động phát triển những hình thức tổ chức và hoạt động đoàn kết
hữu nghị với Lào. Thành lập các chi hội hữu nghị Việt - Lào ở các
tỉnh, thành phố như: Lai Châu, Quảng Nam - Đà Nẵng, Hà Nội... Tổ
chức kết nghĩa giữa một số tỉnh, thành phố của hai nước: Hà Nội -
Viêng Chăn, Hà Nam Ninh - Uđômxay, Vĩnh Phúc - Luổng Nặm Thà,
Hà Sơn Bình - Luổng Phạbang... Các bộ, ngành, địa phương mời các
bộ, ngành, địa phương hai nước sang thăm, trao đổi kinh nghiệm,
nghiên cứu tìm các hình thức, nội dung hợp tác phù hợp.
Ngành thông tin tuyên truyền, báo chí xuất bản của hai nước
tăng cường các hoạt động tuyên truyền nhân những ngày lễ trọng
đại của hai dân tộc như Quốc khánh, ngày thành lập Đảng, thành
lập quân đội, kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh; xuất
bản tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước hai
nước... Kỷ niệm lần thứ nhất ngày ký Tuyên bố chung Việt - Lào,
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt - Lào (18 tháng 7 năm 1977 - 18
tháng 7 năm 1978, tại Việt Nam, thực hiện Thông tư số 47-TT/TW
của Ban Bí thư với mục đích làm cho toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng, nội dung mối
quan hệ đặc biệt Việt - Lào trong giai đoạn mới của cách mạng,
nhiều hình thức hoạt động được tổ chức: trao đổi điện mừng giữa
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội hai nước, Hội Hữu nghị Việt
552 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

- Lào và Hội Hữu nghị Lào - Việt; tổ chức mít tinh quần chúng ở
thủ đô, ở các tỉnh biên giới với Lào, trao đổi các đoàn thăm hữu
nghị giữa các tỉnh biên giới; mở đợt tuyên truyền rộng rãi về tình
hữu nghị đặc biệt Việt - Lào trên các báo, đài phát thanh và truyền
hình, trưng bày một số tranh ảnh về thành tựu xây dựng đất nước
Lào...
Cùng với các hoạt động trên, một đợt sinh hoạt chính trị chủ
đề “đoàn kết hữu nghị và hợp tác Việt - Lào” được tổ chức ở các
cấp, các ngành, các đảng bộ nhằm quán triệt những văn kiện như
Nghị quyết 251 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 21 của Ban Bí thư,
Tuyên bố chung, Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt - Lào nhằm
tạo sự thông suốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Việt Nam về quan hệ hữu nghị đoàn kết đặc biệt giữa hai nước
Việt - Lào.
Trước thực tiễn sinh động một lần nữa chứng tỏ mối quan hệ
đặc biệt Việt - Lào, quan hệ đoàn kết giữa ba nước Đông Dương là
sức mạnh vô địch, là quy luật phát triển của mỗi nước, lãnh đạo
Đảng, Nhà nước Việt Nam - Lào càng khẳng định mạnh mẽ hơn
tầm quan trọng của việc củng cố, phát triển mối quan hệ đặc biệt đó
trong bối cảnh phải đối phó với chiến tranh tâm lý, diễn biến hoà
bình, những âm mưu của các thế lực thù địch phản động câu kết với
nhau hòng chống phá, kìm hãm bước tiến của cách mạng mỗi nước.
Trong điện mừng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân
cách mạng Lào gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, khẳng định, Đảng Nhân dân cách mạng Lào sẽ tiếp tục
truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Đông Dương, luôn luôn
tăng cường bồi đắp cho tình đoàn kết vĩ đại giữa Đảng và nhân dân
hai nước, coi đó là cột trụ bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp bảo vệ
và xây dựng Tổ quốc của mình, làm cho mối quan hệ hai nước mãi
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 553

mãi phát triển tốt đẹp, không thế lực phản động nào có thể phá vỡ
nổi.
Tháng 4 năm 1980, Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng
Lào ra Nghị quyết về kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh của Chủ tịch Hồ
Chí Minh; xác định đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong đời
sống chính trị của nhân dân Lào nhằm mục tiêu nâng cao nhận thức
của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân Lào về cuộc đời hoạt
động, những cống hiến của Người với cách mạng Lào, rèn luyện
học tập đạo đức cách mạng cao đẹp của Người, tinh thần yêu nước
nồng nàn, chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh để từ đó tiếp tục củng cố, tăng cường mối quan hệ đặc biệt
Lào - Việt Nam.
Trên các diễn đàn quốc tế, hai nước đoàn kết nhất trí, phối hợp
đấu tranh vạch trần những luận điệu xuyên tạc sự thật, những thủ
đoạn chiến tranh tâm lý chia rẽ ba nước Đông Dương, chia rẽ Lào
với Việt Nam, chia rẽ nội bộ mỗi nước, cô lập Việt Nam. Chính
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, bằng thực tế của đất nước
mình, bằng những lý lẽ chân thành, có sức thuyết phục đã phản
bác luận điệu vu cáo Việt Nam như “Việt Nam muốn lập Liên
bang Đông Dương”, “Việt Nam thôn tính Lào, Campuchia”, “Việt
Nam sẽ tiến công các nước ASEAN”..., làm cho thế giới thấy rõ
những hy sinh to lớn của nhân dân Việt Nam, quân đội Việt Nam
nhằm giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng,
giúp Lào bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững
hoà bình trong khu vực và thế giới bằng chủ nghĩa quốc tế chân
chính, trong sáng.

3. Triển khai quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam trên các lĩnh vực (1976 - 1981)
Những năm 1976 - 1981, tuy Việt Nam cũng như Lào khó khăn
554 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

còn chồng chất, nhưng hai nước luôn nhận thức rất rõ rằng tình
đoàn kết chiến đấu giữa hai Đảng và nhân dân hai nước là quy luật
tồn tại và phát triển của cách mạng mỗi nước, là sức mạnh vô địch
giúp hai dân tộc Việt Nam, Lào chiến thắng mọi kẻ thù. Vì vậy
bước vào giai đoạn cách mạng mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra
Nghị quyết số 251-NQ/TW về việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ
và hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn mới, đề ra phương
hướng, nhiệm vụ đoàn kết, giúp đỡ và hợp tác với Lào trên tinh
thần quốc tế vô sản trong sáng, trên tinh thần “hạt gạo cắn đôi,
cọng rau bẻ nửa” với cách mạng Lào trong những năm tháng đầu
tiên của chế độ xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào. Về phía Lào, Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng
xác định rất rõ liên minh, đoàn kết hợp tác với Việt Nam là một
quy luật phát triển của cách mạng Lào và nguyện ra sức củng cố,
tăng cường mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt, bảo vệ tình đoàn kết
Lào - Việt như bảo vệ con ngươi của mắt mình, đồng thời ra sức
phát triển mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau một cách toàn
diện, lâu dài, mãi mãi để cùng nhau bảo vệ thành quả cách mạng,
xây dựng đất nước giàu mạnh.
Từ khi hoà bình lập lại, theo yêu cầu của Lào, Việt Nam đã giúp
giải quyết một số yêu cầu cấp bách mau chóng ổn định sản xuất và
đời sống. Đồng thời, xúc tiến điều tra cơ bản các mặt nhằm phát
huy khả năng phát triển kinh tế sau giải phóng của Lào. Thời kỳ
này mối quan hệ đoàn kết giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân
hai nước được tăng cường và mở rộng toàn diện trên nhiều lĩnh
vực. Quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam được khẳng
định là nhiệm vụ chiến lược, thiết thân phục vụ lợi ích, bảo đảm an
ninh, chính trị, phát triển của mỗi nước.
Hợp tác chính trị: Trong những năm 1976 - 1981, quan hệ giữa
hai Đảng, hai Nhà nước được tăng cường, gắn bó chặt chẽ, hiểu biết
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 555

và tin cậy lẫn nhau thông qua các chuyến thăm, làm việc giữa các
đoàn đại biểu cấp cao của hai Đảng, Chính phủ hai nước; các cuộc hội
đàm giữa hai Bộ Chính trị thường niên về những vấn đề trong nước và
thế giới mà hai bên cùng quan tâm như các Hiệp ước hữu nghị và hợp
tác, Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước.
Các cuộc trao đổi, gặp gỡ, hội đàm... giữa lãnh đạo hai Đảng,
hai Nhà nước góp phần rất quan trọng củng cố, tăng cường tình
đoàn kết đặc biệt Việt - Lào và là cơ sở nền tảng để phát triển quan
hệ hợp tác toàn diện giữa hai Đảng và nhân dân hai nước trong giai
đoạn cách mạng mới.
Do có sự gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi thông báo thường xuyên cho
nhau về tình hình mọi mặt giữa lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân
đội hai nước một cách thẳng thắn, chân thành như tình hình xung
đột biên giới Tây Nam Việt Nam do tập đoàn Pôn Pốt - Iêngxari
gây ra; những âm mưu, hành động đe doạ gây sức ép, xâm phạm
chủ quyền lãnh thổ ở vùng biên giới phía Bắc Lào, hai bên ngày
càng hiểu, tin cậy lẫn nhau, nhất trí cao trong các vấn đề đối ngoại,
ủng hộ nhau mạnh mẽ trên mặt trận đối ngoại, trên các diễn đàn
quốc tế. Ngày 21 tháng 10 năm 1978, phát biểu tại khoá họp lần thứ
33 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, quyền Bộ trưởng Ngoại giao
Lào lên tiếng ủng hộ đề nghị của Việt Nam nhằm tìm giải pháp cho
cuộc xung đột biên giới Việt Nam - Campuchia bằng con đường
thương lượng hoà bình, trên cơ sở thiện chí, chân thành, không có
sự can thiệp của nước ngoài. Đồng thời lên án chính sách của các
nước lớn can thiệp vào công việc nội bộ, gây chia rẽ giữa các nước
trong khu vực Đông Nam á.
Những quan điểm của Đảng, Nhà nước Lào trong quan hệ
đối ngoại thời gian này đã trực tiếp góp phần quan trọng giúp đỡ
Việt Nam: ủng hộ, phối hợp với Việt Nam trong vấn đề Campuchia
trên diễn đàn quốc tế, giúp Việt Nam trong quan hệ của Đảng Việt
556 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

Nam với Đảng Campuchia, thông báo thông tin tình hình nội bộ
Campuchia và nước ngoài ở Campuchia... Ngày 23 và 24 tháng 3
năm 1979, Bộ Chính trị của hai Đảng đã tiến hành hội đàm về
nhiều vấn đề. Riêng đối với quan hệ Việt - Lào, Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Việt Nam - Lê Duẩn nói: “Thay mặt Đảng Cộng sản Việt
Nam và nhân dân Việt Nam, tôi xin nhiệt liệt cảm ơn Đảng, Chính
phủ và nhân dân Lào anh em đã tận tình ủng hộ, giúp đỡ chúng tôi
trong những cuộc chiến tranh vừa qua, thể hiện đầy đủ mối quan hệ
đặc biệt giữa chúng ta mà trong lịch sử chưa từng có. Trong những
khi có tình hình gay go ở Việt Nam thì các đồng chí Lào là người
thông cảm với chúng tôi hơn ai hết. Các đồng chí vui mừng trước
thắng lợi của Việt Nam, coi như thắng lợi của chính mình”17. Đồng
chí Cayxỏn Phômvihản đã khẳng định quan điểm lập trường trước
sau như một ủng hộ Việt Nam của Lào: Lào vững mạnh, độc lập thì
Việt Nam ổn định, phồn vinh2.
Nhằm tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Cộng
hòa Nhân dân Campuchia, từ năm 1980, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại
giao ba nước thường xuyên được tổ chức. Hội nghị nhằm trao đổi
tình hình ba nước và những vấn đề quốc tế mà các bên quan tâm,
bàn những biện pháp tăng cường đoàn kết, hợp tác giữa ba nước.
Hội nghị năm 1980 đã ra thông cáo chung chào mừng thành tích về
mọi mặt của nhân dân ba nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước, chào mừng sự hồi sinh nhanh chóng của nhân dân
Campuchia trong hai năm 1979 - 1980 với những tiến bộ trong sản
xuất, đẩy lùi nạn đói, ổn định đời sống, xoá bỏ hậu quả nặng nề của
chế độ diệt chủng, xây dựng cuộc sống mới. Thông cáo nêu rõ sự

, 2. Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông Ban Đối ngoại Trung
17

ương Đảng, phông số 82, đơn vị bảo quản 2380.


Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 557

giúp đỡ của nhân dân Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa, các
nước không liên kết và nhân dân thế giới. Nhân dân Việt Nam, Lào,
Campuchia đang ra sức khắc phục mọi khó khăn, làm thất bại mọi
âm mưu và hành động của các thế lực thù địch phản động chống ba
nước Đông Dương. Việt Nam, Lào, Campuchia ngày càng trở
thành nhân tố quan trọng bảo đảm hoà bình, ổn định và hợp tác ở
Đông Nam á.
Các bộ trưởng đã trao đổi ý kiến về việc chuẩn bị cho Hội nghị
cấp cao ba nước sẽ họp vào những thời điểm thích hợp, với các
biện pháp trước mắt nhằm tăng cường sự hợp tác mọi mặt giữa ba
nước.
Trên tinh thần đó Hội nghị lần thứ IV Bộ trưởng Ngoại giao
Việt Nam, Lào, Campuchia diễn ra từ ngày 13 đến 14 tháng 6 năm
1981. Ba bộ trưởng tiếp tục trao đổi với nhau về tình hình quốc tế
và khu vực, bàn các biện pháp nhằm tăng cường tình đoàn kết và sự
hợp tác về mọi mặt giữa ba nước; trao đổi ý kiến về việc chuẩn bị
cho hội nghị cấp cao giữa ba nước. Ba bộ trưởng nhất trí nhận định
tình đoàn kết chiến đấu hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa ba nước
không ngừng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, các kế
hoạch hợp tác kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học - kỹ thuật được
thực hiện có hiệu quả góp phần nâng cao tiềm lực của mỗi nước.
Việc tăng cường trao đổi các đoàn Đảng, Chính phủ và nhân dân ba
nước cũng như phong trào kết nghĩa anh em giữa các địa phương
của ba nước đã góp phần quan trọng làm sâu sắc thêm sự hiểu biết
và tin cậy lẫn nhau giữa ba dân tộc.
Song song với việc tăng cường quan hệ ba bên, quan hệ đặc
biệt Việt - Lào tiếp tục được Đảng, Nhà nước hai nước quan tâm
phát triển. Các hiệp định, nghị định thư, kế hoạch hợp tác được ký
kết trước đây giữa hai Chính phủ, giữa các bộ, ngành tiếp tục được
triển khai bằng nỗ lực quyết tâm của cả hai bên. Sự hợp tác Việt -
558 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

Lào đã mở rộng sang một số lĩnh vực khác như hợp tác về vấn đề
dân tộc giữa Ban Dân tộc Trung ương của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Ban Dân tộc Trung ương của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào. Ngày 30 tháng 5 năm 1979, Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã
ký Hiệp định về thanh toán phi mậu dịch.
Việc trao đổi các đoàn Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành để
nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm, bàn thảo các kế hoạch hợp tác,
các hoạt động giao lưu giữa các địa phương, đơn vị kết nghĩa, các
đoàn thể quần chúng diễn ra thường xuyên hơn. Năm 1979, Việt
Nam đón một đoàn 250 cán bộ cao cấp, trung cấp đang học lý luận
tại Trường Đảng cao cấp Lào sang tham quan thực tế, một số đoàn
của Bộ Tài chính, của báo Tiếng nói nhân dân Lào... Phía Việt
Nam cũng cử nhiều đoàn sang Lào trao đổi kinh nghiệm hợp tác
như đoàn của Ban Tuyên huấn Trung ương, Ban Nông nghiệp
Trung ương, báo Nhân dân, Tổng cục Khí tượng - Thuỷ văn, v.v..
Ghi nhận sự hợp tác giúp đỡ và tin cậy lẫn nhau giữa hai Đảng
và hai Nhà nước trong tiến trình cách mạng, tháng 5 năm 1981,
Đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước ta do Phó Thủ tướng Võ Nguyên
Giáp dẫn đầu sang thăm Lào. Thay mặt Đảng và Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó Thủ tướng đã trao Huân chương
Sao vàng - huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam tặng
Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào Cayxỏn Phômvihản.
Trong diễn văn đọc tại buổi lễ, Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp
nhấn mạnh: “Trao tặng đồng chí Huân chương cao quý nhất của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam, Quốc hội, Chính phủ và nhân dân Việt Nam bày tỏ lòng biết
ơn vô hạn đối với đồng chí, đối với Đảng, Chính phủ và nhân dân
các dân tộc Lào anh em đã hết lòng ủng hộ và giúp đỡ sự nghiệp
đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam”. Đồng chí Cayxỏn
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 559

Phômvihản khẳng định: “Sự kiện này tượng trưng cho tình đoàn kết
hữu nghị thắm thiết, sắt son, đồng cam cộng khổ, giúp đỡ lẫn nhau
và động viên cổ vũ nhau cùng tiến lên trong lúc khó khăn cũng như
khi thuận lợi”. Báo Xiểng Páxaxon, ngày 4 tháng 5 năm 1981, viết:
“Nhân dân các dân tộc Lào vô cùng cảm kích thấy rằng trong năm
năm qua, mặc dù nước Việt Nam phải trải qua biết bao thử thách
lớn lao,... lại liên tiếp gặp phải thiên tai nghiêm trọng, nhưng nhân
dân Việt Nam vẫn kiên quyết thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của
mình, dành sự giúp đỡ to lớn, toàn diện cho Lào trong công cuộc
bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Nhân dịp này, nhân dân các dân tộc
Lào xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Đảng, Chính phủ và
nhân dân Việt Nam về sự giúp đỡ quý báu và đầy tình cảm anh em
đó”18. Tháng 11 năm 1981, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam
quyết định nhân dịp Quốc khánh Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
trao tặng Huân chương Sao vàng cho đồng chí Xuphanuvông - Uỷ
viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Chủ tịch nước,
Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tối cao Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Lào, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận xây dựng Tổ quốc Lào.
Trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho các đồng chí Uỷ viên Bộ
Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Phó Thủ tướng Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào: Nủhắc Phumxavẳn, Phumi Vôngvichít,
Khăm Tày Xiphănđon, Phun Xipaxợt và đồng chí Xỉxổmphon
Lòvănxay, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân
tối cao Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Ngày 2 tháng 12 năm
1981, thay mặt Đảng, Nhà nước, Quốc hội Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, đồng chí Chu Huy Mân, Uỷ viên Bộ Chính trị,
Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

18
. Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông Ban Đối ngoại Trung ương
Đảng 1958 - 1991, phông số 82, mục lục số 01, đơn vị bảo quản 2385.
560 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

Nam dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam sang
Lào trao Huân chương Sao vàng - huân chương cao quý nhất của
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng đồng chí Xuphanuvông.
Nhân dịp kỷ niệm bốn năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị và hợp
tác Lào - Việt Nam, ngày 22 tháng 8 năm 1981, Đảng và Nhà nước
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào quyết định tặng đồng chí Lê
Duẩn - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam - Huân chương Vàng
quốc gia. Trong buổi lễ, đồng chí Nủhắc Phumxavẳn, Uỷ viên Bộ
Chính trị, Phó Thủ tướng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã phát
biểu: “Những người cách mạng Lào vô cùng tự hào và quý trọng
đồng chí, đánh giá cao sự quan tâm đặc biệt của đồng chí đối với
việc củng cố và tăng cường sự liên minh chiến đấu, sự đoàn kết và
hợp tác giữa hai Đảng, hai nước và hai dân tộc chúng ta, sự cống
hiến to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp chung của nhân dân ba
nước Đông Dương”.
Những sự kiện trên là biểu hiện rực rỡ của tình đoàn kết chiến
đấu đặc biệt, tình hữu nghị vĩ đại, sự hợp tác và mối quan hệ gắn bó
chặt chẽ keo sơn giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai
nước Việt - Lào.
Hợp tác quốc phòng - an ninh: Bên cạnh quan hệ chặt chẽ về
chính trị giữa hai nước, những năm 1976 - 1981, hợp tác quốc
phòng - an ninh đi vào chiều sâu trên tinh thần mối quan hệ đoàn
kết liên minh chiến đấu phù hợp với tình hình mới, góp phần tích
cực bảo đảm củng cố quốc phòng - an ninh, ổn định xây dựng đất
nước.
Do tình hình phức tạp trong nước và khu vực, trước yêu cầu,
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ của Lào, tháng 12 năm
1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào
ra quyết nghị: tiếp tục đề nghị Việt Nam đưa lực lượng quân đội
sang hỗ trợ quân đội Lào nhằm ổn định tình hình, ngăn ngừa các
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 561

nguy cơ chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong và
ngoài nước. Trước yêu cầu đề nghị của Lào, Đảng, Nhà nước và
Quân đội nhân dân Việt Nam đã khẩn trương thành lập các đơn vị
sang giúp cách mạng Lào. Từ “giữa năm 1976, Việt Nam đã cử
hàng trăm chuyên gia sang làm việc tại Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng
Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, các quân binh
chủng, ở các tỉnh trọng điểm của Lào; đã đưa một sư đoàn quân
tình nguyện Việt Nam đến các địa bàn xung yếu cùng với các đơn
vị quân đội Lào đập tan các âm mưu, ý đồ chống phá, gây bạo loạn
của Mỹ và các thế lực thù địch, thu hồi lại nhiều địa bàn quan trọng
ở vùng rừng núi của Lào, nhất là ở các tỉnh: Xiêng Khoảng,
Bolikhămxay, Luổng Phạbang, Viêng Chăn, khu vực biên giới giáp
một số tỉnh miền Trung Việt Nam (Nghệ An, Thanh Hoá, Hà
Tĩnh...); bảo đảm được an ninh trên các trục đường giao thông
chiến lược như các đường 7, 9, 13...; hạn chế được các hoạt động
thâm nhập từ bên ngoài, ngăn chặn kịp thời một số vụ âm mưu kích
động bạo loạn ở vùng dân tộc, nhất là vùng đông người Mông, góp
phần tích cực bảo đảm và củng cố an ninh, quốc phòng, ổn định
cuộc sống của nhân dân, xây dựng đất nước Lào”19.
Cùng với các bộ, ban, ngành khác của trung ương và địa
phương, trên cơ sở pháp lý những hiệp định, hiệp ước đã ký kết
với Chính phủ Lào, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng Việt
Nam tiếp tục đẩy mạnh hợp tác mọi mặt với Bộ Quốc phòng
Lào. Ngày 22 tháng 7 năm 1977, ký Hiệp định hợp tác quân sự
giữa Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào và Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Tháng 7 năm 1977, hai đoàn đại biểu Bộ Tổng Tham mưu Việt
Nam - Lào đã tổ chức hội đàm tại Viêng Chăn thống nhất kế hoạch

19
. Tài liệu lưu tại Cục 213, Bộ Quốc phòng Lào, tr.332.
562 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong ba năm (1978 - 1980), bàn kế hoạch
năm 1978 về xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng cơ sở quốc
phòng và kế hoạch phòng thủ chung, thống nhất phân công trách
nhiệm và mọi quan hệ hiệp đồng chiến đấu. Bộ Tổng Tham mưu
Quân đội nhân dân Việt Nam đã phối hợp về mặt tác chiến, giúp
toàn diện theo những điều đã thoả thuận giữa hai Ban Chấp hành
Trung ương Đảng và hai Quân uỷ Trung ương.
Từ ngày 12 đến 22 tháng 9 năm 1977, Đoàn đại biểu quân sự
cấp cao nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào do đồng chí Khăm
Tày Xiphănđon, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Bí thư Quân uỷ Trung ương, Phó
Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chỉ huy tối cao Quân đội
giải phóng nhân dân Lào sang thăm và làm việc với Bộ Quốc
phòng Việt Nam, hai bên đã ký Hiệp ước phòng thủ (ngày 22 tháng
9 năm 1977).
Ngày 28 tháng 6 năm 1978, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ra Sắc lệnh số 63/SCT thành lập Binh đoàn
678 trực thuộc Bộ Quốc phòng. Binh đoàn 678 do Trung tướng
Trần Văn Quang làm tư lệnh kiêm chính uỷ, gồm ba sư đoàn bộ
binh (324, 968, 337), một số phân đội binh chủng làm nhiệm vụ
quốc tế ở Lào. Binh đoàn 678 có nhiệm vụ cùng bạn xây dựng
nền kinh tế và nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong cả
nước Lào. Tăng cường và bảo vệ khối liên minh Việt - Lào,
không ngừng củng cố và phát triển tình hữu nghị đặc biệt giữa
hai dân tộc...
Khi cách mạng Lào bị lực lượng phỉ gây rối, Sư đoàn 324 thuộc
Quân khu 4 Việt Nam đã cùng lực lượng vũ trang Lào tiến hành
tiễu phỉ, giành dân. Trận tiễu phỉ điển hình nhất diễn ra tại Phu Bia.
Lào có lực lượng của Mặt trận 1A, Tiểu đoàn 24, Tiểu đoàn 467, một
phần lực lượng pháo binh và dân quân du kích trong khu vực.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 563

Phía Việt Nam, quân tình nguyện Việt Nam gồm có Trung đoàn bộ
binh 335, Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 3) và Tiểu đoàn thiết giáp thuộc
Sư đoàn bộ binh 324 - Quân khu 4. Trong hơn một năm (tháng 8
năm 1977 đến ngày 13 tháng 11 năm 1978), hoạt động phối hợp
với lực lượng quân sự Lào và Sư đoàn bộ binh 32420, là đợt hoạt
động giành thắng lợi lớn nhất kể từ sau năm 1975, thể hiện tính
hiệp đồng tác chiến cao và chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang hai
nước Lào - Việt, mở ra một địa bàn chiến lược cho cách mạng Lào,
giải phóng nhiều dân bị kìm kẹp trở về với cách mạng. Đánh giá
những thành tựu trong công cuộc bảo vệ đất nước, Nghị quyết Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào
lần thứ sáu khóa II (năm 1979) đã ghi rõ: “Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, các lực lượng quốc phòng - an ninh của ta đã cùng với nhân
dân các bộ tộc và có sự hỗ trợ của lực lượng Lào (quân tình nguyện
Việt Nam) ở một số địa bàn, đã liên tục chiến đấu, ngăn chặn và
đập tan hầu hết các vụ gây rối, bạo loạn, phá được nhiều ổ thám
báo và lực lượng của chúng, quét được nhiều cụm phỉ trong các
vùng miền núi bộ tộc, nhất là đã phá tan cụm phỉ Phu Bia - căn cứ
mà đế quốc Mỹ và bọn phản động hy vọng duy trì để chống phá
cách mạng Lào lâu dài, bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc,
đồng thời các lực lượng quốc phòng - an ninh đã tích cực tham gia
phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, làm cho tình
hình an ninh, trật tự trong cả nước ngày càng tốt hơn”21. Ghi nhận

20
. Đánh 27 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 210 tên, bắt và gọi hàng
856 tên, làm bị thương 50 tên, thu 350 súng các loại và nhiều quân trang, quân
dụng khác; đưa 31.913 người dân ra vùng giải phóng, mở rộng địa bàn chiến lược
gần 750 km2.
21
. Nghị quyết Trung ương 6 khóa II, ngày 14 tháng 1 năm 1979. In trong Lịch
sử Quân đội nhân dân Lào, do Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Lào xuất bản
năm 1995, bản dịch tiếng Việt, tr.256. Lưu lại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
564 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

công lao to lớn của quân tình nguyện Việt Nam trong chiến thắng
Phu Bia, Trung tướng Xámản Vinhakệt - Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí
thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào,
Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Lào, thay mặt
Đảng, Nhà nước và quân đội Lào long trọng gắn Huân chương
ítxalạ hạng Nhất lên Quân kỳ Quyết thắng của Sư đoàn 324.
Trong các năm 1980 - 1982, lực lượng tình nguyện Việt Nam
cùng với Lào truy quét các toán biệt kích xâm nhập vũ trang nằm
vùng, phá các ổ phản động ở Thủ đô Viêng Chăn, các thị xã, làm
thất bại âm mưu bạo loạn lật đổ và gây phỉ của địch, bảo vệ được
các mục tiêu trọng yếu22. Tháng 2 năm 1980, Quân uỷ Trung ương
họp ra Nghị quyết số 32/QUTƯ, nêu rõ: tiếp tục cùng bạn Lào đẩy
mạnh các mặt công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, kịp thời đập
tan mọi âm mưu gây bạo loạn và đánh trả có hiệu quả các cuộc tiến
công của bọn phản động ở Lào hoặc quân xâm lược nước ngoài;
đánh bại âm mưu diễn biến hoà bình và các hoạt động phá hoại gây
rối ở Trung - Hạ Lào, đồng thời tiếp tục quét phỉ và các lực lượng
phản động khác.
Với sự hoạt động tích cực của các đơn vị thuộc Binh đoàn 678
và một số quân khu có đường biên giới tiếp giáp với Lào, đã phá
tan nhiều ổ nhóm phản động, làm cho an ninh chính trị của Lào
ngày càng đi dần vào thế ổn định, góp phần bảo vệ Hội nghị cấp
cao ba nước Đông Dương, diễn tập liên minh Việt - Lào (HN83)
đạt kết quả tốt.
Ngoài việc hợp tác giúp đỡ nhau trong giữ gìn an ninh trật tự
của mỗi nước, trong những năm này, quân đội hai nước Việt - Lào

. Sáu tháng đầu năm 1983, đã tiêu diệt 258 tên địch, bắt 96 tên, bức hàng
22

126 tên, thu 123 súng. Cùng với Lào, lực lượng tình nguyện Việt Nam giúp củng
cố chính quyền ở 258 bản, bồi dưỡng 3.158 cán bộ xã, huấn luyện 5.500 lượt dân
quân du kích.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 565

còn giúp nhau xây dựng kinh tế, cơ sở hậu cần kỹ thuật23. Từ năm
1979, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam giao
nhiệm vụ cho Binh đoàn 678 trực tiếp chỉ huy các lực lượng làm
kinh tế trên đất Lào tăng cường hơn nữa sự giúp đỡ hợp tác giữa
quân đội hai nước. Đầu năm 1980, theo đề nghị của Lào, Việt Nam
đã cử nhiều chuyên gia, cán bộ kỹ thuật và thành lập các đơn vị
kinh tế chuyên nghiệp sang giúp Lào. Tiêu biểu như giúp xây dựng
Nhà máy quốc phòng 7701 (Viêng Chăn); xưởng nấu thép, sửa xe
các loại, sửa chữa súng...
Cùng với các đơn vị của Bộ Quốc phòng trực tiếp sang giúp
Lào, các đơn vị trong toàn quân cũng đẩy mạnh việc hợp tác với
các đơn vị Bộ Quốc phòng Lào. Quân khu 4 đã hỗ trợ phía Lào
thực hiện nhiệm vụ Mở cửa ra hướng đông. Từ đó, các đơn vị kinh
tế thuộc Quân đội nhân dân Lào đã có sự trưởng thành và phát triển
nhanh chóng. Công ty Phát triển miền núi Bộ Quốc phòng Lào từ
chỗ gặp nhiều khó khăn do thiếu phương tiện, kỹ thuật đã vươn lên
làm chủ tình hình, đặc biệt là đã đưa Lắc Xao (Khăm Muộn) từ một
vùng rừng núi hẻo lánh trở thành một trung tâm có nhiều xưởng
máy, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân.
Về hợp tác trên lĩnh vực an ninh: Từ ngày 8 đến 17 tháng 3
năm 1977, Bộ Nội vụ Việt Nam tiếp Đoàn đại biểu Bộ Nội vụ -
Thương binh và Xã hội Lào do đồng chí Bộ trưởng dẫn đầu sang
thăm và làm việc. Trong quá trình hội đàm, Đoàn đã thông báo tình
hình an ninh, trật tự xã hội, hoạt động của địch ở Lào; đề nghị Bộ
Nội vụ Việt Nam cử chuyên gia (11 loại) sang giúp các ngành
thuộc cơ quan và lực lượng an ninh của Lào, giúp đào tạo 150 sĩ
quan an ninh, huấn luyện, bổ túc mỗi năm 150 cán bộ các ngành an

23
. Trong năm 1976, Việt Nam đã giúp Lào 42 tấn đạn, 24 xe M113, lắp ráp
một số máy bay và vận chuyển hàng từ Đà Nẵng sang Lào.
566 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

ninh, cảnh sát, biên phòng. Theo thoả thuận giữa Ban Bí thư Trung
ương của hai Đảng trong năm 1976, ngày 17 tháng 3 năm 1977, hai
Bộ Nội vụ của Việt Nam và Lào ký Bản thoả thuận riêng về việc
Bộ Nội vụ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giúp đỡ kỹ thuật
Bộ Nội vụ - Thương binh và Xã hội Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào. Trong Bản thoả thuận xác định: Bộ Nội vụ Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam sẽ cố gắng hết sức đáp ứng yêu cầu của Bộ
Nội vụ Lào, giúp Bộ Nội vụ Lào về mặt khoa học - kỹ thuật, nghiệp
vụ theo hai hướng: Một là, đưa cán bộ, phương tiện sang trực tiếp
làm các công việc kỹ thuật cần thiết tại chỗ để giúp Bộ Nội vụ Lào
giải quyết các yêu cầu chiến đấu cấp thiết trước mắt. Hai là, Bộ
Nội vụ Việt Nam sẽ đào tạo cán bộ kỹ thuật do Bộ Nội vụ Lào gửi
sang và dần cung cấp thiết bị để Bộ Nội vụ Lào từng bước xây
dựng và tự đảm nhiệm được các mặt công tác kỹ thuật.
Theo hai hướng đó, hai bên đã thoả thuận các vấn đề cụ thể về
thông tin liên lạc và vô tuyến điện, về công tác thu tin đặc biệt, về
công tác phát hiện và định hướng vô tuyến điện - là những vấn đề
kỹ thuật quan trọng có tính chuyên sâu cao liên quan mật thiết đến
bảo vệ an ninh quốc gia. Lực lượng an ninh Lào được xây dựng
trưởng thành đã góp phần to lớn trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh
chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền non trẻ, giữ vững trật tự
xã hội trên đất nước Lào.
Với sự hợp tác và giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam,
lực lượng quân đội, an ninh của Lào đã làm thất bại những âm
mưu của bọn phản động nhằm phục hồi lực lượng, chặn đứng
được các cuộc phiến loạn của bọn phản động trong nước được các
thế lực nước ngoài bảo trợ. Lào tăng cường quốc phòng, xây dựng
một số cơ sở vật chất, kỹ thuật về quân sự, trang bị hậu cần, đào
tạo cán bộ quân sự..., giữ vững và ổn định biên giới, giữ vững độc
lập chủ quyền, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng non trẻ,
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 567

chế độ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Thành quả đó đã góp
phần quan trọng ổn định an ninh, đảm bảo vững chắc chủ quyền
biên giới quốc gia cho Việt Nam khi mà các thế lực phản động
trong khu vực và thế giới đang quyết liệt chống phá cách mạng
Việt Nam sau năm 1975.
Hợp tác trên lĩnh vực kinh tế: Đây là những năm cực kỳ khó
khăn của cả hai nước vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh giữ nước, lại
phải đối mặt với sự phá hoại trên nhiều lĩnh vực của các thế lực thù
địch. Hai nước đã nỗ lực tiếp tục sát cánh bên nhau giúp nhau vượt
qua khó khăn, thách thức, giữ vững chủ quyền lãnh thổ của mỗi
nước, từng bước duy trì ổn định đời sống của nhân dân.
Khi Thủ đô Viêng Chăn vừa giải phóng, trước khó khăn do hậu
quả chiến tranh, thiên tai, lụt lội mất mùa, lại bị Thái Lan cấm vận,
Việt Nam mặc dù trước bộn bề khó khăn của tình hình trong nước,
nhưng đã kịp thời viện trợ gạo cứu đói cho nhân dân Viêng Chăn
ổn định cuộc sống.
Nhu cầu hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau về kinh tế xuất phát từ
những khó khăn và thuận lợi của cả hai nước. ở Lào, kỹ thuật canh
tác nông nghiệp còn lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên; giao
thông chưa phát triển, chưa có đường sắt, không có biển để thông
thương trực tiếp với bên ngoài; dân số ít, phân bố thưa; thiếu cán bộ
khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân lành nghề... ở Việt
Nam, mật độ dân số đông, phân bố tập trung ở đồng bằng; đội ngũ
cán bộ khoa học - kỹ thuật chưa mạnh; có những hạn chế, lúng túng
trong vận dụng cách làm ăn mới... Bên cạnh đó, tiềm năng của Lào
lớn, có hơn 70% đất đai là rừng núi, đất rộng, người thưa, tài
nguyên thiên nhiên phong phú. Việt Nam có hàng ngàn kilômét bờ
biển, có đường biên giới khá dài tiếp giáp với Lào, là nước có thể
giúp Lào tiếp xúc với cảng biển một cách ngắn nhất. Đây là khả
năng có thể hợp tác, bổ sung cho nhau nhằm phát huy ưu thế của ở
568 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

từng nước.
Từ năm 1977, hợp tác kinh tế được thực hiện tập trung chủ yếu
dưới hình thức viện trợ và cử chuyên gia giúp Lào thông qua các bộ,
ngành theo từng vụ việc, từng công trình tiến lên phối hợp theo kế
hoạch, thực hiện sự phân công, hợp tác toàn diện cùng có lợi.
Thời kỳ này hợp tác kinh tế Việt - Lào tập trung vào các vấn
đề như Việt Nam giúp Lào phát triển các vùng kinh tế mới sản xuất
lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, chăn nuôi, khai thác lâm
sản vùng cao nguyên Na Kay (Khăm Muộn), vùng lâm nghiệp
Trung Lào, vùng cao nguyên Bôlavên. Khai thác quặng potasse ở
Viêng Chăn, thạch cao ở Đồng Hến, thiếc ở Khăm Muộn, quặng sắt
ở Xiêng Khoảng; tiến tới xây dựng các cơ sở luyện thép, luyện kim,
xây dựng các công trình thuỷ điện Nặm Thơn.
Trong nông nghiệp, hai nước đã hợp tác giúp nhau cải tạo và
xây dựng hệ thống thuỷ lợi, chăm sóc các loại giống mới, phòng
dịch cho gia súc. Việt Nam giúp Lào khảo sát quy hoạch thuỷ lợi
vùng Huội Xết, Xalavăn (năm 1977); khôi phục các công trình thuỷ
lợi của tỉnh Hủa Phăn; xây dựng trại sản xuất Viêng Xây để chăn
nuôi bò, lợn, gà, cá (năm 1977); xây dựng và giúp kỹ thuật cho
xưởng cơ khí Sầm Nưa.
Về công nghiệp, Việt Nam giúp Lào khảo sát trữ lượng và lập
kế hoạch khai thác các vùng có khoáng sản của Lào24; khai thác
lâm sản, chủ yếu là gỗ quý; năm 1980 hoàn thành lập bản đồ địa
chất tỷ lệ 1/200.000 vùng Khăng Khay (Xiêng Khoảng), Sầm Nưa;
khảo sát xây dựng cầu bêtông cốt thép trên đường 13 (năm 1977);

. Như: mỏ ở Sầm Nưa (năm 1977); khảo sát trữ lượng và lập quy hoạch,
24

hợp tác cùng khai thác mỏ thạch cao Đồng Hến, trữ lượng mỗi năm khoảng
40.000 tấn (Xavẳnnakhệt - từ năm 1977); khảo sát trữ lượng mỏ sắt Phu Nhôm và
lập kế hoạch khai thác (năm 1980).
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 569

khảo sát thiết kế tuyến đường 7 (Xiêng Khoảng) năm 1978; khảo
sát thẩm tra trữ lượng gỗ đường 9 và lập quy hoạch thiết kế khai
thác, chế biến với công suất từ 5 - 6 vạn m3/năm (năm 1977);
nghiên cứu, điều tra khảo sát tuyến đường sắt từ Lào ra bờ biển
Việt Nam; hoàn thành đường ống dẫn dầu từ Keo Nửa ra đường 13
(năm 1977)25.
Thời kỳ này, Việt Nam còn giúp Lào xây dựng một số công
trình thuỷ điện vừa và nhỏ, cung cấp điện cho sản xuất và sinh
hoạt; giúp Lào xây dựng và trang bị xí nghiệp gạch ngói theo Hiệp
định đã ký năm 1980. Cùng với hợp tác ở Trung ương, quan hệ hợp
tác giữa các địa phương cũng được đẩy mạnh. Thành phố Hà Nội
đã cử 7 chuyên gia và 70 công nhân xây dựng cùng 80 thanh niên
Lào đến Na Hảy xây dựng xí nghiệp sản xuất gạch ngói với công
suất 5 triệu viên gạch và 2 triệu viên ngói.
Trong công nghiệp nhẹ, hai nước hợp tác giúp nhau đóng
khung dệt cải tiến, khung dệt vải hoa, giúp Lào sản xuất phục vụ
tiêu dùng và xuất khẩu. Trong ngành may mặc, Xí nghiệp may 20
thuộc Tổng cục Hậu cần Việt Nam đã sản xuất giúp quân đội Lào
về trang phục; cử cán bộ kỹ thuật để đào tạo hàng trăm cán bộ,
công nhân may cho quân đội nhân dân Lào. Việt Nam cũng giúp đỡ
khôi phục đưa vào sản xuất một số máy ép nhựa, kỹ thuật làm lọ
sành, chế biến rượu ở Viêng Chăn.
Nhiều chuyên gia Việt Nam đã được cử sang giúp Lào khảo
sát, thiết kế các công trình hữu nghị Hà Nội - Viêng Chăn, được coi
là trọng điểm của thành phố như Xí nghiệp sản xuất đường huyện
Hạtxaiphoong. Một số công trình được xây dựng trong hai năm

. Khóa họp I ủy ban Hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giữa Việt
25

Nam - Lào, hồ sơ Q9-6, phông Lưu trữ Bộ Ngoại giao.


570 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

1977 - 1978 phục vụ công cộng và cơ quan26.


Về giao thông vận tải: Đặc điểm của Lào là không có đường ra
biển, chưa có hệ thống đường sắt, đường sông và hàng không chỉ
hoạt động ở một số vùng và trong điều kiện thời tiết cho phép, việc
đi lại giữa các vùng khó khăn và chủ yếu là bằng đường bộ, nhưng
ngay cả mùa khô hệ thống đường bộ nhiều nơi cũng không bảo
đảm. Chính vì vậy, Lào rất quan tâm đến việc sửa chữa nâng cấp,
xây dựng mới hệ thống giao thông, chú trọng hợp tác với Việt Nam
trên lĩnh vực giao thông vận tải. Trong năm 1977 - 1978, Việt Nam
giúp Lào xây dựng đường 7 từ Nặm Cắn đi Phiêng Luông; xây
dựng đường 6 từ Nặm Nơn đi Bạn Ban với hệ thống cầu cống làm
theo đường cấp 4, nền và mặt đường rải nhựa theo tiêu chuẩn
đường cấp 5; giúp Lào bảo đảm giao thông trong suốt tháng 4 năm
1977 ở đường 42 từ Tây Trang đến Mương Khỏa, đường 7 từ Nặm
Cắn đến Phôn Xávẳn, đường 8 từ Keo Nửa đến đường 13, đường 9
từ Lao Bảo đến Thà Khoổng; xây dựng cầu phao Nặm Thơn, Thà
Khoổng27. Đây cũng là thời điểm Lào “coi đường 9 là con đường
chiến lược và coi tỉnh Quảng Trị, cảng Đà Nẵng là đường quá cảnh.
Mối quan hệ tỉnh Xavẳnnakhệt - Quảng Trị giai đoạn này có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng”28...

26
. Như: Nhà làm việc của cơ quan tỉnh uỷ tại Sầm Nưa; cơ quan, cửa hàng mậu
dịch, trường học của Xiêng Khoảng; cửa hàng thương nghiệp tại Phôngxalỳ, Xê Pôn;
trường học, bệnh viện ở Xê Pôn; xây dựng kho xăng (Xiêng Khoảng, Xavẳnnakhệt),
kho chứa hàng (Xiêng Khoảng, Mương Phin), các kho đầu mối, trạm trung chuyển
phục vụ cho vận chuyển hàng như kho Đông Hà, Đà Nẵng, Diễn Châu, Thanh Hoá
(trên đất Việt Nam). Theo: Khóa họp I ủy ban Hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học -
kỹ thuật giữa Việt Nam - Lào, hồ sơ Q9-6, phông Lưu trữ Bộ Ngoại giao.
27
. Khóa họp I ủy ban Hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giữa Việt
Nam - Lào, hồ sơ Q9-6, phông Lưu trữ Bộ Ngoại giao.
28
. Tháng 2 năm 1988 hoàn thành. Theo Hội thảo quốc tế về mối quan hệ Việt
Nam - Lào, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007, tr.472.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 571

Về xây dựng sửa chữa cầu đường, đã có sự phối hợp ngay từ


thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, đảm bảo huyết mạch giao thông29.
Trên lĩnh vực hàng không, từ năm 1974, hai nước hợp tác khôi
phục duy trì đường bay Hà Nội - Viêng Chăn; từ năm 1977, Việt
Nam giúp Lào sửa chữa, mở rộng sân bay dã chiến ở Bạn áng
(Cánh đồng Chum); hai bên nghiên cứu xây dựng sân bay ở Lào.
Việt Nam giúp Lào xây dựng các sân bay Lắc Xao, Sầm Nưa.
Ngày 13 tháng 7 năm 1977, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Giao
thông vận tải Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Giao thông công chính và
vận tải Lào đã ký Bản thoả thuận về hàng xuất khẩu, nhập khẩu của
Lào quá cảnh cảng Đà Nẵng của Việt Nam. Việt Nam dành cho
Lào những điều kiện thuận lợi trong việc xuất nhập khẩu hàng hoá
qua cảng: ưu tiên trong việc bốc xếp hàng hoá nhằm giải phóng tàu
nhanh, dành cho Lào một khu kho bãi để chứa hàng không lấy tiền
thuê do Lào quản lý, hàng hoá quá cảnh được miễn thuế hải quan.
Giai đoạn này Việt Nam viện trợ hàng hoá theo phương thức
hàng đổi hàng một cách cân bằng giữa hai bên và có ưu đãi đặc
biệt. Hàng hoá của Việt Nam chuyển sang Lào thường là những vật
tư, vật liệu như sắt, thép, xi măng, xăng dầu; những mặt hàng nhu
yếu phẩm như gạo, đường, sữa, thuốc chữa bệnh, vải vóc quần áo,
hàng tiêu dùng. Việt Nam nhập của Lào các sản phẩm như cà phê,
sa nhân, cánh kiến, gỗ tròn, gỗ dán, thạch cao. Quan hệ ngoại
thương thời kỳ này là quan hệ kinh tế có hiệu quả, thiết thực vì nó
đáp ứng yêu cầu khôi phục, ổn định và phát triển của Lào sau chiến
29
. Đơn vị Việt Nam đầu tiên làm nghĩa vụ quốc tế tại Lào về giao thông được
thành lập từ ngày 23 tháng 7 năm 1965. Trong suốt giai đoạn 1965 - 1975, đơn vị
bảo đảm giao thông cho hơn 600 km đường của Lào tại khu căn cứ cách mạng và
vùng giải phóng, đã góp phần vào thắng lợi trọn vẹn của Lào năm 1975. Sau giải
phóng, đơn vị này đã chuyển sang đảm trách nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng cầu đ-
ường phục vụ công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Lào, đã
trở thành Liên hiệp Các xí nghiệp giao thông 8, thuộc Bộ Giao thông vận tải.
572 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

tranh.
Nhằm giúp Lào khắc phục khó khăn do lụt lội lớn, Việt Nam đã
cho Lào vay và viện trợ không hoàn lại30.
Việt Nam còn giúp Lào trong công tác chuyên gia, xây dựng cơ
bản, điều tra khảo sát tài nguyên. Đáp ứng kịp thời cho Lào những
yêu cầu đột xuất cấp bách nhằm phục vụ quốc phòng, an ninh, kinh
tế, Việt Nam đã đưa sang Lào hàng trăm xe vận tải suốt ngày đêm
trên trục giao thông đi lại khó khăn, an ninh chưa bảo đảm để xây
dựng vật chất kỹ thuật ban đầu cho Lào. Các công trình xây dựng
thời kỳ này chủ yếu gồm cầu đường, công trình thuỷ lợi, trường
học, bệnh viện, trụ sở cơ quan, cơ sở sản xuất, sửa chữa cơ khí, chế
biến nông - lâm sản ở địa phương. Tính chất hợp tác thời kỳ này là
vẫn nặng về bao cấp... Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể và khách
quan, hai nước Việt Nam và Lào đều đã có sự nỗ lực cố gắng cao
độ trong quá trình tiếp tục củng cố và phát triển mối quan hệ hữu
nghị truyền thống, hợp tác toàn diện khi bước sang giai đoạn
chuyển đổi. Trong bộn bề khó khăn thách thức của cách mạng, Việt
Nam đã chia sẻ với bạn Lào, phần nào giúp Lào giải quyết khó
khăn trước mắt, từng bước ổn định để phát triển, đồng thời về phía
Lào đã tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong môi
trường đầu tư, mở rộng thị trường trao đổi, tạo thị trường lao động
cho nguồn nhân lực dồi dào, góp phần giải quyết khó khăn của
Việt Nam trong những năm đầu sau chiến tranh. Mặt khác, qua
việc đội ngũ chuyên gia Việt Nam giúp Lào khảo sát, tư vấn...
xây dựng kinh tế cũng là một phương thức góp phần nâng cao trình
độ, nhận thức của đội ngũ cán bộ chuyên gia, cán bộ lãnh đạo và

30
. Năm 1976 là 132 triệu đồng Việt Nam, vay không lãi là 15 triệu đồng Việt
Nam và 3 triệu USD; năm 1977 là 130 triệu đồng Việt Nam, trong đó 1/2 là viện trợ
không hoàn lại và 1/2 là vay không lãi; năm 1978 khoảng 130 triệu, trong đó hàng
viện trợ chủ yếu là tiêu dùng và nguyên vật liệu, trị giá khoảng 50 triệu đồng.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 573

quản lý của Việt Nam sang giúp Lào học hỏi được những kinh
nghiệm từ phía bạn Lào và được trải nghiệm qua thực tế với nhiều
mô hình, phương thức linh hoạt khác nhau. Những nhận thức và
trải nghiệm đó, không chỉ có hiệu quả trong giúp Lào mà còn có ý
nghĩa đối với quá trình lãnh đạo, thực hiện công cuộc bảo vệ và xây
dựng đất nước Việt Nam trong chặng đường Việt Nam đang tìm tòi
khảo nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội khi đất nước hòa
bình, thống nhất.
Đây cũng là giai đoạn cả Việt Nam và Lào đang đối mặt với
muôn vàn khó khăn bởi tác động không thuận chiều của diễn biến
phức tạp trong khu vực, cùng với sự trì trệ yếu kém của nền kinh tế
vận hành theo cơ chế cũ, do vậy đang nỗ lực từng bước tìm tòi,
khảo nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực
tiễn của hai quốc gia dân tộc. ở Lào, Nghị quyết Hội nghị Ban
Chấp hành Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng trong năm 1979
với tựa đề ý tưởng khởi đầu về sự đổi mới (nội dung chính là:
chuyển sang cơ chế mới có hiệu quả hơn; nắm vững tính khách
quan của quy luật kinh tế; có sự buôn bán và làm cho thương mại
trở thành mắt xích cơ bản để mở rộng sản xuất; vận dụng kế hoạch
để xây dựng - mở rộng thị trường và phối hợp giữa kế hoạch và thị
trường...) đã trở thành nhân tố khởi điểm, cho thấy ý tưởng khởi
đầu trong việc kiện toàn đường lối, chủ trương của Đảng31. Cũng
thời điểm đó, ở Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương 6 (khóa IV) của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 8
năm 1979) chủ trương tháo gỡ các vướng mắc, rào cản trong sản
xuất, lưu thông hàng hóa trong nước, khuyến khích sản xuất để

31
. Theo Chương Xổm Bun Khăn, trong: Hội thảo quốc tế về mối quan hệ
Việt Nam - Lào, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007, tr.586.
574 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

từng bước ổn định đời sống32, được coi là tín hiệu đầu tiên của tư
duy tìm tòi đổi mới về kinh tế. Đầu năm 1981, Nghị quyết đó được
cụ thể hóa bằng Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán trong nông
nghiệp và Quyết định số 25-CP và 26-CP trong công thương nghiệp
làm biến chuyển từng bước về cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam.
Những chuyển biến đó, đều có ý nghĩa tác động cả hai nước Việt
Nam và Lào, được cán bộ và lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước
thường xuyên trao đổi, bàn bạc thông qua những cuộc họp cấp cao
của lãnh đạo hai nước, thông qua những cuộc hội thảo giữa các nhà
khoa học, các giáo trình, bài giảng cho cán bộ của Đảng và Nhà
nước Lào học tập ở Việt Nam trong thời gian này.
Hợp tác trong lĩnh vực văn hoá - giáo dục - y tế: Nhiệm vụ đặt
ra đối với Việt Nam và Lào sau khi giải phóng là khắc phục hậu
quả của chế độ cũ để lại, lĩnh vực văn hoá cần được coi trọng, sự
nghiệp giáo dục đào tạo được chú ý hàng đầu, vấn đề y tế, chăm
sóc nâng cao sức khoẻ nhân dân cần được quan tâm.
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa hai nước Việt Nam - Lào
ngày 18 tháng 7 năm 1977 nêu rõ: về hợp tác văn hoá, “Hai bên mở
rộng trao đổi khoa học, kỹ thuật, hợp tác về văn hoá, nghệ thuật,
giáo dục, y tế, thông tấn, báo chí, phát thanh, điện ảnh, thể dục thể
thao và các lĩnh vực văn hoá khác”. Để triển khai nội dung Hiệp
ước, hằng năm hai nước đã ký các “Nghị định thư về hợp tác và
trao đổi văn hoá giữa Việt Nam và Lào”. Bộ Thông tin, Tuyên
truyền, Văn hoá và Du lịch của Lào đã hợp tác với Bộ Văn hoá
Việt Nam, trong năm 1982 - 1983 hoàn thành bộ phim truyện
“Tiếng súng Cánh đồng Chum”. Kinh phí do Việt Nam giúp Lào.
Để thực hiện bộ phim này, Việt Nam đã cử đoàn cán bộ khoảng 40
người sang Lào để tiến hành các công đoạn phần quay trên đất Lào.

. Còn được gọi là Nghị quyết “cho sản xuất bung ra”.
32
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 575

Quan hệ trong lĩnh vực hợp tác về thông tin tuyên truyền giữa hai
nước được đẩy mạnh: ngày 23 tháng 4 năm 1977, Đoàn đại biểu
Đài Phát thanh quốc gia Lào đã sang thăm, làm việc với Đài Tiếng
nói Việt Nam. Trong quá trình làm việc tại Việt Nam, hai bên đã
thoả thuận các vấn đề về việc Đài Tiếng nói Việt Nam giúp đỡ, hợp
tác với Đài Phát thanh quốc gia Lào chuyển giao cho phía Lào máy
phát sóng, các phương tiện, vật tư kỹ thuật; cử chuyên gia, cán bộ
kỹ thuật sang nghiên cứu, khảo sát, thiết kế, lắp đặt các phương tiện
kỹ thuật; đào tạo cán bộ cho Lào; cử chuyên gia biên tập sang giúp
kinh nghiệm biên tập các vấn đề về đối ngoại... Việc hợp tác, giúp
đỡ là rất cần thiết trong quá trình xây dựng và phát triển của Đài
Phát thanh quốc gia Lào.
Về hợp tác y tế, với quan điểm thống nhất không ngừng hợp
tác, chăm lo, nâng cao sức khoẻ cho nhân dân, ngăn chặn và phòng
trừ dịch bệnh, hai bên giúp đỡ nhau tổ chức mạng lưới y tế từ trung
ương đến cơ sở và trao đổi kinh nghiệm công tác vệ sinh phòng
bệnh, nhất là chống các bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, phong, lao và
bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em. Lào là xứ nhiệt đới nóng ẩm, hơn
70% diện tích là rừng núi, vừa trải qua thời kỳ chiến tranh kéo dài,
dễ phát sinh dịch bệnh lây truyền trong nhân dân. Do vậy, hàng
năm Lào đã đề nghị Việt Nam giúp đỡ không hoàn lại vài chục tấn
thuốc DDT303, máy bơm DDT, hàng triệu viên thuốc chống sốt
rét, vài triệu liều tả TAB, đậu mùa, bại liệt. Phía Việt Nam còn cử
nhiều đoàn cán bộ, chuyên gia sang Lào bồi dưỡng cán bộ y tế,
tham gia công tác phòng chữa bệnh cho nhân dân các bộ tộc Lào.
Phía Lào đã gửi nhiều cán bộ, học sinh sang đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ về y dược tại Việt Nam để nâng cao công tác chuyên
môn. Hai nước hợp tác phát triển các biện pháp chữa bệnh y học cổ
truyền, giúp nhau trong xây dựng cơ sở vật chất, trong sản xuất
576 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

dược phẩm như Xí nghiệp Dược phẩm II Hà Nội và Xí nghiệp


Dược phẩm II Viêng Chăn.
Trên lĩnh vực giáo dục, đào tạo: Sau năm 1975, nhiệm vụ cấp
bách của Đảng và Nhà nước Lào là thiết lập bộ máy chính quyền
cách mạng, ổn định kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân và
xây dựng nền giáo dục mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tại
Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào
họp tháng 12 năm 1978, đã xác định rõ công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ lý luận chính trị của Đảng là
một nhiệm vụ chiến lược cơ bản thường xuyên của Đảng, Nhà nước
của cả hai nước. Đào tạo cán bộ chủ chốt cho Đảng và Nhà nước
Lào ngày càng trở thành một lĩnh vực hợp tác quan trọng của hai
nước Việt - Lào33.
Những năm đầu mới trở thành đảng cầm quyền, bộ máy nhà
nước mới được thiết lập, cán bộ vừa thiếu vừa chưa kinh qua công
tác lãnh đạo, quản lý là một khó khăn rất lớn đối với Đảng Nhân
dân cách mạng Lào. Trong điều kiện đó, một mặt, Việt Nam cử
chuyên gia sang giúp theo yêu cầu của Lào; mặt khác, tăng cường
đào tạo đội ngũ cán bộ giúp Lào. Nhiệm vụ cách mạng mới đặt ra
vấn đề cấp bách phải đào tạo gấp nguồn cán bộ lớn có trình độ lý
luận chính trị cao cho bộ máy của Đảng và Nhà nước, các tổ chức
quần chúng nhân dân từ trung ương tới địa phương. Theo yêu cầu
của Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào về việc cử các đoàn
cán bộ cao cấp sang nghiên cứu dài hạn về kinh nghiệm của cách
mạng Việt Nam, tháng 4 năm 1978, Trung ương Đảng quyết định
thành lập Trường Nguyễn ái Quốc đặc biệt trực thuộc Ban Bí thư
Trung ương và giao cho Ban Đối ngoại Trung ương, Ban Tuyên

. Ngay từ năm 1962, theo đề nghị của Đảng Nhân dân Lào, hệ thống
33

Trường Đảng ở Việt Nam được giao thêm nhiệm vụ quốc tế quan trọng là đào
tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và cán bộ lý luận chính trị cho Đảng Nhân
dân Lào.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 577

huấn Trung ương, Ban Cán sự Đảng về công tác C phối hợp
phụ trách, chuyên bồi dưỡng cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước
Lào từ cấp phó bí thư tỉnh uỷ trở lên. Khoá học đầu tiên của trường
có khoảng 35 cán bộ lãnh đạo của Lào tham dự, thời hạn học tập
trong hai năm và do đồng chí Xuân Thuỷ - Bí thư Trung ương
Đảng trực tiếp lãnh đạo.
Đối với số cán bộ Lào thời điểm này đang học tại Trường
Nguyễn ái Quốc, Ban Bí thư chỉ đạo nhà trường và các cơ quan
hữu quan tăng cường chăm lo chu đáo việc học tập và mọi mặt
sinh hoạt để cán bộ Lào hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Đối với
số cán bộ, công nhân, sinh viên, học sinh Lào gửi sang đào tạo tại
Việt Nam với số lượng ngày càng tăng, Thủ tướng có Chỉ thị 495-
TTg về chấn chỉnh công tác nuôi dưỡng và giảng dạy đối với học
sinh Lào, yêu cầu các bộ, tổng cục, chính quyền các địa phương
nơi có các trường học được giao nhiệm vụ đào tạo, nuôi dưỡng
học sinh Lào phải quan tâm hơn nữa đến công tác này; phải thực
hiện đúng các chế độ, chính sách đối với học sinh Lào được quy
định trong các văn bản của Nhà nước, phải cải tiến nội dung,
chương trình và phương pháp giảng dạy cho sát hợp với yêu cầu
của nước Lào, đảm bảo kết quả học tập của học sinh Lào ngày
càng tốt hơn.
Tính đến cuối năm 1975, Trường Nguyễn ái Quốc 10 đã mở
chín khoá bồi dưỡng lý luận cho khoảng 500 cán bộ trung và cao
cấp của Lào, góp phần không nhỏ trong việc đào tạo nguồn cán bộ
cho Lào, là lực lượng nòng cốt lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân Lào đi đến thành công34.
Từ năm 1980, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam giao cho

34
. Báo cáo về biên giới Việt - Lào, Việt - Trung (năm 1976), phông Bộ Nội
vụ, hồ sơ số 3867, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà
nước.
578 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

Trường Nguyễn ái Quốc mở lớp đào tạo 24 cán bộ lý luận chương


trình cao cấp thời gian hai năm rưỡi. Trường Nguyễn ái Quốc 10,
đào tạo 120 cán bộ tuyên huấn theo chương trình trung cấp về lý
luận cơ bản cũng trong thời gian hai năm rưỡi. Đồng thời, Việt
Nam cử nhiều chuyên gia đầu ngành có kinh nghiệm sang giúp Lào
xây dựng chương trình giảng dạy cho Trường Đảng cao cấp của
Đảng và Nhà nước Lào ở Thà Ngòn; giúp Lào củng cố và phát triển
hệ thống trường Đảng ở Trung ương và các tỉnh để đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ tuyên huấn.
Công tác giúp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ những năm đầu sau
khi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời, của Đảng, Nhà nước
Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng và phát triển
đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng Lào.
Ghi nhận kết quả của sự hợp tác giúp Lào từ năm 1976 đến
1980, Đảng và Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã tặng
thưởng Huân chương Tự do cho cán bộ các cơ quan trực tiếp hợp
tác và giúp Lào.
Hợp tác giữa hai ngành giáo dục Việt - Lào thời kỳ này được phát
triển theo hướng trao đổi chuyên gia, trao đổi các đoàn tham quan,
nghiên cứu chuyên đề, đặc biệt là giúp nhau trong việc mở trường,
biên soạn nội dung chương trình và công tác giảng dạy. Việt Nam
cử các đoàn nghiên cứu về công tác giáo dục Lào trong giai đoạn
mới, nghiên cứu chiến lược dài hạn, khảo sát, tổng kết hiệu quả
công tác đào tạo lưu học sinh ở Việt Nam, nghiên cứu xây dựng các
trường học dân tộc nội trú, chương trình học và vấn đề biên soạn
sách giáo khoa các cấp. Về phía Lào, đưa các đoàn lãnh đạo giáo
dục các tỉnh sang Việt Nam tham quan, trao đổi kinh nghiệm, đoàn
trí thức Lào, đoàn Bộ Giáo dục Lào thăm các trường hữu nghị, đi
sâu vào các ngành học, đào tạo học sinh giỏi. Hệ thống các trường
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 579

đại học, trung cấp kỹ thuật của Việt Nam giúp đào tạo hàng nghìn
kỹ sư, cán bộ, công nhân các ngành kinh tế kỹ thuật góp phần xây
dựng đội ngũ cán bộ phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước
Lào. Số cán bộ, học sinh Lào học tập tại Việt Nam tính đến năm
1976 lên tới 6.492 người.
Trong những năm 1976 - 1981, tuy cả hai nước còn phải đương
đầu với nhiều khó khăn về đối nội và đối ngoại, nhưng với tinh
thần và quyết tâm củng cố, tăng cường mối quan hệ đặc biệt, tình
đoàn kết hữu nghị truyền thống giữa hai dân tộc. Về phía Việt
Nam, với phương châm nỗ lực đáp ứng cao nhất các yêu cầu khách
quan của cách mạng Lào, với hết khả năng của mình, giúp cơ bản,
toàn diện, lâu dài, một cách thích hợp với điều kiện mới, sự hợp tác
giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước đã mở rộng, phát triển toàn diện
trên mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Về phía Lào, đã nỗ lực
cố gắng phát huy nội lực, tự lập, tự cường để tiếp thu sự giúp đỡ
của Việt Nam và một số nước anh em, vượt khó khăn, từng bước
vươn lên tự đảm đương công việc của mình trong ổn định kinh tế -
xã hội thời kỳ sau chiến tranh. Đồng thời Đảng Nhân dân cách
mạng Lào và nhân dân các bộ tộc Lào đã tiếp tục kế thừa, phát huy
truyền thống đoàn kết thuỷ chung giữa hai dân tộc, củng cố lòng tin
vào Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam, từng bước làm thất bại
âm mưu chia rẽ của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ chủ
quyền, an ninh của cả hai nước, thắt chặt thêm tình đoàn kết Lào -
Việt Nam trong điều kiện mới.

II. QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU TÌM TÒI,
KHẢO NGHIỆM CON ĐƯỜNG ĐỔI MỚI (1982 - 1986)

1. Quan điểm và chủ trương của hai Đảng, hai Nhà nước
580 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam trong tình hình mới
Những năm đầu thập niên 1980, sau chiến sự biên giới, Việt
Nam ở trong tình trạng phải đối phó với cuộc chiến tranh phá
hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch hòng gây hoang mang
trong nhân dân, làm giảm lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vai
trò quản lý của Nhà nước. Lợi dụng vấn đề Campuchia, các thế
lực thù địch, phản cách mạng trên thế giới tìm mọi cách bao vây,
cô lập Việt Nam trên trường quốc tế. Mỹ vẫn tiếp tục thi hành
chính sách bao vây cấm vận. Tình hình trong khu vực vẫn diễn
biến phức tạp, bất lợi cho quá trình xây dựng và phát triển đất
nước.
Đây là những khó khăn, thách thức thu hút phần lớn nhân lực
và vật lực của Việt Nam trong thời điểm này.
ở trong nước, Việt Nam cũng đứng trước những khó khăn gay
gắt. Những năm 1976 - 1980, Việt Nam đẩy mạnh chủ trương
công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ tiền đề cần thiết. Đặc biệt là
quá trình lãnh đạo đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội sau chiến
tranh đã phạm phải một số sai lầm, hạn chế, vừa nóng vội, vừa
buông lỏng trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, chậm đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế khi không còn phù hợp. Từ cuối thập
niên 1970 trở đi, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước xã
hội chủ nghĩa dần bị thu hẹp, viện trợ bị cắt giảm và đến giữa thập
niên 1980 thì hầu như không còn. Cơ chế quản lý tập trung quan
liêu bao cấp tuy có tác dụng và cần thiết trong thời chiến, nhưng
do duy trì quá lâu nên đã bộc lộ sự trì trệ ngày càng trầm trọng.
Sản xuất nông nghiệp giảm sút, sản xuất công nghiệp trì trệ, năng
suất, chất lượng thấp; lưu thông phân phối rối ren. Đời sống nhân
dân ngày càng lâm vào khó khăn. Năng lực hiệu quả lãnh đạo,
quản lý kinh tế yếu kém...
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 581

Trên đất nước Lào anh em, đến đầu những năm 80 thế kỷ
XX, với sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, sự
giúp đỡ và hợp tác đoàn kết chặt chẽ với Việt Nam, tình hình kinh
tế - xã hội đang dần đi vào ổn định. Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào đã hoàn thành kế hoạch ba năm (1978 - 1980) khôi phục kinh
tế sau chiến tranh. Âm mưu và hoạt động phiến loạn của bọn phản
động trong nước được các thế lực phản động nước ngoài bảo trợ bị
chặn đứng, độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự xã hội được
giữ vững; chế độ dân chủ nhân dân, chính quyền cách mạng non trẻ
được bảo vệ.
Tuy nhiên, cho đến những năm đầu thập niên 1980, Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào vẫn phải đối phó với chính sách thù địch
của lực lượng phản động ở Thái Lan luôn muốn phá hoại cách
mạng Lào, kìm hãm Lào trong thế yếu. Tháng 7 năm 1982, Thái
Lan trực tiếp hỗ trợ cho lực lượng phản động Phumi Nòxavẳn lập
cái gọi là “Chính phủ liên minh giải phóng dân tộc”; không ngừng
dùng sức ép chính trị, kinh tế, quân sự đòi sửa đổi lại đường biên
giới hiện tại. Trong hai năm 1983, 1984, Thái Lan liên tục tập trung
nhiều lực lượng quân sự ở biên giới với Lào, tiến hành tập trận với
mục tiêu giả định là Viêng Chăn, tiến hành các hành động xâm
phạm lãnh thổ Lào. Tháng 6 năm 1984, Thái Lan đã đưa quân đội
mở đợt tấn công chiếm ba bản của Lào là Bạn Mầy, Bạn Cang và
Bạn Xávàng thuộc huyện Pạc Lai, tỉnh Xaynhabuli35 và duy trì sự
chiếm đóng ở đó đến năm 1985 vẫn chưa rút quân. Cũng như Việt
Nam, Lào phải đối mặt với các kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt
của các thế lực phản động khu vực và quốc tế, tác động tiêu cực
đến sự ổn định kinh tế - xã hội, mặt khác tạo sức ép nhằm tách Lào

35
. Xem Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2005, tr.218.
582 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

ra khỏi Việt Nam, khỏi quỹ đạo xã hội chủ nghĩa, chia rẽ sự đoàn
kết giữa ba nước Đông Dương.
Về kinh tế, Thái Lan gây khó khăn cho Lào bằng việc tuỳ tiện
đóng mốc biên giới; đưa ra những hạn chế đơn phương về các loại
hàng quá cảnh, giữ lại hàng viện trợ của các nước giúp Lào; gây rối
loạn thị trường bằng việc in tiền giả tung sang phá kinh tế Lào.
Cũng như Việt Nam, thời gian này Lào rất cần sự giúp đỡ, viện
trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa, nhưng thời điểm này các nước xã
hội chủ nghĩa trên thế giới thực hiện cơ chế cũ cũng đang lâm vào
trì trệ, khủng hoảng. Tác động tiêu cực của phong trào cách mạng
thế giới nói chung và của các nước xã hội chủ nghĩa nói riêng đã
trở thành yếu tố bất lợi cho cách mạng Lào. Đứng trước tình hình
ấy, từ những năm cuối thập niên 70 thế kỷ XX, Lào đề ra đường lối
chuyển từ nền kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên sang kinh tế sản
xuất hàng hoá, khuyến khích sản xuất, lưu thông nên đã hạn chế
tình trạng cấm chợ, ngăn sông, mở rộng thương mại khắc phục sự
khan hiếm hàng hoá. Đây là giai đoạn Lào từng bước thử nghiệm
cơ chế quản lý kinh tế mới ở một số cơ sở quốc doanh. Việt Nam
cũng đang trong quá trình từng bước nghiên cứu tìm tòi, khảo
nghiệm để đổi mới cơ chế quản lý từ quan liêu bao cấp sang hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa: thực hiện khoán trong nông
nghiệp, giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp trong công nghiệp, v.v.
nhằm giải quyết những khó khăn về kinh tế - xã hội, cải thiện đời
sống nhân dân, tiếp tục tìm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù
hợp với đặc điểm của dân tộc Việt Nam và xu thế chung của thế
giới. Tình hình phát triển của mỗi nước tác động tới mối quan hệ
hợp tác trong điều kiện mới.
Quan hệ hợp tác giữa hai nước trước yêu cầu mới của sự phát
triển trong từng nước đã từng bước chuyển dần từ hợp tác từng vụ
việc theo yêu cầu của Lào sang hợp tác theo chương trình kế hoạch
hàng năm giữa hai Chính phủ, bước đầu nghiên cứu kế hoạch hợp
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 583

tác dài hạn giữa hai nước. Chính vì vậy, quan hệ hợp tác kinh tế giữa
hai nước bắt đầu có sự thay đổi: từ viện trợ và cho vay là chủ yếu
sang giảm dần viện trợ và cho vay, hai nước đẩy mạnh hợp tác sản
xuất và kinh doanh bình đẳng cùng có lợi. Thời gian này, Lào đề ra
công thức hợp tác: Tài nguyên Lào, lao động kỹ thuật Việt Nam, vốn
hợp tác hoặc vay của nước thứ ba. Trong bối cảnh đó, quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam chuyển sang một nấc thang
mới, có sự thay đổi dần về chất phù hợp với tình hình mới.
Bước sang năm 1982, một sự kiện quan trọng đã diễn ra trong
đời sống xã hội Việt Nam. Đó là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
V Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 3 năm 1982). Đại hội xác định
phương hướng, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân
dân Việt Nam trong kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội tiếp theo.
Trong đó đã bắt đầu điều chỉnh quy mô, tốc độ, chặng đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là xác định chặng đường đầu
tiên quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với những nhiệm vụ
cơ bản, trước mắt phù hợp với đặc điểm xuất phát của nền kinh tế
Việt Nam. Trong đó, xác định đối với Việt Nam phải coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu. Về đường lối đối ngoại: trên cơ sở
phân tích tình hình thế giới và nhìn lại chính sách đối ngoại trong
thời gian trước 1982, Đại hội xác định đường lối đối ngoại của
Đảng, Nhà nước Việt Nam trong thời gian tới là: Đoàn kết và hợp
tác toàn diện với Liên Xô; quan hệ đặc biệt với Lào, Campuchia;
thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa; chủ trương
quan hệ bình thường với tất cả các nước không phân biệt chế độ
chính trị - xã hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng
và cùng có lợi.
Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Lào do Tổng Bí thư, Thủ
tướng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Cayxỏn Phômvihản dẫn đầu
sang dự Đại hội lần thứ V Đảng Cộng sản Việt Nam, đã có cuộc hội
đàm với Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 26 tháng 3
584 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

năm 1982). Hai bên đã thông báo cho nhau tình hình mỗi nước, trao
đổi các vấn đề mà hai Đảng cùng quan tâm. Hai bên hoàn toàn nhất
trí về các vấn đề được nêu trong cuộc hội đàm và nhất trí rằng tình
đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện giữa hai Đảng và nhân
dân hai nước đang không ngừng được củng cố và phát triển36.
Một tháng sau (tháng 4 năm 1982), Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III Đảng Nhân dân cách mạng Lào được triển khai tại Thủ
đô Viêng Chăn. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng
chí Trường Chinh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam dẫn đầu sang dự Đại
hội.
Báo cáo chính trị của Đại hội do đồng chí Cayxỏn Phômvihản
trình bày đã nêu rõ đặc điểm của cách mạng Lào trong giai đoạn tới
là: “Lào cùng với Việt Nam và Campuchia đã trở thành tiền đồn
của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam á, vì vậy cuộc đấu tranh để
bảo vệ độc lập, chủ quyền và xây dựng chế độ mới là rất quyết liệt
và lâu dài”37.
Về quan hệ với Việt Nam, Báo cáo chính trị chỉ rõ: “Trước sau
như một, chúng ta làm hết sức mình để củng cố và tăng cường tình
đoàn kết chiến đấu, mối quan hệ đặc biệt, sự hợp tác toàn diện Việt -
Lào, Việt - Lào - Campuchia trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và
chủ nghĩa quốc tế vô sản, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, bình đẳng tin cậy và giúp đỡ lẫn nhau trên tình
đồng chí”. Báo cáo khẳng định phải tiếp tục phát triển mối quan hệ
Lào - Việt lên một bước mới vì lợi ích sống còn của mỗi nước.
Đường lối đối ngoại của hai Đảng được khẳng định trong

. Tại Lào, một cuộc mít tinh được Hội Hữu nghị Lào - Việt tổ chức tại Thủ đô
36

Viêng Chăn (ngày 1 tháng 4 năm 1982), nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và
Nhà nước Lào đã tới dự để chào mừng thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V Đảng Cộng sản Việt Nam.
37
. Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Sđd, tr.210.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 585

Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đại hội III Đảng Nhân dân cách mạng
Lào, một lần nữa khẳng định sự tất yếu khách quan phải tăng
cường quan hệ đoàn kết đặc biệt, hữu nghị hợp tác toàn diện giữa
hai Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước trong giai đoạn cách
mạng mới.
Tiếp tục tăng cường phối hợp trên lĩnh vực đối ngoại, để có sự
nhất trí trong lập trường quan điểm về vấn đề này, trong năm 1982,
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước Việt Nam - Lào -
Campuchia được tổ chức thường kỳ như đã thoả thuận. Hội nghị
lần thứ năm họp ngày 16 và 17 tháng 2 năm 1982 tại Phnôm Pênh
và Hội nghị lần thứ sáu họp ngày 6 và 7 tháng 7 năm 1982 tại thành
phố Hồ Chí Minh. Tại các hội nghị này, ba bộ trưởng đã thảo luận
và nhất trí quan điểm đối với một số vấn đề quan trọng về tình hình
thế giới và khu vực.
Để đáp ứng yêu cầu giúp Lào trong tình hình mới, Ban Bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam ra Quyết định số 08-QĐ/TW ngày 22
tháng 10 năm 1982 về chức năng, nhiệm vụ của Ban Công tác giúp
Lào, trong đó quyết định chuyển Ban Cán sự Đảng về công tác giúp
Lào thành Ban Công tác giúp Lào, cũng như về chức năng, nhiệm
vụ và tổ chức bộ máy của Ban. Tiếp đó, ngày 25 tháng 10 năm
1982, Ban Bí thư có Quyết định 09-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ
và tổ chức của Uỷ ban Hợp tác kinh tế, văn hoá Việt Nam - Lào -
Campuchia được hình thành từ Uỷ ban Liên lạc kinh tế, văn hoá
với nước ngoài.
Sau một thời gian chuẩn bị, trong hai ngày 22 và 23 tháng 2
năm 1983, Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương đã diễn ra tại
Thủ đô Viêng Chăn. Tham dự Hội nghị có các đồng chí lãnh đạo cấp
cao của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Hội nghị tập trung
thảo luận về tình hình ba nước Đông Dương, tình hình quốc tế và
586 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

khu vực; xem xét đề ra những nguyên tắc, phương hướng, biện
pháp nhằm tăng cường đoàn kết và hợp tác toàn diện giữa ba nước
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của mỗi nước, tạo
nhân tố quan trọng đối với hoà bình và ổn định ở Đông Nam á và
thế giới; vấn đề quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia.
Hội nghị đã nhất trí đề ra bốn nguyên tắc cơ bản chỉ đạo mối
quan hệ giữa ba nước38.
Hội nghị đã đưa ra hai bản tuyên bố: Tuyên bố chung của Hội
nghị cấp cao ba nước, khẳng định mối quan hệ hữu nghị giữa ba
nước trong lịch sử hoàn toàn tốt đẹp, và trong những năm gần đây
ngày càng được củng cố; Tuyên bố về vấn đề quân tình nguyện ở
Campuchia nêu rõ chính sách của Campuchia và Việt Nam quyết
bảo vệ công cuộc hồi sinh của nhân dân Campuchia, mong muốn
của hai nước góp phần vào sự nghiệp hoà bình và ổn định ở khu
vực Đông Nam á.
Những nguyên tắc và các bản tuyên bố được Hội nghị thông

. Một là, đoàn kết hợp tác giữa ba nước nhằm giúp đỡ nhau xây dựng chủ
38

nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước, góp phần bảo vệ hoà bình và ổn định ở Đông
Nam á và trên thế giới.
Hai là, tăng cường tình đoàn kết và sự hợp tác trên cơ sở chủ nghĩa Mác -
Lênin và chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa. Mọi vấn đề thuộc quan hệ giữa ba
nước sẽ được giải quyết bằng thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, với tinh thần hiểu biết lẫn nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của mỗi nước
và vì lợi ích chung của ba dân tộc.
Ba là, phát triển sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau giữa hai bên hoặc ba
bên về mọi mặt trên tinh thần hữu nghị anh em, hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng
cùng có lợi.
Bốn là, tăng cường tình đoàn kết giữa ba dân tộc, chống mọi âm mưu chia rẽ
của kẻ thù, mọi biểu hiện của tư tưởng dân tộc nước lớn và dân tộc hẹp hòi. Không
ngừng giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ba nước về tình hữu nghị truyền
thống và quan hệ đặc biệt giữa nhân dân ba nước, chống mọi hành động có hại cho
tình hữu nghị giữa nhân dân ba nước.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 587

qua đã đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ giữa ba nước,
qua đó tăng cường đoàn kết với Liên Xô và các nước trong cộng
đồng xã hội chủ nghĩa, với các lực lượng cách mạng và tiến bộ,
cùng đấu tranh vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Để phù hợp với tình hình đã thay đổi, ngày 11 tháng 4 năm 1983,
Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết số 10-NQ/TW
về tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia
trong giai đoạn mới.
Nghị quyết xác định đoàn kết với cách mạng Lào, Campuchia
là đường lối đối ngoại nhất quán, là nghĩa vụ quốc tế hàng đầu của
Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Đối với nhiệm vụ đoàn kết,
hợp tác cách mạng Lào, Campuchia, tư tưởng chủ đạo của Đảng,
Nhà nước Việt Nam là: luôn nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, coi
sự nghiệp cách mạng của Lào như của chính mình; tự nguyện hết
lòng gánh vác phần trách nhiệm của mình; có sự phối hợp chặt chẽ
về đường lối, chiến lược với Đảng Lào, tôn trọng, lắng nghe ý kiến
của Lào; giúp Lào tăng cường thực lực cách mạng về mọi mặt mà
trước hết là về xây dựng đảng và xây dựng đội ngũ cán bộ; phát
triển sự hợp tác một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực, trong đó coi
trọng hợp tác kinh tế và văn hoá, tạo nền tảng để củng cố liên minh
ba nước.
Song song với hợp tác ba bên, hợp tác hai bên Việt - Lào vẫn
luôn được lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm. Tháng 7
năm 1983, Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng
Nhân dân cách mạng Lào đã tiến hành hội đàm, thông báo tình hình
của mỗi nước; trao đổi về tình hình thế giới và khu vực; xem xét
kết quả hợp tác về các mặt giữa hai Đảng, hai nước trong thời gian
qua; thống nhất cần tăng cường và mở rộng hơn nữa hợp tác toàn
diện giữa hai nước.
588 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

Cùng chung nguyện vọng và quan điểm với Đảng Cộng sản
Việt Nam, ngày 4 tháng 9 năm 1983, Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào ra Nghị quyết số 33 về
tăng cường đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Lào - Việt Nam -
Campuchia và đã tổ chức Hội nghị cán bộ toàn quốc nghiên cứu
quán triệt Nghị quyết này.
Cuối tháng 1 năm 1984, căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng của hai nước trong giai đoạn hiện tại, Bộ Chính trị của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào tiến hành hội đàm, hoàn toàn nhất trí rằng cần phải tăng cường
và mở rộng hơn nữa hợp tác toàn diện giữa hai nước, nhất là hợp
tác kinh tế, văn hoá; cùng xác định phương hướng, nội dung hợp
tác về mọi mặt giữa hai nước, đặc biệt là các vấn đề có tính chất
chiến lược về kinh tế.
Những quyết định mà cuộc hội đàm giữa hai Bộ Chính trị đưa
ra sẽ có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế của mỗi nước trong
kế hoạch năm năm 1985 - 1990 cũng như về lâu dài và phù hợp với
tinh thần Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt
Nam. Ngày 9 tháng 2 năm 1984, Ban Bí thư Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam ra Chỉ thị số 37-CT/TW về việc tổ chức thực
hiện những thoả thuận giữa hai Bộ Chính trị.
Chỉ thị lưu ý các ngành, các địa phương cần quán triệt tư tưởng
chỉ đạo và tổ chức thực hiện đầy đủ những nhiệm vụ mà Nghị
quyết số 10 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra,
đồng thời nhấn mạnh: phương thức hợp tác và giúp đỡ giữa hai
nước chủ yếu vẫn là ngành hợp tác và giúp đỡ ngành, địa phương
hợp tác và giúp đỡ địa phương, do đó lãnh đạo các ngành, các địa
phương, các địa phương kết nghĩa với các tỉnh Lào phải coi trọng
nhiệm vụ giúp Lào, có kế hoạch mở rộng hợp tác tiến đến liên kết
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 589

hợp tác chặt chẽ với nhau một cách hiệu quả, thiết thực. Ban Bí thư
giao cho Ban Công tác giúp Lào, Uỷ ban Hợp tác kinh tế và văn
hoá với Lào và Campuchia những nhiệm vụ cụ thể để thực hiện tốt
thoả thuận giữa hai Bộ Chính trị; giao cho Bộ Quốc phòng, Bộ Nội
vụ nghiên cứu, triển khai các vấn đề hợp tác về an ninh và phòng
thủ giữa hai nước - xây dựng kế hoạch bảo vệ đất nước, bảo vệ an
ninh chung... Để xúc tiến thực hiện Nghị quyết số 10 của Bộ Chính
trị Đảng Cộng sản Việt Nam và thoả thuận giữa ba Đảng, ba nước
tại Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương, ngày 28 tháng 5 năm
1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị quyết số 80-HĐBT về
việc tăng cường hợp tác kinh tế, văn hoá với Lào, Campuchia trong
giai đoạn mới. Về hình thức có hợp tác ba bên, có hợp tác hai bên,
từ hợp tác từng việc tiến tới phối hợp kế hoạch và liên kết kinh tế,
kết hợp xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá với củng cố quốc
phòng và an ninh.
Theo tinh thần Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng, ngay trong
tháng 6 năm 1984, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào, Cộng hòa Nhân dân Campuchia đã ký thoả
thuận hợp tác trên lĩnh vực ngoại thương.
Xác định quan hệ hợp tác giữa ngành với ngành, địa phương
với địa phương là phương thức chủ yếu trong quan hệ hợp tác giữa
ba nước cũng như giữa Việt Nam - Lào, ngày 20 tháng 6 năm 1984,
Ban Bí thư ra Chỉ thị số 45-CT/TW về tăng cường quan hệ hợp tác
giữa các ngành và địa phương của ta với các ngành và địa phương
của Lào, Campuchia. Chỉ thị nêu ra những yêu cầu trong quan hệ
hợp tác; những nội dung trong quan hệ hợp tác; về tổ chức thực
hiện và một số quy định trong quan hệ công tác nhằm giúp cho các
ngành, các địa phương làm tốt nhiệm vụ hợp tác, giúp đỡ các ngành
và địa phương Lào.
590 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

Riêng đối với các địa phương có chung biên giới cần thực hiện
tốt Hiệp định về quy chế biên giới, cùng nhau củng cố cơ sở chính
trị, bảo đảm an ninh, xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị.
Về việc tổ chức thực hiện, Chỉ thị lưu ý các ngành, địa phương
phải căn cứ vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
phải nghiên cứu các vấn đề mà Lào đề ra để có chương trình, nội
dung hợp tác và biện pháp thực hiện cho sát với khả năng và điều
kiện của Việt Nam và Lào; phải chủ động phối hợp chặt chẽ với
phía Lào để theo dõi việc thực hiện các vấn đề đã ký kết, có tổng
kết, rút kinh nghiệm và phải xem việc hợp tác với Lào là một bộ
phận quan trọng thường xuyên trong nhiệm vụ chính trị của ngành,
của địa phương.
Cuối tháng 1 năm 1985, diễn ra cuộc hội đàm giữa Bộ Chính
trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng
Lào, mà một phần việc là đánh giá kết quả thực hiện thoả thuận
giữa hai Bộ Chính trị tháng 1 năm 1984. Đồng thời, hai bên đã bàn
thảo và nhất trí những công việc chính cần làm trong những năm
trước mắt nhằm tăng cường liên minh, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau
giữa hai Đảng, hai nước. Ngày 20 tháng 5 năm 1985, Hội đồng Bộ
trưởng Việt Nam ra Nghị quyết số 138-HĐBT về tổ chức và phân
công nhằm thực hiện các nhiệm vụ về liên kết, hợp tác kinh tế trong
năm 1985 và những năm tới theo thoả thuận giữa hai Bộ Chính trị
hai Đảng (tháng 1 năm 1985).
Nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả thoả thuận giữa hai
Bộ Chính trị và Nghị quyết số 138-HĐBT của Hội đồng Bộ
trưởng, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 63-CT/TW ngày 1 tháng 6 năm
1985 về việc thực hiện các thoả thuận giữa Bộ Chính trị Đảng
Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng
Lào, tháng 1 năm 1985, trong đó Ban Bí thư yêu cầu các địa
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 591

phương, các ngành có liên quan có kế hoạch, biện pháp cụ thể để


thực hiện Nghị quyết số 138-HĐBT một cách khẩn trương. Các
cấp uỷ địa phương tăng cường lãnh đạo công tác kết nghĩa, phát
huy nỗ lực, sáng tạo của địa phương để giúp Lào đạt hiệu quả
cao nhất.

2. Hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trên
các lĩnh vực được triển khai trong bối cảnh tìm tòi, khảo
nghiệm, từng bước đổi mới (1982 - 1986)
Từ năm 1982, nền kinh tế Việt Nam và Lào đã bắt đầu có sự
chuyển biến đổi mới từng bước; tình hình chính trị - kinh tế - xã hội
của hai nước bắt đầu ổn định, công tác khôi phục kinh tế sau chiến
tranh căn bản đã hoàn thành. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
V Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 3 năm 1982) và Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tháng 4
năm 1982), cả hai nước từng bước chuyển mạnh sang trọng tâm
phát triển sản xuất nông nghiệp, đổi mới từng bước các thành phần
kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, nhằm xây dựng kinh tế, cải thiện
đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá cho nhân dân, thu hẹp dần
khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước trong khu vực.
Cùng với sự chuyển biến đổi mới từng phần về cơ chế quản lý kinh
tế, quan hệ hợp tác giữa hai nước cũng bắt đầu có sự thay đổi: từ
viện trợ và cho vay là chủ yếu sang giảm dần viện trợ và cho vay,
đẩy mạnh hợp tác sản xuất và kinh doanh bình đẳng cùng có lợi.
Hợp tác về chính trị: Hai Đảng, hai Nhà nước khẳng định sự
tất yếu khách quan tăng cường mối quan hệ đặc biệt, hợp tác toàn
diện trong giai đoạn mới, có sự đồng thuận, phối hợp tổ chức thực
hiện các đường lối, chủ trương hợp tác giữa hai Đảng, hai Nhà
nước, có sự tổng kết, đánh giá thường niên kết quả thực hiện.
Sau 10 năm giành được độc lập tự do cho dân tộc, chế độ dân
592 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

chủ nhân dân được thiết lập và ngày càng chứng tỏ sức sống của
mình trên đất nước Lào anh em, cũng là năm Đảng Nhân dân cách
mạng Lào tròn 30 tuổi, quan hệ giữa hai Đảng, hai nước Việt -
Lào ngày càng gắn bó khăng khít. Nhiều hoạt động do các tổ chức
Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân tổ chức đã diễn ra rất sôi
nổi ở Việt Nam. Các cuộc mít tinh kỷ niệm được tổ chức trọng thể
tại thủ đô, ở các tỉnh kết nghĩa với các tỉnh Lào... Các phương tiện
thông tin đại chúng, báo chí, đài phát thanh và truyền hình tăng
cường các hoạt động tuyên truyền, giới thiệu sâu rộng khắp nơi về
Đảng Nhân dân cách mạng Lào, về những thắng lợi to lớn của nhân
dân Lào trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, về những thành tựu
10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân Lào, về
tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa Đảng
và quân đội, nhân dân hai nước, về đất nước và con người Lào...
góp phần nâng cao sự hiểu biết, tình đoàn kết, ủng hộ lẫn nhau giữa
cán bộ, nhân dân hai nước. Nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, đại diện các cơ quan, đoàn thể ở Trung ương và Hà Nội, đại
biểu các lực lượng vũ trang và nhân dân thủ đô, Đại sứ đặc mệnh
toàn quyền Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào tại Việt Nam đến dự
các cuộc mít tinh kỷ niệm và chúc mừng toàn thể đảng viên và
nhân dân các dân tộc Lào anh em nhân ngày lịch sử vẻ vang này
của Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Trong bức điện mừng của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam gửi Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, có đoạn viết:
“Mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt
nền móng đầu tiên và dày công vun đắp ngày càng không ngừng
được củng cố tăng cường và trở thành sức mạnh vô địch, không kẻ
thù nào phá vỡ nổi. Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương và
những nghị quyết của hai Đảng về tăng cường quan hệ Việt Nam -
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 593

Lào gần đây có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng, đánh dấu
một bước phát triển mới của sự liên minh chiến đấu và hợp tác
toàn diện giữa Việt Nam - Lào... Chúc tình đoàn kết chiến đấu, tình
hữu nghị vĩ đại và sự hợp tác toàn diện giữa hai Đảng và nhân dân
hai nước chúng ta đời đời bền vững”39.
Để giáo dục, quán triệt sâu sắc về quan hệ Lào - Việt Nam,
Đảng Nhân dân cách mạng Lào có Nghị quyết chuyên đề về tăng
cường, bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam, coi quan hệ
Lào - Việt là một tiêu chuẩn về đạo đức của cán bộ, đảng viên. Các
tổ chức đoàn thể giữa hai nước đã tổ chức nhiều hình thức thể hiện
quyết tâm cao của đường lối đối ngoại hai nước trong điều kiện lịch
sử mới, vì lợi ích của hai quốc gia và vì sự ổn định phát triển của
khu vực.
Nhiều cuộc trao đổi, toạ đàm các đoàn cấp cao hai Đảng và hai
Nhà nước được tổ chức, nhằm thông báo cho nhau về tình hình mỗi
nước; trao đổi ý kiến tiếp tục phát triển và củng cố mối quan hệ
giữa hai nước; trao đổi ý kiến về các vấn đề khu vực và quốc tế mà
hai bên cùng quan tâm. Chủ tịch nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Lào Xuphanuvông luôn nêu những thành tựu đạt được từ sự hợp tác
toàn diện giữa Việt Nam và Lào, và khẳng định đoàn kết, hợp tác
tạo nên sức mạnh to lớn để hai dân tộc vượt qua mọi trở ngại, đánh
thắng mọi kẻ thù. Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào làm hết sức
mình để không ngừng củng cố và tăng cường mối quan hệ đặc biệt
Việt - Lào.
Năm 1985, nhân dịp thăm hữu nghị chính thức Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Lào của Đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hai bên đã ra Tuyên bố chung Việt
Nam - Lào, khẳng định quyết tâm củng cố hơn nữa tình hữu nghị vĩ

39
. Báo Nhân dân, số 11220, ngày 22 tháng 3 năm 1985.
594 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

đại và tình đoàn kết chiến đấu truyền thống, đồng thời hai bên cho
rằng cần mở rộng quy mô và nâng cao tính hiệu quả của sự hợp tác
nhằm đáp ứng tốt hơn nữa những yêu cầu phát triển kinh tế của hai
nước.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ
đất nước của mỗi nước, sự hợp tác, sự nhất trí cao về lập trường,
quan điểm giữa ba nước cũng như giữa Việt Nam và Lào trên
lĩnh vực đối ngoại ngày càng được củng cố, tăng cường thông
qua các hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam - Lào -
Campuchia được tiến hành mỗi năm hai lần: Hội nghị Bộ trưởng
ngoại giao ba nước lần thứ 10 (tháng 1 năm 1985), lần thứ 11
(tháng 8 năm 1985), lần thứ 12 (tháng 1 năm 1986) và lần thứ 13
(tháng 8 năm 1986).
Đối với vấn đề Campuchia, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Cộng hòa Nhân dân Campuchia khẳng định tiếp tục rút
quân tình nguyện trong năm 1986 và hoàn thành vào năm 1990. Ba
nước tiếp tục khẳng định lập trường năm điểm và các đề nghị đã
nêu trong Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước Đông Dương lần
thứ 10 và 11. Hội nghị đi đến thống nhất cần phân biệt hai mặt của
một giải pháp chính trị về vấn đề Campuchia: mặt nội bộ và mặt
quốc tế. Việc giải quyết vấn đề nội bộ của Campuchia do nhân dân
Campuchia tự giải quyết, không có sự giải quyết từ bên ngoài. Việc
giải quyết mặt quốc tế của vấn đề Campuchia bao gồm thoả thuận
về việc rút quân tình nguyện Việt Nam đi đôi với việc chấm dứt
viện trợ, vũ khí và dùng lãnh thổ Thái Lan làm “đất thánh” cho bọn
Pôn Pốt và các lực lượng Khơme phản động khác, chấm dứt sự can
thiệp từ bên ngoài vào công việc nội bộ của Campuchia. Chấm dứt
các hoạt động quân sự thù địch của nước ngoài chống Cộng hoà
Nhân dân Campuchia.
Đi đôi với giải pháp hoà bình cho vấn đề Campuchia, ba nước
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 595

thoả thuận lập một khu vực hoà bình, ổn định ở Đông Nam á trong
đó các nước có chế độ xã hội khác nhau cùng tồn tại hoà bình. Đối
với Thái Lan, ba nước mong muốn và sẵn sàng đàm phán để giải
quyết các vấn đề tồn tại giữa các bên vì hoà bình và ổn định ở
Đông Nam á.
Sự thoả thuận các hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước trong
bốn kỳ họp liên tiếp trong hai năm (1985 - 1986) đã thể hiện sự
nhất trí cao về lập trường, quan điểm giữa ba nước cũng như giữa
Việt Nam và Lào trên lĩnh vực đối ngoại ngày càng được củng cố,
tăng cường.
Mối quan hệ hợp tác về chính trị trong giai đoạn này thể hiện ở
sự nỗ lực vươn lên của Lào để cùng Việt Nam hiện thực hoá mục
tiêu mà cả hai nước cùng lựa chọn: con đường xã hội chủ nghĩa.
Hai nước cùng nhau học hỏi, trao đổi kinh nghiệm của quá trình
tìm tòi khảo nghiệm các bước đi, giải pháp đổi mới từng phần về cơ
chế quản lý kinh tế, cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu các
ngành kinh tế, vấn đề lưu thông phân phối, vấn đề khoán... phù hợp
với đặc điểm cụ thể của mỗi nước. Lào trao đổi kinh nghiệm với
Việt Nam về chủ trương từng bước xóa bỏ tình trạng cấm chợ, ngăn
sông, mở rộng thương mại khắc phục sự khan hiếm hàng hoá, về
lưu thông phân phối...
Đối với Việt Nam, đây là thời điểm cả nước sôi động tìm tòi cơ
chế mới trong quản lý kinh tế. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương 8 (khóa V) tháng 6 năm 1985 quyết định xóa bỏ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, lấy giá - lương - tiền làm khâu đột phá; và
Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế của Bộ
Chính trị (tháng 8 năm 1986)40 là kết quả của quá trình đổi mới

40
. Tổng kết 20 năm đổi mới, Việt Nam coi Hội nghị Trung ương 8 khóa V
596 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

từng phần trong tư duy kinh tế ở Việt Nam. Những kết quả đó cũng
tác động đến quá trình tìm tòi, khảo nghiệm con đường quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Các đồng
chí trong Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào tích cực cố
gắng tìm tòi học hỏi về kinh nghiệm, nghiên cứu lý luận để hoàn
thiện chế độ dân chủ nhân dân, tạo tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã
hội trong điều kiện cụ thể của Lào. Các ủy viên Bộ Chính trị của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào thường xuyên sang nghiên cứu
thực tiễn tìm tòi khảo nghiệm của Việt Nam. Đây cũng là thời điểm
Lào tăng cường số lượng đội ngũ cán bộ lý luận sang đào tạo, bồi
dưỡng ở Việt Nam. Đồng chí Cayxỏn Phômvihản tự mình hướng
dẫn chuyên gia chọn lọc dịch những phần cần thiết trong “Tuyển
tập Mác - Lênin” để nghiên cứu. Mỗi dịp đi nghỉ hè hằng năm,
ngoài việc đề nghị Liên Xô giới thiệu những giáo sư, những nhà lý
luận giỏi, giới thiệu cho một số chuyên đề, đồng chí còn đề nghị
Trường Nguyễn ái Quốc Việt Nam gửi các bài giảng của các lớp
cao cấp sang để đọc, nghiên cứu. Khi có điều kiện, đồng chí đề
nghị Việt Nam cử chuyên gia sang trực tiếp giới thiệu một số
chuyên đề mà đồng chí cần nghiên cứu sâu để vận dụng vào thực
tiễn Lào. Vấn đề nào thấy cần thiết đồng chí đề nghị mở tập huấn
giới thiệu cho Ban Chấp hành Trung ương mở rộng cùng nghe. Qua
đó Lào chủ trương phải học tập và đổi mới tư duy trong hàng ngũ
cán bộ trên các lĩnh vực, trong lãnh đạo, trong lề lối làm việc. Bản
thân đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã đọc đi đọc lại tác phẩm “Sửa
đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh để vận dụng vào công
tác xây dựng đảng ở Lào.

