Professional Documents
Culture Documents
Lớp M2UA
M2UA là giao thức định nghĩa bởi IETF cho phép truyền các bản tin báo hiệu lớp
người sử dụng MTP2 ( ví dụ như MTP3) qua mạng IP sử dụng giao thức SCTP.
M2UA cung cấp các dịch vụ cho lớp người sử dụng của nó tương tự như các dịch vụ
do MTP2 cung cấp cho MTP3. M2UA có các mục đích sau:
Cung cấp một cơ chế cho phép truyền bản tin báo hiệu lớp người sử
dụng của MTP2 qua mạng IP sử dụng giao thức SCTP.
Tập trung lưu lượng SS7 từ các link SS7 cách xa nhau về một điểm tập
trung trên mạng.
Bằng việc sử dụng M2UA, một vài điểm báo hiệu có thể hợp nhất thành
một điểm báo hiệu tập trung. Đổi lại, các điểm báo hiệu này khi đó có
thể được đặt gần các thành phần mạng khác hơn. Khi đó, việc truyền
báo hiệu giữa các thành phần này sẽ là truyền qua các kênh dành riêng,
do vậy sẽ giảm chi phí cho việc xây dựng các điểm trung truyền báo
hiệu.
Mô hình kiến trúc sử dụng M2UA như hình vẽ:
Hình 2: Mô hình kiến trúc M2UA
Ta biết là mỗi lớp MTP3 phải kèm theo một địa chỉ point code nhất định. Trong
trường hợp này, nếu mỗi SG sử dụng lớp MTP3 thì mỗi SG sẽ phải có một SS7 point
code riêng. Điều này sẽ dẫn đến sự lãng phí địa chỉ SS7. Bằng việc sử dụng lớp
M2UA, các SG sẽ không cần phải có địa chỉ SS7 point code, các bản tin lớp MTP2
mà SG nhận được sẽ được chuyển đến lớp MTP3 ở MGC để xử lý và định tuyến tới
phía đích.
Lớp M2PA
M2PA là giao thức truyền các bản tin báo hiệu lớp MTP3 qua mạng IP sử dụng giao
thức truyền dẫn SCTP. M2PA tương đương với M2UA. Tuy nhiên, nó không chỉ là
cung cấp kết nối giữa 2 lớp MTP2 và MTP3 cách xa nhau mà nó có thể thay thế hoàn
toàn lớp MTP2 bên dưới lớp MTP3. Người dùng của M2PA là lớp MTP3 ở cả 2 đầu
kết nối (với M2UA, người dùng một đầu là MTP3, đầu còn lại là SG NIF).
M2PA cho phép các lớp MTP3 ngang hàng của các SG có thể liên lạc trực tiếp với
nhau. Thực chất, nó mở rộng mạng SS7 sang mạng IP.
Mô hình kiến trúc sử dụng lớp M2PA như hình vẽ:
Lớp M3UA
M3UA là giao thức hỗ trợ cho việc truyền dẫn các bản tin báo hiệu MTP3 (ví dụ như
ISUP, SCCP) qua mạng IP sử dụng giao thức truyền dẫn SCTP. Về chức năng hoạt
động, M3UA tương tự như M2UA. Giao thức này được sử dụng ở giao tiếp giữa SG
và MGC hay các IP SCP bên phía mạng IP. M3UA cho phép dịch vụ lớp MTP3 có thể
được cung cấp bởi một MGC nằm trong mạng IP, do vậy nó mở rộng mạng báo hiệu
SS7 sang phía mạng IP.
Lớp SUA
SUA là giao thức hỗ trợ truyền dẫn các bản tin lớp SCCP qua mạng IP sử dụng giao
thức SCTP. Nó cho phép truy nhập tới các lớp ứng dụng (ví dụ như TCAP) tại IP SCP
thông qua SG. Kiến trúc mạng sử dụng SUA cho phép một SG có thể kết nối đến
nhiều IP SCP. Các IP SCP không cần phải có lớp MTP3 cục bộ, do vậy không đòi hỏi
phải có địa chỉ SS7 point code riêng.
Hình 5: Mô hình kiến trúc lớp SUA
SUA hỗ trợ các chức năng sau:
Truyền dẫn các bản tin SCCP (TCAP, MAP, INAP...)
Hỗ trợ dịch vụ không kết nối SCCP
Hỗ trợ dịch vụ hướng kết nối SCCP
Quản lý các phiên truyền dẫn của SCTP giữa SG và một hay nhiều nút
báo hiệu phía mạng IP
Phân tán các nút báo hiệu phía mạng IP
Thông báo về các thay đổi trạng thái phục vụ cho mục đích quản lý.
