You are on page 1of 54

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG

KHOA MÁC – LÊNIN

DANH THỊ MỸ HẠNH


LỚP: ĐH5CT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM


NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN


TRONG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
Ở HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY

Giảng viên hướng dẫn


Ths. Nguyễn Thị Vân

Long xuyên, 05/ 2008


LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian học tập và thực hiện khóa luận tốt nghiệp, tôi đã
nhận được sự hỗ trợ và giúp đỡ tận tình của các cơ quan và cá nhân. Tôi
xin chân thành cám ơn:
- Ban Giám Hiệu, quý thầy cô, cán bộ, công nhân viên trường Đại
học An Giang đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp đại học.
- Cô Nguyễn Thị Vân đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ
trong suốt thời gian tôi thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
- Các thầy, cô trong khoa Mác – Lênin đã vun đắp kiến thức và tạo
điều kiện cho tôi nghiên cứu khoá luận này.
- Các cơ quan, ban ngành của huyện An Phú đã cung cấp những tài
liệu thiết thực và bổ ích, góp phần thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận.
Sinh viên.

Danh Thị Mỹ Hạnh.


MỤC LỤC

I. PHẦN MỞ ĐẦU Trang


1. Lí do chọn đề tài...................................................................................................... 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 2
2.1. Mục đích nghiên cứu.................................................................................... 2
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................... 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu........................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 3
5. Đóng góp của khóa luận.......................................................................................... 3
5.1. Về lí luận...................................................................................................... 3
5.2 Về thực tiễn................................................................................................... 3
6. Kết cấu của khóa luận.............................................................................................. 3
II. NỘI DUNG KHÓA LUẬN.
Chương 1: Cơ sở lí luận về vai trò của đội ngũ giáo viên phổ thông trong sự
nghiệp.
1.1. Khái niệm giáo viên phổ thông và đặc điểm lao động của giáo viên phổ
thông.....................................................................................................6
1.1.1. Khái niệm giáo viên phổ thông............................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm lao động của giáo viên phổ thông.......................................... 8
1.1.2.1. Hoạt động dạy học của giáo viên phổ thông là hoạt động đòi hỏi có
trí tuệ và sự sáng tạo cao..............................................................................................8
1.1.2.2. Lao động của giáo viên phổ thông không chỉ là lao động trí óc mà còn lao
động chân tay........................................................................................................ 9
1.2.1.3. Giáo viên phổ thông không chỉ có trí tuệ mà phải có phẩm chất đạo
đức tốt, có lòng yêu thương con người...................................................................... 10
1.2. Vai trò của đội ngũ giáo viên phổ thông trong sự nghiệp phát triển giáo
dục – đào tạo.............................................................................................................11
1.2.1. Đội ngũ giáo viên phổ thông là nguồn nhân lực quan trọng trong sự
nghiệp giáo dục và đào tạo.........................................................................................12
1.2.2. Đội ngũ giáo viên phổ thông góp phần quyết định chất lượng giáo
dục và đào tạo............................................................................................................ 13
1.2.3. Đội ngũ giáo viên phổ thông góp phần đào tạo nhiều thế hệ tương lai
của đất nước............................................................................................................... 15
Chương 2: Vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở
huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
2.1. Vị trí địa lí, đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội huyện An Phú,
tỉnh An Giang........................................................................................................... 18
2.1.1. Vị trí địa lí, đặc điểm tự nhiên...............................................................18
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội...................................................................... 19
2.1.2.1. Điều kiện kinh tế........................................................................... 19
2.1.2.2. Điều kiện xã hội............................................................................ 20
2.2. Vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở
huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay............................................21
2.2.1. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú là lực lượng quan trọng
trong cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong
giáo dục”.................................................................................................................... 21
2.2.2. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú góp phần giáo dục, nâng cao
đạo đức, lối sống cho học sinh...................................................................................23
2.2.3. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú không ngừng đổi mới nội dung và
phương pháp giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục........................................25
2.3. Những kết quả đạt được và những hạn chế từ vai trò của đội ngũ giáo
viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ
năm 2001 đến nay.................................................................................................... 27
2.3.1. Những kết quả đạt được ......................................................................... 27
2.3.2. Những hạn chế ........................................................................................30
2.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ
giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang
trong thời gian tới.................................................................................................... 33
2.4.1. Rà soát và đánh giá đúng thực trạng về số lượng và chất lượng giáo viên
phổ thông................................................................................................................... 33
2.4.2. Đổi mới mạnh hơn nữa về nội dung và phương pháp dạy và học ở các
bậc học ...................................................................................................................... 34
2.4.3. Tăng cường nguồn đầu tư ngân sách và đầu tư có hiệu quả cho hệ thống
giáo dục và đào tạo ở các bậc học..............................................................................36
2.4.4. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi cho cán bộ trí thức, giáo viên, học sinh
vùng sâu, vùng xa...................................................................................................... 38
III- PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................... 41
BẢNG PHỤ LỤC..................................................................................................... 43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................47
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Trong xu thế phát triển của thời đại, các quốc gia trên thế giới đang
phấn đấu hết mình để đưa nền kinh tế - xã hội của đất nước phát triển đạt trình
độ cao nhất. Để đáp ứng được tình hình đó, mỗi quốc gia cần phải trang bị cho
mình một nguồn nhân lực dồi dào. Nguồn nhân lực chịu tác động bởi nhiều
nhân tố: Giáo dục và đào tạo, sức khỏe và dinh dưỡng, môi trường…. Nhưng
giáo dục và đào tạo là nhân tố cốt lõi, là cơ sở của các nhân tố khác và đồng
thời cũng là cơ sở quan trọng nhất cho sự phát triển nền kinh tế - xã hội bền
vững. Có thể nói, giáo dục và đào tạo là con đường, biện pháp tối ưu nhằm
nâng cao trình độ về mọi mặt cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Chính vì thế,
để phát triển đất nước thì điều cần thiết các quốc gia phải chú trọng phát triển
sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Và trong sự nghiệp đó, mỗi quốc gia cần có sự
quan tâm đặc biệt đến nguồn lực, vai trò của đội ngũ giáo viên. Bởi vì, đội ngũ
giáo viên chính là lực lượng quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp giáo dục và
đào tạo, đồng thời, họ cũng là một nguồn lực góp phần phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
Việt Nam - một đất nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Sự nghiệp phát triển của đất nước Việt Nam luôn gắn với những mục
tiêu cụ thể là làm cho nhân dân ngày càng được ấm no, hạnh phúc và ngày
càng được nâng cao về trí tuệ, về phẩm chất đạo đức. Sự nghiệp đó không thể
thực hiện được nếu như thiếu vai trò của giáo dục và đào tạo, và cũng không
thể thực hiện được nếu như thiếu vai trò của đội ngũ giáo viên. Vì thế, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta đã khẳng đinh: “Giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động
lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [35; 94 - 95].
Đảng ta đặc biệt coi trọng vai trò của giáo dục và đào tạo, cũng như vai
trò của đội ngũ giáo viên. Điều này được ghi nhận trong Văn kiện Hội nghị lần
thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng lần thứ VIII, IX và đã đuợc khẳng định lại trong Văn kiện Đại hội đại hội
đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X: “Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao
chất lượng dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ
sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của
học sinh, sinh viên. Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng

Trang 1
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với
tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh
và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại. Triển khai thực hiện hệ thống
kiểm định khách quan, trung thực chất lượng Giáo dục và Đào tạo” [35; 207].
An Giang là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, có những thuận
lợi trong việc phát triển kinh tế - xã hội, song cũng gặp không ít khó khăn trên
con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà trước hết là công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Để tháo gỡ một phần khó khăn của tỉnh,
cần phát huy nguồn lực con người, nhất là nguồn nhân lực có trí tuệ cao. Muốn
phát huy nguồn nhân lực đó, trước hết tỉnh cần đẩy mạnh phát triển giáo dục và
đào tạo, phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên, xem đây là nhiệm vụ quan
trọng và cấp thiết nhất hiện nay.
An Phú là một huyện đầu nguồn sông Cửu Long thuộc tỉnh An Giang,
với diện tích tự nhiên là 208,97 km2. Huyện có nhiều cửa khẩu biên giới thuận
lợi cho việc giao lưu phát triển kinh tế. Các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
của huyện phát triển tương đối ổn định, nhưng nhìn chung thì chất lượng phát
triển các lĩnh vực đó chưa cao so với cả nước. Đặc biệt là lĩnh vực giáo dục và
đào tạo, mặc dù hiện nay giáo dục và đào tạo của huyện đã có nhiều tiến bộ
đáng ghi nhận, nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế nhất định. Trong đó,
giáo dục phổ thông vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, nhất là sự hạn chế về việc
phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên trong việc nâng cao chất lượng giáo dục
phổ thông của huyện. Sự hạn chế đó là mối quan tâm hàng đầu không chỉ riêng
ở huyện An Phú mà trên cả nước ta.
Trước yêu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo nói chung và
giáo dục phổ thông huyện An Phú nói riêng và để góp phần khắc phục những
hạn chế, tìm ra những giải pháp hữu hiệu để phát huy vai trò của đội ngũ giáo
viên phổ thông nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển cao hơn trong lĩnh vực
giáo dục phổ thông của huyện. Tôi đã chọn khóa luận: “Vai trò của đội ngũ
giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú tỉnh An Giang
từ năm 2001 đến nay” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích:
Khóa luận nhằm làm rõ vai trò của đội ngũ giáo viên, góp phần phát
triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang.