(tháng 6 năm 1985) là bước đột phá thứ hai đổi mới tư duy lý luận; Kết luận của
Bộ Chính trị tháng 8 năm 1986 là bước đột phá thứ ba trong đổi mới tư duy lý
luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 597

Khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Thông tấn xã Việt Nam,
Đài Phát thanh, Đài Truyền hình Việt Nam thường trú tại Lào,
Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào Cayxỏn Phômvihản
nhấn mạnh: “Những năm qua, sự hợp tác đầy tình anh em, tình
đồng chí giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước đã phát triển
trên mọi lĩnh vực, với nhiều hình thức phong phú và có hiệu quả.
Ngoài việc cử chuyên gia và quân tình nguyện sang giúp cách
mạng Lào, Việt Nam còn đẩy mạnh hợp tác về lao động và kỹ thuật
giúp Lào khai thác tiềm năng của mình; mở rộng quan hệ kết nghĩa
giữa các địa phương của hai nước, lấy hợp tác về kinh tế và văn hoá
làm cơ sở cho các mặt hợp tác khác. Sự hợp tác và giúp đỡ to lớn
của Việt Nam góp phần rất quan trọng tạo thế chiến lược vững chắc
cho sự phát triển của cách mạng Lào.
Đoàn kết liên minh hợp tác Lào - Việt Nam đã trở thành đường
lối chiến lược, tình cảm thiêng liêng và nghĩa vụ quốc tế của Đảng,
Nhà nước và nhân dân Lào, là một trong những tiêu chuẩn rèn
luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân
dân Lào”41.
Hợp tác quốc phòng - an ninh: Mối quan hệ, hợp tác ngày
càng đi vào chiều sâu, nhằm bồi dưỡng, xây dựng lực lượng, tập
trung giải quyết vấn đề biên giới thành đường biên giới hoà bình,
hữu nghị, ổn định và phát triển lâu dài giữa hai nước.
Thực hiện Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện Lào - Việt
Nam ký ngày 18 tháng 7 năm 1977, ngày 29 tháng 3 năm 1981,
Bộ Nội vụ Lào và Bộ Nội vụ Việt Nam đã ký Hiệp định hợp tác
toàn diện giữa hai Bộ. Phía Lào do Đại tướng Xỉxávạt Kẹo
Bunphăn, Bộ trưởng Bộ Nội vụ làm trưởng đoàn. Phía Việt Nam
do đồng chí Phạm Hùng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ làm trưởng đoàn.

41
. Báo Nhân dân, số 11219, ngày 21 tháng 3 năm 1985.
598 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

Nội dung của Hiệp định cho phép lực lượng an ninh của hai
nước, ở cả Trung ương và các địa phương, quan hệ hợp tác, trao
đổi kinh nghiệm lẫn nhau, trao đổi các đoàn đại biểu, các đoàn
cán bộ lão thành...
Ngày 23 tháng 6 năm 1984, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân
dân Việt Nam ra Quyết định số 932-QĐ/QP giao cho Quân khu 5 có
nhiệm vụ liên minh chiến đấu với lực lượng vũ trang và nhân dân
Lào trên địa bàn các tỉnh Xalavăn, Chămpaxắc, áttapư và tỉnh mới
tách ra từ Xalavăn, tăng cường khả năng phòng thủ bảo vệ độc lập
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ địa bàn Nam Lào.
Tháng 4 năm 1985, các thế lực phản động nước ngoài chỉ huy
tiếp tế cho Chư Pao Mùa thu gom được khoảng 1.200 tên phỉ hoạt
động quấy phá ở khu vực Buôm Loộng. Trước yêu cầu cấp bách
phải tiêu diệt cụm phỉ ở Buôm Loộng để ổn định tình hình an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, Tỉnh uỷ Xiêng Khoảng đã đề nghị
cấp trên tăng cường lực lượng cùng tỉnh giải phóng vùng đất bị
Chư Pao Mùa chiếm đóng. Bộ chỉ huy liên quân do đồng chí Uđôm
Khắttinhạ, Uỷ viên Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Bí
thư Tỉnh uỷ Xiêng Khoảng làm chỉ huy trưởng. Theo yêu cầu của
Lào, từ ngày 13 đến 15 tháng 5 năm 1985, Quân khu 4 Việt Nam
đã sử dụng Tiểu đoàn 31 đặc công quân khu và một số đơn vị bộ
binh cùng các đơn vị bạn tiêu diệt quân phỉ ở Buôm Loộng, phá tan
sào huyệt phỉ lớn nhất của địch, góp phần ổn định tình hình an ninh
của Lào.
Để tiếp tục giúp Lào về các mặt xây dựng, củng cố lực lượng
vũ trang, lực lượng chính trị, đào tạo cán bộ, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật và xây dựng kinh tế, năm 1984, Bộ Tổng Tham mưu
Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ Tổng Tham mưu Quân đội
nhân dân Lào đã thống nhất kế hoạch chiến lược phòng thủ đối phó
với các tình huống chiến tranh và triển khai kế hoạch chống chiến
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 599

tranh phá hoại nhiều mặt của địch... Hai Bộ Quốc phòng và hai Bộ
Tổng Tham mưu còn tiến hành hội đàm để giải quyết những vấn đề
cơ bản về quân sự. Trong kế hoạch phát động quần chúng, củng cố
cơ sở chính trị, Lào và Việt Nam ngày càng phối hợp chặt chẽ. Lào
đã củng cố ban lãnh đạo và chính quyền ở các tỉnh trọng điểm. Việt
Nam cũng kiện toàn 60 đội công tác ở cơ sở (trong đội hình quân
tình nguyện) với hơn 1.500 cán bộ phối hợp với bạn về các mặt
khác, chỉ đạo công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở, củng
cố quốc phòng - an ninh.
Tính riêng trong năm 1984, Việt Nam đã giúp Lào hoàn thành
đào tạo 407 cán bộ, 1.381 cán bộ và nhân viên kỹ thuật được đào
tạo tại 28 trường; 32 chuyên gia thường trú ở cơ quan Bộ Quốc
phòng trong đó có công tác quân sự địa phương, 350 chuyên gia kỹ
thuật về các xí nghiệp quốc phòng và các nông trường. Ngày 25
tháng 12 năm 1985, Trường Trung cấp An ninh được thành lập.
Sau đó, Trường Đại học An ninh và Trường Đại học Công an nhân
dân của Việt Nam đã cử nhiều cán bộ, giảng viên sang giúp giảng
dạy, chuyển giao kiến thức cho cán bộ, học viên Lào. Nhờ đó, hàng
năm Lào đã đào tạo được một lực lượng lớn cán bộ, chiến sĩ làm
công tác an ninh.
Nét nổi bật của hợp tác quốc phòng, an ninh giai đoạn này là
hợp tác giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước. Đường biên
giới Việt - Lào được hình thành từ khá sớm trong lịch sử42. Tuy

42
. Đến thời thuộc Pháp, đường biên giới này trở thành biên giới hành chính trong
Đông Dương thuộc Pháp. Tuy nhiên, nó không phải là quốc giới do hai nước hoạch
định. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, nhận thức sâu sắc việc phân
định và cắm mốc biên giới giữa hai nước có liên quan trực tiếp đến sự hòa bình, ổn
định của mỗi nước và trong khu vực, từ ngày 25 tháng 9 đến 10 tháng 11 năm 1955,
được sự ủy nhiệm của Chính phủ Việt Nam, Bộ Nội vụ đã tiến hành điều tra biên giới
Việt - Lào trên thực địa. Tháng 9 năm 1956, theo thư mời của Chính phủ Vương quốc
Lào và theo tinh thần hội đàm giữa phái đoàn Chính phủ hai nước, Việt Nam đã cử
600 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

nhiên, sau này do yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, được
sự đồng ý của Lào, Việt Nam đã mở tuyến đường vận tải chiến
lược Trường Sơn, phần phía tây chạy trên đất Lào, vì vậy việc
hoạch định, phân chia biên giới trong giai đoạn này bị gián đoạn.
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, hai nước lại tiếp tục bắt
tay vào việc hoạch định, phân chia lại đường biên giới. Xuất phát
từ tình đồng chí anh em, hai nước đã thoả thuận lấy đường biên
giới mà Pháp vẽ trên bản đồ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông
Dương làm cơ sở đối chiếu, so sánh cho việc phân chia biên giới
trên thực địa. Theo Hiệp định hai nước ký kết năm 1977, từ ngày
25 tháng 7 năm 1978 - ngày cắm mốc đầu tiên - đến ngày 24
tháng 8 năm 1984 đã cơ bản hoàn thành hệ thống quốc mốc. Sau
tám năm tiến hành, đến ngày 24 tháng 1 năm 1986, việc phân
vạch và cắm mốc trên thực địa toàn tuyến biên giới Việt - Lào dài
2.067 km đã hoàn thành. Những điểm mới được hai bên nhất trí
điều chỉnh đã được ghi nhận trong Hiệp ước bổ sung Hiệp ước
hoạch định biên giới. Cũng với Hiệp ước bổ sung, Nghị định thư
về việc phân giới trên thực địa và cắm mốc toàn tuyến biên giới
Việt Nam - Lào đã được hai nước ký ngày 24 tháng 1 năm 1986.
Hai nước khẳng định: “Xác định chính thức đường biên giới quốc
gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào nhằm xây dựng đường biên giới hữu
nghị anh em lâu dài giữa hai nước”43.
Hai nước đưa ra quan điểm giải quyết vấn đề biên giới ở những
điểm khó khăn: “ở những nơi nào cả hai bên đều thấy cần thiết phải
điều chỉnh đường biên giới và ở những nơi đường biên giới chưa

một phái đoàn sang Lào điều tra biên giới vùng Mương Sốc, Nặm Cắn (phần nằm giữa
hai tỉnh Nghệ An và Xiêng Khoảng).
43
. Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, ký
ngày 18 tháng 7 năm 1977, hồ sơ số 514/3, Vụ á châu 2, Bộ Ngoại giao, tr.1.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 601

được vẽ trên các bản đồ Pháp nói ở đoạn trên, hai bên đã hoạch
định đường biên giới trên cơ sở hoàn toàn nhất trí, tôn trọng lẫn
nhau, vì lợi ích của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào”.
Từ thời điểm này, giữa hai nước đã có đường biên giới chính
thức, được hoạch định bằng Hiệp ước, phân vạch trên thực địa và
đánh dấu bằng một hệ thống mốc chính quy.
Việc phân định chính thức đường biên giới quốc gia giữa hai
nước thể hiện nguyên tắc trong quan hệ hai nước: tôn trọng độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như lợi ích
chính đáng của mỗi bên phù hợp với luật pháp quốc tế và đáp
ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước muốn có một đường
biên giới hữu nghị lâu dài. Đồng thời cũng là một biểu hiện của
mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào, góp phần tích cực vào việc củng
cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, sự hợp tác toàn diện
giữa hai nước.
Sự kiện này đã mở ra cho hai nước sớm đi đến ký kết quy chế
biên giới bao gồm việc đi lại của nhân dân, quy định các cửa khẩu
qua lại... nhằm bảo đảm chủ quyền của mỗi nước, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc làm ăn, sinh sống của nhân dân hai bên và việc
hợp tác mọi mặt giữa hai nước.
Mười năm sau giải phóng, Quân đội nhân dân Lào và Quân đội
nhân dân Việt Nam đã đoàn kết, hợp tác chặt chẽ với nhau trong
nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước
và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Căn cứ vào yêu cầu của Lào, theo tinh thần ngành giúp ngành,
địa phương giúp địa phương, ngày 24 tháng 6 năm 1985, Bộ Quốc
phòng ra Chỉ thị về việc cử chuyên gia chính trị, kinh tế, chuyên
môn, kỹ thuật quân sự, an ninh từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở,
chuyên gia giúp lãnh đạo các bộ, ngành Lào nhanh chóng nắm bắt
công việc. Bên cạnh đó Việt Nam còn cử cán bộ, kỹ sư, công nhân
602 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

kỹ thuật lành nghề sang giúp Lào khảo sát, lập quy hoạch, thiết kế,
thi công một số công trình trọng điểm...
Ghi nhận sự giúp đỡ to lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam
đối với cách mạng Lào nói chung và Quân đội nhân dân Lào nói
riêng trong suốt những năm tháng chiến tranh trước đây cũng như
trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngày 18 tháng 12 năm
1984, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Xuphanuvông đã ký quyết định tặng Huân chương Vàng quốc gia,
phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước Lào cho Quân đội nhân
dân Việt Nam.
Hợp tác kinh tế: Thời kỳ này, ngoài sự trao đổi kinh nghiệm
thực tiễn, tri thức về đổi mới từng phần trong cơ chế quản lý kinh tế
(thông qua trao đổi, làm việc giữa lãnh đạo cấp cao hai nước,
chuyên gia, đào tạo cán bộ), quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước
đã từng bước chuyển dần từ viện trợ và cho vay là chủ yếu sang
hợp tác sản xuất kinh doanh cùng có lợi, đồng thời giúp nhau phát
huy khả năng và tiềm năng của mỗi nước để giải quyết những nhu
cầu cấp bách về đời sống và sản xuất. Đây là những định hướng
phù hợp với điều kiện hai nước trong những năm đầu chuyển đổi
cơ chế quản lý kinh tế.
Chính phủ Việt Nam đã viện trợ không hoàn lại và cho vay
không trả lãi giúp Lào về: khảo sát, thiết kế 17 công trình thuỷ lợi,
trong đó xây dựng 7 công trình loại vừa; lập luận chứng kỹ thuật
xây dựng 12 trạm thuỷ điện và xây dựng 4 trạm; thiết kế, xây dựng
11 bệnh viện, bệnh xá, 6 cửa hàng và nhà làm việc, 8 trường học
các cấp; khảo sát thiết kế đường ôtô, xây dựng đường nhựa, đường
cấp phối; gia công đóng tàu hàng, tàu chở khách; giúp vận tải hàng
trăm tấn hàng hoá quá cảnh44.

. Khóa họp I ủy ban Hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giữa Việt
44
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 603

Chỉ tính riêng hai năm 1984 - 1985, trên lĩnh vực công
nghiệp, Việt Nam đã giúp đỡ Viêng Chăn khảo sát xây dựng 18
công trình. Ngoài ra còn cử chuyên gia, giúp thiết bị và hoàn
thành lắp đặt hệ thống 400 loa truyền thanh và 41 km đường dây.
Đến năm 1986, Liên hiệp Các xí nghiệp giao thông 8 thuộc Bộ
Giao thông vận tải đã khảo sát gần 2.000 km đường, xây dựng gần
300 km đường nhựa, 40 cầu vĩnh cửu dài 1.778 m trên tuyến
đường 217, đường 6, đường 7, đường 8..., 16.000 m cống bêtông
các loại cùng nhiều khu công nghiệp khác.
Ngoài những công trình xây dựng theo Hiệp định giữa hai
Chính phủ trong những năm 1976 - 1986 theo yêu cầu của ngành
giao thông Lào và các địa phương cơ sở, Liên hiệp Các xí nghiệp
giao thông 8 còn thiết kế cho Lào 50 km đường 10, xây dựng một
số cầu tại các tỉnh, xây dựng trạm trộn bêtông để rải nhựa đường
Viêng Chăn, xây dựng xưởng sản xuất đất đèn, cử nhiều chuyên gia
giúp về tổ chức sản xuất và phối hợp quản lý các công trình quan
trọng45. Liên hiệp Các xí nghiệp giao thông 8, thuộc Bộ Giao thông
vận tải - tiền thân là đơn vị Việt Nam đầu tiên làm nghĩa vụ quốc tế
tại Lào về giao thông - được thành lập từ ngày 23 tháng 7 năm
1965, sau giải phóng, đơn vị này đã chuyển sang trọng tâm xây
dựng cầu đường phục vụ công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ
Tổ quốc của nhân dân Lào. Từ năm 1982, khi nền kinh tế Việt Nam
bắt đầu có sự chuyển hướng sang hạch toán kinh doanh mới, Liên
hiệp đã luôn hoàn thành kế hoạch nhà nước giao, nhận được những
phần thưởng cao quý hai bên trao tặng. Đây là đơn vị làm nghĩa vụ
quốc tế ở Lào thực sự có uy tín, luôn đạt chất lượng, hiệu quả cao

Nam - Lào, hồ sơ Q9-6, phông Lưu trữ Bộ Ngoại giao.


45
. Việt Nam và hợp tác phát triển tiểu vùng Mê Công, Nxb. Thế giới, Hà Nội,
2000, tr.158-166.
604 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

trên lĩnh vực giao thông vận tải, góp phần tô thắm mối quan hệ đặc
biệt Việt - Lào không chỉ trong kháng chiến mà cả trong xây dựng
đất nước. Đồng thời, qua các công trình, dự án hợp tác cụ thể giữa
Việt Nam và Lào, phía Lào đã góp phần hết sức quan trọng tạo điều
kiện cho đội ngũ công nhân có việc làm trong bối cảnh kinh tế
trong nước đang còn nhiều khó khăn, góp phần nâng cao năng lực,
trình độ chuyên môn cho đội ngũ kỹ sư, cán bộ chuyên môn của
Việt Nam toàn diện hơn trên các lĩnh vực thiết kế, thi công, xây
dựng....
Hợp tác thương mại: Nhờ vào vị trí tiếp nối tự nhiên, quan
hệ buôn bán giữa Lào và Việt Nam được hình thành khá sớm46.
Từ năm 1976 - 1981, trao đổi hàng hoá chính ngạch được bắt đầu
theo phương thức bao cấp bằng ngân sách nhà nước mỗi bên. Từ
năm 1981 - 1985: kim ngạch tăng nhanh hơn (do Thái Lan bao
vây cấm vận Lào 273 mặt hàng, nên Lào chuyển hướng sang
phía đông). Hàng hoá chủ yếu là nhu yếu phẩm phục vụ đời sống
nhân dân. Hiệp định thương mại Việt - Lào năm năm được ký
kết và Nghị định thư thương mại hàng năm đã tạo hành lang
pháp lý cho việc trao đổi buôn bán giữa hai nước... Trước năm
1986, Việt Nam và Lào chủ yếu có quan hệ thương mại với các
nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng Đông Nam á và Nhật
Bản. Lào nhập khẩu chủ yếu là thiết bị công nghiệp, sản phẩm
dầu mỏ, lương thực, phương tiện giao thông, xi măng, sắt, thép,
hàng dệt... Hàng xuất của Lào chủ yếu là gỗ xẻ, điện, thiếc, cà

46
. Trước năm 1975, Việt Nam - Lào có hiệp định trao đổi thương mại nhưng
mới chỉ dừng lại ở quy định một số nguyên tắc, thể lệ và danh mục chung, không
quy định kim ngạch. Trao đổi chủ yếu diễn ra giữa các địa phương và các tỉnh của
Việt Nam với vùng giải phóng Lào. Tổng kim ngạch hai chiều từ năm 1961 - 1975
đạt khoảng 67 triệu đồng Việt Nam.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 605

phê, thuốc lá. Việt Nam nhập chủ yếu gồm: máy móc, thiết bị
giao thông, xăng dầu, phân bón, sắt thép, bông, sợi dệt, hàng tiêu
dùng.
Việt Nam giúp Lào vận tải quá cảnh đại bộ phận hàng hoá xuất
nhập của Lào theo sự thoả thuận ký kết giữa các nước có hàng viện
trợ với Việt Nam, bảo đảm cho Lào con đường thông thương ra
biển, đồng thời bảo đảm cung cấp qua đường ngoại thương những
hàng tiêu dùng Lào còn chưa sản xuất được, nhất là một số vùng có
tính chất chiến lược và các ngành liên quan đến kinh tế hai nước.
Ngoài ra, Việt Nam còn hỗ trợ Lào sử dụng các nguồn viện
trợ chủ yếu từ các nước xã hội chủ nghĩa và các tổ chức quốc tế47.
Theo thoả thuận của hai nước, Việt Nam cử chuyên gia cao cấp có
kinh nghiệm của Uỷ ban Kế hoạch nhà nước sang nghiên cứu,
giúp Lào bố trí kế hoạch tiếp nhận, phân phối sử dụng các nguồn
viện trợ, nhất là vật tư thiết bị của Liên Xô một cách kịp thời, có
hiệu quả, xây dựng các công trình đáp ứng nhu cầu của sản xuất
và tiêu dùng.
Qua đó, chứng tỏ sự tin cậy một cách đặc biệt của Lào đối
với Việt Nam và đáp lại Việt Nam cũng chứng tỏ sự hết lòng của
mình với Lào - nước láng giềng gần gũi thân thiện, đồng thời
luôn bảo đảm nguyên tắc tôn trọng độc lập, tự chủ và quyền tự
quyết của Lào48.

47
. Từ năm 1976 đến 1985, các nước và các tổ chức này đã viện trợ không hoàn
lại cho Lào 547,89 triệu rúp, 126,57 triệu USD và cho vay 594,583 triệu rúp.
48
. Tổng kết thành quả kinh tế trong hơn 10 năm (1975 - 1986) của Lào đã
khẳng định: tổng sản phẩm trong nước tăng gấp đôi và thu nhập tính trung bình đầu
người tăng 60%. Nông nghiệp: sản lượng thóc của năm 1985 tăng gấp đôi so với
năm 1976 và về cơ bản tự túc được lương thực. Về chăn nuôi, số lượng trâu, bò tăng
60% so với thời kỳ mới giải phóng. Về việc trồng cây công nghiệp: so với năm 1976
sản lượng cà phê năm 1985 tăng gấp đôi, thuốc lá tăng lên ba lần. Công nghiệp:
trong 10 năm sản lượng công nghiệp tăng 4,4%, có nhiều sản phẩm mới và có loại
606 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

Trên lĩnh vực văn hoá - giáo dục: Hai nước luôn hợp tác
trong chương trình trao đổi giao lưu văn hoá nghệ thuật với các
loại hình trao đổi đoàn biểu diễn, tổ chức sáng tác mỹ thuật, tìm
hiểu về chủ đề đất nước và con người, hợp tác xuất bản, in và
phát hành sách báo, văn hoá phẩm, phim ảnh. Đồng thời phối
hợp tuyên truyền giáo dục nhân dân hai nước về mối quan hệ đặc
biệt Việt - Lào49. Việt Nam giúp Lào một số chương trình, giáo
trình giảng dạy của một số trường nghệ thuật của Việt Nam để
Lào làm tài liệu nghiên cứu tham khảo; cử chuyên gia giúp về
kinh nghiệm làm quy hoạch, kế hoạch đào tạo cán bộ; xây dựng
giáo trình giảng dạy văn hoá nghệ thuật của Lào; cử chuyên gia
giúp Lào xây dựng phim tài liệu, thời sự và sửa chữa các loại
máy móc thiết bị; cử chuyên gia giúp Lào về phương pháp
chuyển từ phòng trưng bày truyền thống thành Viện Bảo tàng
cách mạng. Việt Nam giúp Lào xây dựng Viện Bảo tàng cách
mạng, hoàn thành trước ngày Quốc khánh 2 tháng 12 năm 1985
tại Viêng Chăn. Bộ Văn hoá Lào cử đoàn cán bộ sang Việt Nam
nghiên cứu, khảo sát tìm hiểu về tổ chức, nghiệp vụ, trang bị vật
tư về kịch nói để về xây dựng Đoàn kịch nói Lào. Việt Nam còn
hợp tác giúp Lào khảo sát tình hình Đoàn xiếc quốc gia; xây
dựng kế hoạch củng cố, quản lý điều hành theo tình hình mới;

hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài. Giao thông vận tải: đã có con đường thông 80%
các huyện trên toàn quốc, khả năng chuyên chở hàng hóa nội bộ và quá cảnh tăng
nhiều lần. Đối với kinh tế đối ngoại: nước ta nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ và hợp
tác ngày càng nhiều hơn từ các nước anh em và bạn bè trên thế giới. Tổng giá trị
hàng hóa xuất khẩu tăng gấp 5 lần so với năm 1976.
49
. Việt Nam giúp Lào làm phim về Đại hội Phụ nữ Lào lần thứ nhất (1984),
phim 10 năm nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (thực hiện từ năm 1984), phim
về thành tựu 16 năm của cách mạng Lào phát hành vào dịp Quốc khánh lần thứ 10
(ngày 2 tháng 12 năm 1985).
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 607

giúp Lào giảng dạy một số bộ môn tại Trường Nghệ thuật và Mỹ
thuật Viêng Chăn; nâng cao chất lượng nghệ thuật Đoàn ca múa
Trung ương Lào. Ngoài ra, công tác hoạt động văn hoá của hai
nước còn diễn ra sôi nổi ở nhiều địa phương kết nghĩa có chung
biên giới hữu nghị với nhau50.
Về nghiên cứu khoa học, đây là cũng là giai đoạn thực hiện
chủ trương hai nước tăng cường trao đổi, hợp tác giữa các nhà
khoa học Việt Nam và Lào. Đặc biệt trên lĩnh vực khoa học xã
hội, từ khi thành lập Ban Đông Nam á - tiền thân của Viện
Nghiên cứu Đông Nam á, các nhà khoa học xã hội giữa hai nước
càng có điều kiện gặp gỡ, trao đổi những thành quả nghiên cứu
toàn diện hơn. Kết quả cụ thể hợp tác của các nhà khoa học trong
thời gian này là triển khai nghiên cứu Lịch sử Lào, Văn học Lào,
Địa lý Lào. Ba công trình này đã được xuất bản ở Lào, bằng
tiếng Lào. Riêng công trình Lịch sử Lào đã được xuất bản bằng
tiếng Việt51.
Về giáo dục - đào tạo: Hằng năm, Bộ Giáo dục hai nước ký
kết các văn bản hợp tác, đã tổ chức hai lần Hội nghị Bộ trưởng
Giáo dục của ba nước Lào, Campuchia, Việt Nam họp tại Hà Nội
và Viêng Chăn. Hàng loạt hệ thống trường lớp ở Lào với sự giúp
đỡ của Việt Nam đã được xây dựng: các trường phổ thông, trung
cấp sư phạm, Đại học Sư phạm Viêng Chăn. Hàng loạt lưu học
sinh Lào, chủ yếu là sinh viên đại học, thực tập sinh, nghiên cứu
sinh trên đại học liên tục có mặt ở 36 trường đại học, cao đẳng
và trung học chuyên nghiệp ở Việt Nam như Đại học Tổng hợp

50
. Báo cáo thực hiện kế hoạch hợp tác văn hóa với Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Lào năm 1984, hồ sơ số 520, Vụ á châu 2, phông Lưu trữ Bộ Ngoại giao.
51
. Theo Hội thảo quốc tế về mối quan hệ Việt Nam - Lào, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2007, tr.634-635.
608 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

Hà Nội, Đại học Bách khoa, Đại học Y, Đại học Quân sự, Đại
học Sư phạm,... Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn tiếp tục đào tạo một
số học sinh phổ thông cho Lào. Riêng “Trường Bổ túc hữu nghị
Việt - Lào” được thành lập từ năm 1980 với nhiệm vụ đào tạo
con em nhân dân các bộ tộc Lào gửi sang từ phổ thông cơ sở đến
phổ thông trung học. Năm học 1980 - 1981 có 191 học sinh Lào
tốt nghiệp cấp III (đạt 100%). Số lượng học sinh Lào được đào
tạo tại Việt Nam ở các loại trường kể cả phổ thông, trung học
chuyên nghiệp, đại học các ngành kinh tế, chính trị, xã hội, quân
sự, an ninh thời kỳ này rất đông, chiếm khoảng 50% số người
được gửi ra nước ngoài. Năm 1983 - 1984 có 206 học sinh tốt
nghiệp cấp II, III (100%); năm học 1985 - 1986 có gần 200 học
sinh tốt nghiệp (trong đó 95% tốt nghiệp cấp III và 70% đạt loại
khá, giỏi)52. Kết quả này là sự nỗ lực cao độ của cả hai phía, mặc
dù chất lượng đào tạo chưa cao, nhưng đã góp phần thanh toán
dần nạn mù chữ, nâng cao trình độ dân trí ở một mức độ nhất
định, hình thành đội ngũ cán bộ, trí thức đặt nền móng khoa học
- kỹ thuật cho đất nước Lào phát triển53.
Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản
lý và cán bộ lý luận chính trị của Đảng là một nhiệm vụ chiến lược
cơ bản thường xuyên của Đảng, Nhà nước của cả hai nước. Mặc dù
các thế lực thù địch chống phá cách mạng hai nước tìm mọi cách

52
. Việt - Lào hai nước chúng ta, tình sâu hơn nước Hồng Hà - Cửu Long, Sở
Văn hóa Thông tin, Hà Nội 1987, tr.12.
53
. Tổng kết giáo dục của Lào đến năm 1985 nhận định về cơ bản đã hoàn
thành việc xóa nạn mù chữ, số học sinh, sinh viên các cấp đều tăng, số sinh viên đi
du học nước ngoài ngày càng nhiều. Cho đến nay, cứ bốn người thì có một người
được vào học, đến cuối năm 1985 Lào có 6.000 cán bộ tốt nghiệp đại học, trung
học dạy nghề 22.200 người, con em các dân tộc tốt nghiệp phổ thông cơ sở,
trường dạy nghề và đại học ngày càng nhiều.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 609

chia rẽ, phá hoại tình đoàn kết giữa hai nước, nhưng với sự tin cậy
trong quan hệ hợp tác toàn diện với Việt Nam, Lào vẫn tiếp tục
tăng cường việc gửi cán bộ sang đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, dài
hạn ở Việt Nam. Các đồng chí từ Thường vụ Tỉnh uỷ đến Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, sĩ quan cấp tướng, bộ trưởng,
thứ trưởng sang học ở Trường Đảng cao cấp Nguyễn ái Quốc; các
đồng chí cán bộ Tỉnh uỷ, Huyện uỷ sang học Trường Nguyễn ái
Quốc 10.
Đối với đối tượng cán bộ cần bồi dưỡng nâng cao trình độ tại
chỗ, Lào mời chuyên gia Việt Nam sang giảng dạy ở Trường Lý
luận Trung ương. Trong các hội nghị Trung ương, nhất là các hội
nghị bàn về các vấn đề chuyên đề như: cải tiến cơ chế quản lý tài
chính, ngân hàng, nông lâm nghiệp, giao thông vận tải, Lào đều mở
rộng, biến hội nghị thành một lớp vừa tập huấn, bồi dưỡng cán bộ,
vừa quán triệt nghị quyết.
Việt Nam còn cử nhiều chuyên gia đầu ngành, có kinh nghiệm
sang giúp Lào xây dựng chương trình giảng dạy cho Trường Đảng
cao cấp của Đảng và Nhà nước Lào. Tính riêng về đào tạo cán bộ
giúp Đảng và Nhà nước Lào, từ năm 1977 - 1989, Trường Nguyễn
ái Quốc 10 và Trường Nguyễn ái Quốc đặc biệt (Việt Nam) đã phối
hợp cùng các cơ quan của hai nước đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị và chuyên môn cho khoảng 1.000 cán bộ trung, cao cấp;
cán bộ các ngành tuyên huấn, tổ chức, kiểm tra; phóng viên; giảng
viên Trường Đảng của Lào54.
Việt Nam giúp Lào về chuyên gia, cán bộ, công nhân kỹ thuật,
đào tạo cán bộ, công nhân cho Lào, giúp Lào tiến lên tự đào tạo

54
. Báo cáo về biên giới Việt - Lào, Việt - Trung (năm 1976), phông Bộ Nội vụ,
hồ sơ số 3867, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước.
610 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

một phần. Theo số liệu của Lào thì tính trong sáu năm, từ khi hai
nước ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, trung bình mỗi năm Việt
Nam cử 900 chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác nhau sang giúp
Lào và đã đào tạo 1/2 tổng số cán bộ của Lào được đào tạo ở nước
ngoài. Thời kỳ 1976 - 1985, Việt Nam cử 5.957 chuyên gia các lĩnh
vực giúp Lào55.
Đi đôi với quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai Đảng,
hai Nhà nước, các bộ, ngành trung ương, giữa các tỉnh Việt Nam
với 12 tỉnh và thành phố của Lào cũng có nhiều hình thức hợp tác,
giúp đỡ lẫn nhau phong phú và có hiệu quả.
Uỷ ban Trung ương Mặt trận, Ban Chấp hành Trung ương Hội
của hai nước gồm đại diện của các cơ quan, ban, ngành ở Trung
ương và đại diện các địa phương, cơ sở có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Đã có nhiều chi hội như Chi hội Cựu chuyên gia quân sự và
quân tình nguyện Việt - Lào, Chi hội Mỹ thuật Việt - Lào, Chi hội
Nghệ sĩ tạo hình Việt - Lào, Chi hội Tuyên - Văn - Giáo - Huấn
Việt - Lào, 16 hội ở các tỉnh, thành phố của Nghệ An, Quảng Nam,
Hà Nội, Thừa Thiên - Huế, Sơn La, Hải Dương, Cần Thơ, Bắc
Giang... Trong đó, mỗi hội địa phương lại thành lập hàng chục chi
hội hữu nghị Việt - Lào ở huyện hoặc cơ sở. Có hàng trăm chi hội
hoạt động với hàng nghìn hội viên, nhiệm vụ chủ yếu là giới thiệu,
thông tin cho các tầng lớp nhân dân hai nước về lịch sử đất nước,
con người, nền văn hoá, thành tựu xây dựng và bảo vệ đất nước; làm
cầu nối vận động và thúc đẩy các hoạt động hữu nghị và hợp tác,
giao lưu kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật một cách có hiệu quả,
thiết thực; tổ chức các đoàn hữu nghị, giao lưu trao đổi thông tin

55
. Vũ Dương Huân: “Quan hệ Việt - Lào: Thành tựu và triển vọng”, Tạp chí
Nghiên cứu quốc tế, số 46 (3), tr.6-20.
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 611

với các tổ chức xã hội - kinh tế - văn hoá của hai nước.
Với sự giúp đỡ tận tình, toàn diện của Việt Nam, đặc biệt là
với sự nỗ lực phát huy nội lực, tìm tòi sáng tạo, sau 10 năm
thắng lợi của cách mạng Lào, Việt Nam đã lần lượt rút hết
chuyên gia thường trú, chuyển sang chuyên gia vụ việc ngắn hạn.
Điều này chứng minh cho sự trưởng thành vượt bậc của Lào và
kết quả sự giúp đỡ của Việt Nam trong những năm đầu thực hiện
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào, trong đó quan
trọng là qua thực tiễn Lào đã từng bước tìm tòi, sáng tạo và
mạnh dạn thực hiện đường lối đổi mới có nguyên tắc dưới sự
lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào để tiếp tục hoàn
thành chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Sự trưởng thành về mọi mặt của Lào đã thể hiện sự tin cậy
của Lào đối với Việt Nam và hiệu quả của mối quan hệ đặc biệt
giữa Việt Nam và Lào. Đó chính là kết quả của sự nỗ lực phi
thường của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai quốc gia,
đưa quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam không những đã
vượt qua được các thử thách khó khăn chồng chất sau chiến
tranh, mà còn giữ vững, mở rộng và nâng mối quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam lên một tầm cao mới, phù hợp
với thời kỳ mới. Hai nước không chỉ tiếp tục giúp nhau giữ vững
được chủ quyền lãnh thổ mỗi nước trong những năm đầu mới
giải phóng, mà còn giữ vững được chế độ mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng, từng bước duy trì ổn định đời sống nhân dân, tìm tòi
con đường xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, không lệ
thuộc nước ngoài, chuẩn bị tiền đề cho những bước đổi mới tiếp
theo. Đó cũng chính là cơ sở lịch sử để tăng cường, củng cố quan
hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
trong điều kiện lịch sử mới.
612 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

*
* *
Những thành tựu to lớn đạt được trong công cuộc bảo vệ và
xây dựng đất nước ở Việt Nam và Lào thời kỳ 1976-1986 đánh
dấu sự nỗ lực phi thường của cả hai Đảng, hai Nhà nước và nhân
dân hai nước Việt Nam - Lào để vượt qua vô vàn khó khăn, thử
thách của đất nước sau 30 năm chiến tranh. Trong đó, trước hết
là sự nhận thức sâu sắc của cả hai nước về việc không ngừng
tăng cường liên minh và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam, coi đó là nhiệm vụ chiến lược sống còn, quy luật tồn
tại và phát triển của cách mạng mỗi nước. Việc ký Hiệp ước hữu
nghị và hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (năm 1977) là bước phát triển
có ý nghĩa lịch sử, mang tầm chiến lược, là cơ sở chính trị và
pháp lý quan trọng để củng cố và tăng cường tình đoàn kết, mối
quan hệ đặc biệt Việt - Lào một cách bền vững, toàn diện trong
giai đoạn mới. Đồng thời, Hiệp ước hữu nghị và hợp tác là động
lực và tạo điều kiện để Lào vươn lên tự lực một cách mạnh mẽ
về mọi mặt, cả về mặt tư tưởng, tổ chức cũng như về nhân lực,
cơ sở vật chất, tạo tiền đề để bước vào công cuộc đổi mới. Tình
đoàn kết hữu nghị và hợp tác giữa hai nước thể hiện nổi bật ở
thời kỳ này là việc ký và cùng nhau thực hiện Hiệp ước hoạch
định biên giới quốc gia, xây dựng đường biên giới hữu nghị lâu
dài giữa hai nước - một văn bản pháp lý nhằm khẳng định chủ
quyền lãnh thổ giữa hai nhà nước độc lập có chung đường biên
giới và cũng là một sự kiện chính trị lịch sử với nội dung phù
hợp với lợi ích trước mắt và lâu dài của nhân dân hai nước. Đây
là một biểu hiện tốt đẹp của việc giải quyết lợi ích dân tộc trên
tinh thần kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính
Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong... 613

với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.


Trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước trong thời kỳ
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, hai bên đã từng bước thay đổi
cả nội dung và phương thức hợp tác cho phù hợp với tình hình
mới. Đây là thời kỳ quan hệ giữa hai nước chuyển dần từ hợp tác
vụ việc theo yêu cầu của Lào (trong những năm đầu sau chiến
tranh) sang hợp tác theo chương trình, kế hoạch hàng năm giữa
hai Chính phủ, gắn với kế hoạch phát triển năm năm và hàng
năm của mỗi nước và bước đầu nghiên cứu kế hoạch hợp tác dài
hạn giữa hai nước. Quan hệ hợp tác về chính trị được tăng
cường, có sự đồng thuận, phối hợp thực hiện về chủ trương,
đường lối, gắn bó chặt chẽ, hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa hai
Đảng, hai Nhà nước. Quan hệ hợp tác ngoại giao từng bước được
mở rộng trong khuôn khổ hợp tác đa chiều, trong đó hợp tác giữa
Việt Nam - Lào với Campuchia trở thành nhân tố quan trọng góp
phần vào sự ổn định, hoà bình và hợp tác ở Đông Nam á. Hợp
tác quốc phòng, an ninh ngày càng đi vào chiều sâu trên tinh
thần đoàn kết liên minh chiến đấu phù hợp với tình hình mới, tập
trung giải quyết bồi dưỡng, xây dựng lực lượng của mỗi nước và
vấn đề biên giới giữa hai nước, góp phần tích cực bảo đảm quốc
phòng, an ninh ổn định cho mỗi nước. Hợp tác giáo dục - đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực là một trong những thành tựu đặc
biệt, không có nơi nào trên thế giới có được - đó là sự tin cậy lẫn
nhau, cùng giúp nhau xây dựng, củng cố nhân tố bên trong hết
sức cần thiết cho công cuộc xây dựng và bảo vệ của mỗi nước.
Hợp tác kinh tế giữa hai nước trong thời kỳ này đã chuyển dần
từng bước từ viện trợ và cho vay là chủ yếu, sang hợp tác sản
xuất kinh doanh cùng có lợi, đồng thời giúp nhau phát huy khả
năng và tiềm năng, thế mạnh của mỗi nước để giải quyết những
614 Ch-¬ng VII: quan hÖ ®Æc biÖt viÖt nam - lµo, lµo - ViÖt nam trong...

nhu cầu cấp bách về đời sống và sản xuất. Đây là những định
hướng phù hợp với điều kiện hai nước trong những năm đầu
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế. Tuy nhiên, quan hệ hợp tác
giai đoạn này trên cơ sở tinh thần quốc tế vô sản, với phương
thức chủ yếu là viện trợ và cho vay theo cơ chế tập trung bao
cấp, chưa tương xứng với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân hai
nước và tầm cao của quan hệ chính trị giữa hai Đảng và hai Nhà
nước Việt Nam và Lào. Hiệu quả hợp tác thời kỳ này tuy chưa
cao, chưa sát thực tế, mang nặng tính bao cấp, tương trợ, giúp đỡ
hơn là hợp tác cùng có lợi, nhưng là sự nỗ lực cố gắng theo khả
năng có thể cho nhau.
Chương VIII
QUAN HỆ ĐOÀN KẾT ĐẶC BIỆT, HỢP TÁC TOÀN DIỆN
VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
(1986 - 2007)

I. CỦNG CỐ VÀ TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ HỢP TÁC TOÀN DIỆN


VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1986 - 1996)

1. Bối cảnh quốc tế và khu vực tác động đến quan hệ Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam
Từ giữa những năm 80 đến đầu những năm 90 thế kỷ XX, thời
kỳ Chiến tranh lạnh với tư cách là một cuộc tranh đua, đối đầu về
ý thức hệ chính trị, đứng đầu bởi hai siêu cường Liên Xô và Mỹ
đã đến hồi kết thúc. Liên Xô và các nước Đông Âu đã không cứu
vãn nổi sự trì trệ và bất cập của mô hình phát triển chủ nghĩa xã
hội ở các nước này. Từ cuối những năm 80 thế kỷ XX đến tháng
12 năm 1991 đã chứng kiến sự khủng hoảng, tan rã của chủ nghĩa
xã hội ở Đông Âu và Liên Xô, từ đây trật tự quốc tế hai cực không
còn cơ sở để tồn tại nữa. Tương quan lực lượng và cơ cấu địa -
chính trị toàn cầu hoàn toàn bị đảo lộn. Chủ nghĩa xã hội tạm thời
lâm vào thoái trào. Chủ nghĩa tư bản, đứng đầu là Mỹ lợi dụng ưu
thế về so sánh lực lượng, đẩy mạnh âm mưu thao túng thế giới
trong quỹ đạo của mình.
616 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Trên bình diện an ninh - chính trị, xu thế hoà dịu, đối thoại và
hợp tác tỏ ra chiếm ưu thế trong các quan hệ quốc tế. Quá trình
toàn cầu hoá được xúc tiến mạnh mẽ, đan xen cùng với quá trình
khu vực hoá, hình thành nhiều mối quan hệ hợp tác, liên kết mới
trên các lĩnh vực theo xu hướng chú trọng đến các mục tiêu phát
triển. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác
nhau, thế giới vẫn luôn bị chấn động bởi các cuộc xung đột vũ
trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo...
Chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra
ở khắp nơi.
Cùng với những biến đổi nhạy cảm về an ninh - chính trị, thế
giới cũng trở nên sôi động trên bình diện kinh tế. Dưới tác động của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ ba, nền kinh tế thế
giới đạt tốc độ và quy mô thay đổi nhanh chóng chưa từng thấy.
Cách mạng khoa học - công nghệ trở thành tác nhân chủ yếu thúc
đẩy nhanh chóng quốc tế hoá sản xuất và tư bản, làm xuất hiện
những hình thức chuyên môn hoá cao, gắn liền với các hình thức
hợp tác đa dạng, vượt qua khuôn khổ biên giới quốc gia dân tộc.
Đồng thời, chưa bao giờ kinh tế trở thành yếu tố có tỷ trọng lớn và
có ý nghĩa chi phối mạnh các quan hệ quốc tế trên nhiều cấp độ
như hiện nay. Để tiếp tục phát triển và giữ vững vai trò đầu tàu
kinh tế thế giới, Mỹ, EU, Nhật Bản... đã quyết định cải cách cơ cấu
kinh tế, vốn vẫn dựa vào các ngành công nghiệp tập trung lao động,
chuyển sang phát triển các ngành kinh tế tri thức, nhằm khai thác
các thành quả của cách mạng khoa học - công nghệ. Do vậy, các
trung tâm kinh tế lớn trên đều có nhu cầu chuyển giao những ngành
tập trung lao động sang các nước đang phát triển. Ngược lại, các
nước đang phát triển với các lợi thế so sánh về giá tài nguyên thiên
nhiên, nguồn lao động dồi dào và khả năng tiếp thu công nghệ còn
hạn chế, đã xem sự chuyển giao những ngành công nghiệp trên là
cơ hội phát triển của mình.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 617

Bước vào thế kỷ XXI, trung tâm kinh tế thế giới đang có sự
dịch chuyển từ châu Âu - Đại Tây Dương sang châu á - Thái Bình
Dương. Dưới tác động của toàn cầu hoá, hợp tác về kinh tế để cùng
phát triển đã trở thành một xu thế tất yếu khách quan trong nền
kinh tế thế giới. Xu thế này tạo cơ hội cho các nước đang phát triển,
trong đó có các nước Đông Nam á, nâng cao vị thế kinh tế của
mình trong quan hệ với các nước lớn. Tính chất của mối quan hệ
giữa các nước đang phát triển và các cường quốc kinh tế lớn như
Mỹ, EU, Nhật Bản... đã thay đổi từ quan hệ phụ thuộc sang quan hệ
tùy thuộc lẫn nhau.
Vốn từng chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc đối đầu Đông -
Tây, khi Chiến tranh lạnh kết thúc, vị trí chiến lược của Đông Nam
á cũng có những thay đổi nhất định. Cùng với thắng lợi vẻ vang của
quân và dân Lào chống lại hai cuộc xung đột vũ trang lấn chiếm
biên giới tại Xaynhabuli; quyết định thiện chí của Việt Nam hoàn
thành rút hết quân khỏi Campuchia vào ngày 26 tháng 9 năm 1989;
cũng như những hoạt động phối hợp ngoại giao bền bỉ và tích cực
giữa các nước Đông Dương với các nước Đông Nam á trong việc
tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia, buộc chính giới Thái Lan
phải cam kết tôn trọng chủ quyền của Lào và chuyển hướng chiến
lược nhằm “biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường”.
Trong khi lợi ích chiến lược bị suy giảm ở Đông Nam á, Mỹ vẫn
tiếp tục gây sức ép và thực hiện chính sách bao vây cấm vận với
các nước Đông Dương kể từ năm 1975. Hành động này của Mỹ
khiến Việt Nam không thể tiếp cận được các nguồn lực bên ngoài
và khai thác làn sóng đầu tư từ Đông á đang tràn vào Đông Nam
á56. Trung Quốc là nước xã hội chủ nghĩa lớn nhất châu á đang trỗi

56
. Tới tháng 1 năm 1994, Tổng thống Mỹ Bill Clinton mới gỡ bỏ lệnh cấm
vận kinh tế và thương mại đối với Việt Nam.
618 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

dậy thành công như một công xưởng của nền kinh tế thế giới bằng
chính sách mở cửa với bên ngoài. Trên tinh thần “khép lại quá khứ,
hướng tới tương lai,” Trung Quốc và Việt Nam đang nỗ lực giảm
căng thẳng, tiến tới bình thường hoá và phát triển quan hệ hữu
nghị, hợp tác với nhau.
Nhờ những thuận lợi trong môi trường kinh tế thế giới, sự giúp
đỡ của các nước lớn và nhất là bản thân những nỗ lực của chính
phủ và nhân dân các nước ASEAN, khi bước vào thời kỳ hậu Chiến
tranh lạnh, Malaixia, Thái Lan, Inđônêxia, Philíppin đã tiến sát
trình độ của một nước công nghiệp hoá mới (NICs). Mặt khác, vị
trí của Đông Nam á trong chính sách của các nước lớn đã hoàn toàn
thay đổi, những ưu đãi mà các nước lớn dành cho các nước Đông
Nam á đã giảm mạnh, thậm chí không còn nữa. Vì thế, các nước
Đông Nam á đứng trước nhiều khó khăn hơn trong quá trình phát
triển kinh tế. Tuy việc tiếp cận với các nguồn lực bên ngoài có vẻ
dễ dàng hơn dưới tác động của toàn cầu hoá, nhưng trong thực tế,
các quốc gia ở khu vực này lại không mấy dễ tiếp cận được với
FDI, thị trường và kỹ năng quản lý.
Về phía các nước ASEAN, nguyên nhân chính là do các nước
này đã mất các lợi thế so sánh trong các ngành công nghiệp tập
trung lao động, nhưng lại chưa tạo ra được những lợi thế trong các
ngành tập trung tư bản. Vì thế, các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu
tìm cách chuyển vốn đầu tư sang Trung Quốc, ấn Độ hoặc sang các
thị trường Âu, Mỹ, nơi có thể giúp vốn đầu tư của họ sinh lời nhiều
hơn, nhanh hơn. Về phía các nước Đông Dương, nguyên nhân chủ
yếu là do chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam, hoặc do
mức độ chưa sẵn sàng đối với đầu tư nước ngoài của Lào,
Campuchia và Mianma.
Như vậy, khi các nước lớn điều chỉnh quan hệ với nhau trong
khu vực và điều chỉnh chính sách đối với Đông Nam á, các nước
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 619

ASEAN và các nước Đông Dương đã có thể cùng tồn tại hoà bình
với nhau. Trong bối cảnh khu vực trên, các mong muốn hợp tác
giữa hai nhóm nước ở Đông Nam á vì hoà bình, an ninh và phát
triển đã có cơ hội hồi sinh. Việc Trung Quốc, Nga xích lại gần
ASEAN; Nhật Bản, EU hợp tác với Đông Dương cho thấy sự trùng
hợp lợi ích giữa Đông Nam á và các nước lớn trong việc thúc đẩy
hợp tác khu vực ở Đông Nam á.
Một sự kiện quan trọng đánh dấu bước ngoặt trong tiến trình
hội nhập khu vực Đông Nam á là việc Hội nghị thường niên của
Ngoại trưởng ASEAN tổ chức tại Brunây tháng 7 năm 1995 tuyên
bố tiếp nhận Việt Nam chính thức là thành viên thứ bảy của Hiệp
hội. Sự kiện trọng đại này không những đánh dấu kết thúc sự đối
đầu ý thức hệ tư tưởng chính trị - quân sự giữa hai nhóm nước ở
Đông Nam á là ASEAN và ba nước Đông Dương, mà còn mở ra
trang sử mới của ASEAN với tư cách là tổ chức của tất cả 10 nước
trong khu vực.
Trong không khí hội nhập và cởi mở của khu vực, Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN lần thứ V tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan)
trong hai ngày 14 và 15 tháng 12 năm 1995 đã thông qua hai văn
kiện quan trọng là Tuyên bố Hội nghị Thượng đỉnh Băng Cốc và
Hiệp ước về khu vực Đông Nam á không có vũ khí hạt nhân
(SEANWFZ). Điều đáng lưu ý là Tuyên bố này chú trọng đến hợp
tác giải quyết các tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông và hiện thực hoá
Hiệp ước Khu vực hoà bình, tự do và trung lập (ZOPFAN). Lần
đầu tiên trong lịch sử của mình, Hiệp hội kêu gọi các nước nằm
ngoài khu vực Đông Nam á tham gia ký Hiệp định Bali 1976 về
thân thiện và hợp tác ở Đông Nam á. Về kinh tế, Tuyên bố Băng
Cốc nhấn mạnh đến việc khẩn trương thực hiện Hiệp định về thuế
quan có hiệu lực chung (CEPT) được ký từ năm 1992, để tiến trình
620 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

AFTA nhanh trở thành hiện thực57, đồng thời đưa ra lộ trình thực hiện
các hợp tác chuyên ngành. Về quan hệ đối ngoại, Tuyên bố Băng Cốc
tiếp tục khẳng định chính sách mở cửa, hợp tác và hội nhập quốc tế
của ASEAN trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi.
Bối cảnh quốc tế và khu vực thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh vận
động hết sức phức tạp và nhanh chóng đã tác động mạnh mẽ đến sự
phát triển của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Một mặt,
nó mở ra những cơ hội và điều kiện thuận lợi chưa từng có để thúc
đẩy quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam tiếp tục phát triển;
mặt khác, nó cũng đặt ra không ít những thách thức, khó khăn đối
với quan hệ hai nước trong thời gian này.
Thuận lợi cơ bản nhất đối với việc củng cố và tăng cường quan
hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là hai nước
có nhiều lợi ích chiến lược và thể chế chính trị - xã hội tương đồng.
Hai nước gắn bó chặt chẽ với nhau về chính trị; hợp tác mật thiết,
với độ tin cậy cao trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng; chi viện rất to
lớn giúp nhau bảo vệ và giữ vững an ninh chính trị, an toàn và trật
tự xã hội, quản lý đường biên giới. Cả Việt Nam và Lào đều coi
nhau thuộc ưu tiên số một trong chính sách đối ngoại của mỗi
nước. Quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước
được triển khai đều khắp, ngày càng sâu rộng và khăng khít trên cả
ba kênh Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, từ Trung ương tới các
địa phương, nhất là các địa phương có chung biên giới. Hai nước
luôn luôn coi trọng, dành ưu tiên cho nhau và đang tìm cách khắc
phục mọi khó khăn, yếu kém trong quan hệ hợp tác kinh tế, thương

57
. Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ V này, các nhà lãnh đạo ASEAN đã
quyết định đẩy nhanh tiến trình AFTA để có thể hoàn tất trước năm 2003, tức là rút ngắn
thời hạn lại chỉ còn 10 năm, riêng các thành viên mới như Việt Nam được gia hạn đến
năm 2006, Lào đến năm 2008.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 621

mại, đầu tư. Đây chính là yếu tố tiên quyết, là lợi thế riêng cho việc
triển khai toàn diện quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước.
Dựa vào Hiệp ước hữu nghị và hợp tác (ngày 18 tháng 7 năm
1977), hằng năm, Chính phủ hai nước đều ký Hiệp định hợp tác
kinh tế, làm cơ sở pháp lý cho các ngành và địa phương hai nước
triển khai thực hiện hợp tác trong từng lĩnh vực. Trong điều kiện
toàn cầu hoá kinh tế, hai nước không những phải đối mặt với những
vấn đề bao trùm mang tính toàn cầu trong bối cảnh khu vực hoá và
quốc tế hoá, mà còn phải vượt qua những cạnh tranh, thách thức từ
các nước láng giềng có quan hệ gắn bó với Lào và Việt Nam, từ các
chương trình hợp tác đa phương mà cả Việt Nam và Lào đều là
thành viên.
Tuy nhiên, các thách thức đến từ bên trong đối với quan hệ hợp
tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam nhiều khi còn lớn
hơn, khó giải quyết hơn các thách thức đến từ bên ngoài. Bởi vì đây
là những khó khăn, thách thức mang tính chất chủ quan, bắt nguồn
từ hạ tầng cơ sở, trình độ và cơ chế của nền kinh tế hai nước. Trước
hết, khó khăn, thách thức có tính chất bao trùm và cơ bản là Việt
Nam và Lào vừa mới bắt tay xây dựng lại đất nước bị chiến tranh
tàn phá nặng nề, cả hai nước đều đứng trong danh sách những nước
nghèo nhất thế giới, lực lượng sản xuất chưa phát triển, hạ tầng cơ
sở rất yếu kém, vốn đầu tư sản xuất và kinh doanh đều thiếu
nghiêm trọng, trình độ khoa học - kỹ thuật và công nghệ còn rất
thấp.
Trước lúc hội nhập được với khu vực và thế giới, Việt Nam và
Lào đã trải qua 15 năm bị bao vây, cô lập (1975 - 1990) do Mỹ
đứng đầu, luôn phải đối phó với thù trong và giặc ngoài. Trong khi
đó, mô hình chủ nghĩa xã hội của các nước nguyên là xã hội chủ
nghĩa được áp dụng vào hai nước một cách máy móc; nội dung của
nó lại không công nhận sản xuất hàng hoá và thị trường, coi kế
622 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

hoạch là biểu tượng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Việc phân phối mọi nguồn lực lao động theo kế hoạch là chính, coi
thị trường chỉ là công cụ bổ trợ cho kế hoạch. Muốn xoá bỏ ngay
các thành phần kinh tế không phải của chủ nghĩa xã hội, coi kinh tế
nhà nước và tập thể là chủ đạo, muốn xoá bỏ ngay sở hữu tư nhân.
Xây dựng kinh tế kiểu đóng cửa, theo hướng phục vụ trong nước là
chủ yếu bằng cách dựa vào thế mạnh về lao động, tài nguyên, đất
đai và sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước. Tiến hành
chế độ phân phối sản phẩm theo lao động trừu tượng, nhưng trên
thực tế là chia theo kiểu bình quân, không quan tâm tới các lợi ích
cá nhân. Thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, gây tâm lý ỷ lại, trông
chờ vào nhà nước, không phát huy được tính chịu thương, chịu khó
và sáng kiến của người lao động.
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã dũng cảm thừa nhận
những sai lầm chủ quan “là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài
về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ
chức thực hiện”58.
Đồng thời với Việt Nam, Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã
phê phán nghiêm khắc và tìm cách khắc phục những tư tưởng nóng
vội, chủ quan duy ý chí trong Đảng, kiên quyết thay đổi bằng tư
duy mới. Nền tảng của tư duy mới này là phải xây dựng xã hội về
mọi mặt, chứ không phải chỉ chú ý xây dựng quan hệ sản xuất; cải
biến xã hội cũ lạc hậu thành xã hội mới, chứ không phải xoá sạch
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới thuần khiết. Đi từ kinh tế tự nhiên
lên kinh tế hàng hoá nhỏ, nước Lào phải chấp nhận xây dựng nền
58
. Báo cáo chính trị do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa V), Chủ tịch Hội đồng Nhà nước trình bày ngày 15 tháng
12 năm 1986 tại Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập,
Sđd, t.47, tr.360.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 623

kinh tế hàng hoá nhiều thành phần bao gồm: thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa, thành phần kinh tế tư bản nhà nước, thành phần kinh
tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, thành
phần kinh tế tự nhiên. Trong đó, các thành phần kinh tế phi xã hội
chủ nghĩa vẫn còn phát huy tác dụng trong một thời gian dài nữa.
Việc thay đổi mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao
cấp ở Việt Nam và Lào là một yêu cầu cấp bách đặt ra với cả hai
nước. Do thiếu khuyến khích lợi ích vật chất đối với người lao
động, chậm đổi mới về khoa học - công nghệ, trình độ quản lý và
năng lực điều hành sản xuất kém, dẫn đến năng suất lao động xã
hội của Việt Nam và Lào đều rất thấp. Hơn nữa, khi Liên Xô và
Đông Âu khủng hoảng và sụp đổ, Việt Nam và Lào đã mất đi các
nguồn lực quan trọng. Các nguyên nhân chủ quan và khách quan
trên đã dẫn đến sản xuất xã hội ở hai nước bị đình trệ, đời sống của
nhân dân không được cải thiện, cả Việt Nam và Lào đều đứng
trước tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
Đây là lúc quá trình hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam bộc lộ tình trạng trì trệ, yếu kém, đòi hỏi phải đổi mới tư
duy, đổi mới cơ chế, phương châm, phương thức hợp tác thì mới có
thể tiếp tục tiến lên được. Hơn nữa, trong thời kỳ quá độ hình thành
trật tự thế giới mới, các nước đều có lợi ích đan xen và phụ thuộc
lẫn nhau. Vì vậy, việc lựa chọn nội dung hợp tác kinh tế giữa Việt
Nam và Lào sao cho phù hợp, có hiệu quả và không chồng chéo với
các chương trình hợp tác của các nước khác và mang dấu ấn của
mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là vấn đề đòi
hỏi phải cân nhắc kỹ lưỡng, nhất là trong điều kiện cả Việt Nam và
Lào đều đang gặp khó khăn lớn về vốn và công nghệ.
Trong khi Việt Nam và Lào bắt tay vào công cuộc đổi mới, các
thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước đã ra sức lợi dụng
sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, tăng cường gây
624 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

sức ép, áp đặt điều kiện, thậm chí can thiệp vào công việc nội bộ
của hai nước. Mưu đồ của chúng là theo đuổi chiến lược “diễn biến
hoà bình” nhằm thay đổi thể chế chính trị, ngăn cản khả năng của
Việt Nam và Lào huy động mọi nguồn lực ở trong và ngoài nước
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Đồng thời, chúng ráo riết chia rẽ và phá hoại mối quan hệ Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam, tạo sự bất ổn định ở mỗi nước để dễ
bề thâu tóm, khống chế. Thực tế chỉ rõ: Việt Nam có hòa bình, ổn
định thì Lào mới có hòa bình, ổn định, và ngược lại, Lào có hoà
bình, ổn định thì Việt Nam mới có hòa bình, ổn định vững chắc. Vì
thế, việc bảo vệ và phát triển quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác
toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam luôn là hai mặt sống còn
của một vấn đề, đòi hỏi hai nước phải kiên định quán triệt trong
nhận thức và hành động của mình.

2. Đường lối và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Đảng Nhân dân cách mạng Lào về đoàn kết đặc biệt, hợp tác
toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong giai đoạn đầu
của công cuộc đổi mới (1986 - 1996)
Từ ngày 15 đến 18 tháng 12 năm 1986, Đại hội lần thứ VI của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định tiến hành công cuộc đổi
mới một cách toàn diện từ kinh tế, chính trị đến văn hoá - xã hội,
khoa học - kỹ thuật, đối ngoại và an ninh - quốc phòng. Báo cáo
chính trị do Tổng Bí thư Trường Chinh đọc tại Đại hội đã xác định
nhiệm vụ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, giải quyết cho được
những vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông; tăng cường hoạt
động trên lĩnh vực đối ngoại là những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu. Về quan hệ hợp tác với Lào và Campuchia, Báo cáo chính trị
chỉ rõ: “Chúng ta đặc biệt chú trọng phát triển quan hệ hợp tác kinh
tế, văn hoá giữa nước ta và hai nước láng giềng anh em Lào,
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 625

Campuchia, nhằm khai thác khả năng của mỗi nước bổ sung cho
nhau, làm cho mỗi nước và ba nước ngày càng phát triển và vững
mạnh. Căn cứ vào mục tiêu chiến lược của mỗi đảng, phối hợp xây
dựng các chương trình hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật,
tiến tới có sự liên kết kinh tế theo một chiến lược chung. Việc hợp
tác kinh tế giữa ba nước phải theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng,
cùng có lợi, có ưu tiên ưu đãi cho nhau, và phải có những chính sách,
phương thức thích hợp, bảo đảm hiệu quả thiết thực”59.
Trong hai ngày từ 9 đến 10 tháng 5 năm 1987, Bộ Chính trị
Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách
mạng Lào đã tổ chức cuộc hội đàm theo truyền thống hàng năm,
đánh dấu giai đoạn mới của mối quan hệ đặc biệt, liên minh, hợp
tác toàn diện giữa Đảng và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào kể
từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đại hội
lần thứ IV của Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Ngay sau đó, Ban
Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Chỉ thị số 09-
CT/TW ngày 3 tháng 7 năm 1987 xác định rõ thêm một số quan
điểm và nguyên tắc lớn chỉ đạo mối quan hệ giữa hai nước và ba
nước Đông Dương. Cụ thể là:
“1. Liên minh trên bán đảo Đông Dương là liên minh chiến
lược, toàn diện, có ý nghĩa sống còn. Hợp tác kinh tế, văn hoá ngày
càng có vị trí quan trọng, tạo cơ sở vật chất cho liên minh và hợp
tác toàn diện giữa các bên, nhằm phát huy mạnh mẽ tiềm năng và
thế mạnh kinh tế của mỗi nước và của ba nước, khai thác tốt nhất
lao động, đất đai, tài nguyên và năng lực sản xuất hiện có bằng
những hình thức hợp tác thích hợp. Đồng thời, coi trọng tranh thủ
sự hợp tác chặt chẽ và sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội

59
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại
hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.181.
626 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

chủ nghĩa anh em.


2. Trong hợp tác kinh tế, văn hoá... cần chuyển mạnh từ giúp
đỡ, viện trợ và cho vay là chủ yếu sang hợp tác sản xuất, kinh
doanh theo phương châm hai bên cùng có lợi, coi đó là hướng hợp
tác cơ bản, lâu dài, tạo tiền đề và điều kiện tiến tới phân công lao
động, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất, phối hợp kế hoạch
kinh tế quốc dân, phối hợp chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
3. Trong quan hệ tay đôi, phải lấy nâng cao chất lượng và hiệu
quả làm phương châm chỉ đạo chủ yếu cho mọi hoạt động hợp tác...
4. Quan hệ giữa các bên là quan hệ giữa những quốc gia độc
lập, có chủ quyền... Phải thể hiện được tinh thần bình đẳng, tôn
trọng lợi ích chính đáng của nhau, đồng thời phải bảo đảm lợi ích
cơ bản và lâu dài của liên minh”60.
ở Lào, sau hàng loạt tìm tòi, thử nghiệm, được thực tiễn và lý
luận cách mạng kiểm chứng, như xoá bỏ hợp tác xã nông nghiệp,
xây dựng kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình, mở thêm chợ,
khuyến khích phát triển kinh tế hàng hoá... để phá vỡ kinh tế tự
nhiên và bán tự nhiên, Đại hội lần thứ IV của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào được tiến hành gần như đồng thời với Đại hội lần thứ VI
của Đảng Cộng sản Việt Nam, họp từ ngày 13 đến 15 tháng 11 năm
1986 tại Thủ đô Viêng Chăn. Báo cáo chính trị, do Tổng Bí thư
Cayxỏn Phômvihản trình bày tại Đại hội IV, khẳng định: “chính
tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của thời kỳ quá độ ở nước ta
đòi hỏi Đảng ta phải phân chia thời kỳ quá độ ra nhiều thời đoạn,
và phải vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cho từng thời đoạn cụ thể
phù hợp với đặc điểm mỗi thời đoạn”61. Công cuộc đổi mới toàn

60
. Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam số 09-
CT/TW, ngày 3 tháng 7 năm 1987 về việc quan hệ Đảng ta với Đảng Lào và
Đảng Campuchia, Tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam.
61
. Xem: “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 627

diện có nguyên tắc ở nước Lào do Đảng Nhân dân cách mạng Lào
khởi xướng được xác định trước hết là việc đổi mới về kinh tế,
bằng việc thực hiện cơ chế kinh tế mới, nhằm thoát khỏi kinh tế kế
hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang kinh tế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Nhận thức sâu sắc công cuộc đổi mới toàn diện ở Lào có mối
quan hệ hữu cơ thúc đẩy lẫn nhau với công cuộc đổi mới ở Việt
Nam và cách mạng Campuchia, Ban Bí thư Trung ương Đảng
Nhân dân cách mạng Lào ra chỉ thị số 24/BBT ngày 20 tháng 5
năm 1987, khẳng định: “Xuất phát từ truyền thống lịch sử và tình
hình, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng ba nước, sự tăng cường
liên minh hợp tác toàn diện giữa ba Đảng, ba nước Lào - Việt Nam
- Campuchia mới trở thành nhiệm vụ chiến lược số một, là nguyên
tắc cách mạng bất di bất dịch của mỗi nước, là vấn đề sống còn
của mỗi nước”62. Đặc biệt, Chỉ thị yêu cầu các cấp, các ngành và
các địa phương phải quán triệt và nắm chắc hai quan điểm chính ở
trong mọi hoạt động hợp tác liên minh với Việt Nam:
“a) Độc lập tự chủ của mỗi nước phải gắn chặt với việc liên
minh, đó là hai mặt của một vấn đề có tính nguyên tắc. Độc lập tự
chủ càng cao bao nhiêu, việc liên minh càng vững chắc bấy nhiêu...
b) Nâng cao hiệu quả và chất lượng của mọi sự hợp tác, liên
minh là phương châm trong mọi chỉ đạo hoạt động ở mọi lĩnh vực
hợp tác liên minh. Nhất là trong lĩnh vực hợp tác kinh tế...”63.

cách mạng Lào tại Đại hội lần thứ IV của Đảng”, do Tổng Bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cayxỏn Phômvihản trình bày, trong Đại hội IV Đảng Nhân dân
cách mạng Lào, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.66.
62
. Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào số 24/BBT,
ngày 20 tháng 5 năm 1987 về việc triển khai kết quả của cuộc hội đàm giữa Bộ Chính trị
Đảng Nhân dân cách mạng Lào với Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Tài liệu lưu
tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
63
. Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào số
24/BBT, ngày 20 tháng 5 năm 1987 về việc triển khai kết quả của cuộc hội đàm giữa
628 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Về phần mình, thực hiện thoả thuận cấp cao giữa hai Đảng, Bộ
Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Quyết định số 35-QĐ/TW
ngày 30 tháng 12 năm 1987, trong đó quy định: “Hợp tác, giúp đỡ nhau
về chính trị, văn hoá, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng là hoàn toàn
tự nguyện, trên cơ sở nhất trí thoả thuận giữa Đảng với Đảng”64.
Trong thực tế, cuối những năm 80 của thế kỷ trước là thời điểm
khó khăn nhất do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
lâm vào khủng hoảng tan rã, Việt Nam và Lào bị mất nguồn viện trợ
chủ yếu65. Hai nước lại vừa mới mở cửa, vì thế chịu không ít tác
động tiêu cực của kinh tế thị trường. Việc triển khai hợp tác toàn
diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đã có lúc, có nơi, gặp không ít
khó khăn, sóng gió, thậm chí thiếu hiệu quả bởi trình độ nhận thức
của một bộ phận nhỏ cán bộ và nhân dân không đầy đủ, thậm chí có
biểu hiện dao động về tính chất của mối quan hệ đặc biệt. Song
những biểu hiện lệch lạc trên chỉ mang tính cục bộ, nhất thời và đã
được hai Trung ương Đảng cũng như đông đảo cán bộ, đảng viên và
nhân dân hai nước uốn nắn, sửa chữa kịp thời. Chỉ thị của Ban Bí thư
Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào ngày 20 tháng 5 năm
1987 ghi rõ: “hai bên nhất trí phải tăng cường giáo dục cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân hiểu rõ quan hệ đoàn kết sống còn và lâu dài,
quán triệt quan điểm, phương châm nguyên tắc của mối quan hệ

Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào với Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt
Nam, Tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
64
. Quyết định của Bộ Chính trị số 35-QĐ/TW, ngày 30 tháng 12 năm 1987 về
đổi mới phương thức quan hệ giữa Đảng ta với Đảng Nhân dân cách mạng Lào và
Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, Tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam.
65
. Riêng viện trợ của Liên Xô cho Lào chiếm từ 70 đến 80% tổng nguồn viện
trợ nước ngoài. (Theo: Khay Kham Van Na Vong Sy: Mở rộng quan hệ kinh tế giữa
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào với các nước láng giềng trong giai đoạn hiện nay,
Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002,
tr.63).
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 629

trong giai đoạn cách mạng mới, uốn nắn tư tưởng và tác phong làm
việc mới, tránh những bảo thủ, chủ quan, chống mọi hiện tượng lơ là
mất cảnh giác, thiếu trách nhiệm, chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi”66.
Trong hoạt động thực tiễn, từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở, việc
bảo vệ quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam được xem là một trong
những tiêu chuẩn rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của cán
bộ, đảng viên và nhân dân Lào. Từ những trải nghiệm thực tiễn, Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào lần
thứ 8 (khóa IV) tháng 12 năm 1989 đã đúc kết thành sáu nguyên tắc
cơ bản có giá trị chỉ đạo toàn bộ công cuộc đổi mới ở Lào67.
Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cũng ra Chỉ
thị số 09-CT/TW, ngày 3 tháng 7 năm 1987, nhấn mạnh: “Trên cơ
sở quán triệt đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI, các Nghị quyết 10 và 11 của Bộ Chính trị về tăng cường
đoàn kết, hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia và nội dung thoả

66
. Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào số 24/BBT,
ngày 20 tháng 5 năm 1987 về việc triển khai kết quả của cuộc Hội đàm giữa Bộ
Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào với Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt
Nam, Tài liệu đã dẫn.
67
. Đó là các nguyên tắc sau: “Nguyên tắc thứ nhất: Kiên định mục tiêu xã hội
chủ nghĩa, nắm vững tính chất của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới.
Nguyên tắc thứ hai: Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng ta,
chỉ đạo mọi sự nghiệp của nhân dân ta.
Nguyên tắc thứ ba: Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi của
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Nguyên tắc thứ tư: Nâng cao và phát huy dân chủ trên cơ sở nguyên tắc tập
trung dân chủ, lấy dân làm gốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nguyên tắc thứ năm: Tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính dân
chủ nhân dân.
Nguyên tắc thứ sáu: Kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô
sản và quốc tế xã hội chủ nghĩa. Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời
đại.” (Xem: Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân
dân cách mạng Lào: Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005, tr.238 - 239).
630 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

thuận trong các cuộc hội đàm lần này, các bộ, ban, ngành và các
tỉnh trực tiếp làm nhiệm vụ hợp tác với bạn cần kiểm điểm, rút kinh
nghiệm, kiên quyết xử lý và có biện pháp chấm dứt các hiện tượng
tiêu cực, các quan điểm, nhận thức và hành động sai trái gây
phương hại cho quan hệ đặc biệt giữa ta với Lào”68.
Từ ngày 24 đến 27 tháng 6 năm 1991, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã tiến hành Đại hội VII, tổng kết năm năm đổi mới, thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chỉ ra
phương hướng tiến hành công cuộc đổi mới sâu rộng và đồng bộ.
Cùng với việc xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2000 của Việt Nam, căn cứ vào thoả thuận giữa Bộ Chính
trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị Trung
ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào tháng 10 năm 1991 và thực
hiện Hiệp định hợp tác giữa hai Chính phủ ký ngày 15 tháng 2 năm
1992, ủy ban Kế hoạch nhà nước Việt Nam và ủy ban Kế hoạch và
Hợp tác Lào cùng phối hợp đề ra Chiến lược hợp tác về kinh tế, văn
hoá, khoa học - kỹ thuật giữa Việt Nam và Lào. Chiến lược này là
cơ sở để hai bên phối hợp xây dựng và quyết định các chương trình
và dự án kế hoạch hợp tác trong thời gian tiếp theo.
Do có đường lối đổi mới đúng đắn nhằm giải phóng mọi năng
lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước
và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất, đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam từ năm 1986 đến 1996
đã đạt được những thành tựu to lớn; vượt qua khủng hoảng, tuy còn

68
. Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam số 09-
CT/TW ngày 3 tháng 7 năm 1987 về việc quan hệ Đảng ta với Đảng Lào và Đảng
Campuchia, Tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 631

một số mặt chưa vững chắc, và bước vào giai đoạn phát triển ổn
định. GDP thời kỳ 1991 - 1995 đạt trung bình 8,2%/năm (mức đề ra
cho năm năm 1991 - 1995 là 5,5-6%), lạm phát đã được ngăn chặn,
từ 74,7%/năm giảm xuống còn 67,4% năm 1990, 67% năm 1991,
17,5% năm 1992, 5,2% năm 1993, 12,7% năm 1995 và luôn giữ ở
mức dưới 10% những năm sau. Kể từ năm 1996 trở đi, đời sống
nhân dân từng bước được cải thiện rõ rệt.
Kế hoạch năm năm lần thứ hai (1986 - 1990) ở Lào là giai đoạn
áp dụng cơ chế kinh tế mới, sử dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ, sử
dụng cơ chế thị trường, thực hiện chế độ một giá, từ chỗ quen tiến
hành sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh, theo cơ chế bao cấp chuyển
sang tự chủ về tài chính và kế hoạch sản xuất. Bất chấp việc chủ
nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, Đại hội V của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào họp từ ngày 27 đến 29 tháng 3 năm 1991 khẳng
định lại tính chất và giai đoạn của cách mạng Lào hiện nay: “đang
ở trong giai đoạn tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, tạo ra các tiền đề để từng bước tiến lên chủ nghĩa xã
hội”69. Bước vào kế hoạch năm năm lần thứ ba (1991 - 1995), Đại
hội V Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã xác định xây dựng cơ cấu
nông nghiệp - lâm nghiệp gắn với công nghiệp và dịch vụ bắt đầu
từ cơ sở, nhằm phát triển sản xuất hàng hoá, tạo bước chuyển mới
rõ rệt về kinh tế bằng hình thức huy động vốn trong nước, làm cho
nền tài chính quốc gia vững chắc và tiến tới tự chủ. Đồng thời mở
rộng hợp tác với nước ngoài, đề ra chính sách thích hợp nhằm thu
hút đầu tư với nước ngoài để xây dựng công nghiệp với quy mô
vừa và lớn như điện lực, nhiên liệu, khai khoáng, v.v..

69
. “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV tại Đại hội
lần thứ V Đảng Nhân dân cách mạng Lào, do đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí
thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào trình bày”, trong
Đại hội V Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.29.
632 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Đại hội lần này đặc biệt coi trọng việc đổi mới hệ thống chính
trị: “Việc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta không có nghĩa là
thay đổi chế độ chính trị hiện nay bằng một chế độ chính trị khác
mà là củng cố về mặt tổ chức của hệ thống chính trị dân chủ nhân
dân và đổi mới phương thức hoạt động của nó trên cơ sở quy định
chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức cho rõ ràng”70. Sự kiện
chính trị lớn sau Đại hội V là ngày 14 tháng 8 năm 1991, Hội đồng
Nhân dân tối cao Lào khoá II (nhiệm kỳ 1989 - 1991) đã thông qua
bản Hiến pháp đầu tiên71, chấm dứt thời kỳ 17 năm liền (1975 -
1991), mọi hoạt động quản lý, điều hành ở Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào không có hiến pháp, mà chủ yếu thông qua các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng. Và Quốc hội Lào khoá III thay thế cho Hội
đồng Nhân dân tối cao khoá II, chính thức ra mắt tại phiên họp đầu
tiên từ ngày 20 đến 25 tháng 2 năm 1993.
Ngày 18 tháng 2 năm 1993, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Nhân dân cách mạng Lào khoá V khai mạc Hội nghị toàn thể lần
thứ sáu nhằm tổng kết về những thành công ban đầu, những hạn
chế, tồn tại của công cuộc đổi mới. Lần đầu tiên Hội nghị đã đề ra
nhiệm vụ chung, mục tiêu và phương hướng phát triển kinh tế - xã
hội dài hạn của cả nước từ năm 1993 đến 2000. Ngày 8 tháng 5
năm 1993, Bộ Chính trị Trung ương Đảng khóa V đã ra Nghị quyết
số 21 về chuyển đổi quản lý kinh tế, từ phân cấp quản lý (trung
ương, địa phương, cơ sở) thành quản lý theo hệ thống tập trung,
phân công trách nhiệm theo ngành (hệ thống tập trung phân quyền).
Đồng thời, về phía Chính phủ cũng chuyển sang có kế hoạch dài

70
. Theo Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Sđd, tr.242.
71
. Ngày 15 tháng 8 năm 1991, Chủ tịch nước Cayxỏn Phômvihản đã chính
thức ký sắc lệnh ban bố Hiến pháp đầu tiên này. Đến năm 2003, nước Lào lại thông
qua Hiến pháp sửa đổi.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 633

hạn từ năm 1993 đến 2000, với ưu tiên cho tám chương trình lớn72.
Như vậy, Đại hội IV của Đảng Nhân dân cách mạng Lào và
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam trong năm 1986 đã đồng
loạt tạo ra bước ngoặt lịch sử ở hai nước Lào và Việt Nam. Chỉ
trong vòng hai kế hoạch năm năm 1986 - 1990 và 1991 - 1995, với
đường lối đổi mới toàn diện, bắt đầu bằng đổi mới về kinh tế, Việt
Nam và Lào đã thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã
hội. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ
vững và tạo được thế ổn định. Tuy nhiên, sau 10 năm tiến hành
công cuộc đổi mới (1986 - 1996), Việt Nam đã cơ bản hoàn thành
nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị
tiền đề cho công nghiệp hoá thì Lào mới bắt đầu bước vào chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ với mục tiêu đưa đất nước mau
chóng thoát nghèo (mục tiêu là năm 2015), ra khỏi tình trạng kém
phát triển (mục tiêu là năm 2020) và chuẩn bị những nhân tố cơ bản
để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sự phát triển không
đồng đều về quy mô và trình độ của lực lượng sản xuất của hai đất
nước cũng như của các vùng miền là một đặc điểm lớn cần được
tính đến trong các chiến lược và kế hoạch phát triển quan hệ hợp
tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

3. Quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam giai đoạn 1986 - 1996
a) Hợp tác trong lĩnh vực chính trị và đối ngoại
Có thể thấy những hoạt động chính trị, ngoại giao của Việt
Nam và Lào trong giai đoạn cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 thế

72
Đó là: chương trình sản xuất lương thực; chương trình sản xuất hàng hoá;
chương trình chấm dứt phá rừng làm rẫy; chương trình phát triển nông thôn; chương
trình xây dựng cơ sở hạ tầng; chương trình quan hệ kinh tế đối ngoại; chương trình
phát triển nguồn nhân lực; chương trình khuyến khích phát triển dịch vụ.
634 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

kỷ XX đã góp phần giúp cách mạng hai nước từng bước vượt qua
mọi khó khăn, thử thách, khẳng định vị trí của hai nước trong khu
vực và trên thế giới. Quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia và Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam không ngừng được củng cố và phát
triển. Những sáng kiến hoà bình của các hội nghị Bộ trưởng Ngoại
giao ba nước Đông Dương đều phản ánh một lập trường chung, đó
là kiên quyết đòi loại trừ bọn phản động Pôn Pốt và việc tuyên bố
về thời hạn rút quân đội Việt Nam ra khỏi Campuchia73. Ngày 20
tháng 5 năm 1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam ra Nghị quyết số 13, chủ trương giải quyết vấn đề Campuchia
trước năm 1990.
Tích cực góp phần vào việc giải quyết mặt quốc tế của vấn đề
Campuchia, tháng 7 năm 1988, tại Inđônêxia, Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào đã tham dự cuộc gặp gỡ không chính thức Giacácta
(JIM) và chủ động đưa ra đề nghị bảy điểm về những nguyên tắc
chỉ đạo quan hệ giữa các nước Đông Nam á, làm cho lập trường
của các nước ASEAN và các nước Đông Dương thêm một bước
xích lại gần nhau, được dư luận thế giới ủng hộ, đánh giá cao.
Một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển mới
trong quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào giữa lúc chủ nghĩa
xã hội thế giới xuất hiện những dấu hiệu khủng hoảng trầm trọng là

73
Từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 7 năm 1986 đã diễn ra 13 hội nghị Bộ trưởng
Ngoại giao ba nước Đông Dương (mỗi năm hai lần). Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại
giao ba nước Đông Dương lần thứ 12 họp ngày 24 tháng 1 năm 1986, ba nước Việt
Nam, Lào, Campuchia một lần nữa nhắc lại đề nghị năm điểm của mình được đưa ra
trong kỳ họp ngày 12 tháng 8 năm 1985 và nhấn mạnh hai mặt quốc tế và nội bộ của
vấn đề Campuchia, trong đó về mặt quốc tế, Việt Nam cam kết sẽ rút hết quân khỏi
Campuchia, đồng thời chấm dứt viện trợ quân sự và can thiệp của nước ngoài vào
Campuchia; về mặt nội bộ, công việc nội bộ của Campuchia sẽ do các bên Campuchia
tự giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 635

chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào của Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh dẫn đầu, từ ngày 2 đến 4 tháng 7 năm 1989. Đây
là chuyến thăm Lào chính thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đảng
Cộng sản Việt Nam từ sau Đại hội IV Đảng Nhân dân cách mạng
Lào. Có thể nói, quan hệ hợp tác chính trị là điều kiện tiên quyết, mở
đường cho việc phát triển quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam. Thành tựu nổi bật nhất của quan hệ hợp tác chính trị
Việt Nam - Lào, hay có thể nói là thành tựu của mọi thành tựu trong
giai đoạn này, đó là hai nước chúng ta vẫn giữ được định hướng
chính trị theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, hai bên tiếp tục tăng cường mối quan hệ
hợp tác trên lĩnh vực chính trị, duy trì cuộc gặp hàng năm giữa hai
Bộ Chính trị, như một cơ chế hoạt động chính thức.
Đánh giá công lao đóng góp của các nhà lãnh đạo Việt Nam
trong việc vun đắp và phát triển không ngừng mối quan hệ đặc biệt
Lào - Việt Nam, Đảng và Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào đã quyết định trao tặng Huân chương Vàng quốc gia cho các
đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Đỗ Mười, Thủ tướng Chính phủ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Viêng Chăn vào
ngày 2 tháng 7 năm 1989.
Cùng với việc xúc tiến quá trình bình thường hoá quan hệ giữa
Trung Quốc và các nước Đông Dương từ cuối thập niên 1980, những
hoạt động phối hợp ngoại giao giữa Việt Nam, Lào và Campuchia,
kết hợp với những nỗ lực lớn của cộng đồng quốc tế đi đến ký kết
Hiệp định Pari về Campuchia ngày 23 tháng 10 năm 1991, tiếp đó là
sự kiện sụp đổ của Liên Xô vào tháng 12 năm 1991, đều là những
tác nhân lớn góp phần làm cho các nước ASEAN thay đổi nhận thức
và hành động về môi trường an ninh khu vực.
636 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Đến tham dự Đại hội lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam (từ
ngày 24 đến 27 tháng 6 năm 1991) trên cương vị Chủ tịch Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, đồng chí
Cayxỏn Phômvihản đặc biệt nhấn mạnh tới việc phát triển quan hệ
hợp tác giữa hai Đảng trong điều kiện lịch sử mới: “Đảng Cộng sản
Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào cùng sinh ra từ một
cội nguồn, cùng chung mục tiêu, lý tưởng. Tuy mỗi Đảng có
phương pháp và bước đi khác nhau do đặc điểm của mỗi nước,
nhưng giữa hai Đảng chúng ta luôn luôn có sự phối hợp, hỗ trợ,
giúp đỡ lẫn nhau rất chặt chẽ, hài hoà, luôn luôn trao đổi, bổ sung
kinh nghiệm cho nhau, giúp cho hai Đảng chúng ta ngày càng
trưởng thành, vững mạnh và không ngừng nâng cao khả năng lãnh
đạo của mỗi Đảng ngang tầm với các giai đoạn cách mạng”74.
Ngay sau Đại hội Đảng Nhân dân cách mạng Lào lần thứ V,
theo truyền thống quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam, ngày 10 tháng
10 năm 1991, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào Cayxỏn
Phômvihản đã chọn Việt Nam là nước đầu tiên để sang thăm chính
thức. Nhân dịp này, hai bên khẳng định quyết tâm trước sau như
một tăng cường củng cố và nâng cao quan hệ đoàn kết đặc biệt Lào
- Việt Nam, Việt Nam - Lào, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, định kỳ
trao đổi cấp Thứ trưởng Ngoại giao giữa hai nước nhằm phối hợp
chặt chẽ những hoạt động ngoại giao trên các diễn đàn quốc tế. Sự
kiện Liên Xô tan rã vào tháng 12 năm 1991 đã tác động mạnh mẽ
đến toàn bộ hoạt động đối ngoại của cả hai nước, đòi hỏi Việt Nam
và Lào phải bổ sung và hoàn chỉnh chính sách đối ngoại trong tình
hình mới.

74
. Lời chào mừng của Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản đọc tại Đại hội VII Đảng
Cộng sản Việt Nam, ngày 24 tháng 6 năm 1991, báo Nhân dân, ngày 25 tháng 6
năm 1991, tr.5.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 637

Hội nghị Trung ương lần thứ ba khoá VII của Đảng Cộng sản
Việt Nam (tháng 6 năm 1992) xác định bốn phương châm trong
hoạt động đối ngoại của Việt Nam, trong đó nổi bật phương châm
đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại; tích cực tham gia
hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.75
Từ đây, Việt Nam đã xác lập vị thế mới trong hệ thống quan hệ
quốc tế, một bước chuẩn bị căn bản để gia nhập ASEAN sau đó.
Nhờ có sự phối hợp và điều chỉnh chiến lược đối ngoại theo
hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, quan hệ ngoại giao của Việt
Nam và Lào với các nước trong và ngoài ASEAN đều được cải
thiện vững chắc. Đặc biệt, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần
thứ IV họp tại Xingapo ngày 17 tháng 1 năm 1992, các nước
ASEAN đã mời Việt Nam và Lào tham gia ký Hiệp ước Bali, mở
đường cho Việt Nam và Lào tham gia các hội nghị của ASEAN với
tư cách là quan sát viên và chính thức gia nhập Hiệp hội ASEAN
sau đó.
Sự kiện quan trọng - Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của Hiệp hội ASEAN ngày 28 tháng 7 năm 1995, và hai năm
sau, ngày 23 tháng 7 năm 1997, Lào cũng chính thức gia nhập
ASEAN - đánh dấu sự hội nhập hoàn toàn của Việt Nam và Lào
với các nước trong khu vực. Đúng như tuyên bố của Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 6 năm
1991, khẳng định: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
75
. Bốn phương châm đó là: 1. Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần
nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản của giai cấp công nhân. 2.
Giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường trong khi đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại. 3. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ với mọi
đối tượng. 4. Tham gia hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các
nước. Xem: Vũ Dương Huân (Chủ biên): Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp
giành độc lập tự do, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2002, t.2, tr.89-91.
638 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

triển”76.
Năm 1992 là năm đột phá trong hoạt động đối ngoại của Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào với các nước láng giềng. Những
chuyến thăm của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước Lào đến Thái
Lan, Trung Quốc đã mở ra một bước phát triển mới nhằm củng cố
các mối quan hệ và tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Ngay từ đầu
năm, từ ngày 13 đến 15 tháng 2 năm 1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt đã đến thăm hữu nghị chính thức
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào để ký kết Hiệp định khung về
hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giai đoạn 1992 - 1995
và năm 1992. Từ ngày 12 đến 16 tháng 8 năm 1992, Tổng Bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười cũng đi thăm hữu nghị chính
thức Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Tại cuộc hội đàm, Tuyên bố
chung cấp cao Việt Nam - Lào khẳng định: “quyết tâm phấn đấu
không mệt mỏi nhằm củng cố và tăng cường hơn nữa quan hệ hữu
nghị và đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào; tiếp tục đổi mới phương
thức hợp tác nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thiết thực, phù
hợp với khả năng của mỗi nước theo các nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chân thành giúp đỡ
lẫn nhau trên tình đồng chí, anh em. Điều đó phù hợp với đường lối
đổi mới của hai Đảng, đáp ứng lợi ích căn bản và lâu dài của nhân
dân hai nước, phù hợp với lợi ích của hoà bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển ở khu vực Đông Nam châu á”77.
Bước sang năm 1993, mối quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam tiếp tục được củng cố và phát triển. Sau khi
Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản - lãnh tụ kiệt xuất và kính mến của

76
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.147.
77
. Tuyên bố chung Việt Nam - Lào ngày 16 tháng 8 năm 1992, báo Nhân dân,
ngày 17 tháng 8 năm 1992, tr.3.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 639

nhân dân các bộ tộc Lào qua đời (ngày 21 tháng 11 năm 1992), lãnh
đạo cấp cao hai Đảng và hai Nhà nước vẫn duy trì và phát triển tốt
mối quan hệ truyền thống vốn có, các cuộc viếng thăm chính thức
cấp cao giữa hai bên tiếp tục diễn ra. Nổi bật là chuyến thăm hữu
nghị chính thức Việt Nam của đồng chí Khăm Tày Xiphănđon, Chủ
tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào,
Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào từ ngày 1
đến 4 tháng 4 năm 1993. Trong cuộc hội đàm thân mật, hai bên đã ra
thông cáo chung khẳng định quyết tâm phát triển mối quan hệ đặc
biệt giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước.
Đánh giá cao công lao góp phần củng cố và tăng cường mối
quan hệ đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Lào - Việt Nam trong thời
gian qua, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã trao tặng đồng chí
Khăm Tày Xiphănđon Huân chương Sao vàng - huân chương cao
quý nhất của Việt Nam. Cùng năm đó, tháng 11 năm 1993, Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Lê Đức Anh đã có
chuyến thăm đáp lễ chính thức nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào. Tháng 8 năm 1993, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nông Đức
Mạnh thăm Lào, và tháng 11 năm 1993, Chủ tịch Quốc hội Lào
Xámản Vinhakệt thăm Việt Nam. Tháng 8 năm 1994, Chủ tịch
nước Lào Nủhắc Phumxavẳn sang thăm Việt Nam... Ngoài ra còn
có các cuộc thăm và làm việc không chính thức của lãnh đạo cấp
cao hai nước. Trong các cuộc hội đàm hàng năm giữa hai Bộ Chính
trị Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã
trao đổi ý kiến về tình hình mọi mặt, đi tới những thoả thuận quan
trọng về chủ trương, biện pháp tăng cường quan hệ và nâng cao
hiệu quả hợp tác giữa hai nước. Đây là nhân tố quan trọng làm cơ
sở cho việc hai nước cụ thể hoá các kế hoạch hợp tác hàng năm.
Trong hai năm 1994 - 1995, đáp ứng yêu cầu của phía Lào,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã cử nhiều cán bộ cấp cao, kể cả các uỷ
640 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

viên Bộ Chính trị sang giới thiệu kinh nghiệm tại các Hội nghị
Trung ương 8, 9, 10 của Đảng Nhân dân cách mạng Lào và các
cuộc tập huấn cán bộ chủ chốt của Đảng và Nhà nước Lào tại
Viêng Chăn. Hình thức đào tạo này được phía Lào đánh giá cao,
thiết thực, hiệu quả, nhất là đáp ứng được yêu cầu cấp bách trước
mắt của Lào.
Để tạo ra môi trường thuận lợi cho sự nghiệp bảo vệ và xây
dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đường lối
đối ngoại của mình, cả Việt Nam và Lào đều xác định rõ chủ
trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. Từ định
hướng trên, bên cạnh việc đẩy mạnh mở rộng quan hệ với các nước
trong khu vực và trên thế giới, quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam trên lĩnh vực ngoại giao cũng được đẩy mạnh trên
ba phương diện: Đảng, Nhà nước và ngoại giao nhân dân.
Về quan hệ giữa hai Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng
Nhân dân cách mạng Lào trong thời kỳ đổi mới ngày càng thêm
khăng khít, thắm tình đồng chí, anh em. Trung bình mỗi năm, hai
Đảng trao đổi trên 30 đoàn từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh uỷ...
những kinh nghiệm về giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, về
công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận, Đảng lãnh đạo sự nghiệp
đổi mới đất nước luôn là những đề tài trọng tâm cho các cuộc trao
đổi giữa hai Đảng.
Quan hệ giữa hai Nhà nước cũng được đẩy mạnh trong thời
gian này. Hai nước tăng cường trao đổi thông tin và tham khảo ý
kiến của nhau về các vấn đề hợp tác khu vực và quốc tế có liên
quan đến quyền lợi của mỗi nước. Ngay từ năm 1992, giữa hai Nhà
nước đã thành lập ủy ban liên Chính phủ. Hàng năm, Uỷ ban liên
Chính phủ đều có đánh giá tổng kết, rút kinh nghiệm, giúp cho việc
thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào không ngừng
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 641

phát triển.
Hoạt động ngoại giao nhân dân cũng đạt được nhiều thành tích
đáng kể. Hàng năm, quan hệ giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể địa
phương, các công ty, nhất là các tỉnh biên giới kết nghĩa đều có
những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều
sâu với nội dung thiết thực và có hiệu quả.
b) Hợp tác trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng
Chuyển sang giai đoạn đổi mới, cả Việt Nam và Lào vẫn luôn
bị các thế lực thù địch tìm mọi cách chống phá. ở Việt Nam, các thế
lực thù địch, đặc biệt là lực lượng phản động trong số người Việt
lưu vong ở nước ngoài thường xuyên tìm mọi cách “chuyển lửa về
quê hương”, hoạt động mạnh nhất là tổ chức các nhóm vũ trang về
nước, trong đó có con đường qua biên giới Việt - Lào. Tại Lào, các
thế lực thù địch tiếp tục hoạt động diễn biến hoà bình chống phá
Lào; lợi dụng hợp tác đầu tư về kinh tế để lôi kéo, chuyển hoá, kích
động số tiêu cực trong học sinh, sinh viên, trí thức và cán bộ Lào.
Bọn Vàng Pao và Thong Lít chủ trương thành lập Hội Phật giáo
mới, từ đó tổ chức tuyên truyền, kích động chia rẽ các bộ tộc Lào,
kêu gọi sự giúp đỡ của các tổ chức tôn giáo quốc tế và tìm kiếm sự
can thiệp quốc tế, v.v..
Trước tình hình đó, hai nước xác định, hợp tác an ninh - quốc
phòng giữa Việt Nam và Lào là nhiệm vụ rất cấp bách và quan trọng
hàng đầu. Ngay từ những năm đầu của thập niên 1990, giữa hai
Chính phủ, giữa hai bộ chức năng là Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng
của hai nước đều đã ký những hiệp định, nghị định về hợp tác, hỗ trợ
nhau trong công tác bảo vệ an ninh và củng cố quốc phòng. Bộ Nội
vụ và Bộ Quốc phòng của cả hai nước đều rất coi trọng việc trao đổi
thông tin và kinh nghiệm xây dựng lực lượng, chống xâm nhập,
chống bạo loạn và vô hiệu hoá các hoạt động diễn biến hoà bình của
642 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

kẻ địch. Trong mối quan hệ này, phía Việt Nam luôn chủ động và
đảm nhiệm gánh vác các công việc khó khăn nhất với phương châm
“giúp bạn là mình tự giúp mình”, “an ninh của bạn cũng chính là an
ninh của mình”... Việt Nam đã giúp Lào củng cố và xây dựng được
một lực lượng an ninh có chất lượng cao và đủ khả năng hoàn thành
nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Trên lĩnh vực hợp tác an ninh - quốc phòng với Lào, Bộ Quốc
phòng Việt Nam chú trọng giúp Lào xây dựng một chiến lược quốc
phòng dài hạn, một đường lối quốc phòng toàn dân, toàn diện.
Thông qua đội ngũ chuyên gia, Việt Nam đã giúp Lào xây dựng
quân đội của mình trở thành một đội quân vững mạnh về chính trị tư
tưởng, tổ chức và chuyên môn. Quân đội nhân dân Lào được xây
dựng theo hướng chính quy và hiện đại, có sức chiến đấu cao, đủ khả
năng làm chỗ dựa cho thế trận chiến tranh nhân dân. Các lực lượng
bộ đội địa phương, dân quân ở cấp bản, lực lượng dự bị động viên,
v.v. đều được chú ý xây dựng, củng cố và luyện tập thường xuyên để
khi cần có thể huy động được kịp thời. Các phương án tác chiến
được Bộ Quốc phòng của hai nước chuẩn bị công phu, trong đó
nhiều phương án phối hợp tác chiến giữa quân đội hai nước được
soạn thảo và đưa ra tập huấn đến cấp sư đoàn, trung đoàn. Chiến
công chung nổi bật về hợp tác an ninh - quốc phòng giai đoạn này là
việc quân và dân Lào chủ động phối hợp chặt chẽ với quân đội Việt
Nam chặn đánh cuộc hành quân “Đông tiến I” và “Đông tiến II” của
các lực lượng phản động lưu vong do Hoàng Cơ Minh cầm đầu vào
Việt Nam qua con đường Lào trong hai năm 1986 - 1987.
Là hai nước láng giềng có 10 tỉnh giáp biên nên vấn đề trật tự
an ninh biên giới giữa hai nước đều rất phức tạp. Trong giai đoạn
này, thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp ước hoạch định biên giới quốc
gia giữa Việt Nam và Lào, ký kết tại Viêng Chăn ngày 18 tháng 7
năm 1977, Ban Biên giới hai bên đã gặp nhau giải quyết nhiều vấn
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 643

đề tồn đọng trong lịch sử và đi đến hoàn thành phân giới cắm mốc
vào ngày 24 tháng 8 năm 1984. Ngày 24 tháng 1 năm 1986, hai bên
đã ký kết Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới và Nghị
định thư về việc phân giới cắm mốc toàn bộ đường biên giới quốc
gia Việt Nam - Lào tại Viêng Chăn. Ngày 16 tháng 10 năm 1987,
hai bên ký Nghị định thư bổ sung Nghị định thư về phân giới cắm
mốc tại Viêng Chăn. Ngày 1 tháng 3 năm 1990, hai bên ký Hiệp
định về Quy chế biên giới tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong hai
năm 1994 - 1995, phía Việt Nam đã triển khai giúp Lào hiệu chỉnh
bản đồ địa hình tỷ lệ 1/50.000 cho bốn tỉnh Nam Lào; lập bộ bản đồ
Atlas địa lý Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào và Atlas địa lý thế
giới, phục vụ cho công tác giáo dục của Lào. Hai bên đã xúc tiến để
tiến tới hoàn thành bản đồ quốc giới Việt Nam - Lào, làm cơ sở
pháp lý vững chắc cho mối quan hệ Việt Nam - Lào.
Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
và các hiệp định, nghị định thư liên quan được hai bên ký kết và
thực hiện đã xác lập đường biên giới chính thức, ổn định lâu dài, có
hệ thống quốc giới được hai Nhà nước độc lập, có chủ quyền cùng
nhau giải quyết. Đây chính là sự thay đổi về chất của đường biên
giới và cũng mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ hai nước; góp
phần cực kỳ quan trọng vào việc củng cố, phát triển mối quan hệ
hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, hợp tác bình
đẳng và cùng có lợi, hết lòng hết sức ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau.
Đây là thành quả của truyền thống hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và
sự hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai
nước; của sự hiểu biết, tôn trọng và cảm thông giữa những người
644 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

đồng chí anh em thân thiết, sướng khổ có nhau, sống chết có nhau.
Kết quả này là một biểu hiện tốt đẹp của việc giải quyết vấn đề lợi
ích dân tộc trên tinh thần kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, là mẫu
mực về chính sách láng giềng hữu nghị của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào.
c) Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, giáo dục, văn hoá, khoa
học - kỹ thuật
Trong quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam
- Lào, Lào - Việt Nam, hợp tác kinh tế trong thời kỳ đổi mới luôn
chiếm vị trí quan trọng, với mong muốn là động lực thúc đẩy sự
phát triển của các quan hệ hợp tác khác.
Sau khi tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ở hai nước bắt đầu
ổn định, công cuộc khắc phục kinh tế cơ bản đã hoàn thành, quan
hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước dần có sự thay đổi theo hướng
phát triển từ viện trợ không hoàn lại, cho vay là chủ yếu sang
giảm dần viện trợ và cho vay, bước đầu đẩy mạnh hợp tác sản
xuất kinh doanh bình đẳng cùng có lợi. Đồng thời, trong hợp tác
đã chuyển dần từ hợp tác từng vụ việc theo yêu cầu của bạn sang
hợp tác theo chương trình, kế hoạch được ký kết giữa hai Chính
phủ.
Thực hiện thoả thuận tháng 10 năm 1991 của Bộ Chính trị
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị Trung
ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào nhằm tiếp tục đưa quan hệ
hợp tác kinh tế giữa hai nước phát triển cả về chiều rộng và
chiều sâu, lên ngang tầm với quan hệ chính trị, ủy ban Kế hoạch
nhà nước Việt Nam và ủy ban Kế hoạch và Hợp tác Lào đã cùng
phối hợp đề ra chiến lược hợp tác về kinh tế, văn hoá, khoa học -
kỹ thuật. Chiến lược này là cơ sở để hai bên phối hợp xây dựng
và quyết định các chương trình và dự án kế hoạch hợp tác trong
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 645

thời gian tới.