Hiện nay, các mạng viễn thông hiện tại có đặc điểm chung là tồn tại một cách riêng rẽ, ứng
với mỗi loại dịch vụ thông tin lại có ít nhất một loại mạng viễn thông riêng biệt để phục vụ
dịch vụ đó. Thí dụ:
• Mạng Telex: dùng để gửi các bức điện dưới dạng các ký tự đã được mã hoá bằng mã 5
bit (mã Baudot). Tốc độ truyền rất thấp (từ 75 tới 300 bit/s).
• Mạng điện thoại công cộng, còn gọi là mạng POST (Plain Old Telephone Service): ở đây
thông tin tiếng nói được số hoá và chuyển mạch ở hệ thống chuyển mạch điện thoại
công cộng PSTN (Public Swiched Telephone Network).
• Mạng truyền số liệu: bao gồm các mạng chuyển mạch gói để trao đổi số liệu giữa các
máy tính dựa trên các giao thức của X.25 và hệ thống truyền số liệu chuyển mạch kênh
dựa trên các giao thức X.21.
• Các tín hiệu truyền hình có thể được truyền theo ba cách: truyền bằng sóng vô tuyến,
truyền qua hệ thống mạng truyền hình CATV (Community Antenna TV) bằng cáp đồng
trục hoặc truyền qua hệ thống vệ tinh, còn gọi hệ thống truyền qua hệ thống vệ tinh, còn
gọi hệ thống truyền hình trực tiếp DBS (Direct Broadcast System).
• Trong phạm vi cơ quan, số liệu giữa các máy tính được trao đổi thông qua mạng cục bộ
LAN (Local Area Network) mà nổi tiếng nhất là mạng Ethernet, Token Bus và Token Ring.
Mỗi mạng trên được thiết kế cho các dịch vụ riêng biệt và không thể sử dụng cho các mục
đích khác. Thí dụ, ta không thể truyền tiếng nói qua mạng chuyển mạch gói X.25 vì trễ qua
mạng này quá lớn.
Hậu quả là hiện nay có rất nhiều loại mạng khác nhau cùng song song tồn tại. Mỗi mạng lại
yêu cầu phương pháp thiết kế, sản xuất, vận hành, bảo dưỡng khác nhau. Như vậy hệ
thống mạng viễn thông hiện tại có rất nhiều nhược điểm mà quan trọng nhất là:
• Chỉ truyền được các dịch vụ độc lập tương ứng với từng mạng.
• Thiếu mềm dẻo: Sự ra đời của các thuật toán nén tiếng nói, nén ảnh và tiến bộ trong
công nghệ VLSI ảnh hưởng mạnh mẽ tới tốc độ truyền tín hiệu. Ngoài ra còn có nhiều
dịch vụ truyền thông trong tương lai mà hiện nay chưa dự đoán trước được, mỗi loại dịch
vụ sẽ có tốc độ truyền khác nhau. Ta dễ dàng nhận thấy rằng hệ thống hiện nay rất khó
thích nghi với yêu cầu của các dịch vụ khác nhau trong tương lai.
• Kém hiệu quả trong việc bảo dưỡng, vận hành cũng như việc sử dụng tài nguyên. Tài
nguyên sẵn có trong một mạng không thể chia sẻ cho các mạng cùng sử dụng.
Như đã nêu ở trên, yêu cầu có một mạng viễn thông duy nhất ngày càng trở nên bức thiết,
chủ yếu là do các nguyên nhân sau:
• Các kỹ thuật xử lý tín hiệu, chuyển mạch, truyền dẫn ở tốc độ cao (cỡ khoảng vài trăm
Mbit/s tới vài Gbit/s) đã trở thành hiện thực.
• Sự phát triển của các ứng dụng phần mềm trong lĩnh vực tin học và viễn thông.
• Sự cần thiết phải tổ hợp các dịch vụ phụ thuộc lẫn nhau ở chuyển mạch kênh và chuyển
mạch gói vào một mạng băng rộng duy nhất. So với các mạng khác, dịch vụ tổ hợp và
mạng tổ hợp có nhiều ưu điểm về mặt kinh tế, phát triển, thực hiện, vận hành và bảo
dưỡng.
• Sự cần thiết phải thoả mãn tính mềm dẻo cho các yêu cầu về phía người sử dụng cũng
như người quản trị mạng (về mặt tốc độ truyền, chất lượng dịch vụ .v.v.).