Trang 2
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

2.2. Nhiệm vụ:


- Tìm hiểu vai trò của giáo dục và đào tạo và vai trò của đội ngũ giáo
viên phổ thông trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo.
- Làm rõ vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ
thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa vai trò của
đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An
Giang trong những năm tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Khóa luận chỉ nghiên cứu vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển
giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở lí luận
chung.
- Phương pháp cụ thể: Phân tích, thống kê, so sánh kết hợp với phương
pháp logic - lịch sử.
5. Đóng góp của khóa luận.
5.1. Về lí luận:
Khóa luận góp phần hệ thống hóa vai trò của đội ngũ giáo viên phổ
thông trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo.
5.2. Về thực tiễn:
- Góp phần làm rõ vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo
dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa vai trò của
đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An
Giang.
- Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể là nguồn tài liệu để cấp ủy
Đảng và chính quyền địa phương tham khảo trong quá trình phát huy vai trò
của đội ngũ giáo viên trong giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An
Giang.
6. Kết cấu của khóa luận.

Trang 3
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
khóa luận gồm 2 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận về vai trò của đội ngũ giáo viên phổ thông trong
sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo.
1.1. Khái niệm giáo viên phổ thông và đặc điểm lao động của giáo
viên phổ thông.
1.1.1.Khái niệm giáo viên phổ thông.
1.1.2. Đặc điểm lao động của giáo viên phổ thông.
1.1.2.1. Hoạt động dạy học của giáo viên phổ thông là hoạt động đòi
hỏi có trí tuệ và sự sáng tạo cao.
1.1.2.2. Lao động của giáo viên phổ thông không chỉ là lao động trí
óc mà còn lao động chân tay.
1.1.2.3. Giáo viên phổ thông không chỉ có trí tuệ mà phải có phẩm
chất đạo đức tốt, có lòng yêu thương con người.
1.2. Vai trò của đội ngũ giáo viên phổ thông trong sự nghiệp phát
triển giáo dục và đào tạo.
1.2.1. Đội ngũ giáo viên phổ thông là nguồn nhân lực quan trọng trong
sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
1.2.2. Đội ngũ giáo viên phổ thông góp phần quyết định chất lượng
giáo dục và đào tạo.
1.2.3. Đội ngũ giáo viên phổ thông góp phần đào tạo nhiều thế hệ
tương lai của đất nước.
Chương 2: Vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ
thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
2.1. Vị trí địa lí, đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội huyện
An Phú, tỉnh An Giang.
2.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội.
2.1.2.1. Điều kiện kinh tế.
2.1.2.2. Điều kiện xã hội.

Trang 4
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

2.2. Vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông
ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
2.2.1. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú là lực lượng quan
trọng trong cuộc vận động: “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành
tích trong giáo dục”.
2.2.2. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú góp phần giáo dục,
nâng cao đạo đức, lối sống cho học sinh.
2.2.3. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú không ngừng đổi mới
nội dung và phương pháp giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
2.3. Những kết quả đạt được và những hạn chế từ vai trò của đội ngũ
giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An
Giang từ năm 2001 đến nay.
2.3.1. Những kết quả đạt được.
2.3.2. Những hạn chế.
2.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa vai trò của đội
ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh
An Giang trong thời gian tới.
2.4.1. Rà soát và đánh giá đúng thực trạng về số lượng và chất lượng đội
ngũ giáo viên phổ thông.
2.4.2. Đổi mới mạnh hơn nữa về nội dung và phương pháp dạy và học ở
các bậc học.
2.4.3. Tăng cường nguồn đầu tư ngân sách và đầu tư có hiệu quả cho hệ
thống giáo dục và đào tạo ở các bậc học.
2.4.4. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi cho cán bộ trí thức, giáo viên, học
sinh vùng sâu, vùng xa.

