Professional Documents
Culture Documents
Chương Viii
Chương Viii
Nắm được phương pháp đột biến nhân tạo là phương pháp
chọn giống bổ sung quan trọng.
Ngày nay đột biến điểm điển hình là thay thế một sợi đơn
của cặp DNA hoặc có sự điều chỉnh một phần nhỏ trong
cặp.
Đảo đoạn
i. Đột biến điểm được phân loại là đột biến phân tử dạng chủ yếu là
ảnh hưởng chức năng ở mức protein.
Thay đổi một đơn bị cơ bản này bằng một đơn vị cơ bản khác của
cặp purin hay pyrimidine như
C- A C - G,
T – A T - G;
Purine thay bằng pyrimidine:
A – C A - T,
G – C G – T.
Từ khi hiệu quả đột biến của bức xạ ion hoá (Muller, 1927;
Stadler, 1928) và các hợp chất hoá học (Auerbach và Robsson,
1947) được phát hiện
Ngày nay tác nhân đột biến được tìm ra ngày một tăng.
Các bức xạ bức xạ i-on hoá mật độ cao chủ yếu gây ra những biến
đổi nhiễm sắc thể (sắp xếp lại, mất đoạn, v.v.).
Bức xạ bức xạ ion hoá mật độ thưa (bức xạ X, bức xạ gamma là
bức xạ điện từ)
Thực tế, phần lớn các giống đột biến đưa vào sản xuất là kết quả
xử lý tác nhân lý học (bức xạ ion hóa)
Một số tác nhân vật lý được sử dụng
trong chon giống
Một số tác nhân hóa học được sử
dụng trong chon giống
Sử dụng đột biến phóng xạ
trong chon tao cam
Khang dân đột biến
Dâu tây mùi thơm như
dứa
Giống ngô biến đổi gen
3. Phương pháp xử lý đột biến
3.1 Yếu tố ảnh hưởng
3.1.1 Cường độ, liều lượng
Một trong những yêu cầu cơ bản nhất để chương trình tạo giống
đột biến thành công là chọn liều lượng xử lý thích hợp.
Liều lượng hấp thụ = năng lượng phát ra của bức xạ bức xạ từ
nguồn sang đối tượng và được đối tượng hấp thụ.
rad (r) = 100 erg/g vật chất
Hoặc Gray (Gy) = 1 Joule = 100 rad (Gray là đơn vị bức xạ theo
hệ thống quốc tế SI)
3.2 Vật liệu và phương pháp xử lý đột biên
Chẳng hạn, để giảm hàm lượng a xit linolenic ở đậu tương xuống
3% thì xử lý vật liệu nhập nội nhập nội tuy kém thích ứng nhưng
hàm lượng chỉ 5% sẽ có xác xuất cao hơn so với các giống tốt nhất
có hàm lượng tới 8%.
Thông thường nhà chọn giống chọn các giống tốt nhất cần phải cải
tiến một tính trạng nào đó.
Có thể xử lý các bộ phận nhân giống, như mắt ghép, cành ghép, hom hay cành
giâm, củ, gié hành hay mẫu mô cắt (đỉnh sinh trưởng, biểu bì, bầu, tầng nuôi,
v.v.).
Các cơ quan này cũng chứa nhiều tế bào và sau khi xử lý sẽ tạo thành cấu trúc
khảm.
Thông thường khảm hình quạt tạo thành ở thế hệ VM1 có thể chuyển thành
khảm vòng với một lớp tế bào đột biến đồng nhất.
Để tạo điều kiện hình thành và thu được cây đột biến không mang thể khảm có
thể áp dụng một số kỹ thuật sau đây:
Lấy mắt nhiều lần của những mầm hình thành từ thuỳ nguyên thủy ở
phần dưới và phần giữa của cành VM1.
Nhân cây đột biến đồng nhất thông qua mầm nách trong điều kiện in
vitro.
Áp dụng kỹ thuật mầm bất định. Mầm bất định thường phát triển từ một
tế bào và vì thế mầm bất định nếu hình thành từ lá, thân hay cành giâm
đột biến sẽ tạo ra cây đột biến đồng nhất không có thể khảm.
3.2.3 Phương pháp xử
lý:
Để xử lý bằng bức xạ, hạt hoặc các bộ phận sinh dưỡng, cây con,
hoa, bao phấn, hạt phấn được đặt dưới nguồn chiếu.