Khuyến nghị ITU-T I.121 đưa ra tổng quan về khả năng của B-ISDN như sau:
B-ISDN là một mạng thông minh có khả năng cung cấp các dịch vụ cải tiến,
cung cấp các công cụ bảo dưỡng và vận hành (OAM), điều khiển và quản
lý mạng rất hiệu quả.
B-ISDN theo ITU-T dựa trên cơ sở kiểu truyền không đồng bộ ATM (Asynchronous Transfer
Mode). Như vậy ATM sẽ là nền tảng của B-ISDN trong tương lai.
Trong kiểu truyền không đồng bộ, thuật ngữ "truyền" bao gồm cả lĩnh vực truyền dẫn và
chuyển mạch, do đó "dạng truyền" ám chỉ cả chế độ truyền dẫn và chuyển mạch thông tin
trong mạng.
Thuật ngữ "không đồng bộ" giải thích cho một kiểu truyền trong đó các gói trong cùng một
cuộc nối có thể lặp lại một cách bất bình thường như lúc chúng được tạo ra theo yêu cầu cụ
thể mà không theo chu kỳ.
Để minh họa, hình 1.1 và 1.2 biểu diễn sự khác nhau giữa dạng truyền đồng bộ và dạng
truyền không đồng bộ. Trong dạng truyền đồng bộ STM (Synchronous Transfer Mode), các
phần tử số liệu tương ứng với kênh đã cho được nhận biết bởi vị trí của nó trong khung
truyền (hình 1.1) trong khi ở ATM, các gói thuộc về một cuộc nối lại tương ứng với các kênh
ảo cụ thể và có thể xuất hiện tại bất kỳ vị trí nào (hình 1.2).
ATM còn có hai đặc điểm quan trọng:
Thứ nhất, ATM sử dụng các gói có kích thước nhỏ và cố định gọi là các tế bào ATM (ATM
Cell), các tế bào nhỏ cùng với tốc độ truyền lớn sẽ làm cho trễ truyền và biến động trễ
(Delay Jitter) giảm đủ nhỏ đối với các dịch vụ thời gian thực, ngoài ra kích thước nhỏ cũng
sẽ tạo điều kiện cho việc hợp kênh ở tốc độ cao được dễ dàng hơn.
Thứ hai, ATM còn có một đặc điểm rất quan trọng là khả năng nhóm một vài kênh ảo
(Virtual Channel) thành một đường ảo (Virtual Path), nhằm giúp cho việc định tuyến được
dễ dàng.
2.2. Các lĩnh vực công nghệ mới quyết định sự ra đời và phát triển của ATM
• Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ bán dẫn cũng như công nghệ quang điện tử.
• Sự phát triển các ý tưởng mới về khái niệm hệ thống.
Công nghệ CMOS là công nghệ rất có triển vọng bởi độ tích hợp lớn, tốc độ cao (cỡ vài
trăm Mbit/s tới vài Gbit/s), độ rộng băng truyền lớn, kích thước nhỏ, độ mềm dẻo cơ học
cao, tránh được nhiễu của trường điện tử, xác suất truyền lỗi thấp và không có nhiễu xuyên
âm.
Các quan điểm mới về hệ thống được phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, đó là
hệ thống phải có độ mềm dẻo thích hợp, độ rộng băng của hệ thống phải tuỳ thuộc vào yêu
cầu của từng dịch vụ cụ thể, các dịch vụ thời gian thực được truyền theo phương pháp
chuyển mạch gói.
Các ý tưởng này phải thoả mãn hai chức năng chính của mạng là:
Tính trong suốt về mặt nội dung:(Semantic Transparency):
Tính trong suốt về mặt nội dung là chức năng đảm bảo việc truyền đúng các bit từ đầu phát
tới đầu thu (tức là sự chính xác về mặt nội dung).
Khi mới ra đời, trong các mạng chuyển mạch gói, chất lượng truyền số liệu còn kém, do đó
để đảm bảo chất lượng truyền chấp nhận được, người ta phải thực hiện chức năng điều
khiển lỗi trên mọi liên kết (Link).Việc điều khiển lỗi này được thực hiện bởi các giao thức
HDLC (High-Level Data Link Control) bao gồm các chức năng: giới hạn khung (Frame
Delimiting), đảm bảo truyền bit chính xác, kiểm tra lỗi (kiểm tra mã dư vòng CRC-Cyclic
Redundancy Check), sửa lỗi bằng các thủ tục truyền lại. Hình 1.3. trình bày thủ tục điều
khiển lỗi đầy đủ của mạng chuyển mạch gói thông qua mô hình liên kết các hệ thống mở
OSI. Ta thấy quá trình điều khiển lỗi được thực hiện trên mọi liên kết (Link-by-Link) thông
qua nút chuyển mạch, do đó nút chuyển mạch phải xử lý một loạt các thủ tục phức tạp khác
nhau làm ảnh hưởng đến tốc độ xử lý chung của hệ thống.