Trang 5
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

PHẦN NỘI DUNG


Chương 1: Cơ sở lí luận về vai trò của đội ngũ giáo viên phổ
thông trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo.
1. 1. Khái niệm giáo viên phổ thông và đặc điểm lao động của giáo
viên phổ thông.
1.1.1. Khái niệm giáo viên phổ thông.
Có thể khẳng định một điều rằng đội ngũ giáo viên là một bộ phận
thuộc tầng lớp trí thức. Do đó, để hiểu được một cách chính xác về khái niệm
giáo viên cũng như giáo viên phổ thông thì trước hết cần phải có sự hiểu biết
về khái niệm “trí thức”. Thật ra, khái niệm “trí thức” bắt nguồn từ tiếng La tinh
“Interlligentia” có nghĩa là sự hiểu biết, sự thông minh. Ngay từ những năm
nửa sau thế kỉ XIX, khái niệm này trở nên thông dụng để chỉ những người có
học thức, học vấn cao, làm nghề lao động trí óc và có lương tri.
Trong từng giai đoạn lịch sử, ở mỗi quốc gia, dưới những góc độ nghiên
cứu khác nhau của các nhà khoa học mà đưa ra những định nghĩa “trí thức”
khác nhau. Nhưng nói chung, trong nhiều định nghĩa “trí thức” đều cho thấy
“trí thức” có một số đặc trưng cơ bản: Là một tầng lớp xã hội, có lao động trí
óc phức tạp, có trình độ học vấn chuyên môn cao, sáng tạo tri thức mới, truyền
đạt và vận dụng tri thức vào đời sống để đẩy mạnh sự phát triển của xã hội.
Như vậy, khẳng định đội ngũ giáo viên là một bộ phận thuộc tầng lớp
“trí thức”, tức là đã khẳng định đội ngũ giáo viên phải có những đặc trưng cơ
bản của tầng lớp “trí thức”. Có nghĩa là đội ngũ giáo viên cũng là một tầng lớp
xã hội, có lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn chuyên môn cao, sáng
tạo tri thức mới, truyền đạt và vận dụng tri thức vào đời sống để đẩy mạnh sự
phát triển của xã hội.
Tất nhiên, trên đây chỉ là sự nhìn nhận chung về đội ngũ giáo viên với
tư cách là một tầng lớp “trí thức”. Nếu đi sâu vào đặc điểm nghề nghiệp của
đội ngũ giáo viên thì khái niệm về đội ngũ giáo viên sẽ có những nét riêng nhất
định.
Theo từ điển Tiếng Việt, giáo viên là người dạy học. Còn theo Điều 70
Luật Giáo dục năm 2005 ở nước ta thì giáo viên là nhà giáo dạy ở cơ sở giáo

Trang 6
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp (nhà giáo giảng dạy ở
giáo dục đại học và sau đại học gọi là giảng viên). Nhà giáo (trong đó có giáo
viên phổ thông) phải có những tiêu chuẩn: Phẩm chất, tư tưởng tốt; đạt trình độ
chuẩn, được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề
nghiệp; lý lịch bản thân rõ ràng [19; 52 - 53].
Như vậy, nói đến giáo viên là nói đến nghề dạy học. Vậy “dạy học” là
nghề như thế nào? “Dạy học” theo quan niệm dân gian thường gọi là nghề “gõ
đầu trẻ”. Tuy nhiên, “dạy học” không chỉ đơn giản là “gõ đầu trẻ” mà nó là cả
một quá trình vận động hết sức phức tạp của người dạy, đòi hỏi phải có trí tuệ
cao, có lòng yêu nghề, quý trẻ, có lý tưởng phấn đấu vì tương lai của đất nước.
“Dạy học” là một bộ phận của quá trình giáo dục, là quá trình tác động
qua lại giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội những kinh
nghiệm lịch sử xã hội loài người (kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo) để phát triển
những năng lực và phẩm chất của người học theo mục đích giáo dục [27; 11].
Để thực hiện được quá trình dạy học thì người giáo viên phải có sự chuẩn bị rất
công phu, làm sao để có được một tiết dạy hiệu quả nhất, giúp học sinh không
những nắm vững được kiến thức của bài học mà phải biết vận dụng liên hệ
thực tế bên ngoài xã hội.
Từ những vấn đề được nêu lên ở trên, có thể khẳng định giáo viên có
một số đặc trưng cơ bản: Là một bộ phận của tầng lớp trí thức; thực hiện nhiệm
vụ giảng dạy ở các cơ sở giáo dục; có mục tiêu nghề nghiệp là phát triển những
năng lực và phẩm chất của người học; thực hiện mục đích giáo dục.
Từ những đặc trưng đó, có thể nêu lên khái niệm giáo viên như sau:
Giáo viên là một bộ phận của tầng lớp “trí thức”, thực hiện nhiệm vụ giảng dạy
ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp
nhằm phát triển những năng lực và phẩm chất của người học theo mục đích
giáo dục.
Như vậy, khái niệm giáo viên phổ thông cũng như khái niệm giáo viên
nhưng được thu hẹp hơn: Giáo viên phổ thông là một bộ phận của tầng lớp “trí
thức”, thực hiện nhiệm vụ giảng dạy ở cơ sở giáo dục phổ thông (giáo dục Tiểu
học, giáo dục Trung học cơ sở, giáo dục Trung học phổ thông) nhằm phát triển
những năng lực và phẩm chất của người học theo mục đích giáo dục.
Tóm lại, giáo viên phổ thông nói riêng, đội ngũ giáo viên nói chung hay
các tầng lớp “trí thức” khác đều là những tầng lớp xã hội, có trí tuệ cao và sử
dụng những trí tuệ đó vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Trong đó,