Trong quá trình xử lý hat phải trộn và các bộ phận của cây phải
đảo nhiều lần và tuân thủ điều kiện bảo hộ lao động.
Thời gian chiếu phụ thuộc vào công suất của nguồn và liều lượng
cần xử lý, công suất nhỏ thời gian xử lý dài, ngược lại công suất
lớn thời gian xử lý ngắn.
Độ ẩm của hạt có ý nghĩa quyết định đối với tác động đột biến của
tia vì độ ẩm ảnh hưởng trực tiếp tới trạng thái sinh lý.
Phơi khô cũng như tăng thủy phần của hạt đều làm tăng tác
động cuả tia bức xạ.
Với tia bức xạ có thể xử lý nhanh (trong thời gian ngắn từ vài phút
đến vài giờ) hoặc xử lý lâu dài trong trường gamma ( từ nhiều
tuần trở lên với cường độ thấp).
Vì tác nhân đột biến hoá học rất độc và có thể gây ung thư nên
phải thực hiện các biện pháp bảo hộ nghiêm ngặt.
Hạt (hay các bộ phân sinh dưỡng) được ngâm (hay nhúng)
trong dung dịch một thời gian nhất định.
Thông thường để đạt hiệu quả cao và có thể lặp lại kết quả, xử
lý tác nhân hoá học được tiến hành theo nhiều bước:
làm trương hạt trong nước, xử lý, rửa sạch, phơi khô hạt.
Riêng với Natri azid hạt có thể xử lý và gieo ngay mà không
cần làm trương hay rửa sau khi xử lý.
Khi xử lý tác nhân hoá học, tác động của tác nhân đột biến
cũng bị ảnh hưởng bởi trạng thái sinh lý của các bộ phận xử lý.
4. Quy trình chọn lọc đột biến
4.1 Cây sinh sản bằng hạt
Vụ 1: Xử lý đột biến
Hạt, đỉnh sinh trưởng, tiền phôi, giao tử, hợp tử, tế bào đơn (trong nuôi
cấy)của các giống đã chọn được xử lý với tác nhân đột biến: tia X, tia gamma,
trung tử nhanh, trung tử nhiệt hoặc tác nhân hoá học.
Việc lựa chọn tác nhân đột biến và liều lượng phụ thuộc vào loại vật
liệu và tác nhân đột biễn sẵn có
Chọn cây: lựa chọn khoảng 20 hạt/ bông của một cây thu riêng, đem
gieo vào thế hệ sau M2.
Vụ 2: Trồng cây thế hệ M1
Trồng vật liệu xử lý trong điều kiện cách ly hay bao cách ly cùng với
đối chứng. Gieo hạt của các cây theo hàng.
Thường ở thế hệ M1 có thể quan sát thay nhiều thay đổi kiểu hình do
ảnh hưởng trực tiếp của tác nhân đột biến.
Quan sát đánh giá, chọn cá thể có ích đểv gieo trồng ở vụ 3.
Đánh giá các đột biến lặn đơn gen (như đột biến diệp lục, hình thái,
kháng bệnh, tính trạng chất lượng khác...)
Trồng cây với khoảng cách như nhau để đánh giá tính trạng số lượng
- Loại bỏ những hàng không xuất hiện đột biến. Thu hoạch M3.
.
Vụ 5: Trồng thế hệ M4
Thể đột biến đã chọn được đánh giá sơ bộ về giá trị nông học
Để sử dụng gián tiếp trong chương trình chọn giống lai thể đột
biến mong muốn với vật liệu chọn giống.
Dựa vào năng suất và các tính trạng khác, thể đột biến có thể
công nhận và phổ biến là giống cải tiến và/hoặc sử dụng gián tiếp
để chuyển tính trạng có ích vào vật liệu chọn giống có triển vọng.
Đỉnh sinh trưởng là một bộ phận đa bào và đột biến thường xảy ra
kiểu cục bộ hoặc từng phần .
Áp lực chọn lọc lưỡng bội (xô ma) ảnh hưởng lớn tới sự hình thành
và biểu hiện của đột biến.
