You are on page 1of 69

TÓM LƯỢC

GIÁO TRÌNH THẦN HỌC ĐỜI TU

Niên khóa 2023-2024

1
DẪN NHẬP
Ơn gọi thánh hiến là món quà tuyệt hảo Thiên Chúa tặng ban cho những ai
được Ngài chọn, và đón nhận hồng ân thánh hiến chính là cách đáp trả tình yêu nhưng
không của Thiên Chúa. Suốt cuộc đời, con người không ngừng được mời gọi chúc
tụng, ngợi khen Thiên Chúa bằng nét đẹp riêng chính Thiên Chúa ban tặng. Chỉ Thiên
Chúa, Đấng tác tạo nên con người, mới biết rõ mỗi người và Ngài biết cung nhạc
thích hợp của mỗi người trong bản hòa tấu của Ngài: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và
Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa ”
(Tv 139, 1 -2).
Như vậy Ơn Gọi Thánh Hiến Là Sự Đáp Trả Tình Yêu Thiên Chúa. Con người
được Thiên Chúa yêu thương và mời gọi trở nên những người con chí ái của Ngài.
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã viết: “Có nhiều đặc sủng
khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ
có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa hoạt
động mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích
chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì
được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày …” (1Cr 12, 4-8).
Trong tâm tình đó, chúng ta xác tín Dòng chúng ta chỉ là một phần chi thể của
Đức Giêsu Kitô; là một cung nhạc trong bản hòa tấu ngợi khen, tôn vinh và phụng thờ
Thiên Chúa. Những ai chọn và sống là một tu sĩ của Dòng tu nghĩa là họ chọn phụng
sự Thiên Chúa theo cách thức riêng và đặc biệt của Dòng đó. Trong sự soi sáng và
thúc đẩy của Chúa Thánh Linh, họ khám phá ra nét đẹp tuyệt diệu của nốt nhạc Dòng
mình trong nhạc khúc chúc tụng Thiên Chúa. Lời ca chúc tụng ấy được diễn tả một
cách trọn vẹn và hoàn hảo bằng những lời khấn mà trong niềm tin yêu và phó thác,
chúng ta tu sĩ đã xướng lên điệp khúc ấy cách hùng hồn.
Thiên Chúa là Tình yêu, Ngài không phải là Thiên Chúa đơn độc và chính
trong tình yêu hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi, “Cộng đoàn- Dòng tu” chúng ta
đã được tác tạo nên. Thiên Chúa đã mời gọi và liên kết những con người đơn sơ và
2
bình dị trở nên những anh/chị em trong một mái ấm “gia đình Cộng đoàn” mà chính
Thiên Chúa là Cha.
Đặc sủng Dòng chúng ta, một sắc hoa đẹp trong muôn ngàn sắc hoa; một tiếng
hát vút cao trong trăm ngàn tiếng hát, chính Thiên Chúa đã ban cho nhân loại, cho
Giáo Hội và cách riêng cho “Gia đình Dòng tu”. Một món quà được trao ban sẽ trở
nên không còn giá trị khi người nhận không cần vượt qua những thử thách. Trong thư
thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, thánh Phao-lô đã viết: “trong cuộc chạy đua trên thao
trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy
chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng … Vậy tôi đây cũng chạy như thế, chứ
không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí.
Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác,
chính tôi lại bị loại” (1Cr 9, 24b – 27).
Ân huệ và thử thách luôn luôn được Thiên Chúa trao ban cho chúng ta trong
suốt hành trình ơn gọi làm người cũng như ơn gọi thánh hiến. Sống tận căn ơn gọi
dâng hiến không chỉ là nỗ lực của bản thân và của cộng đoàn mà còn phải cậy nhờ
vào ân phúc tình yêu của Thiên Chúa.
Sống đời sống thánh hiến nói chung hay đặc sủng Dòng chúng ta nói riêng
không gì khác hơn chính là sống mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa nơi Đức
Giêsu Kitô, trong tình yêu của Chúa Thánh Thần. Đó là điều mà tu sĩ luôn luôn khắc
khoải và ước mong, “Lạy Chúa, lòng con luôn khắc khoải cho đến khi được an nghỉ
trong Chúa” (Augustine). Vì vậy, mỗi tu sĩ mỗi Dòng tu cần tìm cho mình một
phương cách để có thể sống trọn vẹn căn tính ơn gọi của mình và một trong những
phương cách hữu hiệu nhất chính là đời sống cầu nguyện- cộng đoàn; huynh đệ- cộng
đoàn; sứ vụ- cộng đoàn.

3
PHẦN 1
LỊCH SỬ ĐỜI TU
Hiện tượng tu trì phổ biến và lâu đời. Gốc rễ của hiện tượng này dường như
nằm sâu trong chính bản chất của con người. Mọi người đều ước muốn đạt đến tầm
vóc viên mãn trong sự liên hệ với Siêu Việt và thúc đẩy một số người sống trọn vẹn
mơ ước sâu thẳm này. Chiêm niệm là nguyên mẫu của đời tu, chiêm niệm là khuôn
mẫu mang tính phổ quát của một linh đạo nhằm đạt đến con người toàn vẹn và giúp
con người hướng đến Siêu Viêt.
Thời Cựu Ước, người ta thấy xuất hiện những hình thức 'tu trì' của một số cá nhân với
lối sống cô tịch trong sa mạc và có kèm theo lời khấn 'Nazir' trước khi được Thiên
Chúa sai họ đi thi hành một sứ vụ ngôn sứ nào đó (x. Ds 6, 1-21). Trường hợp của
Samson (x. Tl 13,1tt), của Elia (x. 1V 19,8-18) thuộc loại này.
Đến thời Tân Ước, người ta cũng gặp thấy một số cá nhân hoặc những nhóm nhỏ
được qui tụ và sống chung trong cô tịch và chay tịnh nghiêm nhặt để mong đợi Đấng
Mesia (Nhóm Esseni là một ví dụ - Thánh Gioan Tẩy Giả xuất phát từ nhóm này (x.
Mc 1,1-8; Lc 3,1-18; Ga 1,19-28).
Đến thế kỷ III, ở Đông Phương xuất hiện một số Kitô hữu có ước vọng tuân giữ cách
nghiêm nhặt các Huấn lệnh Phúc Âm. Họ tìm cách xa lánh cuộc đời trần thế thông
thường, tự nguyện sống ẩn mình trong sa mạc để gặp gỡ Thiên Chúa qua đời sống
khổ chế, hy sinh và cầu nguyện. Kiểu sống này phát triển ngày càng mạnh ở Đông
Phương và sau đó, khoảng đầu thế kỷ IV đã lan tràn sang Tây Phương.

I- ĐỜI TU KI-TÔ GIÁO


Vào những thế kỷ đầu, không có sự phân biệt về nếp sống giữa người Kitô hữu
và tu sĩ, chưa có hàng rào phân cách giữa giáo sĩ và giáo dân. Danh từ giáo sĩ [kleros]
chỉ được sử dụng từ năm 200, còn danh từ giáo dân [laicus] mới bắt đầu được sử
dụng từ năm 220. Sau đó, danh từ tư tế [linh mục], bắt đầu được sử dụng trong các

4
cộng đoàn nhỏ. Mọi Kitô hữu đều được mời gọi sống thánh thiện, đều được kêu mời
vào làm vườn nho của Chúa tùy theo nhu cầu, các đặc sủng và ơn gọi của họ.
Khi đề cập đến nguồn gốc mang tính tổ chức và cơ cấu đời tu, chúng ta phải
đợi đến giữa thế kỷ thứ 3 và đầu thế kỷ thứ 4 để khẳng định cách rõ ràng sự hiện diện
của đời tu.
Tại Syria đầu thế kỷ thứ 2: Xuất hiện hình thức tu mang tính khổ chế và
sống cộng đoàn, không xuất thế nhưng nhập thế; Là tổ chức giáo dân hội nhập tốt với
Giáo hội địa phương. Đặc tính là đề cao khiết tịnh- khổ chế - cộng đoàn hỗn hợp.

Tại Ai Cập thế kỷ thứ 2 và 3: Lúc đầu Trinh nữ cầu nguyện và chiêm niệm; Góa
phụ phục vụ công tác tông đồ - phó tế; Các ẩn sĩ sống trong sa mạc. Dần dần họ qui tụ
thành nhóm vào thế kỷ thứ 3.
Năm 313, sự trở lại của Constantine đánh dấu bước ngoặt quan trọng của lịch sử
Giáo hội. Giáo hội không còn bị ngược đãi nữa. Giáo hội được hợp thức hóa qua sắc
chỉ Milan. Khi đó, Giáo hội Kitô giáo trở thành một xã hội lý tưởng. Tới thời hoàng
đế Thêôđôsiô I, năm 395, Kitô giáo trở thành quốc giáo. Hàng giáo sĩ, nhất là các
Giám mục, trở thành như các quan chức trong các tổ chức chính quyền, nắm giữ cả
5
thần quyền và thế quyền, vì thế đã đưa đến tình trạng hàng giáo sĩ đi vào thoái hóa.
Giáo hội lệ thuộc đế quốc và đôi khi còn hy sinh các lợi ích thiêng liêng cho các mục
đích cai trị. Từ những suy thoái chạy theo quyền lực và sống thế tục, trong đời sống
Giáo hội xẩy ra nhiều hệ lụy, đời sống đạo sa sút, sống xa rời Tin mừng. Tinh thần do
các vị tử đạo nung nấu bắt đầu nhạt dần.
Thế nhưng, khi Giáo hội bị chi phối bởi tinh thần thế tục, không hoàn thành sứ
mạng của mình là đem mọi người đến sự hiệp thông với Thiên Chúa là Cha và sống
hiệp nhất huynh đệ với nhau. Thiên Chúa thúc đẩy một số người, để họ tạo nên những
cộng đoàn ngôn sứ. Sứ mạng ngôn sứ có nhiệm vụ tạo nên, xây dựng và phát triển
một ý thức và tư duy ngược lại với ý thức và tư duy nền văn hóa đang thống trị xã
hội.
Bởi vậy, có nhiều người tìm vào sống trong rừng vắng hay trong sa mạc để tiếp
tục bắt chước Đức Kitô, trở về với Tin mừng, trở về với nếp sống của cộng đoàn Kitô
hữu tiên khởi. Họ sống đời ẩn tu, khổ hạnh, cầu nguyện, chuyên chăm đọc Sách
Thánh, thực hành các nhân đức và lao động cực nhọc thay thế cho việc tử đạo trước
đó. Do đó, một hình thức tu trì mới xuất hiện. Đây mới thực sự là khởi điểm của đời
sống tu trì, mở ra một con đường hoàn thiện khác với con đường do các vị tử đạo khai
phá. Các vị ẩn tu một mình này có ảnh hưởng lớn trên Giáo hội và nhiều vị trở thành
giám mục và các nhà lãnh đạo thánh thiện.

1- ĐỜI TU THỜI KỲ ĐẦU TẠI ĐÔNG PHƯƠNG


1.1- THÁNH PHAOLÔ ẨN TU (229-342)
Khoảng năm 250, để tránh cuộc bách hại Giáo Hội cách tàn bạo của Hoàng đế
Decius, Phaolô đã ẩn mình trong nhà một người bạn nhưng không được an toàn, sau
đó ngài đã rời bỏ nơi này và vào sống ẩn giật trong sa mạc Thébaide thuộc Ai Cập.
Chính nơi sa mạc này, Phaolô được ơn Chúa thúc đẩy và quyết tâm ở lại trong sa
mạc, không bao giờ trở lại với nếp sống thành thị xa hoa nữa. Thay vào đó, Phaolô sẽ

6
dùng đời sống hằng ngày để cầu nguyện cho những nhu cầu của hết thảy mọi người
và cho các tội nhân được ơn hoán cải.
Không lâu trước khi qua đời, Chúa an bài cho ngài được gặp Antôn vì Chúa cho ngài
linh cảm được rằng vài ngày nữa mình sẽ qua đời. Phần Antôn, ngài đau đớn buồn
sầu bởi không muốn mất đi người bạn mới quen biết này cách nhanh chóng như vậy.

1.2-THÁNH AN-TÔN
Thánh Antôn sinh tại Cosma bên Ai Cập trong một gia đình quí phái, ngài sống ở
mốc lịch sử Kitô giáo từ bị bách hại trở thành quốc giáo, đồng thời Ngài sống ở đất
nước Ai Cập trù phú với sông Nile, và ngài sống trong gia đình nhà nông giàu có, đạo
đức. Những yếu tố này ảnh hưởng lớn đến cuộc đời sau này của ngài.
Khỏang năm 270, một buổi sáng tới nhà thờ, thánh nhân nghe được tiếng Chúa
qua đoạn Tin Mừng Mt 19, 21:" Nếu con muốn trở nên trọn lành, hãy về bán hết gia
tài, phân phát cho kẻ nghèo khó". Đối với Antôn lời Phúc âm này tưởng như Chúa
đang nói với chính mình, Antôn đã quyết tâm thực hiện. Ngài đến với sự cô tịch và
vượt thắng cám dỗ, ngài sống đồng cảm với người cùng thời đại, và ngài trở nên con
người của tình yêu
Linh đạo tập trung vào:
 Kinh Thánh
 Sự tĩnh lặng
 Chiến đấu chống ma quỷ

1.3- THÁNH PACHOMIUS (Pac-Côm)


Pachomius (qua đời năm 346) là vị sáng lập lối sống cộng đoàn đan tu. Sinh ra ở Ai-
Cập, cha mẹ là người không Công giáo, nhưng thánh nhân đã gia nhập Kitô giáo sau
lần giải ngũ năm 313. Hoa trái của thời gian sống như là một ẩn sĩ, thánh nhân đã
thành lập đan viện đầu tiên ở Tabennisi năm 320 và điều hành 9 đan viện nam và 2
đan viện nữ cho tới khi Ngài qua đời. Nền tảng quân đội và những kỹ năng tổ chức

7
của thánh nhân giúp Ngài phân chia các đan sĩ theo từng nhóm dựa trên công việc của
họ. Thí dụ, nhóm nông dân, nhóm nướng bánh, nhóm thợ dệt và nhóm thợ gốm... Đối
với các đan sĩ, vâng lời tuyệt đối được đặt lên hàng đầu, theo sau là lối sống khổ
hạnh, tu đức. Pachomius thường dành cả đêm để cầu nguyện và làm việc.
Pachomius buộc mọi tu sĩ ít nhất phải đọc được Sách Thánh. Pachomius từ chối làm
linh mục. Vì thế tu sĩ của ngài đều ở bậc giáo dân. Điểm này được coi là một “dấu chỉ
ngôn sứ” về “Giáo hội phẩm trật”.
Linh đạo tập trung vào:
 Đời sống cộng đoàn
 Tình huynh đệ trong bác ái
 Tình huynh đệ được củng cố trong cầu nguyện chung.
 Để của chung
 Mang tính giáo dân

1.4- THÁNH BASILIÔ


Thánh Basiliô thành Caesarea, còn được gọi là Thánh Basiliô Cả (~ 330 - 379)
là một Giám mục thành Caesarea Mazaca thuộc vùng Capadocia, Tiểu Á. Ngài là
người sáng lập một dòng tu ở vùng Pontus gần Biển Đen, và là tác giả của một bộ quy
luật đời tu sau trở thành quy luật chính cho lối sống đan tu của các Giáo hội Đông
phương, đây cũng là nguồn cảm hứng cho bộ Tu luật của Thánh Biển đức.
Năm 370, ngài trở thành Giám mục của Caesarea. Thánh nhân cam kết với
những người cùng cực trong nạn đói. Ngài tạo ra khu phức hợp mang tên ngài, bao
gồm nhà tế bần và bệnh viện - Basiliad, đấu tranh chống đói nghèo. Ngài bảo vệ tín
điều Nicea chống lại lạc thuyết. Ngài đã viết nhiều bài luận về Chúa Thánh Thần,
phát triển nền thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài cố gắng rất nhiều để làm yên
lòng những chia rẽ trong Giáo hội….
Luật của thánh Basiliô nhen nhúm đức ái. Có thể tóm tắt như sau: để yêu mến
Chúa, phải xa lánh thế gian; để yêu mến tha nhân, phải sống chung với nhau. Bộ luật

8
lấy nguồn từ Kinh thánh và bám rễ sâu vào Giáo hội. Ngài dựa trên những câu Tin
mừng đầy tinh thần bác ái, nhưng khi áp dụng vào đời sống cụ thể, lại chú trọng đến
những lời cảnh cáo và trừng phạt. Do vậy, luật của ngài mới chỉ nhen nhúm tinh thần
bác ái Tin mừng mà thôi. Thánh Basiliô áp dụng tinh thần huynh đệ theo luật thánh
Pachomius, nhưng thay đổi nếp sống bằng cách giảm bớt số người trong cộng đoàn,
giúp cho viện phụ dễ quan tâm đến tất cả mọi người và đưa ra những luật lệ gắt gao
hơn. Vai trò của viện phụ và đức vâng phục được đề cao hơn. Các đan sĩ có thể được
lãnh tác vụ linh mục để phục vụ cộng đoàn.
Linh đạo tập trung vào:
- Kinh Thánh là nguồn của linh đạo đan tu.
- Tình huynh đệ là nền tảng của đan tu là diễn tả của luật mến Chúa, yêu người.
- Mở rộng đáp ứng nhu cầu của Giáo hội và thế giới.

2- ĐỜI TU TẠI TÂY PHƯƠNG


Đời đan tu được du nhập qua Tây Phương do công của một số vị Giáo Phụ mà Thánh
Athanasio là người khởi đầu.
2.1- THÁNH ATHANASIO (296-373)
Như một sự an bài kì diệu của Thiên Chúa, cuộc lưu đày của Thánh Athanasio, Giám
mục Giáo phận Alexandria đã mang đến cho Tây Phương hình thức 'tu trì cộng tu'
vốn đã được thử nghiệm và phát triển ở Đông Phương. Từ đây, đời đan tu được giới
thiệu cho Tây Phương và đã làm bùng dậy phong trào tu trì ở đây.
2.2- THÁNH HIERONIMO (347-420)
Hieronimo (347-420) là người xứ Dalmatia, ngài đã đến sống ẩn dật tại sa mạc
Chalcis vào năm 374. Khi trở về Rôma năm 382, Hieronimo mang theo nhiều kinh
nghiệm quí báu và những nhận thức vững chắc về các vị Ẩn Tu Sa mạc mà ngài đã
viết 'hạnh tích' trước khi từ giã cõi đời ở Bethléem năm 420.
2.3- THÁNH MARTINO, GIÁM MỤC (317-397)

9
Martino sinh tại xứ Gaule (Pháp), vốn là một binh sĩ Rôma đã trở thành đan sĩ.
Martino lập cộng đoàn đan sĩ đầu tiên tại xứ Gaule. Đến khi ngài làm giám mục thành
Tours năm 371, ngài đưa cộng đoàn do ngài thiết lập về Marmoutier, phía bắc thành
Tours và tổ chức cộng đoàn theo khuôn mẫu đan tu của Thánh Pacomio. Marmoutier
là đan viện đầu tiên bên Tây Phương. Các đan sĩ của đan viện này sống đời khổ hạnh
khắc khe và đi rao giảng Tin Mừng.
Tại Ý và Provence (những vùng tiếp xúc với Phương Đông), các hình thức ẩn tu và
các đan viện được thiết lập ngày càng nhiều.