Sau này do chất lượng của hệ thống truyền dẫn và chuyển mạch tăng lên nên tỷ lệ lỗi trên
mạng giảm. Với một mạng chất lượng cao như vậy, người ta chỉ cần thực hiện một số chức
năng của thủ tục HDLC như chức năng giới hạn khung, chức năng truyền bit chính xác,
kiểm tra lỗi trên cơ sở từ liên kết tới liên kết (Link-by-Link). Như vậy chỉ có những chức
năng này được cung cấp bởi các nút chuyển mạch trong mạng còn các chức năng khác
như sửa lỗi sẽ được thực hiện trên cơ sở từ đầu cuối tới đầu cuối (End-to-End). Bằng cách
này người ta đã giảm được khối lượng thông tin mà nút chuyển mạch cần sử lý, nhờ đó mà
tốc độ xử lý của nút tăng lên. Như vậy lớp 2 trên mô hình OSI được chia thành hai lớp con,
lớp 2a chuyên cung cấp các chức năng cơ bản của lớp 2, lớp 2b cung cấp các chức năng
bổ sung. Các hệ thống ứng dụng nguyên lý này được gọi là chuyển tiếp khung (frame
relay). Các nguyên lý này được trình bày trên hình 1.4.
Đối với B-ISDN ý tưởng này còn được mở rộng hơn nữa, các chức năng điều khiển lỗi
không còn được cung cấp ở các nút chuyển mạch trong mạng nữa mà trong trường hợp
cần thiết, sẽ được cung cấp bởi các thiết bị đầu cuối. Như vậy các chức năng được thực
hiện trong mạng được giảm từ điều khiển lỗi đầy đủ (Full error Control) ở mạng chuyển
mạch gói X.25 xuống còn cực kỳ tối thiểu ở mạng ATM, do đó các nút của ATM có độ phức
tạp tối thiểu và vì thế có tốc độ truyền rất cao, có thể lên tới 600 Mbit/s (hình 1.5). Bảng 1.1
trình bày các chức năng được thực hiện ở nút mạng ATM so với mạng chuyển mạch gói và
chuyển tiếp khung.
Bảng 1.1: Các chức năng được thực hiện ở nút mạng của X.25, chuyển tiếp khung, ATM
Rõ ràng nút mạng ATM hầu như không phải xử lý một thông tin điều khiển nào trong khi nút
chuyển mạch X.25 và chuyển tiếp khung phải thực hiện một loạt các thủ tục phức tạp khác nhau.
Các dịch vụ thời gian thực yêu cầu dòng bit có trễ rất ngắn khi được truyền từ đầu phát tới
đầu thu, tức là chúng yêu cầu tính chính xác về mặt thời gian. Có thể phân biệt hai loại trễ:
trễ do chuyển mạch và trễ từ điểm đầu tới điểm cuối.
Hệ thống chuyển mạch gói và chuyển tiếp khung rất khó khăn khi thực hiện các dịch vụ thời
gian thực vì độ trễ cao. Do độ phức tạp của các nút chuyển mạch, chúng chỉ có thể hoạt
động ở tốc độ vừa và thấp. Mạng ATM, mặt khác, chỉ cần những chức năng tối thiểu ở nút
chuyển mạch, do đó nó cho phép truyền số liệu tốc độ rất cao, trễ trên mạng và các biến
động trễ giảm xuống còn vài trăm micro giây, do đó quan hệ thời gian được đảm bảo như
trong trường hợp chuyển mạch kênh.
3.1. Các dịch vụ phục vụ cho các thuê bao gia đình
Các dịch vụ quan trọng cho các thuê bao gia đình là những dịch vụ truyền hình (TV) bao
gồm dịch vụ truyền hình cáp CATV, truyền hình số chuẩn SDTV(Standard Digital TV) hay
trong tương lai là dịch vụ truyền hình độ phân giải cao HDTV (High Definition TV). Tuy vậy
người ta còn phải giải quyết các vấn đề về tính tương thích giữa các tín hiệu video nói trên
sao cho một chương trình SDTV có thể xem được trên màn hình HDTV và ngược lại.
