Professional Documents
Culture Documents
TIẾT I
CÁC SÁCH NGÔN SỨ TIỀN
6
nào và được biên sọan như thế nào. Môn phê bình văn học
đã cốờ trả lời :
- Từ lâu, người ta đã đem lí thuyết 4 nguồn liệu áp
dụng vào đây. Từ Wellhausen, nguời ta nói đến Lục Kinh
mà Gs là phần kết cho 5 cuốn trước.
- Một hướng mới cho việc nghiên cứu Gs do công của
A.Alt và M. Noth, quan tâm cả về phê bình văn học, cả về
khảo cổ học và lịch sử các truyền thống. Do hình thưcỤ và
nội dung, các của Gs khác nhiều với các truyền thống của
Ngũ Kinh. Noth gắn Josué với một tổng thể lịch sử đồ sộ
được tiếp nối cho đến tận các sách Các Vua và được biên
tập sau biến cố 587, dưới ánh sáng Đnl.
Nói chung, giới phê bình nhận giả thuyết Gs được
biên tập dưới ánh sáng Đnl. Họ ít nhất trí về tình trạng các
tư liệu có trước và về tầm quan trọng của những biến đổi
mà các tư liệu đã trải qua. Vì thế, nhiều tác giả không chịu
phủ nhận những trình thuật J và P trong các trình thuật của
Gs. Dù sao,việc xác định ai là ngưòi biên soạn Gs cũng khó
như đối với Ngũ Kinh. Mặt khác, theo Noth, người sưu tập
đầu tiên có lẽ đã thực hiện công trình vào thế kỉ X cùng lúc
với J. Cuối cùng, dù sao, các truyền thống của Gs 2-11 vẫn
giữ nguyên phong vị đặc thù và nội dung cũng như hình
thức của chúng quan trọng hơn là việc chúng được viết
thành văn năm nào.
Như thế, ta thấy những truyền thống này có một
thời đầu truyền miệng, rồi một thời kì biên tập từng mảng. Ít
ra đầu thời vương quốc đã có một toàn bộ rồi. Chương 24
hiện nay về thực chất có thể gắn vào đó. Việc biên tập cuối
cùng chịu ảnh hưởng đậm của quan điểm thần học Đnl,
biến đổi sâu sắc các truyền thống sơ khai để áp dụng nó cho
mọi chi tộc.
Không thể biết khi các nhà biên tập hiệu đính thì
tình trạng cuốn sách như thế nào. Họ muốn nhấn mạnh ở
những bài học tôn giáo. Javé thực hiện các lời hứa và tỏ
lòng trung tín khi Israel giữ lời cam kết. Phần địa lí cũng
phải đã hình thành dần dà từ những tư liệu rải rác dọc thời
7
gian. Bản kê các địa danh của Giuđa(15,21-62) có thể lên
đến thời kì tái tổ chức Giuđa thời Đavít, Salomon hay
Roboam. Danh sách những thành tị nạn (20) và những
thành thuộc chi tộc Lévi (21) không thể có trước thế kỉ X,
nhưng cũng không phải muộn lắm. Phần địa lí trở thành
việc chia đất Hứa giữa 12 chi tộc, có vẻ là một cuộc kiểm kê
gia tài Thiên Chúa ban mà Israel đã hoang phí.
9
cả lịch sử những phúc và họa của Dân ưu tuyển (23,12-16 ;
Đnl 11,22-32 ; 31,16-22).
Như thế, sách Gs nhìn lịch sử dưới một góc độ
khác với góc nhìn của những lịch sử hiện đại và lối nhìn đó
biện minh cho thể loại văn học được chọn. R.Vaux nói :
"Với thánh kí, việc chinh phục Canaan không phải là một
biến cố phàm tục nhưng là một biến cố thần học".
Thể loại văn học không được đưa tới kết luận
thẳng thừng rằng cuốn sách không có giá trị lịch sử. Những
tìm tòi mới đây về địa hình và khảo cổ, trong khi xác định
những địa điểm đã được nói đến và phát hiện ra nền văn
minh Canaan cũng như thời đầu của văn minh Israel , bắt
buộc phải cho nhiều dữ kiện của cuốn sách là có thực.. Mặt
khac, những phương pháp phân tích văn học có xu hướng
tăng tuổi các truyền thống và tư liệu được sử dụng lên. Sau
cùng, một sự hiểu biết tốt hơn về những nền văn học truyền
thống làm ta thừa nhận một cách tổng quát phần đóng góp
của những kí ức lịch sử được khai thác. Vì thế, có những
nhà chú giải tỏ ra tin vào Gs hơn mấy chục năm trước đây
(như :Y.Kaufmann, The Biblical Account of the Conquest
ofợ Palestine, 1953 ; B.Bright, A.History of Israel,1960 ;
R.De Vaux, Histoire ancienne d'Israel, 1971...).
1. Khảo cổ học.- Giá trị lịch sử của một số trình
thuật trong Gs được khoa khảo cổ học thử thách, nhưng kết
quả rất không giống nhau. Những khai quật ở Tell es-
Sultan, 1907-1909, rồi 1930-1935 cho phép tìm lại được
Jéricho của Canaan xưa. Các nhà chuyên môn không hồ
nghi việc Jéricho bị hủy diệt là do Josué, chỉ hồ nghi về niên
đại (theo M.Garstang, quãng 1400 ; theo P.Vincent, ít lâu
sau 1250). Nhưng những cuộc khai quật mới dưới sự hướng
dẫn của Miss K.Kenyon giữa 952-1958, lại cho thấy Jericho
là thành có phòng ngự kiên cố nhất được biếỤt đến. Tuy
nhiên còn nhiều vấn đề bàn cãi.
10
Những cuộc khai quật ở Et-Tell, gần
Beitin(Béthel) do bà Marquet-Krause, 1933-1935 cũng gây
bối rối, tuy cho biết chắc địa điểm đó là Ai.
Tuy nhiên, những cuộc khai quật mới đây do
J.A.Calla-way, 2964, 1966,1968,1969, giúp xác định thời kì
Đồng - Cũ là giữa 2900-2500 tcn. Trở lại với bản văn Kinh
Thánh, có những sự tương tự lạ lùng với trình thuật việc
hủy diệt chi tộc Benjamin được kể ở sách Tl 20. Lí do lịch
sử của trình thuật Gs 8 sẽ là một vụ tranh giành đất đai giữa
người Benjamin và người Ephraim, nhưng trình thuật trận
đánh lại là một truyền thuyết nhằm biện minh cho việc
Benjamin chiếm Ai. Đó là một giả thuyết.Tuy nhiên,
P.Auvray cho rằng căn cứ vào thí dụ về trường hợp Jéricho
và Ai, thì giới chủ giải đã quá đòi hỏi ở khảo cổ học. Cho
nên việc phê bình các bản văn và truyền thống vẫn cứ là
nguồn gốc chính yếu để các sử gia phán đoán.
2.. Phê bình văn học và lịch sử
a. Nhiều trình thuật giải thích một sự kiện có thể
bàn cãi : 12 phiến đá ở thánh đền Gilgal, Jéricho suy tàn, Ai
có tên là "tàn tạ". Cho nên Noth coi các trình thuật ở 2-9
như truyền thuyết về căn nguyên (étiologiques). Nhưng
những nét về căn nguyên học không chiếm trọn hết các
trình thuật.
b. Từ những trang thuộc thể loại sử thi, không thể
chờ đợi một sự trung thành chặt chẽ với lịch sử. Những sự
lạ Josué làm nhiều khi gây bối rối cho giới chú giải. Một số
người loại chúng ra nhân danh thiên kiến duy lí. Một số
khác nhận chúng, nhưng cho là ngoại lệ, tuy vẫn là những
sự kiện tự nhiên : một vụ sụt lở như năm 1267 có thể đã
chặn dòng sông Jordan lại, một trận động đất có thể đã làm
Jéricho sụp đổ, chiến thắng Gabaon có thể dễ dàng là nhờ
một cơn dông làm bầu trời tối đen, hay một trận mưa thiên
thạch tiếp đó là mộtý thời gian sáng ngoại thường kéo dài
hoàng hôn đến tận rạng đông hôm sau...
Đồng thời, cũng cần lưu ý tới thể loại văn học của
bản văn và tới niềm tin được biểu đạt trong đó. Có những
11
nhóm trẻ gặp được sưcỤ mạnh ở niềm tin vào Javé, họ đi
tìm đất và đạt được những kết quả vượt khả năng của
phương tiện họ vận dụng. Họ cho đó là sự can thiệp của
Thiên Chúa. Họ ghi lại bằng những trình thuật theo thể sử
thi (anh hùng ca), trong đó cái kì lạ được dùng để phục vụ
điều chính yếu là khẳng định hành động của Thiên Chúa.
Nhưng không thể coi đó là những truyền thuyết thuần túy.
c. Điều được bàn cãi, là vai trò của Josué. Alt chỉ
giữ lại và coi như là có từ đầu những đoạn 10,10-14 ; 17,14-
18 và 24 : Josué nổi tiếng nhờ chiến thắng ở đất Benjamin
là chi tộc ông ở ; ông làm trọng tài cho vụ tranh chấp nội bộ
nhà Giuse (Ephraim và Manassé), ông can thiệp vào hòa
ước Sichem. Noth còn loại Josué ra khỏi đoạn 10,10-14.
Chính người sưu tập 2-11 đưa ông vào những truyền thống
xa lạ đối với chi tộc ông.Từ chỗ là người hùng địa phương,
ông trở thành người hùng của quốc gia, kế vị Môsê. Phải
nhận rằng đã có những toán người khác nhau cuối cùng liên
hiệp nơi Israel, họ đến đất Canaan bằng những cách thế
khác nhau. Điều chắc là những thành phần của Siméon,
Lévi và nhóm gốc Juda đã lặng lẽ trót lọt thấm nhập phía
Nam, lại có những bộ tộc sau mới vào (Caleb,Qénit). Sự
đụng đầu với người Canaan định cư trong miền núi Juda
được đánh dấu bởi mấy trận đánh (Horma, Hebron, Débir).
Các chi tộc phía Bắc chắc không hề xuống ai cập. Những
quan hệ giữa các nhóm cuối cùng phân biệt thành
Benjamin, Ephraim, Manassé (3 hậu duệ của Rachel) cũng
dễ hiểu. Người ta coi là thuộc về Benjamin những truyền
thống ở Gs 2-9, thuộc Ephraim những truyền thống ở Gs 10
(trận Gabaon). Nhưng các bộ lạc đó chỉ nhận tên gọi sau khi
nhập cư và những nhóm đã làm nên họ trước kia đã đến từ
phía đông Jordan và có những truyền thống chung. Josué
thuộc những truyền thống đó, được coi là thủ lĩnh những
thành phần đã vượt qua Jordan .Trình thuật về trận tấn công
Jéricho tuy mang tính chất phụng vụ và dù có sự thinh lặng
của khảo cổ học, nhưng nó lưu giữ kí ức lịch sử và cho thấy
làm sao các chiến thuật và việc nội gián đã có thể bù đắp sự
12
thua kém về quân sự. Nhưng việc chiếm Ai có lẽ là một lối
văn căn nguyên học, giải thích sự suy tàn căn cứ vào những
tranh chấp khi các chi tộc tiến vào Palestine trung phần.
Hòa ước với Gabaon thì trái lại, làm nổi rõ tính cách hòa
bình. Nhưng Thủ lĩnh 1 không cho phép mở rộng chiến
tranh ra tòan bộ miền Nam sau trận Gabaon như là một sự
kiện lịch sử.
Theo Noth, sự kiện lịch sử nói ỏ Gs 24 có thể là sự
xuất hiện "liên bang" của 12 chi tộc và chọn Sichem làm
thánh đền trung tâm. Tuy nhên, hệ thống 12 chi tộc là
chuyện về sau và thời Thủ Lĩnh chưa có đền thờ trung tâm.
Theo de Vaux, Josué và các nhóm đến với ông từ Đông
Jordan, khi tới Sichem đã truyền bá niềm tin vào Javé cho
những nhóm cùng chung một nguồn bộ tộc đã từng định cư
ở phía Bắc và chưa hề xuống Ai cập. Đại hội Sichem tạo đà
cho Zabulon và Nepthalie nổi lên chống các chủ nhà
Canaan trước khi tạo điều kiện để có được chiến thắng của
Baraq và Débora (Tl 4-5).
Khi Josué mất, quãng 1200, Israel chia làm 3 miền,
bị cắt ra bởi những thành có thế lực của Canaan : Geser và
Jérusalem giữa các chi tộc miền núi, Juda và Ephraim,
Mégido, Taanak, Beth-Shean giữa các chi tộc miền trung và
xứ Galilée.
30
lạ kỳ, để nêu bật ý quan phòng. Thiên Chúa ở khắp nơi đối
với ai biết nhìn.
Tác giả là ai ? Chỉ biết ông viết khi Salomon còn
sống.
31
Muốn định gía trị lịch sử cuốn sách, phải xét thể
loại văn học và tuổi các truyền thống. Càng xưa, càng gần
sự kiện, càng có giá trị. Các nguồn đó đôi lúc không những
cho ta biết về các biến cố, mà cả về ấn tượng chúng để lại
trong ký ức quần chúng và suy tư tôn giáo mà chúng gợi
lên. Lịch sử phàm tục không thể thêm gì lắm vào những dữ
kiện của cuốn sách. Ai Cập và Assyri lúc này còn ngủ. Sự
kiện đó giúp Đavit thành công, nhưng lại làm ta thiếu đi
những yếu tố vềỳ đồng đại (synchrorisme) cho phép thiết
lập một niên đại chính xác. Chỉ có thể có những niên đại
phỏng chừng : khoảng 1030 : Saul lên ngôi ; giữa 1010 -
970 : vương triều Đavit. Khảo cổ học giúp một ít. Nó nêu
bật nền văn minh Philitin, sự gắn bó của họ với Urète,
Chypre, việc họ nhập cư ở đồng bằng giữa Gaza và Eqron
thế kỷ XII. Những cuộc khai quật Tell el - Foul, 6 Km về
phía Bắc Giêrusalem, đã đưa ra ánh sáng những tàn tích của
chiến lũy Israel xưa nhất, có thể là của Saul. Vài bức thành
phòng ngự lên tận thời Đavit chống Philitin.
Chính cuốn sách là nguồn sử liệu tốt nhất. Lịch sử
việc kế vị Đavit là hàng đầu. Những trình thuật khi hào
hùng, khi bi thảm hoặc hài hước làm nổi bật rất sớm việc
vua được lòng dân.
Nhân vật Samuel thì khó mà xác định. Vì nhiều
trình thuật khác nhau về ông, người ta nhận ra dấu ấn của
ông trong kí ức của dân gian. Người ta thích đặt đối lập các
chân dung của ông : Nazir, thủ lĩnh có uy tín, thẩm phán,
với chân dung ông được cho là chân thực vì ít có xu nịnh,
với tư cách là "người được thiên nhãn" (le voyant) ít được
biết tiếng ở một làng nhỏ (1 S 9). Ngày nay, có khuynh
hướng gắn ông với dòng Thủ Lĩnh.
Hồi này, vì thiếu nhất quán về chính sách, nên là
cơ hội cho mối đe dọa Philitin nghiêm trọng hơn. Truyện
Khám là một chứng có giá trị : họ tiến sâu vào miền núi
Benjamin và Ephraim. Bia ở Gibéa (10,6) cho thấy họý
chiếm cứ miền đất Israel vốn đã cư ngụ vững vàng. Mối
nguy làm bừng tỉnh tinh thần quốc gia : các chi tộc liên kết
32
lại dưới một quyền chỉ huy duy nhất. Đó là gốc của nền
quân chủ. Tuy nhiên, vẫn luôn luôn có khuynh hướng chống
đối nền quân chủ.
Về vương quyền Saul, ý kiến đánh giá khác nhau.
Trận thắng người Ammon giới thiệu một nhà giải phóng
mới kiểu các Thủ Lĩnh. Việc tôn vua nhân cuộc họp ở
Gilgal (11,15) có thể thuộc một bối cảnh lịch sử khác. Việc
chỉ định và tung hô bởi đại hội các chi tộc (10,17-24) dường
như đánh dấu tuyệt đỉnh sự thăng tiến của Saul và biểu thị
một trật cả sáng kiến của Thiên Chúa cả ý thức quốc gia
đang manh nha. Vương quyền xuất phát do sự liên minh các
chi tộc. Một giao ước giữa dân với nhà vua được nhận làợ
thủ lĩnh duy nhất và thẩm phán tối cao. Chưa có cơ cấu
trung ương và thủ đô chính danh. Vua lúc đầu là một dũng
tướng, chung quanh có các dũng sĩ (1 Sm 14, 52). Cái căn
bản quốc gia đó và sự kiện có một quân đội thường trực là
những nhân tố đặc trưng cho một chế độ chính trị mới.
Chưa có vấn đề cha truyền con nối.
Vẻ thiêng thánh của vương quyền Saul, hiển hiện
nơi vai trò của Samuel hồi đầu, rồi qua cuộc tranh chấp làm
vị ngôn sứ và nhà vua đối lập nhau. Saul đã được xức dầu.
Việc xức dầu làm vua thành một nhân vật thiêng thánh,
nhưng là một tôi tớ của Thiên Chúa quốc gia, Người có thể
truất phế vua : vua phải vâng theo một lệnh mà vị ngôn sứ
là người thông ngôn. Saul sùng đạo một cách chân thành (1
S 14 ; 31 vtt ; 37 vtt), nhưng vua lại đi tìm thỏa hiệp giữa lợi
ích chính trị với bổn phận nhà vua phải tôn trọng luật tôn
giáo khi dùng quyền. Do đó mà xảy ra những bi kịch cuộc
đời và thất bại. Saul cũng ý thức điều đó nên đâm bi quan,
mất tự tín và ra điên khùng. Vua hướng hận thù tới cậu
thiếu niên Đavit mà vua nhận làm người cận thân, làm phò
mã. Trận Gelboé, quãng 1010, Phlitin thắng. Ishabal con
của Saul lên ngôi không chút vinh quang ở bên kia Giodan,
trong khi đó, tại Hébron, Đavit trở thành vua Giuđa.