2.4- THÁNH ÂU-TINH


Lối đan tu noi gương Cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi
Thánh Âu-tinh (Augustino) có sáng kiến và am hiểu đời sống đan tu rất đặc biệt. Vừa
tới châu Phi, ngài đã thành lập một đan viện gồm những đan sĩ giáo dân trong nhà của
thân phụ ngài ở Tagaste. Tại Hipone, khi ngài đã là linh mục, ngài thành lập thêm
một đan viện thứ hai. Để được gia nhập cộng đoàn, người ta phải để chung mọi sự và
mỗi người sẽ được cung cấp theo nhu cầu, theo gương cộng đoàn tiên khởi tại
Giêrusalem. Trở thành giám mục Hipone, ngài sống như một đan sĩ và nhà xứ của
ngài biến thành nơi quyết tâm sống đời đan tu. Ngài nói về đời sống đan tu trong
nhiều tác phẩm của ngài, nhất là trong bộ Luật của ngài.
Lý do hiện hữu của đời tu
Đối với Âu-tinh, lý do hiện hữu của đời sống đan tu là noi gương nếp sống của
cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem: “một cộng đoàn đồng tâm nhất trí, để
mọi sự làm của chung và để các bề trên cung cấp theo nhu cầu mỗi người.”
Thánh Thần đóng một vai trò cơ bản trong việc kiến tạo một linh hồn và một
trái tim giữa các Kitô hữu của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Sự hiệp nhất từ Thiên
Chúa mà đến và Đấng Trung Gian của sự hiệp nhất này là Đức Kitô Phục Sinh. Trong
Người tất cả chúng ta được hiệp nhất trong sự bình an đời đời. Khi mọi người được
nên một, khi ấy Đức Kitô đã hoàn tất sứ mạng của Người. Người kiến tạo sự hợp nhất

10
của Hội Thánh qua Lễ Tạ Ơn với bánh và rượu, làm cho ta thành thân thể của Người.
Hội Thánh là hình ảnh của lịch sử tôn giáo mà toàn thể nhân loại phải đi ngang qua,
từ sự đa thức tới sự hợp nhất trọn vẹn trong Đức Kitô Phục Sinh. Cv 4, 32-35 là một
tiếng gọi từ Thiên Chúa và Thánh Thần, các Kitô hữu tiên khởi đã vâng nghe Âu-tinh,
và giờ đây đến lượt các đan sĩ, sống trong cộng đoàn một đan viện và từ bỏ mọi của
cải riêng.
Người thế gian và đan sĩ: sự khác biệt trong cùng một tiếng gọi đi tới hiệp thông
Tất các Ki-tô hữu đều được kêu gọi nên một và chia sẻ của cải của mình, vì thế sự
khác biệt giữa họ không phải là một sự khác biệt có tính quyết định; người sống ở thế
gian và đan sĩ khác nhau về mặt xã hội, nhưng họ được hiệp nhất nhờ cùng một đức
mến. Các đan sĩ là “Đức Ki-tô chiến sĩ”, giúp đỡ Đức Kitô trong các thành viên
nghèo, như các cộng đoàn Kitô của đế quốc Rô-ma từng giúp cộng đoàn Giêrusalem.
Mọi người kỳ vọng vào cùng một phần thưởng: hòa bình toàn cầu của Đức Kitô.
Sự khác biệt duy nhất giữa những đan sĩ và những Kitô hữu sống giữa đời chỉ là mức
độ cao hơn của lòng quảng đại mà họ phải thể hiện. Đức Giêsu muốn rằng hết thảy
mọi người nên một chứ không chỉ riêng các Kitô hữu tiên khởi mà thôi.
2.5- GIOAN CASSIANO (360-435)
Gioan Cassiano (360-435) từng là đan sĩ được 20 năm tại một đan viện ở Bethléem,
năm 415 Gioan Cassiano lập Đan Viện Saint Victor tại Marseille cho nam giới và lập
Tu viện Saint Sauveur cho nữ giới. Ngài là một bậc thầy trong đời sống đan tu.
Tu viện Saint Victor trở nên nổi tiếng nhờ tác phẩm của Gioan Cassiano. Đó là bộ
'Giáo Huấn Đan Tu', cuốn sách gối đầu của đan sĩ và tác phẩm 'Thế Hệ Viện Tu' (De
Institutis Coenobiorum và Collationes).
2.6- THÁNH COLUMBANO, VIỆN PHỤ (540-615)
Columbano sinh tại Kildare, Ireland vào giữa thế kỷ VI, một thời kỳ mà danh tiếng
các dòng tu ở Ireland đã bắt đầu nổi danh trên khắp thế giới Ki-tô Giáo. Khi ấy người
ta tuôn đến các hòn đảo này để đọc hiểu văn chương và nghệ thuật trong các đan viện.

11
Từ nhỏ, Columbano đã có một trí khôn sắc sảo hứa hẹn những địa vị cao trọng trong
xã hội. Nhưng ngài ưu tư vì những nguy hiểm mà sắc đẹp bày ra cho ngài. Ước muốn
duy nhất của Columbano là sự thánh thiện, vì thế ngài quyết từ giã thế gian để sống
trong các đan viện.
Sau thời gian dài khổ luyện và học hỏi từ các bậc trưởng thượng, Columbano đã đạt
được một sự hiểu biết và trực giác thiêng liêng sâu sắc. Vì thế, chẳng mấy lâu sau,
ngài thu hút được nhiều tâm hồn thiện chí muốn theo đuổi lý tưởng tu trì với mình và
từ đó thánh nhân đã thành lập nhiều đan viện tại nhiều vùng khác nhau, trong đó đáng
kể nhất là tại Luxeuil (Pháp) và tại Bobbio (Ý).
Ngoài các đan viện do ngài lập, Columbano còn để lại cho hậu thế một bản Tu Luật
rất nhiêm nhặt và đã giúp ích cho nhiều tâm hồn.
Tu Luật của Thánh Columbano có 10 chương (ngắn hơn Tu Luật Thánh Biển Đức),
trong đó 6 chương đầu nói về sự vâng lời, thinh lặng, đồ ăn, khó nghèo, hèn mọn và
sự trinh khiết. Chương 10 có thêm nhiều quy định về việc trừng phạt thân thể. Đan sĩ
mặc áo dài và mũ trùm đầu bằng lông cừu không tô màu. Họ dành nhiều thì giờ lao
động chân tay, giống cách sống theo những tu luật đương thời khác.
Tu Luật Thánh Columbano được Công Đồng Macon IV chấp nhận năm 627 và cũng
được Thánh Biển Đức sử dụng nhiều chi tiết khi viết bản Tu Luật của ngài. Công
cuộc của Columbano triển nở mạnh mẽ sau cái chết của ngài. Luxeuil trở thành
trường phái đan viện quan trọng trong thế kỷ VII và còn tồn tại cho tới cuộc Cách
Mạng Pháp (1789). Bobbio trở thành 'Đan Viện Montecassino' miền bắc Italia. Ngày
nay, dân miền bắc Italia rất sùng kính thánh Columbano, có 34 giáo xứ được kính
dâng ngài.
Tuy nhiên, người có ảnh hưởng lớn nhất đối với đời sống 'đan tu cộng tu' ở Tây
Phương chính là Thánh Biển Đức, vì vậy chúng tôi muốn đề cập đến ngài một cách
chi tiết hơn.

12
3- SỰ PHÁT TRIỂN ĐỜI TU
Vita Antonii do Anathasiô được dịch ra bằng tiếng Latin và phổ biến ở Châu Âu,
Gioan Cassiano mang mẫu đời tu của Ai cập sang Châu Âu, Thánh Biển Đức hoàn
thiện đời tu với bộ luật nổi tiếng vào thế kỷ thứ 6.

3.1-THÁNH BIỂN ĐỨC (480 – 547)


Thánh Biển Đức học thần học tại Rôma, bắt đầu đời sống ẩn tu vì đời sống trụy
lạc tại Rôma, học cách sống khổ chế với một vị ẩn tu, sống ẩn dật tại một hang động
tại Subiaco và bắt đầu viết luật. Đi đến Monte Casino lập một đan viện khác vào năm
529, và tại đây, ngài hoàn tất luật dòng.
Luật dòng Biển Đức với những ý tưởng chính:
- Bền vững: trung thành với đời sống đan tu, sống trong đan viện với anh em
dưới quyền đan phụ.
- Conversio morum: từ bỏ lối sống cũ, sống đời sống mới nhờ hoán cải trở về với
Chúa.
- Vâng lời: liên quan đến khiêm nhường nhằm thực thi ý định của Thiên Chúa.
- Đan sĩ khấn bền vững, conversio morum, vâng phục.
- Đời sống cộng đoàn: như là phương tiện giúp tu sĩ hoàn hảo (Pachomius) và là
con đường dẫn tới hoàn hảo (Basiliô và Augustinô).
- Đan viện trưởng do các đan sĩ bầu, không do chỉ định.
Vào thế kỷ thứ 8 và 9, luật Biển Đức trở thành bộ luật duy nhất của các đan
viện phương Tây do sự ủng hộ của ĐGH Grêgôriô Cả và các hoàng đế.

13
3.2- VƯƠNG QUỐC CAROLINGIAN (751 – 840)
Đan viện không còn là nơi cầu nguyện nhưng là những trung tâm quyền lực
chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa. Các nhà cầm quyền tìm cách kiểm soát các trung
tâm quyền lực này. Gồm 2 loại đan viện: thuộc hoàng đế và Giáo hoàng.
Bối cảnh chung của các đan viện là vô kỷ luật vì chiến tranh và vì sự can thiệp
của nhà cầm quyền.

3.3- THỜI KỲ ĐEN TỐI (896 -1046)


Đây là thời kỳ đen tối nhất của các triều đại Giáo hoàng với những tham nhũng
như buôn bán vật thánh, ưu đãi thân quyến, cuộc sống xa hoa, có tình nhân, hung ác,
và ngay cả giết người, ví dụ ĐGH Sergiô III (904-911) chịu trách nhiệm trong việc
ám sát ĐGH tiền nhiệm Lêô V.
Sự thống trị chức vụ Giáo hoàng của ba gia đình quyền lực Rôma và các vua
nước Đức, ví dụ ĐGH Gioan XIV do hoàng đế Đức Otto II đặt lên. Năm 1054 Giáo
hội Đông phương ly khai.
3.4- CANH TÂN CỦA ĐGH GRÊGÔRIÔ VII (1073 – 1085)
Giám mục Rôma được gọi là Giáo hoàng, ngài có quyền cách chức Giám mục
và hoàng đế. Các nhà cầm quyền phải thần phục ĐGH.
ĐGH có quyền xét xử mọi người và bất khả ngộ.
Cấm linh mục lấy vợ.
Cuộc canh tân biến Giáo hội thành một cơ cấu luật pháp… dẫn đến cùng một
quan điểm như quyền lực thế tục, tự xem mình như một xã hội một quyền lực trong
khi đó Giáo hội thực ra phải là hiệp thông, phục vụ.
Ảnh hưởng chế độ phong kiến trên đời sống đan viện:
- Hệ thống tư hữu hóa và sự phụ thuộc hàng dọc.
- Luật tư hữu.
- Người lập đan viện coi mình như người sở hữu đất đai, bất động sản của đan
viện. Cho phép họ cai trị đời sống bên trong đan viện.
14
3.5- CANH TÂN CỦA CLUNNY THẾ KỶ THỨ 10
Không bị sự can thiệp của quyền lực xã hội hoặc Giáo hội. Các đan phụ thánh
thiện và tài năng, sống lâu năm, không do bầu cử nhưng do vị đan phụ tiền nhiệm chỉ
định: sự cải cách được bảo đảm.
Cluny là cộng đoàn của kinh phụng vụ: kéo dài thời gian cầu nguyện bằng cách
thêm thánh vịnh và bài đọc, tất cả đều hát, có nhiều thánh lễ mỗi ngày. Cầu nguyện
cho người chết: tạo được sự ủng hộ kinh tế từ người giàu có!
Đời sống không chú trọng đến sự khổ hạnh, có đời sống tiện nghi, có nhiều ơn gọi
từ các gia đình quyền quí và giàu có, im lặng tuyệt đối chỉ mở miệng để ca tụng Thiên
Chúa, giao tiếp bằng cử điệu.
Chú trọng đến nghệ thuật thánh không có lao động chân tay nhưng các đan sĩ lao
động trí óc như chép sách, sáng tác, viết sách…
Như vậy có thể thấy ở thời kỳ này, có thể nói được là chính luật Biển Đức cũng bị
biến thái do những cải tổ xuất phát từ đan viện CLUNY. Cluny đặt nặng việc cử hành
phụng vụ, với những thánh lễ trọng thể, kéo dài với những giờ kinh thần vụ chính
kèm theo rất nhiều nghi thức tùy khác. Nhằm nêu bật vị trí của phụng vụ trong đời tu,
các nhà thờ của Cluny được xây cất theo kiến trúc huy hoàng, đó là chưa kể những áo
lễ kim tuyến lóng lánh, nến đèn rực rỡ giữa hương trầm nghi ngút trong các buổi cử
hành phụng vụ: nói khác đi, những lễ nghi phụng vụ phải tạo ra quang cảnh của ca
đoàn thần thánh trên Thiên quốc đang hát xướng ca khen Chúa. Việc đề cao lễ nghi
phụng vụ trong đời sống đan tu, tuy không phải là không đúng, nhưng đã làm mất sự
quân bình mà thánh Biển Đức đã đề ra: Cầu nguyện và lao động.

3.6- GRANDE CHARTREUSE: CẢI CÁCH CỦA THẾ KỶ 11


Do thánh Brunô sáng lập tại Grenoble, Pháp. Thánh Brunô là giáo sư đại học
Rheims ủng hộ cải cách sau đó sống ẩn tu với một vài người bạn.

15
Đặc tính: Thinh lặng triệt để, vị trí của đan viện được chọn lựa rất kỹ lưỡng, nơi
thật sự hoang vắng; không khuyến khích khách đến thăm. Đan sĩ là những người biết
đọc viết vì công việc của đan sĩ là sao chép các bản viết tay: rao giảng Lời Chúa bằng
đôi tay thay vì lời nói.
Cơ cấu bao gồm đan sĩ và Conversi: Đan sĩ là người sống triệt để đời sống đan tu.
Conversi là những người sống đời đan tu đơn giản, có lời khấn, đọc một phần kinh
phụng vụ, chăm lo cơ sở vật chất và kinh tế của cộng đoàn.

3.7- CITEAUX: CẢI CÁCH CỦA THẾ KỶ 11


Robert de Molesme thành lập cùng với một số ẩn sĩ, 1075; Năm 1098, Robert
cùng với 21 đan sĩ đến Citeaux lập một đan viện mới và Bernard de Clairvaux phát
triển Citeaux.
- Sống theo luật Biển Đức; sống đời sống độc tu trong cộng đoàn đan tu.
- Cơ cấu vật chất do các conversi đảm nhận.
- Tìm kiếm bình an và cô độc, tách biệt với đời sống bận rộn của xã hội.
Vào cuối thế kỷ 12, Citeaux trở nên quá giàu có, lý do của suy thoái: cám dỗ của
vật chất do người giàu cúng và lòng tham của con người.

3.8- THÁNH PHANXICÔ (1182 – 1226)


Sinh tai Assisi, Phanxicô thích ăn chơi hoang phí. Ước mơ trở nên hiệp sĩ và
quí tộc, gia nhập quân đội, bị ở tù năm 1202. Ngài muốn gia nhập quân đội phục vụ
cho ĐGH nhưng lại tiếp tục thất bại.
Trong một thị kiến ngài nghe: ‘phục vụ chủ hơn là phục vụ cho tôi tớ’. Ngài trở
lại Assisi quyết định sống đời sống ẩn dật và cầu nguyện, sống với những người hành
khất.
Vào năm 1205, tại nhà thờ St. Damianô, ngài nghe lời gọi của Đức Giê-su:
‘Phanxicô, hãy đi và tu sửa nhà thờ của Ta.’ Phanxicô dùng tiền của bố để sửa nhà
thờ đổ nát St. Damianô. Ngài bị bố tố cáo với đức Giám mục của Assisi…

16
Phanxicô chưa xác định rõ về ơn gọi của mình, ngài dấn thân phục vụ người
cùi và tu sửa thêm 2 nhà thờ. Năm 1208, khi ngài nghe Mt 10, 9: đừng kiếm vàng bạc
hay tiền giắt lưng… chỉ loan báo Nước Thiên Chúa và sám hối. Ngài áp dụng câu này
vào cuộc đời mình. Vài tháng sau ngài có vài môn đệ đi theo; ngài đòi hỏi từ bỏ mọi
của cải như là điều kiện tiên quyết để theo ngài và sai hai người một đi loan báo sự
sám hối.
Năm 1209 khi nhóm có được 12 thành viên, Phanxicô đi đến Rôma và trình
bày phác thảo về bộ luật đầu tiên với ĐGH Innocent III và được ĐGH phê chuẩn và

ban quyền loan báo Tin Mừng cho dù nhiều nhóm hành khất khác theo lạc giáo. Trở
về Assisi, Phanxicô chọn Porziuncola là nơi cư trú, từ đó các anh em hèn mọn đi khắp
nơi loan báo Tin Mừng và trở về hội họp với nhau và gặp đấng sáng lập định kỳ.
Sau năm 1221, Phanxicô bắt đầu đời sống ẩn dật, từ bỏ mọi chức vụ trong

dòng. Năm 1224 ngài nhận năm dấu thánh, đổi mới lòng nhiệt thành tông đồ, ngài
trở về Assisi đi khắp thành thị và thôn xóm, chính con người ngài là chứng tá của
Chúa. Năm 1226 ngài qua đời giữa anh em của mình.

Thánh Phanxicô đã sống khó nghèo tuyệt đối. Ngài muốn bắt chước Chúa,
muốn noi gương Đức Mẹ để sống cuộc đời khó nghèo. Do đó, Ngài đã kéo mọi
người, kéo mọi vật, mọi thụ tạo lại gần Thiên Chúa. Ngài đã gọi nhân đức nghèo là
“Bà Chúa nghèo”, Ngài đã gọi Mặt Trời là Anh Mặt Trời, Mặt Trăng là chị Mặt
Trăng, thần chết là chị chết v.v… Ngài muốn nói lên một thực tế là tất cả đều do Tình
Yêu của Thiên Chúa. Trong Đức Kitô, mọi sự, mọi vật, mọi loài, kể cả con người đều
hòa quyện nơi Tình Yêu của Chúa và như thế, tất cả đều trở nên bài ca tình yêu muôn
thuở, cảm tạ tri ân Thiên Chúa Ba Ngôi.

3.9- DÒNG NỮ HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ

17
Thời Trung cổ, các dòng tu nữ đều là dòng kín. Điều này được ấn định do Sắc
lệnh của ĐGH Boniface VIII năm 1298 và Công đồng Trentô xác nhận sự bó buộc
này. Trong thực tế có nhiều ơn gọi nữ muốn dấn thân trong công tác tông đồ đặc biệt
là giáo dục các trẻ em nữ, tuy nhiên loại ơn gọi này không được phát triển vào thời
gian này. Để hiện hữu các dòng nữ hoạt động tông đồ phải trải qua đoạn đường rất
khó khăn và đau khổ, đôi khi là con đường thập giá đối với các Đấng lập dòng.
Vincent De Paul: Dòng Nữ Tử Bác Ái năm 1633
Để đáp ứng nhu cầu về bác ái, Vincent de Paul lập dòng nam Bác ái và hiệp hội
phụ nữ tại các giáo xứ để giúp những người nghèo khổ, tuy nhiên các phụ nữ không
đáp ứng được nhu cầu. Do đó để công cuộc bác ái được tiếp tục cần có ‘một nhóm
các phụ nữ có lòng tốt’. Thánh Vincent gặp bà Louise de Marillac và giao cho bà lập
dòng Nữ Tử Bác Ái năm 1633.

II- SỰ THĂNG TRẦM CỦA ĐỜI TU


Đường cong về sự phát triển của đời tu bao gồm hai giai đoạn: phát triển và thoái hóa.

1 2 3 4 5 6 7

Giai Đoạn Phát Triển


1- Huyền thoại (Myth/charism): giai đoạn thành lập với một một định hướng, ước
mơ hấp dẫn có sức qui tụ nhóm và thêm sinh lực cho nhóm hoạt động. Câu chuyện về
18
kinh nghiệm thiêng liêng của đấng sáng lập trở thành huyền thoại (myth) chứa đựng
lực thúc đẩy bên trong làm thăng hoa cái nhìn cá nhân và nối kết các thành viên có cái
nhìn khác nhau trong chi tiết.
Huyền thoại bao gồm 2 giả thiết: 1/ ý thức sâu sắc về thực tại và sự đáp trả phù hợp
với dấu chỉ thời đại và 2/ là câu chuyện của một nhóm tụ tập quanh đấng sáng lập.
Giai đoạn này có thể so sánh với một hành trình của nhóm có lẽ không rõ về
mục tiêu nhưng tin rằng đây là cuộc hành trình xứng đáng để đi.
2- Niềm tin và xác tín: giai đoạn thấy rõ hơn về căn tính, những chọn lựa ưu tiên của
lối sống và công tác tông đồ. Sự thúc đẩy của huyền thoại vẫn mạnh nhưng theo một
chiều hướng nhất định. Đây là giai đoạn biến huyền thoại thành những xác tín có định
hướng được diễn tả trong những câu tuyên bố về những mong ước mà nhóm muốn
đạt đến. Nhóm bị đòi buộc xây dựng nền tảng thần học và lý thuyết vững chắc. Cái
nhìn (vision) và mục tiêu trở nên rõ ràng hơn để các thành viên của nhóm có thể chia
sẻ. Vào giai đoạn này nhóm có khuynh hướng chọn lựa hơn những người muốn gia
nhập.
3- Luật và qui chế: Trong giai đoạn này nhóm tìm cách thiết lập mình theo xu hướng
của xã hội. Nỗ lực này thường dẫn đến nguy cơ, một hiệu quả ngược. Điều tối quan
trọng cho sự phát triển và tồn tại của nhóm là làm rõ sự dấn thân và cách sống và đưa
ra những giới hạn cho các quan hệ với các tổ chức khác trong xã hội. Thách đố quan
trọng nhất là không đánh mất huyền thoại như là nguồn gốc của sự thúc đẩy và nhiệt
tình. Sự khó khăn ở chỗ là vừa đón nhận luật lệ và tinh thần. Cơ cấu và tiến trình cần
được linh hoạt bởi ước mơ và nguồn cảm hứng nguyên thủy. Nhóm cần phải tìm giờ
và nơi chốn để tiếp tục ước mơ, tưởng tượng, tiên đoán, cầu nguyện ngay cả khi bị
cám dỗ dành trọn thời giờ và sức lực cho công cuộc nhằm bảo đảm sự tồn tại của kế
hoạch.
 Cập nhật hiến pháp: Sự cập nhật hiến pháp cần phải liên hệ đến huyền thoại
nếu không sự canh tân chỉ ở bề mặt và ngắn ngủi. Chỉ có huyền thoại mới sinh ra sức
sống, nhiệt tình và đưa nhóm đến một đường con phát triển mới.