Ngày 15 tháng 2 năm 1992, tại Viêng Chăn, Việt Nam và
Lào đã ký Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ
thuật thời kỳ 1992 - 1995 và năm 1992. Để hiện thực hoá Hiệp
định khung này, Chính phủ hai nước đã tiến thêm một bước
trong việc thống nhất cơ chế chung về hợp tác kinh tế, văn hoá,
khoa học - kỹ thuật. Điều II của Cơ chế này quy định rõ: “Cơ chế
chung hợp tác Việt Nam - Lào được kết hợp chặt chẽ tính đặc
thù của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào với thông lệ quốc
tế: tự nguyện, bình đẳng; hai bên cùng có lợi; có ưu tiên, ưu đãi
cho nhau; tôn trọng luật pháp, độc lập chủ quyền của nhau; nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả trong lĩnh vực hợp tác kinh tế,
văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa hai dân tộc và phù hợp với tình
hình thực tế của việc phát triển kinh tế - xã hội của hai nước
trong từng thời kỳ”78.
Thực hiện các thoả thuận quan trọng giữa hai Bộ Chính trị
(tháng 10 năm 1991, tháng 3 năm 1993, tháng 3 năm 1994, tháng 1
năm 1995) về chủ trương, biện pháp tăng cường quan hệ và nâng
cao hiệu quả hợp tác giữa hai nước, mỗi bên đã quán triệt rõ cho
các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương, tư tưởng chỉ đạo
hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa hai nước là: “giữ
vững và phát huy truyền thống quan hệ đoàn kết giữa hai Đảng và
hai dân tộc láng giềng anh em. Phát triển cả chiều rộng và chiều sâu
quan hệ hợp tác trong lĩnh vực kinh tế - xã hội nhằm khai thác và
phát huy tối đa tiềm năng của mỗi nước, phục vụ có hiệu quả nhất

78
. Xem Cơ chế chung về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giữa
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, bản
tiếng Việt, làm tại Viêng Chăn, ngày 7 tháng 4 năm 1994 do ông Trần Khải thừa ủy
nhiệm Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và ông Khểm Pheng
Phônxêna thừa ủy nhiệm Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ký.
646 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

cho công cuộc phát triển, giữ vững an ninh chính trị và an toàn xã
hội”79.
Trên cơ sở của tư tưởng chỉ đạo nêu trên, ngày 15 tháng 3 năm
1995, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng, Chủ tịch Phân ban Hợp tác Việt
Nam - Lào Phan Văn Khải, thay mặt Chính phủ nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và Phó Thủ tướng, Chủ tịch Phân ban Hợp
tác Lào - Việt Nam Khăm Phủi Kẹobualapha, thay mặt Chính phủ
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào đã ký Thoả thuận chiến
lược hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật đến năm 2000.
Sau đó, Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giai
đoạn 1996 - 2000 giữa hai nước Việt Nam và Lào cũng được ký
kết. Ngoài các hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ
thuật ký kết hàng năm giữa hai Chính phủ, trong giai đoạn này,
Việt Nam - Lào cũng đã ký kết hàng loạt hiệp định và nghị định thư
quan trọng nhằm thúc đẩy việc triển khai quan hệ hợp tác toàn diện
giữa hai nước như: Nghị định thư về hợp tác đào tạo cán bộ Lào tại
Việt Nam (ngày 15 tháng 12 năm 1992), Hiệp định kiều dân giữa
Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (ngày 3 tháng 4 năm
1993), Hiệp định thanh toán xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ
giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với
Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào thời kỳ 1993 -
1995 (ngày 7 tháng 1 năm 1993), Quy chế về quản lý khách du lịch
qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo - Huội Ka Ki giữa Tổng cục Du lịch
Việt Nam và Cơ quan Du lịch quốc gia Lào (ngày 4 tháng 11 năm
1993), Hiệp định sửa đổi Hiệp định thương mại thời kỳ 1991 - 1995

79
. Xem Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thường trực Phân ban Hợp tác Việt Nam -
Lào: Báo cáo tổng kết quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật Việt
Nam - Lào 1992 - 1995. Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch hợp tác Việt Nam - Lào
thời kỳ 1996 - 2000 và năm 1995 (Dự thảo), Hà Nội, tháng 11 năm 1995, tr.16.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 647

(ngày 30 tháng 6 năm 1993), Bản thoả thuận giữa Chính phủ Việt
Nam và Chính phủ Lào về việc cử và tiếp nhận chuyên gia Việt
Nam đi làm việc tại Lào (ngày 7 tháng 4 năm 1994), Cơ chế chung
về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa Chính phủ
Việt Nam và Chính phủ Lào (ngày 7 tháng 4 năm 1994), Cơ chế
thanh toán giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào (ngày 7
tháng 4 năm 1994), Hiệp định về quá cảnh hàng hoá giữa Chính
phủ Việt Nam và Chính phủ Lào (ngày 23 tháng 4 năm 1994),
Thoả thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào (ngày 15 tháng 3 năm
1995), Hiệp định về hợp tác lao động giữa Chính phủ Việt Nam và
Chính phủ Lào (ngày 29 tháng 6 năm 1995), Hiệp định tránh đánh
thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn thu thuế các loại đánh vào thu
nhập giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào (ngày 14 tháng 1
năm 1996), Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa
Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào (ngày 14 tháng 1 năm
1996), Nghị định thư thực hiện Hiệp định vận tải đường bộ giữa
Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào (ngày 1 tháng 5 năm 1996).
Trong chiến lược phát triển kinh tế, nông nghiệp và phát triển
nông thôn là lĩnh vực kinh tế, xã hội quan trọng được Đảng, Nhà
nước hai nước ưu tiên phát triển hàng đầu. Bởi vì nó không chỉ là
thế mạnh tiềm năng sẵn có của Việt Nam và Lào, mà còn có ý
nghĩa then chốt đối với nền kinh tế của Lào. Lĩnh vực hợp tác này
không chỉ góp phần đổi mới nông thôn Lào mà còn gắn liền với
chủ trương đảm bảo an ninh lương thực vào năm 2000 của Lào.
Lào có khoảng 4 triệu hécta đất canh tác nông nghiệp, đó chính
là thế mạnh kinh tế của Lào. Tuy nhiên, hệ thống thuỷ lợi nhân tạo
của Lào kém phát triển nên năng suất cây trồng còn rất thấp. Dựa
trên cơ sở các hiệp định đã ký kết giữa hai nước, đáp ứng yêu cầu
của Lào, Việt Nam đã cử nhiều chuyên gia hàng đầu về nông
648 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

nghiệp và thuỷ lợi sang giúp Lào nghiên cứu, thu thập tài liệu, khảo
sát phân tích đất, thiết kế hệ thống thuỷ lợi, tiến hành lập luận
chứng kinh tế, kỹ thuật cho các dự án về nông nghiệp cũng như
trực tiếp xuống tận các bản làng để giúp đỡ nông dân Lào canh tác,
chuyển giao kỹ thuật, xây dựng hệ thống thuỷ lợi, phát triển kỹ
thuật chăn nuôi theo phương pháp khoa học. Cùng với việc giúp
Lào xây dựng các văn phòng điều hành chương trình dự án, tổ chức
các vườn cây giống, xây dựng các trạm thú y, các hệ thống thuỷ lợi,
tập huấn cán bộ trồng trọt, chăn nuôi..., Việt Nam còn trang bị cho
Lào những công cụ, máy móc, áp dụng kỹ thuật trồng lúa bằng
nhiều hình thức, phương pháp.
Từ năm 1992 đến 1997, Việt Nam phối hợp giúp Lào xây
dựng mô hình thí điểm phát triển nông nghiệp và xây dựng nông
thôn mới tại bốn điểm, tập trung vào bốn khu vực do Nhà nước
Lào chọn:
1. Điểm Phôn Sủng, huyện Phôn Hoộng, tỉnh Viêng Chăn (đại
diện vùng trung du).
2. Điểm Hạt Siều là điểm Phôn Sủng mở rộng.
3. Điểm Lắc Xao, huyện Khăm Cợt, tỉnh Bolikhămxay (đại
diện vùng núi tập trung bà con Lào Xủng).
4. Điểm huyện Chămpaxắc, tỉnh Chămpaxắc (đại diện vùng
đồng bằng)80.
Kết quả là mô hình này đã đem lại nhiều hiệu quả thiết thực và
được nhân rộng ra toàn quốc, góp phần tạo ra những chuyển biến
tích cực trong các vùng nông thôn của Lào. Có thể thấy, các dự án

80
. Việt Nam đã viện trợ cho bốn điểm này 9,4 tỷ đồng trong bốn năm từ 1992
đến 1995: Phôn Sủng 2,9 tỷ; Lắc Xao 2,2 tỷ; Chămpaxắc 2,4 tỷ; Hạt Siều 1,9 tỷ.
Theo: Báo cáo tổng kết quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật Việt
Nam - Lào 1992 - 1995. Phương hướng nhiệm vụ kế hoạch hợp tác Việt Nam - Lào
thời kỳ 1996 - 2000 và năm 1995 (Dự thảo), Tài liệu đã dẫn, tr.5.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 649

sản xuất lương thực, những vấn đề an ninh lương thực do Việt Nam
giúp Lào được phía Lào đánh giá là có chất lượng và thực tiễn cao,
phù hợp với điều kiện tập quán canh tác của Lào. Cụ thể là:
- Về trồng trọt: đã gieo trồng thí điểm hàng chục loại giống lúa
mới như: Chăm con, N28, N119, C70, DT11... là những giống lúa
chịu hạn tốt, có năng suất 5-8 tấn/ha, cũng như một số giống lúa
Nhật (IPS, IPS2), ngô, cây ăn quả và cây lâm nghiệp khác. Đã
hướng dẫn kỹ thuật thâm canh và lựa chọn thời vụ thích hợp cho cả
giống lúa nước, lúa cạn, bước đầu được nhân dân địa phương học
tập và ứng dụng. Đồng thời đã xây dựng một số hệ thống thuỷ lợi
nhỏ để đủ nước canh tác cho vùng đất thí điểm.
- Về vật nuôi: những giống mới như gà Tam Hoàng, vịt siêu
trứng Khakicampel, ngan Việt Nam, ngỗng Rheinland, lợn lai, dê...
đã được nuôi thí điểm ở một số hộ nông dân và từng bước được
nhân ra diện rộng. Một số nơi thí điểm nuôi cá lồng (ở hồ Nặm
Suang) đã có kết quả tốt.
- áp dụng việc dùng nước sạch (giếng khoan) chăm sóc sức
khoẻ, phòng bệnh, làm một số đường giao thông nông thôn, sửa
sang một số trường học, trạm xá ở những nơi thí điểm.
Qua năm năm (1992 - 1997) phối hợp với phía Lào triển khai
các hoạt động dự án nêu trên, đã giới thiệu cho nông dân Lào
làm quen và thấy rõ lợi ích của kỹ thuật canh tác, lựa chọn giống
thích hợp, sự cần thiết phải đầu tư xây dựng thuỷ lợi, định canh
định cư, nhằm phát triển sản xuất, cải thiện đời sống và khắc
phục nạn phá rừng làm nương. Mặt khác, thông qua dự án, các
chuyên gia nông nghiệp Việt Nam đã bồi dưỡng đào tạo cho
nhiều người, cả cán bộ quản lý và bà con nông dân Lào, những
kiến thức mới về nông nghiệp và phát triển nông thôn. Lăn lộn
vào đời sống của bà con nông dân Lào như tinh thần của các
chiến sĩ tình nguyện quân năm xưa, cùng với việc truyền đạt tri
650 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

thức khoa học và chuyển giao công nghệ mới cho Lào, nhiều
chuyên gia nông nghiệp Việt Nam đã thực sự trở thành những
người con thân thiết của các bản làng Lào, được nhân dân Lào
tin yêu, mến phục.
Để tiến hành sản xuất nông nghiệp được thuận lợi, phù hợp
với hoàn cảnh thực tế của Lào, trên cơ sở tiến hành điều tra, khảo
sát địa chất và địa hình, các chuyên gia Việt Nam đã giúp Lào xây
dựng hàng loạt dự án thuỷ điện nhỏ và vừa, trong đó, đáng chú ý
là các dự án Nặm Thơn I, Nặm Thơn II, Nặm Soong, Nặm Mang,
Huội Kho, hoàn thành công trình thuỷ điện Lắc Xao
(Bolikhămxay) với trị giá trên 1 triệu USD.
Hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực lâm nghiệp cũng đem lại
những hiệu quả thiết thực như tiến hành khảo sát, điều tra, phân bố
rừng, phân chia các vùng khai thác, lập các quy hoạch, kế hoạch
giao đất, giao rừng, giúp Lào đào tạo cán bộ quản lý, thu thập thống
kê số liệu, hợp tác kinh doanh khai thác gỗ, lập mô hình nông lâm
kết hợp,... Phía Lào đã cử nhiều đoàn sang Việt Nam học tập và trao
đổi kinh nghiệm về phát triển nông - lâm nghiệp, trồng rừng qua dự
án PAM. Nhìn chung, các hình thức hợp tác đó đã mang lại lợi ích
thiết thực cho cả hai phía.
Những thành tựu đạt được thông qua các dự án hợp tác giữa
hai nước được phía Lào đánh giá cao, vì nó đã phát huy được tác
dụng, đưa sản xuất nông nghiệp phát triển, tạo ra sự ổn định và cải
thiện một bước đời sống của người nông dân, giảm bớt tình trạng
du canh, du cư của Lào, hạn chế được nạn phá rừng, đặc biệt tác
động tích cực đến nếp nghĩ và tập quán của nhiều bộ tộc Lào. Các
dự án hợp tác nông nghiệp cũng góp phần giúp cho các cơ quan
quản lý và một số địa phương hoạch định chương trình phát triển
sản xuất nông nghiệp của mình. Kết quả chung lớn nhất là ngay từ
năm 1999, Lào đã thực hiện được mục tiêu tự túc lương thực và có
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 651

một phần lương thực dự trữ.


Trong chiến lược hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào, lĩnh vực
hợp tác về giao thông vận tải giữa hai nước chiếm vị trí quan
trọng, được Đảng và Nhà nước hai nước xếp vào hàng ưu tiên
thứ hai, góp phần giúp Lào thực hiện tốt chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và củng cố mối quan hệ giữa hai nước. Việc hợp
tác trong lĩnh vực giao thông vận tải ngày càng được tăng cường
và mở rộng, đã tạo điều kiện thuận lợi giúp Lào vận chuyển hàng
hoá quá cảnh thông thương ra các cảng biển Việt Nam. Đặc biệt,
để đáp ứng nhu cầu vận chuyển xăng dầu cấp bách của Lào, ngày
25 tháng 9 năm 1989, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào đã
ký Hiệp định về việc nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào xây
dựng và sử dụng hệ thống đường ống dẫn dầu của Lào tại Việt
Nam (tại một vùng biển, vùng đất thuộc khu vực Cửa Lò, tỉnh
Nghệ Tĩnh, nay là tỉnh Nghệ An). Các tuyến đường ngang trên
lãnh thổ Việt Nam phục vụ cho quan hệ hợp tác giữa hai nước
bao gồm:
- Đường 8A dài 85,3 km được nâng cấp sửa chữa, rải nhựa toàn
tuyến hoàn thành vào cuối quý IV năm 1995, tổng vốn đầu tư là
170 tỷ đồng. Nâng cấp các đoạn đường: Gia Lách - Xuân Hải,
Quán Bánh - Cửa Lò và cùng với các kho bãi tại cảng Cửa Lò,
Xuân Hải được xây dựng và hoàn thiện đã tạo điều kiện giúp Lào
xuất khẩu gỗ và hàng hoá, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội vùng Trung Lào và miền núi của tỉnh Hà Tĩnh (Việt Nam).
- Một số tuyến đường khác thuộc hành lang vận tải Đông - Tây
(18B, 9, 217, 42) nối với các cảng miền Trung của Việt Nam (Cửa
Lò, Xuân Hải, Cửa Việt, Đà Nẵng, Quy Nhơn...) cũng được phía
Việt Nam lập đề cương nghiên cứu khả thi và dự kiến khảo sát vào
mùa khô 1994 - 1995 cũng như nâng cấp, bảo dưỡng nhằm giúp
Lào phát triển kinh tế các vùng Trung và Nam Lào, giúp cho việc
652 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

thông thương giữa các vùng này với tiểu vùng sông Mê Công ngày
càng thuận lợi hơn.
Năm 1992, Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 8
kết hợp với Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 1
thành lập Tổng công ty liên doanh Xây dựng công trình giao
thông 18 (CIE18) đã tham gia đấu thầu và thắng thầu quốc tế xây
dựng đường 13 khu vực Bắc Lào trước 29 hãng thầu quốc tế.
Tuyến đường này dài 162 km đường bộ với 12 cây cầu, được thi
công dưới sự giám sát của tư vấn quốc tế với giá trị 25,5 triệu
USD, hoàn thành vào tháng 5 năm 1996. Sau khi đường 13 được
đưa vào sử dụng, mức độ hoạt động của tàn quân phỉ ở Lào giảm
đi khá nhiều, đời sống kinh tế và dân trí của cư dân sống hai bên
đường tăng lên rõ rệt. Một số dự án giao thông khác trên đất Lào
cũng đang được xúc tiến tốt và đem lại lợi ích cho cả hai phía
như: sân bay Lắc Xao, đường Tây Trang - Mương Khỏa, đường
8A (phía Lào).
Lào có chung đường biên giới tiếp giáp với 10 tỉnh của Việt
Nam từ Lai Châu đến Kon Tum (Tây Nguyên). Trên biên giới hai
nước, đến đầu những năm 1990, đã mở 15 cửa khẩu trong đó mới có
hai cửa khẩu quốc tế là cửa khẩu Lao Bảo - Đen Xávẳn và cửa khẩu
Cầu Treo - Nặm Phao. Trong số 13 cửa khẩu còn lại, gồm có: 7 cửa
chính, 6 cửa phụ và 27 đường mòn qua lại giữa các tỉnh, huyện, xã.
Trong giai đoạn 1986 - 1996, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hai
chiều có xu hướng tăng, bình quân đạt khoảng 70 triệu USD/năm
(không kể lượng xe máy Việt Nam mua của Lào). Trong đó 3/4 là số
lượng hàng hoá của Việt Nam sang Lào. Các mặt hàng của Việt
Nam trên thị trường Lào là sắt thép xây dựng, đá ốp lát, hàng tiêu
dùng may mặc, đồ nhựa, gốm sứ mỹ nghệ. Hàng hoá Lào bán sang
Việt Nam là thạch cao, song mây... và một số hàng tái xuất sang
Việt Nam như: quạt điện, hàng điện tử...
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 653

Đến năm 1987, hàng xuất của Lào sang Việt Nam đạt khoảng
2,9 triệu rúp. Nguyên nhân của tình trạng này là do phía Lào thay
đổi cơ chế ngoại thương. Chính phủ Lào cho phép các ngành, xí
nghiệp các địa phương được quyền hạch toán, được trực tiếp kinh
doanh xuất, nhập khẩu, trung ương không bù lỗ, nên không tập
trung được hàng để làm nghĩa vụ. Vào thời điểm này, Thái Lan bỏ
cấm vận, Trung Quốc mở cửa biên giới Lào - Trung nên hàng hoá
của Thái Lan tràn ngập lãnh thổ Lào và tại các tỉnh giáp với biên
giới Trung Quốc, hàng Trung Quốc cũng bắt đầu chiếm lĩnh thị
trường Lào.
Bước vào thập niên 1990, quan hệ hợp tác thương mại Việt
Nam - Lào đã diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động
phức tạp. Sự kiện các nước Đông Âu sụp đổ (năm 1990) và Liên
Xô tan rã (năm 1991) đã gây ra những ảnh hưởng khá lớn tới nền
kinh tế Việt Nam và Lào. Trước tình hình đó, tháng 2 năm 1991,
Chính phủ hai nước Việt Nam và Lào đã ký Hiệp định thương mại
thời kỳ 1991 - 1995, đồng thời thoả thuận chấm dứt hình thức ký
nghị định thư trao đổi hàng hoá hàng năm, xoá bỏ tình trạng bao
cấp của Nhà nước. Hiệp định thương mại Việt Nam - Lào (1991 -
1995) cho phép mở rộng đối tượng trao đổi hàng hoá hàng năm,
không hạn chế tổng kim ngạch trao đổi (gồm 22 mặt hàng xuất
khẩu của Lào sang Việt Nam và 39 mặt hàng Việt Nam sang Lào),
đồng thời mở rộng danh mục mặt hàng trao đổi (trừ các mặt hàng
cấm xuất, nhập khẩu). Cơ chế này đã phù hợp với tình hình mới,
thúc đẩy đáng kể kim ngạch trao đổi hàng hoá hai chiều giữa hai
nước tăng nhanh: 45 triệu USD năm 1991; 73 triệu USD năm 1992;
56,3 triệu USD năm 1993; 138,2 triệu USD năm 1994; 80 triệu
USD năm 1995; 188 triệu USD năm 199681.
81
. Khay Kham Van Na Vong Sy: Mở rộng quan hệ kinh tế giữa Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào với các nước láng giềng trong giai đoạn hiện nay, Sđd,
654 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Nói đến hoạt động xuất, nhập khẩu giữa hai nước, ngoài hoạt
động xuất, nhập khẩu chính ngạch, không thể không đề cập quan
hệ trao đổi giữa các địa phương, trong đó có xuất, nhập khẩu tiểu
ngạch. Có thể thấy từ sau giải phóng, trao đổi giữa các địa
phương hai nước đã phát triển, nếu không muốn so sánh là còn
mạnh hơn cả cấp trung ương giữa hai bên. Nhằm đáp ứng nhu
cầu trao đổi của nhân dân trên dọc tuyến biên giới, ngày 1 tháng
3 năm 1990, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp định về quy chế
quản lý biên giới và ban hành quy chế về hàng hoá của nước
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào quá cảnh qua lãnh thổ Việt
Nam.
So với kim ngạch xuất, nhập khẩu chính ngạch, kim ngạch
xuất, nhập khẩu tiểu ngạch tuy không lớn, nhưng đã góp phần giúp
cho đời sống nhân dân hai nước, nhất là cư dân trên các vùng biên
cải thiện một bước đáng kể. Do mặt hàng trao đổi tiểu ngạch của
hai nước phong phú nên phía Lào có thể tiếp tục xuất khẩu sang thị
trường Thái Lan và Trung Quốc. Ngược lại, phía Lào có thể tiếp
nhận hàng hoá của Thái Lan và Trung Quốc xuất sang Việt Nam
gồm các mặt hàng như xe gắn máy CKD, IKD, SKD, quần áo, mỳ
chính, v.v.. Kim ngạch xuất, nhập khẩu tiểu ngạch qua các cửa khẩu
biên giới Lào - Việt Nam tăng khá nhanh: 31,94 triệu USD năm
1992; 30,25 triệu USD năm 1993; 37,61 triệu USD năm 1994; 43,54
triệu USD năm 1995; 53,88 triệu USD năm 199682.
Ngành thương mại hai nước đang chủ trì và xúc tiến nghiên
cứu, xây dựng đề án, tiến tới đầu tư xây dựng khu thương mại tự do
Lao Bảo - Đen Xávẳn, đã phê duyệt dự án và chuẩn bị xây dựng

tr.71.
82
. Khay Kham Van Na Vong Sy: Mở rộng quan hệ kinh tế giữa Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào với các nước láng giềng trong giai đoạn hiện nay, Sđd,
tr.72.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 655

cửa khẩu quốc tế Cầu Treo - Na Pê, mở cửa khẩu phụ và 11 điểm
chợ biên giới để thúc đẩy sản xuất và giao lưu, trao đổi hàng hoá
giữa hai nước, đặc biệt là các vùng biên giới Việt Nam - Lào.
Nhìn chung, trong giai đoạn này quan hệ thương mại Việt Nam
- Lào nói chung, hoạt động kinh tế biên giới nói riêng, đã có tiến bộ
rõ rệt, phản ánh sự nỗ lực của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều hạn chế và kết quả chưa tương xứng với tiềm năng và nhu
cầu phát triển của mỗi nước. Những số liệu trong quan hệ thương
mại hai chiều Việt Nam - Lào cho thấy, tốc độ tăng trưởng không
ổn định, có lúc lên xuống thất thường. Cán cân thương mại giữa
Lào - Việt Nam phổ biến là xuất siêu. Đáng chú ý là Lào xuất siêu
ở phần chính ngạch, nhưng lại nhập siêu ở phần tiểu ngạch. Buôn
bán tiểu ngạch tăng sẽ dẫn đến việc thanh toán thông qua hệ thống
ngân hàng nhà nước chiếm tỷ lệ rất thấp.
Hợp tác về đầu tư cũng là một trong những lĩnh vực quan trọng
được hai Đảng, hai Nhà nước đặc biệt quan tâm và cùng tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp của Lào đầu tư sang Việt Nam và doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư sang Lào. Quan hệ đầu tư trực tiếp, tuy chưa
trở thành lĩnh vực hợp tác lớn, nhưng đã có những ngành và doanh
nghiệp có quan hệ hợp tác trực tiếp và đã thu được những kết quả
bước đầu đáng khích lệ.
Việt Nam vào năm 1987 và Lào năm 1988 đã công bố Luật
Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Về pháp lý, hợp tác về đầu tư - liên
doanh Việt Nam - Lào được thể hiện rõ trong Điều 7 của Hiệp
định hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam -
Lào thời kỳ 1992 - 199583 và trong Điều 4 của Bản thoả thuận

. Xem Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giữa Chính
83

phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Lào thời kỳ 1992 - 1995, bản tiếng Việt, ký ngày 15 tháng 2 năm 1992 tại
Viêng Chăn, tr.3, 4. Điều 7 ghi: “Khuyến khích việc đầu tư và hợp tác ở Việt
656 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

chiến lược hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt
Nam - Lào giai đoạn từ nay đến năm 2000, được ký vào ngày 15
tháng 3 năm 1995 tại Hà Nội84.
Ngày 14 tháng 1 năm 1996, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp
định khuyến khích bảo hộ đầu tư và Hiệp định tránh đánh thuế
hai lần. Về số dự án, nếu trước năm 1995, Việt Nam chỉ có ba dự
án đầu tư vào Lào, thì tính đến ngày 30 tháng 6 năm 1996, Việt
Nam đã có 10 dự án với tổng số vốn đăng ký là 2.724.080 USD,
đứng thứ 20 trong tổng số 31 nước đầu tư vào Lào.
Trong số các dự án trên, đầu tư trong lĩnh vực xây dựng và
sản xuất chiếm khoảng 60% vốn đăng ký, riêng lĩnh vực xây
dựng chiếm gần 50%; dịch vụ các loại chiếm 20%. Theo thống
kê chưa đầy đủ, có khoảng hơn 20 doanh nghiệp Việt Nam đang
hoạt động trên lãnh thổ Lào theo các hình thức liên doanh, nhận
thầu công trình; tập trung vào các hoạt động thương mại, xây
dựng, giao thông, khai thác chế biến lâm sản. Ngoài ra còn rất
nhiều doanh nghiệp tư nhân nhỏ và lao động tự do khác hoạt
động ở Lào, tập trung chủ yếu là thương mại và xây dựng dân
dụng.

Nam cũng như ở Lào theo luật đầu tư của mỗi nước. Hai bên tích cực tạo ra môi
trường thuận lợi để sử dụng nguồn lao động kỹ thuật của Việt Nam, tài nguyên của
Lào, vốn của nước thứ ba phù hợp với luật pháp của mỗi nước và thông lệ quốc tế”.
84
. Xem Bản thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật
giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào giai
đoạn từ nay đến năm 2000, bản tiếng Việt, ký ngày 15 tháng 3 năm 1995, tại Hà
Nội, tr.3. Điều 4, mục: Các quan điểm cơ bản về sự hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa
học - kỹ thuật Việt Nam - Lào trong thời gian tới, ghi: “Động viên và phát huy khả
năng của mỗi ngành, địa phương, thành phần kinh tế, các tổ chức và cá nhân ở từng
nước góp phần hợp tác kinh doanh, liên doanh hoặc đầu tư trực tiếp với sự tự
nguyện phù hợp với pháp luật, cơ chế quản lý của mỗi nước và cơ chế hợp tác chung
giữa hai nước”.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 657

Tổng công ty Xuất nhập khẩu với Lào (VILEXIM) trong bốn
năm (1992 - 1995) đã thực hiện giá trị xuất nhập khẩu với Lào đạt
trên 6 triệu USD. Công ty Quân khu 4, Tổng công ty 11, Tổng công
ty 12 và một số đơn vị khác của quân đội đã liên doanh nhận thầu,
khai thác vận chuyển gỗ, trồng và chăm sóc rừng, xây dựng sửa
chữa đường giao thông, sản xuất vật liệu xây dựng, xây dựng trạm
thuỷ điện nhỏ, v.v. tính chung trong bốn năm 1992 - 1995 đã đạt
được doanh số là 60.540 triệu đồng.
Hai doanh nghiệp của Bình Định là liên doanh gốm sứ giữa
Công ty Phát triển kinh tế thanh niên xung phong Bình Định và
Sở Công nghiệp Chămpaxắc sản xuất gốm sứ có tổng vốn
147.328 USD và liên doanh giữa Xí nghiệp Dược phẩm Bình Định
với Xí nghiệp Dược phẩm Chămpaxắc sản xuất dược liệu, thuốc
chữa bệnh có vốn liên doanh giai đoạn 1 là 306.811 USD. Hai liên
doanh này bước đầu đã cho kết quả và hiệu quả: khai thác được
nguồn nguyên liệu, dược liệu tại Lào, tiếp cận được thị trường Nam
Lào và có khả năng xuất khẩu.
Một số doanh nghiệp khác của Hà Nội, Hải Hưng85, Thái Bình,
Vĩnh Phú86, Nghệ An, Hà Tĩnh... đã làm quen và bước đầu xác định
được chỗ đứng của mình trên đất Lào.
Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp của Việt Nam vào Lào và ngược lại
còn nhiều hạn chế, không ổn định. Các dự án của Việt Nam đầu tư
vào Lào thời kỳ này có quy mô nhỏ, số vốn thấp, nhiều ngành chưa
được quan tâm đầu tư đúng mức như đầu tư sản xuất linh kiện điện
tử, thiết bị bưu chính viễn thông...
Về phía Lào, đến những năm 1990, Lào có bốn dự án đầu tư

85
. Nay là hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên.
86
. Nay là hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ.
658 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

vào Việt Nam với tổng số vốn là 11,5 triệu USD. Tuy số dự án của
Lào không nhiều, nhưng về vốn đã đứng trên sáu nước (43/57
nước) có dự án đầu tư vào Việt Nam. Dự án liên doanh ba bên giữa
Lào với Việt Nam và Thái Lan lắp ráp xe máy đặt tại Hưng Yên từ
năm 1995 là một trong số các dự án ba bên có hiệu quả. Còn lại các
dự án khác mặc dù đã được cấp phép, nhưng do khâu chuẩn bị còn
thiếu đồng bộ nên vẫn chưa triển khai được87.
Trong lĩnh vực năng lượng, điểm nổi bật trong giai đoạn này là
hai bên đã phối hợp chặt chẽ, khẩn trương thiết kế và thi công một
số tuyến đường dây tải điện 35 KV từ Việt Nam qua Lào. Theo đề
nghị của Lào, trước mắt cần giải quyết cung cấp điện cho tỉnh Hủa
Phăn. Đường dây Mai Châu - Sầm Nưa dài 192 km (hoàn thành
vào tháng 5 năm 1995), đường dây Kim Sơn - Lắc Xao dài 30 km,
đường dây Khe Sanh - Lao Bảo - Xê Pôn dài 60km trên nguyên tắc
phần đường dây trên lãnh thổ nước nào do nước đó bỏ vốn đầu tư.
Đồng thời, ngành năng lượng hai nước cũng gặp nhau trao đổi lần
đầu về việc Việt Nam mua điện từ các nguồn miền Trung và miền
Nam của Lào.
Công tác giáo dục và đào tạo luôn được hai Đảng, hai Nhà
nước xác định là một nhiệm vụ quan trọng, là lĩnh vực hợp tác
chiến lược và là biểu hiện của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào.
Việt Nam coi việc đào tạo cho Lào một nguồn nhân lực có trình độ
là nhu cầu mang tính chiến lược lâu dài, không những của Lào mà
còn phục vụ cho quá trình hợp tác của Việt Nam với Lào.
Trong những năm đầu đổi mới (1986 - 1992), phát huy kinh
nghiệm truyền thống giữa hai nước về hợp tác giáo dục và đào tạo
đi trước một bước, Việt Nam đã đào tạo cho Lào 537 cử nhân của

. Ví dụ: dự án liên doanh chế biến nông sản đặt tại tỉnh Hải Dương đến tháng 7
87

năm 2002 mới đi vào hoạt động được.


Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 659

các ngành và 252 lưu học sinh trung học chuyên nghiệp. Tuy nhiên,
cũng từ năm 1986, Việt Nam và Lào thống nhất không gửi lưu học
sinh Lào sang Việt Nam đào tạo bậc phổ thông và hạn chế đào tạo
bậc trung học chuyên nghiệp, mà yêu cầu Việt Nam tăng cường đào
tạo giúp Lào bậc sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ), chú trọng vào các
ngành mũi nhọn về kinh tế, khoa học - kỹ thuật. Đồng thời, phía
Lào còn yêu cầu Việt Nam cử các chuyên gia sang giúp xây dựng
chương trình giảng dạy, đào tạo bồi dưỡng giáo viên, hướng dẫn
sinh viên làm đồ án tốt nghiệp... Kể từ năm 1992, Chính phủ hai
nước Việt Nam và Lào đã ký kết Hiệp định về đào tạo cán bộ Lào
tại Việt Nam và hàng năm hiệp định này đều được bổ sung sửa đổi
cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới. Trong thời kỳ 1991 -
1995, hai bên đã thống nhất dành 69% số vốn để đào tạo 1.458 học
sinh dài hạn ở các bậc trung học, đại học và trên đại học của Lào
học tập tại các trường Việt Nam.
Về kinh phí đầu tư, từ năm 1981 đến 1996, số kinh phí Việt
Nam giúp Lào chi cho giáo dục và đào tạo là 224,013 triệu USD
(quy theo tỷ giá hàng năm).
Chất lượng đào tạo đầu vào cũng được hai bên quan tâm, thời
gian học tiếng Việt dự bị tại Lào đến nay được thay thế bằng học
tại Việt Nam ngay từ năm đầu tuyển chọn. Bên cạnh việc đào tạo
cán bộ, học sinh Lào tại Việt Nam, hàng năm phía Việt Nam còn cử
chuyên gia giáo dục sang Lào giúp biên soạn chương trình giảng
dạy, giúp mở những lớp học tại chỗ tại Lào. Đặc biệt, trong giai
đoạn này, Việt Nam còn cấp kinh phí giúp Lào xây dựng và hoàn
thành bốn trường phổ thông dân tộc nội trú: Uđômxay,
Xavẳnnakhệt, Chămpaxắc và Xê Coong. Những trường nội trú này
góp phần đáng kể cho các con em dân tộc miền núi của Lào nâng
cao trình độ văn hoá và đào tạo cán bộ nguồn, phục vụ kịp thời cho
công cuộc xây dựng và phát triển ở bốn tỉnh của Lào nói riêng và
660 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

nước Lào nói chung. Với những trang thiết bị và phương tiện đầy
đủ, thiết kế đảm bảo hài hoà mang tính chất văn hoá, dân tộc, các
trường phổ thông nội trú trên được nhân dân Lào ở các địa phương
đánh giá cao, đem lại niềm vui lớn cho nhân dân Lào.
Ngoài việc giúp Lào xây dựng bốn trường nội trú trên, Việt
Nam còn tiếp tục triển khai giúp Lào xây dựng khu ký túc xá cao
tầng khép kín cho lưu học sinh và chuyên gia các nước đến học tập,
nghiên cứu và công tác tại Đại học Quốc gia Lào.
Về công tác đào tạo các lưu học sinh Việt Nam tại Lào, mặc dù
còn gặp nhiều khó khăn, nhưng hàng năm phía Lào vẫn nhận từ 10
đến 15 sinh viên Việt Nam sang học tập tại Trường Đại học Quốc
gia Lào bằng nguồn kinh phí của Lào. Từ năm 1992 đến nay, đã có
khoảng 151 sinh viên Việt Nam học tại Lào88. Số sinh viên trên,
sau khi ra trường đã phát huy tốt khả năng phục vụ kịp thời cho sự
nghiệp hợp tác toàn diện giữa hai nước.
Hợp tác giáo dục và đào tạo Việt Nam - Lào trong thời kỳ
1986 - 1996 được đánh giá là lĩnh vực hợp tác thành công nhất. Có
thể thấy rằng, do có sự quan tâm thường xuyên của hai Đảng, hai
Nhà nước, quan hệ hợp tác trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo đã được
chú trọng và phát triển cả về quy mô và hình thức. Hai nước thường
xuyên phối hợp kịp thời, cùng tháo gỡ những khó khăn, yếu kém và
cùng phấn đấu nhằm đạt được những mục tiêu đề ra.
Trong lĩnh vực y tế, ngoài việc giúp đào tạo nâng cao trình độ cán
bộ y tế cho Lào, hai bên đã giúp nhau trao đổi kinh nghiệm, thông tin
về xây dựng và phát triển ngành y tế mỗi nước, tổ chức mạng lưới y tế
từ trung ương đến cơ sở; những biện pháp phòng chống các dịch
bệnh: sốt rét, dịch tả, các bệnh nhiễm khuẩn, bướu cổ, tiêm chủng mở

88
. Xem “Báo cáo tổng kết 10 năm hợp tác giáo dục và đào tạo với Việt Nam
của Bộ Giáo dục Lào” trong Kỷ yếu Hội nghị tổng kết 10 năm hợp tác giáo dục và
đào tạo Việt Nam - Lào tại Cửa Lò, Nghệ An, tháng 8 năm 2002, tr.69.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 661

rộng, bảo hiểm y tế, hành nghề y dược tư nhân, thu một phần viện phí,
hợp tác liên doanh sản xuất và kinh doanh thuốc.
Viện Hoá học thuộc Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công
nghệ quốc gia đã phối hợp chặt chẽ với Viện Nghiên cứu cây thuốc
của Bộ Y tế Lào trong việc thực hiện đề án “Xây dựng dây chuyền
chuyển giao công nghệ chiết xuất artemisinin từ lá cây thanh hao
làm thuốc chữa bệnh sốt rét. Tạo vùng trồng, cung cấp kỹ thuật
gieo trồng cây thanh hao nhằm đáp ứng nguồn nguyên liệu thanh
hao cho dây chuyền chiết xuất artemisinin tại Lào”. Tháng 2 năm
1996, dây chuyền chiết xuất artemisinin tại Lào bằng vốn viện trợ
của Việt Nam đã hoàn thành, tuy nhiên chưa đi vào hoạt động do
thiếu nguồn nguyên liệu tại chỗ.
Viện Sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng Việt Nam và Viện Sốt
rét Lào đã trao đổi kinh nghiệm về tổ chức phòng, chữa bệnh sốt
rét; đồng thời phía Việt Nam tổ chức cho các cán bộ Lào sang khảo
sát thực tế ở Việt Nam và trao tặng thuốc chữa bệnh sốt rét
artemisinin cho Lào.
Về hợp tác văn hoá - thông tin, Trung tâm văn hoá - thông tin
Việt Nam tại Thủ đô Viêng Chăn đã được khai trương ngày 31
tháng 8 năm 1995 nhân dịp kỷ niệm 50 năm Quốc khánh Việt Nam
và có kế hoạch xây dựng lại trong hai năm 1995 - 1996 để trở thành
nơi giới thiệu các hoạt động văn hoá dân tộc Việt Nam với nhân
dân Lào và khách quốc tế.
Bảo tàng Hồ Chí Minh đã phối hợp và giúp Bảo tàng Cayxỏn
Phômvihản tài liệu, kinh nghiệm xây dựng viện bảo tàng, sưu tầm
hiện vật về kỷ niệm cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Cayxỏn
Phômvihản có ở Việt Nam, đào tạo bồi dưỡng cán bộ bảo tàng,
phối hợp chuẩn bị giúp xây dựng Viện Bảo tàng Cayxỏn
Phômvihản theo thiết kế của Lào và vốn viện trợ không hoàn lại
của Việt Nam. Ngoài ra, ngành thông tin - văn hoá hai bên cũng
662 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

thường xuyên trao đổi kinh nghiệm và chuyên gia để hỗ trợ cho
việc phát triển của ngành; hàng năm, hai nước vẫn duy trì trao đổi
một số đoàn nghệ thuật sang giao lưu, biểu diễn nhằm giới thiệu
nền văn hoá của nhau và thắt chặt quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Hàng năm, phía Việt Nam đều đáp ứng yêu cầu của phía Lào
về chuyên gia các ngành kinh tế, kỹ thuật, quốc phòng, an ninh.
Phía Lào đánh giá cao sự giúp đỡ có hiệu quả của đội ngũ chuyên
gia Việt Nam. Chính phủ Lào cũng đã quyết định và thực hiện chế
độ tiền lương mới đối với chuyên gia Việt Nam từ cuối tháng 7
năm 1993. Bản thỏa thuận về hợp tác chuyên gia giữa hai bên được
ký kết vào tháng 4 năm 1994 tại Viêng Chăn, tạo cơ chế thuận lợi
cho việc mở rộng quan hệ hợp tác chuyên gia giữa hai nước. Riêng
đối với chuyên gia quân sự, theo sáng kiến chủ động của Bộ Quốc
phòng Việt Nam, lương của chuyên gia quân sự không thực hiện
theo văn bản thoả thuận trên. Phía Việt Nam đã đáp ứng tích cực
việc cử chuyên gia theo yêu cầu của phía Lào, kể cả những trường
hợp đột xuất không ghi trong Hiệp định. Phía Lào đánh giá cao về
kết quả công tác của chuyên gia Việt Nam, nhất là về việc giúp Lào
kinh nghiệm soạn thảo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2000 và lĩnh vực tài chính - tiền tệ, đặc biệt bày tỏ sự tin cậy
đối với chuyên gia quốc phòng và nội vụ. Tuy vậy, kế hoạch
chuyên gia năm 1995 đạt thấp do phía Lào chưa xác định rõ nội
dung công việc cho chuyên gia, nhất là các chuyên gia địa phương.
d) Hợp tác giữa các tỉnh kết nghĩa
Quan hệ giữa các tỉnh kết nghĩa không chỉ dừng lại ở 10 tỉnh có
đường biên giới quốc gia với nhau mà còn mở rộng ra các tỉnh
không có chung đường biên giới quốc gia như Thủ đô Hà Nội với
Thủ đô Viêng Chăn, thành phố Hồ Chí Minh với Thủ đô Viêng
Chăn, hay Chămpaxắc, Hải Dương với tỉnh Viêng Chăn... Thành
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 663

quả của hợp tác giữa các địa phương kết nghĩa của hai nước trong
giai đoạn 1986 - 1996 tuy khiêm tốn nhưng ý nghĩa đạt được thì vô
cùng sâu sắc, vượt ra ngoài hiệu quả kinh tế.
Quan hệ hợp tác giữa các tỉnh kết nghĩa không chỉ đơn thuần là
mối quan hệ có tính chất địa phương mà là một bộ phận quan trọng,
góp phần thắt chặt mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam. Nhìn chung, trong giai đoạn này, quan hệ hợp tác
giữa các tỉnh kết nghĩa được mở rộng trên nhiều mặt, đánh dấu sự
chuyển biến về chất so với giai đoạn trước: từ viện trợ không hoàn
lại sang việc cùng nhau đầu tư xây dựng các công trình và công
việc được hạch toán. Vì thế, đã động viên khai thác có hiệu quả trí
tuệ của mỗi cán bộ, chuyên gia, người lao động, thúc đẩy sản xuất,
khai thác tiềm năng lao động, tiềm lực kinh tế của mỗi bên, thế
mạnh và nội lực của mỗi địa phương, hạn chế những lãng phí
không cần thiết.
Quan hệ hợp tác giữa các tỉnh kết nghĩa của hai nước thực chất
là hợp tác toàn diện. Về chính trị, cùng với hoạt động của các địa
phương kết nghĩa khác, tỉnh Điện Biên của Việt Nam và các tỉnh
Bắc Lào đã cử nhiều đoàn đại biểu Đảng, chính quyền, đoàn thể
tỉnh và các ngành, các cấp... duy trì các hoạt động đối ngoại chính
thức hoặc trao đổi kinh nghiệm, thống nhất quan hệ hợp tác, giúp
đỡ nhau trên các lĩnh vực. Công tác đối ngoại nhân dân được chú
trọng đã tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, cùng vun đắp xây dựng
mối quan hệ đoàn kết đặc biệt có chiều sâu, thêm bền chặt. Hai bên
luôn quan tâm và tạo điều kiện cho thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên
được tham gia các hoạt động giao lưu, trao đổi để lớp lớp thế hệ
mai sau luôn giữ gìn, bảo vệ, phát triển tình đoàn kết hữu nghị đặc
biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, coi đó là quy luật tồn tại,
phát triển của hai nước.
Về quốc phòng, an ninh, cũng như các địa phương có chung
664 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

đường biên giới quốc gia với nhau, tỉnh Sơn La và các tỉnh Bắc Lào
gồm Hủa Phăn, Uđômxay, Bò Kẹo, Luổng Nặm Thà, Luổng
Phạbang, Phôngxalỳ, Xaynhabuli thường xuyên trao đổi công tác
thông tin, phối hợp xử lý kịp thời những vụ việc phát sinh liên quan
đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội của mỗi bên. Hai bên
duy trì đều đặn giao ban công tác biên giới, tổ chức tuần tra song
phương và sửa chữa mốc giới trên tuyến biên giới giáp hai tỉnh Hủa
Phăn và Luổng Phạbang. Xây dựng khu vực biên giới ổn định và
phát triển bền vững, góp phần xây dựng biên giới hữu nghị Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Nhân dân vùng biên giới tỉnh Sơn La
và các tỉnh Bắc Lào ngày càng tăng cường đoàn kết, thực hiện tốt
quy chế biên giới, giúp đỡ nhau vượt mọi khó khăn để ổn định và
phát triển.
Một nội dung ấn tượng khác trong hoạt động hợp tác giữa các
tỉnh kết nghĩa, thắm đượm tình nghĩa Việt - Lào, Lào - Việt là việc
quy tập hài cốt quân tình nguyện và các chuyên gia Việt Nam hy
sinh tại Lào. Trong ba năm (1994 - 1997), được sự giúp đỡ chu đáo
của Chính phủ, các cấp chính quyền và nhân dân Lào và sự tổ chức,
chỉ đạo chặt chẽ của phía Việt Nam, 5.771 mộ liệt sĩ đã được phát
hiện, ngoài 1.499 mộ chỉ còn di vật, đã đưa về nước 4.274 bộ hài
cốt. Riêng mùa khô 1996 - 1997, đã phát hiện được 1.860 mộ và
đưa về nước 1.407 hài cốt. Theo thoả thuận giữa hai nước tại Biên
bản kỳ họp ủy ban liên Chính phủ lần thứ 16 tại Viêng Chăn, 1994,
nhiệm vụ này theo đó sẽ được kết thúc trong năm 1997, nhưng trên
thực tế còn khoảng trên 9.000 ngôi mộ cần xác minh kết luận, nên
chương trình này dự kiến còn phải kéo dài hợp tác thực hiện đến
những năm về sau.
Về phía Lào, Đảng, chính quyền, quân đội và nhân dân các địa
phương Lào đã phối hợp tổ chức trọng thể nhiều đợt lễ tiễn đưa hài
cốt liệt sĩ trở về Việt Nam. Cùng nằm trong những hoạt động
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 665

“Uống nước nhớ nguồn” trên, Lào đã triển khai kế hoạch xây dựng
ba tượng đài “Tình đoàn kết chiến đấu Lào - Việt Nam” đầu tiên,
đặt tại ba địa điểm là Mương Xài, Cánh đồng Chum (thuộc Bắc
Lào) và áttapư (thuộc Nam Lào)89.
Lĩnh vực hợp tác kinh tế giữa các địa phương kết nghĩa đã
thu được những kết quả sâu rộng và thiết thực. Hợp tác Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam tập trung vào các lĩnh vực nông, lâm
nghiệp và thủy lợi, qua đó tác động rõ rệt đến quá trình chuyển
đổi cơ cấu kinh tế - xã hội của Lào, nhất là các vùng biên giới,
vùng căn cứ cách mạng cũ. Việc xây dựng các mô hình điển hình
về nông nghiệp, trồng rừng, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi
gia súc và thủy sản gắn với việc chuyển giao công nghệ đã đem
lại những hiệu quả kinh tế thiết thực trong việc cùng nhau xóa
nghèo, cải thiện đời sống và phát triển kinh tế. Hoạt động thương
mại, đầu tư và du lịch cũng được đẩy mạnh, Lào đã giúp hàng
hóa Việt Nam chiếm lĩnh thị trường Lào, từ đó còn mở rộng sang
các thị trường nước thứ ba, trước hết là các nước trong tiểu vùng
Mê Công, cũng như giải quyết việc làm cho lao động Việt Nam.
Các tỉnh Việt Nam giúp Lào trao đổi và vận chuyển hàng hóa
thiết yếu, đặc biệt là giúp kho bãi và đường ra biển. Các doanh
nghiệp địa phương của Việt Nam đã bắt đầu chú ý đầu tư vào các
ngành khai khoáng, thủy điện, công nghiệp chế biến gỗ, phân
bón, dược phẩm, trồng cao su... kết hợp với việc đào tạo nhân
lực cho Lào, theo hướng đáp ứng nhu cầu phát triển nội tại và
hội nhập quốc tế của Lào.
Thành lập vào tháng 5 năm 1991, Trung tâm liên doanh Viêng

89
. Vào dịp kỷ niệm 20 năm ngày ký Hiệp định hữu nghị và hợp tác Việt Nam
- Lào (tháng 7 năm 1997), Lào đã tổ chức khánh thành tượng đài đầu tiên tại Cánh
đồng Chum - Xiêng Khoảng.
666 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Chăn - Hải Dương có trụ sở chính ở tỉnh Viêng Chăn, một chi
nhánh tại Hải Dương và một văn phòng đại diện tại thành phố Vinh
(Nghệ An). Trung tâm hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nên
cán bộ, nhân viên của Trung tâm có 45 người, gồm 15 người Việt
Nam và 30 người Lào. Trung tâm đang phấn đấu trở thành đơn vị
vững mạnh về uy tín chính trị, giàu về kinh tế, tạo cơ sở niềm tin,
giới thiệu cho các doanh nghiệp tại tỉnh Hải Dương các khả năng
hợp tác sản xuất kinh doanh trên đất Lào.
ở Bình - Trị - Thiên, từ Ban Hợp tác kinh tế - văn hóa với Lào
và Campuchia và Công ty Hợp tác liên doanh miền núi được thành
lập vào ngày 14 tháng 6 năm 1985, sau đổi thành Công ty Hợp tác
lâm nghiệp Việt - Lào, các đơn vị này đã chủ động hợp tác với các
tỉnh kết nghĩa của Lào là Xavẳnnakhệt, Khăm Muộn. Đáng chú ý là
mục tiêu của Công ty được đặt ra rất thực tế: hai bên đều có lợi, hai
bên đều mạnh lên. Qua ba năm hoạt động, từ chỗ chưa đầy 10 cán
bộ, công nhân viên, Công ty đã có 400 cán bộ, công nhân viên với
năm đơn vị trực thuộc.
Quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh còn để lại những dấu ấn hàng
ngày trong lòng nhân dân hai nước. Sau cơn bão số 8 năm 1985,
Đoàn đại biểu Đảng, chính quyền và đoàn thể tỉnh Khăm Muộn đã
đến thăm tỉnh Bình - Trị - Thiên và ủng hộ lương thực, hàng hóa,
trị giá 215.700 kíp, tỉnh Xavẳnnakhệt giúp 220 m3 gỗ và 10.000
cây tre90. Đó thực sự là món quà sâu nặng nghĩa tình giữa Đảng
bộ, chính quyền và nhân dân hai tỉnh kết nghĩa của Lào đối với
Bình - Trị - Thiên.
Năm 1989, biết tình hình cơn bão số 9 đã gây thiệt hại một số
90
. Theo Báo cáo của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế: “Quan hệ
hữu nghị hợp tác Thừa Thiên - Huế với các tỉnh nước bạn Lào (1945 - 2007)”
trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào tại các
tỉnh biên giới và một số địa phương, Hà Nội, 2009, tr.279, 280.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 667

nơi thuộc tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Tỉnh ủy và ủy ban chính quyền
áttapư đã kịp thời gửi tặng nhân dân Gia Lai - Kon Tum 2.000 tấn
thóc để cứu trợ cho những vùng bị thiên tai khắc phục hậu quả. Đó
là những món quà sâu đậm nghĩa tình, thể hiện truyền thống đoàn
kết gắn bó “hạt muối cắn đôi, cọng rau bẻ nửa” giữa nhân dân hai
nước Lào và Việt Nam91.
Đặc biệt, các địa phương kết nghĩa đều dành sự quan tâm lớn
đến hợp tác giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, cũng như những
hoạt động giao lưu văn hóa, thể dục thể thao.
Quan hệ hợp tác toàn diện và đa dạng giữa nhân dân các tỉnh
kết nghĩa thực sự là nét mới của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đây không phải là mối quan hệ
của một nước giàu đối với một nước nghèo, của một nước đã thành
công với một nước mới tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mà
ngược lại, đây là sự giúp đỡ lẫn nhau, nương tựa vào nhau của hai
nước cùng hoàn cảnh vừa ra khỏi chiến tranh với hậu quả nặng nề
của sự tàn phá khốc liệt. Đây là sự chia sẻ lẫn nhau những kinh
nghiệm trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ xây dựng chủ
nghĩa xã hội với nhiều khó khăn, lúng túng. Đây là sự tương trợ lẫn
nhau nhằm khắc phục tình trạng thiếu thốn từ cái ăn, cái mặc, đến
cả những nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Và đây cũng là sự phối
hợp trên mặt trận ngoại giao để cùng vượt qua những thách thức do
các mối quan hệ khu vực và quốc tế tạo nên, hình thành môi trường
quốc tế thuận lợi để hai nước cùng hỗ trợ nhau hội nhập và phát
triển bền vững.

91
. Theo Báo cáo của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Kon Tum: “Kon Tum thực hiện
nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào” trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Lịch sử
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào tại các tỉnh biên giới và một số địa phương, Sđd,
tr.340.
668 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

4. Tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam giai đoạn đẩy mạnh công cuộc đổi mới (1996 -
2007)
a) Yêu cầu mới của sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào
- Việt Nam
Từ năm 1996, cả hai nước Việt Nam và Lào đều bước vào
thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước bằng việc thực
hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam
và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI Đảng Nhân dân cách mạng
Lào. Công cuộc xây dựng đất nước của cả hai nước Việt Nam và
Lào trong thời kỳ này diễn ra trong một bối cảnh quốc tế và khu
vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố
khó lường.
Đặc điểm nổi bật của cục diện chính trị Đông Nam á thời kỳ
này là sự phát triển tích cực của các nỗ lực hợp tác và liên kết khu
vực và bước đầu giành được những kết quả đáng khích lệ. Từ việc
thành lập Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN với sự tham gia của
các nước ASEAN và các nước hữu quan chủ chốt như Mỹ, Nhật
Bản, Nga, Trung Quốc, EU, Ôxtrâylia đến việc xây dựng Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)92 đã mở ra một giai đoạn mới trên
lộ trình liên kết kinh tế khu vực.
Ngoài sự hình thành các tam giác tăng trưởng ở khu vực Đông
Nam á, từ năm 1992 tổ chức Tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS -
Greater Mekong Subregion) cũng được thành lập gồm sáu nước
92
. AFTA (ASEAN Free Trade Area) là Hiệp định thương mại tự do đa
phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó sẽ thực hiện tiến trình giảm
dần thuế quan xuống 0 - 5%, loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan đối với đa
phần các nhóm hàng và hài hoà hoá các thủ tục hải quan giữa các nước.
Mục đích cơ bản của AFTA là Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
(CEPT - Common Effective Preferential Tariff). Việt Nam tham gia AFTA từ năm
1996.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 669

Campuchia, Lào, Mianma, Thái Lan, Việt Nam và tỉnh Vân Nam
của Trung Quốc. GMS rộng 2,6 triệu km2 với gần 300 triệu dân.
Với sự hỗ trợ của Ngân hàng Phát triển châu á (ADB)93, sáu
nước trong GMS đã khởi động chương trình hợp tác kinh tế tiểu
vùng để đẩy mạnh quan hệ kinh tế dựa trên nền văn hoá và lịch sử
chung. Chương trình bao gồm bảy lĩnh vực ưu tiên: giao thông vận
tải, điện lực, viễn thông, môi trường, phát triển nguồn nhân lực,
mậu dịch, đầu tư và du lịch.
Chương trình GMS xây dựng chiến lược ba mũi nhọn để đạt
được tầm nhìn về một tiểu vùng thịnh vượng, hội nhập và đoàn kết.
Nghĩa là: tăng cường tính kết nối, nâng cao tính cạnh tranh và xây
dựng tính cộng đồng. Sự xuất hiện của chương trình hợp tác tiểu
vùng Mê Công mở rộng tạo điều kiện rất thuận lợi cho Việt Nam
và Lào mở rộng quan hệ và hợp tác phát triển kinh tế với các quốc
gia trong khu vực.
Thuận lợi cơ bản nhất đối với việc củng cố và tăng cường quan
hệ hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào là hai nước
có nhiều lợi ích chiến lược và thể chế xã hội tương đồng. Công
cuộc xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
của Việt Nam và Lào đều đặt dưới sự lãnh đạo của các chính đảng
mácxít. Do vậy nhu cầu đoàn kết, phối hợp hành động quốc tế và
hợp tác toàn diện trong tình hình mới đòi hỏi cả hai nước cần tăng
cường củng cố và phát triển quan hệ với nhau. Quan hệ Việt Nam -
Lào thời kỳ này vận động trong điều kiện hoà bình, ổn định, hợp
tác và phát triển đang trở thành xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc
tế, là đòi hỏi bức xúc của mọi quốc gia dân tộc. Phát triển kinh tế

93
. Năm 1992, Ngân hàng phát triển châu á (ADB) đã viện trợ cho chương
trình 280 triệu USD dành cho các dự án được ưu tiên và viện trợ kỹ thuật cho
công tác nghiên cứu và các chương trình dự án thúc đẩy việc phát triển về tư vấn
dự án.
670 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

trở thành ưu tiên hàng đầu của mọi quốc gia và xu hướng bình
thường hoá, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế diễn ra
phổ biến. Như vậy, tăng cường củng cố và phát triển quan hệ Việt
Nam - Lào không chỉ đáp ứng lợi ích của hai nước mà còn phù hợp
với xu thế phát triển chung của thế giới và khu vực.
Với hoạt động đối ngoại tích cực và năng động, Việt Nam và
Lào đã khai thác được những nhân tố thuận lợi của tình hình chính
trị quốc tế, phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, cải
thiện và nâng cao vị thế của hai nước trên trường quốc tế. Đặc biệt
là từ sau khi hai nước Việt Nam và Lào tham gia vào cộng đồng
các quốc gia ASEAN, Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Mỹ
và Trung Quốc, Việt Nam và Lào tham gia vào AFTA, GMS... đã
tạo lập được một môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước nói chung và phát triển công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nói riêng.
Trong bối cảnh chung của khu vực, việc đẩy nhanh quá trình tự
do thương mại với AFTA và APEC đã tạo điều kiện thuận lợi nhất
định cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và Lào.
Một khi AFTA đi vào hoạt động, sự phân công lao động quốc tế
trong nội bộ các nước ASEAN sẽ được đẩy mạnh. Theo đó, Việt
Nam và Lào sẽ tập trung sản xuất và xuất khẩu một số mặt hàng có
thế mạnh, vì vậy hai nước có khả năng thu hút được nguồn vốn đầu
tư từ nhiều nước vào các ngành, các lĩnh vực mà hai nước có lợi thế
so sánh so với các nước ASEAN khác. Mặt khác, sự tăng cường
quan hệ Việt Nam - Lào góp phần củng cố và đẩy nhanh xu thế hợp
tác khu vực, đóng góp vào sự ổn định khu vực, nâng cao vị thế của
ASEAN trên trường quốc tế.
Cùng với những tác động tích cực, các biến động của tình hình
thế giới thời kỳ này cũng có những ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát
triển kinh tế - xã hội và quan hệ Việt Nam - Lào. Tuy nhiên, nhân
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 671

tố tác động có ý nghĩa quyết định đến quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào là tình hữu nghị truyền thống, mối quan hệ đặc biệt và sự hợp
tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước đã
trải qua thử thách và đang giành được những thắng lợi to lớn trong
công cuộc đổi mới đất nước.
Tại Việt Nam, sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước, nhất là sau năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội
lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước Việt Nam đã đạt
được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6 năm
1996) khẳng định, Việt Nam đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới,
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng Việt Nam thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng,
an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đại hội chủ trương
kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị,
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm; đồng thời từng bước đổi mới
chính trị. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại. Mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước, vì hoà bình, độc lập và phát triển, tạo môi trường quốc tế
thuận lợi. Mở rộng quan hệ quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập tự
chủ, bình đẳng và cùng có lợi, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa và
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thực hiện đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Coi trọng và tiếp tục phát huy những
672 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

quan hệ truyền thống. Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng,
các nước trong tổ chức ASEAN...
Tuy nhiên, là một nước đang phát triển, Việt Nam cũng đứng
trước hàng loạt những khó khăn thách thức, đó là phải đối diện với
bốn nguy cơ, trong đó nguy cơ lớn nhất là thách thức của sự tụt hậu
về trình độ phát triển. Trong điều kiện cơ sở vật chất, tiềm lực kinh
tế còn hạn chế, năng lực khoa học - công nghệ còn thấp, trình độ
quản lý còn yếu kém, sự hiểu biết và kinh nghiệm hợp tác với nước
ngoài còn ít, những thách thức về cạnh tranh trong kinh tế thị
trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà Việt Nam phải đối
diện ngày càng khốc liệt.
Là một nước kiên trì mục tiêu xã hội chủ nghĩa, Việt Nam tiếp
tục là mục tiêu chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch bằng “diễn biến hoà bình” với những âm mưu ngày càng nham
hiểm và xảo quyệt.
Vì vậy, muốn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII,
toàn Đảng, toàn dân Việt Nam phải vượt qua khó khăn, phát huy
nội lực, từng bước nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong đó có
sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào.
Tại Lào, đến năm 1996, việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại
hội lần thứ V Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã thu được nhiều kết
quả mới, đất nước có chuyển biến tích cực trên nhiều mặt. Điểm
nổi bật là việc ban hành Hiến pháp đầu tiên của nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từ
năm 1993 đến 2000. Hệ thống chính trị dân chủ nhân dân được
củng cố, ổn định vững chắc, trật tự trị an xã hội về cơ bản được giữ
vững; kinh tế - xã hội phát triển rõ rệt, kinh tế quốc dân liên tục
phát triển với tốc độ khá cao (bình quân 6,4%/năm). Chủ trương
chuyển nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hóa, lấy hộ gia
đình làm xuất phát điểm và là đơn vị chủ yếu được thực hiện
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 673

nghiêm túc và bước đầu đem lại hiệu quả rõ rệt. Bước đầu đã có
những yếu tố phát triển công nghiệp năng lượng, khai khoáng, sản
xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp,
đáp ứng thị trường trong nước và xuất khẩu. “Đạt được những
thành quả đó là do Lào đã xây dựng được kế hoạch phát triển kinh
tế, xã hội dài hạn và ngắn hạn, tích cực điều chỉnh cơ cấu và chính
sách phù hợp với kinh tế thị trường. Quan hệ quốc tế được mở rộng
nhiều mặt với mức độ khác nhau, uy tín và địa vị của Lào trong khu
vực và trên trường quốc tế ngày càng được đề cao. Chúng ta vui
mừng thấy rằng mối quan hệ hữu nghị đoàn kết đặc biệt và hợp tác
toàn diện Lào - Việt Nam không ngừng được tăng cường theo
hướng thiết thực và hiệu quả, phù hợp với công cuộc đổi mới của
mỗi nước và đặc điểm của tình hình quốc tế”94.
Tuy nhiên, kinh tế - xã hội cũng còn nhiều khó khăn, đặc biệt là
an ninh chính trị và an toàn xã hội. Các thế lực thù địch tiếp tục
thông qua viện trợ, hợp tác, tổ chức tôn giáo và các lực lượng
lưu vong... tranh thủ lôi kéo cán bộ, sinh viên nhằm làm chuyển
hướng đi của cách mạng Lào. Các lực lượng phản động người
Lào đẩy mạnh hoạt động tình báo, cho lực lượng xâm nhập nội
địa Lào dưới nhiều hình thức để nắm tình hình, hoạt động gây
rối, nhất là trong thời gian diễn ra Đại hội VI Đảng Nhân dân
cách mạng Lào.
Đặc biệt, từ năm 1997, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ trong khu vực, tình hình kinh tế Lào đã có diễn biến
không lành mạnh. Tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng chậm lại
và giảm dần (năm 1998 chỉ tăng 5,6%). Đáng chú ý là xuất khẩu,

94
. Văn kiện Đại hội lần thứ VI Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb. Chính
trị quốc gia, Nhà xuất bản và phát hành sách nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào, Hà Nội, 1996, tr.21 - 22.
674 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

đầu tư trực tiếp và vay nợ, viện trợ nước ngoài giảm mạnh. Cán cân
thanh toán quốc tế bội chi lớn và tỷ giá hối đoái biến động không
bình thường (ba năm tăng 10 lần).
Ngân sách bội chi tới 11 - 12% so với GDP, đặc biệt lạm phát
phi mã đã có xu hướng tăng cao, không kiềm chế được đã làm cho
các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài hoạt động khó khăn,
nhiều doanh nghiệp thua lỗ nặng, các nhà đầu tư nản lòng. Tình
trạng mua vét ngoại tệ để thanh toán khá phổ biến, ngoại tệ chảy ra
bên ngoài ngày càng nhiều. Các công trình đầu tư kém hiệu quả,
người hưởng lương gặp khó khăn. Ngân hàng thương mại thiếu tiền
mặt, dư nợ quá hạn cao đang đứng trước nguy cơ đổ vỡ95.
Trong bối cảnh đó, tháng 3 năm 1996, Đảng Nhân dân cách mạng
Lào tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Đại hội
khẳng định nhân dân các bộ tộc Lào có đầy đủ khả năng xây dựng
đất nước phồn vinh, tiến bộ; đồng thời xác định mục tiêu phấn
đấu đến năm 2020 đưa đất nước Lào thoát khỏi tình trạng kém
phát triển. Đại hội cũng xác định mục tiêu của năm năm trước
mắt (1996 - 2000): phấn đấu đưa nền kinh tế phát triển liên tục ở
mức độ cao (8 - 8,5%/năm). Phát triển nông thôn toàn diện, xây
dựng một số công trình cơ bản làm tiền đề cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Về công tác đối ngoại, Đảng và Nhà nước Lào tiếp tục thực hiện
nhất quán chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng
hoá, tăng cường quan hệ ngoại giao hoà bình, hữu nghị và hợp tác
với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, bình đẳng, hai
bên cùng có lợi, góp phần cùng các dân tộc trong sự nghiệp đấu
tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong

95
. Lê Quốc Lý: Việt Nam giúp Lào chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô,
Tài liệu nội bộ, tr.11.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 675

giai đoạn này, Đảng Nhân dân cách mạng Lào chủ trương đổi mới
chính sách đối ngoại nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị truyền
thống, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với Việt Nam và
Campuchia, phối hợp với nhau để cải tiến hình thức và phương thức
hợp tác cho ngày càng phù hợp và có hiệu quả hơn, vì lợi ích chung
cũng như lợi ích của mỗi bên cả trước mắt và lâu dài.
Đảng và Nhà nước Lào cũng chủ trương làm hết sức mình để
vun đắp mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Trung Quốc
và các nước anh em trên thế giới. Tiếp tục thực hiện chính sách
cũng tồn tại hoà bình trên tình nghĩa láng giềng trước sau như một
với Vương quốc Thái Lan và các nước trong khu vực.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân
dân cách mạng Lào, khoá VI (tháng 9 năm 1996) đã làm rõ thêm về
chính sách đối ngoại. Nâng cao ý thức độc lập, tự chủ và tự hào dân
tộc hơn nữa để chủ động trong quan hệ hợp tác và tranh thủ viện trợ
của nước ngoài trên cơ sở vững vàng trong chiến lược, mềm dẻo
linh hoạt trong sách lược, thực hiện phương châm tăng bạn bớt thù,
mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài theo hướng quan hệ đa
phương, nhiều mức độ nhưng có trọng tâm, có quan điểm bạn, thù
rõ ràng, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại chính trị, ngoại
giao với kinh tế nhằm tạo ra môi trường thuận lợi và thời cơ cho
công cuộc phát triển đất nước.
Với chính sách đối ngoại rộng mở như vậy, đến đầu năm 1996,
Lào đã có quan hệ với gần 100 nước, có hơn 30 nước đầu tư trực tiếp
vào Lào, trong đó đáng chú ý là Trung Quốc, Thái Lan, Mỹ, Malaixia.
Mặc dù vậy, quan hệ với Việt Nam vẫn được Đảng và Nhà
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào xác định là mối quan hệ đặc
biệt và hợp tác toàn diện, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển và
thắng lợi của cách mạng mỗi nước. Tuy nhiên, so với tiềm năng,
thế mạnh và yêu cầu phát triển của mỗi nước thì hợp tác về kinh tế
676 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

và văn hoá vẫn là khâu yếu nhất, cơ chế, chính sách còn thiếu đồng
bộ và chưa hợp lý, do vậy việc mở rộng đầu tư trực tiếp, liên doanh
tại Lào còn chậm và hiệu quả thấp. Vì vậy, trong bối cảnh mới càng
đòi hỏi hai bên nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và phát huy nội lực
của mỗi nước, tăng cường hơn nữa sự hợp tác toàn diện, ngày càng
đi vào chiều sâu và hiệu quả hơn.
b) Hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam giai
đoạn 1996 - 2007
* Hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong lĩnh vực
chính trị, đối ngoại
Quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong lĩnh
vực chính trị ngày càng được tăng cường. Từ năm 1988, cuộc gặp
hàng năm giữa hai Bộ Chính trị đã trở thành một cơ chế hoạt động
chính thức giữa hai Đảng và hai Nhà nước. Biên bản thoả thuận
giữa hai Bộ Chính trị là văn kiện quan trọng quyết định những
phương hướng lớn của quan hệ và sự hợp tác toàn diện Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam trong từng thời kỳ và hàng năm.
Mở đầu cho thời kỳ 1996 - 2007 là cuộc gặp cấp cao giữa hai
Đảng vào tháng 1 năm 1996 tại Viêng Chăn. Hai bên đã thống nhất
những định hướng lớn cho sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào
giai đoạn 1996 - 2000. Trên cơ sở đó, ngày 14 tháng 1 năm 1996,
Chính phủ hai nước đã ký Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa
học - kỹ thuật Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2000 và kế hoạch
hợp tác năm 1996. Hai bên cũng đã ký Hiệp định bảo hộ đầu tư và
tránh đánh thuế hai lần; Nghị định thư thực hiện Hiệp định vận tải
đường bộ giữa hai Chính phủ. Đầu tháng 1 năm 1997, đoàn cán bộ
cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng
Lào đã tiến hành hội đàm, trao đổi và nhất trí cao nhiều vấn đề
quan trọng trong quan hệ giữa hai Đảng và hai nước. Hai bên đánh
giá cao kết quả hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trong năm 1996;
đồng thời cũng xác định những mặt yếu kém và các nguyên nhân
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 677

của nó.
Trên cơ sở những tiềm năng, thế mạnh và yêu cầu của công
cuộc đổi mới đất nước, hai bên đã thống nhất phương hướng hợp
tác trong năm 1997 với những nội dung cơ bản sau:
Tăng cường hợp tác về chính trị, duy trì cuộc gặp hàng năm
giữa hai Bộ Chính trị, tăng cường hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại,
hai Bộ Ngoại giao, nhất là khi hai nước cùng tham gia ASEAN và
AFTA; tăng cường phối hợp chống vận chuyển ma tuý qua biên
giới; tăng cường hợp tác giữa các tỉnh có chung biên giới, cho phép
mở chợ đường biên, khuyến khích trao đổi hàng hoá, giao lưu buôn
bán, hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng; hai bên thúc đẩy hơn nữa
quan hệ hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật theo hướng
lựa chọn các công trình, dự án phù hợp với khả năng và điều kiện
của mỗi nước.
Về đầu tư, hai Bộ Chính trị nhất trí yêu cầu hai Chính phủ cần
có một số giải pháp mạnh mẽ thúc đẩy đầu tư của Việt Nam vào
Lào bằng các hình thức: hai nước liên doanh cùng góp vốn; Việt
Nam đầu tư 100% vốn; Việt Nam đấu thầu xây dựng kết cấu hạ
tầng bằng vốn của Lào hoặc vốn của nước thứ ba. Coi đây là vấn
đề trọng điểm của hợp tác Việt Nam - Lào trong năm 1997 và
những năm tiếp theo96.
Bộ Chính trị hai Đảng cũng nhất trí giao cho Chính phủ và Uỷ
ban Hợp tác hai nước phối hợp nghiên cứu và sớm ban hành các cơ
chế, chính sách về: vay vốn ưu đãi, miễn giảm thuế, hỗ trợ chi phí
nghiên cứu cho một số dự án... nhằm tạo môi trường pháp lý và
động lực thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp hai nước.

96
. Biên bản thoả thuận giữa hai Bộ Chính trị Việt Nam và Lào, tại Hà Nội,
ngày 7 tháng 1 năm 1997 (lưu tại Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam, đơn vị bảo quản 1694).
678 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Phía Việt Nam tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho Lào sử dụng
các tuyến đường ra biển và cảng biển của Việt Nam. Hai bên sẽ
nghiên cứu xây dựng tuyến đường ra cảng Vũng áng và đường ống
dẫn dầu thuận lợi nhất.
Việt Nam tiếp tục giúp Lào đào tạo và bồi dưỡng cán bộ theo
khả năng của mình. Ngoài việc đào tạo cán bộ có trình độ đại học
và trên đại học ở các trường đại học Việt Nam, Việt Nam sẽ giúp
Lào bồi dưỡng ngắn hạn nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ chính
trị, cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ đoàn thể ở Việt Nam hoặc ở
Lào. Đào tạo có hệ thống để hình thành khung cán bộ đồng bộ cho
các ngành của Lào. Việt Nam sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của Lào
về chuyên gia, tiếp tục khuyến khích hợp tác giữa hai bên về lao
động.
Hai Bộ Chính trị cũng đã thống nhất chủ trương tăng cường bộ
phận thường trực Phân ban Hợp tác Việt Nam - Lào.
Trong năm 1997, nhiều đoàn cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà
nước và các ban, ngành trung ương và địa phương hai nước đã
thăm viếng, trao đổi, giới thiệu những kinh nghiệm quý báu của
mỗi bên trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, tạo bầu
không khí hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau, mở ra nhiều hướng hợp
tác mới với nội dung phong phú, giúp nhau giải quyết những vấn đề
thiết thực trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Tháng 6 năm 1997,
đồng chí Nủhắc Phumxavẳn, Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, Chủ tịch nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào thăm Việt
Nam; tháng 8 năm 1997, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào...
Năm 1997, Việt Nam và Lào đã long trọng kỷ niệm hai sự kiện
lớn có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa hai nước, đó
là: 20 năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào
và 35 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 679

Mặc dù bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế - tài chính và


thiên tai, nhưng sự nghiệp đổi mới đất nước của Việt Nam và Lào
tiếp tục giành được những thành tựu quan trọng. Quan hệ Việt Nam
- Lào có bước phát triển mới, thoả thuận của hai Bộ Chính trị (tại
Viêng Chăn, tháng 3 năm 1998) được tích cực triển khai và kết quả
tốt hơn các năm trước trên tất cả các lĩnh vực.
Tháng 1 năm 1999, hai Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam
và Đảng Nhân dân cách mạng Lào hội đàm tại Hà Nội. Hai bên
thống nhất: “Trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế, quan hệ
Việt Nam - Lào tiếp tục phát triển trên cơ sở nêu cao tinh thần độc
lập, tự chủ và phát huy cao nhất nội lực của mỗi nước, hợp tác
bình đẳng cùng có lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào với thông lệ quốc tế, ưu tiên ưu đãi hợp lý cho
nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho hai nước khắc phục hậu quả của
khủng hoảng kinh tế - tài chính, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi
mới, từng bước hội nhập khu vực và quốc tế”97.
Hai bên chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác về chính trị,
duy trì cuộc gặp hàng năm giữa hai Bộ Chính trị; tăng cường hợp
tác giữa hai Ban Đối ngoại, Bộ Ngoại giao phối hợp hành động
trong quan hệ với ASEAN, AFTA (Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN), ARF (Diễn đàn khu vực ASEAN).
Hai bên thống nhất khẩn trương xây dựng định hướng chiến
lược hợp tác đến năm 2020 và chương trình hợp tác từ năm 2001
đến 2010. Tiếp tục hợp tác toàn diện, tập trung ưu tiên cho các
lĩnh vực quan trọng, có hiệu quả cao, trước hết tập trung cho lĩnh
vực nông nghiệp, thuỷ lợi để từng bước giúp Lào giải quyết vấn
đề an ninh lương thực. Chính phủ hai nước cần có cơ chế, chính
97
. Biên bản thoả thuận giữa hai Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và
Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tại Hà Nội, tháng 1 năm 1999 (lưu tại Văn phòng
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đơn vị bảo quản 1695).
680 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

sách khuyến khích đầu tư mạnh mẽ giữa hai nước, coi đây là trọng
điểm hợp tác Việt Nam - Lào trong năm 1999 và những năm tiếp
theo.
Tại cuộc gặp giữa hai Bộ Chính trị diễn ra hồi tháng 1 năm
2000 tại Viêng Chăn, hai bên nhất trí đánh giá cao kết quả thực
hiện thoả thuận tháng 1 năm 1999. Mặc dù bị tác động mạnh mẽ
của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính châu á và thiên tai nặng
nề, công cuộc đổi mới của cả hai nước vẫn giành được những thành
tựu quan trọng, tạo điều kiện cho quan hệ hữu nghị truyền thống,
đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào ngày càng
được củng cố và phát triển. Trong năm 1999, các cuộc gặp gỡ
truyền thống giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước góp
phần thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào lên một bước mới.
Về phương hướng hợp tác năm 2000, hai bên khẳng định:
“Tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào được Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản dày công vun đắp và trải
qua thử thách lâu dài 70 năm qua, là tài sản quý báu của hai dân
tộc, là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng của nhân dân hai nước. Ngày nay, trước thềm của thiên
niên kỷ mới, mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị đặc biệt đó lại càng
cần phải được củng cố và tăng cường hơn nữa để truyền tiếp cho
muôn đời con cháu mai sau”98.
Hai bên khẳng định tiếp tục thực hiện có hiệu quả tuyên bố
chung Việt Nam - Lào tháng 3 năm 1998, tháng 1 năm 1999 và các
thoả thuận của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước, trong đó
có thoả thuận của hai Phân ban Hợp tác Việt Nam - Lào tại Cửa Lò.
Hai bên phối hợp tổng kết bước đầu về quan hệ 70 năm qua, phối

. Biên bản thoả thuận giữa hai Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và
98

Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tại Viêng Chăn, ngày 17 tháng 1 năm 2000 (lưu tại
Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đơn vị bảo quản 1691).
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 681

hợp tổng kết và biên soạn tài liệu về truyền thống quan hệ Việt
Nam - Lào.
Nhìn chung, quan hệ chính trị Việt Nam - Lào trong năm năm
(1996 - 2000) đã diễn ra sôi động với nội dung phong phú và quy
mô lớn hơn các năm trước. Hai bên đã thoả thuận được những chủ
trương, biện pháp tăng cường quan hệ và nâng cao hiệu quả hợp
tác; khẳng định và khai thông những vấn đề còn tồn đọng và ký kết
được nhiều văn kiện quan trọng qua các cuộc gặp gỡ truyền thống
hàng năm giữa hai Bộ Chính trị và các chuyến thăm, làm việc của
các đoàn cấp cao Đảng và Nhà nước hai nước. Kết quả này ngày
càng khẳng định mối quan hệ đặc biệt, toàn diện có ý nghĩa chiến
lược giữa hai nước và củng cố tình đoàn kết, gắn bó, tin tưởng lẫn
nhau; mở ra nhiều nội dung phong phú, giải quyết kịp thời được
nhiều vấn đề thiết thực, mang lại những hiệu quả cao trong quan hệ
hợp tác giữa hai nước và tạo nên bầu không khí hữu nghị, hiểu biết
lẫn nhau, đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ hợp tác
đặc biệt giữa hai nước, tạo tiền đề cho phát triển hợp tác giai đoạn
sau.
Cuộc gặp giữa hai Bộ Chính trị tháng 2 năm 2001 mở đầu cho
thời kỳ mới 2001 - 2005 được tiến hành tại Hà Nội. Hai Bộ Chính
trị thống nhất định hướng chiến lược hợp tác thời kỳ 2001 - 2010
và chương trình hợp tác năm năm 2001 - 2005. Hai bên cho rằng:
“Dù trong hoàn cảnh nào cũng cần tiếp tục thực hiện những phương
hướng và nguyên tắc lớn mà hai Bộ Chính trị đã thoả thuận nhằm
củng cố và phát triển sâu rộng hơn nữa quan hệ hợp tác giữa hai
Đảng, hai Nhà nước”...99.

. Thoả thuận giữa hai Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân
99

dân cách mạng Lào, tại Hà Nội, tháng 2 năm 2001 (lưu tại Văn phòng Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam).
682 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Hai bên chủ trương tiếp tục hoàn thành các dự án đã thoả
thuận: dự án bảo đảm an ninh lương thực của Lào; dự án quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội toàn quốc Lào đến năm 2020; dự án lập
bản đồ biên giới quốc gia Việt Nam - Lào. Tiếp tục mở rộng hợp
tác toàn diện, dành ưu tiên, ưu đãi cho nhau; phối hợp, tiến tới hoà
mạng trên các lĩnh vực giao thông, điện lực, xăng dầu, bưu chính
viễn thông và du lịch.
Sử dụng tập trung và có hiệu quả hơn nguồn viện trợ phát
triển và hợp tác giữa hai nước; tập trung vào việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ và những công trình trọng điểm có ý nghĩa chiến
lược đối với nền kinh tế của Lào và những công trình thể hiện
quan hệ đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào. Hai bên tiếp
tục bổ sung, hoàn thiện các cơ chế chính sách, đẩy mạnh đầu tư
liên doanh sản xuất phù hợp với điều kiện, khả năng, thế mạnh
của mỗi nước. Trước mắt tập trung vào những sản phẩm có thị
trường tiêu thụ và sử dụng nguyên liệu tại chỗ; mở rộng hoạt động
thương mại trên cơ sở đã được hai bên thỏa thuận trong hiệp định
thương mại.
Thời kỳ 2001 - 2005 và đến 2007, những cuộc gặp cấp cao giữa
hai Đảng (Bộ Chính trị) được duy trì thường xuyên vào đầu năm,
tiếp sau đó là các cuộc gặp của các đoàn Nhà nước và các bộ, ban,
ngành và các địa phương, đơn vị hai bên Việt - Lào. Trung bình
mỗi năm có khoảng hơn 200 đoàn ở tất cả các cấp của hai bên qua
lại trao đổi, thăm viếng lẫn nhau, tăng cường sự hiểu biết và tin cậy
lẫn nhau, góp phần củng cố khối đoàn kết, hữu nghị giữa hai Đảng,
hai Nhà nước và hai dân tộc.
Đặc biệt là trong cuộc thăm chính thức Lào của Tổng Bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh tháng 7 năm 2001, hai
bên đã ra Tuyên bố chung - một văn kiện quan trọng đánh dấu bước
phát triển mới trong quan hệ Việt Nam - Lào khi bước vào thế kỷ
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 683

XXI. Trong lần viếng thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng
Bun Nhăng Volachít, tháng 7 năm 2001, hai bên đã ký Hiệp định
tín dụng xây dựng đường 18B và Thỏa thuận về quy chế sử dụng
cảng Vũng áng. Trong chuyến viếng thăm chính thức Việt Nam của
Chủ tịch nước Khăm Tày Xiphănđon, tháng 5 năm 2002, hai bên
ký nhiều thỏa thuận hợp tác trong các lĩnh vực như nông nghiệp,
năng lượng, giáo dục và đào tạo trên cơ sở định hướng chiến lược
hợp tác giữa Việt Nam và Lào giai đoạn 2001 - 2010.
Từ thực tế của sự phát triển kinh tế - xã hội mỗi nước với
những tác động của bối cảnh khu vực và quốc tế, tại cuộc hội đàm
tháng 1 năm 2006, hai Bộ Chính trị đã thống nhất định hướng
chương trình, kế hoạch hợp tác Việt Nam - Lào giai đoạn 2006 -
2010. Tư tưởng chỉ đạo trong chương trình hợp tác giai đoạn 2006
- 2010 là: tiếp tục phát huy mối quan hệ truyền thống tốt đẹp, có
hiệu quả trong mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Kết hợp chặt
chẽ giữa hợp tác kinh tế với chính trị, an ninh, quốc phòng và đối
ngoại. Lấy mục tiêu chính trị làm cơ sở để xem xét hiệu quả của
các hoạt động hợp tác kinh tế, trên cơ sở phát huy và duy trì các kết
quả hợp tác đã đạt được; sử dụng tốt tiềm năng, thế mạnh và bảo
đảm sự phát triển bền vững môi trường sinh thái của mỗi nước;
nâng cao hiệu quả và tăng cường ảnh hưởng thông qua hợp tác
kinh tế; đồng thời có cơ chế hỗ trợ thông thoáng, tạo sức cạnh
tranh cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư, thương mại trên thị
trường hai bên.
Thông qua các cuộc thăm chính thức của lãnh đạo cấp cao hai
nước, nhiều vấn đề cụ thể của chiến lược hợp tác 2001 - 2010 và kế
hoạch hợp tác Việt Nam - Lào giai đoạn 2006 - 2010 đã được thống
nhất. Đó là: chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Chummaly Xaynhaxỏn, tháng 10 năm 2006; chuyến thăm hữu nghị
chính thức Lào của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông
684 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Đức Mạnh, tháng 10 năm 2006; chuyến thăm chính thức Lào của
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tháng 12 năm 2006; các chuyến
viếng thăm chính thức Lào của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết
(tháng 2 năm 2007) và của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng
(tháng 6 năm 2007).
Trong các cuộc viếng thăm của các đoàn cấp cao, hai bên đã
tiến hành trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong nhiều lĩnh vực
về lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, về quản lý nhà
nước, xây dựng đảng, về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, về
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn nhau trong nhiều lĩnh vực
là rất cần thiết và đem lại hiệu quả thiết thực cho cả hai bên, góp
phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển của cả hai dân tộc.
Hai bên nhất trí phối hợp nghiên cứu, biên soạn công trình Lịch
sử quan hệ đặc biệt và liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam giai đoạn 1930 - 2007 nhằm tổng kết quá trình liên minh
chiến đấu và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam,
đúc kết những bài học kinh nghiệm, phục vụ cho việc tiếp tục xây
dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào lên một tầm
cao mới.
Lĩnh vực hợp tác về đối ngoại từ sau năm 1996 tiếp tục được
tăng cường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đem lại nhiều kết quả
khả quan. Trong bối cảnh quốc tế mới, Việt Nam và Lào đẩy mạnh
triển khai đường lối độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở,
đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực. Trong chính sách đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ đối ngoại Việt Nam và Lào đều tiếp tục hết
sức coi trọng quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, cam kết quyết tâm
giữ gìn và không ngừng phát triển truyền thống quý báu đó như
một quy luật phát triển và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 685

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước100. Hợp tác trong
lĩnh vực đối ngoại được thể hiện trên phạm vi quốc gia và giữa hai
Ban Đối ngoại, hai Bộ Ngoại giao, ngoài ra còn có quan hệ giữa
các địa phương, trong đó các tổ chức chính trị, xã hội giữ một vai
trò rất quan trọng trong việc tăng cường các mối quan hệ hữu nghị
giữa hai nước.
Hợp tác đối ngoại Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2007 bao
gồm những nội dung sau:
Trao đổi thông tin được tiến hành thường xuyên, đặc biệt là
trong các cuộc gặp gỡ, nhất là các cuộc gặp cấp cao giữa hai Đảng
và hai Nhà nước và các cuộc gặp của hai Ban Đối ngoại, hai Bộ
Ngoại giao. Trong các cuộc gặp gỡ, hai bên thông báo cho nhau về
tình hình nước mình, về các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên
đều quan tâm; trao đổi ý kiến, quan điểm về các vấn đề bức xúc
như: khủng hoảng kinh tế - tài chính 1997 - 1999, tình hình Trung
Đông, tình hình Đông Nam á, châu á - Thái Bình Dương. Đặc biệt
là từ khi hai bên quyết định thực hiện trao đổi thông tin (Tuyên bố
chung Việt Nam - Lào trong chuyến thăm chính thức Lào, tháng 7
năm 2001 của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh) và kênh giao lưu giữa
hai Bộ Ngoại giao được thiết lập (năm 2003) thì việc trao đổi thông
tin giữa hai bên ngày càng được tăng cường và có hiệu quả.
Phối hợp tại các diễn đàn quốc tế và khu vực: Việt Nam và Lào
đều là thành viên của nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực,
đặc biệt là từ sau khi Việt Nam và Lào tham gia Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam á (Việt Nam năm 1995 và Lào năm 1997)101.