Bảy năm rưỡi sau, thanh thế Đavit rõ ràng. Quốc
gia thống nhất. Đavit là vua của Giuđa và cả Israel. Nhưng
33
sự thống nhất vẫn chưa trọn vẹn. "Nhà vua cai trị 33 năm
trên toàn cõi Israel và Giuđa" (2 S 5,5).
Những hành vi chính trị lớn của triều đại ít được
cuốn sách quan tâm. Công tác thứ nhất là chiến thắng
Philitin, đẩy họ về đất họ, sau này không hề dám có mộng
xâm lăng. Chiếm Giêrusalem là nhổ cái chốt ngăn giữa
Giuđa và Israel ; hòa ước với người Gabaon (21) nhằm
thống nhất nội bộ. Những cuộc chiến tranh bên ngoài :
chinh phục Ammon, Aram, Moab, Edom.
Giá trị tôn giáo cuốn sách hiển hiện ở những mức
độ khác nhau. Từ những tư liệu lịch sử, toát lên một tình
hình luân lý và tôn giáo của Israel vào đầu thời vương
quốc : những tục lệ sơ khai của một tôn giáo còn cổ lổ, như
thói nguyền rủa, việc xem bói, cầu đồng ; ý tưởng thô sơ về
sự tội, nhiều khi lẫn lộn với việc vô tình lỗi điều cấm ; khái
niệm sơ lược về sự chế tài của Thiên Chúa, có thể tự động
bùng nổ đánh xuống cả một nhóm... Có những nhân vật có
ý thức tôn giáo ngoại lệ, như Đavit (hào hiệp cả với kẻ thù,
ý thức về sự tội và thống hối, sự vâng phục Thiên Chúa).
Thời này, cũng bắt đầu có những qui chế hay sự kiện tôn
giáo sẽ có một ảnh hưởng lớn trên tôn giáo Kinh Thánh : tác
vụ ngôn sứ, chức tư tế Giêrusalem, vương quyền.
Trong chủ ý của những người kể, nguồn gốc
vương quyền chiếm vị trí hàng đầu và các truyền thống, các
ký ức lịch sử được sắp xếp bên trong một cái nhìn tôn giáo.
Nhà vua là một nhân vật thánh thiêng, được Thiên Chúa
chọn và là công cụ thực hiện ý định của Người nơi dân.
Nhưng quyền vua không thể vượt ngoài đòi hỏi của Thiên
Chúa, Thiên Chúa là Vua duy nhất của Israel ! Mà vị ngôn
sứ là người đại diện Thiên Chúa. Vị ngôn sứ ở đây là
Samuel, người tâm phúc của Thiên Chúa và người không
mệt mỏi thi hành ý muốn Người, dù là trong tuổi thiếu niên
ngây thơ và yên hàn, dù là trong vai người minh kiến
34
(voyant : thiên nhãn), hay trong những lần can thiệp gan góc
ngay giữa trận tuyến với Saul. Như Môsê, ông trở thành
người cầu bầu được Thiên Chúa nghe lời.
Suốt trong dòng lịch sử thánh, niềm tin vẫn luôn
luôn có giá trị hơn mọi nghĩa vụ khác (Abraham tin... Saul
không tin...). Truyện Saul được coi là tương phản với truyện
Đavit. Sách Sử Biên Niên chỉ còn giữ lại kí ức về cái chêtỵ
của vua (1 Sbn 10) và tên tuổi vua không được nhắc đến
trong Tv 78 và Giảng Viên 46,13 vtt. Đavit nên bật lí tưởng
người làm vua theo lệnh Thiên Chúa : ký ức về ông là một
ông vua hoàn toàn tận tụy với Thiên Chúa và vâng nghe các
ngôn sứ, dù là khi họ khiển trách vua. Nơi vua, thực hiện
một lần nữa Giao Ước, dưới hình thái một vương quốc của
Thiên Chúa tên trần gian. Giữa cuốn sách, lời sấm của
Nathan mở ra một viễn cảnh tương lai về chế độ mới : Javé
liên minh dứt khoát với triều đại Đavit, mà con cháu được
Người nhận làm con nhằm thi hành quyền vua của Người
trên dân.
Như vậy là lịch sử Đavit có được một giá trị tiên
tri. Ngay giữa những giờ đau thương, các ngôn sứ phác vẽ
ngay trên các tai họa, hình ảnh lý tưởng về một hậu duệ của
Đavit (Is 9,1-6 ; 11,1-9 ; 16,5 ; Gr 23,5-6), một Đavit mới
(Gr 30,9 ; Ed 34,23-24 ; 37,24-25), Đấng được xức dầu của
Chúa, Đấng Messia. Khi Lưu Đày về, có một thời, người ta
dự đoán rằng việc tái thiết Đền thờ sẽ kết thúc bằng việc
phục hưng nhà Đavit và những hy vọng cứu độ trôi nổi
chung quanh Zorobabel (Dcr 6,12-13). Thất bại, nhưng
người ta vẫn không ngừng suy tư về những lời đã hứa với
Đavit (Tv 89 ; 132 ; Is 55,3-4 ; Gr 33,14-26 ; Dcr 9,9-10 ;
12,7 ; 13,1). Sách Sử Biên Niên đặt Đavit ngay giữa quan
điểm của mình : đó sẽ là ông vua lý tưởng của chế độ thần
quyền theo quan niệm tư tế, người ca tụng và tái tổ chứỤc
việc phụng tự. Sách Giảng Viên khi ca tụng Samuel và
Đavit, cũng kết thúc bằng một ghi chú về niềm hi vọng
(47,11).
35
Phải đợi Chúa Kitô đến, thì những giá trị sâu sắc
của những lời hứa với Đavit mới rõ ràng hoàn toàn. Chúa
Kitô loan báo Nước Thiên Chúa và chính Người khai
trương nó cách nhiệm mầu. Người dè dặt không xưng mình
là con cháu Đavit, nhưng lại để người ta tung hô mình là
"Con vua Đavit" (Mc 10,47-48 ; Mt 15,22 ; 21,9.15). Qua
việc sống lại và việc được tôn vinh bên cạnh Thiên Chúa,
Người tỏ rõ đặc tính cứu thế của mình. Từ đây, các môn đệ
sẽ không còn ngần ngại nữa khi chào Người là Đấng
Messia, và nhấn mạnh dòng dõi Đavit của Người (Mt 1,1 ;
Lc 2,4) và lới hứa với Đavit đã thực hiện nơi Người (Cv
2,30 ; Dt 1,5).
Cuối cùng, chính vì ý nghĩa của nó trong lịch sử
cứu độ mà truyện Đavit được giữ lại trong Kinh Thánh.
Đavit được nhớ đến vì ông được hướng tới việc thực hiện
Nước Thiên Chúa, nơi Đức Giêsu Kitô.
Chỉ cần rảo qua cuốn sách là thấy được nét nổi bật
đặc thù của nó. Trên cái nền những tiểu sử tóm tắt độc điệu
của các Vua, nổi lên những trình thuật dài dòng hơn, lí thú
hơn, như lịch sử Salomon, Elie, Elisée. Tuy tính cách văn
học đa tạp làm cho cuốn sách có phong đô của một sưu tập.
Nhưng một kết cấu chặt chẽ áp đặt cho toàn bộ do những
công thức giống nhau được lặp lại và những chủ đề giáo lí
rất xác định trong bài dẫn nhập cũng như trong phần kết
thúc mỗi triều đại, cũng như qua những suy niệm gợi lên
bởi các biến cố. Kết cấu đó cho thấy cuốn sách có tính nhất
quán chặt chẽ.
Các tiểu sử các vua được đúc trong một khuôn như
nhau, nhất là từ Roboam mà đi. Nhân vật được giới thiệu
thế này : "Roboam con của Salomon trở thành Vua Juđa,
ông được 41 tuổi khi lên ngôi và trị vì tại Jérusalem 17
năm...tên mẹ vua là Naama, người Ammon.Vua làm điều
xấu trước mặt Javé" (14,21-22). Và đây là kết luận : "kỳ dư
các việc của Roboam, tất cả những điều ông làm, há lại đã
không chép trong sách kí sự của các vua Juđa sao ?...
38
Roboam đã nằm xuống với tổ tiên và được tống táng với
cha ông trong thành Đavit. Abiyam, con ông, đã lên làm vua
kế vị ông" (1V 14,29-31). Những công thức đó được lặp lại
cho mỗi vua, dường như có mẫu cất sẵn. Phần kết thường
nói đến cuốn sách phải tra cứu để biết rõ chi tiết hơn về cái
chết việc tống táng...Nếu vua sau không phải con của vua
quá cố, thì không nêu tên. Mặt khác, lời dẫn nhập không
những nêu tên vị vua, nhiều khi cả tên vua cha, thời gian trị
nước và một phán đoán về hạnh kiểm vua, mà còn nói đồng
thời vua nào cai trị ở nước láng giềng. Cũng có một vài
ngoại trừ, do những điều kiện đặc thù về việc lên ngôi và
cái chết của một vua : Joram và Ochozias, bị Jéhu ám sát,
hay là những vua bị kẻ thù truất phế. (Như Osée của Israel,
Joachaz, Joiaqim, Sdécias). Chỉ có Jéhu tự giới thiệu đủ để
khỏi dẫn nhập như thường lệ ; và truyện Athalie cũng chả
cần dẫn nhập hay kết luận (2 V 11).
Chủ ý của tác phẩm biểu lộ rõ hơn nơi những phán
đoán về mỗi Vua. "Ông làm điều xấu trước mặt Javé" câu
kết án chung đó luôn luôn được minh định bởi lời khiển
trách là gắn bó với tội của Jéroboam, tức là tội thờ Javé
dưới hình con bò ở những thánh đền Béthel và Dan. Lại
thêm tội Achab, là tội thờ Baal vì chịu ảnh hưởng của
Jézabel (1 V 16, 31-32 ; 22, 53-54). Đó là về các Vua phía
Bắc. Về các vua Giêrusalem, cũng có những vua "làm điều
xấu trước mặt Javé" : đây là việc thờ ở những cao đàn, hay
những thánh đền tỉnh lẻ, được kể như bắt chước dân ngoại
(1 V 14, 23) hay là theo thói tôn giáo của nhà Achab (2 V
8,18 ; 8,27) hay là thờ những thần ngoại (2 V 21,2 vtt, 22-
23). Về nhiều vua, sách nói : "Ông làm điều ngay thẳng
trước mặt Javé", nhưng thêm : "Có điều là các cao đàn vẫn
không mất, dân vẫn tiếp tục dâng lễ vật và hương ở những
cao đàn" (1 V 15, 11-14 ; 22,43-44 ; 2V 12,3-4 ; 14, 3-4 ;
15,3-4.34-35). Chỉ có hai vua Ézéchias và Josias đáng được
lời ca tụng tốt nhất : "Ông làm điều ngay thẳng trước mặt
Javé, và trong mọi sự, ông bắt chước cách ăn ở của Đavit tổ
tiên ông". Như thế mọi lời phàn nàn đều qui về việc thờ các
39
thần ngoại, việc thờ Javé dưới dạng đáng ngờ thông dụng
tại Béthel và Dan, hoặc chỉ nguyên việc thờ trên các cao
đàn, tức là những đền thánh Javit khác với Đền thờ
Giêrusalem. Rõ ràng là các vua được định giá căn cứ qui tắc
của Đnl : "Một Thiên Chúa duy nhất, một Đền thờ duy nhất.
Chính Đnl ban hành luật một Đền thờ duy nhất, truyền phá
hủy mọi nơi thờ phượng khác, thiết lập độc quyền về Đền
thờ và chức tư tế Giêrusalem" (12). Việc tập trung phượng
tự tại Giêrusalem chưa thực hiện trước thời Josias. Salomon
có lẽ để được biện minh, là vì hồi đó chưa có Đền thờ.
Nhưng tất cả các vua khác, cả những vua tốt nhất, đều có
vết nhơ. Khi đọc sách tìm được trong Đền thờ, Josias kêu
lên : "Cơn giận Javé đã nổi lên đối với chúng ta thật là lớn
lao, bởi vì cha ông chúng ta đã không vâng nghe những lời
của sách này mà làm mọi điều phải làm" (2 V 22,13). Đnl
còn vạch ra rằng Samarie bị phá hủy, thì không chỉ vì tội
Jéroboam ngăn dân đến Đền thờ Giêrusalem, mà còn vì tội
đem những thần ngoại kết hợp với Javé và dựng những Đền
thờ khắp nước. Salomon bị phạt cũng vì đó.
Sách Các Vua lấy việc đánh giá các vua dưới ánh
sáng Đnl làm điều chính yếu, đến nỗi phớt đi hầu như tất
thảy những điều ở sử đời nói đến. Những triều đại quan
trọng như triều đại Omri và Jéroboam, cũng chỉ giản lược.
Đâu có lợi ích tôn giáo, mới kể dài dòng : lịch sử Salomon,
người xây Đền thờ ; chuyện chia hai vương quốc từ đó các
chi tộc phía Bắc lìa khỏi Đền thờ ; chuyện Elie và Elisée là
chuyện đấu tranh chống tội Achab và việc thờ Baal ; việc
chấm dứt thói thờ phượng đó ở Giuđa bằng cái chết của
Athalie, việc bảo trì Đền thờ bởi Josias, những đổi mới đưa
vào Đền thờ bởi Achaz ; những biện pháp của Ezéchias
chống các cao đàn và quan hệ vua với ngôn sứ Isaie ; việc
khám phá luật và cuộc cải cách do Josias. Cuốn sách luôn
bắt ta chú ý tới Đền thờ và những ngôn sứ đấu tranh chống
lại ngoại giáo thuyết. Đnl vốn đã có đối tượng đó.
Tuy nhiên, ảnh hưởng Đnl không đủ cho ta thấy
tính nhất quán giáo lý. Vai trò nhà vua không giống vai trò
40
trong Đnl. Nhà vua chịu trách nhiệm về sinh hoạt phượng tự
của Israel. Vua phải trông coi việc giữ luật Môisê. Và tội
nhà vua phải phạt bằng sự sụp đổ của hai vương quốc và
dân bị lưu đày.
Hơn là một lịch sử, cuốn sách là một lời giải thích
lịch sử dưới ánh sáng giáo huấn Đnl. Ý đồ cuốn sacỤh là
chứng tỏ rằng, trong thời kỳ vương quyền, một loạt những
bất trung đối với việc thờ Thiên Chúa chân thật và những
đặc quyền của Đền thờ Người, đã đưa đến cảnh hai vương
quốc mất, mặc cho bao cố gắng của các ngôn sứ và một số
vua. Không phải Thiên Chúa bất trung, mà dân bất trung.
Tính nhất quán của cuốn sách không che giấu được
việc có nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Bản dịch Hy lạp cho
rằng bài thơ vắn của Salomon 1V 8, 12-13 là mượn ở "Sách
Ca vãn". Các công thức kết thúc kể ra ba tác phẩm có thể
các tác giả đã sử dụng : "Sách những hành vi của Salomon",
"Sách biên niên sử các vua Israel", "Sách biên niên sử của
các vua Giuđa". Đây không phải là những biên niên sử
chính thức của triều đình, được bảo tồn trong các kho lưu
trữ, người dân thường không thể tiếp cận. Đây là những
công trình tư nhân, do những người có thể tra cứu các kho
lưu trữ nhà vua. Sau những hành vi bên ngoài của mỗi triều
đại, có người ghi chép lại thành từng tập. Người hay những
người biên tập sách các vua phải là đã lấy ở đó những chỉ
dẫn và những sự kiện chính xác về tiểu sử mỗi vua. Nhưng,
căn cứ những đặc thù về văn phong và tinh thần, người ta
cũng nhận ra suốt trong tác phẩm những tập hợp văn học đã
có trước. Vì thế, ta phân tích theo thứ tự cuốn sách, đồng
thời xem xét giá trị lịch sử và tôn giáo.
1. Lịch sử kế vị Đavit (tiếp theo, 1V 1-2)
Hai chương đầu kể tiếp chuyện hoàng gia Đavit,
do một người đồng thời với Salomon viết và được lặp lại ít
41
ra từ 2Sm 9. Những đoạn này được tách ra để làm dẫn nhập
cho lịch sử Salomon. Di chúc của Đavit đã được nhuận sắc
chút ít (1V 2,3-4) chúng ta đã biết những tính chất văn học
và lịch sử của trình thuật này rồi. Nếu những lời cuối cùng
của Đavit và việc Salomon thi hành những lời ấy có làm ta
thấy chướng, thì chúng ta đừng quên rằng các ông thuộc
thời đại của các ông. Họ chia sẻ những tư tưởng thời mình
là phải báo thù cho máu đã đổ và ngăn chặn những lời chúc
dữ khỏi thành sự thực bằng cách làm chúng quặt lại trên
chính người đã phun ra chúng. Lòng đại độ của Đavit lúc
sinh thời đối với kẻ thù của vua, chỉ xem ra là một trường
hợp ngoại lệ hơn thôi.
2. Lịch sử Salomon (1V 3-11)
Tác giả chú ý giải thích việc Salomon đã tế tự trên
các cao đàn (3, 2-3), kể rõ việc xây đền thờ (8,14-16) và
hình phạt vì những lỗi của Salomon (11,1-13 ; 32-38). Kết
thúc, tác giả bảo xem sách "những hành vi của Salomon" để
biết nhiều điều hơn. Chắc là tác giả đã nhờ nhiều lắm ở sách
này : sao chép ở đó nhiều tư liệu chính thức. Đó là những tư
liệu rất quí cho ta biết chính sách của Salomon, nhưng cũng
cho thấy mần mống chia rẽ thành hai vương quốc là do
Giuđa được hưởng ân huệ hơn. Các nguồn tư liệu cuốn sách
dùng rất có giá trị. Việc biên tập chắc là không lâu sau khi
Salomon mất. Nó chứa những dữ kiện chính xác, rất lý thú
về lịch sử, về những đồn lũy xây cất nhằm bảo vệ xứ sở, về
đội thương thuyền, về những đoàn xe ngựa vận tải, về của
hồi môn mà công chúa của Pharaô mang về, cung điện tại
Giêrusalem và những Đền thờ cho các cung phi thờ thần.
De Vaux nhận xét đúng về triều đại Salomon : "Đây là thời
tĩnh, sau thời sôi động trước đó, khi thiết lập nền quân chủ.
Từ đây, người ta gìn giữ, người ta tổ chức, nhất là người ta
khai thác." Không phải chinh phục, nhưng phải bảo vệ.