Trang 7
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên phổ thông có nhiệm vụ rất thiêng liêng
và cao cả, trực tiếp truyền đạt và hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ - thế hệ
tương lai của đất nước.
1.1.2. Đặc điểm lao động của giáo viên phổ thông.
1.1.2.1. Hoạt động dạy học của giáo viên phổ thông là hoạt động đòi
hỏi có trí tuệ và sự sáng tạo cao.
Nghề dạy học là lao động trí óc, có đối tượng là con người, là sự phát
triển nhân cách học sinh. Mỗi học sinh đều có mức xuất phát, có sự phát triển
về mặt tâm lí, thể chất và xã hội khác nhau. Mỗi thầy giáo không chỉ dạy cho
một học sinh mà cùng một lúc phải dạy cho hàng chục em học sinh. Do đặc
điểm đó, lao động của người thầy giáo không những đòi hỏi sự vận dụng trí tuệ
nhiều mặt mà phải có tính sáng tạo cao, phải sử dụng nhiều giác quan, có tính
tự chủ và phản ứng rất nhanh nhạy. Khi soạn bài, nội dung và phương giảng
dạy phải thích hợp với một đối tượng hết sức đa dạng. Đó chính là đặc thù lao
động của nghề dạy học, nó đòi hỏi người thầy giáo phải có trí thức nhiều mặt
[17; 20].
Trong giảng dạy và giáo dục người thầy không những ứng xử nhanh
nhạy, khoa học, mà còn phải không máy móc, không có một quy trình có sẵn,
người thầy phải hết sức sáng tạo cho phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Trong
hoạt động soạn bài, người thầy giáo phải tập trung thần kinh nhiều nhất, phải
vận dụng tri thức nhiều nhất trong việc lực chọn nội dung giảng dạy, phương
pháp giảng dạy, hướng dẫn và ra bài tập cho học sinh học tập ở nhà. Hoạt động
giảng bài, đòi hỏi sự tập trung trí tuệ, sự lao động trí óc căng thẳng không kém.
Tạo ra nhiều tình huống sinh động để lôi cuốn sự tích cực học tập của học sinh,
đưa ra hệ thống câu hỏi hay, dễ hiểu, phù hợp với nội dung bài giảng và phải
có phương pháp tác động tích cực để học sinh hăng say tham gia phát biểu xây
dựng bài.
Trong quá trình giảng dạy, người thầy không chỉ truyền đạt cho học sinh
những kiến thức trong sách giáo khoa mà còn phải biết liên hệ thực tế ngoài
cuộc sống. Điều đó đòi hỏi người thầy giáo phải có vốn kiến thức sâu, rộng,
nắm bắt được các hiện tượng ngoài xã hội để liên hệ vào bài giảng, thông qua
đó giáo dục ý thức cho học sinh. Người giáo viên phải có đầu óc sáng tạo, khi
đó họ sẽ không có cảm giác “cháy giáo án”. Biết rằng dự tính trước là việc làm
cần thiết trong mọi hình thức lao động. Nhưng đối với công tác dạy học, do đối
tượng là những con người có thế giới tâm lý muôn hình muôn vẻ và luôn luôn