100
. Tuyên bố chung Việt Nam - Lào trong chuyến thăm chính thức Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Lào của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (từ ngày 9 đến
12 tháng 7 năm 2001). Báo Nhân dân, ngày 13 tháng 7 năm 2001.
101
Liên hợp quốc (UN), Hội đồng kinh tế - xã hội châu á - Thái Bình Dương
(ESCAD), Phong trào Không liên kết (NAM), Tổ chức Cộng đồng Pháp ngữ, Hiệp
686 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Nội dung hợp tác cụ thể giữa Việt Nam và Lào trong các tổ
chức và diễn đàn bao gồm: trao đổi thông tin, trao đổi đánh giá tình
hình về các vấn đề liên quan; phối hợp lập trường, quan điểm, đặc
biệt là những vấn đề có tính nguyên tắc và nhạy cảm như Hiệp ước
chống khủng bố, cải tổ Liên hợp quốc, tình hình bán đảo Triều
Tiên, các nguyên tắc của ASEAN, vấn đề dân chủ, nhân quyền, sử
dụng nguồn nước sông Mê Công, vận chuyển hàng hoá và người
qua biên giới; trao đổi kinh nghiệm về tổ chức hội nghị quốc tế, vận
động ODA; ủng hộ Lào trong việc xây dựng dự án và vận động tài
trợ trong hợp tác tiểu vùng...
Hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại, hai Bộ Ngoại giao: trong thời
kỳ 1996 - 2007, hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại, hai Bộ Ngoại giao
ngày càng được tăng cường với những nội dung và hình thức mới.
Đó là các hiệp định hợp tác dài hạn, tổ chức giao lưu luân phiên
giữa hai Ban Đối ngoại và hai Bộ Ngoại giao, các thỏa thuận hợp
tác giữa các đơn vị thuộc Ban Đối ngoại và Bộ Ngoại giao hai
nước. Hai bên giúp đỡ nhau tổ chức thành công nhiều hội nghị và
diễn đàn lớn trong khu vực như: hỗ trợ Lào tổ chức Hội nghị cấp
cao ASEAN lần thứ 10 tại Viêng Chăn (năm 2004), Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN (năm 2005) tại Viêng Chăn.
Hai bên phối hợp trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm
công tác đối ngoại. Việc Việt Nam giúp Lào đào tạo cán bộ đối
ngoại đã được tiến hành từ lâu. Đặc biệt từ năm 1997 đến nay,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Học viện Quan hệ

hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác á - Âu (ASEM), Tiểu
vùng Mê Công mở rộng (GMS), Uỷ ban Mê Công (MRC), Tam giác phát triển
Campuchia - Lào - Việt Nam (CLV), Hợp tác Campuchia - Lào - Việt Nam với
Nhật Bản (CLV+J), Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC), Tổ chức chiến lược
hợp tác kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mê Công (ACMECS), Hợp tác
Campuchia - Lào - Mianma - Việt Nam (CLMV), Hợp tác sông Mê Công - sông
Hằng (MGC).
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 687

quốc tế của Việt Nam đã mở nhiều lớp đào tạo cán bộ cho Ban
Đối ngoại Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Bộ Ngoại
giao Lào. Từ năm 1997 đến 2007, Học viện Quan hệ quốc tế Việt
Nam đào tạo cho Lào 169 cán bộ bậc đại học, tám học viên cao
học chuyên ngành ngoại giao.
Trong quan hệ đối ngoại Việt Nam - Lào, việc hợp tác đối
ngoại nhân dân giữa hai bên cũng được đặc biệt chú trọng và có
những bước phát triển mới, góp phần quan trọng vào việc củng cố
và phát triển mối quan hệ đặc biệt, thủy chung, trong sáng Việt
Nam - Lào. Trong kết quả chung đó phải kể đến sự đóng góp to lớn
của Liên hiệp Các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội Hữu nghị Việt
Nam - Lào, Hội Hữu nghị Lào - Việt Nam.
Trong thời kỳ 1996 - 2007, các hội hữu nghị hai nước đã tích
cực giới thiệu, giúp đỡ doanh nghiệp hai nước xúc tiến hợp tác kinh
tế, thương mại giữa hai bên, trợ giúp các doanh nghiệp Việt Nam
đầu tư vào Lào. Phối hợp với các cơ quan, đơn vị tổ chức những
đoàn du lịch thăm chiến trường xưa, du lịch tìm cơ hội hợp tác kinh
doanh. Các địa phương biên giới giúp nhau kỹ thuật sản xuất, hỗ trợ
cây, con giống, duy trì an ninh biên giới. Các hoạt động hữu nghị
được tổ chức với quy mô và mức độ ngày càng cao, nổi bật là Liên
hoan hữu nghị nhân dân biên giới hai nước năm 2002; Kỷ niệm 30
năm Quốc khánh Lào tại Việt Nam; các hoạt động Kỷ niệm 30 năm
ngày ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào và 45 năm
ngày thiết lập quan hệ ngoại giao trong năm 2007 diễn ra tại hai
nước; Liên hoan hữu nghị nhân dân Việt Nam - Lào là một hình thức
giao lưu hữu nghị nhân dân rất thiết thực và hiệu quả đối với việc
củng cố quan hệ hữu nghị và hợp tác nhân dân Việt Nam - Lào.
* Hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong lĩnh vực quốc
phòng, an ninh
Đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào, nhiệm vụ
688 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

quốc phòng, an ninh luôn luôn là một trong hai nhiệm vụ chiến
lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đại hội lần thứ
VIII Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6 năm 1996) chỉ rõ: trong khi
đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta
không chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng
quốc phòng, an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt
chẽ. Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế. Gắn chặt nhiệm vụ
quốc phòng với nhiệm vụ an ninh để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ
trong tình hình mới. Phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng, an
ninh với hoạt động đối ngoại.
Đại hội lần thứ VI Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tháng 3
năm 1996) cũng tiếp tục khẳng định: để làm nòng cốt cho sự
nghiệp quốc phòng toàn dân phải chú trọng xây dựng và củng cố
quân đội nhân dân về mọi mặt..., coi trọng hơn nữa việc xây dựng
thế trận quốc phòng nhân dân ở cơ sở, gắn với việc phát triển nông
thôn toàn diện, kết hợp chặt chẽ công tác quốc phòng, an ninh với
phát triển kinh tế - xã hội.
Từ những quan điểm chỉ đạo trên, trong các cuộc gặp hai Bộ
Chính trị hàng năm, vấn đề hợp tác về quốc phòng, an ninh giữa hai
nước luôn luôn được đặt ở vị trí thứ hai (chỉ sau lĩnh vực hợp tác về
chính trị). Điều đó nói lên tầm quan trọng đặc biệt của việc hợp tác
về quốc phòng, an ninh trong mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào.
Đối với lĩnh vực quốc phòng, sự hợp tác trước hết được thực
hiện thông qua các cuộc gặp cấp cao. Trên cơ sở định hướng của
thỏa thuận giữa hai Bộ Chính trị về quốc phòng, an ninh, hai Bộ
Quốc phòng Việt Nam và Lào tiến hành các cuộc gặp trao đổi, phối
hợp giúp đỡ lẫn nhau về xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chuyên
môn. Hàng năm, Việt Nam đều cử chuyên gia sang giúp Bộ Quốc
phòng Lào. Các quân khu 2, 4, 5 cử chuyên gia sang giúp các sư
đoàn, tỉnh đội các tỉnh của Lào. Từ năm 2001 đến 2006, Việt Nam
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 689

đã cử 167 chuyên gia quân sự sang giúp Lào xây dựng các kế
hoạch và lập phương án tác chiến. Các quân khu, các tỉnh có chung
biên giới thì xúc tiến chương trình hợp tác, trao đổi kinh nghiệm
giúp đỡ lẫn nhau về xây dựng thế trận cụm chiến đấu liên hoàn và
củng cố các lực lượng dân quân tự vệ ở địa phương để đẩy mạnh
sản xuất, kết hợp với bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội tại địa phương.
Việt Nam trực tiếp phối hợp nghiên cứu, hướng dẫn nghiệp vụ
về kinh tế - quốc phòng, thúc đẩy hợp tác trên tất cả các mặt với
quân đội nhân dân Lào như: góp vốn cho các công ty liên doanh
Lào - Việt; xây dựng mô hình hợp tác kinh tế - quốc phòng theo
hướng chỉ đạo của hai nước; tạo thuận lợi cho cán bộ, chiến sĩ,
công nhân viên quốc phòng cũng như các trang thiết bị, phương
tiện quân sự qua lại biên giới; phối hợp và hợp tác chặt chẽ trong
việc vận tải quá cảnh giữa hai nước, đặc biệt là vấn đề mua sắm
hàng hoá, vật tư, trang thiết bị kỹ thuật, vũ khí, khí tài quân sự sau
khi được Chính phủ hai nước cho phép102. Năm 2004, hai Bộ Quốc
phòng Việt Nam và Lào phối hợp xây dựng dự án phát triển kinh tế
- quốc phòng tại huyện Viêng Thoong (tỉnh Bolikhămxay). Công ty
32 Bộ Quốc phòng Việt Nam viện trợ không hoàn lại cho Bộ Quốc
phòng Lào 599.177 USD để nâng cấp Nhà máy Sản xuất giày dép
Thà Ngòn (Viêng Chăn); Công ty 85 Quân khu 4 thực hiện các dự
án trồng rừng, khai khoáng phục vụ nhiệm vụ kinh tế và quốc
phòng; Quân khu 5 (Việt Nam) xây dựng hệ thống thoát nước và
nâng cấp đường bộ từ biên giới Việt Nam đến bản Nặm Tạc (tỉnh
Bolikhămxay)...
Một trong những nội dung hợp tác về quốc phòng giữa hai

, 2. Ban Biên soạn Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào: Chuyên đề
102

Quan hệ Việt Nam - Lào trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tr.21, 23.
690 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

nước là sự giúp đỡ về phương tiện hậu cần kỹ thuật. Năm 2002,


Việt Nam giúp xây dựng một hội trường cho Sư đoàn 4, tỉnh
Xavẳnnakhệt (trị giá 160.000 USD)... Năm 2003, Việt Nam viện
trợ cho Lào một số bản đồ, trang thiết bị quân sự; giúp Lào xây
dựng Trường Hạ sĩ quan cho sáu tỉnh Bắc Lào (trị giá 13,5 tỷ
VNĐ). Năm 2004, Việt Nam viện trợ cho Lào 120 tấn xăng, nhiều
trang thiết bị quân sự (mạng thông tin, điện thoại, máy phát điện,
thiết bị phục vụ các học viện, nhà trường). Giúp sửa chữa vũ khí,
phương tiện kỹ thuật: Việt Nam và Lào đã phối hợp xây dựng
Xưởng sửa chữa cơ khí ôtô Lào - Việt tại Lào, trị giá 400.000 USD,
vốn do hai bên góp chung. Năm 2005, giúp xây dựng bệnh xá 30
giường cho Sư đoàn 5, giúp 600 tấn xăng phục vụ huấn luyện máy
bay, 10 xe ôtô GAT... Trong hai năm 2006 và 2007, Bộ Quốc
phòng Việt Nam hỗ trợ thiết bị quân sự cho Lào trị giá gần 50 tỷ
VNĐ2.
Về đào tạo cán bộ, ngoài chương trình đào tạo dài hạn, Bộ
Quốc phòng Việt Nam còn thường xuyên tổ chức các lớp học ngắn
hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các đơn vị của quân đội Lào. Từ năm
2000 đến 2005, Việt Nam nhận đào tạo dài hạn cán bộ cho quân đội
Lào gồm hơn 600 người103.
Việc tìm kiếm, cất bốc và hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình
nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam trên đất Lào cũng được
hai bên quan tâm, tích cực phối hợp và đạt được kết quả tốt, đặc
biệt là sự giúp đỡ to lớn của chính quyền và nhân dân các địa
phương trên đất Lào. Tính đến hết năm 2007 đã tìm kiếm và đưa về
Việt Nam hơn 12.000 hài cốt liệt sĩ2.
Điểm nổi bật trong việc hợp tác về an ninh là hợp tác chống lại

, 2. Ban Biên soạn Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào: Chuyên đề
103

Quan hệ Việt Nam - Lào trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tr.23, 24.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 691

các lực lượng phản động lưu vong đang tìm cách chống phá cách
mạng Lào và Việt Nam. Điển hình là trong những năm 2002 - 2003,
một số phần tử phản động trong nước Lào được các thế lực thù địch
bên ngoài hỗ trợ đã gây ra một vài vụ nổ, phục kích ở một số địa
phương như: đánh cửa khẩu Văng Tầu (Chămpaxắc, tháng 7 năm
2000); gây rối mất trật tự an ninh ở Viêng Chăn (tháng 7 năm
2000); bạo loạn vũ trang ở Hủa Phăn (năm 2003); gây rối ở Bò Kẹo
(tháng 7 năm 2007).
Để chia rẽ và phá hoại mối quan hệ hữu nghị Việt Nam - Lào,
bọn phản động còn lôi kéo một số tù trưởng, tộc trưởng, cán bộ
thoái hoá biến chất từ Việt Nam sang tham gia hoạt động chống
phá cách mạng Lào (chúng đã lôi kéo được hơn 1.000 người Mông
ở các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An di cư tự do sang
Lào). Trước những hành động chống phá của các thế lực thù
địch, lực lượng an ninh hai nước đã phối hợp hiệu quả, ngăn chặn
kịp thời và làm thất bại mọi mưu đồ của chúng, giữ vững sự ổn
định và an ninh quốc gia của mỗi nước104.
Trong đào tạo cán bộ, Việt Nam đã cử chuyên gia giúp Lào
biên soạn giáo trình, giáo án để giảng dạy. Trong 10 năm từ 1997
đến 2007, Bộ Công an Việt Nam đã cử hơn 60 cán bộ, chuyên gia
và giảng viên giúp Đại học An ninh Lào. Hàng năm Việt Nam giúp
Lào đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho nhiều cán bộ thuộc Bộ An
ninh Lào và hàng chục nghiên cứu sinh, cao học của Lào. Trong
lĩnh vực an ninh, hai bên còn hợp tác trong nghiên cứu khoa học,
chuyển giao kỹ thuật, cung cấp cho Lào nhiều máy móc, thiết bị
phục vụ nghiên cứu, giảng dạy. Năm 2003, Trung tâm nghiên cứu
khoa học thuộc Bộ An ninh Lào thăm và làm việc với các cơ quan

104
. Ban Biên soạn Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào: Chuyên đề Quan
hệ Việt Nam - Lào trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tr. 24.
692 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

nghiên cứu khoa học của Bộ Công an Việt Nam... Với sự phối hợp,
hợp tác và giúp đỡ của Bộ Công an Việt Nam, lực lượng an ninh
Lào đã từng bước trưởng thành và phát triển, vươn lên làm chủ tình
hình, góp phần quan trọng cùng quân đội và nhân dân các bộ tộc
Lào bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ gìn mối quan hệ đặc biệt Lào -
Việt Nam.
Với những kết quả to lớn trong sự hợp tác giữa lực lượng an
ninh hai nước, năm 2005, Đảng và Nhà nước Lào đã trao tặng Bộ
Công an Việt Nam Huân chương ítxalạ hạng Nhất và Huân chương
ítxalạ hạng Nhì cho 11 đơn vị thuộc lực lượng an ninh Việt Nam.
Kết quả của sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa Việt Nam và Lào
trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh là một trong những nhân tố quan
trọng không chỉ tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh hai nước,
mà còn làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch; đồng thời góp phần không
nhỏ vào sự nghiệp đổi mới ở mỗi nước. Đồng chí Chummaly
Xaynhaxỏn, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào đã khẳng định: “Mối quan hệ quốc phòng, an ninh
giữa hai nước Việt - Lào, Lào - Việt được hình thành và phát triển
không phải do ý muốn chủ quan của bất kỳ bên nào, mà là do yêu
cầu khách quan của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do chống kẻ thù
chung, từ yêu cầu xây dựng đất nước của hai dân tộc qua các giai
đoạn lịch sử... Như vậy, chính do yêu cầu khách quan của hai dân
tộc mà Việt Nam và Lào đã liên kết với nhau. Đó là quy luật cho
sự tồn tại và phát triển của hai dân tộc, là nhân tố bảo đảm thắng
lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào cũng như Việt
Nam”105.
* Hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trên lĩnh vực kinh tế,

105
. Báo Nhân dân, ngày 8 tháng 2 năm 2007.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 693

văn hoá, khoa học - kỹ thuật


Thực hiện thỏa thuận giữa Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam và Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách
mạng Lào, tháng 10 năm 1991 và “Thỏa thuận chiến lược hợp tác
kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa hai nước đến năm 2000”
ngày 15 tháng 3 năm 1995, tháng 1 năm 1996, Chính phủ hai nước
đã ký Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2000.
Quan điểm cơ bản hợp tác giữa hai nước trong giai đoạn này là:
- Bảo vệ tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt và tăng cường sự hợp
tác toàn diện Việt Nam - Lào như là nhân tố quyết định thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng và công cuộc xây dựng của hai nước.
- Hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng
chủ quyền, pháp luật của nhau. Xoá bỏ cơ chế bao cấp, cải tiến cơ
chế hợp tác trong giai đoạn mới phù hợp với cơ chế quản lý của
mỗi nước và thông lệ quốc tế, vừa bảo đảm lợi ích chính đáng của
mỗi bên, vừa ưu tiên giúp đỡ lẫn nhau. Phát huy thế mạnh tiềm
năng của mỗi bên, kết hợp với việc thu hút nguồn lực của mỗi
nước và tổ chức quốc tế. Mở rộng quan hệ hợp tác nhiều bên;
đồng thời đề cao sự phối hợp bảo vệ lợi ích hai nước trước sự
cạnh tranh của nước khác.
- Hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực, ngành, địa phương, mọi
thành phần kinh tế. Thúc đẩy hợp tác kinh doanh phát triển để tạo
cơ sở cho việc khai thác tiềm năng của mỗi bên, bảo đảm tính thiết
thực, vững chắc và có hiệu quả. Gắn hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa
học - kỹ thuật với quốc phòng, an ninh.
Trên cơ sở quan điểm cơ bản, hai bên cam kết cùng nhau hợp
tác toàn diện, đặc biệt tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp và phát
triển nông thôn mới ở các huyện dọc biên giới Việt Nam - Lào và
các vùng khác có điều kiện. Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực
694 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

giao thông vận tải, tạo điều kiện thuận lợi cho Lào vận tải quá cảnh
qua lãnh thổ và sử dụng các cảng biển của Việt Nam. Coi trọng hợp
tác trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực cho Lào. Mở rộng hợp
tác sản xuất hàng hoá (kể cả sản xuất điện năng) nhằm phát triển
hợp tác lao động, du lịch, ngân hàng, tài chính, khoa học - công
nghệ. Tạo điều kiện thầu xây dựng ở mỗi nước nhằm góp phần thúc
đẩy đầu tư của nước ngoài vào Lào và Việt Nam.
Với truyền thống quan hệ hợp tác lâu đời của hai nước; đồng
thời để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào,
hai Đảng và hai Nhà nước đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo và tạo
nhiều điều kiện thuận lợi, ưu đãi cả về cơ chế, chính sách. Nhờ vậy
quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa,
khoa học - kỹ thuật giai đoạn 1996 - 2000 không ngừng phát triển
cả về quy mô và hình thức, thu được nhiều kết quả khả quan trên
mọi lĩnh vực.
Hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giai đoạn này đã
có sự chuyển biến rõ rệt. Định hướng hợp tác kinh tế đã được điều
chỉnh căn bản từ quan điểm “tài nguyên của Lào, kỹ thuật và lao
động của Việt Nam và vốn của nước thứ ba” sang nguyên tắc “hợp
tác bình đẳng cùng có lợi, kết hợp thoả đáng tính chất quan hệ đặc
biệt với thông lệ quốc tế, ưu tiên, ưu đãi hợp lý cho nhau”, kết hợp
giữa các hình thức hợp tác truyền thống với các hình thức hợp tác
trong điều kiện hai nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế thị trường và bước đầu tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực. Quan hệ kinh tế từng bước tương xứng
với quan hệ truyền thống đặc biệt giữa hai Đảng, hai Nhà nước và
tiềm năng của hai nước.
Về hợp tác phát triển (viện trợ không hoàn lại của Việt Nam
dành cho Lào)
Trong năm năm 1996 - 2000, Việt Nam đã dành cho Lào khoản
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 695

viện trợ không hoàn lại là 346.570 triệu VNĐ (tương đương 26,6
triệu USD) để thực hiện 36 dự án trong các lĩnh vực như: giáo dục -
đào tạo, nông nghiệp và phát triển nông thôn mới và một số lĩnh
vực khác.
Đặc biệt, giai đoạn này hai bên đã có những chuyển hướng
trong việc sử dụng nguồn vốn viện trợ vào công tác điều tra cơ bản
và hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên các vùng
lãnh thổ cũng như các ngành, lĩnh vực của Lào (chiếm 33,57% vốn
viện trợ). Việc tập trung trên 1/3 vốn viện trợ vào các dự án này là
rất cần thiết, là cơ sở giúp Lào phát triển các ngành, lĩnh vực cũng
như các mục đích an ninh, quốc phòng và kinh tế; đồng thời tạo ra
những tiền đề trong nhiều lĩnh vực hợp tác giữa hai bên.
Với sự nỗ lực của cả hai bên, bằng nguồn vốn viện trợ này, hợp
tác hai nước đạt được những kết quả đáng khích lệ:
Hợp tác giáo dục - đào tạo là nội dung quan trọng có tính chiến
lược vì lợi ích lâu dài của hai nước. Gần một nửa số viện trợ đã
được dành cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Nhiều hình thức đào tạo
mới đã được thực hiện và đạt kết quả tốt. Từ năm 1997, hai bên đã
nhanh chóng chuyển hướng kết hợp đào tạo dài hạn, chính quy với
tăng cường bồi dưỡng và đào tạo lại cán bộ hệ ngắn hạn trên các
lĩnh vực quản lý; kết hợp cử chuyên gia đào tạo tại Lào với việc mở
rộng hình thức đào tạo tại chức cho Lào tại Việt Nam. Số học sinh
Lào được tiếp nhận hàng năm tăng từ 300 - 350 người (theo Hiệp
định) lên tới 500 - 550 người năm 2000. Trong năm năm phía Việt
Nam đã tiếp nhận 2.184 cán bộ, học sinh Lào. Số lượng cán bộ, học
sinh Việt Nam được tiếp nhận sang học tập tại Lào cũng tăng từ 15
lên 25 người/năm.
Hai bên đã hoàn thành cam kết việc xây dựng hệ thống trường
phổ thông dân tộc nội trú cấp vùng tại Uđômxay, Xavẳnakhệt,
696 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Chămpaxắc, trường dân tộc nội trú cấp tỉnh ở Xê Coong106.


Hợp tác về nông nghiệp và thủy lợi giai đoạn 1996 - 2000 đã có
những chuyển hướng cơ bản. Từ hình thức hợp tác hỗ trợ, phát
triển nông nghiệp và nông thôn ở một số vùng cụ thể là chủ yếu đã
chuyển sang kết hợp giữa hoạch định chiến lược phát triển nông
nghiệp với quy hoạch sản xuất lương thực và thủy lợi trên các cánh
đồng lớn của Lào, nhằm đảm bảo an ninh lương thực, hỗ trợ trực
tiếp để phát triển nông thôn một số vùng biên giới Lào - Việt Nam.
Tiếp tục thực hiện thỏa thuận giữa hai bên về phối hợp xây
dựng mô hình thí điểm phát triển nông nghiệp gắn với nông thôn
mới tại ba vùng đặc trưng: Lắc Xao (miền núi), Phôn Sủng và Hạt
Siều (bán sơn địa), và Chămpaxắc (đồng bằng). Trong ba năm 1996 -
1998, Việt Nam đã giúp Lào 14,1 tỷ VNĐ và đã hoàn thành dự án
này trong năm 1998. Các chương trình, dự án này hoàn thành đã
đóng góp đáng kể cho phát triển nông nghiệp của Lào, làm tăng diện
tích canh tác và năng suất lúa. ở Phôn Sủng, diện tích canh tác tăng
360 ha, năng suất lúa tăng từ 1,6 tấn/ha/năm lên 3,4 tấn/ha/năm vào
năm 1998. Tại Lắc Xao, với 10 công trình thủy lợi nhỏ đã đảm bảo
nước tưới tiêu cho 200 ha vụ mùa và 1.000 ha vụ chiêm, làm tăng gần
1.000 tấn thóc. Tại Chămpaxắc, diện tích tăng từ 12 ha lên 1.000 ha,
năng suất lúa tăng 1,5 tấn/ha/năm (năm 1993) lên 4,5 tấn/ha/năm (năm
1998). Nhiều giống lúa có năng suất cao, các giống cây ăn quả và vật
nuôi có giá trị cao đã được chuyển giao cho phía Lào (gà Tam Hoàng,
nhãn Hưng Yên, vải thiều, mận...)107.

106
. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam): Báo cáo tình hình thực hiện hợp tác kinh
tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2000 và chiến lược
hợp tác giai đoạn 2001 - 2010, tháng 10 năm 2000.
107
, 2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam): Báo cáo tình hình thực hiện hợp tác kinh
tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2000 và chiến lược hợp
tác giai đoạn 2001 - 2010, tháng 10 năm 2000, tr.7.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 697

Việt Nam đã giúp Lào quy hoạch sản xuất lương thực, quy
hoạch thủy lợi các đồng bằng trọng điểm với tổng số viện trợ
không hoàn lại là 36 tỷ VNĐ. Những quy hoạch này tập trung vào
việc phát triển nông, lâm nghiệp một số huyện thuộc các tỉnh có
chung biên giới với Việt Nam như: Noỏng Hét (Xiêng Khoảng),
Xiêng Khọ (Hủa Phăn), Viêng Khăm (Luổng Phạbang); quy hoạch
sản xuất lương thực bảy cánh đồng lớn: Viêng Chăn, Chămpaxắc,
Khăm Muộn, Xavẳnnakhệt, Xê Đôn, áttapư, Bolikhămxay; lập dự
án khả thi hệ thống thủy lợi tả ngạn sông Nặm Ngừm (Viêng
Chăn)...2.
Hợp tác trên lĩnh vực nông nghiệp và thủy lợi giai đoạn 1996 -
2000 được hai bên rất coi trọng, đã dành 22,35% tổng số vốn viện
trợ tập trung cho lĩnh vực này. Các dự án nông nghiệp bước đầu
phát huy tác dụng, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp,
góp phần tạo sự ổn định cuộc sống cho nông dân, giảm bớt tình
trạng du canh, du cư, bảo đảm an ninh vùng biên giới hai nước. Các
mô hình phát triển nông nghiệp và nông thôn được phía Lào đánh
giá cao. Các dự án nông nghiệp đã góp phần giúp Bộ Nông -Lâm
nghiệp Lào và một số địa phương hoạch định chương trình phát triển
sản xuất nông nghiệp của địa phương mình. Các chuyên gia Việt
Nam đã thâm nhập từng làng, bản dân tộc của Lào để giúp nông dân
canh tác, chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp, thuỷ nông, thủy lợi tiên
tiến, phát triển kỹ thuật chăn nuôi khoa học... Sự hợp tác chân thành
này chỉ có trong mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, khác hẳn với
nội dung và hình thức của các loại hợp tác khác.
Tuy nhiên, hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp còn có những
nội dung chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Đầu tư thiếu
đồng bộ, còn mang nặng tính chất giải pháp tình thế; việc tổ chức
quản lý các dự án còn hạn chế, việc đào tạo cán bộ tại chỗ để tiếp
thu dự án còn chậm...
698 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Trong việc sử dụng vốn viện trợ, ngoài hai lĩnh vực chủ yếu,
hai bên cũng đã quan tâm hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác thông
qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật như:
- Hợp tác trong lĩnh vực bản đồ: Việt Nam giúp hiệu chỉnh hệ
tọa độ bản đồ bốn tỉnh Nam Lào, xây dựng mạng lưới cao độ tám
tỉnh Bắc Lào.
- Trong lĩnh vực khí tượng, thuỷ văn: Việt Nam giúp và chuyển
giao công nghệ cho Lào hệ thống thông tin phục vụ khí tượng thủy
văn giữa hai nước và phục vụ trực tiếp cho đời sống và phát triển
kinh tế của nhân dân Lào. Kết quả hợp tác này đã tạo ra các tiền đề
cho nhiều lĩnh vực hợp tác những năm sau như nông nghiệp, thủy
lợi, hàng không...
- Hợp tác trong việc xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội cả nước Lào đến năm 2020 và quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Khăm Muộn đến năm 2010.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, các bộ, ngành và địa phương hai
nước đã phối hợp chặt chẽ, tích cực triển khai đồng bộ các dự án
viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ
Lào. Những ưu tiên dành cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo, nông
nghiệp, thủy lợi và phát triển nông thôn mới của Lào thời kỳ này đã để
lại dấu ấn đậm nét cho mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Tuy nhiên,
cũng còn những vấn đề cần phải xem xét, điều chỉnh: còn lúng túng
trong cơ chế phối hợp, thủ tục xem xét, điều chỉnh nội dung; các dự án
về điều tra cơ bản, về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chậm được
thực hiện; nhiều dự án hỗ trợ kỹ thuật như phòng chống sốt rét cho
các huyện biên giới, xây dựng mạng lưới lưu trữ quốc gia, hỗ trợ máy
mã cơ yếu... triển khai chậm và hiệu quả thấp...
Hợp tác thực hiện các cam kết
Về giao thông vận tải giai đoạn 1996 - 2000, hai bên đã cùng
nhau tìm nguồn đầu tư nâng cấp hệ thống đường thông thương nối
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 699

liền hai nước, tạo điều kiện cho Lào thông thương qua lãnh thổ và
cảng biển Việt Nam ra các nước. Hai bên đã đầu tư quốc lộ 43
(Mộc Châu - cửa khẩu Pa Háng), 6B (Hủa Phăn), chuẩn bị đầu tư
cửa khẩu Chiềng Khương (Sơn La) phía Việt Nam và đầu tư quốc
lộ 42 (Lai Châu - Tây Trang - Phôngxalỳ). Cải tạo nâng cấp quốc lộ
9A đi cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị) - Xavẳnnakhệt; quốc lộ 8 đi
cửa khẩu Cầu Treo (Hà Tĩnh) - Bolikhămxay; quốc lộ 7 đi cửa
khẩu Nậm Cắn (Nghệ An) - Xiêng Khoảng; quốc lộ 217 đi cửa
khẩu Na Mèo (Thanh Hóa) và 6A (Hủa Phăn); quốc lộ 12A đi cửa
khẩu Chalo (Quảng Bình) - Khăm Muộn. Cải tạo nâng cấp cảng Đà
Nẵng, cảng Xuân Hải và hoàn thành bến I cảng Vũng áng để phía
Lào sử dụng. Hai bên phối hợp hoàn thành xây dựng cửa khẩu Cầu
Treo và Nặm Phạo. Hai bên đã ký thỏa thuận về nguyên tắc Việt
Nam cho Lào vay ưu đãi xây dựng đường 18B phía Lào108.
Kết quả đầu tư trong lĩnh vực giao thông vận tải không những
tạo điều kiện thông thương giữa hai nước, tạo điều kiện cho Lào có
đường ra biển mà còn làm thay đổi bộ mặt kinh tế của nhiều khu
vực và góp phần nâng cao đời sống, trình độ dân trí của các xã
vùng cao trên dọc các tuyến thông qua Lào. Nhiều khu kinh tế cửa
khẩu đã được hình thành, giao lưu thương mại các chợ biên giới
giữa hai nước ngày càng phát triển. Tuy nhiên, việc hợp tác xây
dựng các tuyến giao thông qua hai nước còn gặp nhiều khó khăn,
chưa đáp ứng được nhu cầu giao lưu kinh tế giữa hai nước.
Hợp tác về năng lượng - điện: tháng 7 năm 1998, Việt Nam và
Lào đã ký Hiệp định hợp tác năng lượng - điện. Hai bên đã trao đổi,
bổ sung và thống nhất dự án quy hoạch hệ thống đầu nối điện giữa
hai nước. Hai bên xác định cụ thể công trình thủy điện hợp tác,

108
. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam): Báo cáo tình hình thực hiện hợp tác
kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2000 và chiến
lược hợp tác giai đoạn 2001 - 2010, tháng 10 - 2000, tr.9.
700 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

phương thức mua, bán điện và giá điện làm cơ sở để phía Lào đưa
vào tiến độ xây dựng và phía Việt Nam đưa vào tổng sơ đồ phát
triển điện giai đoạn 2001 - 2005.
Đến năm 2000, quan hệ hợp tác về tài chính, tiền tệ Việt Nam -
Lào đã có bước chuyển biến mới, đồng Việt Nam và kíp Lào đang
từng bước trở thành đồng tiền chủ yếu trong thanh toán giữa hai
nước, thay thế việc chuyển tiền tự do bằng ngoại tệ chuyển đổi tồn
tại trong nhiều năm trước đây.
Thoả thuận về quy chế tài chính và quản lý dự án viện trợ
không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào
ký ngày 9 tháng 2 năm 1998 và hoạt động của Ngân hàng liên
doanh Lào - Việt (LVB) tại Viêng Chăn và chi nhánh tại Hà Nội đã
khai thông mối quan hệ về tiền tệ và tạo cơ hội đầu tư, kinh doanh
giữa hai bên, giải quyết được những khó khăn trong thanh toán và
chuyển tiền giữa các doanh nghiệp hai nước. Ngân hàng liên doanh
Lào - Việt đã không ngừng mở rộng hoạt động trên các lĩnh vực
dịch vụ cung ứng tín dụng, chuyển tiền, thanh toán quốc tế, huy
động vốn, thu đổi tiền và đã thu hút được 396 khách hàng mở tài
khoản, trong đó có gần 100 tài khoản của Việt Nam.
Tháng 8 năm 2000, phía Việt Nam quyết định cho thực hiện thí
điểm cơ chế thanh toán, chuyển tiền đối với các nguồn tài chính
của các doanh nghiệp hoạt động tại Lào, các nguồn tiền bằng vốn
vay và viện trợ dành cho Lào thực hiện tại Lào. Cũng trong thời kỳ
này, hai bên đã phối hợp tốt để phía Lào giải quyết nhanh, dứt điểm
khoản nợ 11,480 triệu USD chênh lệch mậu dịch nhập siêu của Lào
từ thời kỳ 1976 - 1981.
Hợp tác chuyên gia giai đoạn 1996 - 2000 không ngừng được
củng cố, đổi mới và hoàn thiện cả về cơ chế lẫn hình thức hợp tác.
Trong năm năm, theo yêu cầu của phía Lào, Việt Nam đã cử 475
lượt chuyên gia, tập trung vào các lĩnh vực kinh tế (63%), quốc
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 701

phòng, an ninh (28%) và các lĩnh vực khác. Trong những năm này,
nhiều đoàn chuyên gia vụ việc quan trọng của Việt Nam được cử
sang Lào trao đổi và xử lý các vấn đề về quản lý vĩ mô (năm 1996),
đổi mới doanh nghiệp (năm 1998), tiếp nhận viện trợ (năm 1999)...
Đặc biệt là đoàn chuyên gia cao cấp Việt Nam giúp Lào chống lạm
phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 1999.
Từ cuối năm 1997, nền kinh tế Lào gặp rất nhiều khó khăn do
lạm phát ngày càng trầm trọng không kiềm chế được (hậu quả của
cuộc khủng hoàng tài chính, tiền tệ trong khu vực). Nếu năm 1997
lạm phát ở mức 26,6% thì đến năm 1998 tăng tới 142%, chín
tháng đầu năm 1999 khoảng 150%; nền kinh tế lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng. Thể theo yêu cầu của phía Lào, tháng 8 năm
1999, Việt Nam đã cử đoàn chuyên gia cao cấp sang nghiên cứu
và đề xuất giải pháp chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô tại
Lào. Kết quả là đến cuối năm 1999 và các năm sau đó, lạm phát
đã được đẩy lùi, kinh tế Lào phát triển trở lại với tốc độ tăng
trưởng cao hơn những năm trước đó. Hoạt động của các đoàn
chuyên gia Việt Nam đã thực sự mang lại hiệu quả và được phía
Lào đánh giá cao.
Hiệp định hợp tác lao động Việt Nam - Lào được ký kết sửa đổi,
bổ sung, ngày 8 tháng 4 năm 1999 đã tạo điều kiện thông thoáng,
đơn giản hoá thủ tục cho các đơn vị cung ứng lao động cũng như
tăng cường quyền hạn phân cấp quản lý cho các địa phương, nhất là
các địa phương có chung biên giới. Trong “Thoả thuận Cửa Lò
1999” hai bên đã bàn và tháo gỡ nhiều vướng mắc về thủ tục xuất,
nhập cảnh, cư trú cho người lao động, quá cảnh trang thiết bị... thực
sự thúc đẩy sự hợp tác nói chung và hợp tác lao động nói riêng của
hai nước, tạo điều kiện đáp ứng kịp thời cho nhau về nguồn lao
động, quản lý được chặt chẽ hơn, giảm đáng kể lao động tự do sang
Lào.
702 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Với các chính sách khuyến khích thúc đẩy đầu tư, liên doanh,
liên kết và ưu tiên, ưu đãi cho nhau trong xây dựng và thực tế nhu
cầu hợp tác phát triển kinh tế của các địa phương có chung đường
biên giới, hợp tác lao động giai đoạn 1996 - 2000 tăng nhanh về số
lượng, phong phú về hình thức. Có khoảng 15 - 20 nghìn lao động
Việt Nam được đưa sang Lào theo các hình thức: hợp đồng nhà
nước; thỏa thuận của các địa phương; cung ứng của các công ty
dịch vụ lao động của Việt Nam và lao động tự do.
Kết quả cho thấy cùng với những cơ chế, chính sách được tháo
gỡ, phía Việt Nam đã thực hiện các biện pháp đơn giản hoá thủ tục
hành chính, bỏ thủ tục cấp giấy phép thực hiện hợp đồng, tăng
cường hỗ trợ và tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế, có chính sách
hỗ trợ người lao động nghèo, người lao động thuộc diện chính sách.
Tuy nhiên, sự phối hợp giữa hai bên còn thiếu đồng bộ trong
quá trình quản lý và cung ứng lao động; các thủ tục còn phiền hà,
chậm sửa đổi. Vì vậy, những năm 1996 - 1998, lao động tự do còn
chiếm tới 2/3 số lao động ở Lào và đã gây ảnh hưởng nhất định đến
quan hệ hợp tác giữa hai bên và quyền lợi của người lao động Việt
Nam tại Lào.
Hợp tác Việt Nam - Lào trong lĩnh vực thương mại, đầu tư
Hợp tác trong lĩnh vực thương mại, đầu tư, liên doanh liên kết
sản xuất là đặc trưng của mối quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào
trong điều kiện hai nước thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế
theo hướng kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực. Cùng với chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá các mối
quan hệ kinh tế đối ngoại, thúc đẩy đầu tư nước ngoài và thương
mại quốc tế, trong năm năm (1996 - 2000) Chính phủ hai nước đã
đặc biệt quan tâm đến việc tăng cường hợp tác trong lĩnh vực này
và đã đạt được những kết quả quan trọng.
Hợp tác về thương mại: nhờ có cơ chế phù hợp, kim ngạch xuất,
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 703

nhập khẩu hai chiều giữa hai nước năm 1998 tăng 196% so với năm
1997. Trước ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu
vực những năm 1998 - 1999, hai bên đã có chủ trương đẩy mạnh
quan hệ thương mại giữa hai nước, đưa nhanh hàng hoá của Việt
Nam vào Lào, khuyến khích các doanh nghiệp hai nước buôn bán,
trao đổi hàng hoá với nhau. Chính phủ hai nước đã giảm 50% thuế
những mặt hàng nhập vào mỗi nước có xuất xứ từ Việt Nam và từ
Lào (Văn bản số 1577/TT ngày 18 tháng 9 năm 1997 của Lào và
Văn bản số 181/1998/QĐ-TTg ngày 21 tháng 9 năm 1998 của Việt
Nam); đồng thời cho phép các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu
hàng hoá sang Lào được thanh toán bằng hàng của Lào (Văn bản số
964/CP-KTTH ngày 17 tháng 8 năm 1998 và Văn bản số 01/CP-
KTTH ngày 19 tháng 1 năm 1999). Hai Chính phủ đã có cuộc gặp và
ký thỏa thuận tháo gỡ những khó khăn cho người và hàng hoá qua
lại giữa hai nước (Thoả thuận Cửa Lò, tháng 8 năm 1999).
Nhờ có những chủ trương và chính sách kịp thời của hai Nhà
nước, hàng hoá Việt Nam đã chiếm tới 25 - 30% thị phần tại một số
tỉnh Trung và Nam Lào. Kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng từ 1,5 - 2
lần; hoạt động thương mại với Lào trở nên sôi động hơn, bốn
siêu thị liên doanh tại Trung, Nam Lào và Viêng Chăn được thành
lập và đi vào hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, trong lĩnh vực hợp
tác thương mại còn nhiều vấn đề cần phải điều chỉnh, bổ sung về
chính sách và cơ chế hợp tác.
Từ khi có quy chế chợ biên giới, việc buôn bán của một số
điểm chợ biên giới đã đi vào nền nếp (tính đến năm 2000 có 11 chợ
biên giới của hai bên). Ước tính trao đổi hàng hoá hàng năm giữa
dân cư hai nước khoảng 100 - 120 triệu USD.
Hợp tác về đầu tư: sau khi có Hiệp định khuyến khích và bảo
hộ đầu tư song phương giữa hai nước (ký ngày 14 tháng 1 năm
1996) và các quy định về đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra
704 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

nước ngoài (năm 1999), cùng các thỏa thuận của hai Đảng, hai Nhà
nước, hai bên đã có nhiều cố gắng chỉ đạo triển khai tới các ngành,
địa phương, cơ sở nhằm đẩy mạnh hợp tác đầu tư liên doanh trên
lãnh thổ của nhau, tạo nhiều điều kiện để trao đổi tìm hiểu cơ hội
đầu tư kinh doanh cho các doanh nghiệp hai bên. Những cuộc
viếng thăm và làm việc của các đoàn cấp cao Đảng, Chính phủ, các
bộ, ngành hai nước, những cuộc hội thảo giữa các doanh nghiệp hai
nước do phía Lào tổ chức (tháng 10 năm 1998) và Sứ quán Việt
Nam tổ chức (tháng 6 năm 2000); các hội chợ hàng hoá tại Lào đã
không ngừng thúc đẩy những cơ hội hợp tác trong lĩnh vực này. Về
phía Việt Nam, Chính phủ đã ban hành các cơ chế, chính sách hỗ
trợ, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào Lào.
Đây cũng là giai đoạn hầu hết các cơ chế hợp tác đã được ký
kết tạo ra khung pháp lý quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa hai
nước. Các văn bản này thể hiện sự quyết tâm của hai bên nhằm
nâng cao chất lượng hợp tác, dành ưu tiên, ưu đãi cho nhau trên cơ
sở thông lệ quốc tế và quan hệ đặc biệt giữa hai nước như: Thỏa
thuận về tạo điều kiện thuận lợi cho người, phương tiện, hàng hoá
qua lại giữa hai nước (Thỏa thuận Cửa Lò 1999), Quy chế tài chính
và quản lý dự án sử dụng vốn viện trợ của Việt Nam dành cho Lào.
Đến năm 2000, có trên 30 doanh nghiệp Việt Nam có trụ sở và
đăng ký hoạt động tại Lào, với vốn đăng ký trên 100 triệu USD,
gồm 13 doanh nghiệp đầu tư sản xuất và chuyển giao công nghệ
như chăn nuôi, gốm, dược phẩm, thạch cao...; 10 doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ (trong đó có bốn liên
doanh thương mại); 12 doanh nghiệp trong lĩnh vực nhận thầu xây
dựng các công trình. Nhiều doanh nghiệp đã trúng thầu quốc tế tại
Lào, được phía Lào tin tưởng và đánh giá cao. Tổng công ty liên
doanh 18 (CIE18) trúng thầu quốc tế sáu dự án về giao thông, tổng
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 705

chiều dài 250km, với doanh số 82 triệu USD; thu hút hơn 3.000 lao
động Việt Nam làm việc tại Lào109.
Các hoạt động đầu tư liên doanh hai nước đã phát triển hơn hẳn
những giai đoạn trước đây. Lào dần dần trở thành thị trường thu hút
các doanh nghiệp Việt Nam sang khảo sát và đầu tư. Tuy nhiên,
cũng mới có 22 dự án đầu tư vào Lào với số vốn đăng ký 13,9 triệu
USD, Việt Nam là đối tác đứng thứ 14 trong tổng số 36 nước đầu tư
vào Lào110. Nguyên nhân cơ bản là thiếu vốn và công nghệ trong khi
thị trường mỗi nước đang đòi hỏi các nhà đầu tư của nước mình khai
thác triệt để những khả năng sẵn có. Bên cạnh đó, hệ thống luật và
văn bản dưới luật của cả hai nước còn chưa đầy đủ và chưa đồng bộ.
Sự hạn chế về thị trường và sức mua của Lào phần nào thiếu hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư.
Về cơ chế hợp tác: trên cơ sở quan điểm hợp tác mới là “Hợp tác
bình đẳng, cùng có lợi, kết hợp thoả đáng tính chất quan hệ đặc biệt
với thông lệ quốc tế, ưu tiên, ưu đãi hợp lý cho nhau”, Chính phủ hai
nước đã quan tâm đặc biệt đến việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ
chế, chính sách hợp tác giữa hai nước. Ngoài Hiệp định khung hợp
tác thời kỳ 1996 - 2000 và Hiệp định hợp tác hàng năm, trên cơ sở
thông lệ quốc tế và có tính tới mối quan hệ hợp tác đặc biệt giữa hai
nước, hai Chính phủ đã ký 12 văn bản và sửa đổi, bổ sung nhiều văn
bản hợp tác khác, kịp thời đáp ứng yêu cầu hợp tác hai nước trong
tình hình mới. Đó là: sửa đổi bổ sung Hiệp định về biên giới (năm

. Bao gồm: trên tuyến đường 13 Bắc Lào 163 km (ADB4), đường 13 Nam Lào
109

45 km (ADB7), đường 7 Phôn Xávẳn - Nậm Cắn 131 km, đường 6 Sầm Nưa 60 km,
đường nội thị Viêng Chăn 25 km, đường 9 đi Xavẳnnakhệt.
. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam): Báo cáo tình hình thực hiện hợp tác kinh
110

tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2000 và chiến lược
hợp tác giai đoạn 2001 - 2010, tháng 10 năm 2000, tr.16.
706 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

1997); bổ sung Hiệp định hợp tác lao động (năm 1999); sửa đổi, bổ
sung Hiệp định quá cảnh hàng hoá (năm 2000)...111.
Hai bên đã có các cuộc gặp trao đổi bất thường và ký kết những
văn bản quan trọng, giải quyết nhiều vấn đề thực tế đặt ra, góp phần
tăng cường thúc đẩy quan hệ giữa hai nước. Đó là: Thoả thuận về
tài chính và quản lý dự án sử dụng vốn viện trợ của Việt Nam dành
cho Lào (năm 1998), Hiệp định thanh toán (năm 1998), Thỏa thuận
về việc tạo điều kiện cho người và hàng hoá qua lại biên giới hai
nước (năm 1999)...2.
Cùng với các văn bản ký kết giữa Chính phủ hai nước, hệ thống
các văn bản thỏa thuận giữa các bộ, ngành, địa phương về chương
trình hợp tác song phương cũng đã đáp ứng kịp thời và góp phần
quan trọng trong việc quản lý, định hướng, khuyến khích, tạo môi
trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy quan hệ hợp tác hai bên.
Tuy nhiên, các cơ chế, chính sách của cả hai bên còn nặng về
thông lệ, ít tính tới những đặc thù riêng và những điều kiện bên
ngoài tác động đến quan hệ hai nước. Việc phối hợp triển khai các
cơ chế, chính sách hợp tác giữa hai bên còn chậm, thiếu đồng bộ.
Hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào
giai đoạn 1996 - 2000 về cơ bản đã thực hiện được mục tiêu chiến
lược là ưu tiên cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo, nông nghiệp và phát
triển nông thôn của Lào. Hợp tác trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo
được chú trọng mở rộng cả về quy mô và hình thức. Hợp tác nông
nghiệp đã tập trung vào việc triển khai quy hoạch phát triển lương
thực và thủy lợi cho các cánh đồng lớn của Lào nhằm đảm bảo an
ninh lương thực, đã hỗ trợ trực tiếp cho việc phát triển nông nghiệp

111
, 2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam): Báo cáo tình hình thực hiện hợp tác
kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2000 và chiến
lược hợp tác giai đoạn 2001 - 2010, tháng 10 năm 2000, tr.18.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 707

và nông thôn một số vùng biên giới, góp phần đào tạo ngành nghề
và định canh định cư, thực hiện tốt cam kết trong lĩnh vực giao
thông, các tuyến đường nối hai nước và thông ra các cảng biển Việt
Nam đã được đầu tư nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải
quá cảnh của hai nước, đặc biệt là giúp Lào có điều kiện trao đổi
hàng hoá với bên ngoài qua cảng biển Việt Nam. Hợp tác thương
mại, đầu tư đã được đặc biệt quan tâm và được coi là mục tiêu quan
trọng của hợp tác kinh tế giữa hai nước trong điều kiện hai nước
đang tiến hành mở cửa nền kinh tế, hội nhập quốc tế và khu vực.
Những kết quả hợp tác kinh tế giai đoạn này đã đóng góp đáng
kể cho nhu cầu phát triển kinh tế của hai nước, nâng cao đời sống
nhân dân các bộ tộc Lào, thúc đẩy hai nước tham gia quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Kết thúc thế kỷ XX, công cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào đã
giành được những thành quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
văn hoá - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tháng 4 năm
2001, Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với chủ trương
thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và coi
đó là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Về đường lối đối ngoại, Đảng Cộng sản Việt Nam coi
trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội
chủ nghĩa và các nước láng giềng; nâng cao hiệu quả và chất lượng
hợp tác với các nước ASEAN... Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Đại hội lần thứ VII Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tháng 3
năm 2001) tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, xây dựng chế độ
708 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

dân chủ nhân dân, tạo tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Lào. Tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại hoà bình,
độc lập và hữu nghị, hợp tác với các nước, nhất là các nước trong
khu vực. Củng cố và phát triển tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt với
Việt Nam...
Trên cơ sở kết quả hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2000, xuất phát từ yêu cầu của hợp
tác giữa hai nước trong giai đoạn mới, tại cuộc gặp ngày 6 tháng 2
năm 2001 tại Hà Nội, hai Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và
Đảng Nhân dân cách mạng Lào chủ trương: dù trong hoàn cảnh nào
cũng cần tiếp tục thực hiện những phương hướng và nguyên tắc lớn
mà hai Bộ Chính trị đã thỏa thuận, nhằm củng cố và phát triển sâu
rộng hơn nữa quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước.
Căn cứ vào thoả thuận của hai Bộ Chính trị và căn cứ vào nội
dung Bản thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học -
kỹ thuật giữa Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn 2001 - 2010,
ngày 6 tháng 2 năm 2001, tại Hà Nội, Chính phủ hai nước đã ký
Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật Việt Nam -
Lào giai đoạn 2001 - 2005.
Hiệp định hợp tác giai đoạn 2001 - 2005 được thực hiện trong
bối cảnh hai nước đều có mức tăng trưởng khá và ổn định. Song, cả
hai vẫn còn là những nước chậm phát triển so với nhiều nước trong
khu vực và thế giới. Trong điều kiện hội nhập với những ảnh hưởng
phức tạp về tình hình kinh tế, chính trị, an ninh trên thế giới và tiến
trình thực hiện các cam kết ASEAN trong khu vực, các hoạt động
liên kết và tăng cường hợp tác giữa một số nước đang được hình
thành đã có những tác động tích cực thúc đẩy hợp tác song phương,
gắn kết giữa hai nước và với các nước láng giềng và khu vực,
nhưng cũng là những thách thức của quan hệ hợp tác giữa hai nước
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 709

trong điều kiện cạnh tranh và tranh thủ ảnh hưởng giữa các nước.
Các hoạt động gây rối của các thế lực thù địch ở vùng biên giới hai
nước cũng là những thách thức và trực tiếp ảnh hưởng đến hợp tác
kinh tế giữa hai nước.
Mặc dù có nhiều khó khăn, nhưng hai bên đã có nhiều cố gắng
thực hiện các nội dung đã thỏa thuận, cùng nhau điều chỉnh và giải
quyết các vấn đề nảy sinh, tạo điều kiện hỗ trợ thiết thực trong quan
hệ hợp tác giữa hai nước. Vì vậy, hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa
học - kỹ thuật giữa hai nước giai đoạn 2001 - 2007 đã có bước phát
triển mới, đạt được những mục tiêu cơ bản đã được thỏa thuận giữa
hai bên.
Kết quả sử dụng vốn viện trợ
Vốn viện trợ không hoàn lại giai đoạn 2001 - 2005 được thực
hiện là 590 tỷ VNĐ (Hiệp định khung là 560 tỷ VNĐ). Bao gồm
các lĩnh vực dưới đây:
Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực: giáo dục, đào tạo là lĩnh
vực hợp tác chiến lược lâu dài và được sự quan tâm thường xuyên
của Đảng và Nhà nước hai bên, đáp ứng tích cực và kịp thời nhu
cầu mỗi bên, chiếm 49,05% nguồn vốn viện trợ (289,4 tỷ VNĐ), để
chi cho 1.884 cán bộ, học sinh Lào có mặt ở Việt Nam và đầu tư
vào các cơ sở đào tạo tại Lào.
- Hai bên đã tập trung ưu tiên đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
chính trị và quản lý của Đảng và Nhà nước Lào, với số lượng tăng
từ 130 người năm 2001 lên 225 người năm 2005 và hàng nghìn cán
bộ, học sinh tốt nghiệp các bậc đại học và cao đẳng trong năm năm
2001 - 2005. Kết quả này đã tạo cho Lào một nguồn nhân lực trên
hầu hết các lĩnh vực quản lý, kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật.
- Về phía Lào, số cán bộ, học sinh Việt Nam học tại Lào có
mặt 122 người, hai bên đã dành vốn viện trợ xây dựng ký túc xá
học sinh nước ngoài tại Đại học Quốc gia Viêng Chăn để phục vụ
710 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

cho cán bộ, học sinh Việt Nam học tập tại Lào.
Hai bên đã phối hợp hoàn thành Trung tâm bồi dưỡng cán bộ
quản lý kinh tế, kế hoạch Viêng Chăn; xây dựng Trường Năng khiếu
và dự bị đại học Viêng Chăn, trị giá hơn 80 tỷ VNĐ; Khoa Tiếng Việt
Trường Đại học Quốc gia Lào; nâng cấp, cải tạo Trường Chính trị -
Hành chính quốc gia Thà Ngòn, để phục vụ tại chỗ cho Lào.
Tuy nhiên, chất lượng trong hợp tác đào tạo chưa được như
mong muốn, nhiều vấn đề về cơ chế, chính sách, sự phối hợp giữa
hai bên cần phải được bổ sung, điều chỉnh.
Thực hiện các chương trình hợp tác
Về nông nghiệp: gần 1/4 số vốn viện trợ đã được triển khai cho
chương trình an ninh lương thực quốc gia của Lào, trong việc nâng
cao hiệu quả sản xuất lương thực trên bảy cánh đồng: Viêng Chăn,
Chămpaxắc, áttapư, Khăm Muộn, Bôlikhămxay, Xavẳnnakhệt, Xê
Đôn. Đầu tư ba hệ thống thủy lợi lớn Đoông Phu Xỉ, Thà Phanoọng
(Viêng Chăn) và Nặm Long (Hủa Phăn) với số vốn đầu tư trong 5
năm là hơn 87 tỷ VNĐ; cung cấp 26 tỷ VNĐ thiết bị bơm để đẩy
nhanh tiến độ hoàn thành hệ thống thủy lợi Đoông Phu Xỉ và Thà
Phanoọng112. Những công trình này đang được hoàn thành và đưa
vào sử dụng, được phía Lào đánh giá cao trong việc góp phần tăng
trưởng nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, phát triển nông
thôn và sản xuất hàng hoá của Lào.
Hợp tác giao thông: các tuyến đường và cửa khẩu qua biên giới
hai nước được đầu tư, nâng cấp tạo điều kiện thuận lợi cho việc qua
lại và phát triển kinh tế giữa hai nước. Một phần vốn viện trợ dành
cho việc khảo sát lập báo cáo nghiên cứu khả thi và xây dựng một
số tuyến đường và cầu lớn theo yêu cầu của phía Lào.
Lĩnh vực điều tra cơ bản: một số vốn viện trợ (11%) được dành
112
. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam): Báo cáo tình hình thực hiện hợp tác kinh
tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào, thời kỳ 2001 - 2005, tr.4.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 711

cho các dự án: tăng cường năng lực cho Cục Đo đạc quốc gia Lào
bằng công nghệ bản đồ kỹ thuật số. Khảo sát lập bản đồ địa chất
1/200.000 Bắc Lào; thăm dò muối mỏ Potát, thạch cao ở Trung
Lào; điều tra khoáng sản và bôxít ở Nam Lào.
Một số vốn viện trợ còn được sử dụng cho việc duy trì hoạt
động của dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Chămpaxắc,
duy trì hoạt động của các trạm thủy văn...
Hợp tác trong lĩnh vực đầu tư, thương mại
Thương mại: kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2001 - 2005
đạt 687,8 triệu USD, tuy có giảm so với giai đoạn 1996 - 2000,
nhưng đã khai thác được các mặt hàng có thế mạnh và góp phần
thúc đẩy sản xuất của mỗi nước.
Các chính sách kinh tế đã thực sự có tác động tích cực tới kim
ngạch thương mại hai nước. Những điều chỉnh của thỏa thuận
Viêng Chăn năm 2002 về giảm 50% thuế suất thuế nhập khẩu cho
hàng hoá có xuất xứ từ mỗi nước như bổ sung 12 mặt hàng có
xuất xứ từ Lào nhập khẩu vào Việt Nam năm 2003; xoá bỏ danh
mục, số lượng, giá trị và mở rộng cho tất cả hàng hoá có xuất xứ từ
mỗi nước năm 2004 và thống nhất danh mục hàng hoá giảm 0%
thuế suất thuế nhập khẩu để áp dụng trong năm 2005..., kim ngạch
xuất nhập khẩu hai nước vào các năm 2004, 2005 đã được cải
thiện, tăng bình quân 26%/năm113.
Các hoạt động xúc tiến thương mại được tăng cường và duy trì
thường xuyên nhân dịp các ngày lễ lớn hàng năm của hai nước, với
cơ chế miễn thuế hàng hoá và hỗ trợ chi phí cho các doanh nghiệp
tham gia hội chợ, triển lãm. Việc thông quan hàng hoá và hoạt
động của các chợ cửa khẩu trên tuyến biên giới Việt - Lào đã góp

113
. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam): Báo cáo tình hình thực hiện hợp tác kinh
tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào, thời kỳ 2001 - 2005, tr.6.
712 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

phần quan trọng tăng dần thị phần và uy tín của hàng hoá Việt Nam
trên thị trường Lào, tăng cường giao lưu kinh tế, thương mại biên
giới, nâng cao đời sống của cư dân vùng biên.
Hạn chế của quan hệ thương mại giữa hai nước giai đoạn 2001 -
2005 là tuy các chính sách được đưa ra điều chỉnh phù hợp với yêu
cầu thực tế, nhưng việc triển khai của một số cơ quan chức năng
còn chậm, các giải pháp chưa thông thoáng kịp thời, thiếu nhạy bén
so với các nước láng giềng.
Hợp tác về đầu tư: từ sau Nghị định số 22/1999/NĐ-CP tháng 4
năm 1999 của Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài được ban hành và
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam có quy định về quản lý và triển
khai các dự án hợp tác với Lào (ngày 16 tháng 7 năm 1999), số dự
án đầu tư vào Lào tăng lên đáng kể. Từ năm 2001 đến 2005 có 18
dự án, chiếm 52,9% số dự án đầu tư vào Lào từ trước đến lúc này.
Với sự quan tâm thích đáng của Chính phủ hai nước, công tác xúc
tiến đầu tư giữa hai nước đã có những bước chuyển biến đáng kể.
Đầu tư trực tiếp của Lào vào Việt Nam tính đến năm 2005 có
sáu dự án với số vốn đóng góp của Lào là 4,3 triệu USD, tập trung
chủ yếu trong lĩnh vực giao thông vận tải, bưu điện, tài chính, ngân
hàng...
Nhiều dự án đầu tư sản xuất hàng hoá tiêu dùng bằng nhựa, dệt
kim, bột giấy, vật liệu xây dựng nhằm tận dụng thế mạnh nguyên
liệu và nhân lực sẵn có của Lào đã được đưa vào hoạt động. Các dự
án với quy mô lớn được mở ra không những mang lại lợi ích kinh
tế mà còn có ý nghĩa an ninh, quốc phòng, góp phần thực hiện chủ
trương tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai nước như: Nhà máy
thủy điện Xê Camản 3 (240MW), trồng và chế biến cao su, các cây
công nghiệp khác tại các tỉnh Nam Lào, khai thác và sản xuất muối
mỏ kali ở Trung Lào, tổ hợp than điện Nặm Ngân... đã và đang
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 713

được các tổng công ty nhà nước và các địa phương của Việt Nam
triển khai114.
Hạn chế trong hoạt động đầu tư của hai nước là quy mô đầu tư
còn nhỏ (bình quân 0,483 triệu USD/dự án), công nghệ đơn giản,
chưa mang tầm chiến lược lâu dài về sản phẩm, tạo ra những hàng
hoá có khả năng cạnh tranh ra thị trường bên ngoài thông qua các
dự án đầu tư vào mỗi bên. Các cơ chế, chính sách và thủ tục trong
cấp phép đầu tư, hỗ trợ vay vốn, thủ tục hải quan và chính sách
thuế ưu đãi cần phải được bổ sung, điều chỉnh, tạo điều kiện thuận
lợi cho doanh nghiệp hai nước trong hoạt động đầu tư.
Thực hiện các cam kết hai bên
Giai đoạn 2001 - 2005, nhiều nội dung ưu tiên, ưu đãi cho nhau
đã được thỏa thuận trong nhiều lĩnh vực.
Trong lĩnh vực giao thông vận tải: để tạo điều kiện cho hàng
hoá của Lào quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt đối với cảng
Vũng áng, bốn loại cước phí đã được giảm; đồng thời tiếp tục nâng
cấp đường 12 từ cửa khẩu Chalo (Quảng Bình) đi cảng Vũng áng,
đầu tư giai đoạn 2 cảng Vũng áng để dành cho Lào sử dụng theo
thỏa thuận.
Hiệp định tín dụng bổ sung đường 18B Nam Lào được ký
ngày 16 tháng 7 năm 2004 và đang đẩy nhanh tiến độ đưa vào sử
dụng vào đầu năm 2006 để thông thương với cửa khẩu Bờ Y của
Việt Nam.
Thực hiện thỏa thuận về việc hai bên ưu tiên đầu tư mở các
tuyến đường qua biên giới hai nước, bằng nguồn vốn ngân sách, từ
năm 2001 đến 2005, phía Việt Nam đã đầu tư xây dựng các tuyến
đường Nà Cài (Sơn La), Sơn Hồng, Vũ Quang (Hà Tĩnh), Thanh

114
. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam): Báo cáo tình hình thực hiện hợp tác
kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào, thời kỳ 2001 - 2005, tr.7, 8, 9.
714 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Thuỷ (Nghệ An) đi biên giới Việt - Lào. Hoàn thành các trạm liên
kiểm cửa khẩu Chiềng Khương (Sơn La), Na Mèo (Thanh Hoá),
Nậm Cắn (Nghệ An) và đang đầu tư xây dựng trạm liên kiểm cửa
khẩu Tây Trang (Điện Biên)115.
Trong lĩnh vực mua bán điện: thực hiện Hiệp định hợp tác
năng lượng - điện (ngày 6 tháng 7 năm 1998), Việt Nam tiếp tục
bán điện cho phía Lào tại Sầm Nưa (Hủa Phăn), Lắc Xao
(Bôlikhămxay), Xê Pôn (Xavẳnnakhệt) và Samuội (Xalavăn) hàng
năm khoảng 13.000 KW/h. Hiện mạng lưới điện đã đến các điểm
biên giới Bờ Y (Kon Tum), Kak Tao (Quảng Nam), Hồng Vân
(Thừa Thiên - Huế) và Cầu Treo (Hà Tĩnh), sẵn sàng bán điện khi
phía Lào có nhu cầu.
Việt Nam hoàn thành việc giúp Lào quy hoạch đầu nối mạng
điện hai nước các tuyến Nặm Mộ - Bạn Vẽ - Vinh (110 KV), Xê
Camản - A Vương - Đà Nẵng (220 KV), Nam Lào - Trạm 500 KV
Plâycu (500 KV) để chuẩn bị thực hiện thỏa thuận nối mạng năng
lượng điện trong những năm tới.
Về cơ chế chính sách hợp tác
Để thúc đẩy và mở rộng quan hệ hợp tác giữa hai nước và
nhằm điều chỉnh các cơ chế, chính sách hợp tác phù hợp với tình
hình thực tế của mỗi nước giai đoạn 2001 - 2005, hai bên đã phối
hợp nghiên cứu sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế hợp tác116. Các cơ
chế chính sách này là cơ sở cho việc quản lý, hợp tác giữa hai bên,
đóng góp tích cực vào việc phát triển quan hệ hợp tác giữa hai
115
. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam): Báo cáo tình hình thực hiện hợp tác
kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào, thời kỳ 2001 - 2005, tr.7, 8, 9.
116
. Thay thế “Thoả thuận về quy chế tài chính và quản lý các dự án sử dụng
vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào” ký
ngày 9 tháng 3 năm 1998 bằng thoả thuận mới ký ngày 15 tháng 1 năm 2002.
Ký Nghị định thư về hợp tác đào tạo cán bộ giữa Chính phủ Việt Nam và Chính
phủ Lào, giai đoạn 2001 - 2005, ngày 15 tháng 1 năm 2002.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 715

nước.
Hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào
những năm 2006 - 2007 tiếp tục được tăng cường. Trong cuộc gặp
giữa hai Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân
cách mạng Lào tại Viêng Chăn, ngày 3 tháng 1 năm 2006, hai bên
tiếp tục khẳng định việc tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế,
văn hóa, khoa học - kỹ thuật và duy trì quan hệ truyền thống sẵn có,
lâu đời là nhiệm vụ chiến lược lâu dài của hai Đảng và nhân dân
hai nước. Hai bên thống nhất những định hướng lớn cho sự hợp tác
toàn diện giữa hai nước giai đoạn 2006 - 2010.
Quán triệt tinh thần và nội dung cuộc hội đàm giữa hai Bộ
Chính trị và nội dung bản thỏa thuận chiến lược về hợp tác kinh tế,
văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
giai đoạn 2001 - 2010, ngày 4 tháng 1 năm 2006, tại Viêng Chăn,
Chính phủ hai nước ký Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa
học - kỹ thuật giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào giai
đoạn 2006 - 2010.
Hiệp định được ký kết trong bối cảnh công cuộc đổi mới ở Việt
Nam và ở Lào đang đạt được những thành tựu to lớn.
ở Việt Nam, Đại hội lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam đã
tiến hành tổng kết 20 năm đổi mới, từ đó tiếp tục phát triển và hoàn
thiện đường lối, quan điểm, định ra phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển đất nước năm năm 2006 - 2010 tầm nhìn đến
năm 2020, thực hiện bằng được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính
sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời
716 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích
cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
ở Lào, Đại hội lần thứ VIII Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng
đã tiến hành tổng kết 20 năm đổi mới và khẳng định đất nước liên
tục phát triển, từng bước tiến tới mục tiêu giàu mạnh và phồn vinh.
Đại hội xác định mục tiêu xây dựng đất nước thời kỳ 2006 -2010 và
hướng tới năm 2020 là tăng cường đoàn kết toàn dân, phát huy sức
mạnh tổng hợp, tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân
dân, từng bước tiến tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Đại hội chủ
trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế: tiếp tục củng
cố, tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với các
nước xã hội chủ nghĩa, trong đó tiếp tục củng cố và phát triển tình
đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với Việt Nam.
Sau kế hoạch năm năm 2001 - 2005, nền kinh tế của hai nước
đều có mức tăng trưởng khá và ổn định; năng lực và trình độ sản
xuất của nhiều ngành kinh tế của Lào đã tăng lên đáng kể. Hệ thống
cơ sở hạ tầng các tuyến đường 9, đường 12, đường 18B, cầu
Mụcđahán qua sông Mê Công... giữa hai nước với khu vực được
hoàn thành đầu tư nâng cấp sẽ là cơ sở thuận lợi để phát triển giao
lưu du lịch, thương mại giữa các nước và khu vực. Tuy nhiên, bên
cạnh những thuận lợi cũng còn nhiều hạn chế tác động đến quan hệ
hợp tác, đó là: xuất phát điểm kinh tế của hai nước còn thấp; khả
năng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của các doanh ngiệp hai
nước chưa đáp ứng so với yêu cầu, trong khi lộ trình thực hiện đầy
đủ các cam kết AFTA, WTO và các hiệp định quốc tế khác đang và
sẽ tạo ra những sức ép cạnh tranh rất lớn đối với doanh nghiệp hai
nước.
Về khách quan, sự ảnh hưởng của các nước láng giềng trong
khu vực thông qua viện trợ, đầu tư, hợp tác kinh tế vì lợi ích và
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 717

quyền lợi của mỗi nước ngày càng rõ nét. Các thế lực phản động
trong và ngoài nước vẫn còn ý đồ ngăn cản sự phát triển và hợp tác
an ninh biên giới giữa hai nước...
Hai bên xác định quan điểm hợp tác trong giai đoạn 2006 -
2010 là tiếp tục phát huy quan hệ truyền thống tốt đẹp, có hiệu quả
trong mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước, kết hợp chặt chẽ giữa
hợp tác kinh tế với chính trị, an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Lấy
mục tiêu chính trị làm cơ sở xem xét hiệu quả cho các hoạt động
hợp tác kinh tế trên cơ sở phát huy và duy trì các kết quả hợp tác đã
đạt được; sử dụng tốt tiềm năng, thế mạnh và bảo đảm sự phát triển
bền vững môi trường sinh thái của mỗi nước; nâng cao hiệu quả và
tăng cường ảnh hưởng thông qua hợp tác kinh tế; đồng thời có cơ
chế hỗ trợ thông thoáng, tạo sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp
hoạt động đầu tư, thương mại trên thị trường hai bên.
Hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giai đoạn 2006 -
2010 tiếp tục hướng vào mục tiêu ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực
và nâng cao chất lượng đào tạo; tăng cường hợp tác phát triển bền
vững vùng biên giới hai nước; quan tâm thích đáng hợp tác trên
lĩnh vực văn hoá; khuyến khích và tạo điều kiện cho các địa
phương hợp tác trên cơ sở quản lý thống nhất thông qua các
chương trình hợp tác.
Nội dung của Hiệp định bao gồm sáu chương trình mục tiêu sau
đây:
- Chương trình 1: Hợp tác giáo dục - đào tạo và nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực.
- Chương trình 2: Hợp tác phát triển bền vững vùng biên hai
nước.
- Chương trình 3: Hợp tác thông tin, văn hoá, tư tưởng.
- Chương trình 4: Phát triển thương mại, đầu tư.
- Chương trình 5: Hợp tác kết nối mạng cơ sở hạ tầng, dịch vụ,
718 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

du lịch giữa hai nước.


- Chương trình 6: Duy trì hoạt động và nâng cao năng lực các
chương trình, dự án phục vụ hợp tác giữa hai nước.
Hai bên thống nhất cam kết cùng phối hợp với Campuchia đẩy
mạnh hợp tác xây dựng Tam giác phát triển ba nước Việt Nam -
Lào - Campuchia (CLV), trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển
đã được Thủ tướng ba nước thông qua tại Viêng Chăn, ngày 28
tháng 11 năm 2004. Cung cấp thông tin và tham khảo ý kiến lẫn
nhau trong các chương trình hợp tác đa phương và hợp tác liên kết
kinh tế bốn nước Campuchia - Lào - Mianma - Việt Nam (CLMV),
chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mê Công
(ACMECS) và hợp tác Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC).
Tăng cường hợp tác chặt chẽ để phối hợp với các quốc gia khác
trong lưu vực sông Mê Công nhằm phát triển và quản lý bền vững
tài nguyên nước trong khu vực sông Mê Công và thực hiện tốt Hiệp
định sông Mê Công năm 1995.
Trong hai năm 2006 - 2007, với sự nỗ lực của cả hai bên, quan
hệ hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa hai nước Việt
Nam - Lào đã chuyển biến tốt.
Hợp tác giáo dục - đào tạo được mở rộng bằng nhiều hình thức,
đáp ứng nhu cầu đào tạo của mỗi bên. Hai bên phối hợp xây dựng
bộ từ điển Việt - Lào, Lào - Việt; đưa vào sử dụng Trường Năng
khiếu và dự bị đại học Viêng Chăn; tiến hành xây dựng Trường Tài
chính Đông Khăm Xạng; tiếp tục xây dựng Trường Dạy nghề tỉnh
Bò Kẹo; cử giáo viên dạy tiếng Việt tại các trường dân tộc nội trú
tại Lào.
Trong lĩnh vực kinh tế, hai bên đã khánh thành đường 18B từ tỉnh
áttapư đến biên giới hai nước; tiếp tục xây dựng Nhà máy thủy điện
Xê Camản 3, chuẩn bị đầu tư cụm dự án thuỷ điện Xê Camản 1, bao
gồm cả dự án Xê Camản Xanxay (Xê Camản 0) và các dự án thủy
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 719

điện Nặm Cắn, Xê Camản 4, Đắc Ymơn, Xê Coong 3 (thượng lưu và


hạ lưu) để phục vụ kết nối hệ thống điện giữa hai nước.
Hoạt động thương mại tiếp tục tăng, kim ngạch hai chiều năm
2006 đạt 240 triệu USD, tăng 48% so với năm 2005, năm 2007
(tính đến tháng 11) đạt 289 triệu USD, tăng 32% so với cùng kỳ
năm 2006.
Hoạt động đầu tư được duy trì và đạt những kết quả tốt. Năm
2006, hai bên đã cấp phép cho 52 dự án đầu tư vào Lào với số vốn
đăng ký đạt 368,6 triệu USD. Năm 2007, phía Việt Nam có 87 dự
án được cấp phép đầu tư vào Lào với tổng số vốn đăng ký là 1.020
triệu USD, xếp thứ ba trong tổng số 30 nước và khu vực đầu tư
vào Lào.
Để thúc đẩy hợp tác đầu tư có hiệu quả trong những năm 2006 -
2008, hai bên đã tổ chức Hội nghị đánh giá, rút kinh nghiệm về
hoạt động đầu tư giữa hai nước tại Lao Bảo (Quảng Trị) vào
tháng 6 năm 2007, Hội nghị sửa đổi, bổ sung “Thoả thuận Viêng
Chăn 2002” và thay bằng “Thoả thuận Hà Nội 2007”.
Với sự quan tâm của hai bên, hợp tác đầu tư ngày càng đạt
được những kết quả cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Từ năm 2000
đến hết năm 2007 có 37 nước đầu tư vào Lào với tổng số vốn
đầu tư đạt 6.461,6 triệu USD. Việt Nam đứng thứ ba với 129 dự
án và tổng số vốn 574,7 triệu USD. Về thủy điện, theo kế hoạch
phát triển điện dài hạn của Lào có 74 dự án, với tổng công suất
15.895 MW, Việt Nam đầu tư 30 dự án với tổng công suất 5.089
MW, chiếm 45,5% số dự án và 32% tổng công suất.
Trong lĩnh vực thăm dò khai thác khoáng sản, tính đến tháng
8 năm 2007, Lào đã cấp phép 100 dự án khai thác khoáng sản, trong
đó Việt Nam có chín dự án với vốn đầu tư là 52 triệu USD. Tới cuối
năm 2007, Việt Nam có 18 doanh nghiệp xin phép đầu tư thăm dò,
khai thác khoáng sản tại Lào, bao gồm khai thác sắt (Hủa Phăn),
720 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

thạch cao (Khăm Muộn), tìm kiếm muối mỏ kali (Khăm Muộn), sắt
(Xê Coong), kẽm - chì (Hủa Phăn và Bolikhămxay) và 12 doanh
nghiệp đang đề nghị khai thác bôxít, than, sắt, khoáng sản kim loại
màu khác117.
Trên diện tích 178.943 ha đã được phía Lào cấp phép để đầu tư
trồng cao su trên 10 tỉnh với số vốn 245 triệu USD, Việt Nam đang
đầu tư 21 dự án tại năm tỉnh Trung và Nam Lào là Xavẳnnakhệt,
Chămpaxắc, Xalavăn, Xê Coong và áttapư với diện tích 46.609 ha
và vốn đầu tư 138,9 triệu USD, theo hình thức thuê dài hạn 10 - 50
năm. Tính đến cuối năm 2007, Việt Nam đã trồng được 21.200 ha,
bằng 45,06% diện tích được cấp phép2.
Bước vào giai đoạn 2006 - 2010, hai bên nhất trí thúc đẩy mạnh
mẽ hợp tác đầu tư, thương mại giữa hai nước trên tinh thần tôn trọng
thông lệ quốc tế, có sự quan tâm, ưu tiên, ưu đãi cho nhau nhằm
phát huy cao nhất khả năng, tiềm năng của mỗi nước, trên cơ sở
quan hệ đặc biệt sẵn có. Tạo điều kiện cho nhau mở rộng thị
trường ở mỗi bên và ra bên ngoài. Thúc đẩy nhanh và dành ưu
tiên đầu tư một số dự án thủy điện, khai khoáng, trồng cây công
nghiệp tại Lào, mang lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên và đáp ứng
nhu cầu về các nguồn lực cho phát triển kinh tế của mỗi nước;
đồng thời khuyến khích các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh
tế của Lào và Việt Nam đầu tư kinh doanh ổn định và lâu dài vào
mỗi bên.
Hợp tác về bưu chính viễn thông cũng được hai bên quan tâm,
hai nước đã thoả thuận xây dựng tuyến cáp quang nối Việt Nam với
Lào; đồng thời phối hợp lập dự án kinh doanh tuyến cáp quang
quốc tế sáu nước.
Hợp tác du lịch ngày càng phát triển, số khách tham quan du lịch

, 2. Trần Bảo Minh: Tổng quan hợp tác đầu tư Việt Nam và Lào.
117
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 721

Lào và Việt Nam ngày một tăng. Năm 2006, số du khách Lào vào
Việt Nam đạt 33.980 người và khách Việt Nam sang Lào là 141.653
người. Du lịch hai bên đã có những hợp tác hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo
cán bộ du lịch Lào, cùng với Lào trao đổi kinh nghiệm, xây dựng
Luật Du lịch, phân hạng khách sạn, quản lý hướng dẫn viên và quy
hoạch du lịch.
Về văn hoá thông tin, hai năm 2006 - 2007, phía Việt Nam tiếp
tục hoàn thành hệ thống các đài chuyển tiếp phát thanh, truyền hình
Lào tại các điểm Chămpaxắc, Xavẳnnakhệt, Uđômxay và Luổng
Phạbang. Duy trì và mở rộng nội dung phụ đề tiếng Lào trong các
chương trình chuyển tiếp Đài Truyền hình Việt Nam tại Lào. Tiếp
tục hỗ trợ củng cố, nâng cao năng lực chuyên môn cho các cán bộ
thuộc lĩnh vực văn hoá thông tin, phát thanh, truyền hình, báo chí
của Lào. Chia sẻ kinh nghiệm hoạt động của Bảo tàng Cayxỏn
Phômvihản. Đặc biệt, trong lĩnh vực viễn thông, tháng 11 năm
2007, Tổng công ty Viễn thông quân đội Việt Nam (Viettel) và
Công ty Viễn thông quân đội Lào đã ký kết hợp đồng liên doanh thành
lập Công ty Star Telecom với vốn đầu tư 60 triệu USD để cung cấp
dịch vụ viễn thông - công nghệ thông tin tại Lào, góp phần hiện đại
hoá hạ tầng viễn thông - công nghệ thông tin, tăng năng lực cạnh
tranh cho các doanh nghiệp viễn thông Lào.
Về khoa học, công nghệ, Việt Nam đang giúp Lào về công
nghệ sinh học, công tác quản lý môi trường, lĩnh vực sở hữu trí tuệ,
đo lường. Các cơ quan khoa học lớn của hai bên đã có những hoạt
động phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau tiến hành nghiên cứu một số vấn
đề hai bên cùng quan tâm. Từ năm 2004, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Lào nghiên cứu đề tài khoa học “Phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và Lào hiện
nay”. Hiện nay, hai bên đang phối hợp nghiên cứu đề tài “Xây dựng
722 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Đảng cầm quyền trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam và ở Lào”, tổ chức các hội thảo, phối hợp
nghiên cứu lịch sử, địa lý... Hai bên bắt đầu phối hợp nghiên cứu
biên soạn công trình lịch sử “Quan hệ đặc biệt và liên minh chiến
đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007)”.
Trong lĩnh vực y tế, Bộ Y tế Việt Nam đang giúp Lào xây dựng
đề án Trường Đại học Y - Dược Viêng Chăn. Đang triển khai xây
dựng khu nhà chính, phòng thí nghiệm và một số phòng học với
vốn viện trợ khoảng 5 triệu USD118.
Các cơ chế, chính sách được xem xét điều chỉnh; các thỏa thuận
hợp tác về thực hiện ưu đãi giảm 50% thuế suất và một số mặt hàng
được hưởng 0% thuế suất thuế dịch vụ lao động và cấp thẻ theo
thời hạn hợp đồng và cư trú của người lao động Việt Nam tại Lào
đã và đang tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư, thương mại giữa hai
nước.
* Hợp tác giữa các địa phương và hợp tác biên giới
Việt Nam và Lào có đường biên giới đi qua 10 tỉnh của Việt
Nam và 10 tỉnh của Lào, ngoài ra còn có các tỉnh, thành phố kết
nghĩa, vì vậy mà hợp tác giữa các địa phương hai bên Việt Nam -
Lào phát triển rất nhanh và ngày càng có hiệu quả. Quan hệ hữu
nghị truyền thống đã có từ lâu, nhưng quan hệ hợp tác toàn diện thì
mới chỉ có từ khi hai nước giành được độc lập và xây dựng đất
nước (1975). Riêng hợp tác về kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
chủ yếu là trong giai đoạn từ năm 1996 đến nay. Tại cuộc hội đàm
đầu năm 1996, hai Bộ Chính trị đã đồng ý cho các địa phương có
chung biên giới ký kết hợp tác trực tiếp với nhau. Đến cuộc gặp
tháng 1 năm 1997, hai Bộ Chính trị chủ trương tăng cường quan hệ
hợp tác giữa các tỉnh có chung biên giới và cho phép mở chợ

. Vũ Dương Huân: Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8, năm 2007.


118
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 723

đường biên, khuyến khích việc trao đổi hàng hoá, giao lưu buôn
bán, hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng. Thực hiện miễn, giảm thuế
đối với hàng hoá mua bán tại các vùng biên giới, sớm hoàn tất quy
chế chợ đường biên và khu vực thương mại tự do Lao Bảo.
Trên cơ sở định hướng của hai Bộ Chính trị và thông qua các
hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam -
Lào qua từng giai đoạn và hàng năm, hai bên đã phối hợp triển khai
việc hợp tác trực tiếp giữa các địa phương hai nước và ngày càng
đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Giai đoạn 1996 - 2000, hợp tác giữa các địa phương, đặc biệt là
các tỉnh biên giới hai nước đã được mở rộng và ngày càng có hiệu
quả tốt, đã đóng góp vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển
và bảo vệ Tổ quốc của cả hai bên. Nhiều tỉnh biên giới đã liên
doanh liên kết phát triển các lĩnh vực kinh tế như: hợp tác liên
doanh khai thác gỗ giữa Nam Định với Uđômxay, Nghệ An với
Xiêng Khoảng, Quảng Nam với Xalavăn, Quảng Bình với Khăm
Muộn, Lai Châu với Phôngxalỳ. Nhiều dự án hợp tác sản xuất hàng
thủ công, sành sứ và thuốc chữa bệnh... giữa các tỉnh của hai nước đã
đi vào hoạt động. Hầu hết các địa phương giáp biên giới phía Việt
Nam đã sang điều tra, khảo sát giúp các địa phương phía Lào xây
dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các huyện. Tỉnh
Quảng Nam giúp huyện Samuội, tỉnh Xalavăn; Hà Tĩnh giúp huyện
Khăm Cợt, tỉnh Bolikhămxay; Lai Châu giúp huyện Phôngxalỳ...
Tỉnh Thanh Hoá đã đào tạo cho tỉnh Hủa Phăn giáo viên cao đẳng
tiếng Anh, phiên dịch tiếng Việt... Quan hệ hợp tác giữa các tỉnh đã
đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế của các địa
phương dọc biên giới, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ hợp tác giữa
hai nước và củng cố vành đai biên giới hoà bình, hữu nghị.
Hợp tác trong lĩnh vực xây dựng quy hoạch phát triển ngành,
lãnh thổ là một trong những nội dung được các tỉnh biên giới hai
724 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

nước quan tâm. Những dự án hợp tác này cùng với các chương
trình dự án quy hoạch chung giữa hai nước là những tiền đề quan
trọng để phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển kinh tế, tạo điều
kiện giúp đỡ nhau sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bảo vệ môi
trường và tận dụng những cơ hội phát triển của các địa phương phù
hợp với phương hướng phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế giữa
hai nước với khu vực. Tuy nhiên, quy hoạch của các tỉnh cũng còn
chậm đi vào cuộc sống, do những khả năng hạn chế về vốn của cả
hai bên.
Bước sang giai đoạn 2001 - 2007, các địa phương hai bên đã
phát huy và duy trì thường xuyên mối quan hệ đoàn kết, hợp tác
truyền thống láng giềng tốt đẹp, bảo đảm an ninh xã hội vùng biên,
giải quyết tốt những việc phát sinh; đồng thời tiếp tục chủ động
phối hợp tìm kiếm, cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện
Việt Nam trên đất Lào.
Các địa phương thường xuyên trao đổi đoàn, trao đổi kinh
nghiệm, thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, du lịch, đầu tư, đào
tạo, y tế. Đi đầu trong hợp tác giữa các địa phương là thành phố Hồ
Chí Minh hợp tác với Thủ đô Viêng Chăn và tỉnh Chămpaxắc.
Thành phố Hồ Chí Minh đã hỗ trợ kỹ thuật trồng giống ngô lai, kỹ
thuật chăn nuôi, cung cấp bò giống, phân bón, thuốc trừ sâu; tổ
chức nhiều đợt tập huấn cho cán bộ nông nghiệp và nông dân Thủ
đô Viêng Chăn và tỉnh Chămpaxắc. Công ty Nhựa Sài Gòn đầu tư
xây dựng nhà máy nhựa tại Viêng Chăn. Lực lượng thanh niên
xung phong thành phố có dự án trồng cao su tại Nam Lào; chuẩn bị
xây dựng siêu thị tại Viêng Chăn. Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo
thành phố triển khai chương trình mổ mắt đem lại ánh sáng cho
3.000 bệnh nhân nghèo khiếm thị ở Viêng Chăn và Chămpaxắc. Về
giáo dục, thành phố Hồ Chí Minh cung cấp cho hai địa phương kết
nghĩa 100 suất học bổng đại học, xây dựng tặng thành phố Viêng
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 725

Chăn Trường Hữu nghị Viêng Chăn - thành phố Hồ Chí Minh cùng
các trang thiết bị và xây dựng tặng tỉnh Chămpaxắc một trung tâm
văn hóa.
Một số địa phương đã triển khai hợp tác có hiệu quả tốt với các
địa phương của Lào như: Sơn La hợp tác với sáu tỉnh Bắc Lào, đặc
biệt là với hai tỉnh Hủa Phăn và Luổng Phạbang; Hà Tĩnh với tỉnh
Bolikhămxay; Quảng Bình với tỉnh Khăm Muộn; Quảng Trị với
Xavẳnnakhệt; Nghệ An với Xiêng Khoảng; Kon Tum với áttapư...
Các địa phương không chỉ hỗ trợ giúp đỡ nhau một cách thiết
thực bằng kinh nghiệm, khả năng sẵn có theo truyền thống trước
đây, mà đã có sự chuyển hướng tích cực trong việc hợp tác cùng
phát triển trên nhiều lĩnh vực kinh tế.
Hoạt động đầu tư thương mại của các doanh nghiệp có sự chỉ
đạo của các cấp, ngành địa phương đã đi dần vào nền nếp, có trọng
tâm, trọng điểm, đáp ứng được nhu cầu phát triển, khai thác được
tiềm năng, thế mạnh sẵn có về đất đai và nguồn tài nguyên, nhân
lực của mỗi bên.
Các chương trình hợp tác trên nhiều lĩnh vực có tác động trực
tiếp tới phát triển kinh tế giữa các địa phương hai nước đã được
quan tâm như: chuyển giao công nghệ sinh học, nuôi cấy mô tế bào
thực vật, sản xuất giống cây có giá trị kinh tế cao, phối hợp hình
thức gieo giống, cung cấp nguyên liệu chiết xuất cây trầm gió của
tỉnh Hà Tĩnh; chuyển giao kỹ thuật và công nghệ chế biến thức ăn
viên cho cá của thành phố Hồ Chí Minh; lập quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 2010 - 2020 tỉnh Xiêng Khoảng của tỉnh Nghệ An;
nâng cao năng lực các trạm thu phát truyền hình các huyện tỉnh
Hủa Phăn của tỉnh Thanh Hóa... với số vốn hàng chục tỷ đồng.
Hợp tác giáo dục, đào tạo ở các địa phương được mở ra và tăng
lên nhanh chóng. Tính đến cuối năm 2006, có 1.046 học sinh tại 12
tỉnh, thành phố của Việt Nam, trong đó có 383 cán bộ, học sinh ở các
726 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

bậc học, được đào tạo bằng nguồn ngân sách của các địa phương.
Các địa phương cũng đã giúp Lào nhiều cơ sở đào tạo tại Lào
như: Quảng Bình xây dựng Trường Phổ thông Khăm Muộn; Hà
Nội xây dựng Trường Trung cấp kỹ thuật chăn nuôi ở Viêng Chăn;
thành phố Hồ Chí Minh xây dựng Trường Trung học phổ thông
Xìkhốt ở Viêng Chăn.
Thành phố Hà Nội, các tỉnh Hải Dương, Điện Biên... cũng có
một số dự án hợp tác với phía Lào, từng bước đạt được kết quả tốt.
Trong những năm 2001 - 2007, hai bên đã phối hợp thực hiện
tốt Hiệp định về quy chế biên giới, kịp thời phát hiện và giải quyết
các vấn đề nảy sinh, đặc biệt là phối hợp hai bên trong việc phòng
và chống vận chuyển và mua bán ma túy qua biên giới, góp phần
xây dựng biên giới hai nước là đường biên giới hòa bình, hữu nghị
và hợp tác phát triển. Tổ chức khai trương cặp cửa khẩu quốc tế Na
Mèo (Thanh Hóa) - Nặm Xôi (Hủa Phăn), ba cặp cửa khẩu phụ:
Huội Puốc (Điện Biên) - Na Xon (Luổng Phạbang), Hồng Vân
(Thừa Thiên - Huế) - Cutai (Xalavăn), AĐốt (Thừa Thiên - Huế) -
Tavang (Xê Coong). Hoàn thành các thủ tục cần thiết nâng cấp cửa
khẩu Nam Giang (Quảng Nam)- Đắc Tà óc (Xê Coong) thành cửa
khẩu chính. Xây dựng cầu Xả ớt khu vực Lao Bảo (Quảng Trị) -
Đen Xávẳn (Xavẳnnakhệt)... phục vụ đi lại thông thường, hợp tác
thương mại, đầu tư giữa hai nước.
Để thúc đẩy hợp tác phát triển toàn diện và ổn định vùng biên
giới hai nước, hai bên đã ký kết “Thỏa thuận Hà Nội 2007” nhằm
cải tiến thủ tục kiểm tra, kiểm soát qua lại giữa hai bên, tạo điều
kiện thuận lợi cho người, phương tiện và hàng hóa qua lại biên giới
giữa hai nước; triển khai dự án tăng dày và tôn tạo cột mốc quốc
giới Việt Nam - Lào để thực hiện vào năm 2008. Hai bên đã phối
hợp và bố trí kinh phí đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng, giao
thông, nông nghiệp, thủy lợi, y tế, các cụm bản nhằm đảm bảo ổn
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 727

định an ninh, quốc phòng.


Tuy nhiên, hợp tác giữa các địa phương cũng còn nhiều khó
khăn, tồn tại. Nhiều chương trình, dự án sau khi hoàn thành chậm
được thanh toán gây nợ đọng kéo dài. Trong thương mại, việc thực
hiện các cam kết tạo điều kiện cho người, hàng hóa qua lại chưa
được thống nhất ở một số địa phương...
*
* *
Quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trong thời kỳ đổi
mới 1986 - 2007 đã trải qua nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với
sự quyết tâm của hai Đảng, hai Nhà nước và sự nỗ lực phấn đấu
của các cấp, các ngành, các địa phương và các doanh nghiệp hai
nước, quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào đã ngày càng được
đẩy mạnh và khuyến khích phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu, từ hợp tác về chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh đến hợp
tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, hợp tác giữa các địa
phương và đạt được những kết quả ngày càng to lớn hơn, góp phần
thúc đẩy công cuộc đổi mới và phát triển của mỗi nước.
Trong chặng đường 10 năm đầu đổi mới (1986 - 1996) bao
gồm hai giai đoạn phát triển rõ rệt trong quan hệ hợp tác toàn diện
Việt Nam - Lào. Giai đoạn đầu (1986 - 1990) gắn với chuyển đổi
cơ chế quản lý kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và quan hệ kinh tế
đối ngoại, hai nước chuyển dần sang cơ chế và phương thức hợp
tác mới nên hiệu quả hợp tác còn chưa cao. Thời kỳ mới chuyển
đổi đánh dấu bằng việc giảm dần tính tập trung, bao cấp chuyển
sang hạch toán kinh doanh cùng có lợi, quan hệ hợp tác kinh tế Việt
Nam - Lào vẫn mang tinh thần giúp đỡ lẫn nhau, giải quyết vấn đề
tình thế theo vụ việc, đáp ứng yêu cầu cấp bách để ổn định và phát
triển kinh tế. Trong giai đoạn này, công thức hợp tác của hai nước
vẫn là 2 + 1, tức là tài nguyên Lào; lao động, kỹ thuật Việt Nam và
728 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

vốn do hai nước góp chung hoặc từ một nước thứ ba. Tuy nhiên, cả
hai nước mới tiến hành công cuộc đổi mới, tiềm lực ban đầu chưa
có, do vậy sự hợp tác giữa hai nước chưa có những chuyển biến
đáng kể. Thực tiễn đã chỉ ra rằng trong nền kinh tế thị trường
không có nước thứ ba nào bỏ vốn ra cho hai nước Việt Nam - Lào
xây dựng, phát triển mà lại không có những toan tính khác. Mặt
khác, nếu chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế mà không tính đến lợi ích
toàn diện của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào thì không tránh khỏi
làm cho cả Việt Nam và Lào đều yếu đi.
Giai đoạn sau (kể từ năm 1992 trở đi), khi hai nước ký Hiệp
định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật thời kỳ 1992 -
1995 (còn gọi là Hiệp định hợp tác khung, ngày 15 tháng 2 năm
1992), hằng năm có Hội nghị ủy ban liên Chính phủ giữa hai nước
họp để đánh giá kết quả thực hiện Hiệp định trong năm và ký kết
Hiệp định hợp tác cho năm sau; đồng thời, để sự hợp tác hai nước
đi vào ổn định, Việt Nam - Lào đã đạt được thỏa thuận xây dựng
cơ chế chung về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật bằng
Hiệp định ký ngày 7 tháng 4 năm 1994. Trên cơ sở mục tiêu tổng
quát và tư tưởng chỉ đạo của lãnh đạo cấp cao Đảng và Chính phủ
hai nước, ngày 15 tháng 3 năm 1995, Việt Nam và Lào đã nâng
quan hệ hợp tác toàn diện lên một tầm cao mới bằng việc ký kết
Thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật
giai đoạn 1996-2000, một sự chuẩn bị cho hội nhập khu vực và
quốc tế sâu rộng hơn ở giai đoạn tiếp theo.
Như vậy, trong những năm đầu của công cuộc đổi mới của cả
hai nước, quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào cũng có sự đổi mới về
mục tiêu, phương thức hợp tác nhằm đưa quan hệ hợp tác Việt Nam
- Lào theo tầm chiến lược, thực sự có hiệu quả cả về chiều rộng và
chiều sâu. Phương thức hợp tác đã chuyển từ: hợp tác từng vụ việc
theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước Lào sang hợp tác theo chương
trình, kế hoạch hàng năm giữa hai Chính phủ và bước đầu nghiên
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 729

cứu kế hoạch và xây dựng chiến lược hợp tác dài hạn giữa hai
nước. Quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào giảm dần tính bao
cấp, tập trung chuyển sang sản xuất, kinh doanh cùng có lợi. Tất
nhiên, hai nước vẫn tiếp tục dành cho nhau những ưu tiên, ưu đãi,
tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước.
Từ công thức 2 + 1, hợp tác Việt Nam - Lào chuyển sang công thức
3 + 2, với nội dung là: vốn, công nghệ - kỹ thuật, thị trường của
Việt Nam; lao động, tiềm năng thiên nhiên của Lào. Bằng công
thức này, Việt Nam và Lào tỏ rõ quyết tâm hợp tác với nhau trên tất
cả các lĩnh vực nhằm phát huy nội lực, tiềm năng và thế mạnh của
mỗi bên để cùng nhau vượt qua khó khăn, thách thức trên con
đường xóa bỏ khoảng cách phát triển, hướng đến phát triển đồng
đều và bền vững ở mỗi nước.
Giai đoạn 1996 - 2000, hai bên đã quyết tâm xóa bỏ cơ chế
bao cấp, cải tiến cơ chế hợp tác phù hợp với thông lệ quốc tế, với
định hướng là “hợp tác bình đẳng cùng có lợi, kết hợp thỏa đáng
tính chất quan hệ đặc biệt với thông lệ quốc tế, ưu tiên, ưu đãi hợp
lý cho nhau”. Từ đây, hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
giữa hai nước được đưa vào kế hoạch hàng năm, khuyến khích mở
rộng hợp tác trao đổi giữa các ngành, các địa phương và giữa các
cơ sở, doanh nghiệp; thay dần cơ chế hợp tác giữa Nhà nước với
Nhà nước của những năm trước đây bằng nhiều hình thức mới như:
hợp đồng, trao đổi hàng hóa hai bên cùng có lợi, mua và bán hộ,
giao nhận đấu thầu xây dựng...
Trong giai đoạn này, hai nước đã quyết định tập trung vào việc
thực hiện Thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học
- kỹ thuật giai đoạn 1996 - 2000. Lần đầu tiên các nội dung hợp tác
mang tính chiến lược tạo tiền đề cho việc triển khai hợp tác những
năm sau này đã được đặt ra. Nhiều chương trình, dự án hợp tác tạm
đình hoãn của giai đoạn 1985 - 1990 được tiếp tục thực hiện trong
giai đoạn này.
730 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...

Từ năm 1999, sau khi có các quy định về đầu tư của doanh
nghiệp Việt Nam ra nước ngoài, Chính phủ Việt Nam đã ban hành
các cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp Việt
Nam đẩy mạnh đầu tư vào Lào. Đây cũng là giai đoạn hầu hết các
cơ chế hợp tác đã được ký kết, tạo ra khung pháp lý quan trọng
trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Trọng tâm hợp tác kinh tế của
giai đoạn này là giáo dục, đào tạo, nông nghiệp và phát triển nông
thôn, điều tra khảo sát xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội tại Lào.
Từ năm 2001 đến 2007, hai nước đã xây dựng các thỏa thuận
chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật cho các
giai đoạn năm năm (2001 - 2005, 2006 - 2010), 10 năm (2001 -
2010), sau đó là hàng loạt các hiệp định, nghị định thư và các thỏa
thuận hợp tác119 cũng được ký kết, tạo thành một hệ thống các cơ chế
hợp tác để các bộ, ngành hai bên áp dụng. Nhiều hội nghị xúc tiến
đầu tư và thương mại vào Lào đã được tổ chức tại Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh (tháng 5 năm 2004), thành phố Vinh (tháng 12
năm 2004), Đắc Lắc và Đà Nẵng (tháng 6 năm 2005).
Do có chính sách ưu tiên, ưu đãi cho nhau, nên việc hợp tác kinh
tế, đặc biệt là hợp tác trong lĩnh vực đầu tư, đã có những bước
chuyển biến mạnh mẽ. Đầu tư của Việt Nam vào Lào gia tăng nhanh
chóng; đồng thời đầu tư của Lào vào Việt Nam cũng được ngày càng
mở rộng, tập trung vào các lĩnh vực: giao thông vận tải, bưu điện, tài
chính, ngân hàng... và đang thu được những kết quả bước đầu.
Cũng trong giai đoạn này, hai bên còn phối hợp tham gia có
hiệu quả các chương trình, dự án quốc tế và khu vực như: hợp tác
Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), dự án kết nối giao thông khu
vực trong dự án Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC)...

119
. Từ “Thỏa thuận Cửa Lò 1999” đến “Thỏa thuận Viêng Chăn 2002” và
“Thỏa thuận Hà Nội 2007”.
Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn... 731

Với những thành quả to lớn của giai đoạn 1986 - 2007, quan hệ
hợp tác kinh tế giữa hai nước đang trở thành yếu tố quyết định
trong việc củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt
Nam - Lào120, tạo tiền đề cho việc tăng cường và mở rộng hợp tác
toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong giai đoạn mới.