19
 Sự sai lầm không tưởng: Do thành công, nhóm dần dần nhận định rằng, con
đường của chúng ta là tốt nhất, là con đường có giá trị duy nhất để thi hành công việc.
Quyền lực và ngạo mạn đã lên ngôi dẫn đến tình trạng tự hủy diệt; huyền thoại trở
nên một xác tín, ý thức hệ mù quáng. Sự tồn tại của nhóm được đặt lên hàng đầu thay
thế cho sự phục vụ lợi ích chung.
Nhóm mất tiếp xúc với huyền thoại nguồn gốc của năng lực của nhóm.
Giai Đoạn Thoái Hóa
Nghi ngờ và đặt vấn đề là đặc tính chính trong 4 giai đoạn của sự thoái hóa.
Tuy nhiên không phải nghi ngờ gây nên vấn đề nhưng là kết quả của vấn đề. Tiến
trình thoái hóa dường như không thể thay đổi được.
Ở giai đoạn này không thể đảo ngược đường cong. Một khi nhóm vượt qua sự
sai lầm không tưởng, chỉ có một con đường là tiến tới nghĩa là đi xuống. Không có
con đường nào khác để tái nhập thể huyền thoại ngoài việc tiếp tục đường cong sức
sống này. Tại sao không? Bởi vì ý thức và ý muốn sự sống cần thiết cho ước mơ mới
không hiện hữu trong nhóm. Chỉ có sự năng động của chết-phục sinh có thể sản sinh
ý thức thích hợp để vượt qua những giai đoạn khác nhau.
4- Nghi ngờ mang tính hoạt động: Nhiều người cảm thấy không đồng ý và khó chịu
với cách thức hoạt động của hệ thống. Sự nghi ngờ có khuynh hướng mơ hồ không
nhằm vào một hoạt động tông đồ hay khía cạnh của đời sống. Họ cảm thấy có điều gì
đó không ổn nhưng không biết là điều gì. Để bớt lo lắng họ thay đổi những gì thuộc
bề ngoài (ví dụ những nỗ lực vào thập niên 60 nhằm thay đổi áo dòng, làm cho cộng
đoàn trở nên giản dị và thoải mái hơn). Những nỗ lực như thế là cần thiết và có giá trị
nhưng không giải quyết thật sự được vấn đề.
Vào thời điểm này lãnh đạo được xem như không có khả năng; công cuộc vẫn
tiếp tục và có thể gia tăng về mặt số lượng. Sự nghi ngờ về tính hiệu quả thường được
đề cập đến nhưng không ai có đủ năng lực hay ý chí để giải quyết, do đó sự nghi ngờ
được xem là hời hợt. Sự quan tâm đến tính hiệu quả của công tác tông đồ hay sự thích
đáng của lối sống đưa đến 2 thái độ: 1/ thiểu số nêu lên vấn đề thường xuyên hơn; 2/
20
đa số thì bảo vệ cho tình trạng hiện hành, họ từ chối vấn đề và kết án nhóm thiểu số là
thiếu niềm tin hay bị tục hóa. Sự nứt rạn giữa những người ‘triệt để’ và ‘bảo thủ’.
5- Nghi ngờ mang tính ý thức hệ: Thường phải mất một thời gian để nhận ra những
lãnh vực mà sự suy sụp diễn ra, thường thì diễn ra trong giai đoạn này. Một vài xác
tín cơ bản của nhóm bị đặt vấn đề hay từ bỏ không thực hiện. Những lãnh vực này
thường bao gồm: cầu nguyện (cá nhân và cộng đoàn), khó nghèo (sống đơn giản), và
công tác tông đồ như là phương tiện để thỏa mãn và thực hiện chính mình.
Nhiều Dòng ở Âu Châu trải qua giai đoạn này vào thập niên 60, 70. Lo âu về những
vấn đề này ngày nay không còn được nêu lên một cách rộng rãi nhưng không phải vì
thế mà vấn đề được giải quyết. Họ đi đến thỏa hiệp, họ có khuynh hướng thảo luận
những điều này theo cách thức an toàn. Sự nghi ngờ mang tính ý thức hệ vẫn tồn tại
và phát triển tới mức là nghi ngờ về khả năng giải quyết, canh tân và thay đổi của
nhóm.
Tại cộng đoàn, giai đoạn nghi ngờ mang tính ý thức hệ được biểu lộ qua sự đòi
hỏi tự do và tự lập bất chấp giá trị của nhóm, hoặc qua việc không sẵn sàng huy động
nguồn lực để giải quyết vấn đề quan trọng của nhóm (để bề trên giải quyết), hoặc qua
việc thiếu chia sẻ suy tư, hoặc không sẵn sàng biện phân về tương lai của nhóm. Tình
trạng khó xử thường là bề trên nhận ra vấn đề nhưng thành viên không có khả năng
hay không muốn nhận biết.
6- Nghi ngờ mang tính đạo đức: Trong giai đoạn này các thành viên bắt đầu đặt vấn
đề về bối cảnh họ sống có thật sự là đời tu không? Ví dụ chúng ta sống trong những
ngôi nhà đầy tiện nghi có phù hợp không? Sự dè dặt này nghiêm trọng và liên quan
đến vấn đề lương tâm. Đây là vấn đề của cơ cấu chứ không phải là vấn đề cá nhân.
Vấn đề càng để lâu không giải quyết càng gây rắc rối, đặc biệt cho lãnh đạo.
7- Nghi ngờ tuyệt đối: Đây là giai đoạn thiếu nhân sự, thành viên già đi và không
còn ơn gọi, đóng cửa cộng đoàn, giao các công cuộc cho người khác… Nhóm nhận
thức sự giải thể đang treo lơ lửng. Một cách vô ý thức, nhóm nỗ lực chết với ơn sủng,
bình an và danh dự.

21
Nhiều nhóm khác nỗ lực để tồn tại, đưa ra những giải pháp thay đổi tận căn vì ý
thức rằng phải thay đổi tận căn hoặc chết. Sự thay đổi là thử nghiệm tái nhập thể đặc
sủng của Dòng (myth) để đáp lại nhu cầu khẩn thiết của thế giới hôm nay chứ không
phải nhu cầu của quá khứ, tuy nhiên những hoạt động tông đồ quá khứ vẫn tồn tại. Đây
là vấn đề điều chỉnh nhân sự và nguồn lực, thường đòi hỏi rút ra khỏi những công tác
tông đồ lâu nay đang thực hiện.
Đây chính là kinh nghiệm chết và phục sinh. Cần phải chịu đựng sự thương tiếc
và đau khổ của việc từ bỏ, trước khi niềm vui và hy vọng về phục sinh xuất hiện. Nếu
nhóm có thể cùng nhau đối diện và khuyến khích, nâng đỡ nhau vượt qua thời kỳ
chuyển tiếp này, kinh nghiệm này sẽ trở nên sức mạnh để lớn lên trong đời sống mới
đối với toàn thể Hội dòng.
Cần giải quyết giai đoạn nghi ngờ mang tính đạo đức càng sớm càng tốt. Nhóm
càng ở lâu trong bầu khí ngờ vực, phân tán, không tin tưởng thì nhóm càng kiệt quệ
về năng lực sản sinh sự sống. Những người có tầm nhìn sống bên lề hoặc rời bỏ cộng
đoàn; những phần tử theo truyền thống trở nên phòng thủ và không hợp tác. Số lượng
thành viên chọn sống theo lối sống cá nhân gia tăng có vẻ như là bảo đảm và chắc
chắn nhưng thực ra họ không còn cảm thấy ở trong cộng đoàn.
Kết quả cuối cùng của sự xuống dốc này có thể là cái chết từ từ hoặc sự bùng
nổ của năng lực tiêu cực. Trong sự bùng nổ tiêu cực sự phân mảnh trở nên quá hiển
nhiên đến nỗi các thành viên từ bỏ công trình. Sự không đồng ý và hận thù thắng thế,
và các kế hoạch bắt buộc phải đóng cửa, có thể vì tai tiếng hoặc không quản trị tốt.
Nhóm bị mắc kẹt trên đỉnh Can-vê đến nỗi các thành viên không thể đi vào kinh
nghiệm phục sinh. Trong trường hợp chấp nhận cái chết, dường như nhóm chọn lựa
không đi lên Can-vê vì quá đau khổ, giống như các tông đồ đã bỏ chạy.
Cuối cùng chúng ta đã hoàn tất một chu kỳ. Đó có thể là sự chấm dứt của một
tỉnh dòng hay một hội dòng, nhưng không phải là sự chấm dứt của đời tu. Được
Thánh Thần thúc đẩy, những người có tầm nhìn xa thấy rộng sẽ đứng lên và một chu

22
kỳ mới lại xuất hiện. Chu kỳ sống, chết và tái sinh dường như luật cố hữu cho mọi
thực tại sống động.

PHẦN 2
SUY TƯ THẦN HỌC VỀ ĐỜI TU
SỰ PHÁT TRIỂN THẦN HỌC ĐỜI TU

1- THẦN HỌC ĐAN TU NHỮNG THẾ KỶ ĐẦU


Các tu sĩ thời kỳ đầu chỉ là những giáo dân bình thường, trong một số bút tích
hiếm hoi chúng ta có thể phát hiện những yếu tố có thể coi là những suy tư thần học
đích thực. Sau đó một số nhà thần học lỗi lạc soạn thảo một khoa thần học đầy đủ hơn
về đời tu như Basiliô, Grêgôriô Nysse, Grêgôriô Nazianze, Gioan Kim Khẩu…
Sau đây là một số đặc tính:
1.1- Người Thừa Kế các Vị Tử Đạo
Tử đạo là trung tâm và chóp đỉnh của linh đạo Kitô giáo, noi gương Đức Ki-tô.
Linh đạo tử đạo có 4 đặc tính: 1) Đồng hóa với sự sống và cái chết của Đức Ki-tô; 2)
Chống lại ma quỷ hiện thân trong quan quyền bắt bớ và đao phủ; 3) Sống hiện sinh bí
tích Thánh Thể; 4) Sống viên mãn phép Rửa.
Năm 313 chấm dứt bắt đạo – Giáo hội được ưu đãi – phong trào ẩn tu phát triển
mạnh – áp đặt quan niệm tử đạo cho đời ẩn tu: tính qui Kitô.

23
Vâng lời: tử đạo hằng ngày. Khiết tịnh: của lễ cuộc đời. Nghèo khó mang đặc tính
khổ hạnh và cương nghị để làm chứng. Các đặc tính của linh đạo tử đạo được chuyển
sang đời tu.

1.2- Noi Gương Các Tông Đồ


Cảm hứng của ẩn tu xuất phát từ Tin Mừng và một trong những đặc tính của nó
là noi gương các tông đồ theo Đức Giêsu; Với Antôn Mt 19, 21: bán tài sản cho người
nghèo, theo Đức Giê-su. Với Pachomius: koinonia đời sống cộng đoàn với Đức
Giêsu. Với Basiliô: rao giảng Tin Mừng với Đức Giêsu.
1.3- Chiêm niệm: Đời tu khởi đầu bằng lắng nghe và đáp lại Lời Thiên Chúa, say
mê Thiên Chúa và ý định của Ngài
1.4- Theo Gương Cộng Đoàn Tiên Khởi (Cv 2,42-47; 4,32-35)
Đời sống của cộng đoàn tiên khởi bao hàm: trung thành với giáo huấn của các
tông đồ, cầu nguyện chung, nghi thức bẻ bánh, hiệp thông huynh đệ.
Mang tính cánh chung: dấu chỉ Nước Thiên Chúa.
1.5- Sống Trọn Vẹn Bí Tích Thanh Tẩy
Không có sự phân biệt giữa tu sĩ và giáo dân trong những điểm chính yếu của
đời sống Kitô như khác biệt trong những phương tiện hoặc thực hành nhân đức.
1.6- Trừ Quỷ
Chống lại ma quỷ là nét đặc trưng của đời tu của thánh Antôn: sa mạc là nơi
của cám dỗ của dân Israel và Đức Giê-su.
Chiến đấu chống lại thói hư tật xấu, mầu nhiệm tội lỗi, giúp loại trừ sự dữ khỏi
nhân loại là cuộc chiến mang tính cánh chung tiếp nối cuộc chiến của Đức Giêsu
Khổ chế là một trị liệu thiêng liêng chống lại những cám dỗ của thế lực sự dữ
trên trần gian.
Trừ quỷ còn là một phê phán đối với xã hội và Giáo hội quá phàm tục, sự đồng
lõa của Giáo hội với các quyền lực của thế gian.

24
2- THẦN HỌC ĐỜI TU TỪ TRUNG CỔ ĐẾN TRƯỚC VATICAN II
Trong một thời gian dài từ Trung cổ đến trước Công đồng Vatican II, suy tư thần
học về đời tu có những nét giống nhau với những biến đổi theo từng thời đại bị điều
kiện hóa bởi bầu khí thần học của Giáo hội nghiêng về chiều kích thể chế và kinh
viện.
2.1- Trở Về Tin Mừng
Điều kiện của Giáo hội vào thế kỷ 13 làm phát sinh sự khao khát: trở về lại với Tin
Mừng, trở về với Đức Giêsu lịch sử, với lối sống nghèo hèn và rao giảng Tin Mừng
lưu động của Người.
Tranh luận xem chiêm niệm hay hoạt động quan trọng hơn. Thánh Tôma đề nghị
một nếp sống hỗn hợp gồm chiêm niệm lẫn hoạt động phù hợp với lối sống của Đức
Giêsu.
Sự trở về với Tin Mừng mang tính ngôn sứ phê phán Giáo hội của thế giới Kitô
quyền thế và nặng tính giáo sĩ, gần gũi với thế lực trần gian.
2.2- Thần Học về Hai Bậc Sống
Nhấn mạnh đến ý tưởng siêu việt của đời tu trên bậc sống của giáo dân dựa trên
chú giải ơn gọi của người thanh niên giàu có (Mt 19,16-22). Trong đó nhấn mạnh 2
con đường: con đường các giới răn và con đường lời khuyên Phúc Âm. Não trạng này
xuất phát từ những bản văn trước đó (Augustine: phụ nữ kết hôn sẽ ngưỡng mộ vinh
quang cao trọng bội phần của con gái đồng trinh của bà trên trời) được đúc kết trong
bản văn của ĐGH Ubanô II vào cuối thế kỷ 11: Từ khởi đầu Giáo hội đã thiết lập cho
con cái mình 2 hình thức sống.
Hình thức thứ nhất bảo vệ sự mỏng dòn của những người yếu đuối với lòng khoan
dung; hình thức thứ 2 dẫn đến sự trọn hảo của đời sống hạnh phúc của những người

25
mạnh mẽ. Nhóm người thứ nhất sống dưới “đồng bằng”, còn nhóm thứ 2 thì vượt lên
“đỉnh núi cao”.
Nhóm thứ nhất đền tội mình bằng nước mắt và việc bố thí, nhóm kia lập công
nghiệp đời đời bằng việc suy gẫm sốt sắng hằng ngày. Những ai đi theo con đường
thứ nhất, thấp hơn, thì sử dụng của cải thế gian, còn những ai chọn đường thứ hai, cao
hơn thì khinh chê của cải thế gian và từ bỏ chúng hoàn toàn. Đời sống này, nhờ ơn
Chúa, xa lánh những thực tại trần thế, gồm 2 hình thức mà mục đích gần như đồng
nhất: kinh sĩ và đan sĩ.

3- THẦN HỌC ĐỜI TU THEO VATICAN II


Hai trong những gương mặt nổi bật ở Vatican II là ĐHY Suenens và Montini. Các
ngài đề nghị Công đồng tập trung vào chủ đề về Giáo hội học và các tài liệu làm việc
phải giới hạn vào những điểm chính yếu.
Hai văn kiện quan trọng về Giáo hội của Vatican II là Lumen Gentium, Gaudium
et Spes. Chính từ cái nhìn mới về Giáo hội làm phát sinh một quan niệm mới về đời
tu: Giáo hội là Dân Thiên Chúa và mọi Kitô hữu được mời gọi nên thánh. Ủy ban
đời tu trình bày dự thảo về đời tu với tựa đề: Giáo Lý về Bậc Trọn Lành Đắc Thủ.
Bản dự thảo theo trào lưu truyền thống.
Suy tư Thần học về căn tính đời tu dựa trên sự thánh hiến, như là hy lễ toàn thiêu
hay là dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa với con tim không san sẻ. Như thế đời tu
kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa, với Đức Giê-su và Giáo hội.
Đời tu là bậc trọn lành khách quan, có đẳng cấp cao hơn và tốt lành hơn các bậc
sống khác; đó là bậc sống theo lời khuyên Phúc Âm dẫn tới việc noi gương Đức Giê-
su hoàn hảo hơn và dẫn tới sự hiệp thông mật thiết hơn.
Phê Bình
Mọi Kitô hữu được mời gọi sống các lời khuyên Phúc Âm và các lời khuyên
không chỉ là khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục nhưng còn là khiêm nhường, tha thứ,
tiết độ, công bình…Các lời khuyên không chỉ thu gọn vào 3 lời khấn nhưng là cả Bài
26
Giảng Trên Núi. Sự trọn lành dựa trên đức mến trọn hảo chứ không dựa trên bậc
sống. Nhấn mạnh quá nhiều về lời khuyên nhưng lại đề cập quá ít đến điều chính yếu
là theo Đức Giêsu.

Đề Nghị
1) Nhìn đời tu dưới ánh sáng là mọi Kitô hữu được mời gọi nên thánh, sống lời
khuyên Phúc Âm và các giới răn tùy theo các ơn gọi khác nhau.
2) Đời tu chính yếu theo Đức Giê-su (qui Kitô): kéo dài Đức Giê-su trong lịch sử.
3) Đời tu là một đặc sủng của Thánh Thần để tạo động lực cho Giáo hội.
4) Sống các lời khấn phải nhân hóa con người đặc biệt lời khấn vâng phục phải
được sống trưởng thành, quyền bính không cưỡng ép hoặc ấu trĩ hóa tu sĩ.
5) Bản chất và chức năng của đời tu là trở nên dấu chỉ:
 Dấu chỉ mang tính Kitô: ký ức sống động về Đức Giêsu, sự nối dài
của Đức Giêsu lịch sử.
 Dấu chỉ mang tính Giáo hội học: dấu chỉ ơn gọi nên thánh của
dân Thiên Chúa.
 Dấu chỉ cánh chung: Nước Thiên Chúa.

4- THẦN HỌC ĐỜI TU TỪ CÔNG ĐỒNG VATICAN II


Hiến chế Lumen Gentium số 44, đã trình bày căn tính người sống đời thánh
hiến, là những người: “Bắt chước cách chính xác hơn và thực hiện liên tục trong Giáo
hội nếp sống Con Thiên Chúa đã nhận khi khi Người xuống thế để thi hành Thánh ý
Chúa Cha và cũng là nếp sống Người đã đề ra cho các môn đệ theo Người”.
Qua cách trình bày này, Công đồng đã coi đời thánh hiến của các tu sĩ là
phương thế kết hiệp một cách đặc biệt với Giáo hội và với Mầu nhiệm Giáo hội, do
đó đời thánh hiến luôn nỗ lực đem lại lợi ích cho Giáo hội.
Công đồng Vatican II đã mở ra một hướng mới cho thần học về đời tu, khi
trình bày về thần học về đời tu không phải như là những định chế phải giữ, nhưng
27
như là một lý tưởng sống. Hiến chế về Giáo Hội đã đặt để đời tu trong ơn gọi nên
thánh của Bí tích Thanh tẩy cũng như trong chiều kích cánh chung của Giáo hội. Sắc
lệnh “Đức ái trọn hảo” (Perfectae caritatis) phân tích bản chất đời tu với ý niệm đi
theo Đức Kitô (sequela Christi).