Trang 8
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

thay đổi, nên bất cứ lúc nào trước mắt người giáo viên cũng có thể xuất hiện
những vấn đề mới. Trong các điều kiện mới đòi hỏi người giáo viên phải quyết
định kịp thời các biện pháp giải quyết. Có người nói: “Muốn sáng tạo thì phải
có cảm hứng của nhà giáo” [17; 76]. Điều đó là hoàn toàn đúng, cảm hứng là
sản phẩm của sự lao động chuẩn bị kỹ càng của người giáo viên. Khi đó cảm
hứng sẽ giúp cho người giáo viên luôn thành công hơn và đi đến sự sáng tạo
cái mới.
1.1.2.2. Lao động của giáo viên phổ thông không chỉ là lao động trí
óc mà còn lao động chân tay.
Trong hoạt động giảng bài trên lớp của giáo viên cần có nhiều hành
động phối hợp nhuần nhuyễn, đòi hỏi giáo viên phải am hiểu tường tận học
sinh, bài giảng, phải có sự chuẩn bị rất công phu từ ở nhà. Giáo viên phải hoạt
động liên tục cả buổi (trừ những phút giải lao giữa các tiết học), trong giảng
dạy yêu cầu giáo viên phải nói to, rõ, ngôn ngữ chuẩn xác, trong sáng. Ở bậc
Tiểu học, giáo viên không thể giảng dạy theo lối thuyết trình mà phải vừa nói,
vừa viết, vừa hướng dẫn học sinh làm theo từng thao tác rất nhỏ công phu, đòi
hỏi giáo viên phải hướng dẫn tỉ mỉ tới từng học sinh. Ở những lớp đầu cấp, học
sinh chưa có nề nếp học tập, nên giáo viên muốn dạy tốt thì phải có tính kiên
trì cao độ, uốn nắn từng thao tác nhỏ, hình thành từng nếp nhỏ ở từng học sinh.
Việc xử lí các tình huống xảy ra trong tiết học rất phong phú, phức tạp, đa
dạng. Càng ở lớp bé giáo viên càng phải vừa dạy dỗ, vừa là “quan tòa” xử lí
các vụ kiện trẻ em: “Thưa cô bạn cấu em”, “thưa cô bạn nói chuyện”,… Giáo
viên phải có khả năng phân phối sự chú ý cao và nghệ thuật khéo léo đối xử sư
phạm [17; 16]. Người thầy giáo phải hao tổn trí não và thể lực thông qua hoạt
động quan trọng là nói, nói trong phần khá lớn thời gian, trong tuần, trong
tháng, trong năm, nói sao cho học sinh hiểu được, nghe được, nói vừa đủ cho
40, 50, 60 học sinh cùng nghe rõ. Đồng thời mỗi lời nói, mỗi câu nói, mỗi ý
phải có đầy đủ ý nghĩa khoa học và giáo dục. Tất nhiên là song song với lời nói
phải có việc biểu diễn, làm mẫu, trong các công tác thực hành thí nghiệm, lao
động sản xuất, lao động kỹ thuật, hoạt động xã hội, rèn luyện thân thể.
Ngoài việc chuẩn bị giáo án, thực hiện tiết dạy sao cho có hiệu quả thì
người giáo viên phổ thông còn phải thực hiện thêm các hoạt động khác cũng
chiếm khá nhiều thời gian, công sức và trí tuệ như ra đề kiểm tra, đề thi, chấm
bài kiểm tra và đặc biệt là hoạt động giáo dục học sinh (làm công tác chủ
nhiệm). Giáo viên thường xuyên phải giải quyết các trường hợp của những em
học sinh cá biệt như: trốn học, lười học, không chuẩn bị bài, đánh nhau, vẽ

Trang 9
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

bậy,…khá mệt óc. Trước hết, giáo viên phải tìm hiểu kĩ học sinh về mặt tâm lí,
hoàn cảnh xã hội, tình trạng sức khỏe. Người thầy giáo không chỉ làm việc với
cả lớp mà phải làm việc với từng em học sinh cụ thể phải tập trung trí tuệ cao,
để tìm hiểu phân biệt, lí giải tìm ra giải pháp thích hợp cho từng em học sinh.
Tìm mọi cách giáo dục để các em không còn sai phạm nữa.
1.1.2.3. Giáo viên phổ thông không chỉ có trí tuệ mà phải có phẩm
chất đạo đức tốt, có lòng yêu thương con người.
Đây là đặc trưng cơ bản mang tính nghề nghiệp đòi hỏi cần phải có
trong mỗi con người thầy giáo. Bởi “nghề dạy học là một nghề lao động
nghiêm túc, không được phép có phế phẩm” [17; 32]. Trong các nghề sản xuất
vật chất, kế hoạch hàng năm có thể dự kiến số “phế phẩm” nhưng trong lao
động của nhà giáo, điều đó không được phép. Một nhà tư tưởng lớn đã nói:
“Nếu người thợ kim làm hỏng một đồ vàng bạc thì anh ta có thể đem ra nấu lại.
Nếu một viên ngọc quý bị hư thì có thể phá bỏ. Nhưng một hạt kim cương lớn
nhất cũng không thể quý hơn một con người sẽ ra đời. Làm hư một con người
là một tội lớn, một lỗi lầm lớn không thể nào chuộc được” [17; 32]. Điều đó
chứng tỏ rằng để tạo ra những thế hệ không hư hỏng, những thế hệ có phẩm
chất tốt đẹp thì bản thân người dạy học cần phải có nhân cách đạo đức tốt.
Thầy giáo dạy người chủ yếu bằng bản thân con người của mình. Đó là tính
biện chứng của lao động sư phạm. Tất nhiên là dạy học, người thầy giáo cần
bảng, cần phấn, cần sách,…nhưng nhân cách của nhà giáo (phẩm chất và năng
lực) rất quan trọng. Nhân cách toàn diện của nhà giáo gồm ba yếu tố: Nắm
vững kiến thức khoa học về bộ môn; có các phẩm chất đạo đức tốt làm gương
cho học sinh; có phương pháp giảng dạy, giáo dục tốt [17; 32].
Bàn về ý nghĩa nhân cách của nhà giáo, Platôn – triết gia cổ Hy Lạp đã
nói: “Nếu như người thợ giầy là một người thợ tồi thì quốc gia sẽ không quá lo
lắng về điều đó, dân chúng sẽ phải xỏ những đôi giầy kém một chút. Nhưng
nếu thầy giáo là người dốt nát, vô luân, thì trên đất nước sẽ xuất hiện cả một
thế hệ kém cỏi và những con người xấu xa” [17; 33]. Một giáo viên phổ thông
không phải chỉ dạy con người nói chung mà dạy từng con người cụ thể. Một
lớp học có hàng chục em học sinh, tất nhiên sẽ có những em học giỏi, có
những em học kém. Đối với những em học kém sẽ rất chậm hiểu, tiếp thu kiến
thức rất kém cỏi. Trong trường hợp này nếu như một người giáo viên không có
lương tâm chắc hẳn sẽ bỏ qua không màng đến. Nhưng một giáo viên đòi hỏi
phải có lương tâm, phải dạy bảo tận tình, giúp đỡ những em học kém làm sao
để hiểu được bài. Về mặt giáo dục đạo đức, người giáo viên chủ nhiệm phải