120
. Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Đặc san 45 năm hợp tác hữu nghị Việt Nam - Lào, tháng 7 năm 2007, tr.10.
732 Ch-¬ng VIII: quan hÖ ®oµn kÕt ®Æc biÖt, hîp t¸c toµn diÖn...
PhÇn THø T¦

THµNH QU¶, BµI HäC Vµ TRIÓN VäNG


Chương ix

THÀNH QUẢ, Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ


CỦA QUAN HỆ ĐẶC BIỆT
VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM

I. QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM -


TÀI SẢN QUÝ GIÁ NHẤT VÀ QUY LUẬT GIÀNH THẮNG LỢI CỦA
HAI DࡒN TỘC VIỆT NAM, LÀO TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG

1. Sự thành hình quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -


Việt Nam - bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam, Lào
Vị trí địa - chiến lược của Việt Nam và Lào ở vùng Đông
Nam á1 đặt ra yêu cầu tất yếu về sự hợp tác hỗ trợ lẫn nhau giữa
hai dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ đất
nƣớc. Yêu cầu đó càng trở nên cấp bách khi nhân dân hai nƣớc
đều bị đặt dƣới ách thống trị của thực dân Pháp từ cuối thế kỷ
XIX. Từ lúc bấy giờ, các phong trào yêu nƣớc bùng nổ liên tục ở
Việt Nam, Lào và xuất hiện nhiều hoạt động phối hợp giữa nghĩa
quân và nhân dân hai bên đƣờng biên giới kéo dài trong 20 năm
đầu thế kỷ XX.
Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp đó, trong thập niên
20 thế kỷ trƣớc, Nguyễn ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác -
Lênin và luận điểm cách mạng của Ngƣời, đồng thời lãnh đạo xây
dựng tổ chức cách mạng tại Việt Nam và Lào, mở đƣờng tạo lập
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Hoạt động của Nguyễn ái Quốc
đƣợc thể hiện trên các lĩnh vực sau:
a) Khẳng định con đường cách mạng vô sản là con đường giải

1
. Xem Ch-¬ng I cuèn s¸ch nµy.
739 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

phóng và phát triển của Đông Dương, là cơ sở bền vững của quan
hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
Đáp ứng nguyện vọng thiết tha của nhân dân Đông Dƣơng là
trút bỏ gông cùm nô lệ của tƣ bản Pháp, đƣợc sống trong độc lập,
tự do, Nguyễn ái Quốc đƣa ra luận điểm quan trọng nhất về giải
phóng Đông Dƣơng, đó là con đường cách mạng vô sản. Chỉ trên
cơ sở đó hai dân tộc Việt Nam, Lào mới xây dựng đƣợc mối quan
hệ bình đẳng, chân thành, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp
đấu tranh vì độc lập, tự do.
Từ năm 1921, trong bài “Đông Dƣơng” đăng trên La Revue
Comuniste (Tạp chí Cộng sản), số 15, Nguyễn ái Quốc dựa trên cứ
liệu lịch sử để khẳng định rằng chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ
dàng vào châu á hơn là châu Âu. Theo dòng tƣ duy đó, trong cụm
bài viết về chủ đề Đông Dương (1923 - 1924), Nguyễn ái Quốc
nhấn mạnh: sự nghiệp giải phóng các dân tộc ở Đông Dƣơng gắn
liền với giải phóng xã hội và giải phóng con ngƣời theo quỹ đạo
của cách mạng vô sản. Nhƣng lúc ấy, cách mạng Đông Dƣơng chƣa
đến độ chín muồi để bùng nổ và giành thắng lợi.
Sự thật là tuy ngƣời Đông Dƣơng chƣa có những điều kiện cần
thiết để hiểu biết lý luận, lại bị đầu độc và giam hãm trong tình
trạng lạc hậu, nhƣng Nguyễn ái Quốc đã thấy rõ sức sống mãnh liệt
của người Đông Dương. Từ đó, Ngƣời đề nghị Quốc tế Cộng sản
tăng cƣờng giúp đỡ cách mạng Đông Dƣơng về đào tạo cán bộ, xây
dựng tổ chức cách mạng.
b) Tuyên truyền, giảng giải lý luận cho dân hiểu, để dân đoàn
kết và đấu tranh
Đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn ái Quốc ra sức tuyên
truyền để nhân dân Pháp hiểu rõ bản chất xấu xa của chế độ thuộc
địa mà ủng hộ sự nghiệp giải phóng dân tộc bị áp bức; đồng thời,
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 740

Ngƣời tham gia sáng lập và phát hành báo Le Paria1 (Người cùng
khổ), một công cụ tuyên truyền, giác ngộ nhân dân các nƣớc thuộc
địa Pháp. Đông Dƣơng là một địa chỉ tiếp nhận và lƣu hành tờ báo
này.
Trƣớc khi rời nƣớc Pháp lên đƣờng về nƣớc, Ngƣời đặt câu hỏi
cho các bạn cùng hoạt động và tự nêu câu trả lời cho riêng mình:
“Chúng ta phải làm gì?
Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc...
Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nƣớc, đi vào quần
chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ
ra đấu tranh giành tự do độc lập”2 (BBS nhấn mạnh).
ở thời điểm khơi nguồn cho chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng
cách mạng Nguyễn ái Quốc đến với nhân dân Đông Dƣơng, cuốn
sách “Bản án chế độ thực dân Pháp” của Nguyễn ái Quốc (xuất
bản năm 1925 tại Pari), đƣợc chuyển tới nhiều thuộc địa Pháp, giác
ngộ dân chúng tƣ tƣởng cách mạng giải phóng thuộc địa và xây
dựng xã hội mới theo gƣơng Cách mạng tháng Mƣời Nga.
Nguyễn ái Quốc đƣa ra luận điểm mới của mình về phƣơng
pháp đấu tranh, thủ tiêu chế độ tƣ bản bằng sự hợp lực giữa giai cấp
vô sản ở chính quốc và giai cấp vô sản thuộc địa nhƣ muốn giết
một con đỉa, thì phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó. Hình tƣợng
trên giúp ngƣời đọc thấu hiểu cách mạng thuộc địa là một bộ phận
hữu cơ của cách mạng vô sản thế giới, nhƣ Nguyễn ái Quốc đã viết:
“... khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách
mạng vô sản”3.

1
. B¸o Le Paria: c¬ quan tuyªn truyÒn cña Héi Liªn hiÖp thuéc ®Þa do
NguyÔn ¸i Quèc lµm chñ nhiÖm kiªm chñ bót, xuÊt b¶n tõ th¸ng 4 n¨m
1922 ®Õn th¸ng 4 n¨m 1926, ®×nh b¶n sau sè 38.
2
. Hå ChÝ Minh: Toµn tËp, S®d, t.1, tr.192.
3
. Hå ChÝ Minh: Toµn tËp, S®d, t.2, tr.124.
741 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Nguyễn ái Quốc tới Quảng Châu (Trung Quốc), tháng 11 năm


1924. Đầu năm 1925, Ngƣời mở lớp huấn luyện cho những thanh
niên Việt Nam yêu nƣớc đang ham muốn tiếp nhận lý luận chính
trị. Dựa trên cơ sở các bài giảng tại lớp huấn luyện, Nguyễn ái
Quốc viết tác phẩm “Đường cách mệnh” nêu bật giá trị của lý luận
cách mạng đối với sự thành công của cách mạng.
“Đường cách mệnh” rất xứng đáng là cuốn sách giáo khoa lý
luận, chính trị và phƣơng pháp hoạt động cách mạng; là tác phẩm
giáo dục đạo đức cách mạng, bồi dƣỡng tƣ tƣởng, ý chí đấu tranh
cho cán bộ và quần chúng nhân dân Việt Nam, Lào - những địa bàn
mà Nguyễn ái Quốc đang dốc lòng, dốc sức gieo mầm cách mạng1.
Giữa năm 1925, Nguyễn ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên và sáng lập báo Thanh niên - tờ báo cách mạng đầu
tiên bằng chữ quốc ngữ, thực hiện chức năng giáo dục, tập hợp và
thống nhất tƣ tƣởng, hành động của các chiến sĩ cách mạng và trang bị
kiến thức chính trị cho đội ngũ cán bộ vận động quần chúng.
Thời gian hoạt động tại Xiêm, Nguyễn ái Quốc sinh sống, lao
động chan hoà và giáo dục tinh thần yêu nƣớc, cách mạng cho đồng
bào Việt kiều tại các địa bàn này. Đặc biệt, Ngƣời đến Noỏng Khai
gặp gỡ một số cán bộ hoạt động từ Viêng Chăn sang để nắm tình
hình cách mạng Lào. Năm 1928, Ngƣời tới lãnh thổ Lào để tuyên
truyền trong ngƣời Việt về chính trị, tƣ tƣởng cách mạng giải
phóng dân tộc...
Kết quả dân vận của Nguyễn ái Quốc tại Xiêm và Lào là nhân
tố quan trọng tạo dựng nền móng bền chắc của lực lượng hậu thuẫn
cho cách mạng Việt Nam và Lào.

1
. NghÞ quyÕt chÝnh trÞ cña §¹i héi ®¹i biÓu lÇn thø nhÊt §¶ng Céng
s¶n §«ng D-¬ng, th¸ng 3 n¨m 1935, cho biÕt, ë Lµo, t¸c phÈm “§-êng
c¸ch mÖnh” ®­îc dïng lµm tµi liÖu huÊn luyÖn (xem §¶ng Céng s¶n ViÖt
Nam: V¨n kiÖn §¶ng Toµn tËp, S®d, t.5, tr.20).
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 742

c) Đề xuất chủ trương cách mạng Đông Dương do nhân dân


Đông Dương tự tiến hành, kết hợp với sự ủng hộ, giúp đỡ của
bạn bè quốc tế
Dƣới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân Đông Dƣơng
bị đầu độc và áp bức, bóc lột nặng nề nhƣng không phải vì thế mà
tiềm năng cách mạng của họ bị vơi cạn. Làm sáng tỏ vấn đề đó,
Nguyễn ái Quốc khẳng định: “Không: người Đông Dương không
chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi”1.
Nguyễn ái Quốc chỉ rõ: sức mạnh cách mạng to lớn của ngƣời
Đông Dƣơng hiện chƣa bộc lộ, sẽ bùng nổ khi thời cơ xuất hiện.
Trách nhiệm của bộ phận ƣu tú phải thúc đẩy cho thời cơ chóng tới.
ý thức rõ sức mạnh của thế hệ thanh niên đối với sự thay đổi
vận mệnh các dân tộc Đông Dƣơng, Nguyễn ái Quốc kêu gọi: “Hỡi
Đông Dƣơng đáng thƣơng hại! Ngƣời sẽ chết mất, nếu đám thanh
niên già cỗi của Ngƣời không sớm hồi sinh”2.
Để khắc phục sự biệt lập và khơi dậy tình đoàn kết của các
nƣớc châu á, tháng 7 năm 1925, nối tiếp nhiều hoạt động của Hội
Liên hiệp thuộc địa (1921 - 1926), Nguyễn ái Quốc chủ động phối
hợp với một số nhà cách mạng Trung Quốc thành lập Hội Liên hiệp
các dân tộc bị áp bức, một tổ chức quốc tế đoàn kết nhiều dân tộc
thuộc địa, nửa thuộc địa nhƣ Việt Nam, Trung Quốc, ấn Độ, Triều
Tiên, Inđônêxia. Tuyên ngôn của Đại hội thành lập Hội nêu rõ:
“con đƣờng thoát duy nhất để xoá bỏ sự áp bức chỉ có thể là liên
hiệp các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản toàn thế giới áp dụng
những phƣơng pháp cách mạng để lật đổ về căn bản chủ nghĩa tƣ
bản đế quốc cực kỳ hung ác”2.
Về sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Đông
1
, 2. Hå ChÝ Minh: Toµn tËp, S®d, t.1, tr.28; t.2, tr.133.
2
. T. Lan: Võa ®i ®-êng võa kÓ chuyÖn, Nxb. Sù thËt, Hµ Néi, 1976,
tr.27.
743 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Dƣơng, tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản năm 1924, Nguyễn ái Quốc
nêu lên những thủ đoạn cƣớp đoạt ruộng đất và nhiều loại thuế
đánh vào nông dân Việt Nam và các thuộc địa ở châu Phi, gây nên
nạn bần cùng, nỗi phẫn uất cao độ và đƣơng nhiên những phản ứng
quyết liệt của họ với chế độ thuộc địa đã diễn ra. Song họ đều bị
đàn áp khốc liệt. Đó là do nông dân thiếu tổ chức, thiếu ngƣời lãnh
đạo. Ngƣời đề nghị “Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức
lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con
đƣờng đi tới cách mạng và giải phóng”1.
Trên diễn đàn Đại hội III Quốc tế Công hội đỏ, Nguyễn ái
Quốc cho rằng, ở Đông Dƣơng, thực dân Pháp đã phục hồi chế độ
nô lệ. Nhƣng giai cấp vô sản Đông Dƣơng chƣa thể làm gì đƣợc để
chống lại chế độ bóc lột đó, vì chƣa xây dựng đƣợc tổ chức nào của
họ. Ngƣời đã chỉ ra lối thoát: “... với sự giúp đỡ của các tổ chức
cách mạng gần gũi với Quốc tế Công hội đỏ, chúng tôi quyết đập
tan lực lƣợng của chủ nghĩa đế quốc châu Âu áp bức chúng tôi”3.
Tiếp theo, Ngƣời kiến nghị: “... các đồng chí chúng ta trong các tổ
chức công nhân cách mạng Pháp phải tích cực giúp đỡ chúng tôi
trong cuộc đấu tranh giải phóng của chúng tôi”4.
Một kết quả hoạt động kịp thời của Nguyễn ái Quốc là Tổng
Công hội thống nhất (Pháp) kiến nghị đƣa vào Nghị quyết của Đại
hội những nhiệm vụ trƣớc mắt: “1- Tổ chức những ngƣời Đông
Dƣơng hiện làm việc ở Pháp.
2- Tiến hành một chiến dịch mạnh mẽ vì quyền công đoàn của
ngƣời bản xứ song song với chiến dịch cho công chức.
3- Cử những đại biểu thƣờng trực (ít ra là 2) sang Đông Dƣơng
với sứ mệnh là tuyên truyền trong dân bản xứ và tổ chức họ”2.

1
, 3, 4. Hå ChÝ Minh: Toµn tËp, S®d, t.1, tr.289, 292-293, 293.
2
. Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh, ViÖn Hå ChÝ Minh: Hå
ChÝ Minh Biªn niªn tiÓu sö, Nxb. ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi, 2006, t.1,
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 744

d) Chủ động sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam - tiền thân
của Đảng Cộng sản Đông Dương. Quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam thành hình
Nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng đã đƣợc Nguyễn ái Quốc luận định sáng rõ trong tác phẩm
“Đường cách mệnh”. Đó là đảng cách mạng phải nắm vững chủ
nghĩa Mác - Lênin mới có thể lãnh đạo dân chúng trong nƣớc và
đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới.
Theo đó, Ngƣời thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
với hy vọng: nó là quả trứng, sẽ nở ra con chim non cộng sản.
Tổ chức và hoạt động của Hội phát triển rộng khắp toàn Đông
Dƣơng. Riêng tại Lào, từ năm 1928 tổ chức Hội đã đƣợc thành lập
tại Viêng Chăn, Thà Khẹc, Phôn Tịu, Xavẳnnakhệt, qua đó “Đường
cách mệnh”, báo Thanh niên và nhiều tác phẩm của Nguyễn ái
Quốc cũng đƣợc truyền bá tại Lào.
Những hoạt động trên các lĩnh vực chính trị, tƣ tƣởng, đào tạo
cán bộ, xây dựng Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn
ái Quốc tiến hành sâu rộng, đã tác động trực tiếp tới sự chuyển biến
của cách mạng Việt Nam và Lào, đƣa tới sự ra đời của Đông
Dương Cộng sản Đảng (tháng 6 năm 1929), An Nam Cộng sản
Đảng (tháng 11 năm 1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
(cuối tháng 12 năm 1929), xuất hiện một yêu cầu cấp bách là thành
lập một Đảng Cộng sản.
Trƣớc tình hình đó, Nguyễn ái Quốc chủ động tổ chức Hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại
Hồng Công vào đầu năm 1930 và đến tháng 10 cùng năm, đổi tên
thành Đảng Cộng sản Đông Dƣơng. Những sự kiện trên đánh dấu
năm 1930 quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam thành

tr.283.
745 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

hình. Từ đây, cách mạng Việt Nam và Lào mở ra hƣớng đi mới dẫn
tới thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do và phát triển
theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa của hai dân tộc Việt Nam, Lào.
Nội dung văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam do Nguyễn ái Quốc soạn thảo thể hiện rõ bản chất của Đảng
là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lãnh đạo nhân dân đấu tranh
giải phóng dân tộc, tiến hành cách mạng ruộng đất giải phóng nông
dân khỏi ách bóc lột phong kiến... để đi tới xã hội cộng sản. Trong
hai nhiệm vụ đó, cách mạng giải phóng dân tộc giữ vai trò quan
trọng nhất và được tiến hành bằng sức mạnh đại đoàn kết các giai
cấp, các tầng lớp xã hội, các đảng phái yêu nước. Những luận điểm
trên có giá trị phổ biến đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng
Lào.
Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trải qua quá trình
đoàn kết đấu tranh của hai dân tộc đã tích tụ, toả sáng nhiều giá trị
và công tích giàu ý nghĩa cách mạng và văn hoá, đƣợc Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản nhất trí đặt tên là quan
hệ đặc biệt. Trong bài trả lời phóng viên báo Nhân dân, ngày 4
tháng 7 năm 1989, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản cho biết:
“Khi thảo luận về mối quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nƣớc và
giữa nhân dân hai nƣớc, Bác Hồ và chúng tôi đều thấy rằng, ngoài
mối quan hệ giữa hai Đảng cùng chung lý tƣởng cộng sản, giữa
hai nƣớc xã hội chủ nghĩa láng giềng thì mối quan hệ giữa hai
Đảng Cộng sản, giữa nhân dân hai nƣớc chúng ta còn có sự gắn bó
thân thiết không giống bất cứ nƣớc nào. Bác Hồ và chúng tôi cùng
suy nghĩ.
Bác Hồ tay gõ lên trán và nói: “chúng ta phải gọi là quan hệ
đặc biệt”.
Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với Bác vì đó là sự thật lịch sử”.
Lịch sử đấu tranh lâu dài, anh dũng và sáng tạo của hai dân tộc
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 746

Việt Nam, Lào trải qua các chặng đƣờng cách mạng giành độc lập
dân tộc, kháng chiến đánh thắng các cuộc xâm lƣợc của thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, tìm đƣờng đổi mới và hội nhập quốc tế, thu
đƣợc nhiều thành quả quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Tất cả đều hiện
rõ nét đặc sắc nhất của nó, đó là quy luật giành thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, Lào.
Bằng cách nhìn tổng quát cuộc kháng chiến của ba dân tộc
Việt, Miên, Lào chống thực dân Pháp xâm lƣợc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu lên nhận xét về tác động khách quan, tất yếu giữa các
cuộc kháng chiến của ba dân tộc: “kháng chiến Việt - Miên - Lào là
chung của chúng ta, là bổn phận của chúng ta”1 không một nƣớc
nào tách khỏi hai nƣớc kia mà giành đƣợc thắng lợi. Luận điểm này
cũng khẳng định quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào là quy luật giành
thắng lợi của cách mạng hai nƣớc Việt Nam, Lào.
Xuất phát từ quan điểm chung đó, Ngƣời tuyên bố: “Chính phủ,
Mặt trận và nhân dân Việt Nam ra sức hết lòng thành thực giúp
Mặt trận, nhân dân Lào một cách không có điều kiện”2 (BBS nhấn
mạnh).
Về quy luật của quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam, Chủ tịch
Cayxỏn Phômvihản dựa trên thực tiễn lịch sử cách mạng của hai
dân tộc Lào, Việt Nam đã nhận định: “Trong quá trình vận động
cách mạng của hai nƣớc anh em, mối quan hệ đặc biệt đã đƣợc xây
dựng và không ngừng đƣợc vun đắp.
Qua những thử thách trong sóng gió quyết liệt của thời kỳ chiến
tranh chống Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ hung ác nhất của nhân loại,
mối quan hệ đặc biệt giữa Lào và Việt Nam chẳng những không
ngừng đƣợc củng cố, tăng cƣờng mà còn tạo thành sức mạnh không

1
, 2. Hå ChÝ Minh: Lêi ph¸t biÓu t¹i Héi nghÞ c¸n bé Liªn minh nh©n
d©n ViÖt - Miªn - Lµo lÇn thø nhÊt, th¸ng 9 n¨m 1952. Tµi liÖu l-u t¹i ViÖn
LÞch sö §¶ng, Häc viÖn ChÝnh trÞ - Hµnh chÝnh quèc gia Hå ChÝ Minh.
747 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

gì lay chuyển đƣợc.


Trong thực tiễn đấu tranh lâu dài ấy, Đảng ta đã xác định điều
đó nhƣ một quy luật của cách mạng nƣớc ta”1 (BBS nhấn mạnh).
Quy luật của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào do Chủ tịch Hồ
Chí Minh và đồng chí Cayxỏn Phômvihản phát hiện là kết quả vận
dụng sáng tạo sức mạnh to lớn của cách mạng vô sản, bao gồm
trong đó cách mạng giải phóng dân tộc, mà chủ nghĩa Mác - Lênin
đã tổng kết trong khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc
bị áp bức đoàn kết lại!” vào điều kiện cụ thể của hai dân tộc Việt
Nam, Lào. Đồng thời, theo dòng tƣ duy của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu cao khẩu hiệu: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công” dành cho dân tộc Việt
Nam và quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Tinh thần ấy đƣợc thể
hiện trong nhiều tác phẩm và hoạt động thực tiễn của Ngƣời.

2. Quan điểm, nguyên tắc và phương pháp xây dựng, phát


triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
Trong quá trình xây dựng, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam
- Lào, Lào - Việt Nam hai dân tộc Việt Nam, Lào đều quán triệt và
thực hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp bạn là mình
tự giúp mình”, một quan điểm thể hiện cô đọng, hài hoà, đúng đắn
lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế trong hành động của mỗi ngƣời,
mỗi tổ chức đƣợc giao trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đó.
Quan điểm “giúp bạn là mình tự giúp mình” có tác dụng giáo
dục tƣ tƣởng, cổ vũ, khích lệ và tạo động lực cho hai dân tộc Việt
Nam, Lào giúp nhau giành thắng lợi trong mọi chặng đƣờng cách

1
. Cayxán Ph«mvih¶n: Bµi nãi t¹i Héi nghÞ c¸n bé toµn quèc, ngµy 13
th¸ng 5 n¨m 1974. Tµi liÖu l-u t¹i ViÖn LÞch sö §¶ng, Häc viÖn ChÝnh trÞ
- Hµnh chÝnh quèc gia Hå ChÝ Minh.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 748

mạng dù phải hy sinh tài sản và tính mạng. Mặt khác, nó bác bỏ ý
nghĩ sai lầm cho rằng giúp bạn là ban ơn.
Quan điểm “giúp bạn là mình tự giúp mình” còn bao hàm ý
thức tự giác, tự nguyện của nhân dân hai nƣớc dành cho nhau ở
mức độ tối đa về tinh thần và lực lƣợng, tính mạng và tài sản, đƣợc
thấm sâu vào ý nghĩ và hành động từ các cơ quan lãnh đạo tối cao
đến quần chúng nhân dân các địa phƣơng; từ cán bộ, chiến sĩ hoạt
động trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn
hoá, giáo dục; từ nhiều gia đình đến các tổ chức kinh tế, chính trị,
xã hội trên các chặng đƣờng cách mạng.
Nhiệm vụ giúp bạn cần phải tiến hành theo phương pháp giúp
bạn để nâng cao năng lực từ thấp lên cao, tiến tới tự giải quyết các
nhiệm vụ cách mạng của dân tộc mình, vì cách mạng nước nào
phải do nhân dân nước ấy tự làm, kết hợp với sự hỗ trợ của bạn bè
quốc tế.
Thực hiện nhiệm vụ vun đắp quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào,
Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào đều
rất coi trọng thực hiện nguyên tắc tôn trọng quyền độc lập, tự chủ,
bình đẳng và dân chủ của hai bên, đƣợc thể hiện rất rõ ràng trong
các lời phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn
Phômvihản.
Tháng 9 năm 1952, tại Hội nghị cán bộ Liên minh nhân dân
Việt - Miên - Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Cán bộ Việt Nam
sang công tác ở Lào phải hoàn toàn ở dƣới sự lãnh đạo của Chính
phủ Trung ƣơng Lào, nhất là của Thủ tƣớng Xuphanuvông. Tuyệt
đối không đƣợc tự cao, tự đại, không đƣợc bao biện. Bất kỳ việc gì
phải nghe Chính phủ Lào, cán bộ Việt Nam phải đoàn kết tinh thần,
đoàn kết công tác với cán bộ và nhân dân Lào. Đây là mệnh lệnh
của Chính phủ Trung ƣơng Việt Nam cho cán bộ tình nguyện Việt
749 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Nam đi công tác ở Lào1.


Giải thích rõ nguyên tắc độc lập, tự chủ và giá trị của nó, trong
bài phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc (Lào), ngày 13 tháng 5
năm 1974, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản nói: “Sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta phải do nhân dân ta tự làm lấy.
Đảng ta là một đảng lãnh đạo cách mạng thực sự, do đó phải
giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, mỗi một dân tộc có độc lập tự
chủ, mỗi một đảng có độc lập, tự chủ thì mới chứng minh một cách
đầy đủ chủ nghĩa yêu nƣớc nồng nàn kết hợp với tinh thần quốc tế
vô sản trong sáng”2.
Trong quan hệ công tác giữa hai Đảng, cần coi trọng thực hành
dân chủ và thành khẩn tự phê bình và phê bình, coi đó là những biện
pháp tăng cƣờng đoàn kết chặt chẽ vì mục tiêu giành thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, Lào và toàn Đông Dƣơng mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh thƣờng nhắc nhở: “Mong cán bộ Việt Nam làm việc ở Lào
thành khẩn, thật thà tự phê bình và mong các đồng chí Lào cũng phê
bình anh em Việt Nam thật thà không nể nả. Mục đích là thật thà với
nhau, giúp nhau tiến bộ và do đó đoàn kết chặt chẽ hơn, nể nả là sai.
Vì cách mạng, vì đoàn kết ba dân tộc mà phê bình”3.
Gắn liền với phƣơng pháp trên, Ngƣời còn nhấn mạnh lề lối làm
việc dân chủ trong sự phối hợp hoạt động của hai Đảng và theo lời
phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại cuộc hội đàm giữa cán bộ
lãnh đạo của hai Đảng năm 1961: (Hai bên) nhất trí nhƣng không
miễn cƣỡng, phải bàn bạc phân minh, nêu cho hết ý kiến nhƣng
quyết định là Đảng Lào, vì cách mạng Lào do ngƣời Lào làm lấy.

1
, 3. Hå ChÝ Minh: Lêi ph¸t biÓu t¹i Héi nghÞ c¸n bé Liªn minh nh©n
d©n ViÖt - Miªn - Lµo lÇn thø nhÊt, Tµi liÖu ®· dÉn.
2
. Cayxán Ph«mvih¶n: Bµi nãi t¹i Héi nghÞ c¸n bé toµn quèc, ngµy 13
th¸ng 5 n¨m 1974, Tµi liÖu ®· dÉn.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 750

Tại cuộc hội đàm với Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân
Lào, ngày 9 tháng 7 năm 1961, đồng chí Lê Duẩn, Bí thƣ thứ nhất
Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Lao động Việt Nam trình bày về
một số nguyên tắc lớn và lề lối làm việc giữa hai Đảng, bao gồm
những nội dung:
“Mọi công việc ở Lào đều do Đảng Lào phụ trách. Cách mạng
Lào do đồng chí Lào lãnh đạo. Đƣờng lối, chủ trƣơng do Đảng Lào
đề ra, Việt Nam góp ý kiến. Cũng có lúc Việt Nam thấy vấn đề
trƣớc thì Việt Nam sẽ đề xuất ý kiến trƣớc nhƣng quyền quyết định
vẫn do Đảng Lào”1.
ở phạm vi quan hệ giữa Đảng Lào với các đảng anh em khác thì
“Đảng Lào tự mình bàn bạc thƣơng lƣợng với các đảng anh em
trong mọi vấn đề có liên quan. Trong phạm vi nào đó, theo yêu cầu
của các đảng anh em và với sự thoả thuận của Đảng Lào, Việt Nam
có thể làm trung gian giúp đỡ”2.
Về quan hệ giữa hai nƣớc, hai Chính phủ, đồng chí Lê Duẩn
cho rằng: “tất nhiên có những quan hệ khác hơn quan hệ hai Đảng.
Những vấn đề lớn trong quan hệ giữa hai Chính phủ thì hai Đảng
cũng cần có sự trao đổi ý kiến trƣớc với nhau”3.
Đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thƣ Đảng Nhân dân
Lào, biểu thị sự nhất trí với những nguyên tắc và lề lối làm việc
giữa hai Đảng do đồng chí Lê Duẩn nêu ra. Tiếp đó, đồng chí nói
rõ những nhiệm vụ cần Việt Nam giúp đỡ: “Giúp về đƣờng lối,
chính sách, nhƣng giúp đào tạo cán bộ là vấn đề mấu chốt.
Giúp củng cố và mở rộng cơ sở đảng. Trong lực lƣợng vũ trang
cũng giúp bồi dƣỡng cán bộ và phát triển cơ sở đảng. Kinh tế là vấn
đề mới, cần có sự giúp đỡ, nhất là trong vùng căn cứ, cả trƣớc mắt

1
, 2, 3. Tæng côc ChÝnh trÞ: §¶ng l·nh ®¹o qu©n t×nh nguyÖn vµ
chuyªn gia qu©n sù ViÖt Nam lµm nhiÖm vô quèc tÕ, Nxb. Qu©n ®éi nh©n
d©n, Hµ Néi, 2008, tr.317-318.
751 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

và lâu dài, làm thế nào để vùng căn cứ trở thành một tấm gƣơng
mẫu mực cho các vùng khác”1.
Những quan điểm, nguyên tắc và phƣơng pháp xây dựng, phát
triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam do lãnh đạo
của Việt Nam và Lào nhất trí đề ra, đƣợc cán bộ, đảng viên, lực
lƣợng vũ trang các ngành, các đoàn thể, doanh nghiệp, địa
phƣơng,... của hai nƣớc quán triệt và thực hiện trong thời chiến và
thời hoà bình xây dựng đất nƣớc, nhờ vậy đã góp phần rất quan
trọng vào sự thành công của cách mạng hai nƣớc Việt Nam, Lào.
Tất cả giá trị của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam đều hiển hiện đậm nét đặc trƣng mẫu mực, thuỷ chung, trong
sáng, bền vững, chưa từng có trong lịch sử quan hệ giữa các quốc
gia, dân tộc trên thế giới.

II. NHỮNG THÀNH QUẢ CƠ BẢN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUAN HỆ ĐẶC
BIỆT VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM

1. Hai dân tộc Việt Nam, Lào sát cánh bên nhau cùng tiến
hành khởi nghĩa tháng Tám 1945, giành độc lập dân tộc
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (tháng 9 năm
1939), từ tháng 11 năm 1939 đến tháng 5 năm 1941, Ban Chấp hành
Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng và lãnh tụ Hồ Chí Minh
đã sớm đƣa ra những luận điểm và chủ trƣơng quan trọng chuẩn bị
cho công cuộc khởi nghĩa giành độc lập, tự do cho các dân tộc Việt
Nam, Lào, Miên. Do điều kiện cụ thể khi kết thúc Chiến tranh thế
giới thứ hai, chỉ có hai nƣớc Việt Nam, Lào tiến hành khởi nghĩa
giành đƣợc quyền độc lập.

1
. Tæng côc ChÝnh trÞ: §¶ng l·nh ®¹o qu©n t×nh nguyÖn vµ chuyªn gia
qu©n sù ViÖt Nam lµm nhiÖm vô quèc tÕ, Nxb. Qu©n ®éi nh©n d©n, Hµ
Néi, 2008, tr.318-319.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 752

Các luận điểm và chủ trƣơng của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban
Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đƣợc thể hiện
ở các vấn đề sau:
a) Đánh giá xác đáng tình hình chính trị, xã hội Đông
Dương và chỉ rõ mâu thuẫn cần giải quyết
Bằng cách nhìn nhận khách quan và cách mạng, tháng 11
năm 1939, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng cho rằng, Chiến
tranh thế giới thứ hai làm cho mâu thuẫn giữa các nƣớc đế quốc
và các dân tộc thuộc địa càng phát triển gay gắt, các dân tộc bị
áp bức sẽ vùng dậy đấu tranh chống đế quốc xâm lƣợc để trút bỏ
ách tôi đòi: “cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị gây nên bởi đế
quốc chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mệnh Đông Dƣơng nổ
bùng và tiền đồ cách mệnh giải phóng Đông Dƣơng nhất định sẽ
quang minh rực rỡ”1.
Lúc bấy giờ, thực dân Pháp thi hành ở Đông Dƣơng chính sách
phát xít. Bọn phong kiến Việt, Miên, Lào cam tâm làm tay sai cho
đế quốc Pháp, hô hào thanh niên đi lính, vơ vét tài sản của nhân
dân Đông Dƣơng để cung phụng cho “mẫu quốc” khiến: “ai cũng
chán ghét cuộc đời nô lệ, ai cũng mong muốn độc lập, tự do, và
đang trong tƣ thế một ngƣời lên tiếng vạn ngƣời ủng hộ”2.
Tháng 9 năm 1940, quân Nhật kéo vào chiếm Đông Dƣơng,
tròng thêm vào cổ nhân dân Đông Dƣơng một ách thống trị, đẩy
mâu thuẫn giữa các đế quốc Pháp, Nhật với các dân tộc, các giai
cấp tại Việt Nam, Lào, Miên lên tới mức độ rất quyết liệt, đúng nhƣ
nhận định của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng, tháng 5 năm 1941: “Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cƣớp

1
. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam: V¨n kiÖn §¶ng Toµn tËp, S®d, t.6, tr.535.
2
. Hå ChÝ Minh: Toµn tËp, S®d, t.3, tr.174.
753 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng”1. Đó chính
là mâu thuẫn cơ bản và cũng là mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi cách
mạng Đông Dương phải giải quyết. Quan điểm trên sẽ chi phối
nhiều quyết định quan trọng của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung
ƣơng Đảng trong tiến trình lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành
quyền độc lập, tự do của các dân tộc Việt Nam, Lào.
b) Xác lập các luận điểm về vấn đề dân tộc ở Đông Dương
Trong hoàn cảnh các dân tộc Đông Dƣơng đang bị giam hãm
trong ngục tù nô lệ của chế độ thuộc địa, bị tƣớc bỏ mọi quyền tự
do, dân chủ, một ƣớc nguyện tha thiết nhất của nhân dân các dân
tộc Đông Dƣơng là đánh đổ chế độ thực dân, giành lại chủ quyền
dân tộc. Do vậy, tại Hội nghị lần thứ sáu, tháng 11 năm 1939 và
Hội nghị lần thứ tám, tháng 5 năm 1941, Ban Chấp hành Trung
ƣơng Đảng đều quan niệm:
Một là, vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề hàng đầu trong hệ
thống luận điểm vấn đề dân tộc ở Đông Dương. Nó phải đƣợc đặt ở
vị trí cao nhất, bức thiết nhất; tất cả quyền lợi của bộ phận, của giai
cấp phƣơng hại lợi ích dân tộc, thì phải gác lại giải quyết sau.
Hai là, giải quyết đúng quyền “dân tộc tự quyết” cho các dân
tộc ở Đông Dương. Ngay từ tháng 11 năm 1939, Ban Chấp hành
Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã chủ trƣơng sau khi
độc lập: “Mỗi dân tộc có quyền giải quyết vận mệnh theo ý muốn
của mình, song sự tự quyết cũng không nhất định nghĩa là rời hẳn
nhau ra”2.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng nhấn
mạnh và mở rộng thêm: Quyền tự do, độc lập của mỗi dân tộc đƣợc
thừa nhận và tôn trọng. Mỗi dân tộc đều có quyền bảo tồn, phát

1
. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam: V¨n kiÖn §¶ng Toµn tËp, S®d, t.7, tr.112.
2
. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam: V¨n kiÖn §¶ng Toµn tËp, S®d, t.6, tr.542.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 754

triển văn hoá của dân tộc mình. Đối với các dân tộc Lào, Miên, dân
tộc Việt Nam có nghĩa vụ giúp đỡ trên bước đường đấu tranh vì
độc lập, tự do.
Ba là, cần xây dựng khối đoàn kết của các dân tộc ở Đông
Dương mới có đủ sức mạnh đánh đổ ách thống trị của đế quốc
Pháp, Nhật; đồng thời, cần mở rộng quan hệ đoàn kết với các lực
lượng cách mạng và dân chủ chống phát xít trên thế giới.
Thực dân Pháp và quân phiệt Nhật dùng chính sách chia để trị
giữa các dân tộc Việt, Miên, Lào, và nội bộ từng dân tộc. Mặt khác,
ba dân tộc này ở Đông Dƣơng đều nằm dƣới ách thống trị của Pháp
và Nhật. Vì thế, muốn đánh đổ ách thống trị đó, cần huy động lực
lƣợng đoàn kết, thống nhất của ba dân tộc.
Nhìn rộng ra thế giới, cách mạng Đông Dƣơng là một bộ phận
của cách mạng thế giới, đứng trong phe dân chủ chống phát xít và
gắn bó chặt chẽ với cách mạng Trung Quốc1, Liên Xô.
c) Quyết định thực hiện một nhiệm vụ cách mạng giải phóng
dân tộc
Căn cứ vào sự chuyển biến tình hình thế giới và Đông
Dƣơng, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
Cộng sản Đông Dƣơng xác định rõ: Đảng phải thay đổi chính
sách, để đánh đổ chế độ thuộc địa giành quyền sống cho ba dân

1
. B¸o c¸o cña NguyÔn ¸i Quèc göi Quèc tÕ Céng s¶n, th¸ng 7 n¨m
1939, cho biÕt: D©n chóng ®· thÊm nhuÇn tinh thÇn khÈu hiÖu “Gióp ®ì
Trung Quèc” vµ b»ng chøng lµ, dï ®ãi khæ, tõ th¸ng 3 n¨m 1938 ®Õn th¸ng 2
n¨m 1939, hä ®· quyªn gãp 579 ®ång vµo cuéc l¹c quyªn ñng hé c¸c chiÕn sÜ
Trung Quèc, do c¸c b¸o céng s¶n ë B¾c Kú tæ chøc. Ng-êi cßn cho biÕt thªm:
nh÷ng ng-êi céng s¶n §«ng D-¬ng ®· s¸ng t¸c bµi h¸t “Gióp Trung Quèc
tøc lµ gióp m×nh”, bµi h¸t nµy ®­îc phæ biÕn réng r·i trong quÇn chóng.
NhiÒu n¬i ®· tæ chøc biÓu diÔn ban ®ªm vµ ng-êi biÓu diÔn lµ c«ng nh©n,
n«ng d©n, nhÊt lµ thanh niªn. Hä th-êng phèi hîp víi thanh niªn Trung
Quèc ®Ó tiÕn hµnh. (Xem Hå ChÝ Minh: Toµn tËp, S®d, t.3, tr.158).
755 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

tộc Việt, Miên, Lào.


Nếu nhƣ Luận cương chính trị của Đảng tháng 10 năm 1930
cho rằng, trong cách mạng tƣ sản dân quyền (Đại hội II của Đảng
gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) phải thi hành triệt để
cách mạng ruộng đất và đánh đổ chủ nghĩa đế quốc làm cho Đông
Dƣơng hoàn toàn độc lập, thì đến tháng 11 năm 1939, Ban Chấp
hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đề xuất chủ trƣơng
mới: “Đứng trên lập trƣờng giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân
tộc làm tối cao... cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục
đích ấy mà giải quyết. Vì vậy,... trong lúc này chỉ mới tịch ký
ruộng đất của những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc”1 (BBS
nhấn mạnh).
Tiến thêm một bƣớc mới, tại Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp
hành Trung ƣơng Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đƣa ra một quyết
định quan trọng là thay đổi chiến lược cách mạng với hàm nghĩa
“cách mạng Đông Dƣơng hiện tại không phải là cuộc cách mạng tƣ
sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế
và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn
đề cần kíp “dân tộc giải phóng”” (BBS nhấn mạnh)2. Vì thế cách
mạng Đông Dƣơng trong giai đoạn hiện tại là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc.
d) Xúc tiến công tác xây dựng đảng và lực lượng cách mạng
Trong khi xác định các chủ trƣơng mới của Đảng nhằm “dự bị
những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng”2 (BBS
nhấn mạnh), Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đặc biệt nhấn mạnh tầm quan

1
, 2. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam: V¨n kiÖn §¶ng Toµn tËp, S®d, t.6,
tr.539; t.7, tr. 119.
2
. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam: V¨n kiÖn §¶ng Toµn tËp, S®d, t.6, tr.552.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 756

trọng của công tác xây dựng đảng với trọng tâm là thống nhất ý chí
và hành động trong toàn Đảng; thắt chặt quan hệ Đảng với quần
chúng; nâng cao trình độ lý luận và lựa chọn cán bộ để chỉ đạo thực
hiện đƣờng lối của Đảng; khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và
mối liên hệ của các cấp bộ đảng từ chi bộ tới Trung ƣơng; cần củng
cố, mở rộng cơ sở đảng tại thành thị và trung tâm công nghiệp, đồn
điền. Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng đặc biệt chú trọng lãnh đạo
thực hiện nhiệm vụ gây dựng cơ sở đảng ở Miên, Lào.
Giải thích nguyên do dẫn tới khó khăn lớn của cách mạng Đông
Dƣơng, trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản tháng 7 năm 1940,
lãnh tụ Nguyễn ái Quốc cho biết Đảng còn quá yếu, vì phần lớn số
cán bộ có kinh nghiệm đấu tranh hiện đang bị giam giữ trong nhà tù
đế quốc.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng
sản Đông Dƣơng kiểm điểm công tác xây dựng đảng từ khi Chiến
tranh thế giới thứ hai bùng nổ ở châu Âu và cho rằng: tình hình
Đông Dƣơng biến đổi nhiều, Đảng đã lãnh đạo đƣợc nhiều cuộc
đấu tranh nhƣng cũng bỏ lỡ nhiều cơ hội lãnh đạo phong trào quần
chúng phát triển để có thể đáp ứng kịp thời yêu cầu của nhiệm vụ
cách mạng. Hội nghị nhấn mạnh các công tác trọng tâm:
Công tác đào tạo cán bộ là công tác rất cấp bách và phải thực
hiện bằng nhiều phƣơng pháp nhƣ giáo dục lý luận, đào luyện trong
công tác thực tiễn và trao đổi kinh nghiệm hoạt động trong các tầng
lớp xã hội nhƣ công nhân, binh lính; phải nâng cao trình độ giác
ngộ cách mạng của giai cấp vô sản và kết nạp họ vào Đảng. Cần
phát triển phong trào đấu tranh tại đô thị, nhà máy, hầm mỏ, lấy đó
làm đầu tàu lôi kéo phong trào các nơi khác.
Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng phân công Đảng bộ Trung
Kỳ chịu trách nhiệm tổ chức, gây cơ sở đảng ở Lào, Đảng bộ Nam
Kỳ thực hiện nhiệm vụ đó tại Cao Miên. Đồng thời, phải lập những
757 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

uỷ ban chuyên môn vận động các dân tộc thiểu số, làm cho họ trở
thành lực lƣợng hậu thuẫn của cách mạng.
Cùng với các nhiệm vụ trên, Đảng phải chú trọng tổ chức hệ
thống giao thông, liên lạc vững chắc, đa dạng giữa các cấp.
Trên bƣớc đƣờng hƣớng tới thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh
giành độc lập, tự do cho các dân tộc Việt, Miên, Lào, lãnh tụ Hồ
Chí Minh hƣớng dẫn các đảng bộ: “phải biết nhằm vào các công tác
trung tâm mà tiến tới, phải nắm lấy thời cơ thuận lợi mà làm việc.
Làm sao cho đủ năng lực lãnh đạo cuộc cách mạng Đông Dƣơng đi
đến toàn thắng”1.
Trong công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lƣợng
chính trị, Mặt trận thống nhất dân tộc giữ một vị trí rất quan trọng.
Theo quan điểm của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ƣơng Đảng, để tiến hành giải phóng dân tộc, tự cứu sống mình,
trƣớc hết phải thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương nhằm đoàn kết các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái và
phần tử phản đế theo tinh thần: “Công nông phải đƣa cao cây cờ
dân tộc lên, vì quyền lợi sinh tồn của dân tộc mà sẵn sàng bắt tay
với tiểu tƣ sản và những tầng lớp tƣ sản bổn xứ, trung tiểu địa chủ
còn có căm tức đế quốc, vì sự căm tức ấy có thể làm cho họ có ít
nhiều tinh thần chống đế quốc”2.
Đến tháng 5 năm 1941, quán triệt luận điểm đại đoàn kết dân
tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ƣơng Đảng quyết định xây dựng tại mỗi quốc gia một mặt
trận thống nhất dân tộc và mang “cái tên khác (tức Mặt trận thống
nhất dân tộc - BBS) cho có tính chất dân tộc hơn, cho có một mãnh

1
. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam: V¨n kiÖn §¶ng Toµn tËp, S®d, t.7, tr.136.
2
, 2. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam: V¨n kiÖn §¶ng Toµn tËp, S®d, t.6,
tr.540; t.7, tr. 122.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 758

lực dễ hiệu triệu hơn và nhất là có thể thực hiện đƣợc trong tình thế
hiện tại”2. Theo đó, sẽ thành lập Mặt trận Việt Minh tại Việt Nam.
Đồng thời, Đảng và Việt Minh phải hết sức giúp đỡ các dân tộc
Lào, Miên thành lập Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc
lập đồng minh. Sau đó, lập ra Đông Dƣơng độc lập đồng minh. Từ
đây, bắt đầu xuất hiện ý tƣởng hình thành tại ba dân tộc Việt Nam,
Lào, Miên tầng Mặt trận thống nhất dân tộc trong mỗi quốc gia và
tầng Mặt trận các dân tộc Đông Dƣơng. Đó chính là lực lượng
chính trị cơ bản nhất cùng với lực lượng vũ trang làm nòng cốt, tạo
nên sức mạnh vô địch của cách mạng giải phóng của mỗi dân tộc
và cả ba dân tộc ở Đông Dương.
Xây dựng lực lƣợng vũ trang, căn cứ địa và chiến khu cũng là
một nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình chuẩn bị khởi nghĩa giành
chính quyền.
e) Chỉ đạo phương pháp đấu tranh giành chính quyền
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
khẳng định: cuộc cách mạng Đông Dƣơng phải kết liễu bằng một
cuộc khởi nghĩa vũ trang khi đã có đủ các điều kiện chủ quan và
khách quan.
Khởi nghĩa sẽ diễn ra theo quy trình khởi nghĩa từng phần ở
từng địa phƣơng mở đƣờng tiến tới tổng khởi nghĩa.
Trong thời gian từ cuối năm 1939 đến tháng 8 năm 1945, tuy
cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào bị chính quyền Pháp -
Nhật đàn áp, khủng bố rất khốc liệt, nhiều cán bộ cấp cao của Đảng
và đảng viên bị cầm tù và hy sinh, nhƣng dƣới sự lãnh đạo của lãnh
tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, công tác chuẩn bị
về nhiều mặt cho công cuộc khởi nghĩa giành chính quyền vẫn
đƣợc xúc tiến.
Tại Việt Nam, căn cứ địa Việt Bắc, Mặt trận Việt Minh và
nhiều tổ chức quần chúng do Đảng lãnh đạo đƣợc thành lập; nhiều
759 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

đơn vị vũ trang nhƣ Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền Giải
phóng quân lần lƣợt ra đời. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (ngày 9
tháng 3 năm 1945), Ban Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng Cộng sản
Đông Dƣơng ra Chỉ thị Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta, nhiều chiến khu xuất hiện, khởi nghĩa từng phần ở nhiều
địa phƣơng miền Bắc và miền Trung nổ ra thắng lợi.
ở Lào, chính quyền thuộc địa Pháp - Nhật cũng khủng bố ráo
riết các tổ chức cộng sản. Cuối năm 1943, Đảng bộ Trung Lào nhận
đƣợc Nghị quyết lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng.
Tiếp sau là Chương trình, Điều lệ Việt Minh. Giữa lúc đó, số đảng
viên hoạt động tại biên giới Lào - Thái chủ động thành lập Đội Tiên
phong1, nhằm chuẩn bị lập lại Xứ uỷ Lào. Tháng 2 năm 1945, “Hội
Việt kiều cứu quốc”, một loại hình mặt trận thống nhất dân tộc
dƣới sự lãnh đạo của Đội Tiên phong đƣợc thành lập. Hội chủ
trƣơng đoàn kết các tầng lớp nhân dân, công chức, binh lính, cảnh
sát có tinh thần yêu nƣớc, chuẩn bị xây dựng căn cứ địa trên đất
Thái Lan.
Sau đó, Xứ uỷ Lào đƣợc lập lại lần thứ tƣ và xác định các đô
thị lớn nhƣ Viêng Chăn, Thà Khẹc, Xavẳnnakhệt là địa bàn hoạt
động chính. Sau ngày quân phiệt Nhật đảo chính Pháp, phong
trào cứu nƣớc càng phát triển mạnh mẽ. Tổ chức Lào ítxalạ bao
gồm công chức, học sinh có tinh thần yêu nƣớc, chịu ảnh hƣởng
đƣờng lối cứu nƣớc của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng ra đời,
nhiều căn cứ cách mạng xuất hiện. Tháng 6 năm 1945, đơn vị
Việt Nam Độc lập quân đƣợc thành lập ở chiến khu trên đất Thái

1
. §éi Tiªn phong do ®ång chÝ ChÊn lµm ®éi tr-ëng. C¸c ®ång chÝ
Long, VÞnh, Khanh, KhiÕu lµ uû viªn sinh ho¹t gÇn nh- mét cÊp uû. Tµi
liÖu do ®ång chÝ §inh V¨n Khanh, Uû viªn Xø uû Ai Lao, Uû viªn th-êng
trùc Ban C«ng t¸c miÒn T©y (CP38) cung cÊp.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 760

Lan.
Trung tuần tháng 8 năm 1945, thời cơ giành độc lập cho Đông
Dƣơng xuất hiện, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung
ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng quyết định Tổng khởi nghĩa và
tiến hành Hội nghị toàn Đảng tại Tân Trào, Tuyên Quang (ngày 14,
15 tháng 8 năm 1945). Nghị quyết của Hội nghị nêu rõ: “Những
điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dƣơng nhƣ đã chín muồi; cơ hội rất
tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”1. Vào thời điểm này, Bác Hồ
gặp các đồng chí đại biểu Xứ uỷ Lào, Ngƣời dặn: thời cơ rất thuận
lợi cho nhân dân Đông Dƣơng, ở đâu có điều kiện, phải giành đƣợc
chính quyền trƣớc khi Đồng minh vào. Pháp và Đồng minh Anh,
Mỹ gắn bó với nhau. Pháp sẽ núp sau lƣng Đồng minh để trở lại
xâm lƣợc Việt Nam, Lào, Miên, chúng ta phải đoàn kết để đánh kẻ
thù chung.
Nhân dân hai nƣớc Việt, Lào chớp thời cơ, tiến hành khởi
nghĩa thành công tháng 8 năm 1945.
Đó là kỳ tích đầu tiên của hai nước Việt Nam - Lào, của quan
hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

2. Việt Nam, Lào đoàn kết, liên minh chiến đấu chống đế
quốc xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc
Vượt qua khó khăn, thử thách, tạo dựng thực lực của liên minh
chiến đấu chống thực dân Pháp
Hai dân tộc Việt Nam, Lào vừa giành đƣợc quyền độc lập, đã
phải đối phó ngay với thực dân Pháp quay trở lại xâm lƣợc.
ở Lào, từ khi cuộc kháng chiến bùng nổ đến giữa năm 1950,
cách mạng gặp rất nhiều khó khăn, lực lƣợng liên quân Lào - Việt

1
. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam: V¨n kiÖn §¶ng Toµn tËp, S®d, t.7, tr.424.
761 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

mới đƣợc tổ chức, phong trào cách mạng của các tầng lớp nhân dân
chỉ mới xuất hiện tại các đô thị lại phải chống chọi với đội quân
xâm lƣợc nhà nghề đƣợc trang bị vũ khí và phƣơng tiện chiến tranh
hiện đại. Dù tinh thần chiến đấu của liên quân và nhân dân rất cao,
nhƣng vẫn không thể cản nổi các cuộc hành quân xâm lƣợc của kẻ
thù.
Chính phủ Lào ítxalạ trong tình thế khó khăn của cuộc chiến,
phải chuyển sang Thái Lan và dần dần đã diễn ra sự phân hoá, bộ
phận tích cực, đứng đầu là Hoàng thân Xuphanuvông, vẫn kiên
định lập trƣờng đoàn kết với Việt Nam tiến hành kháng chiến đến
thắng lợi cuối cùng. Bộ phận khác thoái chí, rời bỏ hàng ngũ kháng
chiến hoặc cộng tác với đối phƣơng.
Trên chiến trƣờng Việt Nam, vận mệnh dân tộc đứng trƣớc tình
thế hiểm nghèo. Song Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Đông Dƣơng đã phát huy đƣợc sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đặt
lợi ích của đất nƣớc, của dân tộc cao hơn hết thảy và thực thi những
phƣơng sách nội trị, ngoại giao hữu hiệu, đƣa cách mạng vƣợt qua
thác ghềnh, bảo vệ đƣợc thành quả Cách mạng tháng Tám 1945,
bƣớc vào cuộc kháng chiến toàn quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế
đối với cách mạng Lào.
ở đây cũng cần nói thêm rằng, vào thời điểm cuối năm 1945
đầu năm 1946, do những khó khăn vô cùng gay gắt của mình,
Nhà nƣớc và nhân dân Việt Nam chƣa thể chi viện kịp thời, đầy
đủ sức ngƣời, sức của cho cách mạng Lào. Dù vậy, những bƣớc
khởi đầu quan trọng cũng đã đƣợc tiến hành với tầm nhìn thiết
thực, cơ bản cho trƣớc mắt và tƣơng lai lâu bền của quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào.
Một là, ngay từ khi mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, chiến trƣờng Việt Nam, Lào đã bị các thế lực đế quốc vây
hãm trên biển Đông và lục địa, Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 762

Dƣơng xác định nhiệm vụ “phải liên minh với các dân tộc bị áp
bức và vô sản thế giới, đặc biệt với các nƣớc lân cận để củng cố
công cuộc cách mạng của mình”1. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính
phủ Việt Nam chỉ đạo các cơ quan ngoại giao mở một con đường
ngoại giao ở hướng tây nam từ Việt Nam qua Lào tới Thái Lan từ
giữa năm 1946 đến giữa năm 1951. Đƣợc sự ủng hộ của Chính
phủ dân tộc tiến bộ Thái Lan lúc bấy giờ, Chính phủ Việt Nam
thành lập một cơ quan ngoại giao tại Băng Cốc gọi là Phái viên
quán, nhằm từ đây mở rộng quan hệ ngoại giao với một số nƣớc
Đông Nam á và tuyên truyền quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của các
nƣớc và các lực lƣợng cách mạng, tiến bộ trên thế giới đối với
cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam và nhân dân
Lào. Chính cơ quan này cũng là nơi tiếp xúc giữa phái viên Việt
Nam với Hoàng thân Xuphanuvông và nhiều cán bộ yêu nƣớc và
tiến bộ của Lào. Nhờ vậy, hoạt động của Việt kiều và nhân dân,
cán bộ, lực lƣợng vũ trang Lào tạm lánh sang Thái Lan hoạt động
khá thuận lợi nhƣ lập chiến khu để huấn luyện quân sự, mở xƣởng
sản xuất, sửa chữa vũ khí chi viện cho chiến trƣờng Lào và Việt
Nam. Bằng con đƣờng này, nhiều đoàn cán bộ, quân đội Việt Nam
và Lào qua lại, trong đó có Hoàng thân Xuphanuvông, đƣợc đƣa
từ Thái Lan sang Việt Bắc.
Tháng 1 năm 1948, vào dịp Miến Điện tuyên bố độc lập, Chính
phủ Việt Nam cử bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm phái viên của Chính
phủ sang dự lễ độc lập của Miến Điện. Một tháng sau đó, Chính
phủ Miến Điện đồng ý để Việt Nam lập cơ quan đại diện tại
Rănggun và giúp đỡ cơ sở vật chất cho cơ quan này hoạt động.
Cũng nhƣ tại Thái Lan, ở đây cơ quan ngoại giao Việt Nam lập
phòng thông tin liên lạc với Việt Bắc bằng điện đài, cung cấp tin
tức về tình hình quốc tế. Chính phủ Miến Điện cho phép kiều bào

1
. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam: V¨n kiÖn §¶ng Toµn tËp, S®d, t.8, tr.99.
763 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Việt Nam và lực lƣợng kháng chiến Lào cƣ trú và hoạt động chuẩn
bị thực hiện nhiệm vụ xây dựng khu kháng chiến tại Lào, cung cấp
cho Việt Nam, Lào 500 khẩu súng và nhiều đạn dƣợc để chuyển
sang xây dựng chiến khu Tây Bắc Lào.
Cơ quan đại diện của Việt Nam tại Rănggun hoạt động đến
năm 1959 thì chuyển thành Tổng lãnh sự quán1.
Các hoạt động ngoại giao trong những năm đầu kháng chiến
chống thực dân Pháp đã hỗ trợ về nhiều mặt cho cuộc kháng chiến
của hai dân tộc Việt Nam, Lào và ƣơm mầm cho sự phát triển của
phong trào ủng hộ cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam,
Lào ở những chặng đƣờng nối tiếp.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt đầu tiên của
quan hệ Việt Nam - Lào.
Quá trình tạo lập quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào về tổ chức,
cán bộ ngay từ khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ra đời và
Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đƣợc thành lập, công tác xây dựng
các tổ chức quần chúng cách mạng và chi bộ đảng tại Lào đã đƣợc
tiến hành với sự tham gia của ngƣời Lào và ngƣời Việt, nhằm mục
tiêu đấu tranh giành độc lập, tự do cho nhân dân Lào mà thắng lợi
của khởi nghĩa tháng Tám là một minh chứng hùng hồn. Đến khi
thực dân Pháp quay trở lại xâm lƣợc, quân và dân Lào, Việt Nam
cùng chung sức chống ngoại xâm là bước phát triển của quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào trong thực tiễn của chiến tranh cách mạng
trên quy mô rộng lớn.
Song hành với những hoạt động trên, việc xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt đầu tiên cho nhiệm vụ tăng cƣờng quan
hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trở nên rất cấp bách. Phía Việt

1
. Xem: Ngo¹i giao ViÖt Nam 1945 - 2000, Nxb ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ
Néi, 2005, tr.105-107.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 764

Nam, Đảng, Nhà nƣớc và quân đội vừa sử dụng những cán bộ,
đảng viên cộng sản từng hoạt động tại Lào, Thái Lan, vừa tiếp tục
điều động nhiều cán bộ chính trị, quân sự bổ sung cho đội ngũ này.
Đồng thời, trong phong trào cách mạng của dân tộc Lào cũng xuất
hiện nhiều cán bộ lãnh đạo xuất sắc, chủ chốt đầu tiên mà tiêu biểu
là đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Hoàng thân Xuphanuvông và một
đội ngũ cán bộ tiếp nối giàu tài năng, đạo đức cách mạng.
Con đƣờng đồng chí Cayxỏn Phômvihản hoà nhập phong trào
cách mạng và tổ chức cách mạng đến với đồng chí diễn ra tại Hà
Nội, một địa bàn đấu tranh rất sôi nổi trong giai đoạn chống chế độ
phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh đế quốc, đòi
quyền tự do dân chủ, cơm áo và hoà bình những năm 1936 - 1939
và tiếp nối sau đó là cuộc vận động tiến tới tổng khởi nghĩa giành
chính quyền ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ
(tháng 11 năm 1939) đến Cách mạng tháng Tám 1945.
Vốn là một thanh niên yêu nƣớc, tiến bộ, đồng chí Cayxỏn
Phômvihản lại sớm đƣợc tiếp xúc với nhiều bạn bè cùng chí hƣớng
tại trƣờng Bƣởi (nay là trƣờng Chu Văn An, Hà Nội) và trƣờng Đại
học Luật Hà Nội. Đƣợc đọc nhiều sách, báo, văn kiện của Đảng
Cộng sản Đông Dƣơng, đồng chí Cayxỏn Phômvihản sớm giác ngộ
cách mạng, tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin và con đƣờng cách
mạng giải phóng Đông Dƣơng do lãnh tụ Nguyễn ái Quốc và Đảng
Cộng sản Đông Dƣơng vạch ra. Tiến bƣớc theo hƣớng đó, trong
cao trào kháng Nhật, cứu nƣớc, cuối năm 1944, đồng chí đƣợc kết
nạp vào Đoàn Thanh niên cứu quốc thành Hoàng Diệu (Hà Nội).
Trong các chặng đƣờng cách mạng tiếp theo, với trọng trách
của ngƣời lãnh đạo cách mạng Lào và chung sức với các đồng chí
lãnh đạo cách mạng Việt Nam vun đắp, phát triển quan hệ Lào -
Việt Nam, Việt Nam - Lào, đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã đảm
đƣơng xuất sắc hai sứ mệnh đó.
765 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Cuộc gặp gỡ thân tình giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng
thân Xuphanuvông diễn ra gần trọn tháng 9 năm 1945, tại Hà Nội,
đã tác động tích cực tới sự phát triển sâu rộng, vững bền của quan
hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Chúng ta có thể biết giá trị của những ý kiến mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh trao đổi với Hoàng thân và nhận thức của ông về cuộc
khởi nghĩa tháng Tám 1945 của nhân dân Việt Nam do chính ông
thuật lại cho nhà văn, nhà báo Ba Lan Vôixếch Xúcrauxki:
“Tôi bắt đầu sự nghiệp đấu tranh vào năm 1945... Nhờ có dịp
đƣợc gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội, tôi đã học đƣợc rất
nhiều điều bổ ích. Tôi tham gia cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám
chống bọn phát xít Nhật và nhận thấy rằng ngƣời Việt Nam đã dựa
hẳn vào phong trào toàn dân mà giành đƣợc thắng lợi về cho nƣớc
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Mọi vấn đề đã trở nên rất dễ hiểu đối
với tôi. Sau đó tôi về nƣớc để lãnh đạo đấu tranh giải phóng cho
nhân dân Lào”1.
Ngoài những điều trên, những ngày ở Hà Nội cũng là dịp
Hoàng thân Xuphanuvông và phu nhân đƣợc sống trong tình cảm
đầm ấm, thân tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho ông bà,
đồng thời cũng đƣợc chứng kiến những hành vi đạo đức cần kiệm
liêm chính, chí công vô tƣ của Ngƣời.
Hai ông bà Hoàng thân cùng có chung một ý nghĩ: “Và chính
mình quan sát đƣợc từng bữa cơm ăn, cái áo mặc, và chỗ ngủ của
Bác Hồ, thấy Bác sống giản dị chẳng khác ngƣời dân thƣờng mà
chúng tôi càng gần gũi kính yêu Ngƣời, giống nhƣ ngƣời thân trong
gia đình mình vậy”2.

1
. TrÇn §-¬ng: Chñ tÞch Hå ChÝ Minh víi Hoµng th©n Xuphanuv«ng,
Nxb. Th«ng tÊn, Hµ Néi, 2007, tr.21-22.
2
, 2. TrÇn §-¬ng: Chñ tÞch Hå ChÝ Minh víi Hoµng th©n Xuphanuv«ng,
S®d, tr.26.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 766

Với những tố chất yêu nƣớc, thƣơng dân và lòng mong muốn
làm thay đổi vận mệnh của dân tộc Lào, từ nô lệ sang độc lập, tự do
và thịnh vƣợng, Hoàng thân Xuphanuvông tiếp nhận rất nhanh
chóng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và noi theo tấm gƣơng đạo đức cách
mạng cao cả của Ngƣời. Điều đó đã tạo nên sự chuyển biến tất yếu
từ vị Hoàng thân trở thành nhà cách mạng chân chính trong các
lãnh tụ nổi bật nhất của nhân dân Lào và là ngƣời có nhiều cống
hiến to lớn cho quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam. Về sự biến đổi
quan trọng đó, kỹ sƣ Xinava Xuphanuvông, con trai út của Hoàng
thân, cho biết trong Hồi ký của mình: “Cha tôi luôn luôn kể cho
chúng tôi nghe về những ngày hệ trọng trong cuộc đời ông, trong
đó ông nhớ nhất lần đầu gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính cuộc
gặp gỡ đó đã biến ông từ một Thái tử của Hoàng gia Lào thành
ngƣời chiến sĩ cách mạng”2.
Từ tháng 10 năm 1945, thời điểm mở đầu quan hệ liên minh
chiến đấu Lào - Việt, tại Xê Pôn, sau khi kêu gọi nhân dân Lào
đoàn kết cứu nƣớc, Hoàng thân Xuphanuvông đề cập ngay quan hệ
Lào - Việt Nam: “Lào và Việt Nam cùng chung một nguyện vọng
duy nhất là có nền độc lập dân tộc và quyền dân chủ thực sự, cùng
chung kẻ thù là thực dân Pháp muốn trở lại thống trị hai nƣớc
chúng ta. Do đó, nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam anh em phải
đoàn kết nhau lại tiếp tục chiến đấu. Nền độc lập của Lào muôn
năm! Tình đoàn kết Lào - Việt Nam muôn năm!”1.
Tiếp tục bồi dƣỡng lý luận chính trị, phƣơng pháp công tác cho
đội ngũ cán bộ cách mạng Lào là một nhiệm vụ đƣợc Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn quan tâm, mỗi khi có dịp là Ngƣời khẩn trƣơng tổ
chức thực hiện. Đồng chí Phumi Vôngvichít cho biết, sau khi Đại

1
. TrÇn §-¬ng: Chñ tÞch Hå ChÝ Minh víi Hoµng th©n Xuphanuv«ng,
S®d, tr.20.
767 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

hội đại biểu toàn quốc Neo Lào ítxalạ bế mạc tại chiến khu Việt
Bắc, tháng 8 năm 1950: “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành bốn ngày
đêm liền để nói chuyện với đoàn đại biểu chúng tôi. Ngƣời giảng
giải chủ nghĩa Mác - Lênin cho chúng tôi nghe rất dễ hiểu, rõ ràng,
giúp cho chúng tôi thấy rõ hơn con đƣờng mình đi và tin tƣởng vào
thắng lợi một cách vững chắc hơn trƣớc. Càng nghe càng thấy hấp
dẫn, phấn khởi, đến nỗi ngồi nghe đến khuya cũng không buồn
ngủ. Hết hạn ở thăm, chúng tôi không muốn xa Ngƣời. Chúng tôi
đƣợc dự hội nghị bồi dƣỡng chính trị cho cán bộ Việt Nam, lại
đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện, làm cho
chúng tôi càng hiểu rõ thêm lý luận cách mạng và nhiệm vụ cách
mạng của mình. Sau đó, chúng tôi lại đƣợc gặp Chủ tịch ở Hội nghị
nông dân. Những lời Ngƣời nói đã giúp chúng tôi biết cách vận
động nhân dân đoàn kết để đấu tranh cứu nƣớc”.
... “Tôi rất sung sƣớng đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh giảng giải
về lý luận chính trị, rất hấp dẫn và rất sáng. Tôi cũng học đƣợc ở
Ngƣời về cách nói giản dị, sát thực tế, đầy sức thuyết phục và sự
kiên trì giáo dục không biết mệt mỏi của Chủ tịch”.
Cùng với những bài giảng về lý luận cách mạng, lối sống và
đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là những
bài học lớn của đội ngũ cán bộ cách mạng Lào: “Tôi thích nhất lối
sống, sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngƣời rất giản dị, cởi
mở, chân tình, rất thân mật nên rất dễ hoà nhập vào dân chúng...”.
“Từ biệt Ngƣời, tôi trở về, nhƣng thái độ cử chỉ, lời nói của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, tôi không bao giờ quên đƣợc. Ngƣời thật sự là
ngƣời thầy vĩ đại kính yêu, là kho lý luận cách mạng không bao giờ
cạn, là tấm gƣơng sáng, là vị lãnh đạo kính yêu không những của
nhân dân Việt Nam anh hùng, mà còn của nhân dân Lào, nhân dân
Khơme và các dân tộc khác nữa.
Khi chúng tôi trở về nơi họp đại hội gặp anh em đang nghiên
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 768

cứu đƣờng lối, chủ trƣơng cách mạng Lào, chúng tôi đã kể lại
những bài học vô giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà chúng tôi đã
thu nhận đƣợc. Tất cả mọi ngƣời đều rất phấn khởi và thêm tin
tƣởng vào thắng lợi của cách mạng Lào chúng tôi”1.
Ba là, gây dựng cơ sở chính trị, phát triển chiến tranh du kích
và thắt chặt quan hệ đoàn kết Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào.
Đây là một nhiệm vụ cơ bản, rất quan trọng của cuộc chiến
tranh cách mạng giải phóng dân tộc Lào và cũng là một nhiệm vụ
trọng yếu của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào mà phía Việt Nam
tự nguyện góp phần thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả đó.
Tƣ tƣởng chủ đạo mở hƣớng thực hiện nhiệm vụ trên đƣợc nêu
ra rất sớm tại Chỉ thị Về kháng chiến kiến quốc của Trung ƣơng
Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, tháng 11 năm 1945. Trong đó chỉ rõ
cần vận động nhân dân ở vùng nông thôn Lào tiến hành chiến tranh
du kích.
Đến cuối năm 1947, chiến thắng của quân và dân Việt Nam tại
chiến dịch Việt Bắc kéo theo sự phá sản kế hoạch “đánh nhanh,
thắng nhanh” của thực dân Pháp. Để tạo thêm thế và lực cho sự phát
triển cuộc kháng chiến trong giai đoạn mới trên chiến trƣờng Việt
Nam và Lào, cuối tháng 2 năm 1948, Trung ƣơng Đảng Cộng sản
Đông Dƣơng quyết định thành lập Đội xung phong Lào Bắc, làm
nhiệm vụ xây dựng cơ sở chính trị, tổ chức lực lƣợng vũ trang, xây
dựng khu căn cứ Bắc Lào. Tháng 3 cùng năm, Bộ Tổng chỉ huy ra Chỉ
thị Về phương châm, phương hướng hoạt động trên các mặt trận Lào,
Miên, xác định nhiệm vụ giúp đỡ bạn xây dựng cơ sở chính trị là việc
cần trƣớc nhất. Nhiệm vụ đó cần thực hiện bằng cách chọn cử cán bộ
chính trị hoặc sử dụng lực lƣợng vũ trang tuyên truyền.

1
. Phumi V«ngvichÝt: Nhí l¹i ®êi t«i trong qu¸ tr×nh lÞch sö ®Êt n-íc
Lµo (Håi ký), Nxb. ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi, 1993, tr.69-70.
769 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Giữa năm 1948, đồng chí Võ Nguyên Giáp - đƣợc Thƣờng vụ


Trung ƣơng phân công chỉ đạo giúp cách mạng Lào và theo dõi
việc giúp cách mạng Miên - gặp đồng chí Cayxỏn Phômvihản để
trình bày một số kinh nghiệm vận động quần chúng, xây dựng cơ
sở chính trị, tổ chức dân quân, đào tạo cán bộ, xây dựng lực lƣợng
vũ trang và vùng giải phóng1.
Sau đó một thời gian, theo quyết định của Trung ƣơng Đảng
Cộng sản Đông Dƣơng, đồng chí Cayxỏn Phômvihản cùng đồng
chí Ma Khảy Khămphithun lãnh đạo một đội vũ trang tuyên truyền
gồm mấy chục chiến sĩ ngƣời Lào từ Tây Bắc Việt Nam vào
Thƣợng Lào hoạt động, gây dựng cơ sở của khu kháng chiến.
Tại Thái Lan năm 1947, phái cực hữu lên nắm quyền, thi hành
chính sách chống phá lực lƣợng kháng chiến Lào đang hoạt động
tại đây. Các nhà lãnh đạo cuộc kháng chiến Lào tổ chức Hội nghị
tại Băng Cốc với sự tham dự của Hoàng thân Xuphanuvông và các
đồng chí Phumi Vôngvichít, Khăm Tày Xiphănđon,... bàn việc
giải quyết những khó khăn và mở hƣớng phát triển cho cuộc
kháng chiến của nhân dân Lào. Phát biểu tại Hội nghị, đồng chí
Khăm Tày Xiphănđon đƣa ra giải pháp: “Hoạt động của chúng ta
nếu dựa vào đất Thái để hoạt động nhƣ thời gian qua sẽ tiếp tục gặp
khó khăn, do đó chúng ta phải đƣa lực lƣợng vào hoạt động xây
dựng cơ sở chính trị, xây dựng căn cứ địa ở trong đất Lào mà nắm
lấy dân, dựa vào dân để tiến hành kháng chiến mới làm cho phong
trào kháng chiến càng lớn mạnh, phát triển và giành thắng lợi”2.
Tháng 2 năm 1949, Chính phủ Lào độc lập đƣa một số cán bộ
cấp cao và một đơn vị liên quân Lào - Việt mang thƣ của Hoàng

1
. Xem Vâ Nguyªn Gi¸p: ChiÕn ®Êu trong vßng v©y, Nxb. Qu©n ®éi
nh©n d©n, Hµ Néi, 1995, tr.341.
2
. Häc viÖn ChÝnh trÞ - Hµnh chÝnh quèc gia Lµo: Ho¹t ®éng c¸ch
m¹ng cña Chñ tÞch Kh¨m Tµy Xiph¨n®on (tãm t¾t).
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 770

thân Xuphanuvông sang Liên khu 5 đề nghị Việt Nam giúp đỡ


thành lập khu kháng chiến Hạ Lào.
Đồng chí Phạm Văn Đồng và đại diện Chính phủ Lào độc lập
tiến hành thảo luận, thống nhất ý kiến về phƣơng án thực hiện đề
nghị trên của Hoàng thân Xuphanuvông.
Khu kháng chiến Tây Bắc Lào cũng đƣợc ra đời trong quá trình
thành lập hệ thống khu kháng chiến của nhân dân Lào1.
Trong quá trình thành lập các khu kháng chiến, lãnh đạo hai dân
tộc Lào và Việt Nam đã huy động nhiều lực lƣợng cán bộ Lào, Việt
Nam, bao gồm cả một số lƣợng khá đông Việt kiều ở Thái Lan, thực
hiện nhiệm vụ quan trọng này, mà công tác vận động quần chúng
được đặt ở vị trí hàng đầu, nhƣ đồng chí Phạm Văn Đồng, đại diện
của Trung ƣơng và Chính phủ tại Nam Trung Bộ đã nói với các đồng
chí cán bộ Việt Nam sang Lào làm nghĩa vụ quốc tế: “chỉ có vận
động nhân dân Lào kháng chiến, thì ta mới có thể đánh Pháp”2.
Phƣơng pháp vận động quần chúng phổ biến nhất đƣợc áp dụng
là cán bộ, chiến sĩ thực hiện “ba cùng”: cùng ăn, cùng ở, cùng làm
với dân, và cao hơn nữa là nhiều đồng chí đã tự thay đổi màu da, mái
tóc, luyện tiếng nói nhƣ ngƣời Lào, mặc quần áo không khác gì dân
bản địa, khiến binh lính đối phƣơng không thể phát hiện đƣợc họ là
ngƣời Việt Nam. Bằng cách đó, đội quân dân vận đi vào các vùng bị
địch kiểm soát tiến hành tuyên truyền, giải thích cho dân hiểu rõ thực
dân Pháp là kẻ thù xâm lƣợc, chúng đến Lào để chém giết, cƣớp bóc
và cai trị ngƣời Lào, đồng thời chỉ rõ cho dân thấy con đƣờng giải
phóng là đoàn kết tất cả ngƣời Lào yêu nƣớc, không phân biệt bộ

1
. VÒ qu¸ tr×nh x©y dùng c¸c khu kh¸ng chiÕn t¹i Lµo, ®· viÕt trong
Ch-¬ng III cuèn s¸ch nµy.
2
. Ban Liªn l¹c qu©n t×nh nguyÖn H¹ Lµo - §«ng B¾c Campuchia: Qu©n
t×nh nguyÖn ViÖt Nam trªn chiÕn tr-êng H¹ Lµo - §«ng B¾c Campuchia
(1948 - 1954), Nxb. Qu©n ®éi nh©n d©n, Hµ Néi, 1998, tr.24.
771 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

tộc, tôn giáo, giàu nghèo, ngƣời có chức quyền hay dân nghèo, đoàn
kết quân dân Lào, Việt mới có thể đánh đuổi đƣợc thực dân Pháp
xâm lƣợc. Từ chỗ giác ngộ từng ngƣời dân, từng vị sƣ sãi đến giác
ngộ những ngƣời trƣởng tộc, những ngƣời nắm giữ quyền hành tại
bản, tàxẻng (tổng), huyện và các sƣ sãi, nhân sĩ, các tầng lớp trung
gian1, cô lập bọn tề phản động.
Hiệu quả rất quan trọng và cơ bản của công tác vận động quần
chúng ở nhiều nơi là đã xoá bỏ đƣợc những mối bất hoà, hiềm
khích giữa các nhóm ngƣời Lào Lùm và Lào Thơng, giữa các bộ
tộc, thay vào đó là tình thƣơng yêu, đoàn kết2.
Gắn liền với hoạt động tuyên truyền, giáo dục chính trị, xây
dựng khối đoàn kết các bộ tộc, công tác dân vận còn hƣớng vào
thực hiện nhiệm vụ cải thiện đời sống kinh tế, văn hoá của cƣ dân,
trƣớc hết là đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất lƣơng thực, thực
phẩm nhƣ: hƣớng dẫn cải tiến phƣơng pháp canh tác lƣơng thực,
hoa màu và cách chăn nuôi gia súc, gia cầm cho năng suất cao hơn.
Tại những vùng có muối mỏ, cán bộ kỹ thuật chỉ dẫn cho dân cách
nấu muối mỏ đạt chất lƣợng cao hơn, kết hợp với muối từ Việt
Nam đƣa sang, giúp khắc phục nạn khan hiếm muối. Đồng thời,
nhân viên kỹ thuật còn phổ biến cách sản xuất giấy, cách rèn nông

1
. ¹t nha Xán ®· lµm ch¹u m-êng, tri huyÖn, thêi thuéc Ph¸p trë thµnh
chñ tÞch huyÖn X¸n¼mxay. NhiÒu chñ tÞch x·, b¶n ë X¸n¼mxay lµ n¹i b¶n
cò. Mét ng-êi anh em hä gÇn cña Bun ïm lµ Chao XÝx¶y ®i vµo vïng kh¸ng
chiÕn, lµm cho bÌ lò Bun ïm ho¶ng sî ph¶i bá ch¹y vµo P¹c Xª.
2
. ë H¹ Lµo, nhãm Lµo Lïm ë vïng thÊp, tr×nh ®é kinh tÕ ph¸t triÓn
h¬n, chñ yÕu lµm ruéng n-íc, trång cµ phª vµ bu«n b¸n ë thÞ trÊn. Cßn
nhãm ng-êi Lµo Th¬ng tr×nh ®é kinh tÕ, d©n trÝ chËm ph¸t triÓn h¬n. C¸c
chóa ®Êt thèng trÞ hai nhãm ng-êi ®ã th-êng khiÕn hä xung ®ét víi nhau,
dÉn tíi nh÷ng m©u thuÉn gay g¾t. Gi¶i quyÕt t×nh tr¹ng trªn, chÝnh
quyÒn ®Þa ph-¬ng vµ c¸n bé Lµo, ViÖt tiÕn hµnh vËn ®éng nhãm Lµo Lïm
nh-êng ruéng ®Êt, gióp ng-êi d©n Lµo Th¬ng lµm ruéng, d¹y hä dÖt v¶i,
xo¸, gi¶m nî cho hä, lµm cho quan hÖ gi÷a ng-êi Lµo Lïm vµ Lµo Th¬ng
®-îc c¶i thiÖn râ rÖt.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 772

cụ và cải tiến phƣơng pháp dệt vải...


Các lớp học chữ Lào và phổ biến kiến thức văn hoá, chính trị
đƣợc mở ra tại bản làng thu hút nhiều thanh niên, thiếu niên học
tập, là một nét sinh hoạt mới của vùng giải phóng. Đời sống văn
hoá và nếp sống mới tại nhiều bản làng nhƣ vệ sinh nhà cửa, thân
thể, chữa bệnh bằng thuốc, hạn chế những hủ tục, tập quán có hại
cho đời sống vật chất và tinh thần đều đƣợc cán bộ dân vận và bộ
đội chú trọng hƣớng dẫn cho dân thực hiện.
Hệ thống chính quyền từ cấp cơ sở đến cấp khu đƣợc thành lập.
Nhiều đoàn thể quần chúng và tổ chức Neo Lào ítxalạ ra đời. Trên
đà phát triển đó, các khu du kích liên hoàn xuất hiện với quy mô
rộng lớn, lấy nhân dân và lực lƣợng dân quân, du kích, các đơn vị
vũ trang địa phƣơng làm nền tảng. Các phƣơng pháp đấu tranh
chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang và binh vận đƣợc sử dụng khá
rộng rãi và đem lại nhiều hiệu quả.
Cũng trong quá trình tạo dựng cơ sở chính trị, phát triển chiến
tranh du kích, trƣớc yêu cầu của cuộc kháng chiến, ngày 20 tháng 1
năm 1949, tại đơn vị Látxavông ở Xiêng Khọ (Sầm Nƣa), đồng chí
Cayxỏn Phômvihản tuyên bố thành lập Quân đội Lào ítxalạ, tiền
thân của Quân đội nhân dân Lào.
Bốn là, xây dựng tại mỗi nước Việt, Miên, Lào một đảng mácxít -
lêninnít và thành lập Mặt trận liên minh Việt - Miên - Lào để nâng
cao sức mạnh quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong quan hệ
đoàn kết Việt - Miên - Lào.
Đến năm 1951, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã trải qua 21 năm
xây dựng và phát triển, lãnh đạo nhân dân Đông Dƣơng đấu tranh
chống chế độ thuộc địa của đế quốc Pháp, phát xít Nhật, tiến hành
khởi nghĩa giành độc lập cho hai dân tộc Việt Nam, Lào và tổ chức
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đánh chiếm Đông Dƣơng lần
thứ hai, làm thất bại nhiều kế hoạch xâm lƣợc của chúng.
773 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Trong thời gian chuẩn bị tiến tới Đại hội II Đảng Cộng sản
Đông Dƣơng, đồng chí Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung
ƣơng Đảng đã nghiên cứu thấy rằng việc xây dựng ở mỗi nƣớc Việt
Nam, Lào và Campuchia một đảng mácxít - lêninnít trên cơ sở kế
thừa bản chất và năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dƣơng đã có đủ điều kiện thực hiện.
Tại Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, tháng 2
năm 1951, đồng chí Hồ Chí Minh đề nghị thành lập tại mỗi nƣớc
Đông Dƣơng một Đảng Cộng sản.
Về chủ trƣơng này, đồng chí Cayxỏn Phômvihản phát biểu:
“Tôi thấy từ khi Đảng Cộng sản Đông Dƣơng thành lập đến nay đã
đƣợc 21 tuổi, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã lãnh đạo Cách mạng
tháng Tám thành công và đƣa cách mạng Miên, Lào tiến mạnh trên
con đƣờng thắng lợi.
Đến nay, tình hình ngoài nƣớc cũng nhƣ trong ba nƣớc Việt,
Miên, Lào đã thay đổi, chứng tỏ Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã
làm tròn nhiệm vụ do ba dân tộc và giai cấp giao phó cho.
... Nhƣ vậy là đề nghị của Hồ Chủ tịch tách Đảng Cộng sản
Đông Dƣơng ra Đảng Lao động Việt Nam và ở Miên, Lào có hai tổ
chức khác là rất đúng và thích hợp với tình hình mới, ba dân tộc có
ba quốc gia rõ rệt.
... Chúng tôi, ngƣời cộng sản Lào hiểu rõ và tán thành đề nghị
đó không chút thắc mắc”1.
Đại biểu Đảng bộ Campuchia phát biểu: “Tôi nhận thấy rằng
từ trƣớc tới nay, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng rất có thành tích
trong lãnh đạo cách mạng Việt, Miên, Lào. Nhƣng nay cách
mạng ba nƣớc đã có đặc tính riêng khác nhau, không thể có một
Đảng bao trùm đƣợc mà Miên, Lào sẽ lập hai Đảng khác nhau.

1
, 2, 3. Biªn b¶n §¹i héi II §¶ng Céng s¶n §«ng D-¬ng, L-u t¹i Kho
L-u tr÷ Trung -¬ng §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 774

Vì thế chúng tôi rất hoan nghênh đề nghị sáng suốt của Báo cáo
chính trị”2.
Đồng chí Hồ Chí Minh nói: “Sau khi nghe các đồng chí Miên,
Lào phát biểu ý kiến, chắc Đại hội cũng nhƣ tôi, chúng ta rất cảm
động. Nhƣng cảm động đây không phải là buồn, trái lại là cảm
động vui. Vì chúng ta nhƣ con một nhà, một nhà cộng sản, một nhà
cách mạng. Bây giờ con cái đã khôn lớn rồi phải chia nhà, chia cửa
ở riêng. Con trai có vợ, con gái có chồng (vỗ tay), sau này đẻ con,
đẻ cháu đông đúc, từ gia đình nhỏ tiến lên gia đình lớn rất mạnh, từ
gia đình lớn đến họ hàng, họ hàng càng to, càng mạnh, đông ngƣời
nhiều việc, nhất định thành công”3.
Theo Nghị quyết Đại hội II Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, Đảng
Cộng sản ở Việt Nam lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam4; Ban
Vận động thành lập Đảng Nhân dân Lào có sự giúp đỡ của Trung
ƣơng Đảng Lao động Việt Nam, tiến hành những công tác chuẩn bị
các văn kiện và nhân sự Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng.
Thực hiện Nghị quyết trên, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
Lao động Việt Nam ra Nghị quyết số 19/NQTƢ, ngày 22 tháng 3
năm 1953, điều động đồng chí Nguyễn Khang, Uỷ viên Trung ƣơng
Đảng, đi phụ trách công tác Lào với các nhiệm vụ: chịu trách nhiệm
trƣớc Trung ƣơng về việc thực hiện các chủ trƣơng, chính sách của
Đảng trong việc giúp đỡ cách mạng và kháng chiến Lào; về mặt
công khai, đồng chí là cố vấn của Việt Nam, giúp Chính phủ Kháng
chiến và Mặt trận ítxalạ Lào; về mặt nội bộ, đồng chí phụ trách
công tác đảng ở toàn Lào, kiêm Bí thƣ Ban Cán sự Thƣợng Lào...1.
Từ đó, các hoạt động của Việt Nam giúp bạn Lào chuẩn bị thành
lập Đảng Nhân dân Lào do đồng chí Nguyễn Khang chỉ đạo thực

4
. §¶ng Nh©n d©n c¸ch m¹ng Campuchia thµnh lËp gi÷a n¨m 1951.
1
. Tµi liÖu do gia ®×nh ®ång chÝ NguyÔn Khang cung cÊp.
775 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

hiện.
Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, ngày 19
tháng 10 năm 1953, đã thảo luận và nêu ý kiến cần xúc tiến thành
lập Đảng và gợi ý xác định các tiêu chuẩn của đảng viên Lào, chú
trọng tiêu chuẩn trung thành với kháng chiến và tinh thần phục vụ
nhân dân. Tiến tới thành lập Đảng, trƣớc hết nên tổ chức chi bộ ở
cơ sở; nên mạnh dạn đề bạt cả những đảng viên thƣờng nhƣng
vững vàng vào Ban Trù bị (tên gọi này ghi tại biên bản Hội nghị)
thành lập Đảng; tiến hành Hội nghị cán bộ trƣớc Đại hội thành lập
Đảng1.
Từ ngày 22 tháng 3 đến 6 tháng 4 năm 1955, tiến hành Đại hội
thành lập Đảng Nhân dân Lào. Đây là đảng mácxít - lêninnít kế tục
sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, phấn đấu vì
độc lập và phồn vinh của nƣớc Lào, vì tự do, hạnh phúc của nhân
dân Lào, là thành quả chính trị của quan hệ đặc biệt Lào - Việt
Nam, Việt Nam - Lào, là một nhân tố quan trọng hàng đầu thúc
đẩy sự phát triển của quan hệ đó. Từ đây, trên bán đảo Đông
Dƣơng, mỗi dân tộc có một đảng mácxít - lêninnít, đảm đƣơng vai
trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc mình và thực hiện
nghĩa vụ quốc tế đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc
và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế.
Nối tiếp quyết định của Đại hội II Đảng Cộng sản Đông Dƣơng
về việc thành lập tại mỗi nƣớc Việt, Miên, Lào một đảng mácxít -
lêninnít, cũng tại Việt Bắc, diễn ra Hội nghị thành lập Mặt trận liên
minh Việt - Miên - Lào. Trƣớc đó không lâu, Trung ƣơng Đảng
Cộng sản Đông Dƣơng chỉ đạo thành lập Chính phủ Lào kháng
chiến và Mặt trận dân tộc thống nhất Lào (lấy tên là Neo Lào

1
. Biªn b¶n Héi nghÞ Bé ChÝnh trÞ §¶ng Lao ®éng ViÖt Nam, L-u t¹i
Kho L-u tr÷ Trung -¬ng §¶ng, ph«ng sè 11, ®¬n vÞ b¶o qu¶n 89.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 776

ítxalạ); đồng thời, tổ chức một đơn vị cán bộ, chiến sĩ sang Thái
Lan và Lào đón Hoàng thân Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo
cách mạng Lào tới Việt Bắc để thực hiện chủ trƣơng trên.
Giữa tháng 8 năm 1950, tại tỉnh Tuyên Quang (Việt Nam),
Đại hội quốc dân Lào quyết định những vấn đề quan trọng về đẩy
mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giành độc lập dân
tộc, thành lập nƣớc Lào độc lập, thống nhất và Chính phủ liên
hiệp quốc gia; phát triển kinh tế, cải thiện dân sinh; thực hiện các
quyền dân chủ về chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, bình đẳng
dân tộc... cho nhân dân; thắt chặt tình đoàn kết với Việt Nam và
Khơme. Đại hội thành lập Neo Lào ítxalạ và Chính phủ Kháng
chiến.
Sự kiện đó không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với bƣớc
chuyển biến mới trong sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Lào,
mà còn là sự kiện lớn thúc đẩy sự phát triển liên minh chiến đấu
Lào - Việt Nam. Đây cũng là một hoạt động tích cực chuẩn bị thực
hiện chủ trƣơng thành lập Mặt trận liên minh Việt - Miên - Lào vào
tháng 3 năm 1951, tại Việt Bắc (Việt Nam).
Việc thành lập Mặt trận liên minh Việt - Miên - Lào dựa trên
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tƣơng trợ và tôn trọng chủ quyền
của nhau để tiến hành cuộc kháng chiến trƣờng kỳ, toàn dân, toàn
diện, thực hiện nhiệm vụ chung đã nêu trên; tăng cƣờng khối liên
minh, chống lại âm mƣu chia rẽ của địch, làm cho ba dân tộc hiểu
nhau, đoàn kết chặt chẽ với nhau; hết sức giúp nhau về mọi mặt;
giúp nhau thiết lập và tăng cƣờng mối liên hệ với các nƣớc dân chủ,
làm cho thế giới hiểu rõ và ủng hộ cuộc kháng chiến của ba dân
tộc.
Sự kiện này ghi nhận sự phát triển trong quan hệ đoàn kết của
nhân dân ba nƣớc để nâng cao hơn nữa sức mạnh chiến đấu chống
kẻ thù chung là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
777 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Sự thống nhất ý chí của Hội nghị đã biểu thị rõ trong bản nghị
quyết: ba nƣớc Việt Nam - Miên - Lào đều có kẻ thù chung là thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng ba
nƣớc là đánh đuổi xâm lƣợc Pháp và can thiệp Mỹ, làm cho ba
nƣớc Việt Nam, Cao Miên, Lào hoàn toàn độc lập; xây dựng ba
quốc gia mới, làm cho nhân dân ba nƣớc đƣợc tự do, sung sƣớng và
tiến bộ.
Năm là, Việt Nam, Lào đồng tâm, hiệp lực giúp nhau trong
chiến đấu, lập nhiều chiến công.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp:
Cuộc chiến tranh xâm lƣợc do thực dân Pháp tiến hành hòng
đặt ách thống trị của chúng lên toàn cõi Đông Dƣơng, bằng thủ
đoạn chia cắt, cô lập từng nƣớc, dùng địa bàn, nhân lực, của cải của
nƣớc này để đánh chiếm nƣớc kia. Khi phải đối đầu với mƣu đồ và
hành động xâm lƣợc của thực dân Pháp, Trung ƣơng Đảng Cộng
sản Đông Dƣơng đã đƣa ra một quyết định quan trọng: “Về quân
sự, Việt Nam, Cao Miên, Ai Lao là một chiến trƣờng, phải đánh
theo một chiến lƣợc chung”1. Đối sách đó tạo cơ sở cho khối đoàn
kết, liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc càng thêm củng cố và tăng
cƣờng trên cùng một trận tuyến chống kẻ thù chung, thực hiện
những mục tiêu chiến lƣợc và kế hoạch tác chiến trên các chiến
trƣờng Đông Dƣơng.
Quán triệt và thực hiện quyết định đó, tại chiến trƣờng Việt
Nam và Lào, xuất hiện liên minh chiến đấu giữa các đơn vị vũ
trang Lào - Việt, các mặt trận phối hợp giữa các địa phƣơng Việt
Nam, Lào nhƣ Liên khu 10 với Thƣợng Lào, Liên khu 4 với Trung
Lào, Liên khu 5 với Hạ Lào, tiến tới quy mô phối hợp lớn hơn về

1
. V¨n kiÖn §¶ng vÒ kh¸ng chiÕn chèng thùc d©n Ph¸p (1945 - 1954),
Nxb. Sù thËt, Hµ Néi, 1986, t.1, tr.383.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 778

mặt chiến lƣợc, về tổ chức chiến trƣờng, bố trí lực lƣợng tác chiến
và sử dụng các phƣơng pháp đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận
buộc địch phải bị động đối phó. Còn ta thì giành quyền chủ động
chiến lƣợc.
Chiến dịch Thƣợng Lào diễn ra từ nửa sau tháng 4 đến giữa
tháng 5 năm 1953 do các cơ quan lãnh đạo và chỉ huy Việt Nam,
Lào chỉ đạo thực hiện giành thắng lợi lớn: giải phóng toàn bộ tỉnh
Sầm Nƣa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và Phôngxalỳ, mở rộng căn
cứ địa của cách mạng Lào. Đối với Việt Nam, chiến dịch Thƣợng
Lào đã góp phần phân tán lực lƣợng địch, phá âm mƣu củng cố
vùng Tây Bắc và bình định đồng bằng Bắc Bộ của chúng.
Sau chiến dịch Thƣợng Lào, liên quân Lào - Việt mở chiến dịch
Trung - Hạ Lào (diễn ra từ ngày 21 tháng 12 năm 1953 đến tháng 5
năm 1954). Thắng lợi của chiến dịch này thực hiện đƣợc một yêu
cầu chiến lƣợc hàng đầu là buộc Nava phải tiếp tục phân tán khối
cơ động chiến lƣợc của chúng, góp phần làm giảm khối chủ lực của
địch trên chiến trƣờng chính Bắc Bộ, nhất là đối với hƣớng chính
Điện Biên Phủ. Đó cũng là minh chứng về giá trị đặc sắc của tƣ
tƣởng quân sự Hồ Chí Minh đƣợc thể hiện trong kế sách tiến công
làm thất bại kế hoạch Nava, theo cách diễn đạt độc đáo của Ngƣời,
tại Hội nghị Bộ Chính trị ở Tỉn Keo (Thái Nguyên), tháng 10 năm
1953. Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp cho biết:
“Bác ngồi họp, thái độ bình thản, điếu thuốc lá kẹp giữa hai
ngón tay. Đôi mắt Ngƣời chợt lộ vẻ chăm chú. Bàn tay Bác đặt trên
bàn bỗng giơ lên và nắm lại. Ngƣời nói:
Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... không sợ!
Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn.
Bàn tay Bác mở ra, mỗi ngón tay trỏ về một hƣớng”1.

1
. §¹i t-íng Vâ Nguyªn Gi¸p: §iÖn Biªn Phñ, Nxb. ChÝnh trÞ quèc
779 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Thắng lợi của các chiến dịch Thƣợng Lào, Trung - Hạ Lào là
thắng lợi rất to lớn của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam dƣới sự chỉ huy của Bộ Tổng Tƣ lệnh quân đội hai
nƣớc và nhiều tƣớng lĩnh cấp cao; tập hợp nhiều đơn vị quân đội
Việt Nam, Lào cùng tham gia chiến đấu, đƣợc hậu phƣơng hai
nƣớc Việt Nam, Lào cung cấp một khối lƣợng lớn lƣơng thực,
thực phẩm. Điều đó thể hiện tinh thần đoàn kết, ý chí quyết
chiến, quyết thắng của quân và dân hai nƣớc trong công cuộc
kháng chiến chống kẻ thù xâm lƣợc.
Hạ tuần tháng 1 năm 1954, Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp, Chỉ
huy trƣởng Bộ Chỉ huy chiến dịch và Đảng uỷ chiến dịch Điện
Biên Phủ quyết định thay đổi phƣơng châm “đánh nhanh, thắng
nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Đồng thời, Đảng uỷ chiến dịch
quyết định đƣa Đại đoàn 308 tiến công sang hƣớng Thƣợng Lào1,
nhằm cô lập hơn nữa địch ở Điện Biên Phủ, tiêu diệt một bộ phận
sinh lực địch, không cho địch đánh vào sau lƣng, vừa nghi binh thu
hút sự chú ý của chúng, bảo đảm cho bộ đội ở Điện Biên Phủ rút ra
tập kết an toàn.
Một đặc điểm của chiến dịch này là thời gian chuẩn bị gấp, nên
khó khăn lớn nhất là thiếu thuốc men và lƣơng thực. Với sự giúp
đỡ của nhân dân vùng Thƣợng Lào, trong hơn 10 ngày tiến công,
truy kích địch trên chặng đƣờng dài 200 km, Đại đoàn 308 phối
hợp chiến đấu cùng bộ đội Lào ítxalạ, dân quân du kích và nhân
dân địa phƣơng đánh bại đội quân địch tại phòng tuyến này. Toàn
bộ phòng tuyến sông Nặm U của địch bảo vệ cứ điểm Điện Biên
Phủ bị phá vỡ. Một vùng rộng lớn lƣu vực sông Nặm U đƣợc giải
phóng, thắng lợi này đẩy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ vào thế

gia, Hµ Néi, 1994, tr.24-25.


1
. ChiÕn dÞch diÔn ra tõ ngµy 29 th¸ng 1 ®Õn 13 th¸ng 2 n¨m 1954.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 780

hoàn toàn bị cô lập.


Ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân và dân Việt Nam mở màn
cuộc quyết chiến chiến lƣợc ở Điện Biên Phủ, cũng là mở đầu đợt
ba của cuộc tiến công chiến lƣợc Đông Xuân 1953 - 1954 trên
chiến trƣờng Đông Dƣơng. Quân và dân Lào đã anh dũng chiến
đấu, chặt đứt con đƣờng chiến lƣợc của địch chi viện cho Điện
Biên Phủ, góp phần cô lập Điện Biên Phủ, tạo thuận lợi cho quân
và dân Việt Nam giành thế chủ động tấn công địch. Ngày 7 tháng 5
năm 1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của quân đội viễn
chinh Pháp bị tiêu diệt. Nói về sự phối hợp hành động trong chiến
dịch này, đồng chí Cayxỏn Phômvihản khẳng định: “Các hoạt động
quân sự trên chiến trƣờng Lào đã phối hợp nhịp nhàng với chiến
dịch Tây Bắc Việt Nam tiêu diệt địch tại Điện Biên Phủ, góp phần
vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chung của nhân dân ba nƣớc
Đông Dƣơng chống đế quốc Pháp”1. Ngày 21 tháng 7 năm 1954,
Hiệp định Giơnevơ về Đông Dƣơng đƣợc ký kết. Tuy chƣa phản
ảnh đầy đủ thắng lợi của quân và dân ba nƣớc, song Hiệp định
Giơnevơ đã công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của ba nƣớc Việt Nam, Lào, Campuchia.
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược:
Đối phó với cuộc chiến tranh xâm lƣợc của đế quốc Mỹ, hai
dân tộc Việt Nam, Lào đã có nhiều thay đổi so với cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp.
Sau Hiệp định Giơnevơ, Việt Nam bị chia cắt thành hai miền
với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Miền Bắc xã hội chủ
nghĩa là hậu phƣơng của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam và
chiến trƣờng Lào, Campuchia; có quan hệ rộng rãi với các nƣớc xã

1
. Cayxán Ph«mvih¶n: “30 n¨m ®Êu tranh bÊt khuÊt, 30 n¨m th¾ng
lîi vÎ vang”, T¹p chÝ Häc tËp, sè 11, 1975, tr.33-36.
781 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc, hoà bình và tiến bộ
xã hội trên thế giới.
Pathết Lào có vùng tập kết, có Đảng, Mặt trận, lực lƣợng vũ
trang và các đoàn thể cách mạng. ở Lào tồn tại chính quyền Vƣơng
quốc.
Đông Dƣơng trở thành chiến trƣờng chống Mỹ; miền Nam Việt
Nam là chiến trƣờng chính.
Nhiệm vụ chiến lƣợc quan trọng nhất của hai nƣớc là đoàn kết
rộng rãi tất cả các lực lƣợng yêu nƣớc, yêu hoà bình và thắt chặt
hơn nữa quan hệ đoàn kết, liên minh chiến đấu, đáp ứng cao nhất,
hữu hiệu nhất yêu cầu cách mạng và kháng chiến của mỗi bên và
tăng cƣờng sức mạnh đoàn kết đặc biệt của hai dân tộc để đánh
thắng đế quốc Mỹ xâm lƣợc, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nƣớc.
Hai mƣơi mốt năm chống đế quốc Mỹ là một chặng đƣờng kế
tục, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đã
trở thành giá trị thiêng liêng của hai dân tộc. Hoạt động phối hợp
đấu tranh của các cơ quan lãnh đạo cùng quân và dân Việt Nam,
Lào đều xuất phát từ tình cảm sâu đậm, trách nhiệm cao cả của hai
phía Việt Nam, Lào dành cho nhau, tạo nên những nguồn lực mới,
những nấc thang phát triển mới của nội lực từng dân tộc, của quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong cuộc chiến chống kẻ
thù chung và mở đƣờng đi tới toàn thắng. Trong đó, nổi bật lên
những hoạt động tiêu biểu, điển hình.
Một là, sự phối hợp giữa lãnh đạo, quân và dân hai nƣớc Việt
Nam, Lào phá vỡ mưu đồ tiêu diệt lực lượng vũ trang nòng cốt
Pathết Lào và hãm hại bộ phận đầu não cơ quan lãnh đạo cách
mạng Lào do đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tiến hành.
Sau một thời gian đàm phán, đến cuối năm 1957, Chính phủ
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 782

Vƣơng quốc và Pathết Lào thoả thuận thành lập Chính phủ liên
hiệp quốc gia, trong đó có hai đại biểu Pathết Lào làm bộ trƣởng,
tiến hành Tổng tuyển cử bầu bổ sung đại biểu Quốc hội, Neo Lào
Hắc Xạt ra hoạt động công khai, hai tiểu đoàn Pathết Lào gia nhập
quân đội quốc gia, hai tỉnh tập kết của Pathết Lào là Hủa Phăn và
Phôngxalỳ đặt dƣới quyền kiểm soát của Chính phủ Vƣơng quốc.
Ngay sau khi nghe báo cáo tình hình trên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đánh giá cao những kết quả mà Pathết Lào giành đƣợc. Mặt
khác, Ngƣời chỉ rõ: việc đƣa hai tỉnh tập kết của Pathết Lào vào
Vƣơng quốc là âm mƣu của Mỹ “điệu hổ ly sơn” để đi đến tiêu diệt
lực lƣợng Pathết Lào. Không thể xem thƣờng âm mƣu đó đƣợc.
Lực lƣợng Pathết Lào bị thôn tính thì phong trào đấu tranh của
nhân dân khó giữ vững đƣợc. Ngƣời chỉ dẫn phƣơng pháp hoạt
động mới và cách đối phó với địch. Phải làm cho bạn thấy rõ âm
mƣu của Mỹ và tay sai để khỏi chủ quan. Neo Lào Hắc Xạt ra công
khai, chỉ nên đƣa vài ngƣời tƣợng trƣng ở cấp trung ƣơng thôi.
Phần lớn lực lƣợng phải rút vào bí mật, bộ đội Pathết Lào phải
phục viên tại hai tỉnh và cất giấu vũ khí tại đó, phải đấu tranh giữ
vững hai tỉnh...
Ngƣời dự báo tình hình sắp tới của cách mạng Lào: “Cuộc đấu
tranh sắp tới sẽ quyết liệt đấy. Mỹ còn cố giữ miền Nam Việt Nam
thì chúng chƣa bỏ Lào đâu. Dùng bánh vẽ để đƣa hai ông vào
Viêng Chăn rồi tăng cƣờng đàn áp, khủng bố cán bộ ở các tỉnh.
Chúng sẽ phá tan phong trào quần chúng ở 10 tỉnh, nếu ta buông
lỏng hai tỉnh thì nó sẽ thôn tính ngay và lực lƣợng Pathết Lào tan rã
thì sẽ dùng đất Lào để uy hiếp miền Bắc và phối hợp với cuộc
chiến chiếm đóng miền Nam nƣớc ta”1.

1
. NguyÔn ChÝnh Giao: Nhí l¹i qu·ng ®êi 50 n¨m ho¹t ®éng c¸ch
m¹ng (1929 - 1979), B¶n ®¸nh m¸y, tr.90-91.
783 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho đồng chí Võ Nguyên
Giáp bố trí ngay một tổ quân báo theo dõi tình hình hoạt động của
bạn và đối phƣơng để xử lý kịp thời, khi lãnh đạo bạn cần thì giúp
đƣa họ sang Việt Nam an toàn.
Những lời phát biểu chân tình và quý báu, kịp thời của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đƣợc các cơ quan có trách nhiệm của hai nƣớc lĩnh
hội và thực hiện.
Do sự phối hợp giữa hai phía Lào, Việt Nam, Tiểu đoàn 2
Pathết Lào đã mƣu trí, anh dũng chiến đấu thoát khỏi vòng vây của
địch tại Xiêng Khoảng vào tháng 5 năm 1959, sau 15 ngày trở về
căn cứ an toàn.
Cũng vào thời điểm đó, nhiệm vụ giải thoát cho Hoàng thân
Xuphanuvông và nhiều nhà lãnh đạo cao cấp chủ chốt của cách
mạng Lào khỏi trại giam cũng đƣợc xúc tiến chuẩn bị, có sự phối
hợp chặt chẽ giữa nhiều lực lƣợng phía Lào và phía Việt Nam.
Cuối cùng, đêm 23 rạng ngày 24 tháng 5 năm 1960, các đồng
chí lãnh đạo Lào và cán bộ bị bắt vƣợt khỏi trại giam Phôn Khêng
tại Viêng Chăn, ghi nhận thêm một thắng lợi mới trong cuộc đấu
tranh phá vỡ mƣu đồ xảo quyệt, nguy hiểm của Mỹ và tay sai của
chúng. Đánh giá sự kiện lịch sử này, Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp,
ngƣời trực tiếp chỉ đạo tổ công tác đặc biệt từ Việt Nam sang Viêng
Chăn, phối hợp với cán bộ và quân đội Pathết Lào thực hiện nhiệm
vụ này, viết:
“Cuộc giải thoát Chủ tịch Xuphanuvông là một chiến công đặc
biệt, tiêu biểu cho tình hữu nghị anh em giữa nhân dân Việt Nam
và nhân dân Lào. Chúng ta hãy giữ vững và phát triển tình hữu nghị
đặc biệt ấy”1.

1
. §¹i t¸ Phan DÜnh: Cuéc v-ît ngôc kú diÖu, Nxb. Qu©n ®éi nh©n
d©n, Hµ Néi, 2008, tr.1.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 784

Hai là, sự hợp lực giữa lãnh đạo Đảng Nhân dân Lào và Đảng
Lao động Việt Nam trong quá trình xác định phương pháp đấu
tranh vũ trang là chủ yếu kết hợp với đấu tranh chính trị chống
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở Lào.
Từ đầu năm 1958, xu thế phát triển của tình hình Lào ngày
càng thể hiện rõ sự can thiệp, xâm nhập mạnh mẽ và toàn diện của
Mỹ.
Đƣợc chính quyền Ngô Đình Diệm giúp đỡ, bọn Xánánicon
tăng cƣờng khủng bố lực lƣợng cách mạng, gây căng thẳng tại
nhiều vùng biên giới Lào và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Điều đó đúng nhƣ Chủ tịch Hồ Chí Minh dự đoán vào tháng 3
năm 1958, khi Ngƣời đến thăm chuyên gia Việt Nam từ Lào về Hà
Nội: “Tình hình Lào sắp tới sẽ trở lại phức tạp và căng thẳng hơn
trƣớc. Các chú tập kết về thì nghỉ ngơi, bồi dƣỡng về vật chất và
tinh thần, khi bạn yêu cầu, Ban Bí thƣ sẽ điều động trở lại giúp bạn,
vì hoạt động ở nƣớc bạn phải biết tiếng, biết tình hình, biết cán bộ
bạn, điều ngƣời mới sang thì không kịp đối phó với âm mƣu của
địch... Các chú là vốn quý để giúp cách mạng Lào”1.
Trƣớc tình hình đó, ngày 30 tháng 1 năm 1959, Bộ Chính trị
Đảng Lao động Việt Nam gửi thƣ cho Trung ƣơng Đảng Nhân dân
Lào trao đổi ý kiến về phƣơng hƣớng và phƣơng pháp đấu tranh:
- Cần tổ chức ngay một bộ phận bí mật chuyển ra vùng cơ sở
vững hoặc vùng căn cứ để lãnh đạo phong trào đấu tranh; nhanh
chóng khôi phục, củng cố phong trào ở cơ sở; kiên quyết bảo vệ lực
lƣợng cách mạng.
- Trong bộ phận hoạt động công khai, đồng chí nào có điều
kiện thì ở lại đấu tranh cho đến cùng để giữ vững địa vị hợp pháp,

1
. NguyÔn ChÝnh Giao: Nhí l¹i qu·ng ®êi 50 n¨m ho¹t ®éng c¸ch
m¹ng (1929 - 1979), B¶n ®¸nh m¸y, tr.92.
785 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

nhƣng phải luôn luôn cảnh giác.


- Nên tăng cƣờng cho bộ phận trung ƣơng bí mật lãnh đạo.
Nếu chuẩn bị đầy đủ và nội bộ nhất trí thì rút anh Viêngxay
(đồng chí Cayxỏn Phômvihản) ra vùng căn cứ, bổ sung cho bộ
phận bí mật này1.
Khoảng tháng 5 năm 1959, đáp ứng yêu cầu của đồng chí
Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thƣ Đảng Nhân dân Lào, Trung
ƣơng Đảng Lao động Việt Nam cử đoàn cán bộ tham gia chuẩn
bị nội dung và công tác tổ chức Hội nghị lần thứ nhất (khoá I)
Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Nhân dân Lào vào ngày 3
tháng 6 năm 1959. Đánh giá tình hình Lào lúc bấy giờ, Hội nghị
nhận định: đế quốc Mỹ và tay sai đã xoá bỏ Hiệp định Giơnevơ
năm 1954 và các hiệp nghị Viêng Chăn, xoá bỏ chính phủ liên
hiệp..., gây nội chiến, làm cho đời sống chính trị nƣớc Lào mất
khả năng phát triển hoà bình.
Hội nghị vạch rõ phƣơng pháp đấu tranh mới: “Trong phạm vi
cả nƣớc, trong giai đoạn mới, từ hình thức đấu tranh công khai hợp
pháp là chủ yếu chuyển sang hình thức đấu tranh vũ trang là chủ
yếu (BBS nhấn mạnh), đồng thời kết hợp vận dụng hình thức đấu
tranh chính trị hợp pháp trong phạm vi nhất định”2.
Cũng đúng ngày 3 tháng 6 năm 1959, tại Hà Nội, Ban Chấp
hành Trung ƣơng Đảng Lao động Việt Nam họp bàn về vấn đề Lào.
Tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên những quan điểm
hƣớng dẫn phƣơng pháp đánh giá tình hình toàn diện và vạch rõ
các khuyết điểm cần sửa chữa nhƣ nóng vội, thấy thắng lợi nhƣng
không nhìn hết khó khăn. Ngƣời cho rằng: ta phải hết sức giúp cách
1
. Ban C«ng t¸c miÒn T©y: Biªn niªn nh÷ng sù kiÖn chÝnh trÞ vÒ Lµo
(1930 - 1975), B¶n ®¸nh m¸y.
2
. Bé Quèc phßng - ViÖn LÞch sö qu©n sù ViÖt Nam: LÞch sö c¸c ®oµn
qu©n t×nh nguyÖn vµ chuyªn gia qu©n sù ViÖt Nam t¹i Lµo (1954 - 1975),
S®d, tr.117.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 786

mạng Lào; giúp xây dựng kinh tế và nhấn mạnh vấn đề sản xuất
lƣơng thực; giúp bạn theo kế hoạch lâu dài. Về phƣơng pháp đấu
tranh chống địch, Ngƣời chỉ dẫn: “Phải dùng du kích (BBS nhấn
mạnh) phong trào sẽ lan rộng”... “Phải trƣờng kỳ gian khổ, phải
chú ý dân vận, địch vận”.
Tiếp sau đó, đầu tháng 7 năm 1959, Bộ Chính trị Đảng Lao
động Việt Nam đề xuất sách lƣợc đấu tranh “cần chuyển từ hình
thức đấu tranh công khai hợp pháp là chủ yếu sang hình thức đấu
tranh vũ trang là chủ yếu, đồng thời kết hợp với hình thức đấu tranh
khác”1.
Sau quá trình nghiên cứu, trao đổi ý kiến, tại cuộc hội đàm
tháng 7 năm 1959, hai Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam và
Đảng Nhân dân Lào quyết định phát động cuộc đấu tranh vũ trang
trong mùa mƣa năm 1959 nhằm:
- Phát lệnh chiến đấu trong toàn quốc, chuyển từ đấu tranh công
khai hợp pháp sang đấu tranh vũ trang, lấy trọng tâm là chiến tranh
du kích, phát động phong trào quần chúng nổi dậy, giành chính
quyền tại thôn xã.
- Phục hồi và củng cố các căn cứ kháng chiến và lực lƣợng du
kích cũ.
- Vận động thanh niên tham gia dân quân, du kích và bộ đội địa
phƣơng và chủ lực2.
Phía Việt Nam, Quân uỷ Trung ƣơng chỉ thị cho Quân khu Tây
Bắc và Quân khu 4 điều động một số đại đội, tiểu đoàn phối hợp
1
. Bé ChÝnh trÞ Trung -¬ng §¶ng Lao ®éng ViÖt Nam: T×nh h×nh míi
vµ nhiÖm vô tr-íc m¾t cña c¸ch m¹ng Lµo, Tµi liÖu l-u t¹i Côc L-u tr÷
Trung -¬ng §¶ng.
2
. Xem Bé Quèc phßng - ViÖn LÞch sö qu©n sù ViÖt Nam: LÞch sö c¸c
®oµn qu©n t×nh nguyÖn vµ chuyªn gia qu©n sù ViÖt Nam t¹i Lµo (1954 -
1975), S®d, tr.118-120.
787 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

với quân đội Lào tiến công một số cứ điểm của địch ở sát biên giới,
vừa vận động quần chúng, vừa khôi phục cơ sở.
Tiếp đó, trung tuần tháng 7 năm 1959, bộ đội Lào mở ba
hƣớng tấn công, hƣớng chính từ đông nam Sầm Nƣa tới đông
nam Xiêng Khoảng với lực lƣợng chiến đấu là Tiểu đoàn 2 do
đồng chí Cayxỏn Phômvihản chỉ huy, có sự hỗ trợ của đồng chí
Lê Chƣởng, Đoàn trƣởng giúp Lào. Hƣớng thứ hai do đồng chí
Khăm Tày Xiphănđon chỉ huy một tiểu đoàn, hoạt động chủ yếu
tại vùng Mƣơng Xon - bắc Sầm Nƣa đến Phôngxalỳ, Luổng
Phạbang đến Xiêng Ngân. Hƣớng thứ ba có nhiệm vụ phối hợp,
do một đại đội đảm nhiệm, tại địa bàn từ bắc đƣờng 8 đến đƣờng
12 Khăm Muộn.
Các đòn tấn công đó là những đòn bất ngờ khiến chúng không
kịp đối phó, sa vào tình trạng hoảng loạn, rã ngũ hoặc gây binh
biến; cổ vũ, hỗ trợ nhân dân trong vùng nổi dậy cùng phối hợp với
bộ đội tấn công giải phóng nhiều huyện, xã tại các tỉnh Hủa Phăn,
Phôngxalỳ, Xiêng Khoảng, Luổng Phạbang, Khăm Muộn.
Những thắng lợi trên là minh chứng về hiệu quả thực tiễn của
phƣơng pháp đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị
chống chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ.
Ba là, tuyến đường chiến lược Trường Sơn, một công trình vĩ
đại của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Năm 1959, lịch sử cuộc kháng chiến của nhân dân Đông
Dƣơng chống đế quốc Mỹ ghi nhận hai sự kiện quan trọng. Đó là
sự ra đời của Nghị quyết lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng Lao động Việt Nam (khoá II) về đƣờng lối đấu tranh giải
phóng miền Nam Việt Nam, chiến trƣờng chính chống Mỹ của ba
nƣớc Việt Nam, Lào, Campuchia, và mở tuyến đƣờng chiến lƣợc
Trƣờng Sơn nối liền hậu phƣơng miền Bắc với các chiến trƣờng
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 788

Việt Nam, Lào và Campuchia.


Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng Lao động Việt Nam xác định nhiệm vụ cơ bản của cách
mạng Việt Nam là giải phóng miền Nam; nhiệm vụ trƣớc mắt là
đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc
Mỹ; phƣơng pháp đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng, kết hợp
đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; dự kiến cũng có thể phát
triển theo xu hƣớng từ khởi nghĩa tiến lên đấu tranh vũ trang
trƣờng kỳ.
Sự chuyển hƣớng từ đấu tranh công khai hợp pháp sang đấu
tranh vũ trang mà lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam và Đảng
Nhân dân Lào đã nhất trí thực hiện tại Lào cũng thể hiện sự đồng
thuận cao về phƣơng pháp đấu tranh chống Mỹ xâm lƣợc Việt Nam
và Lào.
Một yêu cầu cơ bản cần phải giải quyết để thực hiện nhiệm vụ
trên là mở tuyến đƣờng chiến lƣợc xuyên Trƣờng Sơn, chi viện sức
ngƣời, sức của từ hậu phƣơng miền Bắc vào miền Nam và Lào.
Trung ƣơng Đảng Lao động Việt Nam và Trung ƣơng Đảng Nhân
dân Lào đều nhất trí mở con đƣờng đó.
Tuyến đƣờng Trƣờng Sơn xuyên qua triền phía đông và phía
tây dãy Trƣờng Sơn. Công trình này đƣợc tiến hành từ những tháng
cuối năm 1959, đến tháng 1 năm 1964 thì chuyển hẳn sang phía tây
Trƣờng Sơn. Nơi đây cũng là khu căn cứ hậu cần của chiến trƣờng
Nam Việt Nam, Lào và Campuchia.
Ngay từ khi khởi đầu, cũng là lúc kết hợp chặt chẽ giữa đội ngũ
cán bộ, quân đội Việt Nam và Lào nhằm tiến hành xây dựng cơ sở
về chính trị và tổ chức đấu tranh chống chính quyền và quân đội
Vƣơng quốc Lào đàn áp, khủng bố những ngƣời yêu nƣớc và cách
mạng tại tỉnh Xavẳnnakhệt.
789 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Tổ chuyên gia Việt Nam và Tỉnh uỷ Xavẳnnakhệt đã nhất trí


phát động nhân dân nổi dậy đấu tranh với nhiều hình thức nhƣ mít
tinh, biểu tình tuần hành, trừ diệt ác ôn, rải truyền đơn; xúc tiến
khôi phục các tổ chức quần chúng, xây dựng lực lƣợng vũ trang:
dân quân du kích, bộ đội địa phƣơng huyện, tỉnh; vừa tấn công địch
vừa tiến hành địch vận.
Cũng vào lúc này, Tổng cục Hậu cần Quân đội nhân dân Việt
Nam lập nhiều kho vũ khí dọc biên giới Việt Nam để chi viện cho
cách mạng Lào.
Cùng với hoạt động trên, các đồng chí lãnh đạo của Tỉnh uỷ
Xavẳnnakhệt còn lấy danh nghĩa cán bộ chỉ huy Tiểu đoàn 2
Pathết Lào kêu gọi các trƣởng đồn chấp nhận đàm phán với lực
lƣợng vũ trang Pathết Lào. Một điển hình tiêu biểu đạt hiệu quả
của hoạt động này là viên thiếu tá chỉ huy trƣởng đồn Nặm Cha
Lộ, một đồn lớn trong vùng, đã nhận lời tới đàm phán và cam kết
không bắn bừa bãi, không bắt bớ nhân dân; không đƣợc ra khỏi
đồn mƣời cây số... Do áp lực đấu tranh của lực lƣợng vũ trang và
quần chúng, nhiều đồn bốt của đối phƣơng cũng phải chấp nhận
những yêu cầu của cách mạng. ảnh hƣởng của những thắng lợi
đó lan rộng nhanh chóng tới các tỉnh khác vùng tây Trƣờng Sơn.
Để tiếp tục tấn công địch và mở rộng hành lang tuyến đƣờng
tây Trƣờng Sơn, Bộ Chỉ huy tối cao quân đội Lào và Bộ Chỉ huy
Quân khu 4 quyết định mở chiến dịch giải phóng đƣờng 9 - Nam
Lào vào đầu mùa khô năm 1961 do lực lƣợng của Việt Nam và Lào
phối hợp thực hiện, tiến công giải phóng vùng ven đƣờng 9 dài
khoảng 70 km, tạo thế an toàn cho đoạn đƣờng chiến lƣợc này tại
hai phía đông và tây Trƣờng Sơn. Chính quyền và các lực lƣợng vũ
trang nhanh chóng đƣợc thiết lập trong vùng giải phóng. Hoạt động
tiếp tế hàng hoá của Việt Nam bằng máy bay tới sân bay dã chiến
Xê Pôn để cung cấp cho cán bộ, bộ đội hành quân đến các chiến
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 790

trƣờng miền Nam khá nhộn nhịp1.


Những phƣơng pháp đầu tiên mở đƣờng Trƣờng Sơn nhanh
chóng đƣợc nhân rộng và phát triển khi chiến trƣờng miền Nam Việt
Nam, Lào, Campuchia đòi hỏi sự chi viện ngày càng lớn để đánh bại
các chiến lƣợc chiến tranh của đế quốc Mỹ. Địa bàn tuyến đƣờng
này đi qua bị đế quốc Mỹ coi là trọng điểm đánh phá, hòng ngăn
chặn, cắt đứt nguồn chi viện từ hậu phƣơng miền Bắc chuyển vào
chiến trƣờng. Từ mặt đất đến trên không, quân đội Việt Nam và Lào
sát cánh bên nhau chiến đấu bảo vệ tuyến đƣờng, kho tàng vũ khí,
lƣơng thực, thực phẩm và nhiều loại hàng hoá khác, trong đó có
nhiều chiến dịch lớn nhƣ giải phóng và bảo vệ Cánh đồng Chum -
Xiêng Khoảng (trong các năm 1964, 1969, 1970, 1972), đặc biệt là
chiến dịch phản công cuộc hành quân “Lam Sơn 719” năm 1971 của
Mỹ - nguỵ... Dù đối phƣơng tập trung ở đó nhiều lực lƣợng tinh nhuệ
và vũ khí hiện đại, nhƣng cũng phải cam chịu thất bại.
Nhân dân Lào đã phải chịu đựng biết bao hy sinh, mất mát do
kẻ thù xâm lƣợc gây ra. Trong cuộc chiến tranh đó, những tình cảm
thân thƣơng, quý mến của nhân dân Lào dành cho cán bộ, chiến sĩ
Việt Nam không sao kể xiết.
Tuyến đƣờng chiến lƣợc Trƣờng Sơn đƣợc xây dựng, bảo vệ và
khai thác, sử dụng kéo dài trong 16 năm chiến tranh chống đế quốc
xâm lƣợc là sản phẩm của sự đồng thuận sâu sắc, sự hy sinh lớn lao
vì nghĩa tình quốc tế cao cả của hai dân tộc Lào, Việt Nam; là minh
chứng hùng hồn của văn minh, nhân nghĩa chiến thắng xâm lƣợc,
bạo tàn.
Có thể nói, trong suốt 21 năm chống Mỹ, Đảng, Nhà nƣớc,
quân đội và nhân dân Lào luôn hết lòng giúp đỡ, ủng hộ nhân dân

1
. Xem Vâ §¨ng Ng¹n: “X©y dùng tuyÕn hµnh lang t©y Tr­êng S¬n
khu vùc ®-êng 9 - Nam Lµo” trong cuèn Qu©n t×nh nguyÖn ViÖt Nam khu
H¹ Lµo - §«ng B¾c Campuchia, Nxb. TrÎ, tr.162-170.
791 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Việt Nam. Đáp lại, Đảng, Nhà nƣớc, quân đội và nhân dân Việt
Nam cũng dốc hết sức vì sự nghiệp cách mạng Lào. Trên tinh thần
“giúp bạn là mình tự giúp mình”, quân tình nguyện và chuyên gia
quân sự Việt Nam đã có mặt ở hầu hết mọi nơi trên chiến trƣờng
Lào, cùng nhân dân và quân đội Lào đánh địch.
Thắng lợi vĩ đại của hai dân tộc Việt Nam, Lào diễn ra năm
1975 đã kết thúc 30 năm chiến tranh cách mạng, lập hai kỳ tích
chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lƣợc. Thắng lợi đó
đánh dấu sự tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ và sự thất bại của chủ
nghĩa thực dân mới dù thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã gắng hết
sức nhƣng không thể nào cứu vãn nổi.

3. Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam tiếp tục phát
triển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai dân
tộc Việt Nam, Lào (1976 - 2007)
a) Trên lĩnh vực chính trị
Sự kiện mở đầu sự phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam sau khi hai dân tộc kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm, đƣợc đánh dấu bằng Hiệp ước hữu nghị và
hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào, ngày 18 tháng 7 năm 1977, mang tính
chính trị, pháp lý cơ bản, bền vững lâu dài trên nguyên tắc hoàn
toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau.
Từng trải qua những thử thách, biến động của thời cuộc trong
hơn 30 năm, tinh thần và nội dung của Hiệp ƣớc ấy vẫn đƣợc tôn
trọng, thực hiện với nhiều sáng tạo, đáp ứng yêu cầu cách mạng của
mỗi nƣớc và nâng cao thêm giá trị của quan hệ Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam trong những hoàn cảnh và điều kiện mới.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 792

Tinh thần đó chỉ đạo sự hợp tác, liên minh Việt Nam, Lào trong
việc giải quyết nhiều vấn đề, điển hình là việc Việt Nam giúp cách
mạng Campuchia xoá bỏ chế độ diệt chủng của Khơme đỏ và hồi
sinh dân tộc, nhƣng lại bị các thế lực thù địch bóp méo sự thật,
chống đối quyết liệt. Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Chính phủ
Lào hết lòng ủng hộ lập trƣờng đúng đắn và thiện chí của Việt
Nam, góp phần tích cực cùng Việt Nam đấu tranh, thuyết phục tại
nhiều diễn đàn quốc tế và khu vực để giải quyết thoả đáng vấn đề
Campuchia, tạo sự ổn định và hợp tác giữa các nƣớc Đông Nam á
và mở ra thuận lợi cho việc bình thƣờng hoá quan hệ với nhiều
quốc gia khác.
Khi Lào bị đóng cửa biên giới phía tây không bao lâu, lƣơng
thực và một số mặt hàng trở nên khan hiếm, theo yêu cầu của
Chính phủ Lào, Việt Nam đã đƣa lƣơng thực sang giúp kịp thời,
góp phần ổn định tình hình xã hội, hạn chế số ngƣời Lào di cƣ ra
nƣớc ngoài.
Việc ký kết Hiệp ƣớc hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam -
Lào và hoàn thành hoạch định, cắm mốc trên toàn tuyến biên giới
cùng với hoạt động của các tỉnh hai bên đƣờng biên giới trên lĩnh
vực an ninh, quốc phòng, kinh tế, giao lƣu văn hoá đã xây dựng nên
một biên giới hoà bình, hợp tác và phát triển Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu lý luận và chỉ đạo thực tiễn sự
nghiệp xây dựng đất nƣớc quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
và Lào, hai bên thƣờng xuyên hợp tác trao đổi ý kiến về nhiều vấn
đề qua đội ngũ chuyên gia và hội đàm, hội thảo giữa lãnh đạo của
hai Đảng nhƣ: về mô hình chủ nghĩa xã hội; con đƣờng đi lên chủ
nghĩa xã hội... và những chuyên đề cụ thể trên từng lĩnh vực. Kết
quả của những hoạt động đó đƣợc vận dụng thực hiện ở mỗi nƣớc
đã đƣa đến công cuộc đổi mới toàn diện, có nguyên tắc, theo định
793 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

hƣớng xã hội chủ nghĩa, khơi dậy tinh thần lao động sáng tạo của
nhân dân, khai thác đạt hiệu quả tốt nhiều tiềm năng của đất nƣớc
và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Nhờ vậy, thành quả cách
mạng của mỗi nƣớc và quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam đƣợc bảo vệ vững chắc và phát triển trong bối cảnh chủ nghĩa
xã hội trên thế giới lâm vào thoái trào. Hai nƣớc thoát khỏi những
khó khăn gay gắt về kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế, giữ vững an
ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân và nâng cao vị thế quốc tế của đất nƣớc.
b) Về quốc phòng, an ninh
Từ năm 1976 đến những năm đầu thế kỷ XXI, Việt Nam và
Lào bị nhiều thế lực thù địch từ bên ngoài vừa tấn công, xâm phạm
chủ quyền lãnh thổ, vừa sử dụng những phần tử phản động lƣu
vong quay trở về phá hoại an ninh quốc gia. Một lần nữa, nghĩa vụ
bảo vệ Tổ quốc đặt ra cho ngành quốc phòng, an ninh và nhân dân
hai nƣớc Việt Nam, Lào nhiều nhiệm vụ mới, đòi hỏi phải nâng cao
bản lĩnh và năng lực trong thế trận đấu tranh mới, đánh bại mọi âm
mƣu, hành động xâm lƣợc và phá hoại của kẻ thù. Hiện thực lịch sử
đấu tranh trong mấy chục năm qua sau khi kết thúc cuộc kháng
chiến của hai dân tộc chống đế quốc xâm lƣợc cho thấy, lực lƣợng
vũ trang và nhân dân Lào đã đứng vững ở vị trí tiền tiêu đánh bại
các cuộc xâm nhập vũ trang qua lãnh thổ Lào để vào Việt Nam.
Theo tinh thần các văn bản đã ký kết giữa hai chính phủ, lực
lƣợng vũ trang và lực lƣợng an ninh Lào, Việt Nam phối hợp chặt
chẽ thực hiện các nhiệm vụ đƣợc giao trên mặt trận chống ngoại
xâm, chống phỉ, dẹp bạo loạn, trừ diệt bọn phản động vƣợt qua lãnh
thổ Lào xâm nhập lãnh thổ Việt Nam...
Sự phối hợp hoạt động của hai bên trong chiến đấu đã đƣa lại
nhiều chiến công lớn. Chiến dịch truy quét, phá tan trung tâm phỉ
tại Phu Bia (năm 1977 - 1978) và trận tiêu diệt nhóm phản động Võ
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 794

Đại Tôn và Hoàng Cơ Minh (năm 1987) khi chúng đang xuyên qua
đất Lào để vào Việt Nam là những chiến công tiêu biểu của sự hợp
tác Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào trên lĩnh vực quốc phòng, an
ninh, góp phần quyết định triệt phá các mƣu đồ và thủ đoạn của kẻ
thù chống phá chủ quyền quốc gia và an ninh của hai nƣớc Lào,
Việt Nam, làm thất bại các thủ đoạn của chúng, góp phần quan
trọng vào việc bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở mỗi
nƣớc.
Thời kỳ này, ngoài việc phối hợp giúp nhau chống phá các thế
lực thù địch, các cơ quan quốc phòng và an ninh của hai nƣớc còn
phối hợp chặt chẽ trong đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ; giúp đỡ nhau về
hậu cần - kỹ thuật; giúp nhau biên soạn giáo trình, giáo án trên lĩnh
vực quốc phòng, an ninh; đặc biệt là việc tìm kiếm các hài cốt liệt
sĩ quân tình nguyện Việt Nam hy sinh trên đất Lào.
Tầm quan trọng của mối quan hệ trên lĩnh vực quốc phòng, an
ninh còn đƣợc thể hiện qua các cuộc gặp gỡ đoàn cấp cao giữa Bộ
Quốc phòng, Bộ Công an hai nƣớc. Trong tất cả các chuyến thăm
viếng lẫn nhau, hai nƣớc đều thể hiện nhất quán quan điểm tiếp tục
hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh. Đặc biệt, trong các
chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nƣớc, vấn đề
hợp tác quốc phòng, an ninh giữa hai nƣớc cũng luôn đƣợc đề cập,
coi hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh là một trong những
điểm mấu chốt của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam.
c) Hợp tác phát triển kinh tế, giáo dục, đào tạo cán bộ
Lãnh đạo hai nƣớc Việt Nam, Lào đều nhất trí coi trọng sự hợp
tác kinh tế, văn hoá và đào tạo cán bộ.
Trên lĩnh vực kinh tế, hai bên cũng chấp hành nguyên tắc hợp
tác là bình đẳng, tôn trọng chủ quyền quốc gia, cùng có lợi và hết
lòng giúp đỡ nhau; mặt khác, còn căn cứ vào tình hình cụ thể của
795 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

mỗi nƣớc mà dành ƣu tiên, ƣu đãi cho nhau.


Phƣơng thức hợp tác ngày càng đƣợc mở rộng và nâng cao về
quy mô, chất lƣợng và hiệu quả. Có thể thấy điều đó qua các cuộc
hội đàm và gặp gỡ giữa lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nƣớc về
những quan điểm kinh tế xoay quanh các chủ đề: thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, Lào và các vấn đề nhƣ cơ cấu
kinh tế, cơ cấu đầu tƣ và các thành phần kinh tế; cơ chế quản lý
kinh tế; kinh tế thị trƣờng; những kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện tại
hai nƣớc. Trên thực tế, sự hợp tác của hai nước diễn ra từ trung
ương đến tỉnh, thành phố và các doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ... trên các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng,
công thương, nông nghiệp...
Nội dung hợp tác kinh tế đƣợc chuyển dần theo cấp độ từ thấp
lên cao: ban đầu là viện trợ, cho vay, tiến đến hợp tác sản xuất;
kinh doanh phù hợp công thức: tài nguyên Lào, lao động kỹ thuật
Việt Nam, vốn hợp tác hoặc vay của nƣớc thứ ba. Tiếp đó, từ năm
1996 trở đi, một công thức hợp tác mới đƣợc áp dụng, đó là hợp tác
hai bên cùng có lợi theo thông lệ quốc tế, ƣu tiên, ƣu đãi cho nhau.
Điều đặc sắc nổi bật trong quan hệ hợp tác kinh tế Lào - Việt
Nam là tinh thần giúp đỡ nhau mỗi khi nƣớc bạn gặp khó khăn
mà không thể tự giải quyết đƣợc. Hành động Việt Nam giúp Lào
chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 1999 là một mẫu
hình tiêu biểu.
Năm 1999, tình hình kinh tế Lào rất khó khăn do tỷ lệ lạm phát
cao, tốc độ tăng trƣởng kinh tế giảm sút, đầu tƣ kém hiệu quả, nhập
siêu cao, đời sống của nhân dân, nhất là công nhân, viên chức giảm
đến 50 - 60%. Trƣớc tình hình đó, theo đề nghị của lãnh đạo Đảng
Nhân dân cách mạng Lào và Nhà nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Lào, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ nƣớc Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam cử một đoàn chuyên gia cấp cao sang
giúp Lào với quyết tâm giúp bạn ngăn chặn đƣợc lạm phát và ổn
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 796

định kinh tế vĩ mô của Lào trong thời gian sớm nhất.


Trong thời gian làm việc, Đoàn chuyên gia Việt Nam phối hợp
chặt chẽ với các chuyên gia Lào để có thể biến đề án của Đoàn
chuyên gia Việt Nam thành đề án của Lào và đƣa vào thực tiễn
chống lạm phát, ổn định tình hình kinh tế vĩ mô của Lào. Kết quả
hoạt động của Đoàn chuyên gia Việt Nam kết hợp với sự nỗ lực
cộng tác của các chuyên gia Lào đã cải thiện đƣợc tình hình kinh tế
- xã hội Lào, lạm phát đƣợc ngăn chặn. Từ sau năm 1999, nền kinh
tế Lào đã phát triển theo chiều hƣớng tích cực, tốc độ tăng trƣởng
cao, giá cả và tỷ giá hối đoái đƣợc kiểm soát và ổn định, giá trị
đồng Kíp đƣợc bảo đảm, đời sống nhân dân đƣợc cải thiện ngày
càng tốt hơn.
Lời đánh giá của đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ƣơng
Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Thủ tƣớng Chính phủ nƣớc Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Lào Xỉxávạt Kẹo Bunphăn trong thƣ gửi
Thủ tƣớng Phan Văn Khải, ngày 16 tháng 11 năm 1999, thể hiện rõ
tinh thần làm việc của Đoàn chuyên gia Việt Nam và sự hợp tác
giữa chuyên gia Việt Nam với chuyên gia Lào trong nhiệm vụ
chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô Lào:
“Đoàn chuyên gia đã làm việc với trách nhiệm cao, thật sự
quan tâm đến tình hình đang khó khăn của kinh tế Lào và hợp tác
chặt chẽ với chúng tôi trong việc nghiên cứu và giải quyết các vấn
đề có liên quan, đã đạt được những kết quả ban đầu đáng khích lệ.
Qua công tác với nhau, Đoàn chuyên gia đã cùng với chúng tôi
nghiên cứu sâu thêm trong việc tìm ra nguyên nhân lạm phát, cũng
như trong việc đề ra các biện pháp giải quyết vấn đề lạm phát
trong thời gian trước mắt và lâu dài tại Lào. Đoàn chuyên gia đã
giúp chúng tôi củng cố việc quản lý kinh tế vĩ mô, giúp các ngành
hữu quan tu sửa, chỉnh lý và đề ra các chế độ, quy chế cần thiết.
Đến nay, kinh tế Lào rõ ràng có phần tốt lên, nhất là tỷ giá hối
797 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

đoái có sự ổn định, tỷ số lạm phát giảm, sự linh hoạt trong hoạt


động kinh doanh của hệ thống ngân hàng được củng cố, kinh tế vĩ
mô bước đầu có sự ổn định.
Kết quả đạt được đó có sự đóng góp của Đoàn chuyên gia kinh
tế cao cấp của Việt Nam. Thay mặt Chính phủ nước Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Lào, tôi xin biểu dương tất cả các đồng chí trong
Đoàn và xin đánh giá cao sự đóng góp của Đoàn chuyên gia trong
việc cùng chúng tôi giải quyết lạm phát tại Lào đợt này.
Chúng tôi thấy rằng, kết quả trên đây còn có sự thể hiện mối
tình trong sáng, thuỷ chung của tình đoàn kết đặc biệt Lào - Việt,
thể hiện sự quan tâm tận tình, tinh thần quốc tế cao cả của Đảng,
Chính phủ và nhân dân Việt Nam anh em một mực thuỷ chung lúc
nào cũng sẵn sàng hợp tác, tương trợ, giúp đỡ sự nghiệp cách
mạng Lào chúng tôi”1.
Sự hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trên lĩnh vực giáo
dục, đào tạo cán bộ đƣợc đặt ở tầm chiến lược, tác động trực tiếp
tới sự phát triển của quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc, đƣợc mở đầu
từ thập niên 1950.
Ngay từ năm 1955, Lào đã gửi sang Việt Nam 150 học sinh
phổ thông cấp I, cấp II để đào tạo trở thành lực lƣợng cán bộ mà
cách mạng Lào đang đòi hỏi phải đáp ứng. Từ đó, cũng bắt đầu xây
dựng hệ thống trƣờng đào tạo cán bộ Lào tại Việt Nam với nhiều cấp
học, nhiều chuyên ngành và số lƣợng ngƣời học ngày càng tăng.
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc, có tới hàng
vạn lƣu học sinh Lào đƣợc đào tạo và sinh sống trong sự chăm sóc
rất tận tình của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân Việt Nam2.

1
. Tµi liÖu do PGS. TS. Lª Quèc Lý, Phã Gi¸m ®èc Häc viÖn ChÝnh trÞ -
Hµnh chÝnh quèc gia Hå ChÝ Minh cung cÊp.
2
. Em Balia, 17 tuæi, quª ë Xiªng Kho¶ng, häc sinh líp 6, tr-êng T1
VÜnh Phóc, ngµy 7 th¸ng 6 n¨m 1976, khi tõ gi· tr-êng vÒ n-íc, ®· nãi
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 798

Sự hợp tác giữa hai dân tộc trong công tác giáo dục còn diễn ra
dƣới hình thức Việt Nam gửi chuyên gia giáo dục sang giúp Lào
xây dựng nền giáo dục mới theo yêu cầu của Đảng và Nhà nƣớc
Lào. Từ năm 1961, vùng giải phóng Lào mở rộng đến mức 2/3 rồi
3/4 lãnh thổ quốc gia. Cũng từ đó, những vấn đề cơ bản của nền
giáo dục cách mạng Lào đƣợc đặt ra, và năm 1962 Việt Nam gửi
sang Lào gần 400 chuyên gia để hợp tác với bạn.
Quan hệ hợp tác giáo dục, đào tạo cán bộ Việt Nam - Lào, Lào
- Việt Nam sau năm 1975 phát triển theo hƣớng đào tạo cán bộ đạt
trình độ đại học, trên đại học. Theo đó, hàng năm có hơn 1.000 cán
bộ, sinh viên Lào đƣợc bồi dƣỡng, học tập tại nhiều học viện,
trƣờng đại học Việt Nam. Về phía Việt Nam, hàng năm có từ 15 -
20 lƣu học sinh sang học tại Đại học Quốc gia Lào.
Bên cạnh đó, hình thức hợp tác Việt Nam - Lào thực hiện
nhiệm vụ đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giữ một vị trí
đặc biệt quan trọng. Từ năm 1963, hệ thống trƣờng Đảng Việt Nam
đƣợc giao trọng trách này1. Đến sau năm 1990, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị - Hành chính

nh÷ng lêi sau ®©y: “Tuy ph¶i sèng xa cha mÑ, quª h­¬ng nh­ng em ®·
®-îc ng-êi cha, ng-êi mÑ thø hai ch¨m sãc vµ d¹y dç. Trë vÒ Tæ quèc,
chóng em lu«n nhí n¬i ®©y, n¬i ®· ch¾p c¸nh cho chóng em. N¬i ®©y
chóng em tõ nh÷ng ®øa trÎ ®Õn viÖc ¨n ngñ cßn lóng tóng... nay ®· kh«n
lín c¶ vÒ thÓ lùc lÉn t©m hån, trÝ tuÖ. N¬i ®©y em ®· tõng sèng trong t×nh
th-¬ng bao la... Mai ®©y chóng em trë thµnh nh÷ng c¸n bé tèt cña ®Êt
n­íc Lµo anh hïng th× nh©n d©n Lµo sÏ nãi r»ng: “§ã lµ c«ng ¬n cña
nh©n d©n ViÖt Nam””.
(Xem B¶o tµng Hå ChÝ Minh: T×nh h÷u nghÞ ®oµn kÕt ®Æc biÖt ViÖt
Nam - Lµo, truyÒn thèng vµ triÓn väng, Nxb. ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi,
2005, tr.244).
1
. Tõ n¨m 1977 ®Õn 1989, lµ Tr-êng NguyÔn ¸i Quèc 10, Tr-êng
NguyÔn ¸i Quèc ®Æc biÖt, vµ tõ n¨m 1990 trë ®i Häc viÖn ChÝnh trÞ -
Hµnh chÝnh quèc gia Hå ChÝ Minh thùc hiÖn nhiÖm vô ®µo t¹o ®éi ngò
c¸n bé nµy.
799 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

quốc gia Hồ Chí Minh - BT) theo yêu cầu của Đảng và Nhà nƣớc
Lào nâng cấp độ đào tạo lên bậc thạc sĩ, tiến sĩ và mở thêm nhiều
chuyên ngành đào tạo cử nhân chính trị, bồi dƣỡng nghiệp vụ cho
các chuyên ngành công tác đảng.
Ngoài hình thức đào tạo cán bộ nhƣ đã trình bày trên, trong
những năm sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm, đội ngũ chuyên gia Việt Nam hoạt động tại Lào trên các
lĩnh vực cũng là những ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn, giúp đỡ nhiều
cán bộ Lào nắm bắt kiến thức và phƣơng pháp công tác trong các
lĩnh vực hoạt động của họ, góp phần khắc phục ở mức độ nhất định
tình trạng thiếu cán bộ lúc bấy giờ.
Cần nhấn mạnh rằng, đội ngũ chuyên gia Việt Nam trong nhiều
giai đoạn, ở nhiều lĩnh vực đã trở thành những ngƣời bạn tin cậy
của các cấp lãnh đạo Lào tại trung ƣơng cũng nhƣ địa phƣơng và
các ngành, trở thành bộ phận nòng cốt trong quá trình xây dựng,
củng cố mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào.
d) Hợp tác trong lĩnh vực ngoại giao
Căn cứ vào sự phát triển của ngoại giao Việt Nam - Lào trong
tình hình mới sau khi hai dân tộc hoàn toàn độc lập, thống nhất, có
thể phân định quan hệ hợp tác trong hoạt động ngoại giao Việt
Nam - Lào thành hai giai đoạn: 1976 - 1991 và 1992 - 2007.
Giai đoạn 1976 - 1991, năm 1975 đánh dấu kết thúc toàn thắng
cuộc kháng chiến kéo dài 30 năm của hai dân tộc Việt Nam, Lào
chống thực dân, đế quốc xâm lƣợc, mở ra thời kỳ hàn gắn vết
thƣơng chiến tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, hai
nƣớc cũng biểu thị mong muốn góp phần xây dựng Đông Nam á
trở thành khu vực hoà bình, tự do và trung lập.
Đặt cơ sở pháp lý cho sự phát triển thuận lợi, vững chắc của
quan hệ Việt Nam - Lào khi ở mỗi nƣớc đã thiết lập hoàn chỉnh
một nhà nƣớc độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ do nhân dân
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 800

làm chủ dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, ngày 18 tháng 7 năm
1977, hai Nhà nƣớc Việt Nam và Lào ký Hiệp ước hữu nghị và hợp
tác. Cùng ngày, Hiệp ước về hoạch định biên giới cũng đƣợc ký kết
nhƣ trên đã viết.
Trong khi quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đang diễn
ra suôn sẻ thì tập đoàn Pôn Pốt cầm quyền tại Campuchia lại thi
hành chính sách cực kỳ phản động, tàn bạo: diệt chủng đồng bào
của mình và đƣa quân sang xâm lƣợc Việt Nam, phá vỡ quan hệ
đoàn kết của nhân dân ba nƣớc Việt Nam - Lào - Campuchia.
Cuối tháng 12 năm 1978, Bộ Chỉ huy quân đội cách mạng
Campuchia phát động phong trào nổi dậy của quần chúng và kêu
gọi quân tình nguyện Việt Nam giúp nhân dân Campuchia lật đổ
chính quyền diệt chủng của bè lũ Pôn Pốt - Iêngxari. Đáp lại
nguyện vọng chính đáng đó, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp
với nhân dân Campuchia nổi dậy đánh đổ chế độ diệt chủng và
giúp cách mạng Campuchia hồi sinh dân tộc.
Viện cớ Việt Nam đƣa quân vào Campuchia, phƣơng Tây và một
số quốc gia khác thi hành chính sách bao vây, cấm vận Việt Nam. Đây
là thời điểm quan hệ đoàn kết Việt Nam - Lào - Campuchia đƣợc khôi
phục và cơ quan ngoại giao ba nƣớc thiết lập đƣợc cơ chế phối hợp
hoạt động hợp lý với nhiều sáng kiến đấu tranh đạt hiệu quả cao trong
việc giải quyết xong vấn đề Campuchia, tháng 10 năm 1991. Kết quả
đó có phần đóng góp xứng đáng của sự phối hợp đấu tranh ngoại giao
của ba nƣớc Đông Dƣơng.
Bƣớc đột phá vấn đề Campuchia kéo theo sự tháo gỡ bao vây,
cấm vận, tạo điều kiện cho ba nƣớc Đông Dƣơng cải thiện quan hệ
với ASEAN và nhiều quốc gia khác.
Giai đoạn 1992 - 2007, thế giới có nhiều biến động lớn. Chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nƣớc Đông Âu tan rã, Chiến
tranh lạnh kết thúc, xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển chiếm vị
801 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

trí ƣu thế. Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển rất mạnh
mẽ, thúc đẩy sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, toàn cầu hoá trên
nhiều lĩnh vực trở thành xu thế tất yếu khách quan. Mặt khác, tình
hình thế giới vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp, khó lƣờng nhƣ xung
đột lợi ích, ảnh hƣởng của nhiều quốc gia dân tộc, chiến tranh cục
bộ, khủng bố quốc tế,... Khu vực Đông Nam á, châu á - Thái Bình
Dƣơng là nơi ổn định và phát triển nhanh về kinh tế, song vẫn tồn
tại những vụ tranh chấp lãnh thổ, nhất là biển đảo, khủng hoảng tài
chính...
Trƣớc tình hình đó, Việt Nam, Lào vẫn rất coi trọng, bảo vệ và
phát triển quan hệ đặc biệt giữa hai nƣớc; đồng thời đổi mới quan
hệ ngoại giao: giữ vững đƣờng lối độc lập, tự chủ, đa phƣơng hoá,
đa dạng hoá, tích cực hội nhập quốc tế và khu vực.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam tiếp tục phát
triển sâu rộng, đƣợc thể hiện ở những cuộc thăm viếng, thông báo
cho nhau tình hình nƣớc mình, trao đổi ý kiến giữa các đồng chí
lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nƣớc về những vấn đề mà hai bên
cùng quan tâm, trong đó có nhiều nội dung thuộc lĩnh vực ngoại
giao, góp phần định hƣớng cho ngành ngoại giao hai nƣớc triển
khai các hoạt động của mình. Hai bên phối hợp với nhau và trao đổi
thông tin, kinh nghiệm về hoạt động quốc tế và khu vực. Cũng
trong giai đoạn này, hai Bộ Ngoại giao đã tiến hành ký kết các
hiệp định hợp tác dài hạn, tổ chức giao lƣu và ký thoả thuận phối
hợp hoạt động giữa hai bên; hỗ trợ nhau tổ chức các hội nghị cấp
cao ASEAN tại Viêng Chăn.
Về đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ ngoại giao, Việt Nam và Lào đã
tiến hành từ nhiều năm trƣớc đổi mới tại hai nƣớc. Đến thời kỳ đổi
mới, công tác này càng đƣợc mở rộng và nâng cao ở trình độ đại
học và trên đại học.
Các hoạt động nói trên đều đạt hiệu quả tốt, tác động tích cực
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 802

đối với sự phát triển của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam.

4. Đặc điểm của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam
a) Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam phát triển từ
quan hệ truyền thống lên quan hệ đặc biệt
Việt Nam và Lào là hai nƣớc láng giềng. Trong lịch sử chế độ
phong kiến, điểm nổi bật về quan hệ giữa hai dân tộc và mối bang
giao giữa các triều đại là thân thiện, hữu hảo; không có sự áp bức
và nô dịch nhau, không có hiềm khích dân tộc, mặt khác, lại đã
từng giúp đỡ nhau trong nhiều cuộc đấu tranh chống xâm lƣợc.
Nhân dân cƣ trú tại hai bên biên giới Việt Nam, Lào thƣờng qua lại
trao đổi sản vật hàng hoá và giao lƣu, thăm viếng, do họ là những
ngƣời cùng dòng họ.
Từ nửa sau thế kỷ XIX, hai nƣớc đều bị thực dân Pháp xâm
lƣợc và đặt dƣới sự thống trị của chế độ thuộc địa. Chúng thi hành
chính sách bóc lột rất nặng nề bằng thuế khoá, kể cả thuế thân thời
phong kiến mà cách mạng Pháp đã xoá bỏ, nhƣng chúng vẫn áp
dụng tại Đông Dƣơng1.
Thực dân Pháp còn ra sức vơ vét tài nguyên khoáng sản, nông
sản, lâm sản; độc chiếm thị trƣờng mua bán hàng hoá, cƣớp đoạt
ruộng đất của nông dân, chiếm đoạt nguồn nhân công rẻ mạt. Đồng
thời, chúng chèn ép sự phát triển kinh tế của các dân tộc tại Đông
Dƣơng. Bên cạnh đó, chúng thi hành chính sách đầu độc ngƣời Đông
Dƣơng bằng rƣợu cồn, thuốc phiện đi liền với thủ đoạn làm ngu dân
và đàn áp khốc liệt những ngƣời yêu nƣớc đấu tranh chống chế độ
1
. Riªng ë ViÖt Nam, thêi nhµ NguyÔn, tr-íc khi bÞ Ph¸p chiÕm, sè
tiÒn thuÕ mçi n¨m kho¶ng 30 triÖu ph¬r¨ng, ®Õn thêi Toµn quyÒn §ume
(nh÷ng n¨m cuèi thÕ kû XIX vµ ®Çu thÕ kû XX) ®· t¨ng lªn 90 triÖu
ph¬r¨ng. Xem ViÖn Khoa häc x· héi ViÖt Nam: LÞch sö ViÖt Nam, 1858 -
1945, Nxb. Khoa häc x· héi, Hµ Néi, 2004, t.II, tr.129.
803 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

thuộc địa hà khắc, khiến “nhà tù nhiều hơn trƣờng học”.


Nhân dân hai nƣớc Việt Nam, Lào vốn có truyền thống yêu
nƣớc, kiên cƣờng chống ngoại xâm, căm ghét chế độ thuộc địa
đã liên tục nổi dậy và ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau để cùng chống kẻ
thù chung.
Từ khi phong trào Cần Vƣơng bùng nổ dƣới ngọn cờ yêu nƣớc
của Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết (tháng 7 năm 1885) đến
những năm 20 thế kỷ XX, diễn ra nhiều cuộc khởi nghĩa và các hoạt
động đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Nhiều phong trào trong số đó
nhận đƣợc sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân Lào tại vùng sát biên giới
Lào - Việt chạy dài từ Hạ Lào, Trung Lào lên Thƣợng Lào. Đặc biệt,
trong những năm đầu thế kỷ XX, cuộc khởi nghĩa của ngƣời Lào do
ông Kẹo và ông Cômmađăm lãnh đạo (kéo dài từ năm 1901 đến
1937) đã phối hợp với nghĩa quân dân tộc Xơđăng ở Tây Nguyên
(Việt Nam) do tù trƣởng Irê lãnh đạo cùng tấn công phá vỡ đồn canh
Công cơ tu của thực dân Pháp (ngày 27 tháng 5 năm 1901).
Các phong trào đó bị chính quyền thực dân đàn áp, dập tắt.
Song mối quan hệ giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào trong
những năm đầu chống sự xâm lƣợc và ách áp bức, bóc lột của thực
dân Pháp cũng cho thấy nhận thức của hai dân tộc về xây dựng
khối đoàn kết đấu tranh đã trở thành một nhu cầu khách quan cấp
bách. Việc xác định con đƣờng cứu nƣớc đúng đắn và mối quan hệ
đoàn kết giữa các dân tộc trên bán đảo Đông Dƣơng vẫn là những
nhiệm vụ đặt ra cho các nhà lãnh đạo phong trào yêu nƣớc và cách
mạng tại xứ này.
Chính Nguyễn ái Quốc, với lòng yêu nƣớc nồng nàn và nghị lực
phi thƣờng vƣợt lên mọi khó khăn, gian khổ, đã tự mình khám phá
thế giới tƣ bản chủ nghĩa và các dân tộc thuộc địa, nhằm phát hiện
chân lý cứu nƣớc. Bằng cách đó, Ngƣời tiếp nhận và vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Đông Dƣơng để xác định
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 804

con đƣờng giải phóng các dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia theo
quỹ đạo cách mạng vô sản. Ngƣời chỉ đạo Hội nghị thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930, đến tháng 10 cùng năm đổi
tên thành Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, lãnh đạo cách mạng Đông
Dƣơng. Những sự kiện trên đƣa quan hệ đoàn kết Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam từ truyền thống lên quan hệ đặc biệt.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam gắn kết bền
chặt, thuỷ chung, trong sáng hai dân tộc Việt Nam, Lào, trải qua
nhiều thử thách khắc nghiệt, đầy hy sinh gian khổ vì độc lập, tự do,
hạnh phúc của hai dân tộc và nhân dân hai nƣớc, đã trở thành quy
luật sống còn và sức mạnh kỳ diệu đƣa tới nhiều thắng lợi vĩ đại
của Việt Nam và Lào trong đấu tranh giành chính quyền, kháng
chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lƣợc và tiến hành
thành công sự nghiệp đổi mới đƣa hai nƣớc cùng phát triển theo
định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
b) Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng và chính Người cùng đồng
chí Cayxỏn Phômvihản, đồng chí Xuphanuvông và các thế hệ lãnh
đạo hai Đảng, hai Nhà nước dày công vun đắp; đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân cách mạng
Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam
Vào nửa sau những năm 20 thế kỷ XX, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc
phát hiện tính tất yếu và phƣơng pháp hữu hiệu để nhân dân Đông
Dƣơng lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, giành độc
lập, tự do nhƣ trên đã viết. Trên các chặng đƣờng phát triển của
cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc
tiếp tục đƣa ra những quyết định quan trọng nhằm thắt chặt quan hệ
đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam và dẫn đƣờng
cho khởi nghĩa tháng Tám 1945, kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lƣợc thu đƣợc thắng lợi.
805 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Những quan điểm và chủ trƣơng của Ngƣời đƣợc lãnh đạo và
nhân dân Việt Nam, Lào lĩnh hội, thực hiện nhƣ: giúp bạn là mình
tự giúp mình; đem sức ta mà tự giải phóng cho ta; Việt, Lào đoàn
kết, trƣờng kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh; thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nƣớc, nhất định không chịu làm nô
lệ; không có gì quý hơn độc lập tự do... đã là ánh sáng và nguồn
cổ vũ nhân dân Việt Nam, Lào chiến đấu và chiến thắng. Trong
thời kỳ đổi mới, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên những giá
trị cao quý, chỉ đƣờng cho hai Đảng và hai dân tộc Việt Nam, Lào
tiến bƣớc.
Trong tƣ tƣởng, tình cảm của mình, lãnh tụ Hồ Chí Minh coi
nhân dân Lào cũng nhƣ đồng bào của mình. Tại Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ƣơng Đảng Lao động Việt Nam, tháng 6 năm 1959,
Ngƣời nói: Đồng bào (tức nhân dân Lào - BBS) đói, ta phải giải
quyết sớm hơn. Phải săn sóc chu đáo... Trƣớc mắt chú ý gạo, muối.
Lãnh tụ Hồ Chí Minh rất chú trọng những vấn đề cơ bản của cách
mạng Lào nhƣ: công tác xây dựng đảng về tƣ tƣởng, tổ chức và cán
bộ. Ngƣời vừa góp ý kiến, vừa trực tiếp chỉ đạo nhiều hoạt động
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào
để cùng thực hiện... Đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã từng trân
trọng viết về công lao của Ngƣời đối với cách mạng Lào: “Tƣ
tƣởng và tình cảm của Bác là ngọn đuốc soi đƣờng, là nguồn cổ vũ
sức mạnh đoàn kết đấu tranh của nhân dân các bộ tộc Lào chúng
tôi. Từ ngày cách mạng Lào còn trứng nƣớc cho đến lúc đã trƣởng
thành, Bác Hồ luôn quan tâm dẫn đƣờng chỉ lối”1.
Tiếp thụ ý kiến chỉ đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ƣơng
Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, đội ngũ cán bộ Đảng, Mặt trận, Chính

1
. Bµi ph¸t biÓu cña ®ång chÝ Cayxán Ph«mvih¶n, b¸o Nh©n d©n
ngµy 19 th¸ng 5 n¨m 1990, tr.1, 3.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 806

phủ kháng chiến của Lào và Việt Nam luôn luôn sát cánh bên nhau
trao đổi ý kiến, xác lập chủ trƣơng, biện pháp tiến hành các nhiệm vụ
chung của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Phƣơng pháp
hoạt động đó ngày càng đƣợc phát huy, cải tiến và phát triển, nhất là
khi thực hiện những nhiệm vụ lịch sử quan trọng nhƣ: khởi nghĩa
tháng 8 năm 1945; xây dựng khu kháng chiến trong kháng chiến
chống Pháp; xây dựng căn cứ địa trung ƣơng của cách mạng Lào
trong giai đoạn chống Mỹ; những chiến dịch lớn diễn ra trên đất Lào
có tác động tích cực trực tiếp tới chiến trƣờng Việt Nam; Hội nghị
thành lập Mặt trận Lào ítxalạ và Chính phủ kháng chiến Lào ítxalạ...
Khi Đảng Cộng sản Đông Dƣơng phát triển thành ba đảng từ sau Đại
hội lần thứ II của Đảng (1951), Trung ƣơng Đảng Nhân dân cách
mạng Lào và Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục thắt chặt
và mở rộng quan hệ đặc biệt trong quá trình lãnh đạo hai dân tộc tiến
hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc lâu dài (21
năm), ác liệt. Mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đƣợc thể
hiện ở các lĩnh vực thống nhất chủ trƣơng chiến lƣợc, sách lƣợc đấu
tranh trên các mặt trận quân sự, chính trị, binh vận, ngoại giao, xây
dựng lực lƣợng kháng chiến; giúp đỡ lẫn nhau trong tác chiến, giao
thông vận tải, trong kinh tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo cán bộ...
Thời kỳ hai nƣớc Việt Nam, Lào sau khi hoàn thành thắng lợi
sự nghiệp chống ngoại xâm, những bản chất tốt đẹp của quan hệ
đặc biệt lại đƣợc mở rộng và phát triển lên tầm cao mới, bên cạnh
lĩnh vực quốc phòng, an ninh, các lĩnh vực khác nhƣ kinh tế, tài
chính, đào tạo cán bộ, nhân lực, hợp tác ngoại giao theo hƣớng đa
phƣơng hoá, đa dạng hoá, hội nhập khu vực và quốc tế, hợp tác
nghiên cứu khoa học và lý luận chính trị... càng phát triển.
c) Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là sự
nghiệp của nhân dân Việt Nam, Lào
Hoạt động lý luận và tổ chức thực tiễn của lãnh tụ Nguyễn ái
807 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Quốc từ những năm 20 thế kỷ XX đã mở đƣờng tiến tới hình thành


quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, lấy nền tảng là
sức mạnh đoàn kết to lớn của nhân dân hai nƣớc đƣợc khơi dậy nhƣ
Ngƣời đã chỉ dẫn trong tác phẩm “Đường cách mệnh”: “Dân khí
mạnh, thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”1.
ý nghĩa và giá trị quý báu của luận điểm ấy đã đƣợc đồng chí
Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thƣ Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
Nhân dân cách mạng Lào khẳng định trong Điếu văn truy điệu Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Dù ở đâu và lúc nào Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
luôn luôn nhắc nhở những ngƣời cách mạng là muốn làm cách mạng
thắng lợi thì phải đoàn kết trong nội bộ Đảng, phải đoàn kết toàn
dân. Đồng chí đã nói là ba dân tộc Việt Nam, Khơme, Lào phải đoàn
kết để cùng nhau đấu tranh, đồng thời phải đoàn kết rộng rãi với các
dân tộc bị áp bức trên thế giới, kết hợp chặt chẽ tinh thần yêu nƣớc
chân chính với tinh thần quốc tế vô sản, đó là sức mạnh hùng hậu để
đấu tranh với địch, đƣa thắng lợi lại cho cách mạng. Đây là lời giáo
huấn rất quý báu mà những ngƣời cộng sản chúng ta phải ghi nhớ và
thực hiện thật đúng đắn”2.
Những mục tiêu phấn đấu của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam bao quát những nguyện vọng tha thiết của nhân
dân Việt Nam và Lào. Đó là đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng chống kẻ
thù đế quốc xâm lƣợc và tay sai của chúng, giành độc lập, tự do cho
dân tộc và nhân dân hai nƣớc, xây dựng quan hệ bình đẳng, tự chủ,
hữu nghị, hợp tác giữa hai quốc gia.
Nhân dân hai nƣớc cũng hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa Mác -
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh soi đƣờng, chỉ có Đảng Cộng sản

1
. Hå ChÝ Minh: Toµn tËp, S®d, t.5, tr.274.
2
. Cayxán Ph«mvih¶n: “§iÕu v¨n truy ®iÖu Chñ tÞch Hå ChÝ Minh”,
xem TËp san XÎng v¸ vµng (¸nh s¸ng), sè 19 (sè ®Æc biÖt), th¸ng 9 n¨m
1969 cña MÆt trËn Lµo yªu n-íc.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 808

chân chính với đƣờng lối cách mạng và phƣơng pháp đoàn kết chân
thành, tôn trọng quyền độc lập, tự chủ của mỗi quốc gia, dân tộc
mới có thể thực hiện những nguyện vọng đó.
Xuất phát từ nhận thức chính trị và niềm tin ấy mà nhân dân hai
nƣớc đã không quản gian khổ, hy sinh, đóng góp sức ngƣời, sức
của để thực hiện những mục tiêu của quan hệ Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam. Trong gần một thế kỷ qua, họ chung sức, chung
lòng, vừa xây dựng lực lượng, vừa anh dũng, sáng tạo, giữ vững
mục tiêu cách mạng, đương đầu với nhiều kẻ thù hùng mạnh và
giành thắng lợi hoàn toàn, mà không tính thiệt hơn, chỉ dành cho
nhau sự quý mến, trân trọng và biết ơn sâu nặng.
Truyền thống tốt đẹp đó tiếp tục đƣợc phát huy trên trận tuyến bảo
vệ và xây dựng Tổ quốc trên con đƣờng đổi mới của hai nƣớc.
d) Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam mang
tính xuyên suốt, toàn diện và bền vững
Dân tộc độc lập, nhân dân đƣợc hƣởng quyền tự do, hạnh phúc,
đất nƣớc giàu mạnh theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa là mục tiêu
song trùng của hai dân tộc Việt Nam, Lào. Đó cũng là phƣơng
hƣớng, là động lực xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài của hai dân tộc, quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là nhân tố xuyên suốt các
chặng đƣờng, bƣớc trƣớc chuẩn bị cho bƣớc sau nối tiếp phát triển,
từ đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến chống thực dân, đế
quốc xâm lƣợc đến bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nƣớc với nhiều
gian khổ và hy sinh để đi tới những kỳ tích lịch sử của hai nƣớc
Việt Nam, Lào.
Mỗi thời kỳ lịch sử tƣơng ứng với một nhiệm vụ chiến lƣợc
cách mạng của hai nƣớc và gắn bó chặt chẽ với sự vận động của
quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trên các lĩnh vực tƣ
809 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

tƣởng, đƣờng lối, chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, xã hội,
giáo dục, văn hoá. Tuy mỗi thời kỳ có những nhiệm vụ trọng tâm,
song nhìn tổng thể, vẫn nhận rõ tính toàn diện, phong phú mang
bản chất cách mạng, nhân văn trong tƣ tƣởng và hoạt động thực
tiễn, trong lý trí và tình cảm thắm thiết của hai dân tộc.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trải qua nhiều
thay đổi của lịch sử và những mƣu đồ phá hoại của nhiều thế lực thù
địch từ bên trong và bên ngoài, vẫn giữ nguyên tính bền vững và sức
mạnh phi thƣờng của nó. Các kỳ tích do hai dân tộc lập nên trong
Cách mạng tháng Tám 1945, trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lƣợc, cùng thành tựu có ý nghĩa lịch sử của
sự nghiệp đổi mới đều là minh chứng hùng hồn về độ bền vững của
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Tất cả các nhân tố ấy đều lắng đọng, kết tinh và qua kiểm nghiệm
trên nhiều bƣớc đƣờng gian khó, hiểm nghèo để biến quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam thành giá trị văn hoá nhân văn
trƣờng tồn và phát triển cùng thời gian, là tài sản thiêng liêng, cao quý
nhất cho mọi thế hệ nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào.
Ngọn nguồn giá trị đó là do nhận thức của các thế hệ lãnh đạo
và nhân dân hai nƣớc về quy luật sống còn của quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đối với vận mệnh hai dân tộc; về
những quan điểm lý luận, tƣ tƣởng và phƣơng pháp xây dựng, phát
triển quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam dựa trên nguyên tắc
dân tộc tự quyết đƣợc thể hiện ở lời dạy của lãnh tụ Hồ Chí Minh:
“Giúp bạn là mình tự giúp mình”, tuyệt đối tôn trọng chủ quyền của
bạn, giúp bạn để bạn mạnh lên và tự giải quyết các nhiệm vụ cách
mạng của dân tộc mình, không đƣợc áp đặt, làm thay... Dƣới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, Đảng Cộng sản Việt
Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào, cán bộ và nhân dân hai
nƣớc đều chấp hành đúng tƣ tƣởng chỉ đạo và nguyên tắc hoạt động
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 810

đó trong quan hệ hai nƣớc. Căn cứ vào thực tế lịch sử lâu dài của
quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, Tổng Bí thƣ Đảng Nhân
dân cách mạng Lào Cayxỏn Phômvihản đã phân tích, đánh giá và
khắc hoạ sâu sắc những nét tiêu biểu, điển hình về tính toàn diện,
xuyên suốt, bền vững của mối quan hệ đó: “Việt Nam đã giúp Lào
từ khi có Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, nhất là từ năm 1945, Việt
Nam đã có quân tình nguyện ở Lào và liên tục giúp Lào tiến hành
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đến
thắng lợi ngày nay. Có thể nói không lúc nào các đồng chí không ở
bên cạnh chúng tôi, những lúc cách mạng gặp khó khăn, gay go
nhất, đều có mặt các đồng chí. Các đồng chí đã giúp tận tình không
nề hà gì, không tiếc xƣơng máu con em mình. Nhƣ Bác Hồ đã nói
giúp Lào là vì nghĩa vụ đối với dân tộc mình và nhiệm vụ quốc tế,
các đồng chí đã làm đƣợc cả hai việc. Điều quý báu nhất, thành
công lớn nhất của các đồng chí là đã giúp cho Lào, tạo cho Lào
những nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi cuối cùng của cách
mạng. Đó là các đồng chí giúp hình thành nên lực lƣợng chính trị,
lực lƣợng vũ trang, hình thành nên Mặt trận dân tộc thống nhất,
giúp giành, giữ và xây dựng khu giải phóng. Nhƣng điều quan
trọng nhất là các đồng chí đã giúp xây dựng đảng Mác - Lênin chân
chính. Trong tình hình phức tạp hiện nay không có đảng Mác -
Lênin thì cách mạng không thể thắng lợi đƣợc. Nhờ sự giúp đỡ
của các đồng chí mà đội ngũ cán bộ, đảng viên chúng tôi đã phát
triển từ ít đến nhiều. Đến nay, cán bộ chúng tôi đã tiến bộ một bƣớc
dài, tự đảm đƣơng đƣợc nhiều mặt công việc so với trƣớc. Tinh
thần tự lực, tự cƣờng tiến lên một bƣớc sâu hơn. Các đồng chí cũng
giúp chúng tôi đặt quan hệ với các đảng anh em, mở rộng quan hệ
quốc tế của Đảng, và do đó, địa vị quốc tế của Đảng chúng tôi đƣợc
811 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

nâng cao”1.
Về phía Việt Nam, tại cuộc mít tinh kỷ niệm 45 năm ngày thiết
lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Lào và 30 năm ngày ký Hiệp ƣớc
hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Tổng Bí thƣ Nông Đức Mạnh nói:
“Trong quá trình cùng nhân dân các bộ tộc Lào sát cánh bên nhau,
chia ngọt sẻ bùi, đùm bọc, thƣơng yêu giúp đỡ lẫn nhau, nhân dân
Việt Nam luôn luôn nhận thức sâu sắc rằng, mỗi thắng lợi của Việt
Nam trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trƣớc đây cũng
nhƣ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc ngày nay đều gắn
liền với tinh thần đoàn kết, sự ủng hộ và giúp đỡ chí tình của nhân
dân các bộ tộc Lào anh em. Nhân dịp này, thay mặt Đảng, Nhà nƣớc
và nhân dân Việt Nam, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn chân thành và
sâu sắc nhất đối với Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân các bộ tộc Lào anh
em về sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu đó”2.
Với niềm tin sắt đá ở sự phát triển bền vững của quan hệ đặc biệt
Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào đồng chí Chummaly Xaynhaxỏn,
Tổng Bí thƣ, Chủ tịch nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào đã
phát biểu tại cuộc mít tinh trọng thể kỷ niệm 45 năm ngày thiết
lập quan hệ ngoại giao Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào và 30
năm ngày ký Hiệp ƣớc hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Lào và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“Trên cơ sở các nguyên tắc và kinh nghiệm cũng nhƣ truyền

1
. Biªn b¶n héi ®µm gi÷a §oµn ®¹i biÓu cÊp cao §¶ng Lao ®éng ViÖt
Nam vµ §oµn ®¹i biÓu cÊp cao §¶ng Nh©n d©n c¸ch m¹ng Lµo, t¹i §å
S¬n, tõ ngµy 10 ®Õn 14 th¸ng 12 n¨m 1973. Tµi liÖu l-u t¹i Ban §èi
ngo¹i §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam.
2
. N«ng §øc M¹nh: “Kh«ng ngõng cñng cè vµ t¨ng c­êng mèi quan
hÖ h÷u nghÞ truyÒn thèng, t×nh ®oµn kÕt ®Æc biÖt vµ hîp t¸c toµn diÖn
ViÖt Nam - Lµo”, b¸o Nh©n d©n, ngµy 18 th¸ng 7 n¨m 2007.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 812

thống đoàn kết đặc biệt Lào - Việt Nam, chúng ta sẽ tăng cƣờng
hợp tác mọi mặt, khuyến khích các tổ chức Đảng, Nhà nƣớc, bộ,
ngành, địa phƣơng, tổ chức quần chúng và các đơn vị kinh tế -
doanh nghiệp hợp tác chặt chẽ, làm cho quan hệ hợp tác Lào và
Việt Nam đi vào thực chất, phù hợp với đƣờng lối đổi mới và vì
sự phát triển phồn vinh của cả hai nƣớc, vì sự nghiệp hoà bình,
hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới”1.

III. Ý NGHĨA LỊCH SỬ

1. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là nhân
tố cơ bản tạo nên sức mạnh vô địch của hai dân tộc Việt Nam,
Lào
Dƣới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh và hoạt động thực tiễn của các lực lƣợng cách mạng, quan hệ
đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam từng bƣớc đƣợc
xây dựng và phát triển, là nhân tố cơ bản gắn bó hai dân tộc, tạo nên
sức mạnh vô địch chiến thắng mọi kẻ thù, khắc phục nhiều khó khăn,
trở lực trên con đƣờng cách mạng. Đó là quá trình hai dân tộc tự
nguyện đến với nhau trên cơ sở cùng giác ngộ lý tƣởng cách mạng
giải phóng dân tộc, giành tự do, hạnh phúc cho nhân dân, xác lập
quyền bình đẳng dân tộc, giúp đỡ lẫn nhau tự vƣơn lên và trƣởng
thành. Đó cũng là những chặng đƣờng nhân dân hai nƣớc vƣợt qua
nhiều khác biệt về phong tục tập quán và những hậu quả chia rẽ
Việt Nam, Lào do kẻ thù gây ra, để đi tới đồng tâm nhất trí, kề vai
sát cánh cùng chống kẻ thù chung.
Biết bao tấm gƣơng chịu đựng khó khăn, gian khổ và tự nguyện

1
. Chummaly Xaynhaxán: “T×nh ®oµn kÕt ®Æc biÖt vµ hîp t¸c toµn
diÖn Lµo - ViÖt Nam lµ tµi s¶n v« gi¸ cña hai d©n téc”, b¸o Nh©n d©n,
ngµy 18 th¸ng 7 n¨m 2007.
813 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

hy sinh cho nhau của cán bộ, bộ đội và nhân dân hai nƣớc để sự
nghiệp cách mạng của hai dân tộc Việt Nam, Lào giành thắng lợi
đã diễn ra và trở thành lẽ sống của họ. Đây là một nhân tố cơ bản
tạo nên mọi thắng lợi của những mục tiêu đấu tranh cách mạng mà
hai dân tộc cùng hợp sức thực hiện.
Nét nổi bật có tác dụng giáo dục nhân dân hai nƣớc là lòng
trung thành của các nhà lãnh đạo Việt Nam, Lào đối với quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào và quan hệ Việt Nam, Lào và Campuchia
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chúng ta kháng chiến, dân tộc
bạn Miên, Lào cùng kháng chiến. Bọn thực dân Pháp và bọn can
thiệp Mỹ là kẻ thù của ta và của dân tộc Miên, Lào. Vì vậy, ta
phải ra sức giúp đỡ anh em Miên, Lào, giúp đỡ kháng chiến Miên,
Lào; và tiến đến thành lập Mặt trận thống nhất các dân tộc Việt -
Miên - Lào”1.
Về phía Lào, trong những tình huống rất khó khăn và phức tạp
của cách mạng, các nhà lãnh đạo, đại biểu cho ý chí của nhân dân
Lào, đã thể hiện rõ sự kiên định của mình đối với quan hệ đặc biệt
Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào. Hai sự kiện sau đây đã biểu thị
phẩm chất, bản lĩnh ấy của họ.
Một là, cuối năm 1949, Chính phủ Khăm Mạo đầu hàng thực
dân Pháp, chỉ còn Hoàng thân Phếtxarạt và Hoàng thân
Xuphanuvông vẫn giữ lập trƣờng chống đế quốc Pháp xâm lƣợc.
Lúc bấy giờ Hoàng thân Xuphanuvông tổ chức cuộc họp báo, ra
tuyên bố: “Tôi không đồng tình với những ngƣời trong Chính phủ
trở về đầu hàng kẻ thù. Tôi sẽ cùng với nhân dân Lào, nhân dân
Việt Nam, nhân dân Campuchia tiến hành cuộc đấu tranh cứu nƣớc
cho đến thắng lợi hoàn toàn”2.

1
. Hå ChÝ Minh: Toµn tËp, S®d, t.6, tr.174.
2
, 2, 3. Phumi V«ngvichÝt: Nhí l¹i ®êi t«i trong qu¸ tr×nh lÞch sö ®Êt
n-íc Lµo, S®d, tr.59, 58-59, 62.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 814

Hai là, cũng vào khoảng thời gian đó, Khăm Mạo lôi kéo đồng
chí Phumi Vôngvichít đang làm chủ tịch Khu 1, Khu 2 của khu
kháng chiến Tây Bắc Lào theo chúng đầu hàng Pháp. Đồng chí trả
lời: “Chúng tôi không đồng ý về với Pháp, vì làm nhƣ thế là đầu
hàng kẻ thù và Tổ quốc ta sẽ không bao giờ giành đƣợc độc lập”2.
Đồng thời, đồng chí cũng kịch liệt bác bỏ những luận điệu của
chúng - đòi không hợp tác với Việt Nam: “Nếu nhƣ vậy thì các anh
nhất định không bao giờ thắng lợi. Vì các anh lấy tiền của, vũ khí,
trang bị, kinh nghiệm ở đâu ra để chống Pháp? Nếu các anh không
hợp tác với nƣớc đang đánh kẻ thù chung thì các anh không bao giờ
thắng lợi và không bao giờ độc lập. Nhƣ vậy tôi thấy con đƣờng
các anh đi là tách khỏi Việt Nam để đi đầu hàng thực dân Pháp, do
đó tôi không đi theo cùng đƣờng với các anh”3.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam nảy sinh,
phát triển trong sự trùng hợp mục tiêu cách mạng và tình nghĩa của
hai dân tộc láng giềng ruột thịt là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội; bình đẳng, hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau. Điều đó đã
trở thành động lực mạnh mẽ, vƣợt lên mọi thử thách trên các chặng
đƣờng cách mạng, là cội nguồn sáng tạo trong chiến đấu và lao
động, nhân lên sức mạnh đoàn kết, hợp tác giữa hai bên để chiến
thắng các kẻ thù lớn mạnh, hung bạo; phá vỡ những mƣu đồ chia
rẽ, phá hoại của các thế lực xâm lƣợc, thù địch, phát hiện con
đƣờng đổi mới thích hợp cho hai nƣớc. Do vậy, những thắng lợi
quan trọng nhất của hai dân tộc đánh dấu những bƣớc ngoặt lịch sử
của mình nhƣ Cách mạng tháng Tám 1945; kháng chiến chống
Pháp, tháng 7 năm 1954; chống Mỹ năm 1975 và mở đầu sự nghiệp
đổi mới năm 1986, hầu nhƣ diễn ra song hành.

2. Đứng ở vị trí chiến lược của vùng Đông Nam á, nơi đối
đầu quyết liệt giữa phong trào cách mạng giải phóng dân tộc,
815 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

hoà bình và tiến bộ xã hội với các thế lực xâm lược, khối đại
đoàn kết Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trở thành lực lượng
nòng cốt, chặn đứng, làm thất bại những mưu đồ và hành động
của kẻ thù, góp phần quan trọng tạo dựng môi trường hoà bình,
hợp tác, hữu nghị giữa các quốc gia Đông Nam á
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các nƣớc thuộc địa vùng Đông Nam á phát triển
mạnh. Nhiều nƣớc đã giành đƣợc độc lập, bƣớc vào thời kỳ xây
dựng, phát triển kinh tế - xã hội.
Việt Nam và Lào tuy đã giành đƣợc độc lập, nhƣng ngay sau
đó, bị quân đội Pháp kéo tới xâm lƣợc. Chúng đã vấp phải sự chiến
đấu kiên cƣờng của nhân dân Việt Nam và Lào cùng đứng trên một
trận tuyến. Chiến tranh xâm lƣợc kéo dài và hiện rõ sự thất bại của
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ tìm cách can thiệp và thay chân Pháp
hòng áp đặt chủ nghĩa thực dân mới tại miền Nam Việt Nam và
Lào từ sau khi Hiệp định Giơnevơ đƣợc ký kết (tháng 7 năm 1954).
Mỹ tìm mọi cách lôi kéo nhiều nƣớc đồng minh của họ để thành lập
liên minh quân sự chống phe xã hội chủ nghĩa và phong trào giải
phóng dân tộc. Tại châu á, ngày 8 tháng 9 năm 1954, Mỹ thành lập
“tổ chức Hiệp ƣớc Đông Nam á” (SEATO) nhằm ngăn chặn chủ
nghĩa xã hội tràn qua vĩ tuyến 17 xuống Đông Nam á, đặt miền
Nam Việt Nam, Lào, Campuchia nằm trong phạm vi bảo hộ của
Mỹ.
ở miền Nam Việt Nam, trong thập niên 1960, Mỹ áp dụng từ
chiến lƣợc “Chiến tranh đặc biệt” đến chiến lƣợc “Chiến tranh cục
bộ”, trực tiếp đƣa quân vào miền Nam Việt Nam và đánh phá miền
Bắc, một thành viên của phe xã hội chủ nghĩa, bằng không quân và
hải quân. Tại Lào, Mỹ cũng thực hiện chiến lƣợc “Chiến tranh đặc
biệt” và “Chiến tranh đặc biệt tăng cƣờng” với cƣờng độ ác liệt
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 816

ngày càng gia tăng. Bằng những hành động đó, đế quốc Mỹ biến
cuộc chiến tranh này thành cuộc “đối đầu lịch sử” giữa họ với
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, phong trào xã hội chủ
nghĩa và phong trào hoà bình, tiến bộ xã hội.
Với sức mạnh đoàn kết dân tộc, đoàn kết Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam và ý chí đấu tranh kiên cƣờng, sáng tạo, quân dân Việt
Nam, Lào đã đánh bại các chiến lƣợc chiến tranh xâm lƣợc của đế
quốc Mỹ; đồng thời cũng làm thất bại những mƣu đồ của các thế
lực thù địch gây chia rẽ, đối địch giữa ba nƣớc Việt Nam, Lào,
Campuchia; góp phần tạo lập môi trƣờng hoà bình, hợp tác, hữu
nghị giữa các quốc gia Đông Nam á.

3. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là một
tấm gương mẫu mực, thuỷ chung, trong sáng, vững bền, chưa
từng có trong quan hệ giữa các dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự
do, hoà bình và tiến bộ xã hội
Trong lịch sử thế giới từ xƣa tới nay, đã xuất hiện nhiều hình
thức liên minh, đồng minh, hợp tác hoặc hình thành các cộng động
quốc gia với nhiều thể chế đa dạng trên nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Riêng quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đƣợc gọi là
quan hệ đặc biệt bởi khái niệm đó là sự tổng hợp, khái quát đúng
đắn về truyền thống lịch sử, địa lý, về lý luận và thực tiễn của sự
kết hợp nguyên tắc dân tộc tự quyết và tinh thần quốc tế vô sản
trong sáng, chủ nghĩa nhân văn cao cả, tính tất yếu và quy luật dẫn
tới thắng lợi và thành công của hai dân tộc Việt Nam, Lào.
Nói cách khác, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
là khối đoàn kết chặt chẽ của hai dân tộc phấn đấu cho những lợi ích
cơ bản và nguyện vọng chính đáng thiết tha nhất của nhân dân hai
nước nhƣ trên đã viết, đó là niềm tin tất thắng của quan hệ Việt Nam
817 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

- Lào, Lào - Việt Nam thấm sâu vào lòng nhân dân hai nƣớc.
Cảm nhận của đồng chí Phumi Vôngvichít sau khi đi khảo sát
nhiều vùng ở Thái Lan, nơi ngƣời Lào và ngƣời Việt cùng tản cƣ
sang để tránh sự tàn sát của quân đội Pháp và xây dựng lực lƣợng
kháng chiến đầu năm 1946, cho chúng ta hiểu rõ điều đó: “Để thực
hiện nhiệm vụ, tôi đề ra chƣơng trình đi những nơi cần thiết... Tôi
đến Băng Cốc để gặp Chính phủ Lào độc lập sang tạm lánh ở đây
và gặp đại biểu Việt Nam nhằm tìm hiểu cách thức tiến hành cuộc
đấu tranh giải phóng đất nƣớc Lào...”. Sau khi đi xem xét tình hình
tại nhiều nơi khác, đồng chí nhận xét: “Chuyến đi lần này đã giúp
tôi có những nhận thức mới, mở tầm nhìn cho tôi vào con đƣờng
cách mạng của dân tộc. Nó còn cho thấy nhân dân Lào ở khắp các
miền đều đứng dậy đấu tranh chống bọn thực dân Pháp để giải
phóng Tổ quốc khỏi ách thống trị thực dân và phong kiến thống trị
thối nát. Một điều nữa mà tôi cũng thấy là khắp mọi nơi ở
Campuchia hay ở Lào nếu có ngƣời Việt Nam thì họ đều hợp tác
chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia chống kẻ thù
chung là thực dân Pháp xâm lƣợc”... “Nhận thức rõ nhất là muốn
làm cuộc kháng chiến chống quân thù ở Lào, chúng tôi phải hợp tác
với ngƣời Việt Nam, đang thực hiện nhiệm vụ dƣới sự lãnh đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh”1.
Đối với hai dân tộc Việt Nam, Lào, quan hệ đặc biệt đƣợc coi là lẽ
sống, là tình nghĩa ruột thịt thân thiết, trƣớc sau nhƣ một, dù gian nan
nguy hiểm đến chừng nào cũng không thể chia tách đƣợc. Nó vƣợt lên
mọi thử thách để giữ trọn “Tình sâu hơn nƣớc Hồng Hà, Cửu Long”
nhƣ Bác Hồ đã viết. Cùng mạch nguồn của tƣ duy trên, đồng chí
Cayxỏn Phômvihản cho rằng, quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt

1
. Phumi V«ngvichÝt: Nhí l¹i ®êi t«i trong qu¸ tr×nh lÞch sö ®Êt n-íc
Lµo, S®d, tr.49-50.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 818

Nam “quý hơn ngọc quý nhất”, cần phải bảo vệ và phát huy mãi mãi.

IV. BÀI HỌC LỊCH SỬ

1. Xác định đúng đắn hệ thống quan điểm lý luận về mối


quan hệ dân tộc và quốc tế trong thời đại mới giữ vai trò quan
trọng hàng đầu trong quá trình xây dựng, phát triển quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
Trên con đƣờng khám phá chân lý cứu nƣớc, cứu dân, lãnh tụ
Nguyễn ái Quốc đã từng biết quan điểm giải quyết vấn đề dân tộc
thuộc địa do Tổng thống Mỹ Uynxơn (Wilson) nêu ra tại điểm 5
Chương trình 14 điểm, công bố đầu năm 1918: “Giải quyết công tâm
những vấn đề thuộc địa, chiếu cố các dân tộc bản xứ và các chính
phủ”. Chƣơng trình đó đƣợc coi là nguyên tắc thảo luận tại Hội nghị
hoà bình Vécxây (Pháp), năm 1919, của các nƣớc đế quốc chiến
thắng đế quốc Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918)
với mục tiêu của Mỹ là tranh giành thuộc địa với các nƣớc đế quốc
khác, tấn công nƣớc Nga Xôviết và nêu cao vai trò của Mỹ trong
việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Nhân dịp đó, lãnh tụ Nguyễn ái
Quốc thay mặt Nhóm những người Việt Nam yêu nước gửi tới Hội
nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm:
“1. Tổng ân xá cho tất cả những ngƣời bản xứ bị án tù chính trị;
2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dƣơng bằng cách cho ngƣời
bản xứ cũng đƣợc quyền hƣởng những đảm bảo về mặt pháp luật
nhƣ ngƣời Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm
công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân
dân An Nam;
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận;
4. Tự do lập hội và hội họp;
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dƣơng;
819 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

6. Tự do học tập, thành lập các trƣờng kỹ thuật và chuyên


nghiệp ở tất cả các tỉnh cho ngƣời bản xứ;
7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
8. Đoàn đại biểu thƣờng trực của ngƣời bản xứ, do ngƣời bản
xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho nghị viện biết đƣợc
những nguyện vọng của ngƣời bản xứ”1.
Ngƣời viết rõ, đây chỉ là những yêu sách khiêm tốn trong khi
chờ nguyên tắc dân tộc đƣợc hiện thực hoá, quyền tự quyết thiêng
liêng của các dân tộc đƣợc thừa nhận thực sự. Ngƣời mong những
yêu sách đó đƣợc các nƣớc Đồng minh, trong đó có Chính phủ Mỹ,
ủng hộ nhƣng không nhận đƣợc ý kiến trả lời. Từ hiện tƣợng ấy,
Ngƣời nêu rõ bản chất của chủ nghĩa Uynxơn về quyền dân tộc tự
quyết trong bài “Cuộc kháng chiến” thuộc chủ đề Đông Dương
(1923 - 1924): “Nhƣng sau một thời gian nghiên cứu và theo dõi,
chúng tôi nhận thấy rằng “chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp
bợm lớn. Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng
được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp
của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”2. Điều cốt yếu
của luận điểm này là sự nghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với sự
nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng con ngƣời theo quy luật
phát triển của xã hội loài ngƣời để đi tới chỗ “xuất hiện một liên
hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi ngƣời là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi ngƣời”2 nhƣ Mác - Ăngghen viết
trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Đó chính là định hƣớng
phát triển của cách mạng Đông Dƣơng theo tinh thần cách mạng
triệt để mà lãnh tụ Nguyễn ái Quốc xác định.
Từ khi bị thực dân Pháp xâm lƣợc và thiết lập chế độ thuộc địa

1
, 2. Hå ChÝ Minh: Toµn tËp, S®d, t.1, tr.435-436, 416.
2
. C. M¸c vµ Ph. ¡ngghen: Toµn tËp, Nxb. ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi,
1995, t.4, tr.628.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 820

tại Việt Nam và Lào, nhân dân hai nƣớc đã giúp đỡ nhau chống kẻ
thù chung. Song do chƣa xác định đƣợc những luận điểm cách
mạng đúng đắn về mối quan hệ dân tộc và quốc tế, làm cơ sở xây
dựng quan hệ đoàn kết Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, nên mối
quan hệ đó vẫn là quan hệ truyền thống.
Với trách nhiệm cao đối với cách mạng Đông Dƣơng và năng
lực sáng tạo lý luận cách mạng kiệt xuất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề
xuất những quan điểm cơ bản về cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam, Miên, Lào. Trong đó, bao hàm cả nội dung quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam:
Cách mạng Đông Dƣơng là cách mạng giải phóng dân tộc
theo con đƣờng cách mạng vô sản, đặt dƣới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Sự nghiệp cách mạng của ba nƣớc Đông Dƣơng phải do nhân
dân ba nƣớc Đông Dƣơng cùng đồng tâm, nhất trí tiến hành. Thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng đó sẽ hỗ trợ đắc lực cho công cuộc
cách mạng của giai cấp vô sản Pháp.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập
đã thể hiện mối quan hệ dân tộc và quốc tế đúng đắn trong Sách
lược vắn tắt: “trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam
độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức
dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”1.
Tiếp tục phát triển dòng tƣ duy về vấn đề trên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã cống hiến thêm cho nhân dân ba nƣớc Đông Dƣơng một
quan điểm mới, thống nhất với quan điểm của Hội nghị Trung ƣơng
Đảng Cộng sản Đông Dƣơng lần thứ tám, tháng 5 năm 1941: các
dân tộc Đông Dƣơng đều phải chịu chung một ách thống trị của
phát xít Pháp - Nhật, cho nên phải đoàn kết lại đánh đuổi kẻ thù
chung. Song Đảng phải hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền

1
. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam: V¨n kiÖn §¶ng Toµn tËp, S®d, t.2, tr.4-5.
821 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

“dân tộc tự quyết” đối với các nƣớc ở Đông Dƣơng. Sau khi giành
đƣợc độc lập: “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ đƣợc thừa nhận
và coi trọng”1.
Việt Nam giúp bạn Lào là thực hiện nghĩa vụ quốc tế với tinh
thần “giúp bạn là mình tự giúp mình”.
Những quan điểm trên thể hiện rõ ràng, đúng đắn nguyên tắc
dân tộc tự quyết và chủ nghĩa quốc tế trong sáng mà nội dung chính
yếu là mỗi dân tộc ở Đông Dƣơng có quyền tiến hành công cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, tự quyết định chế độ chính trị của
quốc gia; có quyền lựa chọn con đƣờng xây dựng, phát triển đất
nƣớc; có quyền bình đẳng, hợp tác với các dân tộc khác vì mục tiêu
hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội; đồng thời tôn trọng độc
lập, chủ quyền và an ninh của các dân tộc; ba nƣớc Việt Nam, Lào
và Campuchia có trách nhiệm giúp đỡ lẫn nhau và đoàn kết chặt
chẽ trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo
vệ đất nƣớc... Tất cả đều thể hiện rõ sự gắn kết và tác động tích cực
giữa chủ nghĩa quốc tế trong sáng và chủ nghĩa yêu nƣớc chân
chính trong tiến trình cách mạng của ba dân tộc; hoàn toàn xa lạ với
chủ nghĩa sôvanh, dân tộc vị kỷ.
Điều rất đáng trân trọng nữa là những quan điểm trên của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đƣợc các cơ
quan lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc của hai dân tộc Việt, Lào quán
triệt và vận dụng trong quá trình tạo dựng và phát huy sức mạnh
của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Về phía Lào, Nghị quyết Đại hội lần thứ II Đảng Nhân dân
cách mạng Lào nhất trí khẳng định:
“Sự thật đã chứng minh mỗi bƣớc đi đến thắng lợi của cách
mạng Lào đều kết hợp chặt chẽ giữa sự nỗ lực cố gắng chủ quan

1
. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam: V¨n kiÖn §¶ng Toµn tËp, S®d, t.7, tr.113.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 822

của Đảng ta, của dân tộc ta với sự giúp đỡ của phe xã hội chủ
nghĩa, của mọi phong trào cách mạng dân tộc dân chủ và hoà bình
thế giới, trong đó khối lực lƣợng liên minh chiến đấu giữa Đảng ta
với Đảng Lao động Việt Nam luôn luôn là điều kiện cơ bản mà
chúng ta rất coi trọng nhƣ một yếu tố thắng lợi”1.
Nhấn mạnh giá trị của chủ nghĩa yêu nƣớc kết hợp với tinh thần
quốc tế vô sản qua thực tiễn cách mạng Lào, đồng chí Cayxỏn
Phônvihản nói: “Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta phải do
nhân dân ta tự làm lấy.
Đảng ta là một Đảng lãnh đạo cách mạng thực sự, do đó phải
giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, mỗi một đảng có độc lập, tự
chủ thì mới chứng minh một cách đầy đủ chủ nghĩa yêu nƣớc nồng
nàn, kết hợp với tinh thần quốc tế vô sản chân chính.
Căn cứ vào những điều nói trên, chúng ta mới vững vàng có
đầy đủ tinh thần quyết chiến, quyết thắng”2.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và thấu hiểu bản chất
hai dân tộc Việt Nam, Lào, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Đông Dƣơng, Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Đảng Cộng sản
Việt Nam đã giải quyết hợp lý, hài hoà nguyên tắc dân tộc tự
quyết và quan hệ quốc tế vô sản trong sáng, biến nó thành nền tảng
tƣ tƣởng đúng đắn của hai dân tộc. Điều đó vừa là kinh nghiệm,
vừa là lý luận của lãnh tụ Hồ Chí Minh, của hai Đảng, hai dân tộc
Việt Nam, Lào cống hiến cho các dòng thác cách mạng thế giới.
Từ đầu thập niên 90 thế kỷ XX, hai nƣớc Việt Nam và Lào
đều thực hiện đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển, đa phƣơng hóa, đa dạng hóa; là bạn và đối tác

1
. Tµi liÖu l-u t¹i ViÖn LÞch sö qu©n sù, ký hiÖu TK-937.
2
. Cayxán Ph«nvih¶n: Bµi nãi t¹i Héi nghÞ c¸n bé toµn quèc, ngµy 13
th¸ng 5 n¨m 1974.
823 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

tin cậy của các nƣớc, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực Đông Nam á. Đồng thời, cần tiếp tục nâng
cao hiệu quả quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
trên mọi lĩnh vực, giữ vững các quan điểm và nguyên tắc hợp tác
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và lãnh đạo Đảng Nhân dân cách
mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra, coi đó là nhân
tố bất biến trong ứng xử với mọi đổi thay, biến động của thế giới
và khu vực.

2. Xác định nội dung, phương thức xây dựng quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là cụ thể hoá hệ thống quan
điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ quốc gia và
quốc tế trong điều kiện cụ thể của hai nước để hướng dẫn hoạt
động của Đảng, của hệ thống chính trị và quân, dân hai nước
Việt Nam, Lào nhằm đạt tới mục tiêu cách mạng do hai bên xác
lập
Trên lĩnh vực này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Đông Dƣơng, kế tiếp là Đảng Lao động Việt Nam, Đảng Cộng sản
Việt Nam đề xuất và lãnh đạo các cấp bộ đảng, hệ thống chính trị
và nhân dân Việt Nam thực hiện nghĩa vụ xây dựng và phát triển
quan hệ đặc biệt hai nƣớc Việt Nam, Lào theo tinh thần:
Giúp bạn một cách vô tƣ, với cố gắng cao nhất của mình.
Không đƣợc áp đặt, rập khuôn máy móc những kinh nghiệm và
cách làm ở Việt Nam, không phù hợp với điều kiện cụ thể của bạn.
Tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam phê
bình một đồng chí phụ trách cơ quan của Việt Nam giúp Lào đã tự
ý đề ra kế hoạch và phổ biến xuống các cấp về phát động quần
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 824

chúng đấu tranh xoá bỏ chế độ cuông, lam1. Làm nhƣ vậy là không
đúng với hoàn cảnh, điều kiện của bạn Lào và mang tính chất bao
biện. Bộ Chính trị chỉ thị: đã sai thì phải kịp thời sửa sai, thu ngay
chỉ thị và kế hoạch đã phổ biến.
Giúp bạn để bạn tiến bộ và có thể tự làm lấy. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng căn dặn cán bộ Việt Nam đi làm nghĩa vụ quốc tế tại
Lào: giúp nhiều nhất cũng chỉ đƣợc 1/10, còn tự lực là 9/10.
Về sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai Đảng và nhân dân
hai nƣớc Việt Nam, Lào, các đồng chí lãnh đạo hai nƣớc đã nhiều
lần khẳng định giá trị đặc biệt của mối quan hệ đó. Trong cuộc hội
đàm giữa đại diện hai Trung ƣơng Đảng năm 1971, đồng chí
Cayxỏn Phômvihản nói: “Sự giúp đỡ của Việt Nam ba năm qua là
hết lòng hết sức, trong hoàn cảnh khó khăn nhƣng đã hết sức giúp
đỡ, không tiếc xƣơng máu. Đó là điều rất quý, đã làm cho Đảng
Lào, cách mạng Lào trƣởng thành, đặc biệt nhất là sự giúp đỡ về
kinh nghiệm, đƣờng lối. Về mặt này, giữa hai Đảng ta sự nhất trí
ngày càng cao chẳng những chiến lƣợc mà cả sách lƣợc nữa. Thay
mặt Đảng Nhân dân Lào, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Đảng
và nhân dân Việt Nam.
Các đồng chí sang giúp, đã giữ đƣợc phƣơng châm hai Trung
ƣơng đã bàn bạc với nhau, phƣơng pháp giúp nói chung cũng tốt.
Tóm lại, trong việc giúp đỡ mặt tốt là cơ bản, tận tình, tuy Việt
Nam có khó khăn nhƣng đã không tiếc gì với Lào, chính cái đó đã
góp phần tăng cƣờng đoàn kết giữa hai Đảng. Đây là quan hệ đặc
biệt trên thế giới không đâu có”2 (BBS nhấn mạnh).