Aicập sau một cuộc xuất chinh miền duyên hải đành giao
ước hơn là chiến tranh, đánh dấu bằng một vụ hôn nhân.
Khảo cổ học đã minh họa bản văn về điểm đó : Người ta
khám phá ra những đồn lũy thờ Salomon tại Megiddo,
42
Haìor và Gézer, những "thành kho chứa". Người ta khám
phá ra Eìyon-Géber, ở cực Bắc của vịnh Aquaba : 1 thành
phố kỹ nghệ và hải cảng, những lò nung lò luyện đồng và
sắt. Của cải tràn trề, nhưng bị nuốt chửng bởi những chi tiêu
của một triều đình xa hoa và một kế hoạch xây dựng đồ sộ.
Truyện vụ nổi loạn của Jéroboam thật có ý nghĩa về mặt đó.
Các ngôn sứ trong khi chỉ cho thấy sự chia cắt sau đó là hệ
quả của những lỗi lầm của nhà vua, đã giải thích ý nghĩa tôn
giáo của một sự kiện mà ngay nhà sử học phàm tục cũng
nhận ra. Jéroboam là người Bắc và là cai lao dịch ; vậy mà
các chi tộc phía Bắc rồi ra tách lìa khỏi nhà vua ở
Giêrusalem vì vua đặt ách quá nặng trên vai họ. Vụ nổi
loạn của Jéroboam cuối cùng đưa Israel tới thảm họa, nhưng
đó là hình phạt những lạm dụng của Salmon : người Israel
bất mãn vì những gánh nặng mà người Giuđa được miễn.
3. Lịch sử li khai (1 V 12-14)
Lịch sử này hẳn là nhờ nhiều ở các biên niên sử
của các vua Israel (14,19). Vì thế, theo 12,1-20, các lỗi lầm
đều ở phía Roboam. Trình thuật cho thấy rõ tính chất nhị
nguyên của nền quân chủ : con của Salomon thì dễ được
Juđa chấp nhận, nhưng ông còn phải được các chi tộc phía
Bắc thừa nhận nữa, mà các chi tộc này thì không dễ tán
thành lối cha truyền con nối như Juđa. Họ đòi giảm nhẹ
gánh nặng. Thế là sự thiếu kinh nghiệm chính trị và tính
ngoan cố của Roboam làm nên nông nổi : không được như
ý các chi tộc phía Bắc chọn Jéroboam làm vua.
Tác giả cuốn sách lưu ý hơn tới li khai tôn giáo
theo sau đó(12,26-33). Trình thuật về chuyện này cho thấy 1
quan điểm Juđa. Thật ra, các chi tộc Bắc vốn không gắn bó
gì với Giêrusalem và Đền thờ ở đó, từ lâu họ vốn tôn kính
các Đền thờ ở Béthel và Dan và việc dùng những hình
tượng phượng tự có thể được một truyền thống nào đó cho
phép. Nhưng khi biểu trưng Javé dưới hình một con bê, là
con vật thánh thiêng của Baal ở Canaan, thì tức là Jéroboam
đã khuyến khích sự du nhập thói thờ cúng ngoại giáo.
43
Hai trình thuật lên án những điều mới lạ đó, có thể
là xuất xứ từ một sưu tập truyền thống ngôn sứ nào đó : một
người của Thiên Chúa chúc dữ bàn thờ Béthel (12,33-
13,33) và lời sấm của Ahiyya chống Jéroboam (14,1-8).
Bằng việc chọn tư liệu và giải thích tư liệu, Sách
Các Vua tố cáo quyết định nguy hại của Jéroboam : là tách
lìa khỏi nhà Đavit và khỏi Đền thờ Giêrusalem và việc đó
chỉ có thể đưa Israel tớỤi chỗ diệt vong. Đó là "tội của
Jéroboam" mà các vua kế tiếp làm vững chắc thêm. Không
hề lưu ý đến sự nghiệp chính trị của một con người mà
vương quốc của ông đứng vững được 200 năm.
4. Hệ Elie
Những truyện về Elie được đóng khung bởi những
truyện dành cho 2 vua Achab (16,29-30 ; 22,29-40) và
Ochozias (22,52-54 và 2V 1,17-18). Tác giả bảo xem biên
niên sử các vua Israel để biết rõ hơn, nhưng những điều ông
kể không lấy từ nguồn đó. Người ta phân biệt hai nhóm có
thể cùng gốc : những truyện về Elie, kẻ thù mạnh mẽ của
Achab và Ochozias và truyện các cuộc chiến tranh chống
Aram được kể là do Achab (20 ; 22,1-38), chú ý nhiều hơn
đến Achab mà không nhắc đến Elie. Văn phong rất đặc sắc :
tài quan sát, tâm lí tinh vi, tính khách quan của tác giả. Mưu
mẹo rồi sự tự hào của Achab trước những nhục nhã mà
Benhadad định bắt vua chịu, sự mê tín của người Aram sợ
thần núi, nên tìm cách đánh ở đồng bằng, rồi họ tin tưởng
vào lòng thương xót của các vua Israel : tất cả được viết thật
lí thú (20). Chương 22 là một bi kịch nhiều cảnh ăn gắn chặt
chẽ : việc hỏi ý những ngôn sứ nịnh vua ; Michée can thiệp,
đầu thì mỉa mai, sau thì đe dọa ; thất bại của Achab. Những
trình thuật đó không thể được viết lâu sau biến cố. Đúng là
lịch sử sinh động. Khó mà nhận thấy một tinh thần truyền
thống bình dân nào ở 20,35-43. Cho nên giá trị lịch sử rất
lớn. Tác giả nghĩ như ngôn sứ Michée rằng Javé đã quyết
định sự thất bại của Achab ; nhưng ông vẫn trình bày vua
như một người chín chắn, một dũng tướng bảo vệ nền độc
lập quốc gia, tôn trọng Javé và ngôn sứ Người. Có những
44
ngôn sứ sống quanh vua và hậu thuẫn vua về chính trị. Chi
tiết đó cần ghi nhớ để hoàn thành bức tranh lộn xộn về tôn
giáo thời Elie. Chỉ có một mình ngôn sứ Michée có gan tách
mình khỏi những người được linh hứng khác.
Về Elie, nhiều mảng được thêm vào sau trình thuật
lớn 17-19,21. Suốt cơn đại hạn ba năm, Elie được nuôi sống
cách lạ ở khe Kerit bên kia Giodan, rồi tại Sidon, đất
Sarepta, nơi nhà một bà góa mà ông làm phép lạ cho bột và
dầu không cạn, và cho con bà chết rồi sống lại. Sau đó, ông
đến trình diện Achab là người từng cho đi tìm ông khắp các
miền, ông tổ chức cuộc thử thách long trọng trên núi
Carmel, có mục đích định rõ ai là Thiên Chúa, Javé hay
Baal. Một mình ông đương đầu với 450 ngôn sứ của Baal.
Lửa trời cho thấy ông đúng. Đại hạn hết. Nhưng việc Elie
giết các ngôn sứ của Baal chọc tức Jézabel. Ông phải chạy
trốn tận hoang mạc Bersabée. Thất vọng, nhưng được sức
mạnh trên ggiúp, ông tới Horeb, trực tiếp Thiên Chúa sống
đã từng hiện ra với Môisê, và cho ông nhận ra Người trong
một làn gió nhẹ. Lệnh cho ông phải xức dầu Hazael làm vua
Damas, Jéhu làm vua Israel và Elisée làm ngôn sứ thay ông.
Ba nhân vật này sẽ thi hành án phạt Israel nhưng Javé đã
giữ lại cho mình bảy ngàn người đã không quì gối trước
Baal (19,1-18). Từ Horeb về, ông kéo Elisée theo.
Xem cấu trúc của toàn bộ câu chuyện, cho thấy đã
có những yếu tố sẵn trước. Những tư liệu về lai lịch Elie chỉ
là tản mạn không đầy đủ. Về Elisée cũng vậy. Hình thái
hiện có của các trình thuật được biết ở vương quốc Bắc,
quãng năm 800, hồi đó ký ức về hai nhân vật của thần linh
đó còn sống động. Không đặt vấn đề xác định tiểu sử, chỉ
cần thức tỉnh niềm tin Israel và kéo dài sự làm lay chuyển
các lương tâm như vị ngôn sứ đã làm. Tinh thần một Môisê
đã nổi dậy nơi vị ngôn sứ này. Vinh quang của ông là kể
mình như một người tôi tớ trước mặt Javé (17,1 ; 18,15).
5. Hệ Elisée
Câu chuyện Elie biến mất, thực tế mở đầu chuyện
Elisée. Nó cho thấy ông là người độc nhất thân thiết với
45
Elie và chứng kiến cuộc Elie được đem đi cách lạ lùng, và
vì thế ông đúng là người thừa kế tinh thần của Elie (2V 2, 1-
18). Những sự lạ Elisée làm được kể lại nhằm chứng tỏ
"người của Thiên Chúa", và bày tỏ quyền năng Thiên Chúa
có thể cứu dân. Nhưng những câu chuyện vắn tắt này cũng
minh họa tính nhân hậu của một con người. Trong hai trình
thuật dài hơn, Elisée xuất hiện đồng hành với Gehasi, một
môn đệ. Đây là chuyện người đàn bà Shunamite, đứa con
không hy vọng có mà có, cái chết nhanh chóng của nó :
Gehasi bất lực. Còn Elisée làm em sống lại. Gehasi lại xuất
hiện trong chuyện Naaman (5). Hình ảnh Elisée càng nổi.
Một loạt trình thật khác cho thấy Elisée can thiệp
vào chính trường. Chương 6,8-23, người kể ít chú ý đến
cuộc chiến với người Aram, chỉ nhằm làm bật nổi những cái
kỳ lạ vị ngôn sứ làm. Những trình thuật khác có nhiều thông
tin có giá trị lịch sử. Trong cuộc chiến liên minh với Giuđa
và Edom chống Moab (3,4-27), ông đi theo quân đội để
thỉnh ý Javé. Vua Moab là Mésha dựng bia ghi lại việc
chống nhà Omri. Ở 6,24-7,19, Elisée bênh vực chính nghĩa
Israel trong cuộc người Aram bao vây Samarie. Theo 8,7-
15, Elisée can thiệp mãi tận Damas nhằm ủng hộ việc lên
nắm quyền của Hazael, mà ông cho là công cụ Thiên Chúa
dùng chống nhà Achab. Theo 9,1-13, ông xức dầu Jéhu làm
vua Israel, chấm dứt triều đại Omri và việc thờ Baal tại
Samarie. Một trình thuật cuối cùng là về những vua kế tiếp
nhau tại Israel và Giuda giữa cuộc nổi loạn của Jéhu và cái
chết của Elisée (13,14-21). Tuy ốm, ông vẫn can thiệp vào
chính sự đương thời, Joas, vua Israel cậy dựa vào ông hơn
vào xa mã quân binh.
Như thế các trình thuật về Elisée tỏ ra ít thuần
nhất. Tuy làm thành một sưu tập, nhưng thể loại và nguồn
gốc các trình thuật khác nhau không cho phép nó có được
một tính nhất quán chặt chẽ. Chắc hệ trình thuật về Elisée
này hình thành ở vương quốc phía Bắc, do đó trước 721.
Cái lý thú của loạt trình thuật này là ở tính đa tạp
của nó. Dù phát xuất từ truyền thống bình dân, từ một nhà
46
sử học tích cực ghi lại sự nghiệp nhà ngôn sứ hay từ một
nhà biên niên sử thông thạo, thì mỗi chứng từ đều tỏ lộ một
khía cạnh nào đó của chân dung ông, đôi lúc lạ kỳ, và của
ảnh hưởng của ông sau khi ông đã chết. Elisée dây mình
vào chính sự nhiều hơn Elie. Tuy đối lập với Achab, ông
vẫn bênh vực chính nghĩa Israel. Hoạt động của ông chằm
duy trì quan hệ giữa Israel với Javé.
Một điều lý thú khác về lịch sử và tôn giáo : các
truyền thống về Elisée phản ánh sinh hoạt của những nhóm
"ngôn sứ" đã từng gặp thấy chung quanh Samuel. Ta thấy
họ không phải đang lúc họ hội họp, sinh hoạt tập thể ,
nhưng là trong cuộc sống thường nhật của họ, họ thực hành
một kiểu sống tập đoàn nào đó, tuy cơ cấu chưa có gì chặt
chẽ, họ ăn chung với nhau và sống khó nghèo. Sinh hoạt tôn
giáo của họ không thấy nói đến, nhưng họ phải đã làm
thành một trung tâm niềm tin Javit đơn giản nhưng bền bỉ.
Nơi tập kết của họ là sông Giodan ; con sông này cho mãi
tới phái Esséniens, Gioan Tẩy giả và các thánh tu rừng,
không ngừng thu hút những người của Thiên Chúa.
6. Những tiểu dẫn về Joas (2 V 12) và Achaz (16)
Được phong phú nhờ những tường thuật về việc
Joas sửa sang đền thờ và những thay đổi mà Achaz thực
hiện nơi bàn thờ.
7. Trong triều đại Ezéchias (18-20)
Có thêm vào một mảng văn học dành cho ngôn sứ
Isaie. Ba trình thuật kể lại quan hệ giữa nhà vua và vị ngôn
sứ hồi có cuộc xâm lược của Sennachérib (18,13-19), trong
một lúc nhà vua bị bệnh (20,1-11) và khi có một phái đoàn
nhà vua gởi tới Babylone (20,12-19). Mảng này gặp thấy
trong sách Isaie 36 - 39, có đôi chút dị biệt. Sách Isaie
mượn của sách các vua, còn sách các vua thì lấy ở những
nguồn tư liệu khác nhau. Một vài câu (18,13-16), nhắc qua
việc vua Assyrie tấn công, và Ezéchias nộp một số tiền để
thoát nạn. Bản văn này phù hợp với biên niên sử Assyrie.
Tiếp đó, ta thấy hai trình thuật lẫn lộn nhau kể lại
cũng một loạt sự kiện : Một phái đoàn Assyrie đến bức
47
Giêrusalem đầu hàng, một lời nguyện của Ezéchias ở đền
thờ, một lời sấm của Isaie làm vua vững dạ và việc
Sennachérib bỏ đi (18,17-19, 9a+36-37 và 19,9b-25).
48
Chúng ta đã nhận thấy rằng tác giả đã hy sinh
những chi tiết lịch sử "đời" có lợi cho mình, để chú tâm vào
Đền thờ và các ngôn sứ. Sau đây, chúng ta sẽ thấy những tư
liệu lịch sử có giá trị đó lại được khảo cổ học và các bản
văn các dân ngoại mà hai vương quốc từng tiếp xúc bổ sung
cho.
1. Những tư liệu văn khắc song song
Trước đây, chúng ta đã nhắc tới bia Mésha (C. U.
Dẫn nhập : khung cảnh lịch sử của Kinh Thánh, giáo trình,
trang 23, số 1). Cuộc xuất chinh của pharaon Sheshonq I
sang Paletine, vào năm thứ 5 đời vua Roboam (1V 14, 25 -
28) cũng được chứng thực bởi một bản liệt kê cách thành
chiếm được, được khắc trên tường Đền thờ Amon ở
Kalnak. Ngoài sự kiện ngoại thường đó, Ạicâp đã mâtỵ thế
lực xưa kia, nên không có cơ hội can thiệp vào Paletine nữa.
Trong một thời gian dài, những vụ tranh chấp đã đặt Israel
đối lập với vương quốc Damas, mới khai sinh thời Salomon
và đã nhanh chóng trở thành mạnh nhất vùng Syrie. Nhưng
các văn khắc Aram vốn họa hiếm cũng không cho biết gì
lắm về đề tài này. Damas, Israel và các quốc gia Syri-
Paletine đều phải sụp đổ dưới thế lực của đế quốc mới là
Assyrie, từ thế kỷ IX mà đi. Đế quốc này rồi ra sẽ bị thay
thế bởi đế quốc Babylone vào cuối thế kỷ VII. Các sách vở
Assyrie, rồi Babylone làm thành một nguồn tư liệu có giá trị
nhất cho toàn thiên sử này. Chúng ta thấy những danh sách
các nhân vật quan trọng, mà tên tuổi được dùng để chỉ năm
tháng, những danh sách các vua Babylone, một danh sách
cùng thời ghi trên hai cột các vua Babylone và Assyrie. Có
những biên niên sử viết thời Tân-Babylone, tóm lược những
sự kiện lớn lịch sử Lưỡng hà, với những niên đại đôi lúc
tương đối, chẳng hạn : một biên niên sử từ 745 đến 668,
một từ 680 đến 625, một từ 616 đến 609, cuối cùng một từ
626 đến 593 nhắc đến cuộc vây hãm Giêrusalem lần một
bởi Nabuchodo- nosor. Các vua thường cho khắc trình thuật
những sự nghiệp hiển hách của họ, và nếu là những chiến
dịch vùng Syri-Paletine thì có thể có những tư liệu song
49
song đối chiếu với các dữ liệu Kinh Thánh. Như thế những
tư liệu song song này bổ sung cho những dữ kiện Kinh
Thánh và minh định niên đại của thời vương quốc.
2. Vấn đề niên đại
Thoạt nhìn, cái khung niên đại của các vua xem ra
rõ ràng. Chẳng hạn : "năm thứ 18 đời vua Jéroboam,
Abiyyam trở thành vua của Juđa ; ông trị vì 3 năm tại
Giêrusalem" (1V 15,1-2). Nhưng thực ra hai loạt niên đại đó
không phù hợp nhau (mỗi loạt thuộc một vương quốc).