Perfectae Caritatis
Đời tu được nhìn từ góc độ đức mến trọn hảo không còn dựa trên sự trọn lành
của bậc sống. Mang tính Kitô học, Thánh Thần học, Giáo hội học và Tông đồ: Đời tu
do Chúa Thánh Thần linh hứng, đi theo sát Đức Giêsu, là ân huệ lớn lao cho đời sống
và sứ mạng Giáo hội.
Canh tân thích nghi: mời gọi trở về nguồn:
- Đức Giê-su và Tin Mừng
- Đặc sủng của Dòng
- Dấu chỉ thời đại
- Cộng đoàn theo mẫu cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, luật của cộng đoàn là yêu
thương.
Khiết tịnh vì nước Trời (Mt 19.12: tự ý không kết hôn vì Nước Trời và 1Cr 7,32-35:
đàn ông không vợ, đàn bà không chồng chuyên lo việc Chúa) giúp tu sĩ hoàn toàn dấn
thân cho Nước Thiên Chúa.
Khó nghèo theo Đức Giê-su nghèo khó (2Cr 8,5; Mt 8,20); tu sĩ phải sống nghèo
trong thực tế và trong tinh thần.
Vâng phục theo gương Đức Giê-su vâng lời cho đến chết trên thập giá:
- dâng hiến ý muốn của mình như của lễ cho Thiên Chúa nhờ đó tu sĩ ngày càng
đồng nhất với ý định và chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
- vâng phục giúp tu sĩ lớn lên trong sự tự do của con cái Thiên Chúa.
Thành Công của Văn Kiện

28
Mở ra những chân trời mới nhờ vượt lên khỏi tầm nhìn pháp lý và tu đức đang
thịnh hành, đi từ quan niệm thiên về luân lý và pháp lý đến nhấn mạnh đến việc theo
Đức Giêsu chia sẻ thân phận làm người của Ngài. Nhờ đó các lời khấn mang một giá
trị mới; Nhấn mạnh đến tính Kitô học, Thánh Thần học, Giáo hội học, và Cánh chung
học của đời tu.
Sau Công đồng Vatican II: Thần học về đời tu nhấn mạnh tới ý niệm tận
hiến (consecratio). Bộ Giáo luật 1983 đã trình bày các chiều kích của sự tận hiến ở
điều 573.
“Đời sống thánh hiến qua việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm là
một lối sống bền vững, nhờ đó, các tín hữu theo sát Đức Kitô hơn,
dưới tác động của Chúa Thánh Thần, tự hiến hoàn toàn cho Thiên
Chúa mà họ yêu mến trên hết mọi sự, để một khi đã hiến thân cho
việc tôn vinh Thiên Chúa, cho việc xây dựng Giáo Hội và phần rỗi thế
giới, với một danh nghĩa mới mẽ và đặc biệt, họ đạt tới sự hoàn hảo
của đức ái trong việc phụng sự Nước Chúa , và một khi đã trở nên dấu
chỉ rực rỡ trong Giáo hội, họ tuyên báo vinh quang Thiên quốc. [# 1]
Các Kitô hữu được tự do đảm nhận lối sống ấy trong các tu hội thánh
hiến đã được nhà chức trách có thẩm quyền của Giáo hội thiết lập theo
giáo luật, bằng những lời khấn hoặc bằng những mối ràng buộc thánh
khác theo luật riêng của tu hội, họ tuyên khấn các lời khuyên Phúc
Aâm về đức khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục, và họ được kết hợp
cách đặc biệt với Giáo Hội và với mầu nhiệm Giáo Hội nhờ đức ái mà
các lời khuyên này dẫn tới. [ # 2].”
Một chiều hướng khác cũng được nhận mạnh tới, đó là ý niệm đoàn
sủng (charisma). Khuynh hướng này cho rằng ý niệm “tận hiến” nêu bật chiều kích
thần bí của đời tu, thích hợp cho các Dòng chiệm niệm hơn là cho các Dòng hoạt
động tông đồ. Mặt khác, ý niệm “tận hiến” hướng đến một mẫu số chung cho hết các
Dòng tu, với nguy cơ là bỏ qua tính cách đa dạng của đời tu. Đối lại, ý niệm “đoàn

29
sủng” vừa làm nêu bật tính cách năng động truyền giáo của đời tu, vừa nhấn mạnh tới
tính chất đa dạng của các Dòng. Thêm vào đó, ý niệm “đoàn sủng” đề cao tác động
của Chúa Thánh Thần, một nhân vật thường bị thần học lãng quên.
Trong bài thuyết trình khai mạc các cuộc trao đổi ý kiến tại Thượng Hội đồng
năm 1994, Đức Hồng y Basil Hume cho thấy rằng thần học về “đoàn sủng” áp dụng
vào đời tu đã mang lại hai sắc thái sau đây:
Đời tu một hồng ân mà Thánh Thần ban cho Giáo Hội và nhân loại (chiều kích
ngôn sứ)
Mỗi Dòng nhận được một căn cước riêng cần phải bảo vệ đoàn sủng của mỗi
Dòng bao gồm một sứ mạng, một linh đạo, một nếp sinh hoạt, những yếu tố tạo nên
gia sản tinh thần của Dòng.

30
PHẦN 3
SỨ VỤ NGÔN SỨ CỦA ĐỜI TU
+++
NỀN TẢNG KINH THÁNH
Dẫn Nhập
Nghiên cứu về ngôn sứ của Israel cần phải chú ý đến các dữ kiện của Cựu Ước
và đồng thời chú ý đến bối cảnh hiện nay của Giáo hội. Những gì chúng ta hiểu biết
về Cựu Ước phải được nối kết một cách nào đó với các thực tại của Giáo hội và thế
giới hôm nay đang bị thống trị bởi chủ nghĩa tiêu thụ và cá nhân.
Giáo hội sẽ không có sức mạnh để hành động hoặc tin tưởng cho đến khi Giáo hội tìm
lại được truyền thống đức tin của mình và để cho truyền thống ấy trở nên đường lối
căn bản giúp vượt ra khỏi sự thống trị của nền văn hóa hiện nay. Đó là sứ vụ của ngôn
sứ, là đưa những khẳng định của truyền thống và bối cảnh văn hóa hiện nay vào một
cái nhìn chung có hiệu quả.
Chúng ta có thể đưa ra một định nghĩa về sứ vụ ngôn sứ như là khuyến khích,
nuôi dưỡng, và gợi lên một ý thức và nhận thức khác với ý thức và nhận thức của nền
văn hóa đang thống trị chung quanh chúng ta. Ý thức khác này, một mặt, phê phán
nhằm triệt hạ ý thức đang thống trị, mặt khác, tạo hy vọng qua lời hứa về một thế giới
mới mà cộng đoàn đức tin hướng đến.

31
NỀN TẢNG CỰU ƯỚC
PHARAÔ VÀ MÔSÊ
I
Israel bắt đầu ký ức của mình với sự kìm kẹp của Pharaô Ai cập. Chúng ta có
thể lấy Pharaô như là nhân vật điển hình của thế lực thù địch đối với trời mới đất mới,
một nhân vật đầy quyền lực nhưng không thể vượt khỏi sự ham muốn lợi lộc để suy
nghĩ về một thế giới mới. Pharaô là hình ảnh của một hệ thống độc quyền tạo nên sự
lo âu ảnh hưởng đến cả xã hội.
1) Ai cập là vựa lương thực nhờ vào thung lũng sông Nile, ngay từ chương đầu tiên
nói về Israel (St 12), Pharaô được giới thiệu như là người đầy dẫy lương thực có thể
cung cấp cho cả thế giới:
Ông Áp-ram xuống trú ngụ ở Ai cập, vì nạn đói hoành hành trong xứ. (St
12,10)
Nhu cầu lương thực đã đẩy đưa Abraham đến vùng đất an toàn và sung túc.
2) Nhưng Pharaô, vị hoàng đế đầy quyền lực lại mơ thấy ác mộng về những bất an: St
41,17-24. Pharaô muốn biết ý nghĩa về ác mộng nhưng không ai có thể giải mộng
được. Cuối cùng, Giu-se, một tù nhân Israel đã giải được ác mộng. Đó là sự khan
hiếm, thiếu hụt. Người sở hữu mọi sự lại mơ về sự thiếu hụt. Những con bò gầy và
bông lúa lép tiên báo về nạn đói khi lương thực không còn nữa.
3) Pharaô chấp nhận ý nghĩa của ác mộng và tìm cách đối phó. Sự lo âu trở thành một
chính sách của đế quốc, đó là trở nên độc quyền về lương thực. Trong quá khứ cũng
như hiện tại, thực phẩm là một vũ khí và là phương tiện kiểm soát.
St 47,13-26 cho chúng ta biết về chính sách phát xuất từ ác mộng. Các nông dân
không có lương thực tuôn đến với Giu-se để mua lương thực với tiền của mình đến
nỗi Pharaô trở nên giàu có hơn (c 14). Sau khi hết tiền, các nông dân phải đổi gia súc
(theo Karl Marx là phương tiện sản xuất) để lấy lương thực (cc 15-17). Năm thứ ba,
32
các nông dân vẫn cần lương thực nhưng lại không có tiền và gia súc, họ chấp nhận
dâng hiến tự do và đất đai để đổi lấy lương thực: St 47,19, và kết quả là họ trở nên nô
lệ của Pharaô: St 47,20-21, và họ tỏ lòng biết ơn sâu xa về tình trạng lệ thuộc này:
“Ngài đã cứu sống chúng tôi. Chúng tôi mong được đẹp lòng ngài, và sẽ làm nô lệ
cho Pharaô.” (St 47,25)
Trong câu chuyện về Giu-se và Pharaô, chúng ta chỉ chú ý đến sự quan phòng
của Thiên Chúa đối với cá nhân Giu-se (St 45,1-15 và 50,20) và bỏ qua trình thuật về
sự nô lệ hóa bằng cách thao túng kinh tế nhằm tập trung quyền lực và tài sản vào tay
một số người với sự trả giá của toàn thể xã hội.
Dưới ánh sáng của trời mới đất mới, chúng ta có thể đưa ra một kết luận từ trình thuật
trên là: những ai sống trong lo âu và sợ hãi, đặc biệt lo sợ về sự thiếu hụt, họ không
có thời giờ và năng lực dành cho lợi ích chung. Lo sợ sẽ hình thành nên chính sách và
những thực hành bóc lột, một sự tham lam có hệ thống ngăn cản lợi ích chung.
II
Cuối sách Sáng Thế chúng ta có một bối cảnh xã hội bao gồm hai thành phần:
thành phần lãnh đạo thiểu số, đại biểu là Pharaô, và thành phần nô lệ đa số. Nô lệ vì
họ bị bóc lột, Pharaô vì ông ta sợ hãi và cảnh giác. Sách Xuất Hành diễn tả một cuộc
đấu tranh vĩ đại về mặt thần học và chính trị, đó là cuộc đấu tranh giữa ham muốn
kiểm soát và sức mạnh giải phóng nối kết với Thiên Chúa của xuất hành.
Chúng ta được trình bày về một chính sách điên rồ và hung hãn của đế quốc phát xuất
từ lo âu:
1) Sách Xuất hành chương 5 cho thấy một hệ thống bóc lột thô bạo và tàn nhẫn, luôn
thúc ép nô lệ sản xuất nhiều hơn theo những mệnh lệnh khắc nghiệt của Pharaô, điều
kiện làm việc không thể chịu đựng được và thời khóa biểu sản xuất không tưởng: Xh
5,4; Xh 5, 6-9; Xh 5,10-11; Xh 5,13-14.
Thời khóa biểu sản xuất do vị vua mơ ác mộng thôi thúc, cho rằng sản xuất nhằm đề
cao quyền lực trung tâm là mục đích của mọi lao động.

33
2) Chính sách của Pharaô không chỉ để bóc lột nhưng có một mục đích. Trình thuật
cho thấy rằng Pharaô sợ hãi chính lực lượng lao động của mình. Ông sợ họ ra đi, mất
lao động, và sự bẽ mặt của đế quốc. Trong sợ hãi Pharaô trở nên tàn bạo hơn:
Chúng làm cho đời sống họ ra cay đắng vì phải lao động cực nhọc: phải trộn hồ
làm gạch, phải làm đủ thứ cộng việc đồng áng; tóm lại, tất cả những việc lao
động cực nhọc, chúng đều cưỡng bức họ làm. (Xh 1,13-14)
Sự lặp đi lặp lại từ ‘tàn bạo’ cho thấy hệ thống bóc lột không còn suy nghĩ đúng đắn
về năng suất. Sự lo sợ ẩn sau chính sách như thế cuối cùng dẫn đến việc tấn công vào
chính nguồn lao động, giết tất cả bé trai là tài nguyên tiềm tàng của lực lượng lao
động trong tương lai:
“Khi đỡ cho sản phụ Hipri, các ngươi hãy xem đứa trẻ là trai hay gái. Nếu là
trai thì giết đi, nếu là gái thì để cho sống.” (Xh 1,16)
3) Sự chuyển động từ bóc lột kinh tế đến chính sách đặt nền tảng trên sự sợ hãi dường
như được phác họa có chủ ý tạo nên đau khổ. Cuối cùng, sự bóc lột đặt nền tảng trên
sợ hãi đạt đến giới hạn của đau khổ không thể chịu đựng được. Hai điều xảy ra:
Trước tiên, đau khổ không thể chịu đựng sẽ được kêu lên cách công khai. Các chế độ
độc tài tìm cách giữ những đau khổ thinh lặng và vô hình càng lâu càng tốt. Nhưng
cuối cùng, đau khổ của con người sẽ không nín lặng. Đau khổ đã kêu lên. Tiếng kêu
không nhắm đến người nào. Nó chỉ kêu lên, cho mọi người biết rằng cơ chế xã hội
của đế quốc thất bại.
Tuy nhiên, như trình thuật Kinh Thánh kể lại, tiếng kêu của những lao động bị bóc lột
vọng đến tai Gia-vê, Đấng là nhân vật chính trong bi kịch về quyền lực xã hội. Tiếng
kêu không nhắm vào Gia-vê nhưng nó đến với Gia-vê vì Gia-vê như là thỏi nam
châm thu hút tiếng kêu của người bị áp bức:
“Con cái Israel rên siết trong cảnh nô lệ. Họ ta thán và tiếng họ kêu từ cảnh nô
lệ đã thấu tới Thiên Chúa.” (Xh 2,23b-25)

34
Kinh Thánh quả quyết rằng tiếng kêu của con người kêu gọi sự giải quyết của Thiên
Chúa. Thiên Chúa giải quyết để biến đổi tình trạng kinh tế của người nghèo, đồng
thời, kết án Pharaô và lấy đi khỏi đế quốc quyền chủ động xã hội.
4) Sự thực hành bóc lột, sợ hãi, và đau khổ tạo nên một thời điểm quyết định trong
lịch sử nhân loại. Sự thoát khỏi quyền lực trung tâm hung hãn và độc quyền lương
thực đề cao sự giải quyết của Thiên Chúa về một khả năng khác, một sự giải quyết
biến thành hành động của con người. Trình thuật Kinh Thánh rất cẩn thận và cụ thể
về việc chuyển đổi sự giải quyết của Thiên Chúa thành hành động của con người. Sự
chuyển đổi này xảy ra tại bụi gai cháy. Kết quả của việc gặp gỡ mầu nhiệm là Mô-sê
nhận được một tầm nhìn về cộng đoàn của các nô lệ thoát khỏi nền kinh tế của đế
quốc. Lời của cuộc gặp gỡ tại bụi gai cháy là lời của sự giải quyết của Thiên Chúa:
“Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân ta bên Ai cập, Ta nghe thiếng chúng kêu
than vì bọn cai hành hạ. Phải, ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải
thoát chúng khỏi tay người Ai cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt
tươi rộng lớn, miền đất đầy tràn trề sữa và mật…” (Xh 3,7-9)
5) Nhưng sự giải quyết của Thiên Chúa bất ngờ biến thành hành động của con người:
“Bây giờ ngươi hãy đi! Ta sai người đến với Pharaô để đưa dân Ta là con cái
Israel ra khỏi Ai cập.” (Xh 3,10)
Kết quả là một con người có thể hành động và mơ ước ngoài thực tại của đế quốc; và
do mơ ước ngoài thực tại đế quốc, người này có thể bắt đầu dám giải thoát dân chúng
khỏi hệ thống đế quốc.
Chắc chắn sẽ rất trớ trêu khi đặt Pharaô cạnh Mô-sê. Pharaô là người có giấc mơ
nhưng là ác mộng về sự thiếu hụt, ngược lại, Mô-sê sau kinh nghiệm gặp gỡ tại bụi
gai cháy có thể nói: ‘Tôi có một giấc mơ’
Tôi có giấc mơ về sự ra đi,
Tôi có giấc mơ vượt trên phần gạch phải sản xuất,
Tôi có giấc mơ vượt trên chế độ bóc lột và sợ hãi,

35
Tôi có giấc mơ vượt khỏi vùng đau khổ được tạo nên do mưu đồ của con người
nắm quyền lực.
Giấc mơ của của Mô-sê hoàn toàn trái ngược với Pharaô. Chính giấc mơ này đẩy
trình thuật Kinh Thánh đi tới. Chế độ đầy lo âu của Pharaô sắp đặt mọi người hoặc trở
thành chủ hoặc nô lệ, đe dọa hay đồng lõa, địch thù hay nô lệ. Để xây dựng lợi ích
chung, cần phải thoát khỏi chế độ đầy âu lo này, một hệ thống tạo nên ác mộng về sự
thiếu hụt.
III
Họ đã ra đi! Trong Xh 14, đoàn nô lệ nhìn thấy nước mở ra cho họ (14,21-23).
Trong Xh 15 họ vượt qua biển, ra khỏi chế độ của Pharaô, họ nhìn lại và nhảy múa,
ca hát và ca ngợi Gia-vê, Đấng đã giải thoát họ. Trong Xh 16, họ trải qua một chuyến
đi dài và gian khổ để đến hạnh phúc. Họ bước những bước đầu tiên vào sa mạc – sa
mạc là nơi mà một người phải đối diện khi từ bỏ chế độ đầy âu lo của Pharaô.
Đám nô lệ ra đi tiến sau vào hoang địa, nhưng họ bắt đầu phàn nàn về bối cảnh mới
của niềm tin đầy rủi ro này; họ mong muốn giao nộp mình lại cho sự bóc lột đầy lo âu
của Pharaô: Con cái Israel nói với các ông: ‘Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức
Chúa trên đất Ai cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thỏa thuê. Nhưng không
các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết
đói cả lũ ở đây. (Xh 16,3)
Họ nhớ lại cảnh nô lệ nhưng là nơi bảo đảm về lương thực, họ nhớ lại những gia vị ở
Ai cập: Ds 11,4-6
Sự phàn nàn không ngơi của đám nô lệ đánh động lòng Mô-sê, ông phàn nàn
với Thiên Chúa và Ngài đã đáp lại lời phàn nàn này. Ngài đưa ra một bảo đảm: Ta đã
nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy ngươi hãy bảo chúng rằng: vào buổi chiều
các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thỏa thuê, và các
ngươi sẽ biết rằng ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các người. (Xh 16,12)

36
Thịt sẽ là chim cút và bánh là manna (từ chữ ‘man hu’ có nghĩa là cái gì vậy?): Xh
16,15. Bánh có tên là ‘cái gì vậy?’ có nghĩa là bánh kỳ diệu vượt ra ngoài suy nghĩ
của họ vì thế họ bảo nhau: cái gì vậy?
Có một cái gì đó hão huyền về sự hào phóng của Thiên Chúa và chúng ta gọi đó là
‘phép lạ’, nghĩa là điều vượt ra khỏi cái bình thường, phá vỡ khuôn mẫu chuẩn mực
và điều được mong đợi, điều trái ngược với dự đoán, được mô tả qua các từ ‘hão
huyền, không thể giải thích, hào phóng, phép lạ’. Cuối cùng chúng ta đến với từ ‘ân
sủng’, sự biểu lộ lòng rộng lượng của Thiên Chúa không dựa trên người nhận nhưng
dựa trên người ban.
Nếu chúng ta đặt từ ‘hoang mạc’ gần với ‘ân sủng’, chúng ta sẽ có được sự
khẳng định của trình thuật về bánh kỳ diệu. ‘Hoang mạc’ là nơi không có những hệ
thống ủng hộ sự sống. ‘Ân sủng’ là lòng rộng lượng đầy quan tâm của Thiên Chúa
giúp tái định nghĩa nơi chốn này. Bánh kỳ diệu, một hành vi của ân sủng Thiên Chúa,
diễn tả lại hoang mạc là nơi của sự sống mà Israel vừa khám phá ra, nơi có thể sống
được nhờ vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Thời điểm kỳ diệu, uy nghiêm, và nhân
hậu trong phút chốc đã tái định nghĩa một cách quyết liệt nơi chốn mà hiện nay Israel
phải sống trong sự tự do mới, bên ngoài khu vực của sự lo âu của đế quốc.
Như thế, bánh trong hoang địa là một hành động phong phú dồi dào của Thiên Chúa:
Xh 16,16-18.
Trình thuật này cụ thể hóa và đem lại ý nghĩa cho khả năng rộng lượng của
Thiên Chúa hoàn toàn trái ngược với ác mộng về sự thiếu hụt đã đưa đến những chính
sách tham tàn của Pharaô. Israel quá quen thuộc với hệ thống thiếu hụt của Pharaô
đến nỗi họ không thể đi vào sự phong phú của lòng rộng lượng của Thiên Chúa. Mục
đích của lòng rộng rãi này là phá vỡ vòng luẩn quẩn của sự lo âu về thiếu hụt làm
phát sinh ra sự giận dữ, sợ hãi, gây hấn, và cuối cùng cướp bóc bạo lực.
Israel tràn ngập bởi sự phong phú của Thiên Chúa, tuy nhiên, họ phản ứng như là còn
ở trong chế độ cũ của Pharaô. Mô-sê cảnh cáo họ không để dành hay tích trữ bánh:
Ông Mô-sê nói với họ: đừng có ai để dành cho đến sáng mai. (Xh 16,19)