1
. Cu«ng, lam: lµ chÕ ®é chóa ®Êt b¾t n«ng d©n ph¶i lao dÞch cho m×nh.
2
. TrÝch l-îc mét sè ý kiÕn ph¸t biÓu cña anh B¶y* vµ anh Ba* t¹i
cuéc héi ®µm gi÷a hai Trung -¬ng §¶ng, 1971, ViÖn LÞch sö §¶ng, Häc
viÖn ChÝnh trÞ - Hµnh chÝnh quèc gia Hå ChÝ Minh.
Anh B¶y: ®ång chÝ Cayxán Ph«mvih¶n; anh Ba: ®ång chÝ Lª DuÈn.
825 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Cũng tại cuộc hội đàm này, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Thay
mặt Đảng Lao động Việt Nam, chúng tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ
của Đảng Nhân dân Lào và của nhân dân Lào anh em đối với sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nƣớc của nhân dân chúng tôi. Đây là những
lời nói chân thật tự đáy lòng. Chúng tôi xin cảm ơn các đồng chí
với sự hiểu biết sâu sắc mối quan hệ đặc biệt đã gắn bó hai Đảng,
hai dân tộc Lào, Việt Nam chúng ta suốt 25 năm chiến đấu sống
chết có nhau chống kẻ thù chung. Nhân dân Việt Nam hy sinh
xƣơng máu cho cách mạng Lào, nhân dân Lào cũng hy sinh tính
mạng và của cải để giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Hai Đảng, hai
dân tộc chúng ta giúp đỡ lẫn nhau, nếu chỉ thấy sự giúp đỡ của một
bên là không đúng (BBS nhấn mạnh). Đảng chúng tôi luôn luôn
giáo dục cho cán bộ, đảng viên Việt Nam hiểu rõ điều đó”1.
Trong mối quan hệ công tác giữa cán bộ Việt Nam và cán bộ
Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn:
“Thật thà đoàn kết về tinh thần và trong công tác;
Thật thà tự phê bình và phê bình lẫn nhau;
Cán bộ Việt Nam tuyệt đối tránh bao biện;
Cán bộ Lào thì nên tránh khách khí”2
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam, Ngƣời thƣờng xuyên nhấn mạnh việc thực
hiện tự phê bình của các tổ chức và cán bộ Việt Nam làm nghĩa vụ
quốc tế tại Lào.
Tại Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, ngày 3
tháng 6 năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: “Về Lào, ta

1
. TrÝch l-îc mét sè ý kiÕn ph¸t biÓu cña anh B¶y vµ anh Ba t¹i cuéc
héi ®µm gi÷a hai Trung -¬ng §¶ng, 1971, Tµi liÖu ®· dÉn.
2
. Lêi Chñ tÞch Hå ChÝ Minh ghi t¹i b¶n Quy ®Þnh chÕ ®é lµm viÖc cña cè
vÊn vµ c¸n bé ViÖt Nam víi ChÝnh phñ vµ c¸n bé c¸ch m¹ng Lµo, ngµy 5
th¸ng 5 n¨m 1953, Tµi liÖu l-u t¹i ViÖn LÞch sö qu©n sù ViÖt Nam.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 826

phải thấy phe đế quốc nó có cả một kế hoạch. Viện trợ Mỹ (cho phe
hữu ở Lào - BBS) tính theo đầu ngƣời là cao nhất.
Ta giúp (bạn Lào - BBS) không quán xuyến, thiếu liên tục phải
giúp có tổ chức, giúp hết sức chặt chẽ, phải có kế hoạch giúp trƣớc
mắt và giúp lâu dài.
Đối với Lào, ta còn nóng vội, thấy thắng lớn, không nhìn hết
khó khăn”.
Thực hiện lời chỉ giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, noi theo tấm
gƣơng tự phê bình, phê bình của Ngƣời, cơ quan lãnh đạo tối cao
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào
đã nhiều lần nêu ý kiến tự phê bình và phê bình trong hội đàm giữa
hai bên về những khuyết điểm của mình, của bạn; đồng thời trình
bày phƣơng pháp khắc phục. Tại cuộc hội đàm năm 1971, đồng chí
Cayxỏn Phômvihản sau khi nói về sự giúp đỡ hết lòng, hết sức của
Việt Nam đối với Lào, đã nêu lên những nhận xét về sự giúp đỡ của
Việt Nam trong công tác đào tạo cán bộ và hoạt động của đội ngũ
chuyên gia: “Giúp xây dựng, đào tạo cán bộ về chính trị tƣơng đối
đƣợc nhƣng chuyên môn chƣa đƣợc sâu, còn nặng bồi dƣỡng về
những vấn đề trƣớc mắt, chƣa chú trọng đi vào bồi dƣỡng cơ bản,
toàn diện để từng bƣớc anh em Lào tự làm chủ lấy. Còn coi nhẹ
giúp xây dựng cán bộ chủ trì, cán bộ quản lý, chỉ đạo kinh tế. Giúp
xây dựng cơ quan mới đƣợc phần giải quyết việc trƣớc mắt, chƣa đi
sâu bồi dƣỡng cho anh em nắm đƣợc công việc một cách cơ bản,
lâu dài, đủ sức làm tham mƣu cho Trung ƣơng...”.
Về hoạt động của chuyên gia Việt Nam, đồng chí Cayxỏn cho
rằng: “Đội ngũ chuyên gia sang giúp có hai loại: loại cũ đã 5, 7, 10 năm
trở lên, nhiệt tình rất cao, gắn bó với cách mạng Lào, tin tƣởng vào
khả năng cách mạng của nhân dân Lào, cán bộ Lào, hiểu biết tình
hình, tâm lý của anh em Lào, phƣơng pháp cũng tốt, dễ thâm nhập,
đoàn kết Lào - Việt tốt. Nhƣng bên cạnh đó có chỗ yếu là sức khoẻ
kém... nhiều ngƣời không học tập đƣợc những vấn đề lý luận cơ
827 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

bản, công tác chuyên môn... nên hạn chế việc giúp. Anh em mới
sang thì nhiệt tình cũng có, tốt, sức khoẻ đỡ hơn, đƣợc học tập bên
nƣớc, nhƣng bên cạnh đó, có những chỗ yếu nhƣ chƣa hiểu nhiều
tình hình Lào, có số chỉ biết kỹ thuật đơn thuần, tâm tƣ tình cảm
anh em Lào không rõ. Đáng chú ý là về tƣ tƣởng có khi chƣa thật
sự tin vào khả năng cán bộ và nhân dân Lào...”.
“... Về phía chúng tôi, nói chung tin tƣởng sự giúp đỡ của Việt
Nam, tin tƣởng các đồng chí Việt Nam, tích cực tranh thủ sự giúp
đỡ của các đồng chí, học hỏi các đồng chí, do đó đã từng bƣớc
trƣởng thành lên, đoàn kết với anh em Việt Nam tốt. Bên cạnh
những ƣu điểm cũng có một số khuyết điểm:
Khuyết điểm chính là còn ỷ lại, chƣa tích cực vƣơn lên, thực sự
tự lực, làm chủ, có những bộ phận, những đồng chí chƣa thực sự
tranh thủ sự giúp đỡ của các đồng chí Việt Nam. Chủ quan, nghĩ là
đoàn kết Việt - Lào đã có sẵn từ lâu rồi, coi thƣờng chia rẽ của
địch, không thƣờng xuyên giáo dục nội bộ nên có nơi đã xảy ra vấn
đề. Mặt khác cũng chƣa tích cực giúp đỡ các đồng chí Việt Nam
mọi điều kiện thuận lợi để làm nhiệm vụ”1.
Theo ý kiến của đồng chí Cayxỏn Phômvihản, đề cập những
ƣu, khuyết điểm trên là để đúc kết kinh nghiệm trong thời gian tới
Việt Nam giúp Lào đạt hiệu quả cao hơn.
Tiếp đó, đồng chí nêu ra cách giúp, đại ý: vấn đề vừa cơ bản,
vừa lâu dài là Việt Nam giúp cho lực lƣợng cách mạng Lào
trƣởng thành để ngƣời Lào có thể tự lực đƣợc, làm chủ đƣợc; giúp
thế nào để củng cố, tăng cƣờng tình đoàn kết chiến đấu giữa hai
Đảng, quân đội và nhân dân hai nƣớc ngày càng chặt chẽ.
Nguyên tắc giúp là theo yêu cầu của Lào và khả năng của Việt
Nam, tôn trọng chủ quyền của Lào, tạo điều kiện để Lào tự quyết

1
. TrÝch l-îc mét sè ý kiÕn ph¸t biÓu cña anh B¶y vµ anh Ba t¹i cuéc
héi ®µm gi÷a hai Trung -¬ng §¶ng, 1971, Tµi liÖu ®· dÉn.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 828

định lấy, giúp toàn diện và có trọng điểm, giúp trƣớc mắt và lâu
dài, giúp xây dựng đảng và đào tạo cán bộ...
Đối với chuyên gia sang giúp, cần chất lƣợng là chính, số lƣợng
vừa phải và làm thế nào giáo dục anh em nhƣ lời Bác Hồ: anh em
chuyên gia sang bên đó phải tin tƣởng nhân dân Lào, tin tƣởng khả
năng cán bộ Lào, tôn trọng chủ quyền của Lào...
Cần giúp theo phƣơng pháp, cán bộ Lào nêu vấn đề trƣớc, hay
cán bộ Việt Nam nêu vấn đề trƣớc, vừa gợi mở, vừa bồi dƣỡng
từng bƣớc, từ những vấn đề trƣớc mắt đến những vấn đề lâu dài,
từ đơn giản đến phức tạp một cách thoải mái nhằm phát huy tinh
thần cố gắng suy nghĩ và nêu ý kiến của mình, qua đó mà bồi
dƣỡng nâng cao trình độ của cán bộ Lào. Nhƣ vậy, vừa đƣợc việc,
vừa đƣợc con ngƣời.
Đáp lời đồng chí Cayxỏn Phômvihản, đồng chí Lê Duẩn nói:
“Làm cách mạng ở Lào cũng nhƣ làm cách mạng ở Việt Nam, chỉ
sợ anh em làm sai. Trong Đảng, trong nƣớc chúng tôi, có làm sai
cũng là việc nội bộ, sang Lào làm sai là ngƣời Việt Nam làm sai.
Điều rất tốt, rất quý là các đồng chí Lào đã bỏ qua cho nhiều lắm.
Nhƣng về phía mình, chúng tôi cũng cần soát xét lại, ai tốt, tình
nguyện thì để ở lại, ai không tốt, không tình nguyện thì cho về
chiến đấu tại Việt Nam, đã tình nguyện thì nhất thiết phải làm cho
tốt...”.
“Hai Đảng chúng ta rất thực tình với nhau, chúng ta hiểu nhau,
có gì nói hết, nói với nhau nhƣ trong một nhà. Đây là điều rất đáng
mừng. Trên thế giới ít có những đảng hiểu nhau sâu sắc, đoàn kết
với nhau chặt chẽ, ruột thịt nhƣ hai Đảng chúng ta. Có thể nói đây là
một mẫu mực trong quan hệ giữa các đảng anh em”1.

1
. TrÝch l-îc mét sè ý kiÕn ph¸t biÓu cña anh B¶y vµ anh Ba t¹i cuéc
héi ®µm gi÷a hai Trung -¬ng §¶ng, 1971, Tµi liÖu ®· dÉn.
829 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Những ý kiến tự phê bình và phê bình của hai đồng chí lãnh đạo
cao nhất của Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động Việt Nam bao
hàm nội dung và phƣơng pháp tự phê bình và phê bình mẫu mực,
chân tình, hƣớng vào những vấn đề cơ bản của quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam; nêu ra các biện pháp thiết thực sát hợp
với trình độ nhận thức và năng lực của cán bộ hai nƣớc Lào, Việt Nam
lúc bấy giờ. Đây là một kinh nghiệm quý báu đƣợc tạo nên trong môi
trƣờng quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, gây tác
động tích cực đến sự phát triển của mối quan hệ đó.
Một hoạt động rất hữu ích nữa mà hai Đảng thƣờng xuyên tiến
hành là trao đổi kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng từ trong kháng
chiến chống đế quốc xâm lƣợc ngay trên chiến trƣờng hoặc trong
các cuộc hội đàm giữa các cấp lãnh đạo đảng và quân đội. Vận
dụng kinh nghiệm ấy vào thời điểm hai Đảng đang tiến tới đại hội
đề xƣớng chủ trƣơng đổi mới: Đại hội IV Đảng Nhân dân cách
mạng Lào và Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 27 tháng
9 năm 1986, diễn ra buổi gặp và làm việc giữa Tổng Bí thƣ Trƣờng
Chinh và Tổng Bí thƣ Cayxỏn Phômvihản tập trung vào chủ đề
quan trọng đó.
Đồng chí Cayxỏn Phômvihản thông báo ngắn gọn, súc tích tinh
thần, nội dung cơ bản Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào sẽ trình bày tại Đại hội lần
thứ IV của Đảng.
Trong bài phát biểu của mình, đồng chí Trƣờng Chinh biểu thị
sự tán thành đƣờng lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, đƣờng lối
quốc tế của Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Tiếp đó, đồng chí trình
bày những quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
chặng đƣờng đầu tiên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về kinh tế, điều
then chốt là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 830

lực lƣợng sản xuất; từng bƣớc xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan
liêu, bao cấp, chuyển hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh
xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế hoạch hoá.
Về công tác xây dựng đảng và công tác cán bộ, đồng chí nhấn
mạnh, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào
đều xuất thân từ Đảng Cộng sản Đông Dƣơng do Bác Hồ sáng lập.
Hai Đảng đã gắn bó chặt chẽ với nhau trải qua mấy chục năm đấu
tranh kiên cƣờng, vững vàng về chính trị. Đó là truyền thống cực
kỳ quý báu và là bản chất của hai Đảng.
Để nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng trong giai
đoạn mới của cách mạng, đồng chí nêu rõ: “Đảng chúng tôi xác
định phải đổi mới công tác của Đảng về nhiều mặt: đổi mới tƣ duy,
nhất là tƣ duy kinh tế, đổi mới bộ máy và hình thức tổ chức, đổi
mới việc đào tạo, bồi dƣỡng, lựa chọn và bố trí cán bộ, đổi mới
phong cách và lề lối làm việc”1.
Nói về sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đồng
chí nói: Đảng phải hết sức quan tâm xây dựng, củng cố sự điều
hành của bộ máy nhà nƣớc, nâng cao vai trò, vị trí của các đoàn thể
quần chúng, tăng cƣờng sức mạnh của toàn hệ thống chính trị mà
Đảng là hạt nhân lãnh đạo.
Việc trao đổi ý kiến về những vấn đề cơ bản mở đƣờng cho
công cuộc đổi mới tại Lào và Việt Nam là một hoạt động rất quan
trọng, vừa có lợi cho sự tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của hai Đảng,
vừa góp phần củng cố, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam tiến bƣớc trên con đƣờng cách mạng mà Bác Hồ và
Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã lựa chọn cho hai dân tộc Việt
Nam, Lào, dù cho trong hơn 10 năm cuối thế kỷ XX, chủ nghĩa xã

1
. Tr-êng Chinh: Lêi ph¸t biÓu trong cuéc gÆp vµ lµm viÖc víi ®ång
chÝ Tæng BÝ th- Cayxán Ph«mvih¶n (ngµy 27 th¸ng 9 n¨m 1986). Tµi
liÖu l-u t¹i ViÖn LÞch sö §¶ng, Häc viÖn ChÝnh trÞ - Hµnh chÝnh quèc
gia Hå ChÝ Minh.
831 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Hoạt động này làm phong phú
thêm kinh nghiệm của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam.

3. Tình cảm cách mạng thủy chung, trong sáng của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào là một
nhân tố trọng yếu tạo nên độ bền vững và phát triển của mối
quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
Lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã dành nhiều năm nghiên cứu lý luận
cách mạng và thực tiễn xã hội của các nƣớc đế quốc và thuộc địa.
Bằng phƣơng pháp tƣ duy độc lập của mình, Ngƣời đã nhận xét về
cuộc cách mạng tƣ sản Pháp và cách mạng tƣ sản Mỹ là những
cuộc cách mạng không đến nơi, tiếng là cộng hoà, dân chủ, kỳ thực
trong thì nó tƣớc lục (tƣớc đoạt) công nông, ngoài thì nó áp bức
thuộc địa. Cuối cùng, Ngƣời cho rằng chỉ có cách mạng Nga là đã
thành công, nghĩa là dân chúng đƣợc hƣởng tự do, hạnh phúc thật,
không phải tự do giả dối nhƣ chủ nghĩa đế quốc Pháp khoe khoang
bên An Nam. Từ đó, Ngƣời kết luận: muốn cách mạng thành công
phải có công nông làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan,
phải hy sinh, phải thống nhất.
Viết về Tư cách của một đảng chân chính cách mạng trong tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Ngƣời nêu rõ: “Đảng không phải là
một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung
sƣớng”1.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại lời căn dặn: “Đảng
ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí

1
. Hå ChÝ Minh: Toµn tËp, S®d, t.5, tr.249.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 832

công vô tƣ. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
ngƣời lãnh đạo, là ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân”1.
Những luận điểm nhất quán về bản chất và nhiệm vụ cơ bản
của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là cơ sở vững chắc
của tình cảm thuỷ chung, trong sáng, của tƣ duy chính trị và trách
nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân cách mạng
Lào đƣợc áp dụng đối với cả hai dân tộc và nhân dân hai nƣớc Việt
Nam, Lào trong quá trình hai Đảng lãnh đạo vun đắp, phát triển
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Sự nghiệp cách mạng của hai dân tộc do Đảng Cộng sản Việt
Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo gắn bó chặt chẽ
với nhau nhƣ một quy luật sống còn và đƣợc thực hiện bằng trách
nhiệm giúp bạn là mình tự giúp mình.
Tuân theo quy luật ấy và thấm nhuần, giữ vững các nguyên tắc
hoạt động do hai Đảng nhất trí đề ra và thực hiện nhƣ đã viết, công
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm lâu dài, gian khổ và ác liệt đã
thành công. Trên chặng đƣờng xây dựng đất nƣớc theo định hƣớng
xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới tại Lào và Việt Nam đã giành
đƣợc thắng lợi có ý nghĩa lịch sử, đó cũng là thành quả của quan hệ
đoàn kết, hợp tác toàn diện giữa hai nƣớc; cũng là kinh nghiệm quý
báu cho sự phát triển bền vững của mối quan hệ đó.
Trƣớc sự biến đổi nhanh chóng của thời cuộc, của tính chất đa
phƣơng, đa dạng trong quan hệ quốc tế, trong công tác xây dựng
đảng của hai Đảng theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và con đƣờng cách
mạng mà Ngƣời đã lựa chọn cho hai dân tộc càng cần thƣờng xuyên
quan tâm giữ vững, nâng cao tình cảm cách mạng thuỷ chung,
trong sáng của hai Đảng, một nhân tố trọng yếu tạo nên độ bền
vững và phát triển của quan hệ Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào.

1
. Hå ChÝ Minh: Toµn tËp, S®d, t.12, tr.498.
833 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

Hơn thế nữa, tình cảm cao quý đó cần đƣợc gắn kết chặt chẽ với
những quan điểm, nguyên tắc đoàn kết, hợp tác Việt Nam - Lào, Lào
- Việt Nam trong tƣ duy và hành động của hệ thống tổ chức đảng từ
trung ƣơng đến các cấp bộ đảng và tỏa rộng trong nhân dân, từ thế
hệ trƣớc qua thế hệ sau để bảo vệ, phát triển mối quan hệ đặc biệt
này lên tầm phong phú hơn, đạt hiệu quả cao hơn.

4. Khai thác, phát huy các nhân tố, điều kiện cần thiết để
xây dựng, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam
Việt Nam và Lào sống bên nhau tại hai triền Đông, Tây dãy
Trƣờng Sơn hùng vĩ, là điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho sự phát
triển của nhiều loài động vật, thực vật có giá trị kinh tế cao và quý
hiếm, là địa bàn có nhiều di tích lịch sử, thắng cảnh tự nhiên nhƣ
hang động kỳ thú, rừng nguyên sinh hoang sơ và nhiều địa điểm
thích hợp với du lịch, nghỉ dƣỡng.
Đây cũng là nơi có nhiều dòng sông chảy qua với độ dốc lớn, là
lợi thế xây dựng nhiều nhà máy thuỷ điện, cung cấp điện cho sản
xuất, đời sống của nội địa và xuất khẩu.
Về mặt địa - quân sự và địa - kinh tế, dãy Trƣờng Sơn là một
tƣờng thành hiểm yếu, vững chắc với núi rừng bao la kín đáo che
khuất, tạo thuận lợi cho hai nƣớc tựa lƣng vào nhau trong chiến
tranh bảo vệ nền độc lập của đất nƣớc. Tại đây, có nhiều vị trí
thuận lợi khống chế một địa bàn rộng lớn của hai nƣớc.
Về hoạt động kinh tế, hai nƣớc bổ sung cho nhau bằng thế
mạnh của mỗi nƣớc là rất hợp lý. Việt Nam có bờ biển dài, nhiều
cảng biển rất gần Lào, có thể ƣu tiên cho Lào sử dụng xuất nhập
khẩu hàng hoá, tạo thuận lợi cho nƣớc bạn phát triển kinh tế và mở
rộng giao lƣu quốc tế. Còn Lào thì giúp Việt Nam qua đƣờng bộ, đi
về phía Tây vào sâu lục địa châu á.
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 834

Trong hai nƣớc, Lào có nhiều đất đai chƣa khai thác và nguồn
tài nguyên rừng, khoáng sản phong phú, Việt Nam có nguồn nhân
công lớn, trên cơ sở đó, hai nƣớc cần tăng cƣờng hợp tác về nông
nghiệp, lâm nghiệp nhằm bổ sung, tạo thế mạnh cho mỗi bên và gia
tăng hiệu quả hợp tác.
Các điều kiện đó cần đƣợc khảo sát, đánh giá một cách tổng thể
và lập quy hoạch cho việc khai thác giá trị kinh tế, văn hoá có lợi
nhất cho hai nƣớc theo hƣớng vừa sử dụng, khai thác vừa bảo vệ và
nâng cao giá trị lâu bền của nó.
Ngoài những điều kiện trên, hai nƣớc Việt Nam, Lào còn có
một ƣu thế nổi trội vô cùng quý giá là quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam mà hai Đảng, hai dân tộc cần luôn luôn vun
đắp, bảo vệ và phát huy trong mọi hoạt động chính trị, tƣ tƣởng,
kinh tế, quốc phòng, an ninh, ngoại giao, văn hoá, giáo dục, đào tạo
nhân lực, nhân tài.
Trƣớc hết, nhiều giá trị lý luận và hoạt động thực tiễn trong các
lĩnh vực trên cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thấu đáo và đề
xuất các phƣơng án vận dụng, phát triển trong hiện tại và tƣơng lai.
Trong đó, đặc biệt chú trọng đầu tƣ nghiên cứu tƣ tƣởng và phƣơng
pháp Hồ Chí Minh, các luận điểm và hoạt động thực tiễn của đồng
chí Cayxỏn Phômvihản và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc, các
hoạt động của các cấp bộ đảng, lực lƣợng vũ trang, các ngành, các
cấp địa phƣơng, các tầng lớp nhân dân trong quá trình phát triển
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Qua đó, tổng
kết, phân tích, đánh giá nội hàm của quy luật hình thành, phát triển
và giá trị thời đại của nó; các quan điểm, nguyên tắc và phương
pháp xây dựng, bảo vệ và vun đắp mối quan hệ đó ở cấp độ vĩ mô
và vi mô trong mọi lĩnh vực của đời sống...
Để có thể thực hiện đạt kết quả tốt công tác nghiên cứu chủ đề
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, cần củng cố các
835 Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc...

đơn vị nghiên cứu và đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên ngành về kiến
thức, phƣơng pháp nghiên cứu, ngoại ngữ.
Nên tổ chức biên soạn các loại bài giảng chuyên đề cho những
đơn vị đào tạo, cán bộ lãnh đạo, quản lý, các trƣờng đại học, cao
đẳng và sách giáo khoa phổ thông với hình thức và mức độ thích
hợp. Cũng cần khuyến khích, động viên các ngành văn hoá, nghệ
thuật sáng tác, biểu diễn rộng rãi các tác phẩm thuộc đề tài quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Nhân tố quan trọng nhất là giữ gìn sự trong sáng của hai đảng
mácxít - lênninnít vốn cùng một gốc là Đảng Cộng sản Đông
Dƣơng do lãnh tụ Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, rồi
phát triển thành Đảng Lao động Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam, Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Các Đảng đó đều đƣợc
trƣởng thành vững vàng qua đấu tranh gian khổ và hy sinh, qua biết
bao thử thách khắc nghiệt chống kẻ thù chung và đối phó với các
mƣu đồ, thủ đoạn chia rẽ, phá hoại tình đoàn kết Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam do các thế lực thù địch gây ra. Hai Đảng đã đảm
đƣơng xuất sắc vai trò lãnh đạo hai nƣớc, làm nên nhiều kỳ tích
trong lịch sử của hai dân tộc Việt Nam, Lào.
Hiện thực lịch sử đó càng cho chúng ta thấy rõ yêu cầu nâng
cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân
dân cách mạng Lào là nhiệm vụ then chốt cho sự phát triển của
hai nƣớc Việt Nam, Lào, cho quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam. Đồng thời, cần mở rộng và tăng cƣờng hơn nữa
quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hệ thống chính trị, doanh nghiệp và
các ngành, các địa phƣơng của hai nƣớc Việt Nam, Lào, nhất là
các tỉnh tại địa bàn biên giới hai nƣớc, nơi thƣờng xuyên và trực
tiếp giao lƣu, phối hợp với chính quyền, nhân dân và lực lƣợng vũ
trang cùng cấp thực hiện các nhiệm vụ do Trung ƣơng Đảng, Nhà
nƣớc của nƣớc sở tại giao cho trong các lĩnh vực an ninh, quốc
Ch-¬ng Ix: thµnh qu¶, ý nghÜa vµ bµi häc... 836

phòng, kinh tế, văn hóa... Cần phát triển công tác đào tạo cán bộ
lãnh đạo, quản lý chuyên môn nghiệp vụ của các ngành, các cấp
phục vụ nhiệm vụ cách mạng của hai nƣớc và thắt chặt hơn nữa
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Mặt khác, cũng cần thực hiện những chủ trƣơng, biện pháp đấu
tranh hữu hiệu chống các thủ đoạn chia rẽ dân tộc và phá vỡ quan
hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam do các thế lực thù địch
gây ra.
Chương X

PHẤN ĐẤU ĐƯA QUAN HỆ ĐẶC BIỆT


VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM LÊN TẦM CAO MỚI

I. QUAN HỆ VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM


TRONG BỐI CẢNH MỚI

1. Các nước lớn và các nước phát triển tăng cường hợp tác
với ASEAN và các nước Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS)
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra
với tốc độ nhanh và ngày càng sâu sắc
Bƣớc sang thế kỷ XXI, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giới hiện đại trên
tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế, khoa học, công nghệ, thƣơng
mại... Đó là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nƣớc
tham gia, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác
vừa có đấu tranh. Toàn cầu hóa vừa có thời cơ cho sự hội nhập và
phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời cũng là những thách thức to
lớn, nhiều khi hoàn toàn mới mẻ đối với các nƣớc còn đang ở tình
trạng chậm phát triển. Thế giới đứng trƣớc nhiều vấn đề toàn cầu
mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không
có sự hợp tác đa phƣơng.
ở Việt Nam, đứng trƣớc xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế, từ Đại hội lần thứ IX (tháng 4 năm 2001), Đảng Cộng
sản Việt Nam đã chủ trƣơng: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 838

và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc, bảo vệ môi trƣờng”1. Tới Đại hội X Đảng Cộng sản
Việt Nam (tháng 4 năm 2006), quan điểm này đƣợc làm rõ hơn:
“Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng
hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin
cậy của các nƣớc trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào
tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”2...
ở Lào, trên cơ sở nhận thức quá trình toàn cầu hóa và sự hội
nhập giữa các nƣớc trong khu vực Đông Nam á diễn ra vừa hợp tác,
vừa ganh đua khốc liệt, Đại hội lần thứ VIII Đảng Nhân dân cách
mạng Lào (tháng 3 năm 2006) chủ trƣơng: “Kiên định quan điểm
chủ động và thái độ tích cực trong hội nhập quốc tế và khu vực
bằng việc phát huy cao độ sức mạnh của dân tộc và tiềm năng của
đất nƣớc, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy của tất cả các nƣớc nhằm đảm bảo lợi ích chung và lợi
ích riêng của mỗi bên”3.
Từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ
XXI, đặc biệt là từ sau Đại hội lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam
và Đại hội lần thứ VIII Đảng Nhân dân cách mạng Lào, hai nƣớc
đã chủ động và tích cực tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực, từng bƣớc đạt đƣợc những kết quả đáng khích
lệ. Những kết quả bƣớc đầu đó đã góp phần đẩy mạnh công cuộc
đổi mới ở mỗi nƣớc; đồng thời thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện

1
. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam: V¨n kiÖn §¹i héi ®¹i biÓu toµn quèc lÇn
thø IX, Nxb. ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi, 2001, tr.120.
2
. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam: V¨n kiÖn §¹i héi ®¹i biÓu toµn quèc lÇn
thø X, Nxb. ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi, 2006, tr.112.
3
. §¶ng Nh©n d©n c¸ch m¹ng Lµo: B¸o c¸o chÝnh trÞ t¹i §¹i héi §¶ng
toµn quèc lÇn thø VIII (th¸ng 3 n¨m 2006), Tµi liÖu néi bé, tr.18.
839
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

giữa hai nƣớc ngày càng có hiệu quả hơn, tạo nên vị thế chiến lƣợc
rất quan trọng cho cả hai nƣớc trong khu vực.
Đến cuối năm 2007, Việt Nam và Lào cùng là thành viên đầy đủ
của Hiệp hội các nƣớc Đông Nam á (ASEAN), tổ chức Tiểu vùng
Mê Công mở rộng (GMS), Tam giác phát triển Campuchia - Lào -
Việt Nam (CLV)... Nhƣ vậy, cả Việt Nam và Lào đã không thể tách
rời và bị ảnh hƣởng sâu sắc bởi các chuyển biến ngày càng sôi động
của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Nhiều cơ hội đang
mở ra cho quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam; đồng
thời mối quan hệ này cũng đang phải đối mặt với những thách thức
lớn, nhất là khi có các đối tác mạnh, nhiều tiềm năng tham gia trực
tiếp và ngày càng gia tăng vào tiến trình hội nhập của khu vực châu á
- Thái Bình Dƣơng và ASEAN...
Trƣớc hết, quan hệ hợp tác đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam trong giai đoạn mới chịu sự tác động trực tiếp của quá trình hội
nhập quốc tế và khu vực đang diễn ra ngày càng sôi động với tốc độ
nhanh và ngày càng sâu sắc. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực đang là xu thế phổ biến hiện nay và trụ lực chính của tiến
trình này là tự do hóa thƣơng mại. Khu vực Đông Nam á nói chung và
Tiểu vùng Mê Công nói riêng đang gia tăng mạnh mẽ các lộ trình hội
nhập trên nhiều cấp độ. Mặc dù thuộc nhóm các nƣớc thành viên mới
của ASEAN và cũng là các đối tác yếu trong hợp tác Tiểu vùng Mê
Công mở rộng (GMS), nhƣng các nƣớc này cũng đang cam kết mạnh
mẽ việc thúc đẩy Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) phấn đấu đạt đến
mức thuế 0% vào năm 2012 trên 12 lĩnh vực ƣu tiên đã đƣợc tuyên bố
tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 10 tại Viêng Chăn (tháng 10 năm
2004). Thông qua tiếp cận của toàn ASEAN nhƣ là một đầu mối phối
hợp cho các sáng kiến hợp tác Đông á và ý tƣởng về cộng đồng Đông
á, Việt Nam và Lào cũng đã và đang thể hiện sự tham gia tích cực vào
các chƣơng trình hợp tác Đông á. Trên cơ sở mở rộng khuôn khổ của
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), các phƣơng thức hợp tác
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 840

ASEAN+1, ASEAN+3... đã đƣợc Việt Nam và Lào tích cực hƣởng


ứng.
ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế tăng trƣởng
với tốc độ nhanh nhất thế giới và ngày càng khẳng định vai trò
trong khu vực châu á - Thái Bình Dƣơng, không ngừng thu hút, mở
rộng hợp tác kinh tế, thƣơng mại với nhiều đối tác quan trọng trên
thế giới, từng bƣớc khẳng định vị thế quốc tế của mình.
Vị trí địa - chiến lƣợc của Đông Nam á ở khu vực châu á - Thái
Bình Dƣơng từ lâu đã trở thành địa bàn tranh chấp ảnh hƣởng và
quyền lực giữa các nƣớc lớn trên thế giới. Cùng với sự phát triển nhƣ
vũ bão của quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa, Đông Nam á ngày
càng trở nên sống động không chỉ bởi sự gia tăng hợp tác và liên kết
nội khối, mà còn trở thành nơi hội tụ của các sáng kiến mới thúc đẩy
quan hệ hợp tác ASEAN với các đối tác bên ngoài, đặc biệt là đối với
các nƣớc lớn và các nƣớc phát triển. Trƣớc xu thế đó, các nhà lãnh
đạo ASEAN càng nhận thức rõ hơn tính bức thiết trong việc đẩy
nhanh tiến trình hội nhập trong nội khối cũng nhƣ ngoài khu vực.
Chính vì vậy, việc hƣớng tới một cộng đồng ASEAN (AC) bền chặt,
đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, là phƣơng cách giúp khối liên kết chặt
chẽ, xích lại gần nhau hơn vì một hiệp hội thống nhất; đồng thời mở
rộng quan hệ đối tác, đối thoại chiến lƣợc với các nƣớc, các tổ chức
quốc tế; gia tăng vị thế và sức hấp dẫn của ASEAN trên trƣờng quốc
tế.
Những năm qua, ASEAN từng bƣớc tạo đƣợc quan hệ khá sâu
rộng với nhiều đối tác quan trọng, đạt đƣợc nhiều thỏa thuận với
hầu hết các bên đối thoại trong khuôn khổ quan hệ đối tác chiến
lƣợc hoặc toàn cầu. Thúc đẩy nhanh tiến trình hoàn tất việc xây
dựng các khu vực mậu dịch tự do (FTA) với mục tiêu rõ ràng.
Trƣớc mắt là tiến hành các cuộc đàm phán tự do hóa thƣơng mại
với Hàn Quốc năm 2008, Ôxtrâylia và Niu Dilân năm 2009, Trung
Quốc năm 2010, ấn Độ năm 2011, Nhật Bản năm 2012.
841
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

Với sự phát triển ngày càng lớn mạnh và vị trí quan trọng trong
khu vực châu á - Thái Bình Dƣơng và trên thế giới của các nƣớc
ASEAN, các nƣớc lớn và phát triển ngày càng quan tâm và tăng
cƣờng mở rộng quan hệ, đặc biệt là hợp tác kinh tế, thƣơng mại và
đầu tƣ vào khu vực này, góp phần tạo ra một diện mạo mới cho khu
vực - một vùng đệm năng động nằm giữa hai trung tâm tăng trƣởng
mạnh là Trung Quốc và ấn Độ; đồng thời đã và đang lôi cuốn sự
tham gia của hầu hết các nƣớc lớn vào tiến trình này.
Trƣớc hết phải kể đến Trung Quốc, một quốc gia rộng lớn với
hơn 1,3 tỷ dân, có chung đƣờng biên giới với ba quốc gia (Việt
Nam, Lào, Mianma) và lợi ích trên biển Đông với 9/10 quốc gia
Đông Nam á. Tháng 11 năm 2002, Hiệp định khung về hợp tác
kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc đƣợc ký kết tại
Phnôm Pênh tạo nền tảng pháp lý quan trọng để tăng cƣờng hợp tác
kinh tế nhiều mặt giữa ASEAN và Trung Quốc, trong đó quan
trọng nhất là việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc (ACFTA) trong vòng 10 năm1.

Thùc hiÖn HiÖp ®Þnh khung, c¸c n-íc ASEAN vµ Trung Quèc ®· tiÕn
hµnh Ch-¬ng tr×nh thu ho¹ch sím ®Ó cïng c¾t gi¶m thuÕ quan nhanh ®èi
víi c¸c mÆt hµng n«ng s¶n. C¸c n-íc ASEAN cò (s¸u n-íc) vµ Trung
Quèc thùc hiÖn c¾t gi¶m thuÕ quan xuèng 0% tõ th¸ng 1 n¨m 2004 ®Õn
th¸ng 1 n¨m 2006. §èi víi ViÖt Nam vµ Lµo th× ®-îc -u tiªn kÐo dµi h¬n
(ViÖt Nam tõ th¸ng 1 n¨m 2004 ®Õn th¸ng 1 n¨m 2008, Lµo tõ th¸ng 1
n¨m 2006 ®Õn th¸ng 1 n¨m 2009). Th¸ng 11 n¨m 2004, hai bªn ®· ký
HiÖp ®Þnh vÒ c¬ chÕ gi¶i quyÕt tranh chÊp (dù kiÕn ®Õn th¸ng 1 n¨m 2010
chÝnh thøc thµnh lËp Khu vùc mËu dÞch tù do ASEAN - Trung Quèc).
Dùa trªn trô chÝnh lµ Khu vùc mËu dÞch tù do ASEAN - Trung Quèc
(ACFTA), Trung Quèc ®· vµ ®ang triÓn khai m¹nh chiÕn l­îc “mét trôc, hai
c¸nh” víi khu vùc ASEAN. NghÜa lµ chñ ®éng x©y dùng: Hµnh lang kinh tÕ
C«n Minh - Madawy (Mianma) ®Ó th«ng ra Ên §é D-¬ng; hµnh lang kinh tÕ
xuyªn ¸, b¾t ®Çu tõ Nam Ninh vµo ViÖt Nam rÏ sang Lµo qua Th¸i Lan,
Malaixia, sang Xingapo vµ Hµnh lang kinh tÕ trªn biÓn nèi tõ H¶i Nam
(Trung Quèc) xuèng Malaixia.
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 842

Những năm gần đây, hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN
không ngừng đƣợc mở rộng và phát triển theo hƣớng quan hệ đối
tác chiến lƣợc vì hoà bình và thịnh vƣợng. Kim ngạch trao đổi
thƣơng mại giữa Trung Quốc và các nƣớc ASEAN năm 2005 đạt
130,4 tỷ USD, trong đó trao đổi buôn bán với Việt Nam, Lào, Thái
Lan, Mianma, Campuchia đạt 32 tỷ USD (theo nguồn của NCIEC);
riêng với Việt Nam, tổng kim ngạch thƣơng mại năm 2007 đạt gần
17 tỷ USD. Dự kiến đến năm 2009, vốn đầu tƣ của Trung Quốc vào
các nƣớc ASEAN sẽ đạt 150 tỷ USD. Với lợi thế 1,9 tỷ dân (chiếm
1/3 dân số thế giới), tổng quy mô kinh tế khoảng 6.000 tỷ USD,
Khu vực mậu dịch Trung Quốc - ASEAN đƣợc đánh giá là thị
trƣờng lớn nhất, là hành lang kinh tế quan trọng của thế giới. Từ
tháng 1 năm 2010, Trung Quốc và ASEAN sẽ có khu vực mậu dịch
tự do, từ đây 90% các mặt hàng giữa Trung Quốc và ASEAN sẽ có
thuế suất bằng 0, mở cửa thực chất về thị trƣờng, thể hiện thiện chí
của ASEAN và Trung Quốc trong việc tự do hóa, đẩy mạnh việc
thực hiện những biện pháp tích cực giúp nền kinh tế toàn cầu sớm
ổn định và phát triển.
Nhƣ vậy, những dự án hợp tác mới của Trung Quốc sẽ tác động
rất lớn đến các chiều hƣớng phát triển của toàn ASEAN và các
nƣớc Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS).
Mỹ và ASEAN có quan hệ từ lâu. Những năm gần đây, Mỹ
dành viện trợ giúp ASEAN thực hiện các dự án chuyển giao công
nghệ, phát triển nguồn nhân lực, môi trƣờng. Mỹ đánh giá cao vai
trò của ASEAN trong việc phát huy hòa bình, ổn định và thịnh
vƣợng trong khu vực châu á - Thái Bình Dƣơng, giữ vị trí trung
tâm trong tiến trình xây dựng các cơ chế liên kết toàn vùng. Tháng
6 năm 2007, Mỹ đã ký Hiệp định khung về thƣơng mại và đầu tƣ
(TIFA) với ASEAN (tiền thân của Hiệp định tự do thƣơng mại đầy
đủ). Ngày 22 tháng 6 năm 2007, Hiệp định khung về thƣơng mại và
đầu tƣ giữa Việt Nam và Mỹ đã đƣợc ký kết trong chuyến thăm Mỹ
843
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

của Chủ tịch nƣớc Nguyễn Minh Triết. Tháng 7 năm 2009, Mỹ đã
ký với ASEAN Hiệp ƣớc thân thiện và hợp tác (TAC), hứa hẹn
mang lại cho hiệp hội ASEAN nhiều cơ hội thu hút đầu tƣ và phát
triển. Từ tháng 9 năm 2010, Mỹ và ASEAN tuyên bố xây dựng
quan hệ đối tác tăng cƣờng,...
Nhật Bản cũng là nƣớc sớm có quan hệ với các nƣớc ASEAN,
đặc biệt là những năm gần đây phát triển theo hƣớng đối tác chiến
lƣợc.
Đối với dự án phát triển tam giác Lào - Campuchia - Việt Nam,
Nhật Bản đã tiến hành tài trợ và đầu tƣ vào khu vực này với cơ chế
hợp tác Lào - Campuchia - Việt Nam + Nhật Bản (LCV+J). Từ sau
Hội nghị cấp cao lần thứ nhất tại Viêng Chăn (tháng 11 năm 2004),
Nhật Bản đã viện trợ không hoàn lại cho ba nƣớc thông qua việc hỗ
trợ các dự án nhỏ trong lĩnh vực phát triển nông thôn và an sinh
xã hội. Tại Hội nghị cấp cao lần thứ hai tại Malaixia (tháng 12
năm 2005), Nhật Bản cam kết hỗ trợ 2 tỷ yên cho 16 dự án của ba
nƣớc trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, dân sinh... Tại Hội nghị
cấp cao lần thứ ba tại Philíppin (tháng 1 năm 2007), Nhật Bản hỗ trợ
ba nƣớc 20 triệu USD trong khoản hỗ trợ 52 triệu USD cho thúc đẩy
hợp tác kinh tế ASEAN - Nhật Bản. Cũng trong năm 2007, ba nƣớc
Việt Nam, Lào, Campuchia đề nghị Nhật Bản hỗ trợ 12 dự án hạ
tầng. Nhật Bản cũng đang tích cực đàm phán để xây dựng khu vực
mậu dịch tự do giữa Nhật Bản và ASEAN vào năm 2012 và đến giữa
năm 2008, Nhật Bản tiến hành bãi bỏ thuế quan đánh vào 90% lƣợng
hàng hóa nhập khẩu từ các nƣớc ASEAN.
Hàn Quốc trở thành bên đối thoại chính thức của ASEAN từ
năm 1991. Năm 2005, hai bên đã ký Hiệp định khung về hợp tác
kinh tế toàn diện. ASEAN - Hàn Quốc, hình thành khu vực mậu
dịch tự do song phƣơng vào năm 2009. Kim ngạch thƣơng mại và
đầu tƣ trực tiếp của Hàn Quốc vào ASEAN ngày càng đƣợc mở
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 844

rộng và tăng cƣờng theo hƣớng đối tác chiến lƣợc.


ấn Độ trở thành bên đối thoại đầy đủ của ASEAN năm 1995,
Hiệp định thƣơng mại hàng hóa ASEAN - ấn Độ cũng đang đƣợc
xúc tiến, tạo nền tảng quan trọng cho gia tăng thƣơng mại hai chiều,
với mục tiêu phấn đấu đạt 70 tỷ USD vào hai năm 2010 - 2011. Hai
bên đƣa ra đề xuất khởi động lại Hội đồng kinh doanh ASEAN - ấn
Độ. ấn Độ cũng đã khẳng định tiếp tục hợp tác và hỗ trợ cho
ASEAN về khoa học - công nghệ và quyết tâm phát triển quan hệ
ấn Độ - ASEAN lên tầm cao mới trở thành quan hệ đối tác vì hoà
bình, phát triển và thịnh vƣợng.
Ôxtrâylia là nƣớc công nghiệp đầu tiên thiết lập quan hệ đối
thoại chính thức với ASEAN. Dự kiến đến đầu năm 2009 hai bên
sẽ ký Hiệp định khu vực thƣơng mại tự do ASEAN - Ôxtrâylia -
Niu Dilân (AANZFTA). Hiệp định này sẽ mang lại nhiều cơ hội
hợp tác và đầu tƣ cho cả hai bên. Trong đó kim ngạch thƣơng mại
Ôxtrâylia - ASEAN đến năm 2008 đạt hơn 100 tỷ AUD. Riêng đối
với Việt Nam, đến năm 2007, Ôxtrâylia là đối tác thƣơng mại lớn
thứ bảy và là thị trƣờng xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam. Kim
ngạch thƣơng mại giữa hai nƣớc tăng đều và khá cao, từ mức 32
triệu USD năm 1990 lên 4,56 tỷ USD năm 2007, dự kiến năm 2008
đạt 7 tỷ USD.
Về đầu tƣ, tính đến hết năm 2007, Ôxtrâylia có gần 200 dự án
đầu tƣ vào Việt Nam với số vốn đạt hơn 1 tỷ USD, tập trung vào
các lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, dịch vụ, giáo dục, công
nghiệp chế biến, nông - lâm - ngƣ nghiệp; đứng thứ 20 trong tổng
số 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tƣ vào Việt Nam. Hợp tác về
giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam và Ôxtrâylia những năm qua
phát triển mạnh. Đến hết năm 2007 đã có hơn 15.000 sinh viên và
nghiên cứu sinh Việt Nam đang học tập tại Ôxtrâylia, ngoài ra còn
có hơn 5.000 sinh viên Việt Nam theo học tại Học viện Hoàng gia
Menbơn (Melbourne-RMIT) tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
845
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

Hợp tác và đầu tƣ của Ôxtrâylia vào Việt Nam trong các lĩnh vực
an ninh, quốc phòng, lao động, viễn thông, nông nghiệp, giao thông
vận tải, công nghiệp, du lịch, thể thao... ngày càng phát triển và với
quy mô ngày càng lớn.
Liên bang Nga luôn coi ASEAN nhƣ một đối tác ƣu tiên trong
chính sách đối ngoại của mình và gần đây đang tăng cƣờng và mở
rộng chƣơng trình phát triển hợp tác với ASEAN đến năm 2015
theo hƣớng quan hệ đối tác toàn diện. Đặc biệt, Việt Nam và Lào là
những quốc gia có quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống nên
Nga rất chú ý và xúc tiến chuẩn bị những chƣơng trình hợp tác rộng
lớn trên nhiều lĩnh vực: chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, giáo
dục đào tạo...
Liên minh châu Âu (EU) cùng với ASEAN đã thỏa thuận nhất
trí tái khởi động đàm phán về xây dựng khu vực mậu dịch tự do
bao gồm 37 nền kinh tế với hơn 1 tỷ ngƣời tiêu dùng. Với EU,
ASEAN là một tổ chức quan trọng giúp thúc đẩy việc hội nhập
giữa EU với châu á.
Đối với EU, Việt Nam là đối tác thƣơng mại lớn thứ năm của
EU. EU đánh giá cao sự năng động và tốc độ phát triển nhanh của
kinh tế Việt Nam và ngày càng tăng cƣờng mở rộng quan hệ hợp
tác với Việt Nam. Đến hết năm 2007, kim ngạch thƣơng mại giữa
hai bên đạt gần 12 tỷ euro. Quan hệ ASEAN - EU đang đƣợc xây
dựng theo hƣớng đối tác tăng cƣờng.
Nhƣ vậy là sự gia tăng điều chỉnh chiến lƣợc hợp tác của các
nƣớc lớn và các nƣớc phát triển đối với ASEAN nói chung và các
nƣớc thuộc Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) nói riêng sẽ tác
động rất lớn đến các chiều hƣớng phát triển của toàn ASEAN và
GMS. Hội nhập khu vực rõ ràng đã tạo ra cho Việt Nam và Lào
những vị thế địa - chính trị mới. Các nƣớc lớn và phát triển quan
tâm đến khu vực này là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 846

mỗi nƣớc GMS, trong đó có Việt Nam và Lào.


Tuy nhiên, đây cũng sẽ là tâm điểm của sự tranh giành quyền
lực và ảnh hƣởng của các nƣớc lớn và các nền kinh tế phát triển,
tác động tiêu cực đến các nƣớc ASEAN và GMS, trong đó có Việt
Nam và Lào. Mặt khác, vƣợt ra ngoài những nội dung hội nhập
kinh tế, các vấn đề về chính trị và an ninh nảy sinh trong sự tƣơng
tác về quan hệ lợi ích chiến lƣợc giữa các nƣớc lớn với nhau và
những tham vọng của các nƣớc này đối với khu vực rất có thể sẽ
đẩy các nƣớc trong khu vực tới những bất ổn khó lƣờng. Đặc biệt
là các hiệu ứng khủng hoảng chính trị, các vấn đề về xung đột sắc
tộc, tôn giáo, tranh chấp chủ quyền ở biển Đông... sẽ có tác động
tiêu cực đến tình hình chính trị, an ninh nội bộ mỗi nƣớc trong
khu vực. Nói tóm lại, bên cạnh những cơ hội lớn của các quá trình
hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng sâu sắc, các nƣớc trong
khu vực (ASEAN), trong đó có Việt Nam và Lào, cũng phải đối
mặt với những thách thức, bất lợi vô cùng to lớn. Để ổn định và
phát triển, đặc biệt là trong sự hợp tác, các nƣớc này phải tính đến
những thực tế đó.

2. Hợp tác giữa các nước Tiểu vùng Mê Công mở rộng


(GMS) diễn ra mạnh mẽ và ngày càng có hiệu quả
Chƣơng trình hợp tác Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS)
đƣợc thành lập năm 1992 do Ngân hàng Phát triển châu á (ADB)
hỗ trợ, bao gồm các nƣớc: Thái Lan, Mianma, Lào, Campuchia,
Việt Nam và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Đến năm 2005, Khu
tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây (Trung Quốc) cũng tham gia
vào tổ chức này.
Các bên đã triển khai hợp tác trên chín lĩnh vực trọng điểm
gồm: giao thông vận tải, năng lƣợng, bƣu chính viễn thông, nông
nghiệp, bảo vệ môi trƣờng, thƣơng mại, đầu tƣ, đào tạo nguồn
847
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

nhân lực và du lịch. Mục đích của chƣơng trình là đẩy mạnh
quan hệ kinh tế dựa trên nền văn hóa và lịch sử chung. Chƣơng
trình GMS xây dựng chiến lƣợc ba mũi nhọn để đạt đƣợc tầm
nhìn về một tiểu vùng thịnh vƣợng, hội nhập và đoàn kết. Nghĩa
là: tăng cƣờng tính kết nối thông qua phát triển bền vững cơ sở
hạ tầng và hành lang kinh tế xuyên quốc gia; nâng cao tính cạnh
tranh thông qua giao thƣơng hàng hóa và đi lại qua biên giới của
ngƣời dân, các thị trƣờng hội nhập và quy trình sản xuất, do đó
tạo điều kiện dễ dàng cho tiểu vùng hội nhập vào nền kinh tế
toàn cầu; xây dựng tính cộng đồng vững mạnh hơn thông qua
những chƣơng trình giải quyết các vấn đề môi trƣờng và xã hội
chung.
GMS đã trải qua Hội nghị cấp cao lần thứ nhất tại Phnôm Pênh
vào năm 2002. Tại đây, các nhà lãnh đạo các nƣớc GMS đƣa ra
cam kết chung về thúc đẩy hợp tác trong Tiểu vùng Mê Công mở
rộng. Lần thứ hai vào tháng 7 năm 2005, tại Côn Minh (Trung
Quốc), Hội nghị ra tuyên bố chung tái khẳng định cam kết thực
hiện tầm nhìn của hợp tác Tiểu vùng Mê Công mở rộng nhằm phát
huy hết tiềm năng to lớn tạo ra sự phát triển bền vững cho tất cả các
nƣớc trong khu vực. Tăng cƣờng hơn nữa tính liên kết, khả năng
cạnh tranh, tính cộng đồng để tăng cƣờng quan hệ đối tác vì sự
phồn vinh và thịnh vƣợng chung. Các nƣớc trong tiểu vùng đã ký
kết các văn kiện hợp tác về giao thông vận tải, mua bán điện, phối
hợp kiểm soát bệnh dịch động vật, xây dựng siêu xa lộ thông tin
các nƣớc GMS.
Tính đến hết năm 2007, hơn 100 dự án phát triển ở tất cả các
lĩnh vực nhƣ: phát triển hạ tầng, môi trƣờng, giải quyết các vấn đề
đầu tƣ cũng nhƣ sáng kiến hỗ trợ về thể chế... đã đƣợc triển khai và
ngày càng phát huy tác dụng, nhất là đối với các vấn đề tăng
trƣởng, giảm nghèo và hội nhập khu vực của GMS. Bên cạnh sáng
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 848

kiến của ADB là các sáng kiến ACMECS (Tổ chức chiến lƣợc hợp
tác kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mê Công)1, Tam giác
phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam2 do chính các nƣớc này đề
xuất. Ngoài ra còn một số chƣơng trình lớn khác về thu hẹp chênh
lệch phát triển cho các thành viên mới của ASEAN (trong đó có
Việt Nam và Lào) do các tổ chức quốc tế nhƣ UNDP, UNESCAP
và WB đề xuất và cung cấp tài chính. Ngoài các chƣơng trình hợp
tác khu vực mang tính chính thống, nhiều chƣơng trình song
phƣơng giữa các nƣớc tiểu vùng với các nƣớc bên ngoài, nhất là từ
các nƣớc phát triển, cũng nhằm mục đích hỗ trợ hội nhập khu vực.
Chiến lƣợc hợp tác mới của GMS do ADB đề xuất và hỗ trợ giai
đoạn 2004 - 2008 tập trung vào bốn lĩnh vực: tăng cƣờng mối liên
kết và triển khai các hoạt động du lịch xuyên quốc gia; hội nhập thị
trƣờng quốc gia để tăng hiệu quả kinh tế và phát triển khu vực tƣ
nhân, nhất là phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ; giải quyết vấn
đề phát triển nguồn nhân lực thông qua y tế, các vấn đề kinh tế - xã

1
. ACMECS ®-îc thµnh lËp th¸ng 11 n¨m 2003 nh»m môc ®Ých t¨ng
c-êng ho¹t ®éng hîp t¸c kinh tÕ gi÷a c¸c n-íc ë khu vùc §«ng Nam ¸ lôc
®Þa bao gåm Th¸i Lan, Mianma, Campuchia, Lµo, ViÖt Nam (n¨m 2004).
§Õn nay, Héi nghÞ cÊp cao lÇn thø nhÊt ®· tæ chøc t¹i Mianma (n¨m 2003),
lÇn thø hai t¹i Th¸i Lan (n¨m 2005) vµ lÇn thø ba t¹i ViÖt Nam (n¨m 2008).
2
. Tam gi¸c ph¸t triÓn Campuchia - Lµo - ViÖt Nam ®-îc ®-a ra t¹i
cuéc gÆp cña Thñ t-íng ba n-íc t¹i Viªng Ch¨n (th¸ng 10 n¨m 1999)
nh»m t¨ng c-êng ®oµn kÕt vµ hîp t¸c ba n-íc ®Ó ®-a khu vùc trë thµnh
khu vùc æn ®Þnh vÒ chÝnh trÞ, v÷ng ch¾c vÒ an ninh, ph¸t triÓn m¹nh vÒ
kinh tÕ. Cuéc gÆp lÇn thø hai t¹i thµnh phè Hå ChÝ Minh (n¨m 2002) tiÕn
hµnh hîp t¸c trªn c¸c lÜnh vùc giao th«ng vËn t¶i, th-¬ng m¹i, ®iÖn lùc,
du lÞch, ®µo t¹o nguån nh©n lùc... Cuéc gÆp lÇn thø ba t¹i Campuchia
(n¨m 2004) kh¼ng ®Þnh vai trß cña tam gi¸c phèi hîp víi ph¸t triÓn c¬ së
h¹ tÇng ®-êng giao th«ng, xóc tiÕn hµng lo¹t dù ¸n... Cuéc gÆp lÇn thø t-
t¹i §µ L¹t (n¨m 2006) chñ tr-¬ng më réng viÖc huy ®éng nguån lùc tõ
bªn ngoµi (NhËt B¶n).
849
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

hội và xây dựng năng lực cùng các mối liên kết khu vực; quản lý
môi trƣờng và các nguồn tài nguyên chung nhằm giúp bảo đảm phát
triển bền vững và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Tổng số vốn
chƣơng trình cho vay là 725 triệu USD và chƣơng trình hỗ trợ kỹ
thuật trong các năm 2004 - 2006 là 25,5 triệu USD. Điểm đặc biệt là
chƣơng trình hỗ trợ kỹ thuật và tài trợ là nền tảng của đối thoại và
tham vấn khu vực, sẽ ngày càng trở nên quan trọng để hỗ trợ các
hoạt động cần thiết nhằm thiết thực điều phối và hài hòa hóa về thể
chế và chính sách. Chiến lƣợc này sẽ đƣợc thực hiện thông qua 11
chƣơng trình ƣu tiên, trong đó ba chƣơng trình là phát triển các hành
lang kinh tế với việc phát triển cơ sở hạ tầng theo khu vực địa lý gắn
trực tiếp với thƣơng mại, đầu tƣ và cơ hội sản xuất, tám chƣơng trình
khác có liên quan đến viễn thông, thƣơng mại, điện, tăng cƣờng sự
tham gia của khu vực tƣ nhân, phát triển nguồn nhân lực, kiểm soát
và bảo vệ nguồn nƣớc, phát triển du lịch.
Cho đến nay, chƣơng trình hợp tác GMS với sự hỗ trợ và tham
gia của ADB vẫn là trụ lực chính trong tiến trình hợp tác của tiểu
khu vực này. Đây sẽ là cơ hội lớn và là điều kiện quan trọng để các
nƣớc GMS nâng cao năng lực phát triển toàn diện; đồng thời nó
cũng đặt ra một thực tế là các nƣớc GMS sẽ không thể phát triển
đơn lẻ, biệt lập mà luôn phải gắn kết trong chƣơng trình phát triển
tổng thể của GMS, gia tăng hơn nữa sự phối hợp giữa chính sách
quốc gia và chính sách khu vực.
Hiện nay, các nƣớc GMS đã có tốc độ tăng trƣởng tƣơng đối
cao, đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế, xã hội, nhất là đã
tiến một bƣớc dài trong vấn đề xóa đói giảm nghèo, ngày càng tạo
ra nhiều điều kiện để thúc đẩy sự hợp tác giữa các nƣớc trong tiểu
vùng và các nƣớc ngoài khu vực.
Từ một khu vực đói nghèo, chậm phát triển, song nhờ tích cực
mở cửa, hội nhập và phát triển kinh tế thị trƣờng, khu vực GMS với
tiềm năng to lớn của mình đã bắt đầu trở thành một khu vực có tốc
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 850

độ tăng trƣởng cao và năng động.


Đặc biệt, từ năm 2005, Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây
(Trung Quốc) tham gia vào chƣơng trình hợp tác Tiểu vùng Mê
Công mở rộng (GMS) thì những hoạt động hợp tác của Tiểu vùng
ngày càng sôi động và mở rộng. Từ năm 2006, tổng kim ngạch mậu
dịch giữa Quảng Tây và GMS đạt 1,55 tỷ USD; 80% các dự án của
Quảng Tây đầu tƣ vào ASEAN là đầu tƣ vào GMS; đồng thời các
nƣớc GMS cũng là các nhà đầu tƣ quan trọng vào Quảng Tây.
Quảng Tây luôn coi việc nhanh chóng hội nhập và hợp tác với
GMS là một bộ phận quan trọng trong chính sách mở rộng cửa với
nƣớc ngoài của mình và đã đạt đƣợc những kết quả tốt.
Từ năm 2005 đến nay, hợp tác GMS không chỉ bó hẹp trong
khuôn khổ năm quốc gia và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) mà đã
đƣợc mở rộng rất nhiều (hình thành cơ cấu 5 + 2, nghĩa là: Thái
Lan, Lào, Campuchia, Mianma, Việt Nam và Vân Nam, Quảng
Tây), gắn liền với chƣơng trình xây dựng Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc sẽ hoàn thành vào năm 2010. Nghĩa là hợp
tác GMS chỉ là một bộ phận của chƣơng trình xây dựng Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Bởi lẽ, cùng với GMS còn
có chƣơng trình hợp tác kinh tế khu vực vịnh Bắc Bộ1 mới bắt đầu

1
. Ch-¬ng tr×nh nµy do Trung Quèc ®Ò xuÊt n¨m 2006, ban ®Çu gåm
b¶y n-íc lµ Trung Quèc, Brun©y, In®«nªxia, Malaixia, PhilÝppin,
Xingapo vµ ViÖt Nam, sau ®ã thªm Th¸i Lan. Hîp t¸c kinh tÕ khu vùc
vÞnh B¾c Bé lµ mét lo¹i h×nh hîp t¸c kinh tÕ tiÓu vïng trªn biÓn. Hîp t¸c
trªn biÓn còng bao gåm hîp t¸c ven biÓn tõ Qu¶ng §«ng, Qu¶ng T©y, ven
bê phÝa b¾c vÞnh B¾c Bé cho tíi bê t©y Th¸i B×nh D-¬ng vÒ phÝa nam,
qua ViÖt Nam, Campuchia, Th¸i Lan, Malaixia, Xingapo.
Hîp t¸c kinh tÕ vÞnh B¾c Bé gåm hai bé phËn lµ toµn vÞnh B¾c Bé vµ
vµnh ®ai vÞnh B¾c Bé, tøc lµ vµnh ®ai kinh tÕ vÞnh B¾c Bé, ®©y võa lµ khu
vùc träng ®iÓm cña hîp t¸c kinh tÕ vÞnh B¾c Bé, võa lµ bé phËn quan träng
cña “Hai hµnh lang, mét vµnh ®ai” gi÷a Trung Quèc vµ ViÖt Nam.
(Nguån: T¹p chÝ Ch©u ¸ - Th¸i B×nh D-¬ng ®-¬ng ®¹i, Trung Quèc,
sè 3-2009. DÉn tõ t¹p chÝ C¸c vÊn ®Ò quèc tÕ, sè 1 - 2010).
851
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

đƣợc bàn thảo và triển khai.


Trải qua hơn 15 năm (1992 - 2007), hợp tác Tiểu vùng Mê Công
mở rộng (GMS) đã có đƣợc những kết quả bƣớc đầu làm tiền đề cho
các bƣớc mở rộng hợp tác tiếp theo. Đã tiến hành xây dựng Hành
lang Đông - Tây xuyên suốt bốn nƣớc Việt Nam, Lào, Thái Lan và
Mianma (dự kiến năm 2009 sẽ thông xe toàn tuyến, lúc đó các
phƣơng tiện vận tải của bốn nƣớc đi trên hành lang này sẽ không
phải chuyển tải) và Hành lang kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải
Phòng. Xây dựng đƣờng cao tốc từ Côn Minh qua Tây Bắc Lào tới
Băng Cốc (dự kiến năm 2010 sẽ thông xe toàn tuyến). Các nƣớc
Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Mianma đã ký Hiệp định thông tàu
thƣơng mại sông Lan Thƣơng - Mê Công. Tàu thuyền của bốn
nƣớc đều có thể tự do đi lại trên đoạn sông dài 886 km giữa cảng
Tƣ Mao (Trung Quốc) và cảng Luổng Phạbang (Lào). Ngoài ra,
một số hành lang kinh tế khác cũng bắt đầu đƣợc xây dựng nhƣ:
Hành lang kinh tế Bắc - Nam (Côn Minh - Băng Cốc); Hành lang
kinh tế phía Nam gồm Thái Lan - Campuchia - Việt Nam cũng
chuẩn bị đƣợc khởi công...
Có thể khẳng định rằng, những thành tựu kinh tế, xã hội của
các nƣớc GMS đang tạo ra nền tảng mới cho giai đoạn phát triển
tiếp theo của toàn khu vực cũng nhƣ của từng nƣớc thành viên.
Cùng với Thái Lan và hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây của Trung
Quốc, Việt Nam cũng đã phối hợp với Lào tham gia ngày càng sâu
vào các chƣơng trình hợp tác của GMS và đã đạt đƣợc những kết
quả đáng khích lệ. Sau khi gia nhập WTO (tháng 1 năm 2007), Việt
Nam đang hƣớng tới một chiến lƣợc tăng tốc phát triển để phấn đấu
đến năm 2020 cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp theo hƣớng
hiện đại. Campuchia cũng đã sớm ổn định chính trị, xã hội và bắt
đầu bứt phá phát triển nhờ vị thế mới sau khi gia nhập WTO (năm
2004). Với mục tiêu thoát ra khỏi danh sách các nƣớc chƣa phát
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 852

triển vào năm 2020, đã đƣợc Đại hội lần thứ VIII Đảng Nhân dân
cách mạng Lào thông qua (tháng 3 năm 2006), Lào đang có một
quyết tâm chính trị lớn là nhanh chóng gia nhập WTO, phát huy lợi
thế so sánh để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Nhƣ vậy cùng
với sự khởi sắc của các nƣớc GMS và trên đà tiếp tục triển khai các
sáng kiến trong Hội nghị cấp cao GMS lần thứ hai, Lào và các
nƣớc trong khu vực đang nỗ lực xây dựng các chƣơng trình hợp tác
mới một cách thực chất và hiệu quả hơn. Những chƣơng trình đó sẽ
đƣợc bàn thảo và thông qua tại Hội nghị cấp cao lần thứ ba tại
Viêng Chăn vào tháng 3 năm 2008. Đó là các vấn đề: tăng cƣờng
kết nối giao thông; tạo thuận lợi cho thƣơng mại và giao thông tiểu
vùng; hợp tác công - tƣ để tăng cƣờng đầu tƣ và thƣơng mại; phát
triển nguồn nhân lực; quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên
nhiên; hợp tác phát triển GMS nhằm tiếp tục tăng cƣờng kết nối,
đặc biệt là kết nối giao thông, thông tin, truyền thông... đi đôi với
hoàn thiện thể chế, chính sách tạo thuận lợi thúc đẩy thƣơng mại,
đầu tƣ, du lịch... tại Tiểu vùng. Hội nghị cũng sẽ thông qua Chƣơng
trình hành động Viêng Chăn để phát triển GMS giai đoạn 2008 -
2012.
Đây sẽ là một dấu mốc quan trọng để các nƣớc GMS tận dụng
tốt hơn vị thế địa - chiến lƣợc và tác động tích cực của các chuyển
động hội nhập đã và đang đƣợc triển khai mạnh mẽ trong khu vực.

3. Công cuộc đổi mới và kết quả hợp tác Việt Nam và Lào
đòi hỏi phải tăng cường hợp tác toàn diện trong giai đoạn mới
Các nƣớc Việt Nam và Lào đang trên đƣờng đổi mới đất nƣớc,
phát triển với tốc độ ngày càng nhanh và bền vững, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tăng cƣờng hợp tác toàn diện giữa hai bên.
Việt Nam sau Đại hội lần thứ X của Đảng (tháng 4 năm 2006)
đang tập trung sức đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
853
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

hóa đất nƣớc với mục tiêu: đẩy nhanh tốc độ tăng trƣởng kinh tế,
đạt đƣợc bƣớc chuyển quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền
vững của sự phát triển, sớm đƣa đất nƣớc ra khỏi tình trạng kém
phát triển; giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Để đạt đƣợc mục tiêu do Đại hội lần thứ X đề ra, cả nƣớc tập
trung mọi nỗ lực theo hƣớng giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực
lƣợng sản xuất; chuyển mạnh sang kinh tế thị trƣờng; chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại; phát
triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, nâng cao
chất lƣợng nguồn nhân lực; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc
xây dựng văn hóa, đạo đức và lối sống; thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; tăng cƣờng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy
dân chủ, nâng cao hiệu lực của nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; tăng cƣờng quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị - xã hội,
mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững môi trƣờng hòa bình và ổn
định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, đến hết năm 2007, nền
kinh tế Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu to lớn. Năm 2007 là
năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO
và thực hiện cam kết PNTR với Mỹ (quy chế quan hệ thƣơng mại
bình thƣờng vĩnh viễn), do đó, thị trƣờng xuất khẩu mở rộng, các
rào cản thƣơng mại giữa Việt Nam với các nƣớc thành viên WTO
đƣợc dỡ bỏ hoặc hạn chế. Vị thế của Việt Nam trên trƣờng quốc tế
đƣợc nâng cao. Quan hệ ngoại giao, các hoạt động hợp tác kinh tế,
đầu tƣ, mở rộng thị trƣờng xuất khẩu đƣợc củng cố và tăng cƣờng
thông qua các cuộc thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc
cùng với sự tham gia ngày càng rộng rãi của các doanh nghiệp.
Tình hình chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng bảo đảm đã tạo
môi trƣờng thuận lợi thu hút các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài cũng nhƣ
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 854

các doanh nghiệp trong nƣớc.


Mặc dù còn gặp rất nhiều khó khăn nhƣng kinh tế Việt Nam
năm 2007 vẫn tiếp tục phát triển toàn diện và hầu hết các chỉ tiêu
kinh tế chủ yếu đều đạt và vƣợt kế hoạch đề ra. Thành tựu lớn nhất
năm 2007 của nền kinh tế Việt Nam là các dòng vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài (FDI) của các dự án đạt 20,3 tỷ USD, là mức cao nhất từ
trƣớc đến thời điểm này. Kinh tế tăng trƣởng cao, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hƣớng tiến bộ là thành tựu nổi bật nhất, cơ bản
nhất của nền kinh tế Việt Nam. Tổng sản phẩm trong nƣớc tăng
8,44% (kế hoạch 8 - 8,5%). Việt Nam đứng vị trí thứ ba về tốc độ
tăng GDP năm 2007 của các nƣớc châu á (sau Trung Quốc và ấn
Độ) và cao nhất trong các nƣớc ASEAN1.
Do kinh tế tăng trƣởng cao nên tình hình tài chính lành mạnh,
thu chi ngân sách nhà nƣớc cân đối. Các ngành sản xuất và dịch vụ
tiếp tục phát triển và có mức tăng trƣởng cao: sản xuất công nghiệp
tăng trƣởng đạt 17%; khu vực ngoài nhà nƣớc tăng 20,9%; khu vực
có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tăng 18%2.
Trong năm 2007, cả nƣớc đã thu hút 350 lƣợt dự án, đặc biệt là
đã có 52 địa phƣơng thu hút vốn FDI. Xuất khẩu đạt mức cao nhất
từ trƣớc đến thời điểm này, đạt 47,7 tỷ USD, và tăng trƣởng với tốc
độ cao, tăng 21% so với năm 2006. Du lịch phát triển mạnh, cả
nƣớc đón 4,3 triệu lƣợt khách quốc tế, tăng 19% so với năm 2006
và cũng là mức cao nhất từ trƣớc đến lúc này.
Những thành tựu trên đây đã nâng vị thế của Việt Nam lên tầm
cao mới: quy mô nền kinh tế đã lớn mạnh hơn rất nhiều, thu nhập
quốc dân theo GDP tính trên đầu ngƣời đạt 835 USD năm 2007.
ở Lào, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII (năm 2001) và
Đại hội lần thứ VIII (tháng 3 năm 2006) Đảng Nhân dân cách mạng
Lào, trong năm 2007, cả nƣớc tập trung sức tiếp tục thực hiện

1
, 2. T¹p chÝ Céng s¶n, sè th¸ng 1 n¨m 2008, tr.81-84.
855
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

đƣờng lối đổi mới và đạt đƣợc những thành tựu khả quan. Nền kinh
tế Lào tiếp tục phát triển và đạt đƣợc tốc độ tăng trƣởng khá cao,
gần 7,5%. Ngành công nghiệp có bƣớc phát triển nhanh, chiếm tỷ
trọng 27% GDP và có nhiều ngành mũi nhọn. Về năng lƣợng, Lào
có 11 nhà máy thủy điện với sản lƣợng 1.541 triệu kW/h. Ngành
công nghiệp khai khoáng cũng phát triển mạnh. Trƣớc đây Lào chỉ
khai thác than, muối mỏ, thiếc, sắt..., nay đã có ngành khai thác
vàng, kali, đồng, bôxít.
Về nông nghiệp, từ một nƣớc thiếu lƣơng thực (có năm phải
nhập tới 1 triệu tấn lƣơng thực), đến năm 2007 đã đạt bình quân
đầu ngƣời 472 kg/ngƣời (tƣơng đƣơng với Việt Nam).
Giao thông vận tải cũng có những bƣớc tiến vƣợt bậc. Các
tuyến giao thông huyết mạch đã đƣợc nâng cấp. Đƣờng 13 từ Viêng
Chăn đi Nam Lào đã đƣợc mở rộng và hiện đại hóa. Các tuyến
đƣờng nối với Việt Nam, Thái Lan và ra biển đều đƣợc nâng cấp,
phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng đất nƣớc và hội nhập với
khu vực. Xuất khẩu của Lào năm 2007 cũng đƣợc đẩy mạnh. Ngoài
những mặt hàng chủ yếu nhƣ điện, dệt may, gỗ và khoáng sản, Lào
cũng đã mở rộng việc xuất khẩu gạo, ngô, cà phê, chuối, thuốc lá...
Kim ngạch xuất khẩu đạt gần 1 tỷ USD. Các ngành du lịch, văn
hóa, xã hội cũng có những bƣớc tiến quan trọng.
Cùng với những thành quả to lớn trong công cuộc đổi mới ở
mỗi nƣớc những năm qua, quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam -
Lào cũng đạt đƣợc những kết quả rất quan trọng trên tất cả các lĩnh
vực. Về chính trị, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam cơ bản đã quán triệt và thể hiện đƣợc tinh thần nội dung thỏa
thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nƣớc, ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển mối quan hệ hữu nghị
truyền thống giữa hai nƣớc.
Nhìn chung, hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giữa
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 856

hai nƣớc đến năm 2007 có nhiều chuyển biến tích cực, về cơ bản đã
đạt đƣợc mục tiêu chiến lƣợc đề ra. Tuy nhiên, mối quan hệ đoàn
kết đặc biệt đƣợc hai Đảng, hai Nhà nƣớc và nhân dân hai nƣớc dày
công vun đắp đã trở thành nguồn sức mạnh dẫn đến thành công
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của hai nƣớc, song chƣa trở
thành động lực để thúc đẩy hợp tác toàn diện trong công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế của mỗi nƣớc. Trên một số lĩnh vực còn
có những tồn tại cần tiếp tục khắc phục: hợp tác đào tạo đáp ứng
đƣợc nhu cầu về số lƣợng nhƣng chất lƣợng chƣa thực sự chuyển
biến nhƣ mong muốn; hợp tác thƣơng mại chƣa vững chắc, thị phần
và sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trƣờng mỗi bên còn thấp;
hợp tác đầu tƣ sôi động nhƣng tổ chức triển khai một số dự án còn
chậm; hợp tác trong lĩnh vực giao thông chƣa đáp ứng đƣợc nhu
cầu, tiềm năng về giao lƣu kinh tế và sự gia tăng các dự án đầu tƣ
giữa hai nƣớc; cơ chế, chính sách trong hợp tác có thông thoáng
hơn nhƣng việc điều chỉnh bổ sung cơ chế, chính sách hợp tác còn
chậm, chƣa đồng bộ; hợp tác giữa các địa phƣơng đƣợc mở rộng
nhƣng hạn chế về nguồn lực...
Những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội sau hơn 20 năm tiến
hành công cuộc đổi mới và những chuyển biến quan trọng trong
mối quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam và Lào trong những năm
qua đã tạo nên những điều kiện vật chất to lớn thúc đẩy việc tiếp
tục tăng cƣờng sự hợp tác Việt Nam - Lào trong giai đoạn mới. Mặt
khác, bối cảnh quốc tế, khu vực cũng nhƣ tình hình phát triển hiện
nay của các nƣớc GMS đang mang lại cơ hội lớn và nhiều yêu cầu
mới cho sự phát triển hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam mà
hai bên cần phải tính đến.
Trong bối cảnh mới, trên quan điểm bảo đảm cao nhất lợi ích
quốc gia, Việt Nam cũng nhƣ Lào phải thực hiện chiến lƣợc đối
ngoại đa phƣơng, rộng mở, tiếp cận với mọi quan hệ đối tác và các
857
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

điều kiện bên ngoài nhằm phục vụ cho công cuộc phát triển đất nƣớc.
Do đó, trong khi duy trì quan hệ đặc biệt với nhau, cả Việt Nam và
Lào đều đang nỗ lực xây dựng các quan hệ đối tác chiến lƣợc mới.
Ngày nay, trong quan hệ quốc tế, quan hệ đa phƣơng đang trở
thành xu thế chủ đạo, là điều kiện để thúc đẩy các quan hệ song
phƣơng. Đi theo đƣờng lối đối ngoại rộng mở, đa phƣơng hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam đã và đang lấy thị trƣờng
của các nền kinh tế lớn và phát triển nhƣ Mỹ, Trung Quốc, EU,
Nhật Bản, Hàn Quốc... làm điều kiện cho sự tăng trƣởng và phát
triển của mình. Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam với các đối tác
này chiếm trên 70% và theo đó mức xuất khẩu của Việt Nam sang
các nƣớc ASEAN chỉ chiếm 20%. Điều này cho thấy rằng mối
quan tâm của Việt Nam với thị trƣờng khu vực không hoàn toàn là
vì mục đích kinh tế. Cũng nhƣ vậy, với 2/3 tổng chu chuyển thƣơng
mại mà Lào thực hiện với các nƣớc láng giềng, Lào sẽ phải tìm
kiếm các ƣu tiên mới để huy động và phân bổ nguồn lực tốt hơn
cho mục tiêu thoát khỏi nhóm các nƣớc nghèo (chậm phát triển)
vào năm 2020.
Nhƣ vậy, điều kiện mới của quốc tế và khu vực đang làm thay
đổi mạnh tƣ duy phát triển nói chung, tƣ duy đối ngoại nói riêng ở
các nƣớc đi sau. Một mặt, thực hiện quan hệ song phƣơng tốt với
các nƣớc láng giềng là nhằm tạo ra một môi trƣờng hòa bình, ổn
định cho sự phát triển của các bên, nghĩa là phải đứng trên quan
điểm tổng thể về lợi ích kinh tế, chính trị, an ninh, xã hội... trong
tiếp cận phát triển. Mặt khác, chú trọng quan hệ rộng mở với các
đối tác giàu tiềm năng và sức mạnh kinh tế, công nghệ là điều
kiện quan trọng nhằm tạo ra bứt phá và vƣợt trƣớc trong phát triển
ở các nƣớc này. Trong thực tế, quan hệ với các đối tác lớn, các
nƣớc nhỏ đi sau thƣờng gặp nhiều bất lợi, hay bị gây sức ép và dễ
bị cuốn vào tính toán lợi ích của các nƣớc phát triển và các nƣớc
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 858

lớn. Do đó, các nƣớc này cần ƣu tiên đẩy mạnh các lộ trình hội nhập
đa phƣơng quốc tế và khu vực. Ví dụ, Việt Nam và Lào là thành
viên đầy đủ của ASEAN, sẽ gia tăng vị thế của các nƣớc này
trong quan hệ với các nƣớc lớn. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay,
quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam cần phải đƣợc điều
chỉnh cho phù hợp với các chiều hƣớng phát triển của khu vực,
nghĩa là phải đƣợc đặt trong tổng thể của các lộ trình hội nhập đa
phƣơng khu vực đã và đang phát huy hiệu quả tốt hiện nay trong
ASEAN nói chung và GMS nói riêng.
Trong chƣơng trình hợp tác GMS thì quan hệ Việt Nam - Lào
với Trung Quốc và Thái Lan là quan trọng nhất, tác động trực tiếp
tới quá trình hội nhập khu vực nói chung và GMS nói riêng của cả
Việt Nam và Lào, đặc biệt là trong mối quan hệ song phƣơng Lào -
Thái Lan và Lào - Trung Quốc.
Lào và Thái Lan gần gũi về địa lý, văn hóa và quan hệ huyết
thống có nhiều thuận lợi trong giao lƣu kinh tế, văn hóa. Với chi
phí thấp trong lƣu chuyển hàng hóa, dịch vụ, đầu tƣ giữa hai bên và
đặc biệt không bị ngăn trở bởi rào cản ngôn ngữ, quan hệ kinh tế
Lào - Thái những năm gần đây có những bƣớc phát triển tốt và
đang có sức thuyết phục đối với một bộ phận đáng kể nhân dân các
bộ tộc Lào. Trong điều kiện các xung đột lịch sử sắc tộc... không
còn nổi cộm nhƣ trƣớc kia, nhờ các tiến trình mở cửa và hội nhập
sâu rộng giữa hai bên nên đã mở ra một cửa ngõ nối thông nền kinh
tế Lào với các nền kinh tế ASEAN hải đảo. Cùng với Hành lang
kinh tế Đông - Tây và Bắc - Nam dƣới sự tài trợ của ADB đang
triển khai tích cực hiện nay, Thái Lan là một phần quan trọng để
Lào thực thi chiến lƣợc hội nhập và phát triển trong tƣơng lai. Tuy
nhiên, quan hệ Lào - Thái cũng có những khó khăn do tình hình bất
ổn về chính trị, an ninh từ phía Thái Lan.
Quan hệ song phƣơng Lào - Trung Quốc có nhiều thuận lợi
859
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

hơn. Nền kinh tế Trung Quốc tăng trƣởng nhanh, tiềm lực mạnh và
đang bắt đầu thể hiện vai trò dẫn dắt và chi phối các tiến trình phát
triển ở Đông á nói chung và Đông Nam á nói riêng, đặc biệt là sau
khi xây dựng xong Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN
vào đầu năm 2010, với chiến lƣợc “một trục, hai cánh” đang đƣợc
tích cực triển khai.
Hiện nay, Lào và Trung Quốc đang cùng nhau xây dựng quan
hệ đối tác chiến lƣợc hợp tác toàn diện, không chỉ thúc đẩy thƣơng
mại, dành các điều kiện ƣu đãi nhất cho xuất khẩu của Lào sang
Trung Quốc, mà Trung Quốc còn đang đẩy nhanh việc đầu tƣ vào
Lào. Năm 2005, Trung Quốc phê duyệt 33 dự án đầu tƣ vào Lào;
tám tháng năm 2006, Trung Quốc đã phê duyệt thêm 39 dự án
trong đó tập trung vào các ngành mỏ và thủy điện. Đến cuối năm
2007, Trung Quốc đã đầu tƣ 23 dự án trồng cao su vào năm tỉnh
Bắc Lào với diện tích 122.000 ha.
Sự liên kết mật thiết giữa kinh tế Trung Quốc với kinh tế Lào
đang làm cho quan hệ song phƣơng Lào - Trung Quốc trở nên
nổi trội trong hệ thống các quan hệ của Lào với bên ngoài. Với
Hành lang kinh tế xuyên á và Hành lang kinh tế Đông - Tây từ
Nam Ninh (Trung Quốc) đi Hà Nội qua Hà Tĩnh (đƣờng 8) và
Quảng Trị (đƣờng 9) sang Lào - Thái Lan - Malaixia - Xingapo,
cùng với Hành lang kinh tế Côn Minh qua chín tỉnh Tây Bắc của
Lào đến Băng Cốc (chƣa kể Hiệp định thông tàu thƣơng mại
sông Lan Thƣơng - Mê Công từ cảng Tƣ Mao (Trung Quốc) đến
cảng Luổng Phạbang) đã tạo nên một môi trƣờng rất thuận lợi
cho sự phát triển của Lào. Lào đang đứng trƣớc những cơ hội to
lớn do sự phát triển của Trung Quốc và chiến lƣợc khu vực của
Trung Quốc mang lại.
So với quan hệ Lào - Thái Lan và Lào - Trung Quốc thì quan
hệ Lào - Việt Nam mặc dù còn nhiều khó khăn, hạn chế nhƣng
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 860

cũng có những ƣu thế và thuận lợi rất cơ bản. Trước hết, quan hệ
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là quan hệ hữu nghị truyền
thống, đoàn kết đặc biệt đã đƣợc hai Đảng và nhân dân mỗi nƣớc
dày công vun đắp, trở thành quy luật phát triển và nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng hai nƣớc. Quan hệ đặc biệt đó vƣợt
lên khỏi các lợi ích kinh tế thông thƣờng và đƣợc nhân dân hai
nƣớc đồng tình, ủng hộ.
Thứ hai, theo tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây, con đƣờng
tiến ra biển qua Việt Nam là con đƣờng ngắn nhất, ít tốn kém nhất
để Lào nối thông với thế giới, tiếp cận các đối tác lớn bên ngoài
Đông á nhƣ Mỹ, Nhật Bản, EU... để cân bằng quan hệ và đẩy mạnh
chiến lƣợc phát triển của mình.
Thứ ba, nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo và chủ chốt của Lào đƣợc
đào tạo tại Việt Nam. Sự hiểu biết và chia sẻ kinh nghiệm cho
nhau, nhất là trong điều kiện Việt Nam là nƣớc đã thành công trong
đổi mới và phát triển, sẽ rất hữu ích cho công cuộc phát triển của
Lào.
Thứ tư, mô hình phát triển của Lào và Việt Nam có nhiều điểm
tƣơng đồng. Để thoát nghèo và phát triển, đồng thời đảm bảo đƣợc
chính sách phát triển toàn diện cho nhân dân các bộ tộc Lào, phía
Lào rất cần nghiên cứu kinh nghiệm bổ ích từ Việt Nam về phát
triển và xóa đói giảm nghèo (ở Lào không có mục tiêu xóa đói)
trong khi vẫn giữ đƣợc ổn định chính trị - xã hội.
Hiện nay, trong bối cảnh quốc tế, khu vực cũng nhƣ sự phát
triển của các nƣớc GMS, mối quan hệ song phƣơng Lào - Thái Lan,
Lào - Trung Quốc, Lào - Việt Nam đang mang lại cơ hội lớn và
nhiều yêu cầu mới, trong đó chứa đựng những yếu tố ngoài kinh tế
diễn ra nhanh chóng, phức tạp và khó lƣờng.
Vì vậy, trong thời gian tới cả Việt Nam và Lào phải có sự phối
hợp nhịp nhàng, đổi mới quan hệ hợp tác toàn diện phù hợp với bối
861
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

cảnh đã trình bày ở trên.

II. TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC TOÀN DIỆN, ĐƯA QUAN HỆ ĐẶC BIỆT
VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM LÊN TẦM CAO MỚI

1. Bổ sung và điều chỉnh cơ chế, chính sách, chương trình


và tổ chức chỉ đạo hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
trong giai đoạn mới
Trong thời gian qua, việc bổ sung, điều chỉnh cơ chế, chính
sách hợp tác giữa hai nƣớc còn chậm, thiếu đồng bộ. Các bộ, ban,
ngành, địa phƣơng mỗi bên còn thiếu hƣớng dẫn, đôn đốc thực hiện
và chƣa cùng nhau tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời nên tính cập
nhật và hiệu quả của cơ chế, chính sách còn thấp... Vì vậy, trong
thời gian tới hai bên cần sớm cùng nhau rà soát lại tổng thể các cơ
chế, chính sách chƣơng trình và tổ chức thực hiện để bổ sung và
điều chỉnh cho phù hợp với thực tế và những đòi hỏi mới của sự
hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Đặc biệt là
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay và
những năm tới, càng cần phải đẩy nhanh việc điều chỉnh kịp thời,
linh hoạt những nội dung đã thỏa thuận bằng các văn bản hợp tác
nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức, đơn vị thực hiện có hiệu quả
những mục tiêu chiến lƣợc hợp tác đã đặt ra.
Khắc phục ngay những yếu kém trong hợp tác kinh tế, văn hóa,
khoa học - kỹ thuật giữa hai nƣớc trong những năm qua, đặc biệt
trong lĩnh vực quản lý và quy trình cấp phát ODA giữa hai nƣớc
nhằm nâng cao hiệu quả, tránh dàn trải và kéo dài dự án, không
phục vụ kịp thời cho nhu cầu, mục tiêu hợp tác đã đƣợc thỏa thuận
giữa hai bên.
Cùng với việc khuyến khích các bộ, ngành, địa phƣơng, các tổ
chức xã hội hai bên hợp tác bằng khả năng của mình, cần quản lý
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 862

và thực hiện thống nhất các chƣơng trình hợp tác đã ký kết giữa hai
Chính phủ. Tránh những thỏa thuận riêng giữa các bộ, ban, ngành,
địa phƣơng và các tổ chức hai bên vƣợt quá khả năng của mình,
làm ảnh hƣởng tới kế hoạch hợp tác giữa hai Chính phủ đã ký kết.
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay cũng nhƣ những
năm trƣớc mắt, cần có những điều chỉnh thích hợp trong quan hệ
hợp tác toàn diện giữa hai nƣớc. Trƣớc hết là tăng cƣờng hợp tác
toàn diện Việt Nam - Lào theo hƣớng hai nƣớc phối hợp chặt chẽ
và hiệu quả hơn trong các chƣơng trình, dự án hợp tác giữa hai
nƣớc, với khu vực và đa phƣơng khác.
Vị thế của Việt Nam ngày càng có trọng lƣợng trong ASEAN
và cũng đã có sự phát triển đi trƣớc một bƣớc so với Lào trong tiến
trình thực hiện các cam kết AFTA/AEC và WTO. Việt Nam có thể
chia sẻ nhiều kinh nghiệm cho Lào trong việc điều chỉnh chính
sách và thể chế kinh tế nhằm thực hiện các cam kết quốc tế và khu
vực. Ví dụ, Việt Nam cần ủng hộ mạnh mẽ tiến trình gia nhập
WTO của Lào. Với việc Việt Nam giúp Lào tổ chức thành công
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 10 (tháng 10 năm 2004) và Hội
nghị cấp cao GMS lần thứ ba (tháng 3 năm 2008), quan hệ hợp tác
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam sẽ ngày càng đƣợc mở rộng và
hiệu quả hơn trƣớc các yêu cầu hợp tác hiện nay và do vậy, vai trò
của cả Việt Nam và Lào trong quan hệ đa phƣơng và song phƣơng
trong khu vực cũng ngày càng trở nên quan trọng hơn, đặc biệt là
quan hệ với các nƣớc lớn ngoài khu vực ASEAN.
Trong quá trình tăng cƣờng quan hệ hợp tác toàn diện, Việt
Nam - Lào luôn luôn tôn trọng đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ
và chủ trƣơng đa phƣơng hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại
của nhau. Nhƣ đã trình bày ở trên, trong bối cảnh toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang diễn ra nhanh chóng và
ngày càng sâu sắc, ngoài quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -
863
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

Việt Nam, mỗi nƣớc đều có những quan hệ đa phƣơng và song


phƣơng khác trong khu vực cũng nhƣ trên trƣờng quốc tế. Mỗi bên
cần ủng hộ và phối hợp với nhau để tận dụng mọi mối quan hệ này
phục vụ lợi ích cho tất cả các bên.
Hiện nay, việc phát triển bất kỳ một tuyến hành lang kinh tế
nào trong khu vực cũng luôn phải đặt trong mạng lƣới của tất cả
các hành lang kinh tế đã đƣợc ADB đề xuất và hỗ trợ, cũng nhƣ
đƣợc các nƣớc thành viên GMS hƣởng ứng. Do đó, Việt Nam sẽ là
con đƣờng ngắn nhất để Lào tiếp cận một số thị trƣờng phía Đông
Nam của Trung Quốc thông qua chiến lƣợc “Hai hành lang, một
vành đai kinh tế”1. Và cũng tƣơng tự nhƣ vậy, Lào sẽ là nơi trung
chuyển quan trọng cho Việt Nam trong việc tiếp cận với thị trƣờng
Đông Bắc Thái Lan và Mianma. Nhƣ vậy, tính đa dạng trong tiếp
cận đa phƣơng về quan hệ đối ngoại không cản trở quan hệ song
phƣơng; trái lại nó sẽ làm cho quan hệ song phƣơng Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam ngày càng hiệu quả và trở nên đặc biệt có ý
nghĩa hơn trong sự nghiệp phát triển của mỗi nƣớc.
Trong quan hệ hợp tác, nhất là hợp tác kinh tế trong thời gian
tới, cần phải chú trọng tính thực chất, hiệu quả và chất lƣợng. Có
nghĩa là, các chƣơng trình hợp tác, nhất là từ phía Việt Nam (các
dự án của Việt Nam đầu tƣ vào Lào) phải phù hợp với yêu cầu của
công cuộc xây dựng đất nƣớc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và an ninh
quốc gia của Lào. Việt Nam là chỗ dựa tin cậy của Lào trong hai
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và cho đến nay, các chƣơng
trình hợp tác về quốc phòng, an ninh giữa hai nƣớc luôn đem lại

1
. Hai hµnh lang kinh tÕ:
- Hµnh lang kinh tÕ C«n Minh - Lµo Cai - Hµ Néi - H¶i Phßng.
- Hµnh lang kinh tÕ Nam Ninh - L¹ng S¬n - Hµ Néi - Qu¶ng Ninh.
Vµnh ®ai kinh tÕ vïng vÞnh B¾c Bé ®· ®-îc ChÝnh phñ hai n-íc ViÖt
Nam, Trung Quèc cam kÕt thùc hiÖn (th¸ng 7 n¨m 2004).
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 864

hiệu quả, góp phần quan trọng đối với việc tạo ra môi trƣờng hòa
bình, ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Lào. Tuy nhiên,
trong lĩnh vực hợp tác kinh tế những năm qua, một số dự án triển
khai chậm, chƣa bảo đảm chất lƣợng nhƣ yêu cầu đặt ra... Do vậy,
trong thời gian tới, Việt Nam cần ƣu tiên những dự án hợp tác với
Lào phù hợp với các quy hoạch và kế hoạch phát triển của Lào đã
đƣợc vạch ra tại kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 và tầm nhìn đến 2020
của Lào. Đó là các dự án hợp tác về phát triển thủy điện với Lào,
các dự án xây dựng tuyến đƣờng giao thông hƣớng ra biển nhằm
tận dụng tối đa các cảng biển Việt Nam để phát triển dịch vụ du
lịch, vận tải..., các dự án hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực...
Đặc biệt, Việt Nam nên lựa chọn những lĩnh vực mà mình có
thế mạnh để đầu tƣ vào Lào. Đó là các dự án mà Việt Nam có lợi
thế về kỹ thuật và nguồn nhân lực, có kinh nghiệm tổ chức thực
hiện tốt hơn các đối tác khác và luôn đƣợc phía Lào tin cậy (thủy
điện, cầu, cống, đƣờng giao thông, nông, lâm nghiệp...). Có nhƣ
vậy mới mang lại hiệu quả thiết thực và chất lƣợng. Nhân dân các
bộ tộc Lào đã từng kề vai sát cánh, thủy chung gắn bó với Việt
Nam suốt mấy chục năm qua sẽ luôn hy vọng, vững tin và mong
muốn có đƣợc những kết quả hợp tác ngày càng thực chất, hiệu
quả, nhất là về hợp tác kinh tế với Việt Nam, giữ mãi tình cảm thủy
chung, trong sáng và sự giúp đỡ chí tình của Việt Nam trong mỗi
bƣớc đƣờng phát triển đi lên của Lào.
Trong sự phát triển chung của các quan hệ đa phƣơng trong
khuôn khổ ASEAN, GMS, và yêu cầu của việc tăng cƣờng hợp tác
toàn diện giữa hai nƣớc, Việt Nam và Lào cần phải phát huy quan
hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt, tạo động lực thúc
đẩy ngày càng mạnh mẽ hợp tác toàn diện, đặc biệt là hợp tác kinh
tế phục vụ mục tiêu phát triển của mỗi nƣớc, đƣa hợp tác toàn diện
865
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong thời gian tới ngang tầm với
quan hệ hữu nghị truyền thống và đoàn kết đặc biệt giữa hai nƣớc
chúng ta.
Tính chất đặc biệt đƣợc thể hiện ở điểm khác căn bản với các
quan hệ đối tác thông thƣờng khác, nó là quan hệ hợp tác toàn diện
bao gồm cả chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa... và ƣu tiên, ƣu đãi
cho nhau cao hơn cả quan hệ song phƣơng theo khuôn khổ FTA,
tức là đã dành ƣu đãi cao nhất cho nhau ngay cả khi hai bên đều
chƣa phải là thành viên của WTO. Quan hệ này cần tiếp tục đƣợc
đẩy mạnh hơn nữa cho dù mức độ phát triển của Lào chƣa cao, Lào
chƣa phải là thành viên của WTO và Việt Nam không có nhiều
nguồn lực nhƣ các nƣớc láng giềng khác. Cần có một nhận thức
thống nhất trong cán bộ và nhân dân hai nƣớc về tính chất đặc biệt
này. Cả hai bên cần có tầm nhìn rộng hơn, toàn diện và lâu dài hơn
chứ không chỉ ở các lợi ích kinh tế thuần túy và ngắn hạn, nhất là
các nỗ lực của Việt Nam đang sánh bƣớc cùng với Lào trên các cấp
độ hội nhập, từ ASEAN/AEC đến GMS, từ Tam giác phát triển
Campuchia - Lào - Việt Nam (CLV) đến khuôn khổ hợp tác Đông
á, WTO. Quan hệ với Việt Nam, Lào có điều kiện vƣơn ra phía
biển, tức là vƣơn ra thế giới, tiếp cận với các nền kinh tế lớn và
phát triển vì mục tiêu nhanh chóng thoát nghèo và sánh bƣớc phát
triển cùng các nƣớc trong khu vực.
Để tăng cƣờng hợp tác toàn diện giữa hai nƣớc, phía Lào cần
tích cực, chủ động hơn nữa đẩy mạnh quan hệ hợp tác với Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội VIII Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng đã
khẳng định: “Chú trọng đẩy mạnh quan hệ hợp tác toàn diện với Việt
Nam và Trung Quốc”. Phía Lào cần chủ động lựa chọn các hạng
mục có nhu cầu đầu tƣ và phát triển đáp ứng đƣợc yêu cầu của công
cuộc xây dựng đất nƣớc; đồng thời cũng là những dự án mà phía đối
tác Việt Nam và Trung Quốc có tiềm năng và thế mạnh. Riêng
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 866

với Việt Nam, phía Lào cần thống nhất nhận thức và hành động
trên quan điểm tiếp cận tổng thể về lợi ích trong quan hệ hợp tác đặc
biệt với Việt Nam. Có thể lợi ích trƣớc mắt trong quan hệ hợp tác kinh
tế Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam không lớn bằng quan hệ với các
nƣớc khác, nhƣng xét theo mục tiêu tổng thể (toàn diện) giữ vững an
ninh và phát triển bền vững trong tƣơng lai, quan hệ đối tác đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam sẽ là trụ cột chính để bứt phá và phát
triển.