Cộng các con số từng bên lại thì hầu như bằng nhau, tư khiợ
chia thành hai nước cho đến Samarie đổ là 260 năm theo
những niên đại tuyệt đối, 258 năm theo các biên niên sử
đồng đại (syncoronismes) ; nhưng trong chi tiết người ta
gặp thấy những dị biệt rõ ràng chẳng hạn Amasias đã trị
nước 29 năm, nhưng sử đồng đại thì nói 40 năm. Nhiều nhà
phê bình cho rằng các sử đồng đại là muộn và nhân tạo,
nhưng nếu có những sử đồng đại về các vua Babylone và
Assyrie lên đến tận thế kỷ 12, tại sao không có như vậy ở
Israel ? Mặt khác, các dữ kiện tuyệt đối cũng có những điều
bất ngờ : đem cộng các dự kiện đó trong cùng một thời kỳ ở
Israel và ở Juđa thì kết quả lại khác nhau. Chẳng hạn, từ cái
chết đồng thời của Jéram, và Ochozias do Jéhu, cho đến
Samarie đổ, người ta tính được 143 năm và 7 tháng ở Israel,
còn ở Juđa là 165 năm. Hơn nữa, những con số đó không
hợp với những dữỳ kiện của các văn khắc Assyrie, ở đây
tính cũng thời kì đó là 121/122 năm. Giải thích những dị
biệt đó không dễ : nhiều nguyên nhân đã gây nên tình trạng
bối rối của nhà biên tập Kinh Thánh. Có thể là lịch dùng ở
Bắc và ở Nam không như nhau, lại cũng trong một vương
quốc mà thời này khác thời khác lại khác : tính năm bắt đầu
từ năm mới thao sau việc lên ngôi (hệ Assyrie) hay từ năm
mới của đi trước việc lên ngôi (Ai cập), năm chót của một
đời vua và năm đầu của vua kế tiếp có tính thành một năm
không ? Rồi năm mới là mùa xuân (hệ Babylone và lịch tư
tế) hay mùa thu (ở Israel trong một số thời kỳ). Mặt khác,
chúng ta biết có một thời gian hai vua cùng cai trị (co-
50
régence) : Osias bị bệnh cùi, trao quyền trị nước cho con là
Jotham (2V 15,5). Có thể có những ca tương tự nữa. Sau
hết, phải tính đến những thiếu chính xác về tư liệu, những
hiệu đính về sau...
Để thiết lập một niên đại, nhà sử học chỉ có cách là
trứơc hết em các bản văn Assyrie, Babylone và minh định
năm tháng của một số sự kiện chung cho cả Lưỡng hà lẫn
Paletine. Có thể coi những niên đại sau đây là chắc chắn.
Sai số một năm là cùng :
-853 : tại Qarqar, trên sông Oronte, Salmanasar III
thắng một trận trên nhiều vua Syrie-Palestine, trong đó có
Achab vua của Israel.
-841 : cũng vua đó nhận một triều cống của Jéhu,
có lẽ lúc vua này mới lên ngôi.
-738 : Ménahem triều cống cho Téglath
PhalasarIII.
-737 : Ménahem còn tại ngôi.
-722 : chiếm Samarie. Thời Sargon II, năm 720,
phát lưu 27290 người thay vào đó những người xứ y chinh
phục được, đười quyền một tổng trấn Assyrie.
-701 : chiến dịch của Sénnakérib tại Phénicie,
Philistie và Juđa
-610 : vua cuối cùng Assyrie bỏ Harran mặc cho
người Babylone. Chính vì để cứu viện vua, mà Pharao
Néchao II tiến quan lên phía bắc và đánh Josias tại
Mégiddo, vì vua này định chặn bước y.
-605 : Nabuchodonosor đánh Néchao II tại
Karkemis- và trở thành vua của Babylone. Đó là năm thứ
IV đời vua Joiaqim.
-15-16/3.597 : Nabuchodonosor chiếm Giêrusalem
lần I. Đây là niên đại Joseph cung cấp.
-968 : Salomon khởi công xây Đền thờ
Giêrusalem. Từ những niên đại đó, suy ra những niên đại có
vẻ đúng, theo đó :
- 932-931 : Salomon chết và nước chia đôi.
51
- Sau cùng, biên niên sử các vua cuối cùng của
Giuđa xem ra chắc chắn và cho phép định việc phá hủy
Giêrusalem và cuộc phát lưu lần hai vào năm 587/586.
3. Khung cảnh lịch sử tổng quát (tục sử)
Không những quý giá đối với niên đại, mà các bản
văn Assyrie-Babylone còn bổ túc thông tin của ta về thời
quân chủ : hoặc vì chúng cung cấp cái mới, hoặc dựng lại
lịch sử chung Phương Đông, là yếu tố thường giúp giải
thích các biến cố Kinh Thánh. Chỉ xin nêu một ít thí dụ.
Về Omri (885-874), sách Các Vua chỉ ghi lại việc
lập thủ đô mới là Samarie. Nhưng sự nghiệp của vua này
quan trọng đến nỗi các văn khắc Assyrie nói đến "con của
Omri", có nghĩa là thật sự là vua của Israel, dường như cho
Omri là người thiết lập vương quốc. - Kinh Thánh chú ý tới
Achab (874-853) vì những quan hệ của vua đối với các
ngôn sứ và việc vua ủng hộ sự thờ Baal. Thế nhưng một bản
văn khắc của Salmanasar III cho thấy uy lực ông đem lại
cho vương quốc : vua tỏ ra là ông vua chủ yếu trong những
vua liên minh chống Assyrie đang đe dọa Aram-Paletine :
vua đã có thể tạo nên một cuộc đình chiến giữa những tranh
chấp của vua và người Aram, và đem lục lượng mình liên
kết với lực lượng của vua Damas và vua Hamat, vua có thể
điều tới trận Qarqar hai ngàn chiến xa và mười ngàn binh sĩ.
Như thế những lỗi lầm về tôn giáo mà Kinh Thánh ghi lại đi
đôi với một chính sách tài tình và một thành tựu rực rỡ xét
mặt loài người. - Tháp bia đen của Salmanasar III có khắc
hình vua này đang nhận triều cống của Jéhu, hoặc sứ thần
của vua, đang sấp mình trước mặt y (841) : đó là dấu cho
thấy rằng Jéhu để được ngồi ngai vua Israel, phải từ bỏ
chính sách đối ngoại của nhà Omri. - Những văn khắc của
Adad-Nirari III (809-782) chứng thực việc tái diễn những
cuộc chiến chống người Assyrie ở phía tây và nhắc đến một
sự đầu hàng của Damas. Sự kiện đó, rồi một sự lu mờ nhất
thời của Assyrie, giải thích việc Jéroboam II chiếm lại
những đất người Aram đã sát nhập (2 V 14, 25) và việc
phục hưng nền văn minh vật chất mà Amos và Osée sẽ vạch
52
trần những hậu quả tai hại về luân lý và tôn giáo. Việc phục
hưng này cũng có lợi cho vương quốc Juđa, vì họ lấy lại
được thịnh vượng và địa vị dưới triều đại lâu dài của Ozias
(781-740).
4. Những cuộc khai quật khảo cổ
Cũng phải nói tới phần đóng góp của các cuộc khai
quật khoa khảo cổ học. Đất đai Paletine đã cung cấp ít nhiều
bản văn ghi khắc : những vỏ sò (ostraca) ở Samarie (đầu thế
kỷ VIII), nhân chứng cho nên fhành chính tập trung của
vương quốc Bắc ; văn khắc Ezéchia, ghi lại việc đào đường
hầm nối suối Gihoa với giếng Siloé (trước 701) ; nhất là
những vỏ sò Lakish và Arad, những bức thư mà đa số nhà
học giả cho là phản ánh những tháng chót của thành và
vương quốc Juđa, trước chiến thắng của người Babylone
năm 587. Những cuộc khai quật Samarie, Mégiddo, Lakish,
Tell Beit Mirsim, Tell en-Na-sbéh, Tell el-Far'ah, cho một
hình ảnh rõ ràng về nghệ thuật xây đồn lũy, và ngay cả một
khu dân cư trong một thành phố thời Jéroboam II (Far'ah)
hoặc cuối nền quân chủ (Beit-Mirsim). Tại Samarie, người
ta đã gặp thấy những mảnh ngà voi khảm khắc, vốn được
dùng để trang hoàng các tủ gường bằng gỗ và hiện đang nói
về những người giàu sang mà Amos đả kích. Sau cùng, phế
tích nhiều thành ở Juđa, đầu thế kỷ VI, chứng thực qui mô
rộng lớn của cuộc xâm lược của người Canđe.
Đây là một lịch sử tôn giáo, gợi lại tấn bi kịch tinh
thần của Israel thời quân chủ. Cái lý thú chính của cuốn
sách là ở đó. Sách được soạn theo tinh thần Đnl. Tuy quan
điểm này không phải là quan điểm của mặc khải hoàn tất,
nhưng việc tổng kết sách các vua thực hiện cũng cho thấy
một lối nhìn xác thực về tinh thần và chuẩn bị cho ít nhiều
thành đạt lớn hơn về thần học của dân ưu tuyển.
1. Cuộc kiểm điểm các vua
53
Được tiến hành chặt chẽ như sự sụp đổ cuối cùng
của vương quốc làm chứng. Những giá trị được dẫn ra để
phê phán, là lòng trung với giao ước, niềm tin vào Thiên
Chúa độc nhất của Israel. Bi kịch là ở chỗ nền quân chủ bị
thất bại thảm hại hơn là chính trị. Vương quốc Thiên Chúa
khó mà tự tổ chức thành vương trần gian đó là cái làm nên
bi kịch. Ngay từ Saul, điều đó đã được cảm thấy. Nhưng
cần cho nến trải kinh nghiện thực tế, để người ta có thể ý
thức được nước Thiên Chúa phải có những thuộc tính như
thể nào. Cuốn sách không phi bác ý tưởng về một vương
quốc vừa chính trị vừa tôn giáo. Nó tưởng điều đó có thể, và
giới thiệu một vài vua tốt làm thí dụ : Đavit, Ezechias,
Josias. Việc phê phán không chút thương xót các vua không
ngụ ý lên án vương quyền nhưng chứng tỏ mẫu mực cao
đẹp : một vua hoàn toàn tận tụy phụng sự Thiên Chúa và
chịu trách nhiệm về lòng chung của dân tộc đối với luật
Môisê. Mặc dù thất bại lời hứa với Đavit vẫn y nguyên. Và
việc cuốn sách chú ý vào việc phóng thích Joiakin ở phần
cuối chứng tỏ rằng sợi dây hy vọng chưa dứt.
Phải có người thất vọng khác nữa, sau lưu đày, thì
chân dung Đấng Méssia mới được thanh tẩy và rút cuộc bộc
lộ các đường nét quyết định nơi Đức Giêsu Kitô.
2. Lời phán xét vương quyền bởi lịch sử thực thi
lời các ngôn sứ. Vô danh hay hữu danh, các ngôn sứ xuất
hiện suốt chiều dọc cuốn sách : nếu hành động Thiên Chúa
lẫn lộn hành động con người, thì con người vẫn được cảnh
cáo và đặt trước trách nhiệm của nó. Hình phạt có thể thi
hành ngay sau đó (2V 1,6-17) ; có thể hoãn lại để phạt cả
triều đại (1V 21,29 và 2V 9-10). Vương quốc Bắc tồn tại
200 năm dưới lời đe dọa nêu ra từ đầu (1V 14,15-16 và 2V
17,20-23). Sở dĩ trì hoãn, là nhờ có hối cải, có thực thi
những điều đẹp lòng Thiên Chúa (1V 21,29 ; 2V 10,30 và
15,12). Việc đó cũng cho thấy ơn kiên nhẫn của Thiên
Chúa, Đấng nhớ lại giao ước (2V 13,23 ; 14,26). Vương
quốc Nam tồn tại lâu hơn, nhờ triều đại Đavit và Đền thờ
(1V 11,12-13.32.36 ; 15,4-5 ; 2V 8,19). Chính tội của
54
Manassé với việc làm uế tạp Đền thờ quyết định sự sụp đổ
của Giuđa và thành thánh (2V 21,10-15 ; 23,26-27 ; 24,2).
Lời Thiên Chúa điều khiển lịch sử, nhưng loài người được
mời gọi cùng làm việc đó với Người. Javé phán qua các
ngôn sứ, trong các biến cố, nhưng lịch sử trong sách Các
Vua thì bị xét xử bởi lời Thiên Chúa ghi trong Luật Môisê
là Đnl. Cùng thời, Jérémie loan báo một giao ước mới được
đóng ấn trong lòng chứ không được ghi trên bia đá nữa.
Không thể biêtỵ chắc tác giả Các Vua có chờ mong điều đó
không. Nhưng việc cuốn sách nhấn mạnh ở nội dung luân lý
và tôn giáo của giao ước, có giá trị như một lời gọi trở lại
triệt để. Bằng việc đặt các ngôn sứ đối lập với các vua và
đối lập với nền an ninh giả tạo xây trên những lời Thiên
Chúa hứa, cuốn sách góp phần thanh lọc ý tưởng dân ưu
tuyển, tách nó khỏi dân tộc dân tộc xét như là dân tộc để áp
dụng cho cộng đoàn tín hữu. Cuốn sách để ý tới những hội
ngôn sứ, mà người ta cho là nó đánh dấu một khúc quanh
quan trọng trong lịch sử tôn giáo : một xã hội tôn giáo tinh
thần nổi lên và tách biệt khỏi xã hội quốc gia. Chung quanh
Elie, Thiên Chúa đã dành cho mình bảy ngàn người đã
không quì gối trước Baal (1V 19,18). Một ngày kia, Hội
Thánh sẽ được nhận ra trong đó (Rm 11,4).
3. Cuốn sách còn chuẩn bị Hội Thánh theo cách
thế của mình, khi đưa ra lý tưởng về một dân trung thành
với Thiên Chúa độc nhất, được phụng sự trong một Đền thờ
độc nhất, sách trình bày việc xây cất Đền thờ như tột đỉnh
của lịch sử từ ra khỏi Ai cập (1V 6,1). Theo tác giả thì độc
quyền của Đền thờ là phương thế tốt nhất duy trì niềm tin
thuần túy theo Môisê. Chắc là ông nói đúng : kinh nghiệm
cho thấy việc phụng tự ở các Thánh Đền tỉnh lẻ dễ lây
nhiễm các thói tục thờ cúng Canaan. Hơn nữa, vào giờ mà
sự thống nhất chính trị đã nứt rạn, sắp tan biến hoàn toàn,
thì việc tập trung phụng tự tại Giêrusalem thực hiện sự tái
tập họp Israel chung quanh niềng tin tôn giáo của nó. Một
Thiên Chúa độc nhất, một Đền thờ độc nhất, một dân độc
nhất được Thiên Chúa hiện diện ở giữa (hoặc Danh Người ở
55
giữa, 8,10). Đền thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện đặc biệt
nhưng không loại trừ các nơi khác, Đền thờ đó không thể để
con người sử dụng tùy ý. Không hợp với ý Thiên Chúa, nó
chỉ có thể bị phá hủy. Sau lưu đày được xây lại. Sách Các
Vua một cách nào chuẩn bị cho cộng đoàn Do thái sau lưu
đày, cộng đoàn tinh thần hơn là cộng đoàn bộ tộc, gồm
những người liên kết với nhau bằng niềm tin và lòng gắn bó
với Sion. Nhưng để dấu hiệu Đền thờ hoàn toàn rõ ràng, thì
Đền thờ thứ hai cũng đến lượt phải bị phá hủy, khi mà Đức
Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa đến ở giữa chúng ta (Ga
1,15). Trong khi chờ đợi, cuộc cải cách theo Đnl là cần
thiết, phải có một ngôi nhà bằng đá độc nhất như dân mà nó
làm vẻ vang, ngôi nhà đó phải có để rồi một ngày nào, lời
sau đây được công bố : "Ta nói thật với các ngươi, đây có
Đấng trọng hơn Đền thờ" (Mt 12,6).
TIẾT II
CÁC SÁCH NGÔN SỨ HẬU
62
sự can thiệp của Thiên Chúa và tính chuyên nhất của tiếng
Người mời gọi.
I. AMOS (Am)
69
Sách không theo một thứ tự thời gian, chỉ giữ được
cung giọng nhất quán : những lời đe dọa và những lời chúc
dữ. Nhưng cũng đã ló dạng những viễn cảnh hạnh phúc.
4. Sứ điệp
Amos rao giảng trước hết chống não trạng tự nhiên
chủ nghĩa thời đó ; như Eliê trước ông, Amos qui về Javé
mọi thuộc tính mà người đương thời muốn gán cho Baal :
quyền lực trên hoàn vũ, phong nhiêu (4,4-12). Nhưng Thiên
Chúa của Amos còn là Đấng hơn Baal, Thiên Chúa này
"biết" (3, 2) Israel với thái độ ưu ái, âu yếm của từ đó.
Những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử là dấu chứng
thái độ đó : xưa, xuất Ai cập và chiếm Đất ; rày : những đổ
vỡ hoàn vũ, tiếng Thiên Chúa "gầm thét từ Sion" (1,2) và
tiếp tục làm chỗi dậy (2,11), chọn lấy (17,15) những ngôn
sứ. Người nhằm Israel giữa các dân. Đúng là nhiệm vụ
Amos ở tại loan báo cuộc gặp gỡ sắp tới, phũ phàng giữa
Thiên Chúa và dân Người (4,12). Đặc điểm cuộc "vượt qua"
này (5,17) bất ngờ, sẽ là một "ngày tối tăm" và "không ánh
sáng" (5,18-29), một dịp tàn sát (6,8-11) đánh cả Israel, nếu
không nói là còn hơn thế nữa, ít ra như các dân xung quanh,
không ai thoát.
Những điều tố cáo Israel thì muôn vẻ. Nhưng
ngoài tính lập lờ trong việc phụng tự (5,26 ; 8,14), còn có sự
giả hình (5,4), coi thường công bình (5,7. 24 ; 6,12). Tình
nghĩa anh em do các khế ước thiết lập đã bị bỏ quên (1,9).
Những câu cuối (9,11-15) cho thấy ngày của Javé,
ngày Thiên Chúa phán xét, sẽ không chấm tận lịch sử Israel.
Amos có sứ mệnh kêu gọi vương quốc Bắc trở về với Javé,
sau này với Giuđa, nhà Đavit đang lao đao do lỗi của những
tay võ biền ở Samarie đã làm tường thành Giêrusalem nứt
rạn (9,11) ; nhưng đã hứa sẽ phục hưng. Chính Amos ngoan
cường kêu gọi Israel hướng tới sự phục hưng đó của Thiên
Chúa, tức là ơn cứu độ.
70
1. Tác phẩm.
Nhìn qua thì sách Hôsê có vẻ lộn xộn, nhưng thật
ra nó cũng được sắp xếp theo một trật tự có thể nhận ra. Có
hai sách nhỏ.