Tất cả các tín hiệu video nói trên có thể được cung cấp bằng nhiều cách khác nhau. Dễ
thực hiện nhất là phương pháp mô phỏng CATV trong đó một loạt các chương trình TV
được đưa tới thuê bao theo các đường nối bán cố định. Một phương pháp khác là các kênh
TV được truy nhập theo kiểu chuyển mạch, nghĩa là khách hàng có thể chọn một chương
trình mong muốn theo một kênh thông tin xác định. Xa hơn nữa, người sử dụng có thể gọi
tới một thư viện video sau đó chọn lấy một kênh từ rất nhiều các kênh truyền hình sẵn có.
Một ứng dụng quan trọng nữa là dịch vụ điện thoại truyền hình trong đó các hình ảnh chất
lượng cao được truyền đi ở tốc độ từ 2 tới 5 Mbit/s với giá thành phải chăng.
Ngoài ra còn một loạt các ứng dụng thú vị khác như mua hàng tại nhà (Video-Shopping),
dạy học tại nhà (Home-Education), các dịch vụ thông tin quảng cáo .v.v.
3.2. Các dịch vụ phục vụ trong lĩnh vực kinh doanh, giao dịch
Các thuê bao trong phạm vi công sở, văn phòng có những đặc điểm hoàn toàn khác so với
các thuê bao gia đình. Điểm chung duy nhất giữa hai lĩnh vực này là điện thoại truyền hình.
Tuy vậy dịch vụ này cũng phải được mở rộng để tiến tới điện thoại hội nghị truyền hình, sao
cho người sử dụng có thể dùng dịch vụ điện thoại truyền hình để liên lạc giữa vài điểm cùng
một lúc.
Có thể dự đoán nhiều dịch vụ của B-ISDN cho mạng LAN sẽ được đưa vào ứng dụng trong
tương lai. Các hệ thống ATM-LAN được nối với nhau sẽ tạo khả năng truy nhập hệ cơ sở
dữ liệu phân tán với tốc độ rất cao, điều này rất quan trọng do khả năng của PC đang tăng
lên không ngừng về mặt tốc độ xử lý cũng như khả năng lưu trữ thông tin, do đó sẽ có ngày
càng nhiều các phần mềm ứng dụng chạy trên các máy khác nhau trong môi trường dữ liệu
phân tán. Ngoài ra còn phải kể đến các dịch vụ khác như: truyền ảnh y tế chất lượng cao để
phục vụ cho việc chữa bệnh từ xa, giáo dục phân tán, truyền thông đa phương tiện, thư tín
điện tử.
Trong lĩnh vực sản xuất, các ứng dụng sẽ là điều khiển/giám sát từ xa, phân phối các thông
tin hình ảnh về sản xuất/xử lý tới công nhân trong nhà máy. Bảng 1.2. tóm tắt các dịch vụ
băng rộng cơ bản và tốc độ tương ứng của chúng.
TV 30 - 130
Truyền hình phân giải cao 130
4. TÓM TẮT
Chương này đã trình bày các đặc điểm của các mạng viễn thông hiện hữu cũng như các
mặt hạn chế cuả chúng và các nhu cầu dịch vụ băng rộng đang tăng lên. Từ đó đặt ra vấn
đề phải có một mạng tổ hợp băng rộng duy nhất ( B-ISDN) thay thế tất cả các mạng viễn
thông nói trên, chính trên cơ sở này mà ATM hình thành và phát triển. Sự phát triển của kỹ
thuật ATM là kết quả trực tiếp của các ý tưởng mới về khái niệm hệ thống được hỗ trợ bởi
các thành tựu to lớn trong công nghệ bán dẫn và công nghệ quang điện tử. ATM có khả
năng đáp ứng được một loạt các dịch vụ băng rộng khác nhau, kể cả trong lĩnh vực gia đình
cũng như trong thương mại.
NGN là mạng hội tụ cả thoại, video và dữ liệu trên cùng một cơ sở hạ tầng dựa trên nền tảng IP,
làm việc trên cả hai phương tiện truyền thông vô tuyến và hữu tuyến. NGN là sự tích hợp cấu
trúc mạng hiện tại với cấu trúc mạng đa dịch vụ dựa trên cơ sở hạ tầng có sẵn, với sự hợp nhất
các hệ thống quản lý và điều khiển. Các ứng dụng cơ bản bao gồm thoại, hội nghị truyền hình và
nhắn tin hợp nhất (unified messaging) như voice mail, email và fax mail, cùng nhiều dịch vụ tiềm
năng khác.