37
Lấy vừa đủ dùng, ăn và thưởng thức! nhưng họ không nghe. Họ lấy đầy túi và giỏ vì
ngày mai có thể không có nữa. Đó là điều mà người ta làm khi đối diện với sự thiếu
hụt.
Nhưng số dư thừa để dành không dùng được vì ‘bánh bởi trời’ không như
‘bánh u sầu’ mà Israel ăn tại Ai cập. Ở đó người ta có thể dành dụm bánh cho ngày
mai. Nhưng ở đây thì không! Sự dư đầy không phải để tích trữ: “Họ để dành cho đến
sáng, nhưng trong đó có giòi bọ và xông ra mùi hôi thối. Bấy giờ ông Mô-sê nổi giận
với họ. Sáng nào cũng vậy, mỗi người lượm tùy theo sức mình ăn được bao nhiêu. Và
khi mặt trời tỏa sức nóng, thì nó tan ra”. (Xh 16,20-21)
Bánh để dành sinh ra giòi bọ, có mùi hôi thối. Bánh kỳ diệu thiếu chất bảo
quản vì nó được ban cho hằng ngày, vừa đủ dùng chứ không thêm, vừa đủ để không
ai phải đói. Bánh bởi trời là một mâu thuẫn đối với sự tranh giành quyết liệt của sản
xuất; Thiên Chúa tạo dựng nắm quyền trên việc cung cấp lương thực phá vỡ sự độc
quyền lương thực của Pharaô, lương thực được ban phát tự do bên ngoài hệ thống
kinh tế hoạt động như là kim tự tháp Ai cập với một thiểu số rất nhỏ nắm quyền và
hưởng lợi.
Điều Israel khám phá trong hoang địa là có một cách sống khác. Có thể nói
rằng lịch sử lâu đời của Israel là một sự đấu tranh giữa chế độ thiếu hụt của Pharaô và
sự cung cấp dư đầy của Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta có thể loại suy rằng lịch sử
lâu đời của Giáo hội là một đấu tranh giữa sự thiếu hụt thúc đẩy việc kiểm soát và sự
dư dật dẫn đến mô hình hào phóng. Vượt trên Israel hoặc Giáo hội, công trình của
nhân loại là sự đối kháng giữa thiếu hụt và mơ ước dư đầy phá vỡ sự cưỡng bức của
thiếu hụt. Israel, tràn đầy lương thực tìm tới núi Sinai. Quà tặng bánh kỳ diệu như là
phép lạ về sự dư đầy là một biểu lộ của lòng hào phóng, phá vỡ mô hình chết chóc
của lo âu, sợ hãi, tham lam và giận dữ, một phép lạ luôn gây ngạc nhiên vì vượt quá
mong đợi của chúng ta. Đó là một hành động tràn ngập và không thể giải thích bẻ gãy
ách lo âu tự hủy liên quan đến sự thiếu hụt.

38
IV
Họ đi đến Sinai. Họ đến từ ác mộng về thiếu hụt qua con đường phép lạ về sự
dư đầy. Điều họ khám phá ra là quà tặng bình an đã giải phóng họ khỏi sự thiếu hụt
của Pharaô đến nỗi họ có đủ sức để xây dựng lợi ích chung. Họ khám phá ở núi Sinai
rằng họ có thể dành năng lực cho người lân cận vì ách của sự thiếu hụt đã bị bẻ gãy
bởi sự dư đầy của Thiên Chúa. Khi họ đến gần núi Sinai, trước khi nhận các điều răn,
họ đã xác quyết:
Toàn dân nhất trí đáp lại: ‘Mọi điều Đức Chúa phán bảo, chúng tôi xin làm theo.’ (Xh
19,8)
Israel ký kết về vâng phục ngay cả trước khi nghe bất cứ điều luật nào! Lý do họ
làm như thế là họ biết rằng bất cứ một điều luật từ Thiên Chúa của sự dư đầy sẽ tốt hơn
rất nhiều so với điều luật của Pharaô. Các điều luật mới tại Sinai diễn tả ước mơ của
Thiên Chúa về tình xóm giềng lân cận, ý định của Gia-vê là lợi ích chung. Không có
lợi ích chung tại Ai cập vì dân chúng trong chế độ thiếu hụt, do đó, không thể ấp ủ và
nuôi dưỡng lợi ích chung.
Trình thuật từ lo âu ngang qua sự đầy dư đi đến tình xóm giềng lân cận mời gọi
chúng ta suy nghĩ lại về 10 điều răn. Chúng không phải luật lệ cho đời sống luân lý
sâu xa. Chúng không phải luật lệ mang tính ý thức chung được đặt ra để gò bó và quở
trách con người. Đúng hơn, chúng là những tuyên bố cơ bản nhất về cách làm thế nào
để tổ chức quyền lực và tài sản xã hội nhằm đem lại lợi ích cho cộng đoàn. Thật ra
chúng là ‘một điều luật mới’ chống lại luật cũ của Pharaô:
1. Từ điều răn thứ 1-3, Israel biết rằng Gia-vê phải được yêu mến, phục vụ, và tin
tưởng hơn là chế độ an toàn của Pharaô: Xh 20,2-7.
Ba điều răn này không gì khác hơn là thay đổi chế độ. Chúng tuyên bố rằng có một
kiểu mẫu xã hội khác so với kiểu mẫu tạo nên lo âu của Pharaô.
2. Từ điều răn thứ 5-9, Israel biết rằng mọi người lân cận phải được tôn trọng, bảo
vệ và không được bóc lột, khai thác:

39
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi không được giết người. Ngươi không
được ngoại tình, Người không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng
gian hại người. (Xh 20,12-16)
Các điều luật ngắn gọn này đặt giới hạn cho việc đối xử với người lân cận. Pharaô
không biết về những giới hạn này và tự do điều khiển và thao túng người lân cận theo
bất cứ cách thức nào, để gia tăng sản xuất. Tại Sinai, người lân cận rõ ràng là mục
đích chứ không phải là phương tiện, là những tác nhân trong lịch sử riêng của họ và
không chỉ là con đinh ốc trong bộ máy an toàn.
3. Từ điều răn thứ 10, Israel học biết giới hạn của sự tham lam:
Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ
người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta. (Xh 20,17)
Điều luật không bàn đến những hành động nhỏ nhặt của sự tham lam. Nó đề cập đến
sự thực hành bóc lột và những chính sách hung hãn làm cho người thấp kém bị tham
vọng của người quyền thế lợi dụng. Trong hệ thống kinh tế tham lam, nhà cửa, ruộng
đồng, vợ con, lương thực của mọi người đều không an toàn trước thế lực mạnh hơn.
Chế độ bóc lột của Pharaô tin rằng nó luôn cần nhiều hơn và được nhiều quyền lực
hơn – nhiều gạch, quyền kiểm soát, đất đai, lương thực hơn – cho đến khi nắm giữ tất
cả. Những thực hành và giả định như thế chỉ làm phát sinh sợ hãi và đua tranh, không
thể sản sinh ra lợi ích chung. Trong vương quốc rộng lượng của Gia-vê, sự tham lam
như thế bị cấm đoán.
4. Từ điều răn thứ 4, Israel biết được rằng nghĩ việc ngày Sabat là một lựa chọn
khác đối với lo âu đang vây bủa:
Ngươi hãy nhớ ngày Sabat và coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ
lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sabat kính
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó ngươi không được làm công việc
nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở
trong thành của ngươi. (Xh 20,8-10)

40
Sabat, trong trường hợp đầu tiên, không liên quan đến thờ phượng. Nó liên quan đến
ngừng làm việc. Nó đề cập đến việc rút ra khỏi hệ thống lo âu của Pharaô, sự từ chối
để cho đời mình được định nghĩa bởi sản xuất và tiêu thụ, và theo đuổi không giới
hạn sự thịnh vượng riêng mình. Dễ dàng thấy rằng, trong chế độ của Pharaô, không
bao giờ có ngày Sabat cho bất cứ ai. Các nô lệ không có ngày nghỉ vì phải làm để đạt
tiêu chuẩn đề ra. Pharaô không bao giờ có ngày nghĩ ngơi vì phải luôn lên kế hoạch
và ra lệnh và chỉ tiêu hoàn thành. Kết quả là mọi người đều quay cuồng trong một
tiến trình sản xuất và tích trữ không bao giờ chấm dứt.
Israel được bảo rằng không được để dành lương thực cho ngày kế tiếp, nhưng có một
ngoại lệ dành cho ngày Sabat: “Đức Chúa đã ban ngày Sabat cho các ngươi, vì thế,
ngày thứ sáu, Người ban cho các ngươi bánh đủ ăn hai ngày. Ai nấy hãy ở yên một
chỗ; ngày thứ bảy đừng có ai ra khỏi chỗ ở của mình. Vậy dân nghỉ việc ngày thứ
bảy”. (Xh 16,29-30)
Ngay trong sa mạc, ngưng việc cũng được định rõ vì Thiên Chúa của Sinai muốn
Israel đầu tư thời giờ và sức lực vào tình hàng xóm láng giềng chứ không phải an toàn
cá nhân như là trong đế quốc Ai cập. Sabat là cơ hội để gia tăng đời sống cộng đoàn,
để ăn chung với nhau và cùng nhau hồi tưởng, hy vọng, ca hát, nhảy múa và kể
chuyện – tất cả sinh hoạt này không có giá trị về sản xuất. Israel học được tại Sinai,
đặc biệt từ điều răn thứ 4 về ngày Sabat, rằng có một cách thức có thể thực hiện được
về tổ chức tình láng giềng lân cận bên ngoài sự tranh giành.
Israel rời khỏi Sinai với một tiềm năng mới. Họ có thể mơ ước về sự đầy đủ cho mọi
người, một ước mơ từ chối những ác mộng phổ biến về sự thiếu hụt được lặp đi lặp
lại tại Ai cập. Chắc chắn vẫn còn bạo lực và bóc lột trong Israel; tuy nhiên, lời đã
được loan đi, bánh đã được ban phát và bẻ ra, điều răn đã được nhận lãnh, ngày Sabat
đã được cử hành. Israel đang trên con đường rời bỏ Pharaô và hướng đến cuộc sống
đầy tình láng giềng thân cận. Cuối cùng Torah được chuyển từ Sinai đến Giêrusalem.
Tại Giêrusalem các ngôn sứ mới xuất hiện nới rộng tầm nhìn giao ước về lợi ích
chung đã được chuyển giao tại Sinai: Mi 4,1-4.

41
V
Từ trình thuật trên chúng ta có thể rút ra ba khẳng định đặc biệt:
1. Con người sống trong chế độ lo âu và sợ hãi – và tham lam là hậu quả - không
có thời giờ và năng lực để dành cho lợi ích chung. Sự lo âu tập trung toàn bộ
chú ý vào chính mình bất chấp lợi ích chung.
2. Một hành động hào phóng lớn lao là điều kiện để phá vỡ sự thống trị của hệ
thống sợ hãi, lo âu, và tham lam.
3. Những ai kinh nghiệm về những ân huệ lớn lao về sự hào phóng như thế có thể
ra khỏi chính mình và có thể hoạt động cho lợi ích chung. Con cái của sự phong
phú đầy tràn có thể nhận những điều luật mới về sự hạnh phúc của người lân cận
chứ không phải về những quyền của chính mình.
VI
Trình thuật Kinh Thánh về Israel, mà chúng ta vừa đào sâu trên đây, mang tính hiện
đại và khẩn cấp đối với đời sống của chính chúng ta trong thế giới hôm nay. Sau đây
là một số kết luận:
1. Vương quốc của sự khan hiếm và ý thức hệ về lo âu đang hiện hữu sống động,
mạnh mẽ và thống trị trong thời đại chúng ta. Kinh nghiệm trực tiếp về vương quốc
của khan hiếm là chủ nghĩa tiêu thụ trong đó luôn hiện hữu một hy vọng có nhiều
hơn, trong đó chúng ta tưởng tượng rằng có thêm cái gì đó sẽ làm chúng ta thoải mái
hơn, an toàn hơn và hạnh phúc hơn. Ý thức hệ về chủ nghĩa nghĩa tiêu thụ thống trị
văn hóa của chúng ta nhờ bởi truyền thông đại chúng, quảng cáo, bởi hệ thống các
ngôi sao thể thao, điện ảnh, âm nhạc…. Tất cả những điều này là khởi đầu trong trình
thuật về exodus, trong đó Pharaô là gương mặt tiêu biểu của ác mộng về sự thiếu hụt.
2. Có một chọn lựa khác với vương quốc của khan hiếm, đó là sự thực hành tình xóm
giềng lân cận. Đó là cam kết dấn thân cho lợi ích chung. Sự chọn lựa này không dễ
dàng, không hiển nhiên, không tự động. Nó đòi hỏi một sư ra đi tự nguyện khỏi hệ
thống mà Kinh Thánh gọi là ‘exodus’. Trong trình thuật Kinh Thánh, Israel không
muốn ra đi, và khi đã ra đi, lại muốn quay về làm nô lệ cho Pharaô. Ra đi chỉ là một

42
phần của công trình. Khả năng suy tư, và tưởng tượng, và hành động, và sống vượt
trên hệ thống đòi hỏi sự tưởng tượng bao gồm khía cạnh tâm lý, kinh tế, và phụng vụ.
Trong khi vấn đề được tranh luận, nghiên cứu thần học có thể được dùng trong nghệ
thuật ra đi, một công trình tập trung vào các truyền thống vĩ đại của suy tư phê phán
là tài nguyên cho suy tư ngoài hệ thống, cho quyết định trở nên tác nhân trong lịch sử
của chúng ta chứ không làm nô lệ cho hệ thống sản xuất và tiêu thụ.
3. Trình thuật về cuộc hành trình từ thiếu hụt ngang qua dư đầy đi đến tình láng giềng
là cuộc hành trình chủ yếu mà người Do thái phải thực hiện, các Ki-tô hữu phải thực
hiện, và cả nhân loại phải thực hiện để trở nên nhân bản toàn diện. Sự thực hiện trình
thuật về hành trình này phải lặp đi lặp lại và đó là lý do vì sao nó hình thành như là
một phụng vụ. Nó phải được thực hiện và lại được thực hiện vì vương quốc của thiếu
hụt có khả năng lớn lao làm vô hiệu hóa và phá hủy hoàn toàn cuộc hành trình này.
Chúng ta cần phải bắt đầu và lại bắt đầu hành trình này nếu không chúng ta sẽ qui
phục vương quốc của thiếu hụt, gia nhập vào sự giành giựt, và tưởng tượng rằng sống
trong chế độ thiếu hụt là bối cảnh thông thường của nhân bản. Sự giam cầm như thế
của tâm trí phải được thách đố vì nó dẫn chúng ta đến:
 Dấn thân vào chiến tranh hung tàn nhân danh tự do dân chủ,
 Phớt lờ sự nghèo đói trong nền kinh tế sung túc,
 Duy trì chính sách lạm dụng môi trường thiên nhiên nhân danh sự nuôi dưỡng
nền kinh tế.
Bị giam cầm trong vương quốc của thiếu hụt, chúng ta sống với những mâu thuẫn
không thể chịu đựng được và chúng ta dường như không chú ý nhiều đến mâu thuẫn.
4. Cuộc hành trình đi từ lo âu thiếu hụt ngang qua sự dư đầy kỳ lạ đi đến lợi ích
chung của tình xóm giềng lân cận được giao phó cho Giáo hội. Khi Giáo hội cơ cấu
phẩm trật chỉ phản ánh vương quốc thiếu hụt của thế giới, Giáo hội thất bại trong ơn
gọi của mình. Tuy nhiên, Giáo hội trung thành vẫn duy trì phận vụ biểu lộ qua đời
sống cuộc hành trình nhắm đến lợi ích chung.

43
Thánh lễ chắc chắn là sự lặp lại trình thuật về manna trong sách Xuất hành. Bí tích
Thánh Thể, khi không được cử hành trong sự ép buộc và lo âu, là một hành động về
sự phong phú của Thiên Chúa phá vỡ chế độ thiếu hụt.
Sau hai lần hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng (Mc 6,30-44 và Mc 8,1-10) mời gọi các
môn đệ suy nghĩ về những điều họ chứng kiến:
Sao anh em bàn tán về chuyện anh em không có bánh? Anh em chưa hiểu chưa
thấu sao? Lòng anh em ngu muội thế! Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà
không nghe ư? Anh em không nhớ sao? (Mc 8,17-18)
Sau khi nhắc lại sự dư thừa trong hai phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giê-su hỏi:
“Anh em chưa hiểu ư?” (Mc 8,21)
Anh em không hiểu rằng ý thức hệ về thiếu hụt đã bị phá vỡ, bị tràn ngập bởi quà
tặng của Thiên Chúa về sự dư đầy?
Chúng ta có khuynh hướng tin tưởng vào ý thức hệ về sự thiếu hụt vì thế chúng ta
tham lam và loại trừ nhau, ích kỷ và cưỡng bức người khác.
Tuy nhiên trình thuật về sự dư đầy tiếp tục tồn tại ở giữa chúng ta. Những ai dấn thân
vào cuộc xuất hành khỏi chế độ của lo âu thiếu hụt sẽ trở nên người làm nên lịch sử
của tình thân hữu xóm giềng lân cận. Đó là những người có năng lực để ước mơ và hy
vọng. Ước mơ lật đổ ác mộng của Pharaô. Trong Mt 6,25-33, Đức Giê-su trình bày:
 ‘Đừng lo âu’ – đừng tin vào Pharaô
 ‘Cha trên trời biết anh em cần gì’ – vì thế Ngài sẽ ban dư đầy
 ‘Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa’ – để ý, săn sóc người lân cận, và mọi sự sẽ
tốt đẹp.