A. 1 - 3 : Đời sống vợ chồng của Hôsê và những
quan hệ Thiên Chúa - Israel. 1 là một trình thuật tiểu sử do
một môn đồ mà ra ; 3 là tự truyện ; 2 là một suy tư về quan
hệ Thiên Chúa - Israel. Theo Good (The composition of
Hoses), các chương này được sắp xếp theo một lối đối ngẫu
chéo, theo một thứ tự đã được ngiên cứu và phải tuân giữ.
Hai trình thuật : 1,2-9 và 3,1-5 được tách ra bởi 3 sấm
ngôn : 2,1-3 ; 4-17 ; 18-25. Trình thuật 1 giới thiệu người
vợ và tên các con ; sấm ngôn 1 loan báo một kết cục may
mắn và chú giải tên các con ; sấm ngôn 2 trình bày một sự
thất trung, hình phạt và sự phục hồi danh dự cho người vợ ;
sấm ngôn 3 mô tả một kết cục may mắn, lại nhắc tên các
con ; rồi trình thuật 2 lấy lại sấm ngôn 2 : thất trung, hình
phạt, phục hồi danh dự người vợ và sấm ngôn 1 : kết cục
may mắn.
B. 4 - 14 : những sấm ngôn làm thành các chương
này không nhất thiết phải có sau 1-3 ; thật vậy 4,1-5,7 có
thể phản ánh thời kỳ yên tĩnh của Jéroboam II ; nếu vậy,
những câu này sẽ đồng thời với 2,4-15, trừ khi chúng có
trước những câu đó. Như thế, người ta đoán được là Hôsê
đã rao giảng trước khi cưới vợ và cái biến cố cưới vợ chắc
đã đem lại cho sự điệp của ông một giá trị đặc thù, thì cũng
không phải ở tận ngọn nguồn của sứ mệnh ngôn sứ của ông.
Phần sấm ngôn kế tiếp này có thể chia hai phần :
* 4,1 - 9,9 : giải thích tình huống hiện tại ; 4,1 - 5,7
nhắc đến sự kế thúc triều đại Jéroboam II. Phần tiếp gợi lại
tình hình chính trị đang suy thoái / chiến tranh syro-ephraim
: 5,8 - 6,6, vô chính phủ nội bộ : 7,3 - 7 ; 8,4 ; 10, 3. 15, làm
chư hầu Assyrie thời Menahem : 5,13 ; 7,11 ; 8, 9 ; 10,6 ;
12,2 kêu gọi tới Ai cập thời vua Osée : 7,11 ; 9,6 ; 12,2.
* 9,10 - 14,9 đưa tới một suy niệm về nguồn lịch
sử Israel : nhìn lại quá khứ đó người ta muốn tìm ra những
71
lỗi lầm đương thời : Giacop, hay một hình tượng có thể đem
lại giá trị cho những thực tại của hiện tại : Môsê (12,13 vtt).
2. Con người
Ngoài hôn lễ bí nhiệm, ta không biết gì nhiều về
con người Hôsê. Nhưng lối so sánh ông rất năng dùng cho
thấy một trí tưởng tượng mãnh liệt, lại là những hình ảnh
đầy âu yếm tế nhị (11,1-4) có sức mạnh (9,10-17), nên
người ta có thể định nghĩa Hôsê là một "tâm hồn tinh tế và
thâm thúy, nhiệt tình, vừa âu yếm vừa mãnh liệt, một bản
chất kiểu các con của Zébédée". (E. Osty) .
Người ta nghĩ ông gốc ở vương quốc Bắc, vì ông
biết những thành ở đó và giải thích lịch sử ở đó, còn
Giêrusalem thì ông không hề nhắc đến. Ông bắt đầu giảng
cuối triều đại Jéroboam II (782-753). Câu ông hay nói đến :
"sự hiểu biết Thiên Chúa" giúp nhận ra ông có quan hẹ với
các tư tế.
Hôn nhân của Hôsê.
Chứng từ của Hôsê không chỉ bằng lời nói, mà
bằng cả đời sống : một sứ điệp đã sống, do nó có cái thân
thiết nhất nơi ông : mối tình gắn bó của ông với một người
vợ, hôn nhân của ông.
Tấn kịch phu thê mà nhân vật chính là Hôsê được
kểỵ thành hai trình thuật. Trình thuật 1 cho biết Hôsê lấy vợ
theo lệnh Chúa, là một người "đàn bà đĩ điếm", sinh 3 trai,
mà ngôn sứ đặt tên biểu tượng (c.1). Trình thuật 2 kể rằng
Hôsê yêu một người đàn bà, tuy người này đã có những lần
ngoại tình, ông bắt nàng qua một thử thách, làm cho người
bất trung từ đây sống trung tín (c.3).
Có nhiều cách giải thích hai cuộc hôn nhân đó.
Cách giải thích được ưa chuộng hơn, là thế này : người đàn
bà mà Hôsê cưới làm vợ, Gomer, phạm một tội ngoại tình
tái phạm. Tuy được vị ngôn sứ chọn, (c.1) mặc cho những
tiền sử của nàng, nàng vẫn tiếp tục hư hốt như trước hôn
nhân. c.3 nói rằng Hôsê không vì thế mà không tiếp tục yêu
nàng để rồi cuối cùng đưa nàng tới cuộc sống tốt. Các nhà
giải thích nhận rằng "người đàn bà đĩ điếm" nói ở c.1,2 gắn
72
với việc bội giáo của dân (4,12 ; 5,4) khi họ tham gia những
lễ tế ca tụng sự sinh sản. Có người lại cho là Gomer đã hiến
sự tinh khiết mình cho nữ thần sinh sản, theo một lễ tục
được biết trong phần lớn miền Đông Địa Trung Hải. Chính
lúc đó, vị ngôn sứ cưới nàng làm vợ. Nàng trung thành một
thời gian, được 3 con, rồi có quan hệ ngoại tình chứ không
liên quan gì tới lễ tục trước (c.3). Người khác lại cho là
Gomer trước và sau hôn nhân đã làm đĩ, trongkhi ít nhiều có
làm nô lệ tế thần hay gái điếm thiêng thánh (413 vtt). Một
số còn nói rằng các con được gọi là "con của điếm" vì
không phải của Hôsê.
Đằng sau những cái bất chắc đó ; tính biểu tượng
chung của câu chuyện đã rõ. Hôn nhân với một người gái
điếm gợi lại những liên hệ giữa Thiên Chúa với một dân thờ
Baal ; những tên gọi xấu được đặt cho các người con gợi
đến hình phạt Israel phải chịu. Việc nhốt Gomer tượng
trưng cho việc thanh tẩy của một cuộc lưu đày ; tình yêu của
ngôn sứ đối vợ chỉ lòng lân tuất Thiên Chúa kiên trì đối với
dân Người và báo trước những quan hệ tốt.
3. Sứ điệp
Sứ diệp của Hôsê phát sinh từ 3 kinh nghiệm :
khôn ngoan của một xã hội ngày càng thu mình trong lối
sống không phù hợp niềm tin Javit - Khôn ngoan do sự tiếp
xúc với giới Lêvit, đề xuất một cách hiểu tình hình Israel
đối diện với Thiên Chúa ; - Khôn ngoan đời sống vợ chồng
giúp các ngôn sứ lĩnh hội rõ và rao giảng tốt hơn một khía
cạnh cho tới đó chưa biết, trong thái độ Thiên Chúa đối với
dân Người.
- Kinh nghiệm xã hội - chính trị : Hôsê tố cáo các
thói tục chính trị, lên án sự độc ác truyền kiếp của nhà Jéhu,
những vụ chính biến, ám sát ; những thủ đoạn khi đặt người
kế vị, khác xa nguyên tắc Javé chỉ định vua (qua đoàn sủng)
; chỉ trích sự vô ý thức, hay thay đổi và sự điên rồ của một
chính sách tìm liên kết với các dân nước ngoài rất tai hại.
Ông không chỉ trích vương quyền, nhưng chỉ trích tình
trạng bè phái vương quốc Bắc ; ông chỉ thấy giải pháp cứu
73
vãn tình hình ở việc toàn dân tộc tập hợp quanh triều đại
Đavit (3,6) ; ông lên án cái gu duy vật đối với sự phồn thịnh
đến quên lãng Thiên Chúa.
- Sự hiểu biết Thiên Chúa.
Môi trường Lêvit ảnh hưởng đến Hôsê nhiều nhất.
Ở đây ông đã học được sự hiểu biết Thiên Chúa : các giới
răn Thiên Chúa đã ban hàhh xưa và nay dân phải giữ. Ngoài
ra sự hiểu biết Thiên Chúa còn bao gồm sự nhìn nhận
những việc Thiên Chúa đã làm trong lịch sử : xuất Ai cập,
chọn và gìn giữ luôn, nhìn nhận những ân huệ hiện tại.
Thông đạt sự hiểu biết đó là nhiệm vụ các tư tế (4,4-10).
Thông đạt tốt, sẽ giúp Israel hiểu những liên hệ Thiên Chúa
muốn thiết lập với họ. Javé khước từ mọi sự lây nhiễm các
thần Canaan.
- Kinh nghiệm phu thê. Từ sự hiểu biết Thiên
Chúa, phát sinh tình thân nghĩa. Nhưng thay vì đáp trả, con
cái Israel đã bị lèo lái bởi một "tinh thần đĩ điếm" (4,12 ;
5,4) : Israel đã bỏ Javé, đổi Javé lấy một thần khác (4,7), để
thờ các Baal, để giữ lễ bái có những xen đĩ điếm. Nhưng sở
dĩ nói vậy, là vì cái mà cái chính vị ngôn sứ đã cảm biết.
Người vợ ông yêu đã bỏ ông đã làm đĩ. Nhưng Hôsê không
thôi yêu nàng, dù ông có đủ lý lẽ để báo thù. Kinh nghiệm
chủ yếu : nó giúp hiểu ý nghĩa sự tội của con người, thái độ
kiên nhẫn của Thiên Chúa yêu thương, không vì bất trung
mà ngã lòng, trái lại, ban cho dân ngoại tình món quà lạ
lùng, là một tình bạn âu yếm, trung thành, kiên định mãi
(2,21).
74
2 V 17-20 gợi lên một thời kì Mikha sống : thật bi
đát. Bá quyền Assyrie bành trướng đến độý chiếm Samari
(722), bao vây Giêrusalem do Sennachérib (701), đất đai bị
cắt xén và thiết lập một quyền bá chủ dẫn tới những hậu quả
nghiêm trọng (2V 21). Mikha sinh ở Moréchèt (1,1 ; Gr
26,17), gần Philisthie mà người Assyrie chiếm (1,10-15) ;
ông chạy nạn đến Giêrusalem. Là người nông dân miền
Tây nam, ông cảm nghiệm cách mạnh mẽ gương mùợ của
bất công xã hội của tầng lớp quý tộc thủ đô, nhân cách
cương nghị (3,8), giống Amos. Ông công bố những sấm
ngôn rất giống với sấm ngôn của Isaie cùng tuyên sấm đồng
thời. Nhưng người dân quê này đưa ra những suy tư phải
làm chạnh lòng người đồng thời quý phái của ông (số phận
Sion 3). Ông lớn tiếng chỉ trích tư tế và ngôn sứ, mà ông
không có giao thiệp gì : ông chê trách tính gian dối của họ ;
nhất là ông lên án lối thần bí giả hiệu từng gợi hứng cho họ
(3,11-12); sau này người ta sẽ nhớ mãi sấm ngôn của ông
chống Đền thờ (Gr 26,18).
2. Tác phẩm
Cấu trúc của cuốn sách có tính ước lệ : 1-3 (trừ
2,12 vtt) : đe dọa ; 4,1-5,8 : lời hứa ; 5,9-7,6 : đe dọa ; 7,7-
21 : lời hứa. Nhưng tính xác thực của những yếu tố không
chắc. Toàn bộ các lời đe dọa được gán cho Mikha : 1-3 (trừ
2,12 vtt) và 5,8-7,6 : 5,9-13 thì gần với Isaie 2,6-8 ; 5,14 có
thể là được thêm vào ; 6,7 nhắc đến việc hiến dâng các con
đầu lòng, thì phải có trước 721. Các lời hứa càng bị bàn cãi
nhiều hơn : 7,7-20 là phụng vụ gồm bốn mảng, được coi
như sau lưu đày,và chắc không thể là của Mikha. Tuy nhiên,
H.Cazel- -les khám phá ra trong bản văn những yếu tố địa lí
và lịch sử biện hộ cho tính xác thực của cuốn sách. Cho nên,
vấn đề chưa ngã ngũ.
3. Sứ điệp
Mikha tóm tắt sứ điệp mình trong mấy tiếng : 3,8 ;
bi thảm, nhưng chủ đề làm cho sứ điệp có sức mạnh, bởi lẽ
Mikha ý thức về sự chống đối mà lời các ngôn sứ gặp phải
75
(2,6 vtt) nên ông biết rằng thỏa hiệp sẽ đưa nhà giảng thuyết
tới chỗ mất đoàn sủng và bị nhục nhã (9,5-7).
Mikha loan báo các thủ đô Samarie và Giêrusalem
phải xét xử, mà dấu báo trước là những cuộc xâm nhập của
Assyrie đã phá hoại thành phố quê hương ông. Lí do phán
xét là tội thờ ngẫu tượng, nhất là bất công xã hội (1,2-7 ;
2,1-11), mà các thành phần nhà Omri là mẫu (6,16). Lí do
còn là tính hai mặt mà người ta cắt nghĩa các truyền thống
xa xưa của niềm tin (2,6 vtt ; 3,11). Trái với Amos, Mikha
không tương đối hóa các giáo điều truyền thống. Chúc lành
cho Jacob (2,7). Việc Javé ngự tại Sion (3,1), cả xuất Aicập
nữa (1,15). Chính dân chúng đã tương đối hóa những việc
đó bằng cách sùng mộ một cách giả tạo thôi. Người Israel
đã phá vỡ quan hệ Thiên Chúa - Israel, thì họ kéo tới hình
phạt.
Tuy nhiên, sứ điệp Mikha đầy hy vọng, nếu không
phải cho toàn dân, ít ra cho số sót (4,7 ; 5.2.6.7), họ sẽ nhớ
lại những việc lớn lao Javé làm (6,5), sẽ hiểu biết những đòi
hỏi của Người : công bình, khiêm tốn... Sau hết, Mikha tin
vào việc các lời hứa với Đavit sẽ thực hiện : chắc chắn từ
dòng dõi vinh quang, sẽ sinh ra một vua biết thống nhất
vương quốc và cai trị theo cách thế của Thiên Chúa (5,1-4).
76
nhiên vì ông rất ít nói về tất cả những gì ông thấy nhờ
chiêm ngắm (1,2). Ông khác hẳn với Ezéchiel bồng bột.
Vì là quí tộc, ông có những quan hệ với các giới
cầm quyền : ông chất vấn mạnh mẽ một nhân vật có địa vị
cao (22,15-23) ; ông ngỏ lời với nhà vua ; đang khi Amos
không làm, còn Jérémie (7,4-12). Ông có thiện cảm với tầng
lớp rất thân của mình, nhưng ông biết những yếu đuối của
nó và ông phải có lý do nào đó để dành cho những người
nghèo việc vào trong cộng đoàn được cứu. Nhất là, vì là
người cư dân Giêrusalem, ông yêu mến thành, ông rao
giảng tại Giêrusalem từ năm Osias chết, dười thời các vua
Jotham (740-736), Achas (736-716) và Ézéchias (716-587).
Trong thời kỳ này, Damas (732) rồi Samarie (721) đổ. Mối
nguy Assyrie xâm lược Giêrusalem đang rõ dần, đưa đến
chiến dịch của Senanchérib (701) không chiếm được thành
nhưng bắt triều cống nặng.
2. Tác phẩm
Trong cuốn sách Isaie theo thư qui (1-66) giới phê
bình hiện đại từ thế kỷ XVIII trở đi nghĩ là có nhiều mảng
phải xuất từ những thời kỳ khác nhau, mà nhà xuất bản
nhập làm một. Ý tưởng về một Isaie II (40-66) được viết
cuối lưu đày, trở thành ý kiến cổ điển vào thế kỷ XIX. Từ
Duhm (1892), người ta nói đến một Isaie III (56-66) được
viết sau lưu đày về. Ngày nay những ý kiến đó đã thành một
điều xác thực. Tuy nhiên, dù nhận có những dị biệt căn bản,
giới phê bình vẫn ngày càng thấy chú ý tới những điểm
giống nhau, nếu không phải là những liên hệ đích thực nối
kết các phần từ đây người ta phân biệt đó.
Đọc nhanh một lượt cuốn sách, người ta thấy ngay
nó gồm những mảng văn khá đồng chất, nhưng rõ ràng khác
biệt nhau, do được biên tập ở những thời kỳ khác biệt nhau.
Người ta sắp xếp phỏng chừng thế này :
- 1 - 12 : Những sấm ngôn về Giuđa và
Giêrusalem (của Isaie)
- 13 - 23 : Những sấm ngôn về các quốc gia (của
Isaie)
77
- 24 - 27 : Những sấm ngôn gọi là "đại khải huyền
của Isaie" (Sau lưu đày)
- 28 - 33 : Sưu tập những tai ương (của Isaie)
- 34 - 35 : Những sấm ngôn gọi là "Tiểu khải
huyền của Isaie" (Sau lưu đày)
- 36 - 39 : Phụ thêm lịch sử (do nhà viết sử về sau)
- 40 - 55 : Isaie II (hết lưu đày)
- 56 - 66 : Isaie III (lưu đày về).
Chương này ta chỉ nghiên cứu theo lịch sử thực,
nên chỉ xét đến những phần thật sự của Isaie : 1-23 ; 28-33.
Is 1 - 23 ; 28 - 33
Có những dữ kiện đưa đến kết luận là các bản văn
của Isaie trải qua một lịch sử xao động :
Trước hết là việc có hai đề mục : 1,1 và 2,1. Sự lặp
lại đó cho người ta giả thiết lúc đầu có hai tác phẩm khác
biệt, mà các câu đó khởi đầu. Rồi, giữa toàn bộ 2-12, có một
tập hợp ăn gắn (6,1 - 9,6) dường như được xen vào giữa
một loạt bản văn... Điều xem ra hiển nhiên, là 6,1 - 9,6 làm
thành một toàn bộ, dù gồm những thể văn khác nhau.