1. Sử dụng công nghệ chuyển mạch mềm (SW-SoftSwitch) thay thế các thiết bị tổng đài
chuyển mạch phần cứng (hardware) cồng kềnh. Các mạng của từng dịch vụ riêng rẽ được kết
nối với nhau thông qua sự điều khiển của một thiết bị tổng đài duy nhất, thiết bị tổng đài này dựa
trên công nghệ SW được ví như là 'trái tim' của NGN.
2. Mạng hội tụ thoại và dữ liệu, cố định và di động. Các loại tín hiệu được truyền tải theo kỹ
thuật chuyển mạch gói, xu hướng sắp tới đang tiến dần lên sử dụng mạng IP với kỹ thuật QoS
như MPLS.
3. Mạng băng thông rộng cung cấp đa dịch vụ: Mạng truyền dẫn quang với công nghệ WDM
(Wavelength Division Multiplexing) hay DWDM (dense WDM).
Cấu trúc mạng NGN bao gồm 5 lớp chức năng: lớp truy nhập dịch vụ (service access layer), lớp
chuyển tải dịch vụ (service transport/core layer), lớp điều khiển (control layer), lớp ứng dụng/dịch
vụ (application/service layer) và lớp quản lý (management layer). Hình 1 thể hiện cấu trúc của
NGN.
Lớp ứng dụng và dịch vụ cung cấp các ứng dụng và dịch vụ như dịch vụ mạng thông minh IN
(Intelligent network), trả tiền trước, dịch vụ giá trị gia tăng Internet cho khách hàng thông qua lớp
điều khiển... Hệ thống ứng dụng và dịch vụ mạng này liên kết với lớp điều khiển thông qua các
giao diện mở API. Nhờ giao diện mở này mà nhà cung cấp dịch vụ có thể phát triển các ứng
dụng và triển khai nhanh chóng các dịch vụ trên mạng. Trong môi trường phát triển cạnh tranh sẽ
có rất nhiều thành phần tham gia kinh doanh trong lớp này.
Lớp điều khiển bao gồm các hệ thống điều khiển kết nối cuộc gọi giữa các thuê bao thông qua
việc điều khiển các thiết bị chuyển mạch (ATM+IP) của lớp chuyển tải và các thiết bị truy nhập
của lớp truy nhập. Lớp điều khiển có chức năng kết nối cuộc gọi thuê bao với lớp ứng dụng/dịch
vụ. Các chức năng như quản lý, chăm sóc khách hàng, tính cước cũng được tích hợp trong lớp
điều khiển.
Lớp quản lý
Đây là lớp đặc biệt xuyên suốt các lớp trên. Các chức năng
quản lý được chú trọng là: quản lý mạng, quản lý dịch vụ, quản
lý kinh doanh.
Mối tương quan giữa cấu trúc phân lớp chức năng và các
thành phần chính của mạng NGN được mô tả trong hình 2.
Theo hình 2 ta nhận thấy, các loại thiết bị đầu cuối kết nối đến
mạng truy nhập (Access Network), sau đó kết nối đến các cổng
truyền thông (Media Gateway) nằm ở biên của mạng trục. Thiết
bị quan trọng nhất của NGN là SW nằm ở tâm của mạng trục
(còn hay gọi là mạng lõi). SW điều khiển các chức năng chuyển mạch và định tuyến qua các giao
thức. Các giao thức này sẽ được xem xét kỹ ở phần sau. Hình 3 liệt kê chi tiết các thành phần
trong mạng NGN cùng với các đặc điểm kết nối của nó đến các mạng công cộng (PSTN).
Thiết bị SW
Thiết bị SW là thiết bị đầu não trong mạng NGN. Nó làm nhiệm vụ điều khiển cuộc gọi, báo hiệu
và các tính năng để tạo một cuộc gọi trong mạng NGN hoặc xuyên qua nhiều mạng khác (ví dụ
PSTN, ISDN). SW còn được gọi là Call Agent (vì chức năng điều khiển cuộc gọi của nó) hoặc
Media Gateway Controller - MGC (vì chức năng điều khiển cổng truyền thông - Media Gateway).
Thiết bị SW có khả năng tương tác với mạng PSTN thông qua các cổng báo hiệu (Signalling
Gateway) và cổng truyền thông (Media Gateway). SW điều khiển cuộc gọi thông qua các báo
hiệu, có hai loại chính:
- Ngang hàng (peer-to-peer): giao tiếp giữa SW và SW, giao thức sử dụng là BICC hay SIP.
- Điều khiển truyền thông: giao tiếp giữa SW và Gateway, giao thức sử dụng là MGCP hay
Megaco/H.248.