Trang 10
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

giúp đỡ, chăm sóc để mỗi em đều tiến bộ về nhận thức, về tình cảm, về hành
vi. Yêu cầu này tương ứng với nguyên tắc “chăm sóc từng học sinh” trong xã
hội giáo dục.
Một người thầy giáo dạy ở phổ thông ngoài việc giúp đỡ những em học
kém học tốt hơn còn phải có nhiệm vụ khác không kém phần quan trọng, đó là
việc giáo dục đạo đức cho học sinh, đây là một công việc khó khăn và phức
tạp. Bởi trong lớp học đâu phải học sinh nào cũng ngoan, cũng dễ bảo cả, ít
nhiều cũng phải có vài em bướng bỉnh, hư hỏng về đạo đức. Để giáo dục cho
những trường hợp đó đòi hỏi người thầy giáo phải có lòng yêu thương con
người sâu sắc, tìm hiểu những hiện tượng hư hỏng về đạo đức, các nguyên
nhân của chúng và áp dụng các biện pháp cảm hóa con người. Trong y học nếu
không tìm ra các biện pháp cảm hóa con người thì người thầy thuốc cũng
không thể có giải pháp nào khác. Trong giáo dục phổ thông, tìm ra đuợc
nguyên nhân gây ra sự hư hỏng của học sinh là một việc rất công phu đòi hỏi
phải có sự nỗ lực cao độ của người thầy giáo. Động cơ nào giúp người thầy
giáo có sự nỗ lực cao độ đó. Tất cả là ở lương tâm của người thầy.
Như vậy, để có thể giảng dạy tốt, giáo dục tốt những thế hệ trẻ có ích
cho đất nước, kể cả những thế hệ chưa ngoan thì điều cần thiết là ở người thực
hiện vai trò giáo dục phải có trí tuệ cao, có đầu óc sáng tạo, không ngại khó
khăn gian khổ. Dù biết rằng, trước mắt là nhiệm vụ rất phức tạp đòi hỏi phải
tốn nhiều thời gian, công sức và đặc biệt cần thiết nhất ở người thầy giáo là
phải có lương tâm trong sáng, biết yêu thương con người (nhất là thế hệ trẻ),
biết phấn đấu vì mục tiêu cao đẹp của đất nước, đào tạo ra những thế hệ vững
vàng về trí tuệ, trong sáng về đạo đức góp phần làm cho sự nghiệp giáo dục
của nước nhà luôn được chấn hưng ngày càng mạnh mẽ. Khi đó đất nước sẽ có
thêm một điều kiện rất quan trọng để ngày càng phát triển giàu mạnh hơn, cao
đẹp hơn.
1.2. Vai trò của đội ngũ giáo viên phổ thông trong sự nghiệp phát
triển giáo dục và đào tạo.
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, lao động trí óc sẽ
chiếm vị trí chủ đạo trong quá trình sản xuất, những người lao động trí óc sẽ là
chủ thể lao động xã hội. Vậy lao động trí óc hình thành từ đâu? Chỉ có trong
môi trường giáo dục và đào tạo mới hình thành nên những con người có trí óc,
những con người được xem là nguồn nhân lực, nhân tài của đất nước. Nhận
thức được tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo, Đảng ta khẳng định: “Giáo