Nhưng trước và sau cái mà người ta gọi là "sách về
Emmanuel", người ta gặp thấy những sấm ngôn đầu hết
phải đã thống nhất hóa. Một tập nhỏ gồm ít ra 5,8 - 25+9, 7-
10,7 và có lẽ cả 2,1.6-4, 1+5,1-7, bị lạc lõng do việc xen
"sách Emmanuel" vào : 6,1-9,6. Lý do vì các môn đồ thích
triển khai về Emmanuel ngay giữa lời giảng của ngôn sứ.
Các bản văn Isaie kết thúc bằng phụ chú lịch sử : 36 - 39.
3. Thừa tác vụ và sứ điệp
Thị kiến mở đầu : 6
Biến cố này xảy ra năm 740 ; nhưng việc biên tập
đòi một kinh nghiệm nào đó trong sứ mệnh ngôn sứ, thì
mới hơn. Muốn hiểu chương đó, trước hết phải giải thích
hình ảnh ngôn sứ đã dùng để thể hiện ông kinh nghiệm ông
có trong Đền thờ. Các vật dụng toàn là những vật dụng chứa
trong Đền thờ, được dùng làm nền cho hình ảnh : ngai cao,
các Séraphins, khói, than đỏ, bản thờ... Đó là những yếu tố
truyền thống của đạo độc thần ; người ta cũng gặp thấy nơi
78
giai đoạn II của việc giải thích chương này lược đồợ văn
học của một trình thuật ơn gọi. Thị kiến này còn hơn là một
trình thuật ơn gợi, đây là bài tổng hợp dày hình ảnh hết mọi
chủ đề thần học mà ngôn sứ sắp triển khai.
Thiên Chúa thánh.
Khái niệm thánh khó mà lĩnh hội trên văn bản, nó
chỉ một thực tại được tách biệt, được đặt riêng ra (Ed
44,23), vì cái sức mà nó có và là cái làm nó đáng sợ (Ds
4,15.20). Nhưng đôi lúc sức khủng khiếp đó trở thành có
thể đạt thấy : nơi mà Môisê đứng là thánh, đáng sợ ; nhưng
là nơi của Thiên Chúa ; Đấng tách biệt, Đấng vô hình giữa
bụi gai, thông đạt tên mình (Xh 3). Vì thế, sự thánh thiện
Thiên Chúa, đồng nghĩa với tính siêu việt, sự cách biệt,
nhưng đồng thời cũng đồng nghĩa với gần gũi. Thực tế, sự
thánh thiện của Javé đã ăn sâu trong cách ứng xử của dân,
đến độ nó trở thành nguyên lý đảm bảo sự can thiệp của
Thiên Chúa chống những người tội lỗi (Am 2,7 ; 4,2), hoặc
cử chỉ lân tuất của Người (Os 11,9). Isaie ý thức hơn ai hết
về sự siêu việt được diễn đạt bằng tính từ ba lần lặp lại mà
các Séraphins công bố, mặc dầu dưới cánh. Ông biết việc
gặp gỡ giữa người có tội với Đấng ba lần thánh là kinh
khủng thế nào, và do đó, cần có một sự thanh tẩy bằng lửa
và phán xét. Nhưng ông cũng biết rằng Đấng Thánh hiệp
thông với loài người. Ông xác tín điều đó, đến độ ông là
người đầu tiên nói đến : "Đấng Thánh của Israel"
(5,19,24,...) ; Đến Thiên Chúa rất cao, kinh khủng, làm
khiếp vía, nhưng tự hạ thành gần gũi, "Thiên Chúa ở cùng
chúng ta" đã đi vào quan hệ với dân Người, Người, "Đấng
Thánh của Israel". Với toàn dân ? Không. Với Số Sót.
Những sứ điệp đầu tiên : giữa 740 và 735.
Những bài giảng đầu tiên của Isaie được bảo tồn
trong mấy đoạn : 2,6-22 ; 3,1-15 ; 3,16-4,1 ; 5,1-7 ; 8-
24+10,1-4 ; 9,7-20+5,25-30.
5,1-27 là bài thơ có tiếng, bài ca vườn nho, một
trong những bằng chứng của nghệ thuật điêu luyện của
Isaie.
79
Các câu 2,6-22 là một chuỗi những đoạn của Isaie,
được nối kết bởi một điệp khúc. Những câu này cho thấy
một Isaie đã biết băn khoăn khi thấy Giacop quá mong chờ
sự giúp đỡ của loài người : các thày bói, ma thuật làm hủy
hoại niềm tin, vàng, bạc, ngựa, xe. Là vì những cái đó bày
tỏ ý muốn dùng uy lực của con người, cuối cùng đẩy họ tới
"thờ những sản phẩm tay họ làm ra". Nhưng, nhờ thấm
nhuần lời dạy của các hiền nhân ông xác tín rằng lý tưởng
ông đề xuất sẽ có ngày trở thành thực tại. Đó sẽ là ngày của
Javé : Con người bấy giờ rũ sạch mọi trợ lực giả tạo, sẽ thấy
mình đơn độc trước Javé oai hùng.
Nhưng kìa mối đe dọa Assyri đang lên ở chân trời
(9,7-10,4+5,25-30) ; cần làm cho Giuđa suy niệm bài học
mà Samarie đã trải qua.
Thời chiến tranh Syrie Ephraim : giữa 735 và 732.
Giữa thời đầu của vương triều Achaz và việc
Damas sụp đổ, Isaie can thiệp vào nhằm làm thay đổi đường
hướng chính trị của vương quốc. Nhưng vô ích. Nhà ngôn
sứ thấy mình trơ chọi với mấy môn đồ (8,16). Vào thời này,
ông tuyên sấm liên quan đến Emmanuel : 7,8.9, 1-6.
7,1-9,6 là một sứ điệp kêu gọi hy vọng. Các vua
liên minh Damas và Samarie có ý bức Achaz của
Giêrusalem liên minh với họ chống Assyrie. Achaz từ chối,
họ xâm chiếm Giuđa nhằm lật đổ vua đặt người khác lên
thay theo ý họ. Hoảng hốt, Achaz làm một cử chỉ có ý nghĩa
: hiến tế con trai cho các thần tượng (2V 16,3), bằng cách
đó chứng tỏ rằng vua chỉ trông vào các thần để vương quốc
thoát nạn... Isaie can thiệp, để tuyên bố những sấm ngôn mà
giới chú giải cho là "đoạn sách có lẽ gay go nhất của tất cả
Cựu Ước". Thật ra vấn đề chú giải các câu đó sẽ không
phức tạp, nếu người ta chịu tìm nơi chúng chỉ sứ điệp mà
nhà ngôn sứ đề xuất... Mục đích đầu tiên của Isaie không
nhằm mô tả người kế vị mà ông quyết là gần đến lắm rồi,
cũng không để giới thiệu mẹ Người ; ý của ngôn sứ trước
hết là tuyên ngôn rằng trong thời buổi khẩn thiết cực kỳ
này, Thiên Chúa, một lần nữa "đang ở với" dân của Người :
80
Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Sự hiện diện mà
truyền thống Do thái giáo kể là một tín điều đó (Mk 3,11),
đòi dân phải gắn bó tin tưởng. Achaz không biết nghe lời
ngôn sứ. Nhưng Thiên Chúa không vì thế mà bỏ dân Người.
Thiên Chúa "ở cùng chúng ta". Người sẽ tỏ sự hiện diện của
Người ra để mô tả việc tỏ bày tỏ đó, Isaie công bố những
lời, qua đó, người ta hé thấy rằng nhà ngôn sứ loan báo một
sự can thiệp của Thiên Chúa, vừa là một việc xét xử đối với
những ai không tin ở Javé và không hưởng ứng lời ngôn sứ,
vừa là một cử chỉ cứu đối với số ít những người khác. Isaie
cho một dấu hiệu của sự can thiệp đó : triều đại đang lâm
nguy, triều đại sẽ được cứu. Đằng sau những lời công bố đó
là lời hứa Nathan chuyển giao cho dòng Đavit (2Sm 7).
Làm thế nào ? Chính lúc này hiện lên hình ảnh người con và
bà mẹ người con đó.
Đã hẳn, sự gợi ý đó dựa vào một tư liệu lấy ở hệ ý
thức vương hoàng thời đó và ở các thơ ca diễn tả nó. Người
con và bà mẹ của người con đó được mô tả bằng những từ
ngữ gần với những từ ngữ Mica đã dùng và rõ ràng có mùi
vị huyền thoại (5,1 vtt) : Lương thực dành cho người con là
sữa và mật là những món ăn gọi lại sự ngọt ngào của một
thời vàng son. Như thế là Thiên Chúa sắp đem đến vị vua lạ
lùng mà các nước Phương Đông Cổ mong đợi... Về bà mẹ,
Isaie chỉ mô tả theo cách thế của những thơ ca phụng vụ,
nhưng cũng cho thấy một sự chú ý đặc biệt tới bà mẹ đó. Dù
sao, những lời của Isaie sẽ là liều thuốc kích thích mạnh cho
niềm hy vọng của Israel, buộc họ thừa nhận rằng không vua
nào trong các vua của họ thực hiện được toàn bộ các lời hứa
và hy vọng của họ, làm họ chờ một vua cuối cùng ứng
nghiệm mọi lời ngôn sứ.
Chung quanh việc chiếm Samarie (722).
Có lẽ Isaie bắt đầu nói khi Samarie bị đe dọa, hoặc
đã bị bao vây : 28,1-4 ; 28,7-22, có thể cùng thời, hoặc
muộn hơn, vì Isaie trình bày ở đây những ý tưởng mà sau
này ông năng lấy lại. Đây còn là việc lên án những "nơi ẩn"
loài người mà các chính khách lần này phải tìm nơi các tư tế
81
và ngôn sứ. Tuy nhiên, giữa một chương đầy giọng đe dọa
sáng chói một lời sấm, vì một "viên đá quí" gọi là đá góc
tường sẽ là nhân chứng tại Sion cho một sự cứu rỗi mà
những người tin sẽ được hưởng.
Âm mưu chống Assyrie thời Ézéchias (723-703)
Người ta có lẽ mà đoán rằng Isaie đã góp phần vào
công cuộc cải cách tôn giáo phát động bởi Ézéchias. Qua
các lời sấm của ông, người ta biết được những biến cố xâm
chiếm sân khấu chính trị quốc tế ảnh hưởng tới thái độ nhà
vua và làm tổn hại đến công cuộc cải cách của vua. Đó là
việc chiếm Gaza và Ashdod (Is 20), phái bộ Babylon và đề
nghị của họ âm mưu chống Assyrie (Is 39), những đề nghị
của Ai cập nhằm xúi giục các quốc gia ở Paletine (Is 18).
Khi Sargon chết, nổi loạn khắp nơi. Isaie có ý ngăn Giuđa
khỏi rơi vào cạm bẫy của việc liên minh với các nước ngoài,
đã cất tiếng tố cáo các chính khách của vương quốc. Chỉ
Javé là Đấng không ngoan độc nhất, có thể vạch ra những
kế hoạch hữu hiệu và bảo đảm (19,1-15).
Chiến dịch của Sennachérib (701).
Mặc cho Isaie, nhà vua tán thành đề nghị của Ai
cập. Thế là Assyrie phản công. Phải phòng ngự Giêrusalem
và chuẩn bị bao vây (22,9-11). Sau khi càn khắp miền,
Sennachérib vây Giêrusalem, nhưng rồi bỏ, không vào.
Theo 2V 18,14-16, song song với lịch sử Assyrie, Ézéchias
nhận nộp thuế nặng. Tài liệu Assyrie không nói, nhưng các
tác giả Kinh Thánh coi việc bỏ đi như vậy là một thất bại
của Sennachérib và là kết quả của sự can thiệp của Javé.
Các lời sấm của Isaie thời này cho cố gắng của ông
suy nghĩ để hiếu được lịch sử thời mình, nhằm tìm cho ra ý
định của Thiên Chúa phản ánh nơi cái gì. Ông rút ra một
thầợn học về lịch sử : chiến tranh là hình phạt tội lỗi, nhưng
tội không hủy bỏ lời hứa gìn giữ, gằn liền với việc chọn
Giêrusalem và triều đại (37,35) ; người ngoại giáo nhận
hình phạt, nhưng không biết vai trò mình, họ gán thành
công cho mình, vì thế họ cũng đáng phạt như Israel.
82
Trong những sấm ngôn của ông thời kỳ này, vị
ngôn sứ hoàn thành một suy tư đã khởi sự từ lâu ; lúc này
chỉ trơ trọi với mấy môn đồ, ông hiểu rằng rồi chỉ còn lại
một Số Sót gồm một ít tín đồ biết nghe lời ông (7,9 ; 8,12-
23) Số Sót gồm những người nghèo đến ẩn ở tại Sion
(14,28-32 ; 29,15-20). Sau cùng niềm tin vào Đấng Cứu
Thế của ông giúp ông khẳng định rằng Số Sót sẽ quây quần
bên Đấng mà Thiên Chúa đặt viên đá quý ở Giêrusalem ;
là vua, là Đấng được xức dầu, là Đấng cứu thế (28,16 vtt)./.
I. SOPHONIE (Xp)
83
1. Con Người và thời đại
Tên Sophonie có nghĩa là "người được Javé che
chở". Rao giảng thời vua Josias (1,1), giữa 640-630. Bấy
giờ ảnh hưởng Assyrie trổi vượt và đe dọa lòng trung thành
của vương quốc, của triều đại và triều đình. Việc thờ cúng
sao trời của Assur thịnh hành, việc thờ thần Milkom của
người Ammon những tàn dư của các dân vốn ở Canaan, các
mốt ngoại lai, tệ ngôn sứ giả (3.4), bạo lực và bất công đủ
thứ (3,1-3). Sophonie cho thấy tình hình cần thiết một cuộc
cải cách (2,3 ; 3,12-13). Chính lòng mong đợi đổi mới đó
định hướng cho tư tưởng chính trị của ngôn sứ.
2. Cuốn sách
Sách gồm 4 phần :
* Những lời đe dọa Giuđa và Giêrusalem (1,2-
2,3). Trong bài mô tả này của Javé, Sophonie lấy lại chủ đề
mà Amos đã trình bày (5,18) cũng như Isaie (2,7 vtt).
* Chống các quốc gia (2,4-15) : Không chắc xác
thực. Những lời sấm này lấy lại những chủ đề quen thuộc.
Có nhắc đến "Số Sót" (c.9).
* Bản buộc tội Giêrusalem và các nước (3,1-8).
* Những lời hứa (3,9-20). Một Thánh vịnh đi
trước, phục hồi không nhất thiết loan báo việc lưu đày
Babylon trở về. Các câu 9.10 chuyển từ chủ đề các nước trở
về đến cuộc trở về của các người bị phân tán...
3. Sứ điệp
Cũng như sách tất cả các ngôn sứ, sách này trước
hết là một suy tư về tội của Israel. Ngôn sứ cho rằng nguyên
nhân là lòng kiêu căng, mà ông cho thấy trước hậu quả ông
không tránh khỏi : Một kẻ thù kinh khủng sẽ đến. Ít ra
Sophonie nói lên việc ông tin chắc lịch sử sắp tới sẽ là cơ
hội Israel bị phạt nặng nề.
Như thế, Sophonie lấy lại chủ đề Ngày của Javé
mà Amos đã bắt đầu, đem lại cho chủ đề đó một chiều kích
rộng lớn hơn và những sắc thái bi đát hơn : giờ đây cả thế
giới phải chịu cái tai ương mà trong đó Israel sẽ sụp đổ.
84
Nhưng tính bi đát của sứ điệp không ngăn cản việc
rao giảng ơn cứu độ. Nơi Sophonie cũng vang động lời rao
giảng về Số Sót : có người sẽ thoát khỏi tai ương, đó là
những "Người nghèo của địa cầu" (2,3). Hẳn là với
Sophonie, Israel khám phá ra rằng tình trạng khốn khổ của
họ trước những biến cố cuộc sống bày giãi ra đó, đã đưa họ
tới chỗ nhận ra cách đúng đắn hơn tình trạng cơ bản của họ
trước mặt Thiên Chúa.
Sau đó, Sophonie mô tả Số Sót dưới hình tượng
con gái Sion (3,14-18). Nếu từ ngữ đó còn chỉ số người
miền Bắc đã chạy xuống tị nạn ở Giuđa, thì Sophonie nói
với những người lưu đày nghèo khó này đâu là những lý do
có thể làm họ vui mừng.
Trước hết, đó là việc Assyrie sắp tới bị tiêu diệt,
nước mà các anh em phía Bắc của họ đã bị phát lưu đến (2V
17,6) và triều đại sắp kết thúc của Assurbanipal đang làm
suy yếu ; - rồi đến việc Đền thờ sắp xây lại và Đấng ngự
trong đó : "Javé ở giữa" họ, còn gì vui bằng!
Một cộng đoàn nhỏ bé nghèo nàn của vật chất,
nhất là thanh thoát khỏi mọi sự giàu có giả tạo bên trong,
một cộng đoàn biết Thiên Chúa hiện diện nơi mình, và con
mắt được niềm tin soi sáng đến độ cái gì đối với họ cũng là
dấu hiệu chiến thắng của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh mà
Sophonie mô tả về Israel mà ông hy vọng. Hình ảnh đó
đúng là hình ảnh mà Giáo Hội biết rằng nó phải thực hiện.
Đến nỗi một tiếng của Sophonie đã đủ để ca lên buổi rạng
đông của Tân Ước : "Vui lên, hỡi thiếu nữ Sion !"
(3,14)..."Vui lên, hỡi Maria !" (Lc 1,28).
1. Con người
Con người của ngôn sứ này chúng ta ít biết hơn là
cuốn sách của ông. Hình như ông là người Giuđa vì ông
thích nói đến Giuđa và ông loan báo sự cứu độ cho Giuđa
85
(2,1). Chỉ cần coi ông như một ngôn sứ mà sứ vụ có liên hệ
nào đó với những công việc diễn tiến ở Đền thờ.
2. Cuốn sách
Cuốn sách mở đầu bằng một Thánh Vịnh (1,2-8).
Tiếp theo là một loạt bản văn pha trộn những lời về ơn cứu
độ cho Giuđa (1,12.13 ; 2,1-3) với lời đe dọa Ninivê (1,9-
11). Tiếp ngay đó là những bài ca về việc Ninivê sụp đổ
(2,4-3,19) giọng điệu mạnh mẽ nhất trong Kinh Thánh.