Nhiệm vụ chủ yếu của cổng truyền thông (MG - Media Gateway) là chuyển đổi việc truyền thông
từ một định dạng truyền dẫn này sang một định dạng khác, thông thường là từ dạng mạch
(circuit) sang dạng gói (packet), hoặc từ dạng mạch analog/ISDN sang dạng gói. Việc chuyển đổi
này được điều khiển bằng SW. MG thực hiện việc mã hóa, giải mã và nén dữ liệu thoại.
Ngoài ra, MG còn hỗ trợ các giao tiếp với mạng điện thoại truyền thống (PSTN) và các giao thức
khác như CAS (Channel Associated Signalling) và ISDN. Tóm lại, MG cung cấp một phương tiện
truyền thông để truyền tải thoại, dữ liệu, fax và hình ảnh giữa mạng truyền thống PSTN và mạng
gói IP.
Cổng truy nhập (AG - Access Gateway) là một dạng của MG. Nó có khả năng giao tiếp với máy
PC, thuê bao của mạng PSTN, xDSL và giao tiếp với mạng gói IP qua giao tiếp STM. Ở mạng
hiện nay, lưu lượng thoại từ thuê bao được kết nối đến tổng đài chuyển mạch PSTN khác bằng
giao tiếp V5.2 thông qua cổng truy nhập. Tuy nhiên, trong mạng NGN, cổng truy nhập được điều
khiển từ SW qua giao thức MGCP hay Megaco/H.248. Lúc này, lưu lượng thoại từ các thuê bao
sẽ được đóng gói và kết nối vào mạng trục IP.
Hình 3: Các thành phần chính trong NGN
Cổng báo hiệu (SG - Signalling Gateway) đóng vai trò như một cổng giao tiếp giữa mạng báo
hiệu số 7 (SS7 - Signalling System 7, giao thức được dùng trong PSTN) và các điểm được quản
lý bởi thiết bị SW trong mạng IP. Cổng SG đòi hỏi một đường kết nối vật lý đến mạng SS7 và
phải sử dụng các giao thức phù hợp. SG tạo ra một cầu nối giữa mạng SS7 và mạng IP, dưới sự
điều khiển của SW. SG làm cho SW giống như một điểm nút bình thường trong mạng SS7. Lưu ý
rằng SG chỉ điều khiển SS7; còn MG điều khiển các mạch thoại thiết lập bởi cơ chế SS7.
Mạng trục IP
Mạng trục được thể hiện là mạng IP kết hợp công nghệ ATM hoặc MPLS. Vấn đề sử dụng ATM
hay MPLS còn đang tách thành 2 xu hướng. Các dịch vụ và ứng dụng trên mạng NGN được
quản lý và cung cấp bởi các máy chủ dịch vụ (server). Các máy chủ này hoạt động trên mạng
thông minh (IN - Intelligent Network) và giao tiếp với mạng PSTN thông qua SS7.
Các giao thức và báo hiệu trong mạng NGN được thể hiện trong sơ đồ hình 4.
Megaco/H.248
Megaco và H.248 giống nhau, đều là giao thức điều khiển MG. Megaco được phát triển bởi IETF
(đưa ra vào cuối năm 1998), còn H.248 được đưa ra vào tháng 5/1999 bởi ITU-T. Sau đó cả
IETF và ITU-T cùng hợp tác thống nhất giao thức điều khiển MG, kết quả là vào tháng 6/2000
chuẩn Megaco/H.248 ra đời.
Megaco/H.248 là báo hiệu giữa SW/MGC với MG (Trunking Media Gateway, Lines Media
Gateway hoặc IP Phone Media Gateway). Megaco/H.248 điều khiển MG để kết nối các luồng từ
ngoài. Sơ đồ điều khiển MG của Megaco/H.248 được thể hiện ở hình 5.
Megaco/H.248 tương tự với MGCP về mặt cấu trúc và mối liên hệ giữa bộ điều khiển và cổng
gateway, tuy nhiên Megaco/H248 hỗ trợ đa dạng hơn các loại mạng (ví dụ ATM).
Hình 4: Sơ đồ các giao thức
BICC
BICC (Bearer Independent Call Control) là giao thức báo hiệu giữa 2 MGC/Call Server, có thể là
từ các nhà cung cấp khác nhau, nhằm mục đích đảm bảo lưu lượng thoại dùng kỹ thuật gói (VoP
- Voice over Packet). Theo ITU-T, BICC được thiết kế để có thể tích hợp hoàn toàn với các mạng
hiện hữu và bất kỳ hệ thống nào có hỗ trợ việc chuyển tải bản tin nhắn thoại.
