You are on page 1of 7

Phương pháp tính giá hàng nhập kho

Hàng tồn kho trong các doanh nghiệp tăng từ nhiều nguồn khác nhau với
các đơn giá khác nhau, vì vậy doanh nghiệp cần lựa chọn phương pháp
tính giá thực tế hàng xuất kho… việc lựa chọn phương pháp nào còn tuỳ
thuộc vào đặc điểm của hàng tồn kho, yêu cầu và trình độ quản lý của
doanh nghiệp.

Song doanh nghiệp áp dụng phương pháp nào đòi hỏi phải nhất quán trong suốt
niên độ kế toán. Nếu có sự thay đổi phải giải trình và thuyết minh, nêu rõ những
tác động của sự thay đổi tới các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Để tính giá
hàng tồn kho xuất, doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp
sau đây:

* Phương pháp giá thực tế đích danh.

Theo phương pháp này sản phẩm, vật tư, hàng hoá xuất kho thuộc lô hàng nhập
nào thì lấy đơn giá nhập kho của lô hàng đó để tính. Đây là phương án tốt nhất,
nó tuân thủ nguyên tắc phù hợp của kế toán; chi phí thực tế phù hợp với doanh
thu thực tế. Giá trị của hàng xuất kho đem bán phù hợp với doanh thu mà nó tạo
ra. Hơn nữa, giá trị hàng tồn kho được phản ánh đúng theo giá trị thực tế của
nó.

Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này đòi hỏi những điều kiện khắt khe, chỉ
những doanh nghiệp kinh doanh có ít loại mặt hàng, hàng tồn kho có giá trị lớn,
mặt hàng ổn định và loại hàng tồn kho nhận diện được thì mới có thể áp dụng
được phương pháp này. Còn đối với những doanh nghiệp có nhiều loại hàng thì
không thể áp dụng được phương pháp này.

*Phương pháp giá bình quân:

Theo phương pháp này giá trị của từng loại hàng tồn kho được tính theo giá trị
trung bình của từng loại hàng tồn kho đầu kỳ và giá trị từng loại hàng tồn kho
được mua hoặc sản xuất trong kỳ. Phương pháp bình quân có thể được tính
theo thời kỳ hoặc vào mỗi khi nhập một lô hàng , phụ thuộc vào tình hình của
doanh nghiệp.

** Theo giá bình quân gia quyền cả kỳ dự trữ


Theo phương pháp này, đến cuối kỳ mới tính trị giá vốn của hàng xuất kho trong
kỳ. Tuỳ theo kỳ dự trữ của doanh nghiệp áp dụng mà kế toán hàng tồn kho căn
cứ vào giá mua, giá nhập, lượng hàng tồn kho đầu kỳ và nhập trong kỳ để tính
giá đơn vị bình quân:

Trị giá thực tế vật tư, SP, Trị giá thực tế vật tư, SP,
+
hàng hoá tồn kho đầu kỳ hàng hoá nhập kho trong kỳ
Giá đơn vị =
bình quân cả
kỳ dự trữ Số lượng vật tư, Số lượng vật tư, SP, hàng
+
SP,hàng hoá tồn đầu kỳ hoá nhập trong kỳ

Chúng ta thấy rằng, phương pháp này là khá đơn giản, dễ làm, chỉ cần tính toán
một lần vào cuối kỳ. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm lớn là công tác
kế toán dồn vào cuối kỳ ảnh hưởng đến tiến độ của các phần hành khác. Hơn
nữa, phương pháp này chưa đáp ứng yêu cầu kịp thời của thông tin kế toán
ngay tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ.

** Theo giá bình quân gia quyền sau mỗi lần nhập:

Sau mỗi lần nhập sản phẩm, vật tư, hàng hoá, kế toán phải xác định lại giá trị
thực của hàng tồn kho và giá đơn vị bình quân. Căn cứ vào giá đơn vị bình quân
và lượng xuất giữa 2 lần nhập kế tiếp để tính giá xuất theo công thức sau:

Trị giá thực tế vật tư, SP, hàng hoá tồn kho sau mỗi
lần nhập
Giá đơn vị bình =
quân sau mỗi lần
nhập Số lượngvật tư, SP, hàng hoá thực tế tồn kho sau mỗi
lần nhập

Phương pháp này có ưu điểm là khắc phục được những hạn chế của phương
pháp trên nhưng việc tính toán phức tạp, nhiều lần, tốn nhiều công sức. Do đặc
điểm trên mà phương pháp này được áp dụng ở các doanh nghiệp có ít chủng
loại hàng tồn kho, có lưu lượng nhập xuất ít.
** Theo giá bình quân gia quyền cuối kỳ trước: Dựa vào trị giá và số lượng hàng
tồn kho cuối kỳ trước, kế toán tính giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước để tính giá
xuất.