Đặc điểm quan trọng nhất là thể khảm và do đó phải tách đột biến
ra khỏi thể khảm để tạo ra cây đột biến toàn phần và di truyền ổn
định cho thế hệ sau.
Thể khảm là tổ hợp 2 hay nhiều mô khác nhau sinh trưởng riêng
rẽ nhưng là những phần liện nhau trong cây, những mô này xắp
xếp chung trong các phần của thân.
Hầu hết thể khảm có nguồn gốc từ một tế bào ở đỉnh dinh trưởng
bị đột biến, một số trường hợp xuất hiện ở cây con do lai.
Thể khảm không ổn định khi nhân giống và mức độ ổn định của
chúng phụ thuộc vào cấu trúc của chúng và kiểu gen của cây.
Quy trình phân lập đột biến
Bước 1: Xử lý đột biến
Xử lý các bộ phận sinh dưỡng như mô phân sinh, gee hành, củ,
cành giâm, v.v. bằng tia X, tia gamma, hoặc tác nhân hoá học
với liều lượng thích hợp.â
Bước 2: Thế hệ VM1
Tìm sự phát triển thể khảm từ đỉnh sinh trưởng hay mô phân
sinh mầm nách. Cắt ngọn chồi VM1, ghép mắt, v.v
Bước 3: Thế hệ VM2
Trồng vật liệu VM1 Chọn đột biến thường bắt đầu ở thế hệ
VM2. Xác định cành ghép, cành, cây đột biến vòng hay đồng
nhất. Cắt bỏ chồi không đột biến.
Bước 4: Thế hệ VM3
Trồng vật liệu M1V2. Kiểm chứng tính đồng nhất di truyền
trong dòng đột biến. Tiếp tục phân lập đột biến xô ma và nhân
cây đột biến. Đánh giá sơ bộ các thể đột biến.
Bước 5 đến bước 10: Thế hệ VM4 và các thế hệ sau
Đánh giá tính ổn định và sự đồng nhất của dòng vô tính ở VM4
và các thế hệ sau. Những dòng đồng nhất và ổn định được
đánh giá đối với các đặc điểm nông học.
Đối với cây thân gỗ
Xử lý cây có chồi thường hay chồi bất định
Tạo điều kiện để chồi sinh trưởng (VM1)
Bấm ngọn liên tục để kích thích tế bào ở khu vực đột biến
tái sinh và biểu hiện (VM2, VM3, vv)
Cắt cành giâm từ cành đột biến để nhân giống
Đánh giá các tính trạng mong muốn
Liều lượng xử lý là kết quả của nồng độ và thời gian xử lý. Cả hai yếu tố
đều có thể xác định đối với từng tác nhân, từng loài hay từng giống cây
trồng thông qua thí nghiệm sơ bộ.
Thời gian phân giải hay bán rã của tác nhân đột biến thường ngắn nên thời
gian xử lý đột biến thường trong khoảng từ 8 đến 16 giờ.
Nhiệt độ xử lý xung quanh 20oC, thể tích dung dịch tốt nhất gấp 10 lần thể
tích hạt được xử lý.
Sau khi xử lý hạt phải được rửa sạch để loại bỏ các chất phân giải do thuỷ
phân. Thời gian rửa phụ thuộc vào tác nhân xử lý và tốt nhất nên rửa nhiều
giờ dưới vòi nước chảy.
Nhân giống vô tính thể khảm
Giâm cành
Thể khảm vòng ổn định có thể nhân giống bằng giâm cành tạo ra
cây đúng giống đột biến mong đợi, bởi vì các mắt bên tái sinh đúng
như đột biến phát sinh ở đỉnh sinh trưởng mắt. Thể khảm hình quạt
và vòng từng phần không thể nhân đúng giống , bởi vì các mắt bên
cạnh có đặc tính phát sinh ra bên cạnh chúng.
Nhân giống vô tính từ thể khảm lá hoặc rễ
Nếu cắt lá và rễ phần thể khảm, cây con không bao giờ đúng dạng
với đột biến hay thể khảm lá từ cây mẹ bởi vì mầm bất định có những
vùng không bị đột biến của chính nó của vùng lá hoặc rễ để tái sinh,
Với lý do này thể khảm không bao giờ nhân giống đúng dạng như nó
bằng cắt giâm hoặc các phương pháp yêu cầu hình thành mầm bất
định
goodbye!!!