1,9-2,3 chắc được viết ít lâu trước Ninivê đổ. Có
một số đoạn dường như cho thấy Ninivê đã sụp đổ (2,1 ;
3,8.19) là do lối văn tả trước và do việc dùng thì hiện tại
lịch sử. Javé được nhìn nhận là chủ lịch sử (2,14) mà những
khoảng khắc bi đát nhất (1,12) được hướng về sự cứu độ
của "vườn nho của Thiên Chúa và nguyên nhân hình phạt :
tội của những người nghịch đạo.
3. Sứ điệp
Sứ điệp của sách Nahum do cơ cấu của nó. Thứ
tự : Thánh Vịnh - Suy Tư Tiên Tri - Bài Học Lịch Sử.
Cuốn sách cho thấy Israel trong phụng tự dùng các
bài ca ngợi ca chủ quyền của Javé trên toàn vũ trụ. Bằng
cách đó Israel củng cố niềm tin của mình trong uy quyền,
thiện tính và cả "lòng say mê" của Thiên Chúa (1,2) trong
việc người điều hành lịch sử. Lịch sử Israel là chủ yếu, cảợ
lịch sử các dân mà họ đương đầu. Thiên Chúa không thể
không giáng phạt những kẻ vô đạo và cứu độ người công
chính. Công chính là Israel ; vô đạo là Người Assyrie sắp bị
phạt. Chỉ còn việc gợi lên bằng lối văn đầy hình ảnh việc
tàn phá Ninivê.
Như thế, cũng là một cách ca ngợi Thiên Chúa,
Đấng tỏ mình trong lịch sử, khám phá ra qua sự gợi ý của
phụng tự và lời rao giảng tiên tri ý nghĩa của hiện tại người
ta đang sống, cũng như nội dung của tương lai người ta
đang bước tới.
89
Những lời sấm thời Josias : 1,4-6,30 và thời
Joiakim. Nói chung, là 7-20, cũng như 25 và 26-49.
b. Những bổ sung cho cuộn đó
Theo 36,32, có "nhiều lời cùng loại" được thêm
vào cuộn nền tảng đó : những lời sấm ngăm đe viết sau 605-
604 : 10,17-22 ; 12,7-14 ; 13,12-19 ; 15,5-9 ; 16,16-18 ;
18,1-12 ; 46,13-26 ; 49,34-39 ; - những trình thuật cũng
ngăm đe : 24,27.35 ; - hai tập nhỏ chống các vua : 21,11-
23,8 và chống các ngôn sứ : 23,9-40 ; - những tự thuật :
11,18-12,6 ; 15,10-12 ; 17,12-18 ; 18,18-23 ; 20,7-18.
c. Tiểu sử Giêrêmia
Có thể do Baruch viết, do ý muốn ghi lại những kí
ức về thầy, nhất là những năm đau thương : 19,2-20 ; 6 ;
26 ; 36 ; 45,28-29 ; 51,19-64 ; 34,8-22 ; 37,44.
d. Ấn bản thời lưu đày
Vì thường xuyên có những trao đổi giữa
Giêrusalem và những người đi lưu đày, nên chắc là các bản
chép, đầy đủ hay từng phần, đã bắt đầu qua lại giữa
Babylon và Palestin, cả Ai Cập nữa, nơi đây Baruch cùng đi
với Giêrêmia. Chắc là tại Babylon, trong một cộng đoàn
quan tâm đến tương lai, người ta đã làm cái công việc quyết
định đưa đến cuốn sách hiện nay.
Các phần của cuốn sách
- Phần I, từ 1 - 20, theo thứ tự thời gian ; kéo thêm
25,1-13 là kết luận đầu tiên của nó. Giữa 20 và 25, các đoạn
21,1-10 và 24 bó lại thành một khối những tập nhỏ chống
các vua và các ngôn sứ (21,11-23,8 và 23,9-40).
- Phần II, gồm những lời sấm chống các nước : bắt
đầu ở 25,13-38, kéo dài đến 46-49, thêm vào đó là lời sấm
chống Babylon (50-51), và một mảng tiểu sử 51,59-64.
- Phần III, tập hợp những bản văn các lời hứa cứu
độ 26-35.
- Phần IV, những yếu tố tiểu sử : từ 36-45
- Phần phụ thêm mô tả tai họa 587-586, rồi gợi lên
việc giải phóng đầy khích lệ của Joiakin : 52.
2. Vị ngôn sứ, sứ mệnh, sứ điệp
90
Được tách riêng từ lọt lòng
Giêrêmia sinh năm 645, ở Anatoth, 6 Km về phía
Bắc Giêrusalem. Gốc nông thôn, có cái gu của một thiên
nhiên dung dị, thường nhật ; gần gũi con người : chim chóc,
cái đèn, cối xay, người đạp nho. Quan điểm cánh chung của
ông nói lên điều đó : trừ 4,23 vtt, ông không trông đợi một
đảo lộn vũ trụ nào ; ông chỉ cần thấy một bầu trời không
chim, cái đèn trong gia đình đã tắt, không nghe tiếng cối
xay nữa, tiếng các tân hôn im bặt, thế là ông mô tả sự can
thiệp của Thiên Chúa, hoặc để khám phá ra rằng nó đã khởi
đầu.
Tính tình đa cảm, tế nhị, nội tâm, khác xa Êdêkien
bồng bột ; gần Isaie hơn. Với ông, một cái nhìn mới về con
người. Thực ra, việc người chung quanh chú ý đến những
lời sấm của ông, cũng như những biến cố ông trải qua,
những thăng trầm ông nếm, hoặc việc ông chú ý đến âm
vang kép dài của những biến cố đó nơi ông, tất cả giả thiết
một cách thế mới hình thành dần dà để hiểu nhà ngôn sứ và
hiểu cũng như định nghĩa con người.
Giêrêmia rao giảng dưới 5 đời vua kế tiếp. Hai vua
đi nhanh quá đến nỗi không được nhắc đến, 1,2 vtt ; trái lại
triều đại 3 vua khác : Josias, Joiakim, Sédécias định rõ
những thời kỳ khác nhau trong cuộc đời và tác phẩm của vị
ngôn sứ.
Thời Josias (626-609)
Muốn hiểu bầu khí thời Josias, cần nhớ rằng sau
triều đại Ézéchias nổi bật bởi một cố gắng phục hưng tinh
thần, tiếp đó là những vua vô đạo Manassé và Amon. Cho
nên, khi người ta thấy Josias đầy ắp những tâm tư khác, thì
lòng những tín đồ Javé phấn khởi lạ lùng. Thêm vào đó, nhà
vua còn ghi được một chién công lấy lại miền Bắc : phải
chăng kỷ nguyên vinh quang và hồng phúc của Đavit,
Salomon tái hiện ? (2 V 22,23-25)
626 : Giêrêmia được gọi (chương 1), không gắn
với một đền thánh nào. Kinh nghiệm của Giêrêmia là kinh
91
nghiệm của Lời ; còn thị kiến thì ít, dường như chỉ là "cơ
hội, để mở đầu câu truyện" (18,24).
Giêrêmia được gọi là vị ngôn sứ của các dân
(5,10), vì ông phải định rõ ý nghĩa của một lịch sử, tuy tập
trung vào Israel, nhưng nhằm cả thế giới.
626-620 : bài giảng đầu tiên : 2-6. Chủ đề được
khai triển cũng như ở Isaie và Hôsê : quan hệ phu - phụ
giữa Javé và Israel ; thời gian hạnh phúc trong hoang địa,
thời "yêu đương" ; Israel ngoại tình, những giao ước với
dân ngoại và việc thờ phụng ở các cao đàn, báo trước hình
phạt.
622. Cuộc cải cách thứ luật : 11,1-14. Chính lúc
này Giêrêmia rời Anatoth đến Giêrusalem, nơi đây ông
chưa được biết. Giêrêmia không phi bác việc phụng tự,
nhưng ông thấy những phương thế chính trị, phụng tự mà
cuộc cải cách vận dụng không đủ. Ông ngày càng thấy chỉ
sự can thiệp quyết liệt của Javé có thể thanh lọc cõi lòng hư
đốn của Israel.
Sau 622 : trong lúc Jiosias trải rộng quyền bính
trên vương quốc cũ phía Bắc (2 V 23,19.) và xem ra sự
thống nhất vương quốc đã gần kề, thì Giêrêmia cũng phát
biểu niềm hy vọng, nỗi vui mừng, lòng tri ân của ông ở
chương 30,1-31, 22. Đầu tiên ngỏ với vương quốc Bắc, các
sấm ngôn này được chú giải trong lưu đày để gợi lên sự kết
thúc gần tới của tai ương Giuđa phải chịu. Tất thảy những
chủ đề mà các vị giảng thuyết thời lưu đày sẽ giảng, thì
Giêrêmia đều đã giảng : sự giải phóng khỏi lưu đày : việc
rời bỏ các nước xa xôi sau khi các kẻ áp bức tan rã, việc trở
về trên đất được phục hồi, lại có dân cư, lại sung túc, thành
lập một vương quốc thống nhất, được cai trị một bản địa
(Autêtônê) được Javé chấp nhận.
609 : Josias chết. Gương mù gây nên bởi cái chết
bất đắc kỳ tử của vị vua này, niềm hy vọng của mọi tín đồ
Giavit và bị giết bởi một cách thảm thương bởi một Pharaô
Ai cập, vẫn in rõ đằng sau những cố gắng vất vả để cắt
nghĩa của tác giả sách Sử Biên Niên ( 2 Sb 35,20-24).
92
Gr 22,10 vtt nhắc vắn tắt thời vắn vỏi của Joachaz,
con của Josias.
Thời Joaqim (609-597).
Giêrêmia phê phán nghiêm khắc vị vua do người
Ai cập đặt lên này (22,13-19). Là nhà độc tài phương Đông
thực thụ, bất công và xa xỉ, chắc rồi cũng dung túng việc
thờ tự dân ngoại.
Giêrêmia tuyên sấm chống Đền thờ, báo trước Đền
thờ sẽ bị hủy diệt sắp tới. Tiếp đó, những lời chống triều
Đavit (21,11-22,30), cuối cùng ông thất vọng về triều đại
đó. Rõ hơn bao giờ hết ông thấy rằng, mọi cái gì làm nên lý
do để an toàn : vương quyền, giàu có, tín ngưỡng, truyền
thống, việc phụng tự khôn ngoan và luật pháp, các ngôn
sứ... tất cả sẽ bị tước khỏi đời sống Israel. Còn lại, chỉ có sự
hiểu biết Javé (9,22 vtt).
` Những bài trình thuật của Giêrêmia.
Chính trong những năm này, Giêrêmia biên tập cái
người ta gọi là những lời "tự thuật" (confessions) : 11,19-
12, 5 ; 15,10-21 ; 17,14-18 ; 18,18-23 ; 20,7-18). Với nhiều
loại văn khác nhau, thích nhất là văn Thánh Vịnh cầu khẩn,
Giêrêmia đã có thể nói lên tấn bi kịch tôn giáo mà lương
tâm ông là sân khấu tàng ẩn. Tấn bi kịch mà ông đã cảm
nghiệm mình là nạn nhân, là diễn viên bị đả thương đó, có
liên hệ chặt chẽ với sứ điệp của ông : ông khám phá thấy sự
đối lập giữa những khuynh hướng sâu xa của bản tính ông
với cách ứng xử mà ông bị áp đặt ở thời kỳ bi đát ông đang
sống, nhất là bởi sứ mệnh giao cho. Giữa lòng tấn bi kịch
đó, giữa cái đêm tối tăm đó, vẫn lóe lên một tia sáng khiêm
tốn và thuần khiết, là tia sáng của một niềm tin giản lược
vào cái chủ yếu : sự xác tín có một Đấng hiện diện. Chính
đó là niềm hy vọng cứu độ.
605 : Trận chiến các Karkêmish (46,2-12). Thời
khắc quyết định : Ai Cập thất bại, làm người ta lo sợ
Babylon. Kẻ thù từ phía Bắc tới, bây giờ đã rõ, nó xâm
chiếm các đồng bằng Palestin, sẵn sàng thi hành cách phán
xét của Thiên Chúa, nếu không có hối cải, lưu đày.
93
598 : Thắng quân Ai Cập, Nabuchodonosor vây
Giêrusalem. Vua Joaqim mới chết, con là Jioaqin lên thay.
Giêrêmia mô tả chân dung một cách mỉa mai độc ác. Vua
khôn khéo lụy phục Nabuchodonosor, bị đem đi lưu đày với
10 ngàn người. Cậu vua được đặt lên thay.
Thời Sédésias (597-587).
Xa các cố vấỤn, Sédésias bị thu hút bới tinh thần
quốc gia thiếu kiên nhẫn. Một liên minh chống Babylon dựa
vào Ai Cập được thành lập. Giêrêmia phản đối chính sách
khờ dại đó : Ai Cập sẽ chẳng bao giờ là một sức viện trợ, lại
trái với ý Thiên Chúa .
593 : chống các ngôn sứ giả : 27 ; 28. Thư cho các
người bị lưu đày, 26,29 ? Phải tin rằng mình sẽ phải ở lại
lâu trong thành kẻ thắng trận, phải xây cất, sinh sản, gắn bó
với sự phồn vinh của xứ đó. Trung tâm của quốc gia không
còn là Giêrusalem. Trung tâm bây giờ ở nơi lưu đày, nới đó
tương lai đang được chuẩn bị, 24 ; vì Babylon một ngày kia
sẽ bị phá hủy (51.59-61), dân sẽ ra đi. Từ đây những lời
sấm loan báo những cộng đoàn tương lại vang lên trong lời
giảng của ngôn sứ.
598 : Đối lại với những bức tranh với các chủ chăn
xấu, Giêrêmia nêu lên sự hiểu biết và sự công chính của
mầm Đavit mà ông hy vọng, 23,1-8.
587 : bao vây thành. Những chương về cuộc vây
thành sôi nổi nhất trong Kinh Thánh. Sự sụp dổ của thành là
chắc vì Javé chiến đấu chống nó ; vua và các cư dân sẽ nộp
cho kẻ chiến thắng. Hai con đường cho dân lựa chọn : phối
hợp với dân Canđê thì sống ; tiếp túc bao vây là chết (21,1-
10). Một lời sấm thứ hai (34,1-7) loan báo việc nhà vua bị
bắt, ông hứa với vua sẽ được chết bình an trên đất Babylon.
Vụ phóng thích các nô lệ : thành bị bao vây, Sédésias yêu
cầu phóng thích nô lệ người Hipri để có thêm quân lính
chiến đấu. Khi quân Babylon thất thế vì tình hình có quân
Ai Cập vận động, người ta lại gom các nô lệ lại trong thân
phận họ. Giêrêmia phản đối 34,8-22. Người Canđê chưa tái
bao vây thành, vì đang tìm hiểu tương lai may mắn đang
94
chờ đón Dân Thiên Chúa. Giêrêmia muốn về làng quê mình
tậu một thửa ruộng. việc ông ra đi bị theo dõi. Ông bị nghi,
rồi bị cáo là phản bội, bị bỏ tù thời gian lâu (37,10-16).
Thành lại bị vây. Sédésias thỉnh ý Thiên Chúa. Giêrêmia
thừa dịp chỉ trích những hung bạo người ta lam cho ông.
Được phóng thích nữa vời, bị giam lỏng trong dân, được
cho ăn (37,17-21). Nhưng lời ông vang lên luôn mãi, bị tố là
chủ bại, bị ném xuống giếng, vua cứu lên.Lại thử khuyên
vua có thái độ tin tưởng tuyệt đối vào sứ mệnh của ông và
nguồn gốc thần linh của lời ông rao giảng (38,14-28).
Mô tả tương lai
Phần nhiều những lời tiên báo may mắn của ông
được giảng trong những năm bi đát này. Ông ca lên việc
phục hồi Palestin với Giêrusalem làm trung tâm tôn giáo và
vua là một thành viên của triều đại Đavit . Giao ước cũ sẽ
được thay bởi giao ước mới. Trong tương lai Javé sẽ hành
động thẳng nơi tâm hồn con người (31,33), Người sẽ ban
cho nó một con tim (24,7) ; luật không khắc trên bàn đá
nữa, nhưng trên tâm hồn, mà không cần phải dạy (31,32-
34). Tất thảy sẽ hiểu biết Javé (31,34). Tuy vẫn cứ là quốc
gia, nhưng tôn giáo sẽ là tôn giáo cá nhân.
Kết thúc đời Giêrêmia.
Nabuchodonosor đặt làm thái thứ trong những bạn
bè của Giêrêmia (39,14 ; 26,14). Ông này theo chính sách
của chủ mới....?. Nhưng tháng 10, Gôdôliat bị ám sát bởi
một người hoàng tộc bị truất phế. Kẻ này là một người
cuồng tín, một người ghen tương, lại do người Amon xúi
dục. Nhiều người Do Thái ngã lòng trước những biến cố đó.
Vì không thể dẹp được kẻ sát nhân và sợ bị cáo là đồng lõa
họ trốn sang Ai Cập, kéo theo vị ngôn sứ, chắc là ông chết
không lâu sau đó. Chương 44 cho thấy ông tuyên những
sấm ngôn cuối cùng tại đó.
3. Ảnh hưởng của Giêrêmia
Nhân vật Giêrêmia ghi đậm dấu ấn trong toàn bộ
suy tư Kinh Thánh. Vài chục năm sau ông chết, một tác giả
vô danh suy nghĩ về những điều kiện của việc cứu Israel về
95
điển hình nhân vật có khả năng thực hiện việc đó hơn cả, đã
lấy lại chân dung vị tư tế ở Anatoth này mà phác thảo nên
hình ảnh người tôi tớ. Một số người dựa vào hình ảnh
"Giêrêmia hay một ngôn sứ nào khác" (Mt 16,14) Để gắn
liền ký ức về ông với sự mông chờ ơn cứu độ. Trước con
mắt truyền thống, Giêrêmia mãi mãi là điển hình của con
người dấn sâu vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Nếu ông
có một cách riêng của ông để tiếp cận với Thiên Chúa mà
không phải dùng đến phụng tự... thì cũng không vì thế mà
ông không có được cái ý thức về Lời, về cái tuyệt đối mà
Lời chỉ, về sự dấn thân mà nó đòi, là cái nó chỉ gặp trong
những ngôn sứ lớn và sau này nơi những tông đồ vĩ đại.