Trị giá thực tế vật tư, SP, hàng hoá tồn kho cuối
kỳ trước
Giá đơn vị bình quân =
cuối kỳ trước Số lượng vật tư, SP,hàng hoá thực tế tồn kho
cuối kỳ trước

Theo chúng tôi, phương pháp này có ưu điểm đơn giản, dễ tính toán nhưng trị
giá hàng xuất không chịu ảnh hưởng của sự thay đổi giá cả trong kỳ hiện tại. Vì
vậy, phương pháp này làm cho chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh không
sát với giá thực tế.

* Phương pháp nhập trước xuất trước(FIFO)

Phương pháp này áp dụng dựa trên giả định là hàng được mua trước hoặc sản
xuất trước thì được xuất trước, và hàng còn lại cuối kỳ là hàng được mua hoặc
sản xuất ở thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho
được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ,
giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối
kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.

Phương pháp này giúp cho chúng ta có thể tính được ngay trị giá vốn hàng xuất
kho từng lần xuất hàng, do vậy đảm bảo cung cấp số liệu kịp thời cho kế toán
ghi chép các khâu tiếp theo cũng như cho quản lý. Trị giá vốn của hàng tồn kho
sẽ tương đối sát với giá thị trường của mặt hàng đó. Vì vậy chỉ tiêu hàng tồn kho
trên báo cáo kế toán có ý nghĩa thực tế hơn.

Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là làm cho doanh thu hiện tại không
phù hợp với những khoản chi phí hiện tại. Theo phương pháp này, doanh thu
hiện tại được tạo ra bởi giá trị sản phẩm, vật tư, hàng hoá đã có được từ cách
đó rất lâu. Đồng thời nếu số lượng chủng loại mặt hàng nhiều, phát sinh nhập
xuất liên tục dẫn đến những chi phí cho việc hạch toán cũng như khối lượng
công việc sẽ tăng lên rất nhiều.
*Phương pháp nhập sau – xuất trước(LIFO)

Phương pháp này giả định là hàng được mua sau hoặc sản xuất sau thì được
xuất trước, và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là những hàng được mua hoặc sản
xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo
giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của hàng tồn kho được tính
theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ.

Như vậy với phương pháp này chi phí của lần mua gần nhất sẽ tương đối sát với
trị giá vốn của hàng thay thế. Việc thực hiện phương pháp này sẽ đảm bảo được
yêu cầu của nguyên tắc phù hợp trong kế toán. Tuy nhiên, trị giá vốn của hàng
tồn kho cuối kỳ có thể không sát với giá thị trường của hàng thay thế.

*Phương pháp giá hạch toán.

Đối với các doanh nghiệp có nhiều loại hàng, giá cả thường xuyên biến động,
nghiệp vụ nhập xuất hàng diễn ra thường xuyên thì việc hạch toán theo giá thực
tế trở nên phức tạp, tốn nhiều công sức và nhiều khi không thực hiện được. Do
đó việc hạch toán hàng ngày nên sử dụng giá hạch toán.

Giá hạch toán là loại giá ổn định, doanh nghiệp có thể sử dụng trong thời gian
dài để hạch toán nhập, xuất, tồn kho hàng trong khi chưa tính được giá thực tế
của nó. Doanh nghiệp có thể sử dụng giá kế hoạch hoặc giá mua hàng hoá ở
một thời điểm nào đó hay giá hàng bình quân tháng trước để làm giá hạch toán.
Sử dụng giá hạch toán để giảm bớt khối lượng cho công tác kế toán nhập xuất
hàng hàng ngày nhưng cuối tháng phải tính chuyển giá hạch toán của hàng xuất,
tồn kho theo giá thực tế. Việc tính chuyển dựa trên cơ sở hệ số giữa giá thực tế
và giá hạch toán.