SOLOMON VÀ CÁC NGÔN SỨ


Cuộc cách mạng của Mô-sê có thể đứng vững được cho tới khoảng năm 1000 tcn như
là một thực tại xã hội sống động. Đến thời của Solomon khoảng năm 962 tcn, có một
sự thay đổi tận căn trong nền tảng của đời sống và đức tin của Israel. Sự thay đổi này
đã bắt đầu và thúc đẩy bởi Đa-vít nhưng đến thời Solomon đã trở nên rõ ràng. Toàn

44
bộ kế hoạch của Solomon là đạt được sự tự cung cấp về lương thực nhằm mục đích
đạt được sự an toàn cho nhà vua và triều đại. Chương trình này bao gồm:
1. Một hậu cung phục vụ cho những cuộc hôn nhân mang tính chính trị: 1V 11,1-3.
2. Một hệ thống thuế do các tỉnh đóng góp, loại bỏ hệ thống các chi tộc và làm cho
sự kiểm soát của Salomon hiệu quả hơn: 1V 4,7-19. Điều này làm thay đổi nền
kinh tế dựa trên địa phương trở nên nền kinh tế chính trị của một đất nước.
3. Một bộ máy quan chức phức tạp, bắt chước các đế quốc rộng lớn chung quanh,
nhằm cơ chế hóa quyền lực: 1V 4,1-6.
4. Một quân đội thường trực, không còn lệ thuộc vào ý kiến dân chúng và lợi ích
chân chính của đất nước: 1V 4,4; 9,22.
5. Sự say mê khôn ngoan, bắt chước các đế quốc, đại biểu cho nỗ lực hợp lý hóa
thực tại, nghĩa là, kết hợp các thực tại thành những phần có thể trông nom và sử
dụng được: 1V 5,9-14; 10,1-5.
6. Lao động cưỡng bức từ các làng quê nhằm xây dựng những công trình đồ sộ,
khai thác đá, mỏ, đốn gỗ và sản xuất tàu thuyền: 1V 5,13-19; 6,1-7; 9,15-19.
Solomon đang thực hiện tiến trình tục hóa Israel, nghĩa là, dẫn Israel quay trở lại bối
cảnh chính trị và tôn giáo trước thời Mô-sê. Sau đây là ba chiều kích mà Solomon
thành đạt, đại biểu cho một nền văn hóa thống trị mà các ngôn sứ chống lại:
 Sự giàu có sung túc
Solomon đạt được sự phồn thịnh không thể tin được: 1V 4,20-23. Một sự thừa mứa, dư
đầy. Tuy nhiên sự dư dật này chỉ xảy ra tại hoàng cung và sự dư thừa thực phẩm là do
tước đoạt từ bàn ăn của người khác. Xã hội của Giao ước luôn chú ý đến người thân
cận đã bị thay thế bằng tiêu thụ, trong đó người thân cận trở nên như sản phẩm để sử
dụng cho nhu cầu của mình. Trong sự dư đầy như thế, không có chỗ cho ý thức về
công bình và tự do.
 Chính sách áp bức
Sự thành đạt của Solomon một phần nhờ vào chính sách áp bức, là nền tảng của chế
độ và nguồn gốc của sự sung túc. Sự sung túc được phân phối theo thứ bậc. Một thiểu

45
số quyền lực giàu có dựa vào nỗ lực của những người khác. Nguyên tắc cơ bản của
chính sách xã hội là thực hiện cưỡng bức lao động. Đây là chính sách vận động và sở
hữu năng lực của dân chúng cho quyền lợi của triều đình và những nhu cầu phung phí
nhóm quyền lực.
Sự thèm muốn do bóc lột không bao giờ có thể thỏa mãn cho dù đạt được tài sản,
quyền lực, hay an toàn đến đâu đi nữa cũng không cảm thấy đủ. Sự nỗi dậy trong 1V
11,26-40 và cuộc tranh luận trong 1V 12 liên quan đến bản chất của sự cai trị và vai
trò của dân chúng và lãnh đạo, cả hai trình thuật cho thấy sự đấu tranh với một sự
hiểu biết mới về chính mình của Israel, một ý thức mới do chế độ tạo ra và trên đó
chế độ được xây dựng. Ý thức mới này không có chỗ cho công bình và lòng trắc ẩn.
Trật tự quốc gia là vấn đề quan trọng hơn, những vấn đề về tự do và công bình được
đặt vào hạng thứ yếu. Công bình và tự do là những hứa hẹn vốn có; nhưng chế độ này
không chấp nhận sự hứa hẹn vì nó đặt vấn đề về cơ cấu áp bức hiện nay và đe dọa
chính nền tảng của sự tự cung cấp lương thực hiện nay.
 Tôn giáo của vương triều
Nền kinh tế thịnh vượng và chính trị áp bức là điểm nổi bật nhất của sự thành đạt của
Solomon. Nhưng hai yếu tố này sẽ không thể phát triển và tồn tại nếu không nhận
được sự ủng hộ về thần học. Do đó, yếu tố thứ ba đại biểu cho vương triều Solomon
là sự thiết lập một tôn giáo thuộc về chế độ và có thể kiểm soát được, trong đó Thiên
Chúa và đền thờ trở nên một phần của vương triều, trong đó quyền tối cao của Thiên
Chúa phụ thuộc vào mục đích của nhà vua, sự tự do của Thiên Chúa hoàn toàn không
còn nữa.
Ba yếu tố trên luôn tồn tại chung với nhau. Chúng ta có thể tóm lược theo sơ đồ sau:
Kinh tế phồn thịnh Chính trị áp bức

Tôn giáo ủng hộ vương triều

46
Dĩ nhiên chính trị áp bức và kinh tế phồn thịnh lệ thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên nền tảng
của hai yếu tố này là tôn giáo ủng hộ vương triều. Các Pharaô trước đây luôn thấy
tầm quan trọng của tôn giáo, nhưng đó là một tôn giáo tương hợp trong đó không có
sự cọ xát. Một nền tôn giáo cung cấp một Thiên Chúa luôn đứng về phía vương triều
và nền văn hóa thống trị, vì thế không có sự hiện diện của phản kháng, do đó không
có đổi mới.
Solomon đã có thể xây dựng một nền văn hóa chống lại nền văn hóa của Mô-sê
1. Solomon chống lại nền kinh tế bình đẳng bằng nền kinh tế phồn thịnh. Sự đối
kháng rất rõ ràng và sắc bén. Sự tích lũy tài sản chống lại kinh nghiệm sa mạc: ‘kẻ có
nhiều thì không dư, người có ít thì không thiếu. Mỗi người đã lượm tùy theo sức mình
ăn được bao nhiêu’ (Xh 16,18). Nền kinh tế phồn thịnh được thiết lập nhằm làm cho
dân chúng thỏa mãn đến nỗi mất đi niềm say mê về thế giới mới, và trở nên dửng
dưng trước khổ đau của người khác.
2. Solomon chống lại chính trị công bình bằng chính trị áp bức, tìm mọi cách ngăn
cản tiếng kêu của người bị áp bức, loại trừ.
3. Solomon chống lại tôn giáo của Thiên Chúa tự do bằng tôn giáo của Thiên Chúa
ủng hộ vương triều, ru ngủ con người đến độ không ai nhận ra nỗi thống khổ trong
trái tim của Thiên Chúa.
Trong thế giới vương quốc của Pharaô và Solomon, sứ vụ ngôn sứ về một thế giới
mới là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, chúng ta tin rằng thế giới mới nằm
trong kế hoạch của Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa không được tin cậy trong vương
quốc, không được biết đến trong triều đình, và không được đón tiếp trong đền thờ.
Ngài khởi đầu công cuộc bằng cách chú ý đến tiếng kêu của người bị loại trừ, Ngài
biểu lộ bản tính của Ngài qua cảm xúc, sự săn sóc, khóc thương, đau khổ và vui
mừng. Các ngôn sứ sau Mô-sê đều biết rằng các vua sẽ phải đối diện với vị Thiên
Chúa đầy lòng xót thương này.

47
Phong trào ngôn sứ nổi lên trong bối cảnh Israel chuyển từ một cộng đoàn giao ước
dưới sự lãnh đạo của một thẩm phán đi đến một quốc gia cơ cấu hóa với nhà vua và
triều đình. Các ngôn sứ là những người có kinh nghiệm về tương quan mật thiết với
sự hiện diện uy quyền của Gia-vê đến nỗi họ cảm thấy xúc phạm khi thấy Israel sống
chia rẽ, tôn thờ ngẫu tượng, sống xa lạ với nhau và với Thiên Chúa duy nhất của họ.
Trong tình cảnh như thế họ không thể làm gì khác ngoài việc phê phán hoàn cảnh.
Mối bận tâm về công bình chính là động cơ thúc đẩy các ngôn sứ lên án bất
công. Mối bận tâm này đâm rễ sâu trong sự đồng cảm với tấm lòng của Thiên
Chúa. Đặc tính chủ yếu của tư tưởng ngôn sứ là tính ưu việt của sự can thiệp
của Thiên Chúa trong lịch sử. Lịch sử là lãnh vực mà các ngôn sứ quan tâm.
Họ bị thúc đẩy bởi trách nhiệm đối với xã hội, bởi sự nhạy cảm về những đòi
hỏi của thời đại.1
Sứ vụ ngôn sứ tập trung vào hai chủ đề liên hệ với nhau, đó là xóa bỏ ngẫu tượng và
kết án bất công xã hội đồng thời mời gọi trở về với Gia-vê của giao ước và thực thi
công bình. Thờ phượng Gia-vê phải dẫn tới thực thi công bình đối với dân chúng,
ngược lại chạy theo Baal là hợp pháp hóa chế độ áp bức. Tuy nhiên
Sứ vụ ngôn sứ không bao gồm những hành động kỳ diệu về việc thôn tính xã
hội hoặc sự xô xát của phẫn nộ. Đúng hơn, sứ vụ ngôn sứ bao gồm việc cung
cấp một quan niệm khác về thực tại và giúp dân chúng nhìn lịch sử của chính
mình trong ánh sáng của sự tự do của Thiên chúa và ý muốn của Ngài về công
bình.2
Trong Cựu Ước, xung đột giữa các ngôn sứ và nhà vua được diễn tả như là xung đột
giữa việc tôn thờ Baal và Gia-vê. Tuy nhiên sự xung đột này bao hàm một xung đột
rộng lớn hơn, liên quan đến hay quan niệm về tổ chức xã hội loài người. Tôn giáo thờ
Baal ủng hộ và cổ võ cho một xã hội dựa trên cấp bậc và sự phân tầng xã hội và một
nền kinh tế tập trung. Ngược lại, tôn giáo của Gia-vê trình bày những lý tưởng bình
đẳng của một liên hiệp các chi tộc với những sắp xếp về kinh tế không tập trung. Do
1
Abraham Heschel, The Prophets.
2
Walter Brueggemann, The Prophetic Imagination.
48
đó khi các ngôn sứ kết án bất công là phản đối chống lại cơ cấu xã hội - kinh tế. Các
ngôn sứ chất vấn và nhắc nhở lý do Israel được thành lập, đó là, sống trong tình yêu
giao ước với Gia-vê và sống trong hòa bình với người khác trong một cơ cấu đề cao
sự bình đẳng của mọi người.

NỀN TẢNG TÂN ƯỚC

ĐỨC GIÊ-SU LỊCH SỬ: VỊ NGÔN SỨ CỦA THỜI CÁNH CHUNG

Trong phần này chúng ta nhìn vào những điều Đức Giê-su đã nói, làm, và cách
sống để khám phá con người, quan điểm sống và lý tưởng của Ngài.
Tính Cách Mạng
Đức Giê-su là một nông dân Do thái. Linh đạo của Ngài có nền tảng từ nguồn
cảm hứng nguyên thủy của Cựu Ước. Thế giới của Ngài là thế giới Do thái dù không
trung thành tuyệt đối với Cựu Ước. Chúng ta không thể giả định rằng tất cả những gì
trong Cựu Ước đều được hiểu biết đem ra thực hiện.
Cựu Ước bao gồm nhiều thế giới quan và linh đạo trải dài trong nhiều thế kỷ. Vào
thời Đức Giê-su có sự khác biệt về giải thích, nhiều ý kiến khác nhau về căn tính Do
thái và đủ mọi truyền thống của con người (Mc 7,8.13).
Chúng ta cũng không nên đánh giá thấp ảnh hưởng Hy lạp và Rôma trên dân Do thái.
Cách sống và các giá trị của thế giới La-Hy được giới thượng lưu và quyền thế du
nhập: phái Hêrôđê, các thượng tế, các bậc kỳ lão và những chủ nông giàu có. Đa số
họ sống trong sự giàu sang và suy đồi.
Cuộc sống, sứ điệp và linh đạo của Đức Giê-su lật đổ những giá trị của thế giới
Người đang sống. Người không phải là một nhà cải cách nhưng là một nhà cách mạng
nhưng không theo nghĩa chính trị. Người muốn thay đổi xã hội, một cuộc cách mạng
xã hội đòi hỏi một sự hoán cải thiêng liêng sâu xa.

49
Cách mạng chính trị nhằm lật đổ một chính phủ và thay thế một chính phủ khác
nhưng cách mạng xã hội nhằm đổi mới tương quan giữa người với người. Đức Giê-su
coi mình là một ngôn sứ với sứ mạng là giới thiệu một cuộc cách mạng xã hội và
thiêng liêng. Sự phá hủy các cơ cấu quyền lực sẽ theo sau đó.
Đảo Ngược Thế Giới
Những lời dạy của Đức Giê-su, đặc biệt là bài giảng trên núi, lật đổ tất cả những gì
mà người đương thời cho là hiển nhiên. Yêu kẻ thù, cầu nguyện cho người làm hại
mình, tha thứ 70 lần 7…. Người giàu có được coi như được Thiên Chúa chúc phúc
nhưng Đức Giê-su lại nói ngược lại: phúc thay người nghèo khổ. Như vậy không phải
người giàu có được chúc phúc nhưng người nghèo. Điều này không có nghĩa là nghèo
khổ là tốt đẹp hay một ngày kia người nghèo sẽ nên giàu có nhưng người giàu có rất
khó chia sẻ của cải khi Nước Thiên Chúa đến, khó như lạc đà chui qua lỗ kim, còn
người nghèo sẽ dễ dàng chia sẻ. Để có thể hiểu sự khó khăn này chúng ta thử tưởng
tượng một người đi quanh thành phố nói với người giàu rằng họ không được chúc
phúc. Thật vậy họ là người kém may mắn. Tại sao? Vì cách thức duy nhất để nhân
loại tồn tại là người giàu phải giảm bớt mức sống và chia sẻ cho người nghèo. Người
giàu có sẽ thấy rất khó khăn.
Khi thiên hạ khen ngợi các ngươi thì kể như mình bất hạnh, khi người ta chê bai,
mắng chửi các người thì hãy vui mừng (Lc 6,22. 23. 26). Nói cách khác hãy quên đi
tiếng tăm của mình. Khi người khác phê phán làm mất thể diện, đó có thể là một lời
chúc phúc trá hình.
Phẩm Giá Bình Đẳng
Đức Giê-su xác tín mọi người đều bình đẳng về phẩm giá và giá trị. Người đối
xử với người tội lỗi, bệnh tật bình đẳng như người quyền thế, giàu có. Người không
coi thường phụ nữ và trẻ em. Thái độ của Người lật đổ xã hội phân chia giai cấp.
Người dạy các môn đệ trở nên đầy tớ, nô lệ, trẻ con khi các ông tranh cãi ai là người
lớn nhất.

50
Đối với người tội lỗi, điều mà Đức Giê-su quan tâm là cách thức đối xử của mọi người
đối với họ. Người phụ nữ ngoại tình bị coi như ngoại tình và bị ném đá trong khi người
đàn ông thì vô tội. Sẽ không có ngoại tình và đĩ điếm nếu người đàn ông không đòi hỏi
và trả tiền (Ga 8, 1-11).
Câu Chuyện Mang Tính Lật Đổ
 Người Pharisêu và thu thuế cầu nguyện
 Mt 21,31: người thu thuế và gái điếm vào thiên đàng trước người biệt phái,
kinh sư
 Người Samari nhân hậu
 Các công nhân làm việc trong vườn nho
 Đứa con hoang đàng
Tương Đối Hóa Lề Luật
Linh đạo vào thời Đức Giê-su dựa trên lề luật và Torah, nhưng Ngài lại tương đối
hóa lề luật: ngày Sa-bát được làm ra cho con người chứ không phải con người cho
ngày Sa-bát (Mc 2,27). Con người không hiện hữu để phục vụ và thờ phượng luật: đó
là thờ ngẫu tượng.
Đức Giê-su tự do hoàn toàn do đó không tuân giữ luật khi thấy rằng làm như thế có
hại cho con người vì mục đích của luật không bao giờ là làm hại con người. Thái độ
này của Đức Giê-su gây ‘xì căng đan’.
Quan Niệm Khác Biệt về Nước Thiên Chúa
Đức Giê-su sống trong thời mà người Do thái mong mỏi Đấng Mêsia tới để
thiết lập triều đại Thiên Chúa. Sự mong đợi được diễn tả trong các nhóm tôn giáo
khác nhau: Essene, Nhiệt thành, Pharisêu… Các môn đệ Đức Giê-su mong đợi một
Mêsia-vua giải phóng Israel khỏi đô hộ Rôma và thiết lập Israel hùng mạnh (x. 2 môn
đệ trên đường E-mau). Đức Giê-su đảo ngược mọi mong ước của người đương thời
khi chọn con đường Mêsia-người tôi tớ đau khổ. Người có một tư tưởng khác biệt về
triều đại Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải như một vị hoàng đế thống trị dân
chúng nhưng là một người cha đầy yêu thương, Abba. Do đó Đức Giê-su quan niệm

51
về triều đại Thiên Chúa như là sự cai trị của một người cha đầy yêu thương trong dụ
ngôn người con hoang đàng.
Xã hội mà Đức Giê-su mong ước giống như một gia đình trong đó mọi người là anh
chị em con của cùng một Cha là Thiên Chúa. Hình ảnh về Nước Thiên Chúa của Đức
Giê-su là hình ảnh về một gia đình yêu thương hơn là một vương quốc thống trị, áp
bức. Nước Thiên Chúa vì thế không đến từ trên nhưng đến từ dưới, từ người nghèo,
người bé nhỏ, tội lỗi, bị loại trừ từ những làng mạc Galilê. Họ sẽ trở nên là anh chị
em lo lắng cho nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, bảo vệ nhau, và chia sẻ với nhau.
Quan hệ gia đình tự nhiên, Đức Giê-su cũng đưa xuống hạng thứ yếu Lc 14,16: ai
không ghét cha, mẹ, anh chị em, và chính cuộc sống mình thì không thể làm môn đệ
của tôi. Mc 3,33-35: Ai là mẹ tôi? Ai là anh chị em tôi?... Ngài muốn vượt qua giới
hạn của gia đình tự nhiên để đi đến gia đình của Nước Thiên Chúa. Một tình yêu chỉ
dành riêng cho gia đình riêng có thể là một tình yêu vị kỷ.
Điều này không có nghĩa là Đức Giê-su nhận thức về Nước Thiên Chúa như là gia
đình của toàn thể nhân loại. Chúng ta phải yêu mến mọi người ngay cả kẻ thù như
anh chị em mình, nhưng cộng đoàn gia đình mới là gia đình của những người yêu
thương nhau. Nếu một người tiếp tục thù ghét và nguyền rủa người khác thì người ấy
tự tách mình ra khỏi gia đình mới của Thiên Chúa. Thật ra các thành viên của gia
đình ruột thịt cũng chống đối và loại trừ nhau. Do đó Đức Giê-su có thể thấy trước là
sự thành lập gia đình mới có thể phân chia và gây mâu thuẫn giữa các thành viên của
gia đình ruột thịt.
Giống như mọi gia đình, gia đình Thiên Chúa tụ tập quanh bàn ăn để chia sẻ
thức ăn tinh thần và vật chất. Chia sẻ là đặc tính của đời sống gia đình. Chúng ta thấy
gia đình Đức Giê-su (bao gồm Đức Giê-su và các môn đệ) có tài sản chung, sau đó là
cộng đoàn Giêrusalem. Chính hình ảnh về Nước Thiên Chúa như là gia đình đã thúc
đẩy Ki-tô hữu tiên khởi gọi nhau là anh em, điều này không có nhóm tôn giáo nào
thời đó thực hiện.

52
Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su loan báo không hoàn toàn thuộc về tương lai
và chúng ta chỉ ngồi chờ đợi, nhưng Nước Thiên Chúa là một thực tại đã đến giữa
chúng ta. Chúng ta không cần phải chờ đợi (Mt 12,38-9) và có thể khám phá ra ngón
tay Thiên Chúa trong những gì đang xảy ra. Nước Thiên Chúa như là men đang hoạt
động trong thế giới (Mt 13,33). Nước Thiên Chúa như là hạt giống đang mọc lên và
phát triển ngày càng lớn mạnh hơn (Mc 4,31-2).
Một Hình ảnh Đảo Ngược về Đấng Mêsia
Đức Giê-su rất ngần ngại để cho người khác gọi Người là Mêsia vì Người
không phải là Mêsia theo như đa số dân chúng suy nghĩ. Người không muốn thống trị
nhưng phục vụ, trở nên tôi tớ mọi người (Mc 10,42-45). Thật khó tưởng tượng được
sự đảo ngược giữa ông chủ và đầy tớ và thánh Gioan đã diễn tả sự khó chấp nhận đó
trong câu chuyện rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,4-16).
Đức Giê-su không từ chối vai trò quan trọng của mình nhưng Người thi hành bằng
đau khổ và chết cho sứ mạng đó theo hình ảnh Mêsia-tôi tớ đau khổ (Is 52,13-53,12).
Người không phải là người chiến thắng nhưng là nạn nhân. Điều nghịch lý là Thiên
Chúa hiện diện bên phía của nạn nhân của thế giới. Theo cái nhìn của con người, Đức
Giê-su là một thất bại nhưng đối với Thiên Chúa lại là một thành công. Chính sự sẵn
sàng thất bại của Đức Giê-su cải tổ linh đạo của thời đại của Người. Cái chết của
Người là chiến thắng.
Đức Giê-su sẵn sàng chết cho người khác là một phần quan trọng của linh đạo của
Người: ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất; ai mất mạng sống mình sẽ được cứu. Nói
cách khác khi chúng ta không sẵn sàng hiến mạng sống mình cho người khác, chúng
ta đã chết; ngược lại khi chúng ta hiến mạng sống cho người khác, chúng ta đang
sống.
Tương Quan với Thiên Chúa
Mọi nhà thần bí đều đề cập đến kinh nghiệm kết hợp với Thiên Chúa và dùng
nhiều hình ảnh khác nhau để diễn tả kinh nghiệm đó. Đối với Đức Giê-su, kinh
nghiệm kết hợp mật thiết với Thiên Chúa được diễn tả như là kinh nghiệm về Abba.