Thiên Chúa của Giêrêmia rất gần gũi : "ở với ông, đàm đạo
với ông, dù là trong trường hợp chiếc bình vỡ hay thúng quả
vả. Nhưng Thiên Chúa đồng thời cũng là Đấng có những
yêu sách làm tách biệt một con người đã bị bất điên bát đảo,
một người bị thu hút không thể cưỡng lại.
Nếu sách của ông toàn là vang lên những loan báo
làm ngã lòng, thì nó cũng làm nhú lên hy vọng. Vì ông biết
và ông nhắc đi nhắc lại : sự bần cùng hóa triệt để của dân sẽ
giúp họ khám phá ra kho tàng độc nhất có giá : sự liên minh
với Thiên Chúa của họ.
I. EZÉCHIEL (Ed)
1. Vấn đề Êdêkien
Ba phần tư thế kỷ vừa qua đã thay đổi sâu sắc
những vấn để xung quanh cuốn sách của Êdêkien. Đầu thế
kỷ, người ta theo các nhà phê bình mà coi vị ngôn sứ như
một nhân vật của lưu đày và quả quyết rằng "không sách
nào của Cựu Ước có được những đắc điểm quyết định về
tác giả duy nhất và về tính nguyên tuyền như sách
Êdêkien", thì hiện nay một số tác giả đã đoạn tuyệt với
truyền thông chú giải đó.
Người ta phi bác niên đại vốn đã công nhận, người
ta kể khung cảnh Babylon là hư cấu. Trái lại, có người cho
chỉ 1/6 của cuốn sách là xác thực, tức là các bài thơ thôi,
còn phần văn xuôi là do một tác giả về sau... Nhiều ý kiến
khác nữa... Dần dà vấn đề địa điểm nhà ngôn sứ hoạt động
được nêu lên : Giêrusalem hay Babylon... Cuối cùng một số
đông học giả cho rằng cuốn sách có tính nhất quán hơn sách
Isaie và sách Jérémie, nhưng không phải toàn bộ do nhà
ngốn sứ xuất bản. Về môi trường, họ cho là toàn bộ ở
Babylon, trong thời kỳ liền trước và liền sau Giêrusalem đổ.
Nhưng rồi P. Auvray lại đặt lại vấn đề : việc rao
giảng của Êdêkien dễ hiểu hơn, nếu vị ngôn sứ giảng ở
Giêrusalem. Tìm hiểu tiểu sử ông, cũng đưa đến két luận
đó. Nói tóm lại, vấn để đang được bàn cãi...
Hình thành và lược đồ cuốn sách.
97
Ngày nay không ai nhận tính nhất quán của cuốn
sách nữa, vì có nhiều nhóm nhân tạo (chương 21), những
đoạn bị dời chỗ rõ ràng, những chỗ lặp, những phần triển
khai phụ, những đoạn nói thêm sau...Căn cứ đó, có thể nói
cuốn sách hình thành qua những chặng như sau :
- Chặng những mảng rời. Ngôn sứ đối thoại với
thính giả. Nhưng ông cũng là nhà văn. Cho nên ông đã ghi
lại thành văn những kinh nghiệm xuất thần của ông, những
hành động tượng trưng, những lời của Javé. Mảng sau này
quan trọng nhất : những lời đe dọa, than vãn, khuyên can,
lời hứa, giáo huấn... Nhưng rõ ràng là ông cũng là người có
tài hiệu đính chính những bài viết của mình.
Chặng sưu tập : Các sưu tập được tập họp theo
nguồn gốc hoặc theo nội dung.
Chặng thành sách : Tập họp các tập nhỏ theo một
thứ tự thời gian hay luận lý.
2. Nhân cách của Êdêkien
Một con người phức tạp. Người ta đôi lúc đã nêu
lên câu hỏi : không biết những kinh nghiệm thị kiến của ông
từng dội lại trên con người ông, có cho phép đoán ông là
người bị bệnh tâm thần không : ông ngồi bệt xuống đất, khó
đứng, ngây trong suốt bảy ngày giữa những người thân, tự
nhốt mình trong nhà và câm, nằm dài trên đất, tay múa
máy... Nhưng đúng ra đó là vì khó nói năng, không biết diễn
giải thế nào tình trạng hỗn độn của mình về việc gặp gỡ
Thiên Chúa...
3. Thừa tác vụ và sứ điệp
Niên đại
Bị đem đi khỏi Palestin bởi những trận càn đầu
tiên của Nabucođonodor (598), Êdêkien thi hành sứ vụ ngôn
sứ mà việc tàn phá Giêrusalem chia làm hai mảng. Trước,
ông say sưa rao giảng rằng thành tội lỗi, phải chịu phạt
xứng tội ; sau, ông chủ ý nhắc lại lời hứa giải thoát.
4. Ảnh hưởng
Việc rao giảng của Êdêkien làm thành một khoảng
khắc quan trọng trong lịch sử dân Chúa. Tuy chịu ảnh
98
hưởng những trào lưu trước đó, trào lưu ngôn sứ và tư tế, lại
chịu ảnh hưởng cả tư duy Babylon về tôn giáo, nhưng
Êdêkien là một người độc đáo.
Trong lưu đày, giáo huấn của ông sớm được đọc
nhiều, giảng và suy ngắm. Sách Khải Huyền, cuối bộ Kinh
Thánh qui chiếu về sách này đến năm chục lần, đến nỗi
Khải Huyền có phong độ một sách chú thích Kitô Giáo về
Êdêkien.
104
hé thấy sự sống lại (Is 26,19), phục hồi công lí toàn vẹn
trong một đời sau (Ml 3,13-21) ; họ sẽ thêm ít nhiều tu
chỉnh quan trọng cho chân dung Messia tương lai bằng cách
tách nó khỏi thời sự chính trị và quan niệm gắn liền với hệ ý
thức vương quyền xưa (Dcr 9,9-10 ; 12,10). Trong những
công trình nhiều khi có tính cách sách vở, trong đó đầy dẫy
những vay mượn của tác giả trước và đã tỏ ra chạy đến
những thủ thuật khải huyền thư (Is 24-27 ; Dcr 9-14), các
ngôn sứ vẫn cứ là nguồn mạch sung mãn cho Mạc Khải,
hướng dẫn dân trên những nẻo đường thực hiện.
107
Giới tư tế được thanh tẩy nhận trách nhiệm chuyên
biệt đời sống phụng tự, được vào khu dành tiêng cho Thiên
Chúa và gìn giữ "viên đá" tượng trưng đền thờ.
- 3,8.9c.10a, lời sấm xen giữa : lời hứa với Giosuê.
Lời sấm này cũng diễn đạt việc tăng tiến hàng tư tế, bảo
đảm việc Đấng Messia tương lai đến.
4,1-6a + 10c -14, thị kiến 5 : cây đèn nến và các
cây ôliu.
4,6b - 10ab, lời sấm xen giữa : hứa với Zorobabel :
chỉ liên hệ đến vua, người được hứa có Thần Linh giúp để
đưa việc tái thiết tới thắng lợi.
5,1-4 ; 5,11, thị kiến 6 và 7 cái trục bay và cái đấu.
Loan báo việc than tẩy xứ sở, điều kiện để Đấng Cứu đến.
6,1-8 + 15, thị kiến 8 : các cỗ xe.
Chấm dứt thị kiến : các sứ giả sẽ đi bốn phương
tập họp người lưu đày tại Giêrusalem để xây xong đền thờ
và cộng đoàn cứu thế.
6,9-14, phần kết : lời hứa cho Giosuê, Zorobabel
và đền thờ.
1. Cơ cấu
Tất thảy các tác giả nhất trí phân biệt hai chuỗi yếu
tố : những bài thơ cánh chung luận và những bài ca trữ tình.
Nhưng lại không nhất trí về việc cắt thành từng mảng trong
các chuỗi.
108
của Javé, người ngoại cũng cảm thấy và bảo đảm cứu độ
những người nghèo.
25,6-10a : những kẻ trong các dân sẽ được cứu, được
mời cùng dân ưu tuyển dự tiệc lớn trên núi Sion.25,10b-12 :
lời sấm trên Moab, được xen vào sau. 26,1-19 :
Giêrusalem, nơi trú của người nghèo, nghịch với thành kẻ
thù bị hủy.
26,20-27,1 : Javé bảo đảm sự an toàn cho dân trong
khi chờ chiến thắng trên các lực thù địch Leviathan và
Tannin 27,2-13 : kẻ thù, thành lớn, một khi đã bị hủy, thì
dân là vườn nho Chúa sẽ được thanh tẩy, tập họp trên núi
thánh.
2. Tính nhất quán
Trừ sấm trên Moab và Thánh Vịnh ở 26,7-10, có
thể coi toàn bộ là nhất quán. Khung là các bài ca trữ tình.
Các bài thơ cánh chung đáp lại, hai bên triển khai một chủ
đề song song, hướng tới số phận các nước : phán xét trái
đất, rồi tương quan với Giao Ước Noê, cuối cùng là chiến
thắng những địch thù hoàn vũ. Cấu trúc quân bình và uyển
chuyển đó phải là do một tác giả duy nhất.
3. Niên đại
Nhiều chỉ dẫn ủng hộ một niên đại khá xưa, là đầu
thế kỷ V, tương quan với việc phá hủy Babylon do Xerxès I,
năm 845.
110
- 66,22-24 : số phận người công chính ; việc phụng
tự đời đời ; số phận người dữ ; hỏa ngục.
5. Giáo lý
Vì của nhiều tác giả, nên không có tính nhất quán
về sứ điệp. Đại khái :
a. Lấy lại sứ điệp Isaie II, duy trì sự sống trong
thời thất vọng này :
- Các nước chịu ảnh hưởng của đạo thờ Javé,
nhưng phải tập trung vào Giêrusalem và trước tiên để phục
vụ dân và làm giàu thánh điện.
- Giêrusalem - Đền Thờ - Tư Tế : làm thành một
trung tâm liên kết dân đã được phục hồi. Là thành thánh với
nhiều tên có ý nghĩa thiêng liêng.
- Nhìn thẳng phía trước và hy bọng vào cứu độ
hoàn toàn làm lu mờ thủ lĩnh trần gian và những lo toan lễ
bái.
b. Những triệt khác xen vào giữa
- Nêu bật và nội hiện (intérioriser) ý thức về tội :
lìa bỏ Thiên Chúa, cắt đứt Giao Ước, nguyên nhân tại họa.
- Thanh tẩy niềm tin bằng một trận đấu cuối cùng
với đạo thờ ngẫu tượng ; một trận chống nệ hình thức trong
phụng tự và thực hành ; mãnh mẽ khẳng định siêu việt tính
Thiên Chúa.
- Cởi mở cho người ngoại và hoạn nhân, nhưng đòi
: trở lại toàn diện với những đòi hỏi của Giao Ước và những
chỉ thị của Luật.
Không diễn đạt cứu độ cá nhân.
Như thế, giáo lý phong phú Is 56 - 66 cho thấy một
sự "bừng tỉnh sứ ngôn" của thời phục hưng mà dân rất cần.
V. OVAĐIA (Abdias,Ov)
Chỉ 21 câu. Phần lớn, 1-14 gồm một hay nhiều lời
sấm chống Edom, và ý nghĩa được giải thích ở câu 15b. Các
câu 15b-18 : nhìn về Giuđa hồi cư tại Sion ; còn 19 - 21
111
thấy trước sự bành trướng của dân ưu tuyển và vương quyền
Javé trên tất cả.
Một số tác giả cho là Abdias có nhất quán về văn
chương ; số khác cho là gồm 8 lời sấm biệt lập ; nhưng tất
cả nhất trí chia hai phần :
Phần 1 : 1 -14 + 15a : tấn công Eđom
` Phần 2 : 15b + 16 -21 : đưa "ngày của Javé" vào
cho mọi dân.
Hai chương này rõ ràng tách biệt khỏi các lời sấm
trước của Isaie của Isaie bởi tính cách văn chương và nội
dung.
Riêng chương 34 làm cho sách được gọi là "Tiểu
Khải Huyền" vì phong thái khải huyền : các yếu tố không
ăn khớp nhau (c. 4), những trận chiến đẫm máu (6 - 8), việc
xứ sở mất khả năng sinh sản (10 - 11). Những thú vật quỉ dữ
; phán xét các nước rùng rợn. Cuối chương đã loan báo ơn
cứu độ Israel, rồi triển khai rộng ơ chương 35 : sa mạc sẽ nở
hoa, một xuất hành mới cho một dân được thanh tẩy... Về
niên đại, có nhiều ý kiến : sau Lưu Đày, vì lệ thuộc Is 13 ;
có người cho : 500 - 600 ; nhưng người khác lại đoán là
trước Lưu Đày.
113
VIII. JONA (Giona, Gn)
115
- Những lợi tức phụng tự : 3,6 -12 : việc góp phần
mười cho đền thờ sẽ làm người ta khỏi phải chúc dữ.
Vấn đề thưởng phạt : 3,13 -21 : Từ vựng và cách
đặt vấn đề cho thấy một lối suy tư có sau suy tư ở 2,17 liên
quan tới thưởng phạt.
- Phụ thêm : 3,22-24 : Giữ luật Môsê ; câu 23-24
nhân cách hóa "Sứ Giả" ở 3,1, cho đóng vai Elie : tái lập trật
tự trong xã hội để chuẩn bị cho Messie đến.
2. Thời kỳ của sách
Những sao nhãng về phụng tự phía hàng giáo sĩ
cho thấy sách ở vào thời khá xa thời sốt sắng trở lại của
Khacgai và Dacaria. Những bất công xã hội và lạm dụng
hôn nhân là của thời Nơkhemia. Giọng đả kích cứng cỏi cho
thấy lần can thiệp thứ nhất của Nơkhemia (445) chưa đến.
Những gần gũi về văn chương với Đệ Nhị Luật cho phép
nghĩ về thời kí trước công bố cuối cùng của Luật Tư Tế do
Esdras. Mà bởi thời gian có sứ mệnh của Esdras bị bàn cãi,
ta chỉ có thể duy trì là Malachie vào khoảng 460.
3. Sứ điệp
Malachie mạnh mẽ nhắc lại lí tưởng ngôn sứ
truyền thống : Việc chọn dân ; tính siêu việt của sự thánh
thiện Thiên Chúa, những yêu sách của sự công bình xã hội ;
hơn các ngôn sứ khác, ông nhấn mạnh sự trung thành trong
phụng tự phục vụ sự thánh thiện Thiên Chúa ; nhấn mạnh
vai trò giáo thuyết của hàng tư tế hơn là vai trò tế lễ. Gián
tiếp bênh vực Luật bằng cách đấu tranh chống những hôn
nhân lai tạp. Lấy lại giáo huấn của Sáng Thế 2, chuẩn bị cho
giáo huấn của Tân Ước về hôn nhân đơn hôn và vĩnh hôn.
X. ZACHARIE 9-14
(Dcr II)
116
thiết đền thờ, quản trị cộng đoàn, quan hệ giữa vua và tư tế
không gặp ở 9-14 nữa. Văn chương cũng khác.
1. Nội dung Dcr 9-14
- 9,1-8 : thanh tẩy các dân lân cận : Lời Thiên
Chúa, hoạt động và hữu hiệu, bắt đầu tác động trên Damas
và các tỉnh lân cận. Đây là một cuộc xét xử phá và xây, giúp
họ có thể được nhận vào cộng đoàn.
. - 9, 9-10 : Messie khiêm tốn và nghèo hèn, trải
rộng sự thống trị trên toàn thế giới.
- 9,11-17 : Giải thoát các tù nhân sau một chiến
thắng.
- 10, 1-2 : một mình Thiên Chúa thực hiện cứu độ,
các thần tượng không thể.
- 10,3 -11,3 : tập họp chung sau một Xuất Hành
mới.
- 11,4 -17 + 13,7-9 : mục tử bị loại bỏ (bất xứng).
- 12,1 - 13,6 : giải thoát, trở lại và thanh tẩy nhờ
tác động của Đấng bị giết.
- 13,2-6 : thanh tẩy xứ sở thực hiện nhờ thanh toán
những tàn tích của ngẫu tượng và nguỵ ngôn sứ.
- 14 : thiết lập vĩnh viễn vương quyền Javé
2. Niên đại cuốn sách .-Việc liệt kê các thành
Philitinh, việc nhắc đến Assyri, việc giới thiệu Đấng Messie
-Vua, đã làm người ta trước đây cho Dcr 9-14 là thuộc thế
kỷ VIII. Có những tác giả lại cho là nửa đầu thế kỷ V. Trái
lại, cho đến năm 1940, một số đông cho là thời kì Macabê.
Nhưng thể loại văn chương, bối cảnh chung chống lại ý đó.
Chỉ còn thời kỳ Hy Lạp, những năm 332-300 : 9,1-8 hợp
với thời kỳ đầu cuộc chinh phục của Alexandre ; 9,11-12,
những người bị bắt, có thể là bị Ptôlêmê I đưa đi năm 311...
3. Sứ điệp
Chủ đề cứu độ chiếm toàn bộ Dcr II. Sau một thời
im tiếng tiếp theo những năm phục hưng, sự mong chờ cứu
độ được khơi lại vào thời kỳ Alexandre : Javé là anh hùng
bách thắng, sẽ toàn thắng bằng phục hồi một vương quốc
phổ quát và vĩnh cửu.
117
Mặt khác tình hình cụ thể của cộng đoàn nghèo
nàn, bị chia rẽ, bị khai thác bởi những thủ lĩnh xấu, bị tàn
phá bởi Ai cập năm 311, tất thảy những cái đó làm nảy sinh
một hy vọng mới, hy vọng về một Cứu Chúa nghèo, một
Mục tử thanh liêm nhưng bị loại bỏ (11,4-17), nhất là một lễ
vật vô tội hiến mạng chuộc và thanh tẩy tất cả. Hy vọng này
cho những viễn cảnh ít rộng rãi hơn, tập trung hơn vào đời
sống bên trong của dân. Nó nói lên sự mong chờ của
"những người nghèo của Javé" mà các thánh ký Tin Mừng
sau này sẽ thích lấy nơi Dcr II để minh định chân dung
Đấng Cứu Thế./.
118
Mục lục
119
120