Trị giá thực tế vật tư, SP, Trị giá thực tế vật tư, SP,
+
hàng hoá tồn kho đầu kỳ hàng hoá nhập kho trong kỳ
Hệ số giá vật
tư, SP, =
hàng hoá
Trị giá hạch toán vật tư, SP, Trị giá hạch toán vật tư, SP,
+
hàng hoá tồn kho đầu kỳ hàng hoá nhập kho trong kỳ

Sau khi tính hệ số giá, kế toán tiến hành điều chỉnh giá hạch toán trong kỳ thành
giá thực tế vào cuối kỳ kế toán.
Trị giá hạch toán của
Trị giá thực tế hàng = Hệ số giá x
hàng xuất kho trong kỳ
xuất trong kỳ

Trị giá thực tế hàng Trị giá hạch toán của


= Hệ số giá x
tồn kho cuối kỳ hàng tồn kho cuối kỳ

Phương pháp hệ số giá cho phép kết hợp chặt chẽ hạch toán chi tiết và hạch
toán tổng hợp về hàng trong công tác tính giá, nên công việc tính giá được tiến
hành nhanh chóng do chỉ phải theo dõi biến động của hàng với cùng một mức
giá và đến cuối kỳ mới điều chỉnh và không bị phụ thuộc vào số lượng danh
điểm hàng , số lần nhập, xuất của mỗi loại nhiều hay ít.

Phương pháp này phù hợp với các doanh nghiệp có nhiều chủng loại hàng và
đội ngũ kế toán có trình độ chuyên môn cao.

Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, giá thực tế của hàng nhập kho luôn biến
động phụ thuộc vào các yếu tố thị trường, các chính sách điều tiết vi mô và vĩ
mô, cho nên việc sử dụng giá hạch toán cố định trong suốt kỳ kế toán là không
còn phù hợp nữa.

Các phương pháp khác nhau có ảnh hưởng khác nhau tới các chỉ tiêu trên các
báo cáo tài chính. Phương pháp FIFO cho kết quả số liệu trong bảng cân đối kế
toán là sát nhất với giá phí hiện tại so với các phương pháp tính giá hàng tồn
kho khác vì giá của các lần mua sau cũng được phản ánh trong giá hàng tồn kho
cuối kỳ còn trị giá vốn hàng xuất là giá cũ từ trước, phương pháp FIFO giả sử
rằng giá của hàng tồn kho đầu kỳ theo giá nhập trước và giá các lần nhập trước
trở thành trị giá vốn hàng xuất (hoặc thành chi phí). Khi giá cả tăng lên, phương
pháp FIFO thường dẫn đến lợi nhuận cao nhất trong 3 phương pháp FIFO, LIFO
và bình quân, còn khi giá cả giảm xuống thì phương pháp FIFO cho lợi nhuận là
thấp nhất trong 3 phương pháp tính giá. Phương pháp FIFO là một phương
pháp tính giá theo hướng bảng cân đối kế toán, vì nó đưa ra sự dự đoán chính
xác nhất giá trị hiện tại của hàng tồn kho trong những kỳ giá cả thay đổi. Trong
những kỳ giá tăng lên, phương pháp FIFO sẽ cho kết quả thuế cao hơn bất kỳ
phương pháp nào trong khi những kỳ giá cả giảm sút thì FIFO giúp cho doanh
nghiệp giảm đi gánh nặng thuế. Song một ưu điểm lớn của FIFO là phương
pháp này không phải là đối tượng cho những qui định và những yêu cầu của các
điều khoản ràng buộc thuế như phương pháp LIFO phải gánh chịu.
Trong phương pháp LIFO, thông thường thì số hàng tồn cuối kỳ gồm giá gốc
của những mặt hàng mua từ cũ . Khi giá cả tăng lên, phương pháp LIFO cho số
liệu trên bảng cân đối kế toán thường thấp hơn so với giá phí hiện tại. LIFO
thường cho kết quả lợi nhuận thấp nhất trong trường hợp giá cả tăng vì giá vốn
trong phương pháp này là cao nhất và cho lợi nhuận cao nhất khi giá cả giảm (vì
giá vốn là thấp nhất). Phương pháp LIFO thường dẫn đến sự giao động thấp
nhất về lợi nhuận báo cáo ở những nơi mà giá bán có xu hướng thay đổi cùng
với giá hiện tại của các mặt hàng tồn kho thay đổi.

