Professional Documents
Culture Documents
4.CARE-Gender and CC Presentation
4.CARE-Gender and CC Presentation
Đặng Mỹ Hạnh
Cán bộ lĩnh vực Biến đổi khí hậu
Tổ chức CARE Quốc tế tại Việt Nam
Thích ứng với BĐKH: giảm tình trạng dễ tổn thương do các rủi ro
khí hậu hiện tại và tương lai. Tình trạng dễ bị tổn thương do BĐKH
được xác định chủ yếu dựa vào khả năng thích ứng của người dân.
Mỗi thảm họa khí hậu cụ thể sẽ có tác động khác nhau tới mọi
người trong cộng đồng - hoặc thậm chí với những người trong cùng
một gia đình – vì một số người có khả năng quản lý khủng hoảng
tốt hơn những người khác.
Sự phân bố không đều về quyền, nguồn lực, các quy tắc và tiêu
chuẩn văn hóa hạn chế nhiều khả năng của người dân trong việc
hành động ứng phó BĐKH. Điều này đặc biệt đúng đối với phụ nữ.
Giới là một nhân tố quan trọng để hiểu được tình trạng dễ bị tổn
thương do BĐKH.
CARE – Phương pháp tiếp cận giới?
Mục tiêu:
Phân tích tính dễ bị tổn thương và khả năng thích ứng
với BĐKH của cộng đồng DTTS từ góc độ giới
6 tỉnh miền núi phía Bắc: Bắc Kạn, Điện Biên, Hòa Bình,
Lạng Sơn, Thanh Hóa, Yên Bái
2 thôn của xã Đồng Thắng, Đình Lập, Lạng Sơn: xã 135,
tỷ lê hộ nghèo, dân tộc: Dao, Tày
Sinh kế chính: Nông nghiệp, thu nhập từ rừng
Các loại hình thiên tai:
+ Lũ quét, bão, lụt (ít xảy ra)
+ Hạn hán, nóng kéo dài, nhiệt độ tăng, các đợt rét đậm
rét hại.(thường xuyên trong những năm gần đây)
Những phát hiện của nghiên cứu
2. Thời gian lao động, gánh nặng công việc gia đình của phụ
nữ tăng lên
Thời gian LĐ của cả PN và NG đều tăng lên cho việc ứng phó và khôi phục
cuộc sống
Tuy nhiên, phụ nữ DTTS phải chịu tác động nhiều hơn do vai trò giới truyền
thống và những điều kiện địa lý không thuận lợi
- Thiếu nước sinh hoạt: gánh nước
- Thiếu nước tưới tiêu
- Thiếu chất đốt chống rét: lấy củi
- Khắc phục hậu quả sau lũ quyét, mưa kéo dài, như dọn dẹp nhà cửa, giặt
giũ, lau chùi, những công việc của cộng động như vệ sinh môi trường, nạo
vét kênh mương
- Thời gian chăm sóc SK cho trẻ em, người già, nhất vào thời điểm nóng, rét
kéo dài (nhất là gia đình Dao đông con)
I. Tác động giới của thiên tai/BĐKH
Đối với những hiện tượng BĐKH xảy ra chậm, tác động đối với phụ nữ
có nguy cơ lớn hơn mà không phải lúc nào cũng nhận ra một cách
rõ ràng; và vai trò, khả năng của phụ nữ trong quá trình ứng phó
cũng có thể bị xem nhẹ.
Những công việc này đang “kéo dài”, sức lao động của phụ nữ
buộc phải “dãn ra”.
Trong khi những hệ quả lâu dài đối với phụ nữ có thể xảy ra nếu
không có can thiệp phù hợp (sự căng thẳng, thiếu đói kéo dài, vấn
đề dinh dưỡng..) – tác động “âm thầm”
II. Khả năng ứng phó/thích ứng BĐKH
2. Phụ nữ ít được kiểm soát đối với nguồn lực sản xuất
- Đất canh tác
- Nguồn vốn
- Công cụ lao động/phương tiện
3. Tiếp cận với thông tin, kỹ thuật và thị trường của
phụ nữ bị hạn chế
- Tách biệt XH
- Chương trình tập huấn về sản xuất nông nghiệp, chăn
nuôi.
- Chương trình, chính sách về phòng chống lụt bão và
đối phó với thiên tai/BĐKH.
III. Sự khác biệt giới và nguyên nhân
Cần nghiên cứu sâu hơn về tác động giới của thiên tai và
BĐKH
Các hoạt động can thiệp về phòng chống thiên tai/ BĐKH,
quản lý tài nguyên thiên nhiên cần đảm bảo rằng nhu cầu
của phụ nữ đã được cân nhắc trong suốt quá trình thực
hiện chương trình, dự án, thông qua:
+ Hỗ trợ các đối tác trong việc lồng ghép giới vào kế hoạch
phát triển, chương trình phòng chống lụt bão/BĐKH của
địa phương.
+ Lồng ghép giới vào các khoá đào tạo về Đánh giá và Giảm
thiểu rủi ro, Thích ứng với BĐKH, Quản lý rừng…
+Thúc đẩy sự tham gia của cả phụ nữ và nam giới trong mọi
hoạt động và mọi cấp độ của Chương trình, dự án
III. Kiến nghị