2. Tiếp tục thực hiện những chương trình hợp tác đã ký kết
và chuẩn bị xây dựng chiến lược hợp tác Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020
Hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong những
năm qua đã đƣợc lãnh đạo cấp cao hai nƣớc đánh giá có nhiều
chuyển biến tích cực nhƣng cũng còn nhiều tồn tại cần khắc phục:
hợp tác giáo dục, đào tạo đáp ứng đƣợc nhu cầu về số lƣợng, nhƣng
chất lƣợng còn có vấn đề, còn thiếu một kế hoạch cụ thể; hợp tác
thƣơng mại chƣa vững chắc, thị phần và sức cạnh tranh của hàng hóa
Việt Nam trên thị trƣờng Lào còn thấp; hợp tác đầu tƣ sôi động và
đạt mức vốn đăng ký cao, nhƣng vốn thực hiện còn thấp và chậm,
còn để mất thời cơ; vốn viện trợ triển khai chậm, dàn trải; cơ chế
chính sách đã thông thoáng hơn, nhƣng việc thực hiện chƣa thống
nhất (giữa mong muốn của hai Chính phủ và việc thi hành của các
bộ, ngành, đặc biệt các địa phƣơng hai bên); việc kiểm tra, giám sát,
đôn đốc thực hiện những hiệp ƣớc hợp tác đã đƣợc ký kết giữa hai
bên chƣa thƣờng xuyên; hợp tác giữa các địa phƣơng và doanh
nghiệp đƣợc mở rộng, nhƣng hạn chế về nguồn lực nên chƣa đáp
ứng đƣợc mong muốn giữa các địa phƣơng và doanh nghiệp hai
nƣớc... Đây là những vấn đề đƣợc đặt ra trong quá trình xây dựng
chiến lƣợc hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam thời gian tới.
Để tăng cƣờng quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam trong giai đoạn mới, trƣớc mắt cần tập trung tiếp tục thực
867
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

hiện những định hƣớng lớn đã đƣợc thỏa thuận giữa hai Bộ Chính
trị, tháng 1 năm 2008 tại Viêng Chăn và tiếp tục thực hiện sáu
chƣơng trình mục tiêu đã đƣợc thỏa thuận tại Hiệp định hợp tác
giữa hai Chính phủ giai đoạn 2006 - 2010.
Chính phủ Việt Nam cũng đã đề ra những giải pháp nhằm thực
hiện thắng lợi các chƣơng trình mục tiêu trong kế hoạch hợp tác
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010. Theo đó,
yêu cầu các chƣơng trình hợp tác phát triển với Lào giai đoạn này
phải đƣợc triển khai theo nguyên tắc quản lý tập trung thống nhất
trên cơ sở Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật
giữa hai Chính phủ giai đoạn 2006 - 2010 và Hiệp định hợp tác
hằng năm. Các bộ, ngành, địa phƣơng căn cứ vào các chƣơng trình
hợp tác trong Hiệp định với Lào phù hợp với điều kiện của các bộ,
ngành, địa phƣơng mình. Việc ký kết các nội dung hợp tác với Lào
không nằm trong các chƣơng trình mục tiêu của Hiệp định phải
đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ cho phép. Các chƣơng trình dự án sử
dụng vốn viện trợ phải đƣợc thực hiện theo “Quy chế tài chính và
quản lý các dự án sử dụng vốn viện trợ của Chính phủ Việt Nam
dành cho Chính phủ Lào”... Với tinh thần đó, năm 2007 hai bên đã
triển khai thực hiện nhiều thỏa thuận, giải quyết kịp thời những vấn
đề nảy sinh, các bộ, ban, ngành, địa phƣơng hai bên đã có nhiều
hoạt động giúp đỡ lẫn nhau và có kết quả tốt. Hợp tác kinh tế, văn
hóa, khoa học - kỹ thuật giữa hai nƣớc có chuyển biến tích cực.
Những năm còn lại của giai đoạn 2006 - 2010 hy vọng sự hợp tác
toàn diện giữa hai bên sẽ đƣợc tăng cƣờng, ngày càng đi vào chiều
sâu, tạo những tiền đề vật chất cần thiết cho việc xây dựng chiến
lƣợc hợp tác giữa hai nƣớc giai đoạn 2011 - 2020.
Chiến lƣợc hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
trong thời gian tới (2011 - 2015 và tầm nhìn đến 2020) đƣợc xây
dựng và thực hiện trong bối cảnh quốc tế, khu vực và ở từng nƣớc
có những thuận lợi và khó khăn đan xen cùng những chuyển biến
rất mau lẹ, tác động trực tiếp đến quan hệ hợp tác toàn diện giữa
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 868

hai nƣớc.
Thuận lợi cơ bản trong quan hệ hợp tác là sự ổn định về chính
trị của hai bên, kinh tế cũng có những bƣớc phát triển khả quan
trƣớc sự điều hành có hiệu quả của Chính phủ mỗi nƣớc, đây là
nhân tố quyết định tới quan hệ hợp tác giữa hai nƣớc trong thời
gian tới. Mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, hợp
tác toàn diện trên các lĩnh vực giữa hai nƣớc đƣợc hai bên đánh giá
là ngày càng đƣợc củng cố và phát triển tốt đẹp.
Trong những năm qua, quan hệ chính trị, an ninh, quốc phòng,
đối ngoại đƣợc tăng cƣờng; hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ
thuật có nhiều chuyển biến tích cực. Mặc dù kinh tế thế giới từ cuối
năm 2007 bắt đầu có nhiều biến động lớn, phức tạp; giá cả nhiên
liệu, vật tƣ, xăng dầu, phôi thép... tăng liên tục chƣa có điểm dừng,
ảnh hƣởng tiêu cực đến kinh tế Việt Nam và Lào. Tuy nhiên, nền
kinh tế của cả hai nƣớc vẫn có tốc độ tăng trƣởng tƣơng đối khá so
với các nƣớc trong khu vực (năm 2007 ở Việt Nam là 8,4% và Lào
là 7,5%). Đây là một lợi thế để Việt Nam và Lào khẳng định vai trò
của mình trong các hoạt động của tổ chức hợp tác khu vực nhƣ
ASEAN, GMS, CLV, CLVM... Trong quan hệ hợp tác, hai nƣớc đã
và đang nhận đƣợc sự ủng hộ của các nƣớc và các tổ chức kinh tế
thế giới trên nhiều lĩnh vực, góp phần củng cố và thúc đẩy nền kinh
tế của mỗi nƣớc, trong đó chủ yếu là Nhật Bản và Ngân hàng Phát
triển châu á (ADB).
Do ảnh hƣởng của suy thoái chung toàn cầu, trong thời gian tới
thị trƣờng xuất khẩu của mỗi nƣớc còn bị thu hẹp, do đó ảnh hƣởng
lớn tới việc làm của ngƣời lao động, lao động dƣ thừa ở mỗi nƣớc
sẽ tăng lên. Hợp tác hai nƣớc sẽ đƣợc đặt ra trƣớc bối cảnh cần phải
tăng cƣờng, dành ƣu tiên, ƣu đãi cho đầu tƣ vào mỗi nƣớc. Trƣớc
hết là các dự án thủy điện và trồng cây công nghiệp, nhằm giải
quyết việc làm cho ngƣời lao động và tạo nguồn lực bổ sung cho
869
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

nhau phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế của mỗi nƣớc trong giai
đoạn trƣớc mắt (2011 - 2015); đồng thời tạo điều kiện để hội nhập
kinh tế thế giới của những năm sau này. Nhƣ vậy, hợp tác toàn diện
giữa hai nƣớc giai đoạn 2011 - 2020 trƣớc bối cảnh quốc tế, khu
vực và tình hình thực tế của mỗi nƣớc vừa là cơ hội vừa là thách
thức.
Nhằm tăng cƣờng, củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị
truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nƣớc,
định hƣớng cơ bản hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đặt ra
trong giai đoạn 2011 - 2020 là: “Phát huy truyền thống quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào trở thành động lực tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ trong hợp tác kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội và hội nhập của mỗi nƣớc”. Trong đó, không ngừng
nâng cao nhận thức và làm sâu sắc thêm quan hệ đặc biệt Việt Nam
- Lào, Lào - Việt Nam trong hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ
thuật, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thúc đẩy hợp tác kinh tế ngang
tầm với quan hệ truyền thống giữa hai nƣớc. Thấm nhuần tƣ tƣởng
chỉ đạo “Coi trọng, phát triển và củng cố mối quan hệ hữu nghị
truyền thống, đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa hai
nƣớc và coi đây là nhiệm vụ có tầm chiến lƣợc to lớn, thiết thực
phục vụ cho lợi ích đảm bảo ổn định an ninh, chính trị và phát triển
của mỗi nƣớc”. Đồng thời, coi hợp tác và nâng cao chất lƣợng giáo
dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ chiến lƣợc
lâu dài giữa hai nƣớc nhằm hình thành một thế hệ mới kế cận có
đầy đủ năng lực và nhận thức một cách sâu sắc về mối quan hệ hữu
nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai
nƣớc, tạo lòng tin vững chắc lâu dài lẫn nhau, góp phần tăng cƣờng
mối quan hệ bền vững giữa hai Đảng và hai Nhà nƣớc. Đặc biệt coi
trọng đào tạo và bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ chính trị, trƣớc hết là đội
ngũ cán bộ các cấp của các địa phƣơng Lào, cán bộ làm việc ở các
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 870

dự án giữa hai nƣớc; kết hợp hài hòa giữa đào tạo và bồi dƣỡng,
giữa số lƣợng và chất lƣợng đào tạo, giữa đào tạo chính quy các
bậc học với đào tạo nghề.
Thƣờng xuyên phối hợp và cụ thể hóa quan điểm về quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trên tinh thần các tuyên
bố chung và thỏa thuận cấp cao giữa lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà
nƣớc vào nội dung hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật
giữa hai nƣớc. Từng bƣớc nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hợp tác
trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và tinh thần quan hệ đặc biệt
theo luật pháp của mỗi nƣớc nhằm tạo sự chuyển biến trong hợp tác
kinh tế giữa hai nƣớc, trên cơ sở:
- Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tƣ đã ký kết. Đồng
thời tiếp tục đầu tƣ phát huy những tiềm năng, lợi thế của hai nƣớc
nhằm bổ sung nguồn lực cho nhau, phù hợp với mục tiêu, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nƣớc theo từng giai đoạn, góp
phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mỗi
nƣớc, trong đó đối với Lào là đƣa đất nƣớc thoát khỏi tình trạng
nƣớc kém phát triển vào năm 2020.
Trƣớc mắt, ƣu tiên và có cơ chế đặc biệt để doanh nghiệp hai
nƣớc có điều kiện triển khai các dự án trực tiếp bổ sung, khuyến
khích hỗ trợ nguồn lực phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế mỗi
nƣớc; các dự án trực tiếp giải quyết việc làm; các dự án có ảnh
hƣởng tích cực đến việc cải thiện đời sống dân cƣ trong khu vực dự
án, các dự án phục vụ giảm nghèo và các dự án có đóng góp thiết
thực vào việc tăng cƣờng mối quan hệ đặc biệt giữa hai nƣớc.
- Phấn đấu tăng kim ngạch xuất nhập khẩu hai nƣớc đạt 2 tỷ USD
vào năm 2015 và 5 tỷ USD năm 2020. Quan tâm đặc biệt, bảo đảm
kết nối giao thông đƣờng bộ trên các trục huyết mạch và các tuyến
kết nối qua biên giới với các cảng biển của Việt Nam để phục vụ
đầu tƣ, thƣơng mại và hội nhập giữa hai nƣớc, trên nguyên tắc đầu
871
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

tƣ đồng bộ và đồng thời giữa hai bên.


- Tăng cƣờng và nâng cao vai trò hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa
các bộ, ngành, tổ chức, địa phƣơng và doanh nghiệp hai nƣớc, gắn
phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh, đặc biệt là các địa
phƣơng có chung đƣờng biên giới giữa hai nƣớc nhằm phát triển các
địa phƣơng khu vực biên giới trở thành hậu phƣơng chiến lƣợc vững
chắc, ổn định, hòa bình, hữu nghị, hợp tác lâu dài, tạo sự gắn bó, tin
tƣởng lẫn nhau, góp phần củng cố ngày càng vững chắc mối quan hệ
đoàn kết đặc biệt giữa các dân tộc và nhân dân hai nƣớc.
- Nâng cao chất lƣợng hợp tác và sử dụng có hiệu quả các
chƣơng trình, dự án sử dụng nguồn hỗ trợ của Việt Nam dành cho
Lào. Tránh dàn trải, tập trung có trọng tâm, trọng điểm vào các
chƣơng trình, dự án phục vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
trƣớc mắt và lâu dài của Lào nhằm mang lại lợi ích thiết thực cho
hai nƣớc. Các chƣơng trình, dự án mang tính xã hội có tác động
trực tiếp vào việc tăng cƣờng quan hệ đặc biệt giữa hai nƣớc.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, hai bên phối
hợp chặt chẽ việc rà soát bổ sung, sửa đổi các văn bản thỏa thuận,
phối hợp xây dựng cơ chế, chính sách mới phù hợp với luật pháp và
tình hình thực tế của mỗi nƣớc, thể hiện mối quan hệ đặc biệt giữa
hai nƣớc và thông lệ quốc tế, tạo sự chuyển biến trong hợp tác kinh
tế cũng nhƣ hội nhập quốc tế và khu vực của mỗi nƣớc.
Thƣờng xuyên trao đổi thông tin và phản ánh những bất cập
trong quá trình thực hiện những thỏa thuận song phƣơng; đồng
thời, tăng cƣờng kiểm tra, giám sát và xử lý kịp thời việc thực hiện
những nội dung thỏa thuận hợp tác mà hai bên đã ký kết. Điều
chỉnh linh hoạt các nội dung đã cam kết phù hợp với tình hình thực
tế trong từng thời điểm.
Phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các cam kết và có sự
đồng thuận trong các khuôn khổ hợp tác đa phƣơng đối với
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 872

những vấn đề có liên quan đến hai nƣớc nhằm tranh thủ sự ủng hộ
và hỗ trợ của các nƣớc, các tổ chức khu vực và quốc tế vào mục
tiêu thúc đẩy, tạo sự chuyển biến trong hợp tác kinh tế giữa hai
nƣớc.

3. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về mối quan hệ hữu


nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
Trƣớc những biến động phức tạp và khó lƣờng của tình hình
thế giới và yêu cầu phát triển của mỗi nƣớc, trên cơ sở những kết
quả to lớn của sự hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam những
năm qua, lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nƣớc thống nhất đặt
ƣu tiên cao nhất là cùng phấn đấu nâng quan hệ đặc biệt Việt Nam
- Lào, Lào - Việt Nam lên tầm cao mới, theo phƣơng châm chất
lƣợng và hiệu quả, góp phần giữ vững ổn định an ninh, chính trị,
tăng trƣởng kinh tế bền vững, hội nhập ngày càng sâu rộng và có
vị thế xứng đáng trên trƣờng quốc tế. Để đạt đƣợc mục tiêu này,
lãnh đạo cấp cao hai nƣớc đã nhất trí trƣớc hết tiếp tục củng cố,
tăng cƣờng sự gắn bó, tin cậy và phối hợp chặt chẽ, thƣờng xuyên
trong những vấn đề có tính chiến lƣợc giữa hai Đảng, hai Nhà
nƣớc. Duy trì các cuộc gặp cấp cao truyền thống. Tăng cƣờng
tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức phong phú, hiệu quả
và thiết thực về mối quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết
đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam cho
toàn thể cán bộ đảng viên và nhân dân hai nƣớc.
Đồng chí Chummaly Xaynhaxỏn, Chủ tịch nƣớc, Tổng Bí thƣ
Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã nói rõ chủ trƣơng của Đảng và
Nhà nƣớc Lào về vấn đề này: “Trong điều kiện mới, tình đoàn kết
đặc biệt và hợp tác toàn diện Lào - Việt Nam ngày càng tăng
cường và phát triển, nở hoa, kết trái và cùng tồn tại mãi mãi với sự
phát triển của hai nước chúng ta.
873
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào sẽ làm hết sức
mình để cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam anh em
nâng niu, gìn giữ và vun đắp mối quan hệ truyền thống, tình đoàn
kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Lào - Việt Nam, để cho mối quan
hệ đó trở thành tài sản vô giá cho con cháu mai sau.
Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào coi đó vừa là
nghĩa vụ quan trọng, vừa là vinh dự cao cả của mình, khẳng
định chắc chắn rằng, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng sẽ cùng
Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam tăng cường tuyên truyền,
giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân các bộ tộc, mọi tầng lớp
nhân dân, nhất là thế hệ trẻ của hai nước có sự hiểu biết sâu sắc
về tầm quan trọng, tính quy luật của tình đoàn kết đặc biệt Lào -
Việt Nam cũng như nghĩa vụ cần phải vun đắp và xây dựng tình
đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Lào - Việt Nam mãi mãi
xanh tươi, đời đời bền vững”1. Đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng
Bí thƣ Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng nhấn mạnh: Tăng cường
hơn nữa việc tuyên truyền giáo dục bằng nhiều hình thức phong
phú và thiết thực về mối quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam -
Lào, trước mắt, sớm hoàn thành công trình lịch sử quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào để làm tài liệu giáo dục cho nhân dân hai
nước, đặc biệt là thế hệ thanh, thiếu niên hôm nay và mai sau2.
Nhƣ vậy là, lãnh đạo cấp cao hai nƣớc đều khẳng định sự cần
thiết phải tăng cƣờng hợp tác toàn diện, đƣa quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam lên tầm cao mới, mà nhiệm vụ
trƣớc tiên là tuyên truyền, giáo dục về mối quan hệ hữu nghị
truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

1
. B¸o Nh©n d©n, ngµy 18 th¸ng 7 n¨m 2007.
2
. Xem: LÞch sö quan hÖ ®Æc biÖt ViÖt Nam - Lµo, Lµo - ViÖt Nam
(1930 - 2007) - Bµi viÕt cña L·nh ®¹o §¶ng, Nhµ n-íc. (Ch÷ in nghiªng
lµ do chóng t«i nhÊn m¹nh - BBS).
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 874

Đối tƣợng của việc tuyên truyền, giáo dục là hết thảy cán bộ,
đảng viên, nhân dân và đặc biệt là thế hệ trẻ; từ cán bộ cao cấp của
Đảng, Nhà nƣớc, quân đội, mặt trận đến những ngƣời dân bình
thƣờng của hai nƣớc... từ trung ƣơng đến địa phƣơng, bộ, ngành,
đơn vị, doanh nghiệp.
Về nội dung, phải làm cho mọi ngƣời hiểu biết sâu sắc về mối
quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác
toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đã đƣợc Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, Chủ tịch
Xuphanuvông kính yêu xây dựng, vun đắp và đã đƣợc các thế hệ
lãnh đạo và cán bộ, nhân dân hai nƣớc tiếp tục củng cố, phát triển
trong gần 80 năm qua. Mối quan hệ đặc biệt đó đã trở thành tài
sản vô cùng quý báu của hai dân tộc, là quy luật tồn tại và phát
triển, là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng mỗi nƣớc trƣớc đây và ngày nay. Lãnh đạo cấp cao hai nƣớc
đã nhiều lần khẳng định quyết tâm và coi đây là nhiệm vụ, trách
nhiệm cùng nhau tiếp tục bảo vệ, phát triển và nâng lên tầm cao
mới mối quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam trên tinh thần độc lập, tự chủ và ý chí tự lực, tự
cƣờng, phát huy thế mạnh và khả năng của mỗi bên, bổ sung cho
nhau; đồng thời dành cho nhau ƣu tiên, ƣu đãi hợp lý, không
ngừng nâng cao hiệu quả, chất lƣợng hợp tác vì lợi ích của nhân
dân mỗi nƣớc, góp phần vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển
ở khu vực và trên thế giới.
Việc tuyên truyền, giáo dục phải đƣợc tiến hành bằng nhiều
hình thức phong phú và thiết thực, hiệu quả. Trƣớc mắt cần dựa
trên kết quả của công trình “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007)” để làm cơ sở cho công tác
tuyên truyền, giáo dục. Đây là việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Bởi vì, cùng với bộ sách lịch sử là những bộ sách hồi ký, văn
kiện, sách ảnh, biên niên sự kiện, những cuốn phim tƣ liệu mà sau
875
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

khi hoàn thành không chỉ là những công trình tổng kết có giá trị
lịch sử về mối quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc
biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng và cũng chính Ngƣời cùng với Chủ
tịch Cayxỏn Phômvihản, Chủ tịch Xuphanuvông và các thế hệ lãnh
đạo hai Đảng, hai Nhà nƣớc, hai Mặt trận, nhân dân và quân đội hai
nƣớc không ngừng củng cố và phát triển, mà còn là những công
trình đáp ứng công tác tuyên truyền, giáo dục lâu dài hết sức có ý
nghĩa đối với thế hệ hôm nay và các thế hệ con em hai nƣớc Việt
Nam và Lào mai sau.
Các công trình khoa học về lịch sử quan hệ đặc biệt giữa hai
nƣớc càng có tác dụng tuyên truyền và giáo dục hơn, bởi nó dựng
lại bức tranh lịch sử sinh động những chặng đƣờng cách mạng vẻ
vang mà các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân hai nƣớc Việt
Nam và Lào đã đi suốt chiều dài lịch sử mấy chục năm qua; thể
hiện tinh thần yêu nƣớc nồng nàn và chủ nghĩa quốc tế cao cả, tình
đoàn kết hữu nghị đặc biệt thủy chung, trong sáng, chí nghĩa, chí
tình luôn luôn kề vai sát cánh trong suốt hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cho đến những ngày xây dựng
đất nƣớc trong hòa bình.
Lịch sử hình thành và phát triển của mối quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam cũng sẽ đƣợc tái hiện một cách rõ ràng,
sinh động và quan trọng hơn, từ thực tiễn lịch sử đúc kết những bài
học quý giá trong gần 80 năm xây dựng và phát triển mối quan hệ
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam mẫu mực, hiếm có trong lịch sử
nhân loại.
Lịch sử về quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng và quân dân hai
nƣớc chúng ta là sự thật đầy sức thuyết phục không một ai và mãi
mãi không bao giờ phủ nhận đƣợc, bởi vì, đó là thành quả kết tinh
từ xƣơng máu hy sinh, từ lao động sáng tạo, từ niềm tin không gì
lay chuyển nổi, từ sự chia ngọt sẻ bùi, chung lƣng đấu cật, gắn bó
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt... 876

keo sơn nhƣ anh em ruột thịt của các thế hệ chiến sĩ cách mạng và
quân dân hai nƣớc1.
Các công trình khoa học về lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam sẽ là tài liệu rất quan trọng trong việc tuyên
truyền, giáo dục, làm cho mọi ngƣời, từ cán bộ, đảng viên đến
ngƣời dân thƣờng của hai nƣớc chúng ta càng thêm tự hào, trân
trọng về tầm vóc vĩ đại, ý nghĩa lớn lao của mối quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam để mãi mãi biết ơn những chiến sĩ
cách mạng tiền bối và các thế hệ anh hùng liệt sĩ cùng đồng bào,
chiến sĩ hai nƣớc đã chiến đấu hy sinh, lao động sáng tạo, xây
dựng, bồi đắp, bảo vệ tình đoàn kết, quan hệ đặc biệt giữa hai
Đảng, hai nƣớc chúng ta; phát huy truyền thống quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trở thành động lực thúc đẩy sự
hợp tác toàn diện giữa hai nƣớc trong giai đoạn mới.
Để tăng cƣờng công tác tuyên truyền, giáo dục về mối quan hệ
hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, cả hai bên cần đẩy mạnh hợp tác
trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, thông tin, phát thanh truyền
hình... Phối hợp tổ chức trọng thể hoạt động kỷ niệm các ngày lễ
lớn của hai nƣớc; duy trì các cuộc gặp gỡ, giao lƣu giữa các địa
phƣơng, ban, ngành, đơn vị... đặc biệt là thế hệ trẻ của hai nƣớc.
Trong bối cảnh hiện nay và tƣơng lai gần, tình hình thế giới và
khu vực diễn biến phức tạp, khó lƣờng. Tuy hòa bình, hợp tác và
phát triển vẫn là xu hƣớng chủ yếu, nhƣng xung đột dân tộc, tôn
giáo, tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, khủng bố... vẫn diễn ra ở

1
. TrÝch bµi ph¸t biÓu cña ®ång chÝ Tr-¬ng TÊn Sang, ñy viªn Bé
ChÝnh trÞ, Th-êng trùc Ban BÝ th- §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam t¹i Héi nghÞ
trao ®æi kinh nghiÖm c«ng t¸c hai Ban ChØ ®¹o biªn so¹n bé s¸ch LÞch sö
quan hÖ ®Æc biÖt ViÖt Nam - Lµo, Lµo - ViÖt Nam (1930 - 2007), th¸ng 3
n¨m 2009.
877
Ch-¬ng x: phÊn ®Êu ®-a quan hÖ ®Æc biÖt...

nhiều nơi với tính chất rất phức tạp. Các thế lực thù địch vẫn đẩy
mạnh việc thực hiện âm mƣu “diễn biến hoà bình” mà mũi nhọn là
tƣ tƣởng, văn hóa nhằm lật đổ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam và chế độ dân chủ nhân dân ở Lào, phá
hoại mối quan hệ đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa hai Đảng,
hai Nhà nƣớc Việt Nam và Lào. Vì vậy, hai bên cần tăng cƣờng
hợp tác trong công tác tuyên truyền, giáo dục với nhiều hình thức
phong phú, hiệu quả, thiết thực... kể cả việc phối hợp và trao đổi
kinh nghiệm đấu tranh chống các tƣ tƣởng sai trái, phản động trong
cuộc đấu tranh chống âm mƣu và hành động của các thế lực thù
địch nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam và Lào; đồng
thời đấu tranh với những luận điệu nhằm xuyên tạc quan hệ Việt
Nam - Lào, bảo vệ sự trong sáng của mối quan hệ đặc biệt và hợp
tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam hiện nay.
Với mong muốn và quyết tâm của hai Đảng, hai Nhà nƣớc và
nhân dân hai nƣớc, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam sẽ đƣợc đẩy mạnh trên cơ sở phát huy tinh thần độc lập,
tự chủ và ý chí tự lực, tự cƣờng, phát huy thế mạnh và khả năng
của mỗi nƣớc trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi; đồng thời
dành ƣu tiên, ƣu đãi cho nhau phù hợp với tính chất của mối quan
hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam không ngừng nâng cao
chất lƣợng và hiệu quả hợp tác, đƣa quan hệ Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam lên một tầm cao mới vì lợi ích của nhân dân mỗi nƣớc, vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
KẾT LUẬN

Khi lãnh tụ Nguyễn ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin,


tƣ tƣởng của Ngƣời về con đƣờng cách mạng giải phóng dân tộc
theo quỹ đạo của cách mạng vô sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam - tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, là thời điểm xuất
hiện quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Cũng từ
đây, cuộc đấu tranh của hai dân tộc chống chế độ thuộc địa, từng
bƣớc tiến triển trong quan hệ đoàn kết đặc biệt giành đƣợc nhiều
thắng lợi quan trọng.
Các chặng đƣờng thắng lợi của hai dân tộc diễn ra nối tiếp nhau
nhƣ Cách mạng tháng Tám 1945, kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lƣợc kết thúc bằng thắng lợi hoàn toàn năm
1975, tiếp đó là quá trình tìm tòi, thử nghiệm để đi tới quyết định
đổi mới con đƣờng xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội vào cuối năm 1986. Đƣờng lối đổi mới khơi dậy
nguồn lực lao động sáng tạo, đẩy mạnh sản xuất phát triển, điều
chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, mở rộng quan hệ đối
ngoại, hội nhập tổ chức ASEAN và nhiều tổ chức quốc tế khác, đƣa
tới sự tăng trƣởng nhanh về năng suất lao động, của cải xã hội, ổn
định chính trị trong sự biến động hiểm nghèo của chủ nghĩa xã hội
với sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nƣớc
Đông Âu. Sự kiểm nghiệm khách quan đó của lịch sử càng làm
sáng tỏ giá trị cao quý của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và năng lực lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, Đảng Nhân dân cách mạng
Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự thiết lập quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là
một sáng tạo lý luận cách mạng giải phóng dân tộc
Hầu hết các nƣớc châu á, đến những năm đầu thập niên 20 thế kỷ
XX, sống trong tình trạng biệt lập, không tự biết sức mạnh vốn có của
mình, càng không biết đoàn kết với các dân tộc khác để tạo ra sức
879
kÕt luËn

mạnh chiến thắng chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây. Do vậy, sự thiết
lập quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trở thành một
giải pháp có ý nghĩa lịch sử của nhân dân châu á trong sự nghiệp đấu
tranh lật đổ chế độ thuộc địa. Điều đó, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc cho
biết, sau nhiều năm ngẫm nghĩ, Ngƣời tìm thấy “nguyên nhân đầu tiên
đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc phƣơng Đông, đó là SỰ BIỆT
LẬP... do đó họ THIẾU SỰ TIN CẬY LẪN NHAU, SỰ PHỐI HỢP
HÀNH ĐỘNG VÀ SỰ CỔ VŨ LẪN NHAU”1.
Nguyễn ái Quốc còn phân tích làm sáng tỏ thêm mối quan hệ
giữa việc tìm kiếm con đƣờng tự giải phóng và nhận thức về tầm
quan trọng của đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Ngƣời viết:
“Miền Cận Đông và miền Viễn Đông, từ Xyri tới Triều Tiên -
chúng tôi chỉ nói đến những nƣớc thuộc địa và nửa thuộc địa có
một diện tích rộng hơn 15 triệu km2, với số dân hơn 1.200 triệu
ngƣời, tất cả những nƣớc rộng lớn ấy ngày nay đều đang ở dƣới
ách của chủ nghĩa tƣ bản và chủ nghĩa đế quốc. Và mặc dù số
lƣợng của họ đáng lẽ phải làm cho họ có sức mạnh, các dân tộc bị
áp bức đó vẫn chưa thực sự mưu đồ tự giải phóng khỏi ách đó, và
vì họ chưa hiểu giá trị của sự đoàn kết quốc tế, nên họ chưa biết
đoàn kết nhau lại để đấu tranh... Họ có sẵn một sức mạnh to lớn
mà họ chƣa biết!”2.
Nét đặc sắc của quan hệ giúp nhau giữa hai dân tộc Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam là sự thực hiện quan điểm, nguyên tắc và trách
nhiệm do lãnh đạo hai Đảng, hai nước nhất trí.
Trong quá trình xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam cả hai Đảng và hai dân tộc đều nhất trí
thực hiện lời chỉ dẫn của lãnh tụ Hồ Chí Minh “giúp bạn là mình tự

1
. Hå ChÝ Minh: Toµn tËp, S®d, t.1, tr.263.
2
. Hå ChÝ Minh: Toµn tËp, S®d, t.1, tr.301. (Nh÷ng ch÷ in nghiªng lµ
do chóng t«i nhÊn m¹nh - BBS).
kÕt luËn 880

giúp mình”, và thực hiện các nguyên tắc nhƣ trên đã viết. Nhân dân
hai nƣớc cùng sát cánh bên nhau chiến đấu, công tác và do vậy,
thắng lợi của mình, có phần đóng góp của bạn. Tại cuộc hội đàm
giữa Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam và Đoàn đại biểu
Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tháng 12 năm 1973. Đồng chí
Cayxỏn Phômvihản thể hiện rõ tinh thần ấy: “Đặc biệt trong quá
trình giúp đỡ, ta đã xây dựng tình đoàn kết hiếm có trong lịch sử”.
Sự đoàn kết vì tình, vì nghĩa, vì dân tộc, vì quốc tế cho nên đoàn
kết trở thành truyền thống, thành mẫu mực.
Trong tình hình quốc tế, trong tình hình quan hệ của đảng, các
nƣớc đều có vấn đề phức tạp, mà giữa hai Đảng chúng ta đến nay
đều thuỷ chung gắn bó là một điều vô cùng quý báu.
Nhân dịp kết thúc một giai đoạn cách mạng, thay mặt Đảng
Nhân dân cách mạng Lào, thay mặt Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng, thay mặt toàn thể nhân dân Lào, chúng tôi bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc đối với Đảng Lao động Việt Nam, với Ban Chấp hành
Trung ƣơng Đảng và với tất cả cán bộ, chuyên gia, bộ đội, công
nhân đã và đang công tác ở Lào, có những ngƣời đã lăn lộn 10, 20
năm xa quê hƣơng, xa gia đình, tận tuỵ hy sinh vì cách mạng Lào.
Lịch sử hai Đảng, hai nƣớc sẽ ghi mãi mãi công ơn to lớn này. Đây
không những là một tấm gƣơng lớn cho hai Đảng, hai nƣớc chúng
ta, mà còn là một gƣơng, một kinh nghiệm quý báu cho mối quan
hệ đặc biệt giữa hai Đảng. Nó Mác - Lênin lắm, nó rất chân chính,
nó rất đúng nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Tôi nghĩ
không có lời văn, không có báo chí nào có thể nói hết.
Có thể nói đây là những điểm rất cơ bản. Chỉ có hai Đảng, hai
dân tộc cùng một cảnh ngộ chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ,
cùng một vận mệnh gắn bó với nhau mới hiểu hết tình nghĩa này”1.
1
. Biªn b¶n héi ®µm gi÷a §oµn ®¹i biÓu §¶ng Lao ®éng ViÖt Nam vµ
§oµn ®¹i biÓu §¶ng Nh©n d©n c¸ch m¹ng Lµo, th¸ng 12 n¨m 1973, Tµi
liÖu ®· dÉn.
881
kÕt luËn

Về phía Việt Nam, Trung ƣơng Đảng nhiều lần tự xác định
trách nhiệm của mình đối với cách mạng Lào và điều đó cũng là
trách nhiệm đối với quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam. Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị ngày 21, 22 tháng 4 năm
1967 viết: “Vị trí cách mạng Lào rất quan trọng và gắn liền với
Việt Nam, quan hệ giữa ta và Lào là quan hệ đặc biệt. Quan hệ giữa
ta và Lào khác với quan hệ giữa ta với các nƣớc khác. Đối với Lào
không phải là giúp mà thôi, mà ta phải xem mình có nhiệm vụ tham
gia làm cách mạng ở Lào”1.
Bộ Chính trị chủ trƣơng quán triệt trong toàn thể cán bộ, chiến
sĩ sang giúp Lào và các ngành, các địa phƣơng có quan hệ về ý
nghĩa, nhiệm vụ giúp cách mạng Lào, tham gia cách mạng Lào.
Trong quá trình giúp đỡ nhau, mỗi bên đều dốc hết sức của
mình, giúp toàn diện, nhƣng không dàn đều, mà chú trọng tập trung
vào những vấn đề cơ bản nhất. Theo ý kiến của Bác Hồ, trong
những năm đầu thập niên 60 thế kỷ XX, Việt Nam cần chú trọng
tập trung giúp Đảng Lào xây dựng đƣờng lối, cƣơng lĩnh, đào tạo
cán bộ. Ngƣời chỉ đạo thành lập một tổ cán bộ Việt Nam cùng bạn
nghiên cứu, đi khảo sát thực tế ở nhiều tỉnh, kể cả ở vùng địch hậu
Viêng Chăn. Kết quả nghiên cứu đã giúp Trung ƣơng Đảng Nhân
dân Lào ra Nghị quyết xây dựng vùng giải phóng nhƣ quy mô quốc
gia đƣợc ghi trong kế hoạch ba năm từ 1968 đến 1970; năm 1972,
Đại hội II Đảng Nhân dân cách mạng Lào công bố Cương lĩnh
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng Nhân dân Lào và nhân dân
Lào giúp Việt Nam mở tuyến đƣờng vận tải chiến lƣợc, cung cấp
sức ngƣời, sức của cho chiến trƣờng miền Nam Việt Nam, Lào và

1
. Tæng côc ChÝnh trÞ: §¶ng l·nh ®¹o qu©n t×nh nguyÖn vµ chuyªn gia
qu©n sù ViÖt Nam lµm nhiÖm vô quèc tÕ (1930 - 1975), S®d, tr.476.
kÕt luËn 882

Campuchia.
Đây không chỉ là con đƣờng vận chuyển vũ khí, quân trang,
quân dụng, lƣơng thực, xăng dầu và bộ đội, cán bộ từ hậu phƣơng
miền Bắc vào miền Nam đến Lào, Campuchia mà còn là chiến
trƣờng đọ sức ác liệt, nơi thử thách ý chí và bản lĩnh cách mạng của
lực lƣợng vũ trang và nhân dân hai nƣớc vì độc lập, tự do, chống
các mƣu đồ, kế hoạch nham hiểm, tàn bạo và các phƣơng tiện chiến
tranh hiện đại nhất của đế quốc Mỹ.
Trong chiến tranh chống Mỹ, nhiều chiến dịch lớn do quân đội,
nhân dân Việt Nam và quân đội Lào tiến hành nhƣ chiến dịch phản
công đƣờng 9 - Nam Lào đánh bại cuộc hành quân “Lam Sơn 719”
của Mỹ - nguỵ hòng ngăn chặn đƣờng tiếp tế từ miền Bắc vào miền
Nam Việt Nam, triệt phá hoàn toàn hệ thống hậu cần của ta tại Nam
Lào. Chúng đã bị thất bại thảm hại trƣớc sức phối hợp chiến đấu
của bộ đội Việt Nam và quân, dân Lào. Tiếp đó, quân đội Việt
Nam, Lào còn mở nhiều chiến dịch tiêu hao tiêu diệt địch, bảo vệ
và mở rộng vùng giải phóng của cách mạng Lào, giữ vững mạch
máu giao thông trên đƣờng Hồ Chí Minh, khẩn trƣơng chuẩn bị lực
lƣợng đón thời cơ giải phóng miền Nam Việt Nam.
Từ thực tế của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc, chúng ta
càng thấu hiểu, Đảng Nhân dân cách mạng Lào và nhân dân Lào đã
chấp nhận những hy sinh to lớn khi giúp Việt Nam mở đƣờng tây
Trƣờng Sơn, tận dụng lợi thế thiên nhiên và vị thế địa - quân sự của
dãy Trƣờng Sơn. Và chỉ có quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam, Việt
Nam - Lào mới đáp ứng đƣợc yêu cầu đó của bạn bè, đồng chí.
Hai bên thƣờng xuyên quan tâm học hỏi lẫn nhau, cổ vũ những
sáng tạo và thành công của bạn. Tại cuộc hội đàm giữa Đoàn đại
biểu Trung ƣơng Đảng Lao động Việt Nam và Đoàn đại biểu Trung
ƣơng Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tháng 12 năm 1973, đồng chí
Lê Duẩn nói: “Đảng chúng tôi đánh giá rất cao thắng lợi mà Đảng
883
kÕt luËn

và nhân dân Lào vừa giành đƣợc. Thắng lợi của các đồng chí đƣa
đất nƣớc Lào phát triển một bƣớc nhảy vọt chƣa từng có trong lịch
sử đất nƣớc Lào, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của cách mạng ở Đông Dƣơng và ảnh hƣởng tốt đến phong trào của
nhân dân các nƣớc trên thế giới. Đảng Lào và nhân dân Lào đã làm
đƣợc một việc vĩ đại trong hoàn cảnh hết sức khó khăn phức tạp”1.
Những kỳ tích của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam là sự thể hiện thành công đạt tới trình độ mẫu mực, đúng đắn,
hài hoà mối quan hệ dân tộc và quốc tế; tạo thuận lợi cho hai bên tự
chủ phát triển nội lực của mình và chung sức nhân lên sức mạnh
của khối liên minh, hợp tác của hai dân tộc. Đó chính là di sản văn
hoá phi vật thể của hai dân tộc Việt Nam, Lào nhƣ Chủ tịch
Xuphanuvông đánh giá trong diễn văn đọc tại cuộc míttinh trọng
thể chào mừng Đoàn đại biểu nhân dân Lào tại Hội trƣờng Ba
Đình, Hà Nội ngày 25 tháng 5 năm 1971: “Tình hữu nghị anh em
giữa nhân dân Lào và Việt Nam thật là vĩ đại mà bất cứ bài ca, bản
nhạc nào, bất cứ bài thơ nào hay nhất cũng không sao diễn tả trọn
vẹn đƣợc. Tình hữu nghị đó cao hơn núi, dài hơn sông, rộng hơn
biển cả, đẹp hơn trăng rằm, ngát thơm hơn bất cứ đoá hoa nào thơm
nhất. Tình hữu nghị cao đẹp đó đã đƣợc vun trồng, xây đắp lên với
tất cả tấm lòng thành thật của chúng ta. Do đó, không thể có hung
thần nào, không thể có kẻ thù nào phá vỡ nổi”2.
Trong tình hình đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại
và hội nhập quốc tế, cần ra sức bảo vệ, phát triển quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

1
. Biªn b¶n héi ®µm gi÷a §oµn ®¹i biÓu §¶ng Lao ®éng ViÖt Nam vµ
§oµn ®¹i biÓu §¶ng Nh©n d©n c¸ch m¹ng Lµo, th¸ng 12 n¨m 1973, Tµi
liÖu ®· dÉn.
2
. B¸o Nh©n d©n, ngµy 2 th¸ng 6 n¨m 1971.
kÕt luËn 884

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là sự tổng
hợp phẩm chất cách mạng trong sáng, trách nhiệm cao cả và tình
cảm sắt son, nồng thắm mà hai dân tộc Việt Nam, Lào dành cho
nhau, gắn bó bền chặt với nhau, chiến đấu, hy sinh, lao động sáng
tạo vì độc lập, tự do, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan hệ đó trải qua nhiều chặng đƣờng gian nan, ác liệt do chủ
nghĩa đế quốc xâm lƣợc gây ra. Trong chín năm (1945 - 1954), đế
quốc Pháp sử dụng các kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh”, “dùng
ngƣời Đông Dƣơng đánh ngƣời Đông Dƣơng”, chia cắt, bao vây
chiến trƣờng Việt Nam, Lào trong nhiều năm (1945 - 1949)...
nhƣng chúng đều bị nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia đoàn kết
chiến đấu và đánh bại.
Đế quốc Mỹ không rút kinh nghiệm thất bại của thực dân Pháp,
liều lĩnh lao vào cuộc chiến xâm lƣợc Đông Dƣơng kéo dài hơn 20
năm với cƣờng độ gia tăng gấp bội. Chúng sử dụng nhiều chiến
lƣợc chiến tranh và chủ nghĩa thực dân mới; đánh phá dữ dội lãnh
thổ Việt Nam và Lào, nhất là đƣờng Hồ Chí Minh, hòng bóp nghẹt
con đƣờng chi viện của hậu phƣơng miền Bắc cho chiến trƣờng
miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia. Song chúng càng bị thất
bại thảm hại.
Sau chiến thắng chống ngoại xâm, quan hệ Việt Nam - Lào vẫn
phải đối đầu với nhiều thách thức mới do nhiều kẻ thù gây ra và do
hậu quả chiến tranh. Đồng thời, lúc bấy giờ, tại Việt Nam, sự lãnh
đạo của Đảng và quản lý của Nhà nƣớc đã phạm phải “những sai
lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trƣơng, chính sách lớn, sai lầm
về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Khuynh hƣớng tƣ tƣởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt
là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí,
lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện
vọng chủ quan, là khuynh hƣớng buông lỏng trong quản lý kinh tế,
885
kÕt luËn

xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đƣờng lối và nguyên tắc của
Đảng. Đó là tƣ tƣởng tiểu tƣ sản, vừa “tả” khuynh vừa hữu
khuynh”1.
Về phía Lào, Đảng và Nhà nƣớc cũng mắc phải những nhƣợc
điểm mà Đại hội IV Đảng Nhân dân cách mạng Lào chỉ rõ: đó là
tƣ tƣởng chủ quan, nóng vội trong việc cải tạo xã hội chủ nghĩa
nhƣ muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa; vội vàng chuyển các nhà máy, xí nghiệp không cần thiết
sang sở hữu nhà nƣớc; nóng vội đƣa nông dân vào làm ăn tập thể
mà không xem xét các điều kiện, nguyên tắc và năng lực tổ chức,
quản lý, đi đôi với việc chậm giải quyết cơ chế quản lý tập trung
quan liêu, hành chính bao cấp trong lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh2.
Trƣớc những sai lầm, nhƣợc điểm trong công cuộc xây dựng
đất nƣớc, hai Đảng và hai Nhà nƣớc Việt Nam, Lào đã hợp tác trao
đổi kết quả nghiên cứu lý luận, thực tiễn để xác định chủ trƣơng,
chính sách khắc phục khó khăn, mở đƣờng đổi mới, đƣa đất nƣớc
phát triển theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Trên các chặng đƣờng cách mạng đầy gian khổ, phức tạp và
thắng lợi vẻ vang của hai dân tộc Việt Nam, Lào đều hiện rõ vai trò
quan trọng, giá trị cách mạng, nhân văn và hiệu quả to lớn của quan
hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Nhìn về tƣơng lai,
chúng ta càng thấy rõ sự cần thiết phải ra sức bảo vệ, phát triển
quan hệ đặc biệt đó - tài sản quý giá nhất của hai dân tộc Việt Nam,
Lào. Trƣớc hết cần học tập, thấm nhuần những quan điểm, nguyên

1
. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam: V¨n kiÖn §¹i héi §¶ng thêi kú ®æi míi
(§¹i héi VI, VII, VIII, IX), Nxb. ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi, 2005, tr.25.
2
. Xem Ban ChØ ®¹o nghiªn cøu lý luËn vµ thùc tiÔn Trung -¬ng
§¶ng Nh©n d©n c¸ch m¹ng Lµo: LÞch sö §¶ng Nh©n d©n c¸ch m¹ng Lµo
(tãm l-îc), Nxb. ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi, 2005, tr.227.
kÕt luËn 886

tắc và phƣơng pháp xây dựng mối quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam và vận dụng trong mọi hoạt động liên quan
với mối quan hệ đó. Đồng thời, cần cảnh giác và đấu tranh không
khoan nhƣợng chống các quan điểm, thủ đoạn hạ thấp hoặc phá
hoại quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Lời phát
biểu sau đây của đồng chí Cayxỏn Phômvihản chính là lời chỉ dẫn
cho phƣơng hƣớng suy nghĩ và hành động của chúng ta: “chúng ta
phải nhận thức rằng mối quan hệ giữa Lào và Việt Nam tuy là quý
hơn ngọc quý nhất, song cũng phải thƣờng xuyên chăm lo vun đắp
cho trong sáng hơn nữa.
Để tăng cƣờng củng cố mối quan hệ đoàn kết Lào - Việt trong
hoàn cảnh mới, cán bộ đảng viên cần nhận thức, quán triệt quan
điểm, thái độ cũng nhƣ phƣơng pháp nhận xét và giải quyết đúng
đắn những vấn đề thực tế thƣờng xảy ra”1.

1
. Bµi ph¸t biÓu cña ®ång chÝ Cayxán Ph«mvih¶n, Tæng BÝ th- §¶ng
Nh©n d©n c¸ch m¹ng Lµo t¹i Héi nghÞ c¸n bé toµn quèc ngµy 13 th¸ng 5
n¨m 1974, Tµi liÖu ®· dÉn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu tiếng Việt


1. Ai Minh: “Công việc vận động cách mạng Ai-Lao”, Tạp chí
Quân sự tập san (2), 1948, tr. 8-9.
2. Bài nói của đồng chí Viêng Xay trƣớc Hội nghị cán bộ toàn
quốc ngày 13 tháng 4 năm 1974. Thƣ viện Viện lịch sử quân
sự Việt Nam, TK-4829.
3. Bài phát biểu của đồng chí Xỉxávạt Kẹo Bunphăn nói về
chuyên gia. Thƣ viện Viện lịch sử quân sự Việt Nam, TK-
4300.
4. Bài phát biểu của anh Văn với cán bộ chuyên gia ở Lào. Thƣ
viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4550.
5. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị:
Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 - Thắng lợi và
bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
6. Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ƣơng
Đảng Nhân dân cách mạng Lào: Lịch sử Đảng Nhân dân cách
mạng Lào, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
7. Ban Công tác miền Tây (CP38): Biên niên những sự kiện lịch
sử Lào (lƣu tại Viện Lịch sử Đảng).
8. Ban Công tác miền Tây: Biên niên sử Lào 1921 - 1954, Tài
liệu lƣu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam á (bản đánh máy 78
trang), số ký hiệu: TL-809.
9. Ban Liên lạc quân tình nguyện Hạ Lào - Đông Bắc Campuchia:
Quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Hạ Lào -
Đông Bắc Campuchia (1948 - 1954), Nxb. Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 1998.
tµi liÖu tham kh¶o 888

10. Ban Nghiên cứu lịch sử quân sự: Chủ trương công tác cho
Ban xung phong Lào Bắc năm 1948, Hà Nội, 1997, Tài liệu
lƣu tại Thƣ viện Quân đội (bản đánh máy 4 trang), số ký hiệu:
355(V09)/4.T.3305.
11. Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược - Thắng lợi
và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
12. Ban Tổng kết Lào - Học viện Quân sự cao cấp: Kế hoạch tổng
kết hoạt động và tác chiến của các lực lượng vũ trang tình
nguyện Việt Nam thực hiện sự liên minh chiến đấu Việt - Lào
trong chiến tranh giải phóng trên chiến trường Lào từ 1945
đến 1975, 1979, Tài liệu lƣu tại Viện Lịch sử quân sự Việt
Nam (bản đánh máy 6 trang), số ký hiệu: TK-629.
13. Ban Tuyên giáo Trung ƣơng - Tỉnh ủy Thanh Hóa: Kỷ yếu
Hội thảo khoa học: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào
tại các tỉnh biên giới và một số địa phương, Hà Nội, 2009.
14. Ban Tuyên giáo Trung ƣơng: Hội thảo quốc tế Việt Nam - Lào
về Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới, phát triển đất nước:
Kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Lào (kỷ yếu), Hà
Nội, tháng 8 năm 2007.
15. Bản thoả thuận chiến lƣợc hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học -
kỹ thuật giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn từ nay đến năm 2000,
Hà Nội, ngày 15 tháng 3 năm 1995.
16. Bản thoả thuận chiến lƣợc hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học -
kỹ thuật giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn từ năm 2001 đến 2010,
Hà Nội, ngày 6 tháng 2 năm 2001.
17. Bảo tàng Hồ Chí Minh: Tình hữu nghị đoàn kết đặc biệt Việt
Nam - Lào, truyền thống và triển vọng (Kỷ yếu Hội thảo khoa
889 tµi liÖu tham kh¶o

học), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.


18. Báo cáo tổng hợp của thời kỳ 1946 - 1954, thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lƣợc, đấu tranh giành, giữ độc lập dân
tộc của nhân dân Lào, Tài liệu lƣu tại Viện Nghiên cứu Đông
Nam á (bản đánh máy 96 trang), số ký hiệu: TL-1017.
19. Báo cáo tổng kết thời kỳ 1930 - 1946 ở Lào, Tài liệu lƣu tại
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (bản đánh máy 67 trang), số
ký hiệu: TK-616.
20. Báo cáo tổng kết phong trào đấu tranh cách mạng của nhân
dân Lào từ 1945 đến nay, Tài liệu lƣu tại Viện Lịch sử quân
sự Việt Nam (bản đánh máy), số ký hiệu: TK-620.
21. Báo cáo tổng kết 10 năm làm công tác chuyên gia giúp cách
mạng Lào. Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-
636.
22. Báo cáo tổng kết của lực lƣợng trung lập ở Lào 1963 - 1971.
Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4269.
23. Báo cáo thực hiện kế hoạch hợp tác văn hóa với Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào năm 1984, Hồ sơ số 520, Vụ châu á 2,
Phông Lƣu trữ Bộ Ngoại giao.
24. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2002 - 2003 của nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Lào, Đoàn chuyên gia cao cấp Chính phủ Lào - Đoàn chuyên
gia cao cấp Chính phủ Việt Nam (2004), Viêng Chăn, ngày 21
tháng 2 năm 2004.
25. Báo cáo tình hình thực hiện một số nội dung hợp tác với Lào
năm 2004, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Thƣờng trực Phân ban
hợp tác Việt Nam - Lào, Hà Nội, ngày 5 tháng 10 năm 2004.
26. Báo cáo tình hình triển khai dự án đầu tƣ của Việt Nam sang
Lào, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Vụ Quản lý dự án đầu tƣ nƣớc
ngoài, Hà Nội, 2002.
27. Báo cáo tổng kết ba năm hoạt động từ 1992 - 1995 và phƣơng
tµi liÖu tham kh¶o 890

hƣớng hợp tác từ 1996 - 2000 giữa Bộ Nông nghiệp và Phát


triển nông thôn nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Bộ Nông nghiệp và Lâm nghiệp nƣớc Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào về chƣơng trình phát triển nông thôn, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, tháng 12 năm 1995.
28. “Báo cáo tổng kết 10 năm hợp tác giáo dục và đào tạo với
Việt Nam của Bộ Giáo dục Lào” trong Kỷ yếu Hội nghị tổng
kết 10 năm hợp tác giáo dục và đào tạo Việt Nam - Lào tại
Cửa Lò, Nghệ An, Hà Nội, tháng 8 năm 2002, tr. 69.
29. Báo cáo tổng kết quan hệ hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học -
kỹ thuật Việt Nam - Lào thời kỳ 1996 - 2000 và năm 1996, tài
liệu lƣu tại Vụ châu á 2, Bộ Ngoại giao.
30. Báo cáo về hợp tác Lào và Việt Nam của Bộ Nông nghiệp và
Lâm nghiệp năm 1999 - 2000 và giai đoạn 2001 - 2005, Văn
phòng Bộ Nông nghiệp và Lâm nghiệp nƣớc Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Lào.
31. Báo Cứu quốc (cơ quan của Tổng bộ Việt Minh - Việt Nam) số
68 (16 tháng 10 năm 1945), số 131 (ngày 2 tháng 1 năm 1946).
32. Biên bản hội đàm giữa hai Đảng Việt Nam - Lào (8.61). Thƣ
viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4286- 4291.
33. Biên bản hội đàm giữa hai Đảng Việt Nam - Lào (1.73). Thƣ
viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4556-4557.
34. Biên bản hội đàm giữa hai Đảng (12.73). Thƣ viện Viện Lịch
sử quân sự Việt Nam, TK-4565-4567.
35. Biên bản trao đổi ý kiến giữa Trung ƣơng Đảng Lào - Việt Nam
(5.67). Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK- 4568-
4571.
36. Biên bản kỳ họp lần thứ 18 Uỷ ban hỗn hợp về hợp tác kinh
tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
891 tµi liÖu tham kh¶o

Việt Nam và Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Viêng Chăn,
ngày 14 tháng 1 năm 1996.
37. Biên bản làm việc một số nội dung về hợp tác kinh tế, văn
hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào năm 2004, Hà Nội,
ngày 12 tháng 5 năm 2004.
38. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử
quân tình nguyện Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp tại Lào (1945 - 1954), Nxb. Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 2002.
39. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb.
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. 1, 2.
40. Bộ Tổng Tham mƣu - Ban Tổng kết biên soạn lịch sử: Lịch sử
Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945 -
1954), Ban Tổng kết Bộ Tổng tham mƣu xuất bản, 1991.
41. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử
kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1997, 2003, t. 3, 6.
42. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử các
đoàn quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại
Lào 1945 - 1975 (Đoàn 100, Đoàn 959), Nxb. Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 1998.
43. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Quan hệ hữu nghị, đoàn kết
đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào (sách ảnh bằng
ba thứ tiếng Việt Nam, Lào, Anh), Hà Nội, 2007.
44. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Kỷ yếu Hội nghị tổng kết 10 năm
hợp tác giáo dục và đào tạo Việt Nam - Lào, Cửa Lò, Nghệ
An, tháng 8 năm 2002.
45. Bua Khăm Thípphavong: Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
việc phát triển kinh tế ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào,
tµi liÖu tham kh¶o 892

Luận án Tiến sĩ kinh tế học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 2001.
46. Bùi Văn Vân: “Vài nét về thành tích tự túc của Quân tình
nguyện Việt Nam tại Lào (1945 - 1954)”, Tạp chí Lịch sử
quân sự (4), 1987, tr. 29-32.
47. Chỉ thị của Ban Bí thƣ số 21-CT/TW ngày 18 tháng 10 năm
1977 về việc tăng cƣờng quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào,
Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng, Phông lƣu trữ Ban Đối
ngoại Trung ƣơng Đảng, Phông số 82, Đơn vị bảo quản 2375.
48. Chỉ thị của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam
số 09-CT/TW ngày 3 tháng 7 năm 1987 về việc quan hệ Đảng
ta với Đảng Lào và Đảng Campuchia, Tài liệu lƣu tại Kho
Lƣu trữ Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam.
49. Chỉ thị của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng Nhân dân cách
mạng Lào số 24/BBT, ngày 20 tháng 5 năm 1987 về việc triển
khai kết quả của cuộc hội đàm giữa Bộ Chính trị Đảng Nhân
dân cách mạng Lào với Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt
Nam, Tài liệu lƣu tại Kho Lƣu trữ Trung ƣơng Đảng Cộng sản
Việt Nam.
50. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nƣớc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào: Chiến lược
hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giữa Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào đến năm 2000 (Bộ Kế hoạch - Đầu tƣ Việt Nam).
51. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nƣớc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào: Hiệp định
hàng năm về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật
giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, từ 1996
đến 2007 (Bộ Kế hoạch - Đầu tƣ Việt Nam).
893 tµi liÖu tham kh¶o

52. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nƣớc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào: Hiệp định
về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giữa Chính
phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, thời kỳ 2006 - 2010
(Bộ Kế hoạch - Đầu tƣ Việt Nam).
53. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào: Chiến lược hợp tác
kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giữa Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn
2001 - 2010 (Bộ Kế hoạch - Đầu tƣ Việt Nam).
54. Chu Huy Mân: “Liên minh ba nƣớc không ngừng lớn mạnh”,
Tạp chí Cộng sản (8), 1985, tr. 12-18.
55. Chu Huy Mân: Trên chiến trường Lào, giúp bạn là tự giúp
mình (Hồi ký).
56. Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn đề đoàn kết hợp tác ba nước
Đông Dương (Trích các bài nói và viết 1920 - 1969), Tài liệu
lƣu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam á, số ký hiệu: TL-9.
57. Chƣơng Sổm Bun Khăn: “Thành tựu của Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào trong đổi mới” trong Hội thảo khoa học quốc tế
về mối quan hệ Việt Nam - Lào, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2007, tr. 586-592.
58. Con đường tình nghĩa - từ công trường Lào Cai 114 đến Công
ty đường 126, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội, 2001.
59. Công tác hậu cần, vận tải sáu tháng năm 1967 ở Xiêng
Khoảng. Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-618.
60. Cơ chế chung về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Lào, Viêng Chăn, ngày 7 tháng 4 năm 1994.
61. Cờ giải phóng, số 11 (ngày 25 tháng 3 năm 1945), số 27
(ngày 21 tháng 10 năm 1945).
tµi liÖu tham kh¶o 894

62. Cục Chính trị - Quân khu Tây Bắc: Tổng kết công tác giúp
bạn ở bốn tỉnh Bắc Lào của Quân khu Tây Bắc, 1996, Tài liệu
lƣu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (bản đánh máy), số ký
hiệu: TK-677.
63. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Lào, Tài
liệu lƣu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam á (bản đánh máy),
TL-281.
64. “Diễn văn chào mừng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi đón
tiếp Quốc vƣơng Lào đến thăm nƣớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, ngày 10 tháng 3 năm 1963”. Báo Nhân dân, ngày 11
tháng 3 năm 1963, tr.1.
65. Diễn văn của Hoàng thân Chủ tịch Xuphanuvông tại buổi mít
tinh trọng thể chào mừng Đoàn đại biểu nhân dân Lào tại Hội
trƣờng Ba Đình, Hà Nội, tối 25 tháng 5 năm 1971”. Báo Nhân
dân, ngày 2 tháng 6 năm 1971, tr.4.
66. Dƣơng Phú Hiệp: “Việc lựa chọn con đƣờng phát triển trong
tiến trình đổi mới ở nƣớc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”,
trong Tìm hiểu lịch sử văn hóa Lào, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1994, t.3, tr.341-353.
67. Đại hội IV Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb. Sự thật, Hà
Nội, 1987.
68. Đại hội V Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb. Sự thật, Hà
Nội, 1991.
69. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1972), Cương lĩnh của Đảng
Nhân dân cách mạng Lào, Nxb. Neo Lào Hắc Xạt. (Bản dịch
của Nguyễn Văn Vinh).
70. Đảng Nhân dân cách mạng Lào: Văn kiện Đại hội lần thứ VI
Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb. Chính trị quốc gia và
Nhà xuất bản và phát hành sách Nhà nƣớc Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào, Hà Nội, 1996.
895 tµi liÖu tham kh¶o

71. Đảng Nhân dân cách mạng Lào: Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương tại Đại hội VII Đảng Nhân dân cách
mạng Lào. Bản tiếng Việt lƣu tại Viện Đông Nam á, Viện
Khoa học xã hội Việt Nam.
72. Đảng Nhân dân cách mạng Lào: Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương tại Đại hội VIII Đảng Nhân dân cách
mạng Lào (Tài liệu nội bộ).
73. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân cách mạng Lào: Thỏa
thuận hàng năm giữa Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và
Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào từ 1996 - 2002. Lƣu
tại Văn phòng Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam.
74. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987.
75. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991.
76. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
77. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
78. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
79. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, từ tập 1 đến tập 54.
80. Đặng Thanh Toán - Nguyễn Thị Phƣơng Nam: “Bƣớc đầu tìm
hiểu quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nƣớc Việt Nam - Lào
trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 2
(41)/ 2000, tr.43-51.
81. Đề cương báo cáo về tình hình Lào, đường lối, chủ trương
của Đảng bạn và sự phân công tổ chức giúp bạn của Đảng ta.
Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4388.
tµi liÖu tham kh¶o 896

82. Đề cương tổng kết sự thực hiện nghĩa vụ quốc tế của Đảng ta
về mặt quân sự đối với chiến tranh cách mạng Lào 45 - 75.
Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4405.
83. Đinh Xuân Lâm: “Đƣờng biên giới Việt - Lào ngày nay - sản
phẩm của truyền thống hữu nghị giữa hai dân tộc và tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 6 (51)/
2001, tr.70-76.
84. Đinh Ngọc Bảo - Viêngvichít Xútthiđệt: “Những thành tựu
trong công tác đào tạo sinh viên và nghiên cứu sinh Lào ở
trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 25 năm qua”, Tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam á, số 4 (55)/ 2002, tr.30-37.
85. Đỗ Đình Hãng: Quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia trong
kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, Luận án Phó tiến sĩ
khoa học lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1993.
86. Đồng chí Cayxỏn Phômvihản trả lời phỏng vấn của báo Nhân
dân: “Lúc này hơn lúc nào khác càng phải tăng cƣờng mối
quan hệ hữu nghị đặc biệt Lào - Việt”, do nhà báo Hữu Thọ
thực hiện ngày 4 tháng 7 năm 1989, tại Viêng Chăn, Báo
Nhân dân, ngày 5 tháng 7 năm 1989, tr.3.
87. Hà Minh Tân: “Cơ sở khách quan bền vững của mối quan hệ
đặc biệt Việt - Lào”, Tạp chí Cộng sản, số 18, tháng 12 năm
1995, tr.56-57.
88. Hiệp ƣớc hoạch định biên giới quốc gia giữa Chính phủ nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nƣớc
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ký ngày 18 tháng 7 năm
1977, Hồ sơ số 514/3, Vụ á châu 2, Bộ Ngoại giao.
89. Hiệp định giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Lào và Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
về khuyến khích và bảo hộ đầu tƣ, Viêng Chăn, ngày 14 tháng
1 năm 1996.
897 tµi liÖu tham kh¶o

90. Hiệp định giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Lào về khuyến khích và bảo hộ đầu tƣ, Viêng Chăn, ngày 9
tháng 3 năm 1998.
91. Hiệp định vận tải đƣờng bộ giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Lào, Hà Nội, ngày 24 tháng 5 năm 1996.
92. Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa
Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào thời kỳ 1992 -
1995, Viêng Chăn, ngày 15 tháng 2 năm 1992.
93. Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào năm 1993,
Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 1993.
94. Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào năm 1994,
Viêng Chăn, ngày 7 tháng 4 năm 1994.
95. Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào năm 1995,
Hà Nội, ngày 15 tháng 3 năm 1995.
96. Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào năm 1996,
Viêng Chăn, ngày 14 tháng 1 năm 1996.
97. Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào năm 1997,
Hà Nội, ngày 11 tháng 1 năm 1997.
tµi liÖu tham kh¶o 898

98. Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào năm
1998, Viêng Chăn, ngày 9 tháng 3 năm 1998.
99. Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào năm
1999, Hà Nội, tháng 1 năm 1999.
100. Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào năm
2002, Viêng Chăn, ngày 15 tháng 1 năm 2002.
101. Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào và
Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2003, Hà Nội, ngày 9 tháng 1 năm 2003.
102. Hiệp định về hợp tác trong lĩnh vực năng lƣợng - điện giữa
Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Hà Nội,
tháng 7 năm 1998.
103. Hiệp ƣớc hữu nghị và hợp tác giữa nƣớc Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Lào, Viêng Chăn, ngày 18 tháng 7 năm 1977.
104. Hoàng Văn Thái: Liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam -
Lào - Campuchia, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1983.
105. Hoàng Thị Minh Hoa - Nguyễn Văn Cƣờng: “Khái quát về
quan hệ kinh tế, thƣơng mại với Lào và Campuchia giai
đoạn 1991 - 2005”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 2
(107)/2009, tr.21-28.
106. Hoạt động cách mạng của Chủ tịch Khăm Tày Xiphănđon
899 tµi liÖu tham kh¶o

(Tóm tắt), Viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào, 1999.
107. Học viện Quan hệ quốc tế: Hội thảo khoa học “40 năm quan
hệ đặc biệt Việt - Lào Thành tựu và triển vọng”, Hà Nội,
2002, 112 trang.
108. Houmphanh Rattanavong: “Na Kay - Quy Hợp một con
đường lịch sử của mối quan hệ Lào - Việt Nam” trong Viện
Nghiên cứu văn hóa Lào - Viện Nghiên cứu Đông Nam á,
Quan hệ lịch sử Việt - Lào qua tƣ liệu Quy Hợp (TK. XVII-
XIX), The Toyota Foudation tài trợ, Vientiane, 2000.
109. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 12
tập, xuất bản lần thứ hai, 2009.
110. Hồ Chí Minh: Thiếp gửi Ban xung phong Lào Bắc, Tài liệu
lƣu tại Thƣ viện Quân đội, Hà Nội.
111. Hồi ức của đồng chí Vũ Hữu Bỉnh, Tài liệu lƣu tại Viện Lịch
sử Đảng.
112. Hồi ký của đồng chí Nguyễn Tam Khôi kể về hoạt động tại
Trung Lào từ 1945 - 1954, Tài liệu lƣu tại Viện Nghiên cứu
Đông Nam á (bản đánh máy 15 trang), số ký hiệu: TL324.
113. Hồi ký Nguyễn Đình Hin về hoạt động ở Lào, Tài liệu lƣu tại
Viện Lịch sử Đảng.
114. Hội đàm giữa Bộ Chính trị Trung ƣơng Đảng Lao động Việt
Nam và Bộ Chính trị Trung ƣơng Đảng Nhân dân Lào,
tháng 4 năm 1963, Tài liệu lƣu tại Kho Lƣu trữ Trung ƣơng
Đảng Cộng sản Việt Nam.
115. Hội đàm giữa đồng chí Văn Tiến Dũng và đồng chí Xỉxávạt
14.5.74. Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-
4831.
116. Huỳnh Đắc Hƣơng: Chung một chiến hào, Nxb. Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 1972.
tµi liÖu tham kh¶o 900

117. Cayxỏn Phômvihản: Mãi mãi đứng bên cạnh nhân dân Việt
Nam anh hùng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982.
118. Cayxỏn Phômvihản: “Sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh rất vĩ đại”, Báo Nhân dân, ngày 15 tháng 5
năm 1990, tr.1, 4.
119. Cayxỏn Phômvihản: “Diễn văn chào mừng Đại hội IV Đảng
Cộng sản Việt Nam của Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản” đọc
ngày 15 tháng 12 năm 1976, tại Hà Nội. Báo Nhân dân,
ngày 16 tháng 12 năm 1976, tr. 8.
120. Cayxỏn Phômvihản: 25 năm chiến đấu và thắng lợi của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1980.
121. Cayxỏn Phômvihản - Người con của nhân dân, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1993.
122. Cayxỏn Phômvihản: 30 năm Đảng Nhân dân cách mạng
Lào, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985.
123. Cayxỏn Phômvihản: Xây dựng một nước Lào hoà bình, độc
lập vì chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1978.
124. Cayxỏn Phômvihản: Một vài kinh nghiệm chính trị và một số
vấn đề về phương hướng mới của cách mạng Lào, Nxb. Sự
thật, 1979.
125. Cayxỏn Phômvihản: Cương lĩnh chính trị của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào, Nxb. Neo Lào Hắc Xạt, Viêng Chăn
(tiếng Lào).
126. Cayxỏn Phômvihản: Mười năm xây dựng đảng và hai mươi
năm đấu tranh cách mạng, Nxb. Neo Lào Hắc Xạt, Viêng
Chăn, 1965 (tiếng Lào).
127. Cayxỏn Phômvihản: Bước ngoặt lịch sử, Nxb. Neo Lào Hắc
Xạt, Viêng Chăn, 1972 (tiếng Lào).
128. Cayxỏn Phômvihản: Một vài kinh nghiệm chính và một số
901 tµi liÖu tham kh¶o

vấn đề về kinh nghiệm mới của cách mạng Lào, Nxb. Sự


thật, Hà Nội, 1979.
129. Cayxỏn Phômvihản: Một số vấn đề quản lý kinh tế hiện nay
ở Lào, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990.
130. Cayxỏn Phômvihản: Về cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở
Lào, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986.
131. Kế hoạch hợp tác năm 1996 giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo
nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Bộ Giáo dục
nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Hà Nội, ngày 10
tháng 11 năm 1995.
132. Kết luận của Chủ tịch đoàn tại Hội nghị tổng kết chiến dịch
Nặm Bạc. Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4368.
133. Khay Kham Van Na Vong Sy: Mở rộng quan hệ kinh tế
giữa Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào với các nước láng
giềng trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
134. Khăm Pheng Thip Muntaly: “Các tộc ngƣời Lào hiện nay”,
Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 3 (60), 2003, tr.45-51.
135. Khóa họp I ủy ban hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ
thuật giữa Việt Nam - Lào, Hồ sơ Q9-6. Phông Lƣu trữ Bộ
Ngoại giao.
136. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Thực tiễn tình hữu nghị đoàn kết
đặc biệt Việt Nam - Lào, truyền thống và triển vọng, Hà Nội,
ngày 11 tháng 7 năm 2002.
137. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Các sự kiện lịch sử Trung Lào
trong quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lao Bảo, ngày 8 và
9 tháng 9 năm 2009.
138. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Căn cứ địa Sầm Nưa - biểu tượng
đoàn kết đặc biệt và liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào,
Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2008.
tµi liÖu tham kh¶o 902

139. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Đoàn kết liên minh chiến đấu Việt
Nam - Lào đánh bại chiến dịch Cù Kiệt của đế quốc Mỹ tại
Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, Xiêng Khoảng, ngày 13
và 14 tháng 9 năm 2010.
140. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới,
phát triển đất nước: Kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm
Lào, Hà Nội, tháng 8 năm 2007, 344 trang.
141. Leebouapao Leeber: “Phát triển kinh tế Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào: thách thức và triển vọng” trong Hội thảo hợp
tác kinh tế các nƣớc Đông Dƣơng trong bối cảnh hội nhập
quốc tế và khu vực, Hà Nội, ngày 11 và 12 tháng 7 năm
2001.
142. Lê Quý Đôn Toàn tập, Bản dịch, Nxb. Khoa học, Hà Nội,
1978.
143. Lê Mạnh Trinh: Cuộc sống chung và riêng của cuộc đời tôi
50 năm đầu thế kỷ XX. Lƣu tại Viện Lịch sử Đảng.
144. Lê Ngôn, tức Tài: Hồi ký về phong trào cách mạng ở Lào.
Lƣu tại Viện Lịch sử Đảng.
145. Lê Trọng Khánh: “Nhân dân chiến tranh ở Hạ Lào và Đông
Miên”, Tạp chí Quân chính tập san (30), 1952, tr. 55-64.
146. Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1993.
147. Lê Đình Chỉnh: Quan hệ đặc biệt hợp tác toàn diện Việt
Nam - Lào trong giai đoạn 1954 - 2000, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2007.
148. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 39.
149. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 41.
150. Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và
dân Liên khu IV (1945 - 1954), Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2004.
903 tµi liÖu tham kh¶o

151. Lịch sử Quân đội nhân dân Lào 1945 - 1995, Cục Nghiên
cứu lịch sử Bộ Quốc phòng Lào ấn hành, 1998.
152. Lịch sử Đoàn 559 bộ đội Trường Sơn đường Hồ Chí Minh,
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.
153. Liên minh đoàn kết chiến đấu đời đời bền vững, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1984.
154. Lực lượng vũ trang ta trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước từ năm 1955 đến 1975, Bản số 1, tập thống kê số liệu
về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc, Bộ Tổng Tham
mƣu và Bộ Quốc phòng Quân đội nhân dân Việt Nam, tài
liệu lƣu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
155. Lược ghi bài nói chuyện của đồng chí Kỷ, Vụ Nghiên cứu cơ
bản/CP về phương hướng phát triển kinh tế ở Lào (72). Thƣ
viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4549.
156. Lược ghi ý kiến trao đổi giữa đồng chí Cayxỏn và một số
đồng chí lãnh đạo Việt Nam tại Sài Gòn (7.75). Thƣ viện
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4562-4564.
157. Lƣơng Ninh - Nguyễn Lệ Thi: “Mối quan hệ Việt Nam -
Lào những năm đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu Đông
Nam á, số 4 (73)/2005, tr.39-45.
158. Lƣu Văn Lợi: Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945 -
1995, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996, t.1.
159. Mahả Xila Viravông: Lịch sử Lào từ thượng cổ đến giữa thế
kỷ XIX, Nxb. Bộ Giáo dục, Viêng Chăn, 1957 (Bản dịch lƣu
tại Thƣ viện Viện Nghiên cứu Đông Nam á).
160. Một số vấn đề về tổ chức chỉ huy và xây dựng lực lượng
quân tình nguyện Việt Nam hoạt động trên đất bạn. Thƣ
viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4400-4401.
161. Một số nội dung chủ yếu của khung định hƣớng kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm năm 2006 - 2010 của nƣớc
tµi liÖu tham kh¶o 904

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2005), Đoàn chuyên gia
cao cấp Chính phủ nƣớc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào,
Đoàn chuyên gia cao cấp Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Viêng Chăn, ngày 20 tháng 1
năm 2005.
162. Nghị quyết Trung ƣơng Đảng Nhân dân Lào từ Nghị quyết 1
đến Nghị quyết 17 (Phần chủ trƣơng, phƣơng châm, nhiệm
vụ 1959 - 1968). Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam,
TK-4280.
163. Nghị quyết Trung ƣơng Đảng Nhân dân Lào 3.8.68 và một
số chỉ thị, nghị quyết khác. Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam, TK-4299.
164. Nghị định thƣ thực hiện Hiệp định vận tải đƣờng bộ giữa
Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Viêng
Chăn, ngày 1 tháng 5 năm 1996.
165. Nghiêm Thị Hải Yến: Quá trình xâm lược và chính sách cai
trị của Pháp ở Lào (1885 - 1945) - Đặc điểm và hệ quả,
Luận án Tiến sĩ lịch sử chuyên ngành Lịch sử thế giới cận và
hiện đại, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, Hà Nội, 2009.
166. Ngô Đăng Tri: “Mối quan hệ giữa Thanh - Nghệ - Tĩnh với
Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)”,
Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á (2), 1994, tr.87-94.
167. Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê: Đại Việt sử ký toàn thư,
Bản dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972.
168. Nguyễn Chính Giao: Nhớ lại quãng đời 50 năm hoạt động
cách mạng (1929 - 1979), Hà Nội, 2001, Tài liệu lƣu tại
Viện Lịch sử Đảng.
169. Nguyễn Hào Hùng: “Tình đoàn kết truyền thống Việt Nam -
905 tµi liÖu tham kh¶o

Lào trong lịch sử”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 9
(102)/2008, tr.24-34.
170. Nguyễn Tài kể, Thế Tập ghi: “Nhớ lại ngày đƣa Bác Hồ từ
Thái Lan sang gây dựng cơ sở cách mạng ở Lào”, Tạp chí
Cộng sản, số 372, tháng 12 năm 1986.
171. Nguyễn Văn Khoan (sƣu tầm và biên soạn): Việt - Lào hai
nước chúng ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
172. Nguyễn Văn Vinh: Những sự kiện lịch sử ở Lào 1353 -
1975, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2008.
173. Nguyễn Hùng Phi - Bua Xỉ Chalơnxúc: Lịch sử Lào hiện
đại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.I, II.
174. Nguyễn Thị Thu Hà: Hồ Chí Minh và Xuphanuvông - Cuộc
gặp lịch sử tháng 9 năm 1945, Tài liệu lƣu tại Viện Nghiên
cứu Đông Nam á, số ký hiệu: TL-1203(22).
175. Nguyễn Bá Linh, Phạm Sang, Bua Khăm: Hồ Chí Minh với
nhân dân Lào. Nhân dân Lào với Hồ Chí Minh, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2004.
176. Nguyễn Văn Nhật: “Mấy nét về tình đoàn kết chiến đấu
chống kẻ thù của nhân dân ba nƣớc Đông Dƣơng từ 1945
đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1, 1981, tr.45-56.
177. Nguyễn Tiến Ngọc: “Tình đoàn kết đặc biệt, liên minh
chiến đấu và hợp tác toàn diện giữa hai dân tộc Việt Nam
- Lào là tất yếu khách quan, là nhân tố đảm bảo thắng lợi
của cách mạng hai nƣớc”, Hội thảo khoa học quốc tế về
quan hệ Việt Nam - Lào, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
2007.
178. Nguyễn Đình Bá: “Hợp tác đầu tƣ Việt Nam và Lào, thực
trạng và giải pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 4
(55)/2002, tr.44-47.
tµi liÖu tham kh¶o 906

179. Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2005 (tái bản có chỉnh lý và bổ sung).
180. Nguyễn Hoàng Giáp: “Tổng quan 10 năm hợp tác kinh tế
thƣơng mại giữa Việt Nam và Lào (1991 - 2001)”, Tạp chí
Những vấn đề kinh tế thế giới, số 1/2002, tr.42-47.
181. Nguyễn Ngọc Lan: “Hợp tác Việt Nam - Lào trong lĩnh vực
giao thông vận tải”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 2
(59)/2003, tr.63-66.
182. Nguyễn Xuân Thắng: “Hợp tác Việt - Lào trong bối cảnh
quốc tế mới”, trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế về
mối quan hệ Việt Nam - Lào, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2005, tr.593-610.
183. Nguyễn Sỹ Tuấn: “Hợp tác giáo dục và khoa học Việt Nam -
Lào vì mục tiêu phát triển nguồn nhân lực”, Tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam á, số 3 (66)/2004, tr.11-18.
184. Nguyễn Trãi Toàn tập, Bản dịch, in lần thứ hai, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1976.
185. Những tài liệu chỉ đạo cuộc đấu tranh vũ trang của Trung
ương Đảng và Tổng Quân uỷ (từ năm 1945 đến năm 1954),
Tập II (1949-1950), Bộ Tổng Tham mƣu xuất bản, 1995, Tài
liệu lƣu tại Thƣ viện Quân đội, số ký hiệu: K355(V)/24819.
186. Những sự kiện chính về thực hiện nhiệm vụ quốc tế của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Lào về quân sự
trong 25 năm qua. Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự Việt
Nam, TK-4890.
187. Nou Hak: “Tình hình kháng chiến Lào trong năm vừa qua”,
Báo Nhân dân, ngày 11-15 tháng 3 năm 1953, tr.2.
188. Núphon Khemmalay: Cuộc liên minh chiến đấu Lào - Việt
1930-1954, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân lịch sử, Đại học
907 tµi liÖu tham kh¶o

Tổng hợp Hà Nội, 1980.


189. Ông Hoàng đỏ kiên cường, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1992.
190. Ôxácăn Thămmạthêva (Chủ biên): Lịch sử Lào từ thượng cổ
đến nay, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Viêng Chăn, 2000, Bản
dịch lƣu tại Thƣ viện Viện Nghiên cứu Đông Nam á.
191. V. Pavlopxki: Lào trong cuộc đấu tranh vì tự do, 1974 (bản
dịch của Viện Sử học Việt Nam).
192. Phạm Đức Dƣơng: “Quan hệ đặc biệt Việt - Lào, Lào - Việt
từ cảm nhận đến nhận thức” trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
các sự kiện lịch sử Trung Lào trong quan hệ đặc biệt Việt -
Lào, Lao Bảo, ngày 8, 9 tháng 9 năm 2009.
193. Phạm Đức Thành (Chủ biên): Cộng đồng người Việt ở Lào,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008.
194. Phạm Văn Đồng: “Ba dân tộc Việt - Miên - Lào đoàn kết
đấu tranh đến cùng”, Báo Nhân dân, ngày 7 tháng 4 năm
1951, tr.1.
195. Phạm Nguyên Long: Một số vấn đề về liên minh ba nước
Đông Dương, Tài liệu lƣu tại Viện nghiên cứu Đông Nam á
(bản đánh máy), số ký hiệu: TL-493.
196. Phạm Sang: Hồ Chí Minh với cách mạng giải phóng dân tộc
ở Lào, Luận án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử, Viện Nghiên
cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, 1994.
197. Phạm Thị Hồng Thanh: “Quan hệ thƣơng mại Việt Nam -
Lào”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 46/2002, tr.30-35.
198. Phạm Đức Thành: “Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào”, Tạp
chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 3 (66)/2004, tr.3-10.
199. Phan Linh (tức Phan Dị): Hồi ký về phong trào cách mạng ở
Lào. Lƣu tại Viện Lịch sử Đảng.
200. Phan Dĩnh: Cuộc vượt ngục kỳ diệu, Nxb. Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 2009.
tµi liÖu tham kh¶o 908

201. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Bản dịch,
Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960 - 1964.
202. Phan Thƣợng Hiền: “Về quy luật liên minh ba nƣớc Đông
Dƣơng”, Tạp chí Cộng sản, số 2, 1987, tr.97-102.
203. Phăn Khăm Vi Pha Vanh: “Nhân dân Lào coi cán bộ chiến sĩ
tình nguyện Việt Nam nhƣ ngƣời con ƣu tú của mình” trong
Hội thảo Khoa học quốc tế “Tình đoàn kết đặc biệt, liên
minh chiến đấu và sự hợp tác toàn diện giữa Việt Nam -
Lào”, Viêng Chăn, tháng 7 năm 2007, tr.1-4.
204. Phòng tổng kết chiến tranh - Bộ Quốc phòng nƣớc Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào: Ghi chép những sự kiện lịch sử cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc, quyển 1 (1945 - 1954), Tài
liệu lƣu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam á (bản đánh máy),
số ký hiệu: TL-1045.
205. Phumi Vôngvichít: Nhớ lại đời tôi trong quá trình lịch sử đất
nước Lào (Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.
206. Quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1993.
207. Quân khu IV - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược (1945 - 1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990.
208. Quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Hạ Lào và
Đông Bắc Campuchia 1948 - 1954, Nxb. Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 1998.
209. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào
(1954 - 1975), Hồ sơ 781, TK-937, Tài liệu lƣu tại Viện
Lịch sử quân sự Việt Nam.
210. Quốc dân Đại hội Lào, một thắng lợi chung của ba dân tộc
Việt - Miên - Lào, Liên minh đoàn kết chiến đấu đời đời bền
vững, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1984.
211. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục chính biên,
909 tµi liÖu tham kh¶o

Bản dịch, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1963.


212. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục tiền biên,
Bản dịch, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962.
213. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám
cương mục, Bản dịch, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1957.
214. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển
sự lệ, Bản dịch của Bộ Giáo dục, Sài Gòn, 1965.
215. Quyết định của Bộ Chính trị số 35 QĐ/TW, ngày 30 tháng
12 năm 1987 Về đổi mới phƣơng thức quan hệ giữa Đảng ta
với Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Đảng Nhân dân cách
mạng Campuchia, Tài liệu lƣu tại kho Lƣu trữ Trung ƣơng
Đảng Cộng sản Việt Nam.
216. Xômsỉxayvang: Mối quan hệ giữa hai mặt trận - một nhân
tố lớn thắt chặt hai Đảng, hai dân tộc và nhân dân hai nước
Việt - Lào, Tài liệu lƣu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam á
(bản đánh máy 9 trang), số ký hiệu: TL-1203(8).
217. Sự kiện về quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Lào
từ cuối năm 1954 đến năm 1964, Tài liệu lƣu tại Viện Lịch
sử quân sự Việt Nam.
218. Sự kiện quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường 65 - 75.
Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-934.
219. Thoả thuận giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Lào và Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về việc tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời, phƣơng tiện
và hàng hoá qua lại biên giới giữa hai nƣớc, Cửa Lò, Nghệ
An, ngày 23 tháng 8 năm 1999.
220. Thoả thuận giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Chính phủ nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Lào về việc tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời, phƣơng tiện,
tµi liÖu tham kh¶o 910

hàng hoá qua lại biên giới và khuyến khích phát triển hợp
tác thƣơng mại, đầu tƣ giữa Việt Nam và Lào, Viêng Chăn,
ngày 13 tháng 8 năm 2002.
221. Thoả thuận về quy chế tài chính và quản lý các dự án sử dụng
vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam dành cho Chính phủ nƣớc Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào, Viêng Chăn, ngày 9 tháng 3 năm 1998.
222. Tình hữu nghị đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào. Truyền
thống và triển vọng (Kỷ yếu Hội thảo khoa học), Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
223. Tình hình, chủ trương, phương hướng của cách mạng Lào.
Nội dung cách giúp Lào của chuyên gia ta. Thƣ viện Viện
Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4380.
224. Tóm tắt những ý kiến đã nhất trí giữa hai Đảng Việt Nam - Lào
(5.67). Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4560.
225. Tổ chức và xây dựng các lực lượng tình nguyện Việt Nam
hoạt động chiến đấu ở Lào (1945 - 1954), Tài liệu lƣu tại
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số ký hiệu: TK-4410.
226. Tổng kết chiến tranh nhân dân ở Lào chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng (1945 -
1975), Tài liệu lƣu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
227. Tổng kết lực lượng vũ trang Việt Nam chiến đấu ở Lào trong
chiến tranh giải phóng (45 - 75). Thƣ viện Viện Lịch sử
quân sự Việt Nam, TK-775.
228. Tổng kết về việc thực hiện kế hoạch hợp tác và giúp đỡ của
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho Lào trong
năm 2001 - 2002 và kế hoạch hợp tác nông nghiệp và lâm
nghiệp với nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2003, Bộ Nông nghiệp và Lâm nghiệp nƣớc Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Lào.
911 tµi liÖu tham kh¶o

229. Trao đổi ý kiến giữa đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Cayxỏn
ngày 3.4.73. Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-
4828.
230. Trần Văn Quý: “Tƣ liệu lịch sử về quan hệ Việt - Lào mới
phát hiện ở Quy Hợp, Hƣơng Khê, Nghệ Tĩnh” trong Viện
Nghiên cứu văn hóa Lào - Viện Nghiên cứu Đông Nam á:
Quan hệ lịch sử Việt - Lào qua tư liệu Quy Hợp (TK. XVII-
XIX), (bằng ba ngữ: Hán Nôm, Việt và Lào), The Toyota
Foundation tài trợ, Viêng Chăn, 2000.
231. Trần Xuân Cầu: “Cách mạng tháng Tám ở Lào 1945”, Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, số 4, 1975, tr. 15-20.
232. Trần Công Hàm: Quan hệ đoàn kết, hợp tác liên minh chiến
đấu Việt - Lào trong thế kỷ XX, Tài liệu lƣu tại Viện Nghiên
cứu Đông Nam á, số ký hiệu: TL-1203(7).
233. Trần Bảo Minh: Thuỷ điện Lào - Tiềm năng và triển vọng
hợp tác, Tƣ liệu Uỷ ban Kế hoạch nhà nƣớc, Hà Nội, 1995.
234. Trần Bảo Minh: “Thực hiện hợp tác giúp đỡ của Việt Nam
dành cho Lào”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 4
(55)/2002, tr.38-43.
235. Trần Công Tấn: Hoàng thân Xuphanuvông và đất nước
Triệu voi, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1995.
236. Trần Cao Thành: “Quan hệ Việt Nam - Lào” trong Vũ Dƣơng
Ninh (chủ biên): Việt Nam - ASEAN – Quan hệ đa phương và
song phương, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.193-
244.
237. Trung tƣớng Doãn Tuế: Kể về đồng đội, Hồi ký, Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1995.
238. Từ Thanh Thuỷ: “Tình hình trao đổi hàng hoá của Việt Nam
qua các cửa khẩu và biên giới Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
tµi liÖu tham kh¶o 912

Lào”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 5/1998,


tr.67-70.
239. Tự kiểm thảo của Ban Cán sự miền Tây qua hai năm giúp
bạn. Thƣ viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, TK-4449.
240. ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học
- kỹ thuật Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Chính phủ nƣớc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào:
Biên bản kỳ họp hàng năm từ 1996 đến 2007 (Bộ Kế hoạch -
Đầu tƣ Việt Nam).
241. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Kinh tế thế giới: Vấn
đề hợp tác kinh tế giữa các nước Đông Dương và cộng đồng
xã hội chủ nghĩa, Tài liệu lƣu hành nội bộ, Hà Nội, 1988.
242. Viện Khoa học xã hội quốc gia Lào - Viện Khoa học xã hội
Việt Nam: Liên minh chiến đấu Lào - Việt Nam trên chiến
trường Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2009.
243. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Khoa học xã hội
quốc gia Lào: Hội thảo khoa học quốc tế về mối quan hệ Việt
Nam - Lào, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007.
244. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử các đoàn quân tình
nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào (1945 -
1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.
245. Viện Nghiên cứu Đông Nam á - Bộ Thông tin Văn hoá Lào:
Hội thảo khoa học “Quan hệ Việt Nam - Lào. Hiện trạng và
triển vọng”, 2004, Tài liệu lƣu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam
á.
246. Viện Nghiên cứu Đông Nam á: “Cộng đồng ngƣời Việt ở
Lào”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 2, số đặc biệt,
2007.
247. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Khoa học xã hội
913 tµi liÖu tham kh¶o

quốc gia Lào: Hội thảo khoa học quốc tế về mối quan hệ
Việt Nam - Lào, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007.
248. Viện Quan hệ quốc tế - Bộ Ngoại giao Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào: Kỷ yếu Hội thảo quan hệ hữu nghị đặc biệt
và hợp tác giữa Lào và Việt Nam, (Bản dịch tiếng Việt),
Viêng Chăn, 2002.
249. Việt - Lào hai nước chúng ta, tình sâu hơn nước Hồng Hà -
Cửu Long, Sở Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1987.
250. Võ Nguyên Giáp: Đường tới Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 1999.
251. Võ Bẩm: Những nẻo đường kháng chiến, Hồi ức, Duy
Tƣờng thể hiện, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001.
252. Vũ Dƣơng Huân (Chủ biên), Nguyễn Đình Thụ, Mai Sĩ
Hùng: Quan hệ đặc biệt Việt - Lào, Hà Nội, 2003, 131 trang.
253. Xỉlửa Bun Khăm: Xây dựng và phát triển nền văn hóa thẩm
mỹ ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2004.
254. Xỉngcapô Xỉkhốt Chunlamany, Khăm Ma Phôm Coong…:
Chiến đấu bảo vệ Thà Khẹc, Tập truyện và ký, (Ngƣời dịch
Hùng Phi), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980.
255. Sỉng Thoong Sỉnghảpănnha: Sự giúp đỡ của Việt Nam đối
với cuộc kháng chiến của nhân dân Lào (1945 - 1954), Luận
án Phó tiến sĩ lịch sử, Thƣ viện Quốc gia, Hà Nội, 1991, số
ký hiệu: L-3587.

2. Tài liệu tiếng nước ngoài

256. Adams, Nina S., McCoy, Alfred W., eds. (1970): Laos: War
tµi liÖu tham kh¶o 914

and Revolution, Harper Colophon Book Series, CN 221, New


York, Harper and Row.
257. Brown, MacAlister, Zasloff, Joseph J. (1986): Apprentice
Revolutionaries: The Communist Movement in Laos 1930 -
1985, Hoover Institution Press, Stanford University, Stanford
California.
258. C. Gunn Geoffrey: Political Struggle in Laos (1930 - 1954)
Vietnamese Communist Power and the Lao Struggle for
National Independence, Editions Duang Kamol, Siam
Square, Bangkok, Thailand, 1988.
259. Centre d’Histoire et Civilisation de la Péninsule Indochinoise
(1994): Les Recherches en Sciences Humaines sur le Laos, Actes
de la Conférence Internationale organisée à Vientiane, Paris, 7 -
10 Décembre 1993.
260. Chi Do Pham (ed.): Economic Reform in the Lao PDR: Current
Trends and Perspectives, IMF Resident Representative Office
in Vientiane, 1992.
261. Evans, Grant: Lao Peasants under Socialism, Yale University
Press, New Heaven and London, 1990.
262. Evans, Grant (ed.): Laos Culture and Society, Institute of
Southeast Asian Studies, Singapore, 2000.
263. Geoffrey C. Gun: Political Struggles in Laos (1936 - 1954),
Edition Duang Kamol, Siam Square, Bangkok, Thailand, 1988.
264. Goscha Christopher E: “Vietnam and the world outside the
case of Vietnamese communist advisers in Laos (1948 - 1962)”,
South East Asia Research, London, Volume 12, Number 2,
July 2004, pp. 141-185.
265. Grant Evans: A Short History of Laos: the Land in between,
Silkworm Books, Thailand, 2002.
915 tµi liÖu tham kh¶o

266. Langer, Paul F. and Zasloff, Joseph J.: North Vietnam and the
Pathet Lao: Partners in the Struggle for Laos, Cambridge,
Mass.: Harvard University Press, 1970.
267. Lao National Front for Construction: The Ethnic Groups in
Lao PDR, Vientiane, Printed by Department of Ethnics;
Sponsored by Canada Fund for Local Initiatives, 2005.
268. Le Résident Supérieur au Tonkin (1930): Note No 126-SCB,
A.S manifestations communistes pour le 1er Mai 1930, Hanoi,
Lƣu tại Viện Lịch sử Đảng.
269. Mission Pavie: Histoire du pays de Lan Chang Hom Khao,
études diverses, Paris, 1898, t. 2.
270. Savèng Phinith (ed.): Histoire du pays Lao, de la Préhistoire
à la Republique, L'Harmattan, Paris, 1998.
271. Taillard, Christian: Le Laos, Stratégies d'un état-tampon,
G.I.P. RECLUS, Montpellier, 1989.
272. Toye, Hugh : Laos: Buffer State or Battleground?, London,
Oxford University Press, 1968.
273. Vatthana Pholsena: Post-war Laos the Politics of Culture,
History and Identity, Institute of Southeast Asian Studies,
Singapore, 2006.
274. Zasloff, Joseph J.: Unger Leonard, Laos: Beyond the Revolution,
MacMillan Academic and Professional Ltd, Hong Kong, 1991.
MỤC LỤC

Trang
Lời giới thiệu Công trình biên soạn “Lịch sử quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007)” XI
Lời giới thiệu XIX
Phần thứ nhất
DƢỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƢƠNG,
NHÂN DÂN HAI NƢỚC VIỆT NAM VÀ LÀO
PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG ĐOÀN KẾT ĐẶC BIỆT,
ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP, TỰ DO (1930 - 1945) 1
Chương I: Những cơ sở hình thành quan hệ đoàn kết đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 3
Chương II: Nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào nƣơng tựa lẫn
nhau đấu tranh giành độc lập, tự do (1930 - 1945) 32

Phần thứ hai


LIÊN MINH VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM
CHIẾN ĐẤU CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC
MỸ XÂM LƢỢC (1945 - 1975) 111
Chương III: Hợp tác, giúp nhau kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lƣợc (từ ngày 16 tháng 10 năm 1945 đến tháng
12 năm 1950) 113
917 tµi liÖu tham kh¶o

Chương IV: Tăng cƣờng liên minh chiến đấu, kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1951 - 1954) 200
Chương V: Phối hợp đấu tranh thực hiện Hiệp định Giơnevơ,
chống chiến lƣợc Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ,
thiết lập quan hệ ngoại giao (1954 - 1962) 294
Chương VI: Phát triển liên minh chiến đấu, đánh thắng các
chiến lƣợc chiến tranh của đế quốc Mỹ, giành thắng lợi
hoàn toàn (1963 - 1975) 396
Phần thứ ba
QUAN HỆ ĐOÀN KẾT ĐẶC BIỆT, HỢP TÁC TOÀN DIỆN
VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM
TỪ NĂM 1976 ĐẾN 2007 525
Chương VII: Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
trong giai đoạn khảo nghiệm, mở đƣờng đổi mới (1976 -
1986) 527
Chương VIII: Quan hệ đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập
quốc tế (1986 - 2007) 615
Phần thứ tư
THÀNH QUẢ, BÀI HỌC VÀ TRIỂN VỌNG 733
Chương IX: Thành quả, ý nghĩa và bài học lịch sử của quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 735
Chương X: Phấn đấu đƣa quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào
- Việt Nam lên tầm cao mới 834
KẾT LUẬN 875
TÀI LIỆU THAM KHẢO 884
Chịu trách nhiệm xuất bản
TS. NGUYỄN DUY HÙNG
Chịu trách nhiệm nội dung
TS. HOÀNG PHONG HÀ

Biên tập nội dung: BÙI HỒNG THUÝ


NGUYỄN KIM NGA
PHẠM NGỌC BÍCH
Trình bày bìa: PHÙNG MINH TRANG
Chế bản vi tính: ĐÀO THỊ BÍCH
Sửa bản in: BAN SÁCH QUỐC TẾ
Đọc sách mẫu: PHẠM NGỌC BÍCH

Mã số:
CTQG - 2011

In... cuốn, khổ 16x24 cm, tại...


Số đăng ký kế hoạch xuất bản:
Quyết định xuất bản số:
In xong và nộp lƣu chiểu tháng 5 năm 2011.
919 tµi liÖu tham kh¶o

You might also like