53
Đây là một kinh nghiệm về sự thân mật: Thiên Chúa là cha đầy yêu thương luôn ôm
ấp, bảo vệ, yêu thương con cái của mình. Dụ ngôn người cha nhân hậu mạc khải sự
tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa.
Đức Giê-su coi mình là người con học hỏi người cha bằng cách bắt chước cha.
Người học tha thứ vô điều kiện như cha, có lòng trắc ẩn như cha, yêu thương mọi
người ngay cả kẻ thù như cha. Kinh nghiệm về Thiên Chúa là Cha là nguồn mạch của
sự khôn ngoan, tin tưởng, tự tin, rõ ràng và tự do triệt để. Nếu không có kinh nghiệm
này chúng ta không thể hiểu lý do tại sao và làm thế nào mà Đức Giê-su đã làm
những điều Người đã làm.
Kinh nghiệm Thiên Chúa là cha ám chỉ rằng Thiên Chúa rất gần gũi với Đức
Giê-su. Một trong những thay đổi quan trọng nhất mà Đức Giê-su giới thiệu cho linh
đạo và suy tư đạo đức đương thời là xác tín rằng Thiên Chúa ở rất gần con người:
Emmanuel. Thách đố đối với con người là lớn lên trong ý thức Thiên Chúa hiện diện
và gần gũi. Thiên Chúa không chỉ gần gũi với tôi nhưng Ngài làm một với tôi, Ngài
cư ngụ trong tôi.
Sống kinh nghiệm của trẻ thơ: Hình ảnh lý tưởng mà Đức Giê-su dạy các môn đệ bắt
chước là trở nên giống trẻ thơ.
- Khiêm tốn: trẻ thơ không có giá trị trong xã hội thời Đức Giê-su, trẻ thơ không là gì
cả, nghĩa là ở mức thang thấp nhất trong xã hội. Đối với Đức Giê-su, trẻ thơ là mẫu
mực của khiêm tốn tuyệt đối (Mt 18,3-4). Ai muốn theo Đức Giê-su hãy khiêm tốn
như trẻ thơ. Tuy nhiên điều quan trọng cần phải nhận ra là chúng ta không thể khiêm
tốn bằng quyết định trở nên khiêm tốn. Chúng ta càng cố gắng khiêm tốn bao nhiêu
thì càng không thành công bấy nhiêu vì nỗ lực của ý chí có thể là công việc của ‘ego’.
Điều có thể làm là trở nên ý thức hơn về sự kiêu ngạo của ‘ego’.
Khiêm tốn là vấn đề của sự thật, nhận thức sự thật về chính mình. Nghĩ rằng mình trổi
vượt hơn hoặc thấp kém anh em trong khi sự thật không phải thế đó là có hình ảnh sai
lạc về chính mình. Biết sự thật về mình sẽ không còn tranh chấp vị trí hơn kém.

54
Đức Giê-su yêu thích trẻ thơ vì nơi các em Người thấy điều gì đó đáng ngưỡng mộ và
yêu quí, điều gì đó thuộc về nước Thiên Chúa (Mc 10,14-6). Nơi con trẻ không có giả
hình, luôn cởi mở và thành thật.
- Kinh ngạc: một đặc tính khác nơi trẻ thơ khiến Đức Giê-su chọn trẻ thơ làm gương
mẫu, đó là sự kinh ngạc trước điều kỳ diệu, nơi con trẻ mọi sự đều mới mẻ, kỳ diệu
và đầy kinh ngạc. Đức Giê-su có một cảm thức sâu xa về sự kinh ngạc trước điều kỳ
diệu, đặc biệt trong thiên nhiên như vẻ đẹp của bông huệ, cách sống của chim trời, sự
lớn lên của cây lúa…. Trong mọi sự kỳ diệu, Đức Giê-su nhận ra bàn tay huyền
nhiệm của Thiên Chúa.

SỨ VỤ NGÔN SỨ CỦA ĐỜI TU

Cựu Ước dùng từ nabi để chỉ ngôn sứ, nabi có nghĩa là gọi hoặc được gọi. Từ
Hy lạp là prophetes (danh từ của prophemi) có nghĩa nói thay cho hoặc nói nhân danh
một người nào đó; prophetes trong Kinh Thánh có nghĩa là người nói nhân danh
Thiên Chúa. Như vậy ngôn sứ là người loan báo sứ điệp của Thiên Chúa cho dân
dưới nhiều dạng thức khác nhau.
Ngày nay ngôn sứ được hiểu như là người gợi lên, tạo ra một ý thức, một nhận thức
khác với ý thức và nhận thức của nền văn hóa đang thống trị. Trong thực tế, ngôn sứ
thực hiện sứ vụ của mình qua phê phán và tạo hy vọng. Ngôn sứ phê phán sự dữ đang
hoành hành thế giới và đồng thời tạo hy vọng về một thế giới mới tốt đẹp hơn dựa
trên quan điểm của Thiên Chúa.3

Đức Giê-Su Vị Ngôn Sứ


Mọi người vào thời Đức Giêsu đều cho Ngài là ngôn sứ (x. Lc 7,16.39; 9,8.19; 24,19;
CV 2:30). Đức Giê-su nói về mình như là một ngôn sứ (x. Lc 4,24) và Ngài chấp nhận
số phận của một ngôn sứ (x. Lc 11,49-50; 13,33). Các môn đệ nói về Ngài như ‘một
3
Walter Brueggemann, Prophetic Imagination.
55
ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm và lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân’ (Lc
24,19). Đức Giê-su được xem như là ngôn sứ như Mô-sê (x. Cv 3,22; 7,37)
Chắc chắn Đức Giêsu không thể chỉ là ngôn sứ, nhưng trong sứ vụ công khai, Ngài
hành động như một ngôn sứ cả trong lời nói lẫn cách sống. Cách thức phê phán của
Ngài là liên kết với những người bị bỏ rơi. Lòng trắc ẩn của Ngài không chỉ là phản
ứng của tình cảm nhưng là một phê phán công khai chống lại sự tê liệt của bối cảnh
xã hội. Lòng trắc ẩn của Đức Giê-su tạo nên một hình thức phê phán tận căn vì nó
loan báo rằng sự thiệt hại của những người bị loại trừ và sống bên lề xã hội được
được nghiêm chỉnh chú ý đến.
Sứ vụ ngôn sứ đã đưa Đức Giê-su đến đối kháng với nhà cầm quyền tôn giáo
và xã hội vì họ bị đe dọa bởi sứ điệp của Ngài. Cái chết trên thập giá là hậu quả
không thể tránh được của sứ vụ ngôn sứ. Cái chết trên thập giá là hành động cuối
cùng của sự phê phán ngôn sứ: Thiên Chúa ôm trọn cái chết mà dân Chúa phải chết.
Tóm lại, qua lời nói và hành động, đặc biệt qua cái chết trên thập giá, Đức Giê-su
tham gia vào việc phá hủy ý thức đang thống trị vào thời đại của Ngài.
Sứ vụ ngôn sứ của Đức Giê-su được đồng hóa với việc loan báo Tin Mừng của Nước
Thiên Chúa, chỉ cho thấy Nước Thiên Chúa hiện diện giữa dân chúng, và làm chứng
cho Nước Thiên Chúa bằng chính cuộc sống của Ngài. Lời Chúa được loan báo bằng
lời, hành động và chính đời sống của Đức Giêsu. Đức Giêsu là ngôn sứ nhưng Ngài
không tập trung vào việc canh tân xã hội và chính trị. Ngài không loan báo về canh
tân thế giới nhưng loan báo về sự tận cùng của thế giới. Có một sự thay đổi từ kết án
đến chúc lành, từ phán xét đến hy vọng, từ phê phán đến cổ võ. Lý do của sự thay đổi
này rất đơn giản:
Đức Giê-su là ngôn sứ của thời cánh chung, vương quốc của Thiên Chúa đang
đến một cách dứt khoát; việc mời gọi canh tân xã hội và chính trị một cách
chắp vá do con người thực hiện là không thích hợp.4

4
John P. Meier, A Marginal Jew.
56
Sứ vụ ngôn sứ của Đức Giêsu không dừng lại với cái chết nhưng sự phục sinh là hành
động cuối cùng của hành động ngôn sứ tạo hy vọng về một lịch sử mới đã được khai
mào.

SỨ VỤ NGÔN SỨ CỦA ĐỜI TU


Tu sĩ được mời gọi trở nên dấu chỉ ngôn sứ và làm chứng về điều quan trọng
nhất của con người là Thiên Chúa và các giá trị Tin Mừng. Lời mời gọi này được cụ
thể hóa qua chứng tá về ‘tình yêu cá vị đối với Đức Giêsu và người nghèo, trong họ
Đức Giê-su hiện diện.’
Hiện nay sứ vụ ngôn sứ của tu sĩ ‘phải là chiều kích khẩn cấp dưới ánh sáng
của sứ mạng Phúc Âm hóa của Giáo hội và trong bối cảnh của lịch sử chúng ta.
Chúng ta cần hiểu sâu xa hơn về điểm chủ yếu này.’
Sau chiếu chỉ Milan, Giáo hội không còn là nhóm bị bách hại và bị áp bức nhưng là
nhóm được ưu đãi. Một vài Kitô hữu nhiệt thành cảm thấy Giáo hội trở nên quá tục
hóa và nhận thấy rằng chỉ có cách duy nhất để chống lại tinh thần tục hóa này là tìm
kiếm trong sa mạc sự bị loại trừ và đau khổ vốn là số phận của các Kitô hữu trước
đây. Chính sự khởi đầu phong trào đan tu thường được trình bày như là ‘một sự phản
đối chống lại Giáo hội trở nên quá tục hóa, quá giàu có và quá quyền lực theo nghĩa
trần thế, ủng hộ một Kitô giáo cánh chung.’5
Giáo hội được thiết lập để tiếp tục công cuộc cứu độ của Đức Ki-tô trong lịch sử,
nghĩa là đưa vào sự hiệp thông với nhau và với Thiên Chúa mà họ giờ đây gọi là
‘Abba’ (Gal 4,6-7). Khi Giáo hội không hoàn thành sứ mạng được giao phó vì quá
thỏa hiệp với những cấu trúc của trần thế, Giáo hội cần một đặc sủng mang tính ngôn
sứ chống lại chính Giáo hội.
Các cộng đoàn ngôn sứ có thể thi hành 2 phận vụ:
 Cung cấp một phê phán ngôn sứ trong lòng Giáo hội bằng cách đặt vấn đề về
sự thỏa hiệp với trần thế;
5
Yves Congar, Power and Poverty in Church.
57
 Cung cấp phê phán ngôn sứ chống lại toàn thể xã hội; đây chính là sứ vụ của
toàn thể Giáo hội.
Bản chất của tính ngôn sứ của đời tu là sự ‘bị loại trừ’ đối với sự năng động và
tiến trình lịch sử của cả thế giới lẫn Giáo hội. Tu sĩ, như là đặc sủng ngôn sứ, không
rời bỏ thế giới nhưng đi đến bên lề hệ thống xã hội nơi đó tu sĩ kêu lên tiếng than van
về sự bất công của hệ thống xã hội, khơi dậy ký ức về chương trình của Thiên Chúa
về tạo vật và về Giáo hội, và thắp lên hy vọng xây dựng Nước Thiên Chúa.
Tu sĩ sống các lời khấn trong cộng đoàn tạo nên một thế giới khác trong lòng thế giới
hiện tại. Họ không chỉ cố gắng sống khác biệt trong thế giới nhưng xây dựng một thế
giới khác tạo nên chứng tá cho Nước Thiên Chúa. Tuyên khấn là sự dấn thân cho thế
giới, là một định hướng về toàn bộ con người, đời sống, và lịch sử hướng đến sự thực
hiện Nước Thiên Chúa. Sống các lời khấn không chỉ tạo nên một lối sống khác trong
thế giới nhưng kiến tạo một thế giới khác
1. Lời khấn Khiết Tịnh
Sống khiết tịnh là sự thể hiện theo Đức Giêsu vì Nước Thiên Chúa. Sự liên hệ
giữa độc thân và Nước Thiên Chúa mang tính ‘cánh chung’ và ‘tối thượng’ đòi hỏi
con người sẵn sàng hy sinh tất cả. Khiết tịnh là diễn tả lịch sử của sự tối thượng của
Nước Thiên Chúa. Nó làm cho con người tự do để phục vụ Nước Thiên Chúa vì nó
nuôi dưỡng sự không dính bén đến xã hội. Sự trống vắng tình cảm cho phép tu sĩ yêu
thương nhiều người đặc biệt là người nghèo, bị bỏ rơi và bị loại trừ.
Sự khiết tịnh là chân thật khi nó đưa đến việc theo Đức Giêsu được đánh dấu bởi sự
không dính bén, bởi một vị thế tiên phong trong Giáo hội và xã hội, và sự sẵn sàng
chấp nhận nguy hiểm và bách hại. ‘Sự chân thật đáp lại tình yêu của Đức Kitô sẽ dẫn
tu sĩ đến một cuộc sống nghèo khó và mang lấy nguyên nhân của sự nghèo khó nơi
người nghèo’ vì ‘chọn lựa người nghèo gắn liền với cấu trúc của tình yêu được sống
trong Đức Kitô.’6

6
Vita Consecrata (VC) 82.
58
Độc thân của đời tu là sự loan báo mang tính ngôn sứ về Nước Thiên Chúa trong
chừng mực nó diễn tả và cụ thể hóa ân sủng của Thiên Chúa vì ân sủng của Thiên
Chúa, chứ không phải sự độc thân, tiên báo về đời sống trong Nước Thiên Chúa. Độc
thân là sự đáp trả tình yêu của Thiên Chúa được diễn tả ‘trước tiên trong việc sống
khiết tịnh một cách hoan hỉ, như là chúng tá về sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa
được biểu lộ trong sự yếu đuối của nhân loại.’7
Trước khi là một quyết định của con người, độc thân là một quà tặng của Thiên Chúa
xác định vị trí của tu sĩ trong Giáo hội, do đó nó là một ơn gọi. Chính Đức Giê-su Ki-
tô, Đấng đã gọi con người sống hình thức này của môn đệ và ban ơn để con người đi
theo Ngài trong cách sống này. Sống sự độc thân theo Tin Mừng trong Giáo hội biểu
lộ tỏ tường sức mạnh vô song của ơn Chúa và sự hiện diện của Nước Thiên Chúa
đang ở giữa chúng ta.
2. Lời khấn Khó Nghèo
Sự nghèo khó theo Tin Mừng không phải là việc từ bỏ của cải vật chất nhưng
là việc thiết lập quan hệ mang tính Tin Mừng với của cải, nghĩa là, ‘không sở hữu’
hoặc là quản lý nhằm tạo nên một thế giới khác – thế giới ‘kinh tế quà tặng’ trong đó
sự hào phóng của Thiên Chúa, không phải nỗ lực con người, là nguồn gốc của những
gì mà con người nhận được: tất cả là quà tặng! Đối lập với nền kinh tế thị trường của
thế giới hôm nay trong đó của cải được xem như là đối tượng của quyền sở hữu và
hoạt động kinh tế chủ yếu là để thu được, một nền ‘kinh tế quà tặng’ không có chỗ
cho sự tham lam và tích trữ nhưng dành cho sự đơn giản, hào phóng, lòng trắc ẩn đối
với người kém may mắn.
Địa vị cao trọng trong nền ‘kinh tế quà tặng’ không dành cho những người sở
hữu nhiều hơn nhưng dành cho người cho, chia sẻ nhiều hơn. Nếu mọi thành phần
của cộng đoàn sống lời khấn khó nghèo nghiêm túc, họ sẽ tạo nên và sống trong nền
‘kinh tế quà tặng’ chống lại hệ thống kinh tế trong đó vật chất có được là do nỗ lực

7
VC 88.
59
của tôi kiếm được vì thế tôi sở hữu những gì tôi có và tôi có toàn quyền sử dụng
chúng.
Sống trong nền kinh tế quà tặng qua lời khấn khó nghèo, cộng đoàn tu sĩ nuôi
dưỡng quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa được diễn tả qua sự lệ thuộc vào sự quan
phòng của Ngài, và với các thành viên được diễn tả qua tình bạn trong bình đẳng.
Hơn nữa kinh tế quà tặng làm cho cộng đoàn có khả năng quảng đại đi đến với người
nghèo là những người không thể trả tiền cho những nhu cầu cơ bản của mình. Tu sĩ
chọn lựa người nghèo không phải vì họ không muốn trở nên giàu có nhưng muốn thể
hiện lòng nhân từ của Thiên Chúa. Tu sĩ nhận thức rằng người nghèo về vật chất, tinh
thần và thiêng liêng không phải là người ăn xin nhưng là anh chị em của chính mình.
Một cộng đoàn sống khó nghèo chân thật giữa nền kinh tế thị trường cung cấp
một chứng tá ngôn sứ thách đố các xác tín nền tảng của chủ nghĩa tư bản hiện nay
trong đó người nghèo đối diện với những thách đố về cơ cấu giữ họ không thể đặt
chân vào các bậc thang phát triển. Trong bối cảnh như thế, sống chính trực nền kinh
tế quà tặng là một loan báo mang tính ngôn sứ về niềm hy vọng là chúng ta có thể
loại bỏ sự nghèo đói trong thế hệ của chúng ta. Gần nửa dân số thế giới sống trong
nghèo khổ trong đó 1,1 tỉ người sống trong cảnh cùng cực và hằng năm hơn 8 triệu
người trên thế giới chết vì họ quá nghèo để có thể sống. Thảm kịch là chỉ cần một sự
giúp đỡ nhỏ là họ có thể thịnh vượng.8
3. Lời Khấn Vâng Phục
Vâng phục phải được hiểu theo nguyên ngữ của nó là ob-audire nghĩa là ‘ra đi
(ob) để gặp hay nghe (audire) lời.’ Tuyên khấn vâng phục, tu sĩ khấn trước hết và
luôn luôn lắng nghe tiếng Chúa, tìm kiếm ý định của Thiên Chúa trong thế giới.
‘Cộng đoàn tu sĩ không chỉ là một nhóm đang lắng nghe nhưng còn là nhóm đang tìm
kiếm’, cách hiểu này về vâng phục mang tính tông đồ. Nó liên quan đến ý muốn của
Thiên Chúa về công trình xây dựng Nước Thiên Chúa.