Phương pháp LIFO tạo ra sự ảnh hưởng khác nhau tới báo cáo tài chính do
phương pháp này thường phản ánh số liệu giá vốn hàng bán theo giá phí hiện
hành, phương pháp này cũng có nhiều thuận lợi thiết thực về thuế thu nhập
doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp sử dụng phương pháp LIFO trong việc
tính toán thuế thu nhập doanh nghiệp thì phương pháp này cũng phải được sử
dụng trong các báo cáo tài chính cho các cổ đông. Chẳng hạn, vào cuối những
năm 20 của thế kỷ 20, nhiều doanh nghiệp kể cả Dupont, General Motors, Kodak
và Sears đã chuyển từ phương pháp FIFO sang phương pháp LIFO khi mà chỉ
số giá cả tăng mạnh trước đây thì việc chuyển từ FIFO sang LIFO đã đạt được
kết quả trong việc chi trả tiền thuế thu nhập thấp hơn một cách đáng kể. Như
hãng Dupont và General Motor chuyển từ phương pháp FIFO sang phương
pháp LIFO, mỗi doanh nghiệp đã chi trả tiền thuế thu nhập thấp hơn khoảng 150
triệu USD, cùng lúc đó các doanh nghiệp này đã báo cáo thu nhập thuần cho các
cổ đông thấp hơn so với thu nhập thuần mà có được do hãng vẫn sử dụng
phương pháp FIFO báo cáo tài chính cho các cổ đông.

Phương pháp bình quân trong tính giá hàng tồn kho là phương pháp tạo ra sự
quân bình ở giữa hai phương pháp LIFO và FIFO trong việc ảnh hưởng tới bảng
cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh. Phương pháp này không đưa ra
một dự kiến về thông tin giá phí hiện thời trên cả báo cáo tài chính và báo cáo
kết quả kinh doanh, nó cũng không giúp việc giảm thiểu gánh nặng thuế cũng
như không phát sinh những kết quả nặng nề nhất khi có những thay đổi khác
nhau.

Tóm lại, sự khác nhau trong việc xác định giá vốn hàng bán và trị giá hàng tồn
kho cuối kỳ theo các phương pháp tính giá khác nhau liên quan tới việc thay đổi
giá phí mua vào của các mặt hàng. Việc sử dụng giá cũ cho xác định trị giá hàng
tồn cuối kỳ trong phương pháp LIFO hoặc xác định giá vốn hàng bán theo giá cũ
hơn trong phương pháp FIFO sẽ chịu ít ảnh hưởng nếu giá cả ổn định. Khi chỉ
số giá cả tăng lên hoặc giảm xuống sẽ ảnh hưởng tới việc sử dụng đơn giá cũ
hoặc mới do thay đổi giá dẫn đến sự khác biệt lớn về giá vốn hàng bán và bị giá
tồn cuối kỳ giữa hai phương pháp LIFO và FIFO. Sự khác biệt về giá vốn hàng
bán và trị giá hàng tồn cuối kỳ cũng liên quan tới tỷ lệ vòng quay của hàng tồn
kho. Nhìn chung xu hướng giá cả và các mục đích nhấn mạnh chú trọng tới là
điều quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp tính giá hàng tồn kho, các
nhân tố khác cần xem xét tính những rủi ro của sự giảm thiểu hàng tồn kho cuối
kỳ trong phương pháp LIFO; dòng tiền và sự duy trì nguồn tài trợ cũng đóng vai
trò quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp tính giá xuất song chưa được
đề cập một cách thấu đáo ở đây.

Trong một thị trường ổn định, khi giá không thay đổi thì việc lựa chọn một
phương pháp tính giá hàng tồn kho nào không quan trọng lắm vì tất cả các
phương pháp tính giá đều cho cùng một kết quả khi giá không đổi từ kỳ này
sang kỳ khác. Nhưng trong một thị trường không ổn định, giá cả lên xuống thất
thường thì mỗi phương pháp có thể cho một kết quả khác. Cả 5 phương pháp
trên đều được thừa nhận, song mỗi phương pháp tính giá hàng tồn kho thường
có những ảnh hưởng nhất định trên báo cáo tài chính, vì vậy việc lựa chọn
phương pháp nào phải được công khai trên các báo cáo và phải sử dụng nhất
quán trong niên độ kế toán, không thay đổi tuỳ tiện để đảm bảo nguyên tắc nhất
quán trong kế toán.Trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc chung của kế toán và tuỳ
theo điều kiện cụ thể về số lượng hàng hoá, số lần nhập xuất, trình độ nhân viên
kế toán, điều kiện kho bãi mà doanh nghiệp lựa chọn phương pháp tính giá hàng
hoá xuất kho cho hợp lý và hiệu quả.

You might also like