BICC hỗ trợ các dịch vụ băng hẹp (PSTN, ISDN) một cách độc lập với đường truyền và kỹ thuật
chuyển tải bản tin báo hiệu. Bản tin BICC chuyên chở cả thông tin điều khiển cuộc gọi và điều
khiển đường truyền. BICC góp phần đơn giản hóa các báo hiệu sử dụng cho việc giao tiếp hoạt
động giữa mạng truyền thống vào mạng NGN. Nói cách khác, mạng NGN với nền tảng mạng
chuyển mạch gói có thể cung cấp đầy đủ các dịch vụ băng hẹp thông qua báo hiệu BICC.
Trong BICC, giao thức báo hiệu điều khiển đường truyền phụ thuộc vào công nghệ đường truyền
lớp dưới như ATM, IP/MPLS.
Hình 6 mô tả ứng dụng của BICC trong việc liên kết hoạt động giữa mạng truyền thống
(PSTN/ISDN) và mạng NGN. Hai thuê bao điện thoại truyền thống liên lạc với nhau thông qua sự
điều khiển của softswitch theo báo hiệu BICC. Báo hiệu SIP sử dụng trong trường hợp 2 thuê
bao IP phone hoặc một thuê bao IP phone liên lạc với một thuê bao điện thoại truyền thống.
SIP
SIP (Session Initiation Protocol) là giao thức điều khiển lớp ứng dụng được thiết kế và phát triển
bởi IETF. Giao thức SIP được sử dụng để khởi tạo, điều chỉnh và chấm dứt các phiên làm việc
với một hay nhiều yếu tố tham dự. Một phiên được hiểu là một tập hợp nơi gửi, nơi nhận liên lạc
với nhau và trạng thái bên trong mối liên lạc đó. Ví dụ trạng thái có thể bao gồm cuộc gọi điện
thoại Internet, tín hiệu đa phương tiện phân tán, hội nghị truyền thông đa phương tiện, hay có thể
là trò chơi máy tính phân tán...
Là giao thức báo hiệu mở, mềm dẻo và có khả năng mở rộng, SIP khai thác tối đa công cụ
Internet để tạo ra nhiều dịch vụ mới trong mạng NGN. Sơ đồ giao thức báo hiệu SIP trong NGN
được thể hiện trong hình 7. SIP còn được dùng làm báo hiệu giữa 2 SW như thể hiện ở hình 6.
Giao thức khởi tạo phiên SIP thâm nhập vào thiết kế SW không chỉ như một giao thức báo hiệu
cuộc gọi mà còn đóng vai trò của một cơ cấu vận chuyển cho các giao thức khác và cho báo
hiệu của thiết bị SW đến các server ứng dụng và cho các hệ thống đáp ứng thoại tương tác hai
chiều. Hiện nay SIP được dùng phổ biến cho Voice Over IP. Hiện nay, SIP đang trở thành lựa
chọn thay thế H.323 để trở thành giao thức điểm nối điểm (end-to-end protocol) trong công nghệ
SW.
H.323
H.323 là giao thức chuẩn cho việc liên lạc bằng thoại, hình và dữ liệu trong hệ thống mạng IP
(bao gồm mạng Internet). H.323 là tập hợp các chuẩn của ITU cho việc truyền thông đa phương
tiện và là một trong những chuẩn chính cho VoIP như Megaco hay SIP.
H.323 được công bố lần đầu tiên vào năm 1996 và phiên bản mới nhất (version 5) được hoàn
thành vào năm 2003. Các thành phần trong cấu trúc H.323 gồm có terminal, gateway,
gatekeeper... (tham khảo bài 'Kiến trúc H.323...' trên TGVT A 1/2004, tr.75).
MGCP là giao thức VoIP và là một chuẩn được xác định bởi IETF, được dùng để điều khiển MG
từ MGC/SW. MGCP là một giao thức chủ tớ (master/slave) mà qua đó MG sẽ thực thi các lệnh
được gửi từ MGC/SW. MG truyền tải các loại tín hiệu như thoại, dữ liệu, hình ảnh giữa mạng IP
và mạng truyền thống (PSTN). Có thể hiểu, trong mô hình MGCP, các MG chú trọng vào chức
năng phiên dịch tín hiệu âm thanh, trong khi SW đảm nhận chức năng xử lý báo hiệu và cuộc
gọi.
Chú ý, MGCP và Megaco/H.248 đều là giao thức điều khiển MG từ MGC/SW. Tuy nhiên,
Megaco/H.248 là giao thức mới hơn và đang có xu hướng thay thế MGCP. Một số thiết bị được
sản xuất hỗ trợ cả hai giao thức cùng một lúc.