8
Jeff D. Sachs, “Exclusive Book Excerpt,” Time (March 14, 2005)
60
Việc thực thi lời khấn vâng phục liên quan đến sự biện phân mang tính cá nhân
và cộng đoàn về ý định của Thiên Chúa và đem ra thực hành. Mục tiêu không chỉ hiểu
biết ý định của thiên Chúa nhưng đem ra thực hành và vâng phục quyền bính trong
cộng đoàn là cách thức thực tiễn để đạt đến quyết định hành động. Sự thực thi vâng
phục trong cộng đoàn là cách thức cụ thể và rõ rệt của việc lắng nghe ý định Thiên
Chúa là đặc tính của đời tu.
Các tu sĩ sống lời khấn vâng phục trong cộng đoàn là những người ngang hàng,
tự do chọn lựa đến với nhau không phải để sống đời sống hôn nhân hay để làm kinh
tế nhưng vì tình yêu đối với Thiên Chúa và bị Nước Thiên Chúa hấp dẫn. Cộng đoàn
các môn đệ qui tụ quanh Đức Giêsu gồm những người ngang hàng trong đó mọi
người được mời gọi phục vụ lẫn nhau bằng cách bắt chước Đức Giêsu, Đấng đã hy
sinh mạng sống cho họ và trong bữa tiệc ly để lại di chúc ‘anh em hãy làm việc này
mà nhớ đến Thầy.’ (Lc 22,19)
Sự tranh luận về việc ai là người lớn nhất giữa các môn đệ giúp Đức Giê-su có
cơ hội trình bày quan điểm của mình vế quyền lực: sự thống trị của người nắm quyền
là cách của thế gian nhưng giữa các ông không phải vậy. (x.Lc 22,26) quan điểm của
Đức Giê-su về tương quan giữa các môn đệ của Ngài thách đố triệt để cấu trúc chính
trị luôn dùng quyền lực cưỡng bức để kiểm soát. Sống lời khấn vâng phục triệt để vì
Nước Thiên Chúa trong cộng đoàn các môn đệ ngang hàng với nhau là một chứng tá
ngôn sứ về cấu trúc mới chính trị của Nước Thiên Chúa.
Tóm lại, các lời khấn mang tính ngôn sứ khi chúng thách đố một cách hiệu quả
những cản trở chống lại Nước Thiên Chúa. Chúng chống lại những lầm lạc chính yếu
liên quan đến sở hữu, tình cảm và quyền lực. Chúng là phương thế hội nhập chiều
kích Tin Mừng và cuộc đấu tranh biến đổi xã hội. Chúng là những phương thế cho
phép các giá trị Tin Mừng biến đổi thế giới thành nơi cư ngụ nhân bản và thánh thiện
hơn cho con người. Các lời khấn mang tính ngôn sứ khi được sống trong một cộng
đoàn. Giống như cộng đoàn của Đức Giê-su xưa kia, cộng đoàn là dấu chỉ hữu hình
các giá trị của Nước Thiên Chúa chống lại nền văn hóa hiện hành và làm chứng một

61
cách hiệu quả về Nước Thiên Chúa. Chính chứng tá mang tính cộng đoàn của một Ki-
tô giáo dấn thân là điều mà các tu sĩ tìm cách làm hiện thực. Họ cố gắng biểu hiện ý
nghĩa của Giáo hội trong thế giới hiện nay.
+++

(Phần đọc thêm)


KHỔ CHẾ TRONG VIỆC THỰC THI
BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM

Ngày nay đời sống thánh hiến thường được nhắc đến như một cuộc lội ngược
dòng và quả thật là thế. Vì qua việc công khai tuyên hứa ba lời khuyên Phúc Âm
người tu sĩ đi ngược lại với những xu hướng thời đại và hơn thế nữa còn đi ngược với
xu hướng nội tại của con người mình. Quyết tâm này làm nên một sự hiến tế liên lỷ
trong cuộc đời người tu sĩ và đòi hỏi họ một sự từ bỏ tận căn để nên đồng hình đồng
dạng với Đức Kitô.
1- Khổ chế với lời khấn Khiết tịnh
Trước tiên, ta phải nhìn nhận. Muốn yêu và muốn được yêu đó là khuynh
hướng tâm lý bình thường của một con người bình thường. Độc thân thánh hiến
không phải là sự thui chột về tính dục nhưng là một kiểu sống tính dục thích đáng chứ
không chèn ép nó9. Vì thế, việc tuyên khấn lời khấn thanh tịnh tự bản chất không phải
là một cuộc chạy trốn như nhiều người vẫn nghĩ. Trái lại, nó là quà tặng Thiên Chúa
ban. Như Đức PhaoLô VI khẳng định: “Sự trinh khiết hiến dâng cho Thiên Chúa là
một ân huệ đặc biệt”10. Và theo sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo: “Khiết tịnh là
một nhân đức luân lý, nhưng cũng là một hồng ân của Thiên Chúa, là ân sủng, là hoa
trái của Thần Khí”11. Hơn nữa, Giáo Hội luôn luôn đề cao đức khiết tịnh thánh hiến
như dấu chỉ và nguồn mạch của ân huệ Thiên Chúa giữa lòng thế giới khi khẳng định:
“Sự tiết dục hoàn hảo vì Nước Trời đã được Hội Thành luôn quý trọng và coi như dấu

9
JOSÉ CRISIREY GARCIA PAREDES
10
ĐỨC PHAOLÔ VI, Thông Điệp Về Độc Thân Linh Mục, Số 44
11
HĐGM VIỆT NAM, Ủy ban Giáo Lý Đức Tin , SGLCG Số 2345, NXB Tôn Giáo
62
chỉ và động lực của đức ái và như nguồn mạch đặc biệt của sự phong phú thiêng liêng
trong thế giới”.12
Thế nhưng, cho dù đức khiết tinh thánh hiến là một hồng ân, một quà tặng từ
Thiên Chúa thì người tu sĩ cũng phải cố gắng biết bao mới có thể đạt tới và trung
thành với hồng ân ấy. Bởi vì bản chất của lời khấn hệ tại ở lời đoan thệ với Chúa
không kết hôn và tránh mọi tội lỗi nghịch thanh tịnh. Hơn nữa, với lời khấn này người
tu sĩ dâng hiến cho Thiên Chúa trái tim không chia sẻ dâng cho Ngài tất cả khả năng
yêu đương của riêng mình, để đạt tới chỗ thánh hóa bản thân và mưu ích cho phần rỗi
của tha nhân cách hữu hiệu và dễ dàng hơn 13. Điều này dẫn đưa người tu sĩ tới một sự
từ bỏ tân căn và triệt để để kết hợp với Thiên Chúa trong tương quan của mầu nhiệm
Chúa Kitô và Giáo Hội. Sự từ bỏ này không chỉ đơn thuần là từ bỏ những hành vi và
khoái lạc tính dục nhưng còn bao hàm tất cả những tiềm ẩn trong hạnh phúc gia đình,
trong niềm vui và sự chu toàn tình yêu nhân tính giữa vợ chồng khi được trao ban và
lãnh nhận, trong niềm vui và sự mãn nguyện được làm cha làm mẹ. Sự từ bỏ những
niềm vui chính đáng ấy bản chất là một khổ chế đối với đòi hỏi bản năng của người tu
sĩ. Bởi vì, trong thực tế việc tuyên giữ lời khấn khiết tịnh không miễn chuẩn hay lấy
đi nơi họ những đòi hỏi thỏa mãn các sung lực phái tính và thực trạng tâm lý phát
sinh khả năng yêu đương. Do đó, để có thể tiến dâng Thiên Chúa một trái tim trọn
vẹn không chia sẻ, người tu sĩ phải đương đầu với một cuộc chiến không ngơi nghỉ và
bất khoan nhượng với chính mình. Đó là một cuộc chiến khó khăn mà người tu sỹ sẽ
phải vượt qua bằng những nỗ lực khổ chế của bản thân. Bởi vì, một khổ chế tích cực
bao giờ cũng tạo nên một bước đường độc thân trinh khiết đích thực.
Như đã nói, đức khiết tịnh thánh hiến là một kho tàng quý hóa nhưng nó cũng
rất mong manh dễ vỡ và cũng là nhân đức chỉ đạt được bằng khổ chế mà thôi. Với
khổ chế người tu sĩ sẽ chiến đấu và chiến thắng những đam mê hung hãn nhất của con
người. Do hậu quả của tội, bản tính con người bị suy yếu luôn ngả chiều về đường tội
lỗi. Nó mở cửa cho các dịp tội tràn vào linh hồn qua mọi con đường nên muốn giữ
12
VATICANO II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 42
13
CATECHISMO DEI VOTI RELIGIOSI
63
đức thanh khiết thánh hiến cần khổ chế toàn thân, khổ chế ngoại quan, nội quan và
trái tim cho nhiệm nhặt mới được. Sở dĩ phải hãm mình toàn thân, ngoại quan và nội
quan vì nhân đức này rất tế nhị. Hơn nữa, phải chế ngự trái tim vì trái tim là quan
năng của tình yêu, tự nhiên nó phát sinh những năng lực hướng về đó. Vậy nên, phải
canh phòng cẩn mật không để cho nó quyến luyến vào một thụ tạo nào. Về vấn đề
này thánh Phaxico De Sale thận trọng dạy rằng: “thường khi ta tưởng mình yêu người
này, người kia vì Chúa mà thực chất ta yêu họ vì mình, nghĩa là vì những an ủi họ
mang đến cho ta”. Bên cạnh việc chăm chỉ chế ngự ngũ quan, người tu sĩ cũng cần
lưu tâm đến việc bảo tồn đức khiết tinh nhờ việc chăm chỉ học hành, lao động và làm
việc bổn phận vì những việc ấy sẽ giải thoát ta khỏi tình trạng ở nhưng, giúp ta điều
hòa thân thể, trí không thông thái ít bị cám dỗ và nếu có bị cám dỗ thì cũng đủ cường
tráng để chống trả.
Trên hết mọi nỗ lực ta phải vun trồng lòng kính mến đối với Thiên Chúa và
Đức Trinh Nữ Maria vì đây là phương thế siêu nhiên và là trợ lực giúp ta chu toàn
nghĩa vụ của lời khấn là dâng hiến cho Thiên Chúa một trái tim không chia sẽ và nhờ
đó yêu mến mọi người như Chúa yêu.
2- Khổ chế với lời khấn khó Nghèo
Ngày nay, do ảnh hưởng của chủ nghĩa hưởng thụ người ta tìm mọi cách để
được chiếm hữu của cải. Xã hội đề cao những người sở hữu một tài sản kếch xù và kể
là không những con người nghèo khó. Đang khi đó, người tu sĩ tự ý cam kết khấn giữ
lời khấn khó nghèo để khước từ việc chiếm hữu của cải hay ít ra việc sử dụng và tự
do hưởng thụ tài sản trần gian14.
Điều đáng lưu ý ở đây là cho dù người tu sĩ đã tự ý khấn hứa sống khó nghèo
thì nỗi khao khát chiếm hữu, sử dụng và hưởng thụ của cải vẫn còn đó trong bản tính
con người nơi người tu sĩ. Vẫn còn đó những mối bận tâm về của ăn áo mặc hay
những lo lắng về những ngày già yếu, bệnh tật. Tất cả những điều đó không hề được
cất đi khỏi họ và nó không ngừng dấy lên trọng họ những ngọn cuồng phong đòi được

14
CATECHISMO DEI VOTI RELIGIOSI
64
thỏa mãn. Quả thật, trong bối cảnh tiến bộ xã hội tiến bộ người ta làm ra nhiều của cải
và tiên nghi nhờ đó con người được sống hạnh phúc hơn thì việc chu toàn nghĩa vụ
lời khấn này lại trở nên thách đố hơn cho người tu sĩ. Tuy nhiên, dù khó khăn nhưng
việc sống khó nghèo trong thời đại này không phải là không thể thực hiện được bởi vì
đức khó nghèo thánh hiến không chỉ trói chặt người tu sĩ vào chuyện khước từ sở hữu
hay khước từ quyền tự do sử dụng và định đoạt. Nhưng nó còn đẩy người tu sĩ lên
một tầm mức cao hơn trong ước muốn trở nên giống Đức Giêsu Đấng giàu sang vô
cùng đã vì yêu con người mà trở nên nghèo khó (1 Cr 8,9) và để liên đới với anh chị
em.
Trở nên giống Đức Giêsu và liên đới với anh chị em đó chính là chiều kích
giao ước và sứ vụ của lời khấn khó nghèo. Trong đó, việc tuyên khấn giúp người tu sĩ
gỡ mình khỏi những dính bén của cải trần thế để sống cho Thiên Chúa hết cả tâm hồn
và quảng đại trong tình yêu đối với tha nhân. Khi đó, người tu sĩ đạt được mục đích
của lời khấn là được sống dồi dào trong Thiên Chúa bởi được Ngài làm cơ nghiệp và
một sự thanh thoát để đến với anh em. Tinh thần khổ chế này cũng được thể hiện qua
việc coi thường những của cải trần thế, khước từ những đam mê của tinh thần và của
xác thịt, để cho tư tưởng của mình hướng về những thực tại vĩnh cửu. Đó là những
khía cạnh tinh thần của đức khó nghèo thánh hiến vậy là khía cạnh thực tế của lời
khấn này.
Thật ra, ngay từ trong bản chất lời khấn này đã mang lại cho người tu sĩ những
sự từ bỏ lớn lao. Vì nó đi ngược lại với bản tính và xu hướng tự nhiên của con người.
Điều này gây nên không ít những chiến đấu cho người tu sĩ, thêm vào đó là ảnh
hưởng của chủ nghĩa tiêu thụ làm cho đòi hỏi thỏa mãn càng thêm mãnh liệt hơn.
Tiếp đến, để thực thi đức khó nghèo Phúc Âm người tu sĩ đâu chỉ ở tinh thần
mà thôi song người tu sĩ còn thể hiện ra bên ngoài bằng sự lệ thuộc bề trên trong việc
sử dụng của cải vật chất như: không mua sắm, đổi, xài, mượn, nhận gì mà không có
phép của bề trên. Lời khấn này còn phải được thể hiện cách tỉ mỉ trong từng chi tiết
của đời sống như: của ăn thanh đạm, trang phục giản dị, tình thần trách nhiệm đối với

65
các của cải chung, việc giới hạn sử dụng của cải vào việc cần thiết, không quá lo lắng
về đồ dùng và sức khỏe phần xác. Tất cả những thể hiện đó cho thấy chiều kích khổ
chế ẩn tàng bên trong lời khấn.
Trong thời đại hôm nay, lời khấn này đựơc nhấn mạnh nhiều hơn dưới hình
thức của lao động. Vì như Đức Phaolô VI nhìn nhận lao động chính là khía cạnh thiết
yếu của đức khó nghèo15. Ngày nay người ta lao động chỉ để tìm lợi tức mà quên đi
giá trị nhân bản và giá trị Tin Mừng của lao động vì thế trong khi chia sẻ nghĩa vụ lao
động người tu sĩ làm chứng cho thế giới về các giá trị này. Trước thực trạng đó đòi
hỏi người tu sĩ phải phục hồi lại giá trị khổ chế trong đức khó nghèo để tìm ra bài học
cho thời đại. Vì khổ chế của lời khấn khó nghèo là phương thế làm cho họ kiên cường
trong tinh thần và trong ý muốn làm môn đệ của Chúa Kitô. Đồng thời đối kháng lại
với văn hóa coi việc sở hữu và tiêu dùng làm lý tưởng cho đời sống và thước đo giá
trị của con người. Như vậy, khổ chế không chỉ nằm trong bản chất của lời khấn khó
nghèo qua đòi buộc từ bỏ khuynh hướng muốn chiếm hữu và sử dụng tài sản mà còn
trong cách thực hành nhân đức của lời khấn này. Một khi người tu sĩ biết trung thành
bền bỉ thực hành khổ chế để đạt đến nhân đức khó nghèo thì chính sự khổ chế này sẽ
giúp người tu sĩ thoát khỏi những dính bén của cải, có tâm hồn thanh thoát và dễ dàng
thích nghi với mọi hoàn cảnh dù khó khăn đến đâu.
3- Khổ chế với lời khấn vâng Phục
Với lời khiết tịnh người tu sĩ hiến dâng cho Thiên Chúa trái tim không chia sẽ,
với lời khấn khó nghèo người tu sĩ tình nguyên từ bỏ của cai trần gian để được Chúa
làm gia nghiệp thì với lời khấn vâng phục người tu sĩ tự hiến ý muốn mình như của lễ
bản thân dâng lên Thiên Chúa nhờ đó được kết hợp với ý muốn cứu rỗi của Ngài cách
kiên trì và chắc chắn16. Như thánh Grêgôriô cũng nói: “Giữ các nhân đức khác là mới
là dâng cho Chúa của cải, còn vâng lời là dâng cho Chúa chính bản thân mình”. Còn
theo thánh Thomas thì: “không có gì quý trọng bằng sự tự do của ý chí”.

15
ĐỨC PHAOLO VI, Chứng Tá Phúc Âm, số 20
16
VAT II, Sắc lệnh Perfectae Caritatis, số 14
66
Thật ra, sự vâng phục là luật chung cho mọi người không chỉ riêng cho người
tu sĩ. Nhưng chỉ do việc công khai cam kết sống vâng phục mà lời khấn này nên nó đã
trở nên điểm căn cốt và là thước đo của đời sống người tu sĩ. Như cha Iréneé
Hausherr viết: Vâng phục là nguyên nhân tạo ra đời tu giữa lòng Giáo Hội. Vâng
phục cũng là lề luật căn bản của đời sống tu trì.
Dù vâng phục là luật chung cho mọi người vì nó bao trùm mọi chi tiết của cuộc
sống từ những chuyên xem ra lớn lao cho đến những chi tiết rất nhỏ nhặt chẳng hạn
như: một công dân phải vâng theo Hiến Pháp của đất nước, một người làm ăn tuân
thủ luật kinh doanh, người tham gia giao thông tuân thủ luật giao thông, em bé đến
lớp tuân thủ nội quy trường lớp…Thế nhưng ngày nay, người ta lại ngại nói đến vâng
phục hơn bao giờ hết. Vì họ cho rằng sự vâng phục kiềm hãm tự do của con người
nhốt con người trong tình trạng ấu trĩ. Ấy là chưa nói đến những người theo chủ nghĩa
tự do phóng khoáng. Họ chủ trương rằng tự do là muốn làm gì thì làm. Đứng trên
quan điểm đó họ đã lầm khi nhìn về đức vâng phục của Kitô giáo, đặc biệt là đức
vâng phục tu trì. Vì sự vâng phục mà người tu sĩ đảm nhận là sự vâng phục tự do đích
thực. Sự vâng phục trong tư cách là người con cái Chúa. Một sự vâng phục bằng con
tim và tâm hồn. Như Công đồng Vaticano II xác định: đức vâng phục trong đời tu
chẳng những không giảm bớt phẩm giá con người, nhưng nhưng còn giúp cá nhân
trưởng thành nhờ phát triển tự do của con cái Thiên Chúa17.
Vậy xét về ý nghĩa thì lời khấn vâng phục là lời khấn rút ra từ sự vâng phục
“cho đến chết” của Đức Kitô. Nhờ đó, người tu sĩ khi khấn giữ lời khấn này được
tham dự vào đức vâng phục cứu thế của Đức Kitô 18.Còn xét về mặt pháp lý lời khấn
vâng phục trước hết hệ tại lời đoan hứa với Chúa sẽ tuân phục các bề trên hợp pháp
của Hội dòng trong những điều ngài truyền phù hợp với kỷ luật và hiến pháp. Hơn
nữa, một cách tích cực ta thánh hiến cho Thiên Chúa ý chí ta xét như một tài năng tác

17
Vticano II, Sắc lệnh Perfectaecaritatis, số 14
18
ĐỨC GIOAN PHAO LÔ II, Tông Huấn Hồng Ân Cứu Chuộc, số 13
67
động mà khả năng hành động lệ thuộc 19. Đây chính là chiều kích hiến tế mà người tu
sỹ muốn đảm nhận để dâng hiến chính mình lên Thiên Chúa như một của lễ.
Tuy nhiên, việc hoàn tất lễ dâng ấy lại là một thách đố liên lỉ cho người tu sĩ.
Bởi vì chính Đức Giêsu khi đến trong thế gian cũng phải đau khổ dãi dầu mà học cho
biết vâng phục. Cũng như lời khấn khiết tinh và khó nghèo tự bản chất lời khấn vậng
phục là một sự từ bỏ tận căn. Chính sự từ bỏ này cho thấy một tinh thần khổ chế bao
trùm mọi chi tiết của người tu sĩ qua chương trình, kỷ luật dòng. Hơn nữa, vì lời khấn
hê tại ở việc can kết buộc ý muốn tùng phục Thiên Chúa qua bề trên nên nó đòi buộc
nơi người tu sỹ một sự từ bỏ ý riêng cách triệt để. Như vậy để sống trọn hảo lời khấn
này người tu sĩ phải liên lỉ thực hiện khổ chế trong các lãnh vực: tư tưởng, ý chí và
hành động. Vì thực tế, đâu phải lúc nào lý trí của người tu sĩ cũng phù hợp với những
điều các đấng bề trên truyền dạy và ý chí mau mắn tuân thi hành những lệnh
truyền…..Như vậy, có thể nói được đức vâng phục như cuộc tử đạo kéo dài và liên lỉ
mỗi ngày của tu sĩ vì qua đó người tu sĩ phải khước từ ngay cả những ý muốn, những
sáng kiến, chương trình của mình theo chỉ ý hướng của Hiến Pháp, của bề trên như
thánh Bênađô nói: “Vâng phục là đưa đến một cuộc tử đạo, vì ai thật muốn vâng phục
trọn vẹn phải đau khổ và đau khổ rất nhiều nơi thân xac và trong lòng”. Và như thánh
Phanxico De Sale nói: “Trót đời luôn luôn vâng phục đó là cuộc tử đạo lớn lao hơn và
chết bởi gươm trong nháy mắt”.
Nhìn chung, ba lời khuyên Phúc Âm khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục tự bản
chất đã mang một chiều kích khổ chế có tính bao trùm cuộc sống của người tu sĩ. Bởi
vốn dĩ nó luôn đi ngược lại với xu hướng và bản tính con người. Hơn nữa sự trọn lành
đời tu không chỉ dừng lại ở việc thực thi các ràng buộc pháp lý nhưng còn đòi người
tu sĩ phải đạt đến nhân đức của ba lời khấn nữa. Vì thế, phương thế hữu hiệu và bó
buộc để đạt tới nhân đức của các lời khấn ấy chẳng phải là gì khác chính là các thực
hành việc khổ chế.

19
CATECHISMO DEI VOTI RELIGIOSI
68
……………………………………

Giáo trình được lược dịch và tóm tắt từ:


1. Theology of religious life của Domingo Moraleda, CMF
2. Prophetic Imagination của Walter Brueggemann
3. Journey to the Common Good của Walter Brueggemann
4. Jesus Today của Albert Nolan
5. ‘Religious Life in the Future’ của Sandra Schneiders

Người trình bày: Giuse Trần Ngọc Quý.


2023

69

You might also like