Trang 11
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” [35; 95]. Và đề ra nhiều phương hướng
cơ bản để phát triển giáo dục và đào tạo. Mặt khác, Hồ Chí Minh lại nói: “Nếu
không có thầy giáo thì không có giáo dục”. Câu nói của Người đã khẳng định
được vị trí, vai trò rất quan trọng của đội ngũ giáo viên, trong đó, phải kể đến
đội ngũ giáo viên phổ thông.
Như vậy, giáo dục và đào tạo có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp
phát triển của đất nước. Còn đội ngũ giáo viên lại có vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo. Những vai trò quan trọng của
đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên phổ thông có thể được khái quát thành
những nội dung.
1.2.1. Đội ngũ giáo viên phổ thông là nguồn nhân lực quan trọng
trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Nguồn lực con người là rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển của đất
nước. Cũng tương tự như vậy, đội ngũ giáo viên phổ thông được xem là nguồn
nhân lực quan trọng trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo. Mục tiêu
của giáo dục và đào tạo là hình thành và phát triển nhân cách con người. Do
đó, trong giáo dục và đào tạo trước hết cần phải có đội ngũ giáo viên là những
con người có nhân cách (có năng lực và phẩm chất đạo đức) để giáo dục rèn
luyện hình thành những mầm mống nhân cách mới. Trên cơ sở đó, phát triển
giáo dục nhằm thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài hay nói cách khác là nhằm phát triển con người bền vững để phát triển
kinh tế - xã hội. Như vậy, toàn bộ sự nghiệp giáo dục và đào tạo là nhằm phát
triển con người, trong đó tri thức phải thành kĩ năng, thái độ, trí tuệ phải thành
trí lực. Nói gọn lại là thành lực lượng vật chất và lực lượng tinh thần.
Nói đến nguồn nhân lực là nói đến số lượng, chất lượng và quản lí
nguồn nhân lực. Theo thống kê của Vụ Kế hoạch – Tài vụ của Bộ Giáo dục và
Đào tạo năm 2001 thì số lượng và chất lượng của đội ngũ giáo viên phổ thông
ở nước ta là tương đối ổn định so với số lượng học sinh phổ thông. Với tổng số
học sinh Tiểu học là 9.751.413 em, thì có 3.487.833 giáo viên Tiểu học. (trong
đó đạt trình độ chuẩn là 84,38%); Với 5.918.153 học sinh Trung học cơ sở, thì
có 224.840 giáo viên Trung học cơ sở (trong đó đạt trình độ chuẩn là 88,99%);
Với 2.199.814 học sinh Trung học phổ thông thì có 74.189 giáo viên Trung
học phổ thông (trong đó đạt trình độ chuẩn là 94,18%) [16; 41].
Như vậy, ở bất kì cấp học, bậc học nào cũng cần đến một nguồn nhân
lực là đội ngũ giáo viên để có thể tổ chức và điều khiển quá trình tiếp thu kiến

Trang 12
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

thức của học sinh, giúp học sinh lĩnh hội tri thức mới, vận dụng kiến thức cũ
vào thực tế cuộc sống bản thân, đồng thời, giáo dục những phẩm chất tốt đẹp
cho học sinh. Chính vì lý do đó, người giáo viên luôn luôn được coi trọng.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc “bảo đảm
đủ số lượng, năng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc
học”. [35; 97]. Cần tăng cường đào tạo giáo viên đáp ứng nhu cầu của các cơ
sở giáo dục phổ thông. Đồng thời đẩy mạnh chuẩn hóa giáo viên về mọi mặt,
không chỉ chuẩn hóa về trình độ đào tạo mà cần phải tiếp tục đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp đào tạo theo hướng hiện đại hóa. Ngoài ra, cần
kết hợp giữa đào tạo với các chính sách thu hút, tuyển dụng những giáo viên
đủ tiêu chuẩn và sàng lọc những giáo viên không đủ tiêu chuẩn để đảm bảo đủ
giáo viên phổ thông theo định mức, cơ cấu và chất lượng.
Tóm lại, đất nước cần người tài thì giáo dục cũng cần những người giáo
viên giỏi, những người có năng lực thật sự, có phẩm chất đạo đức tốt để có thể
phục vụ cho đất nước. Đó là nguồn nhân lực quan trọng trong bất cứ cấp học,
bậc học nào. Nguồn lực đó đã đóng góp rất lớn cho sự nghiệp phát triển giáo
dục và đào tạo của nước ta trong quá khứ, ở hiện tại và còn đóng góp nhiều
hơn nữa trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo của đất nước trong tương lai. Do
đó, Đảng và Nhà nước ta cần phải chú trọng nhiều hơn nữa vấn đề nâng cao cả
về số lựơng và chất lượng đội ngũ giáo viên. Để làm sao phát huy tối đa nguồn
nhân lực đó, làm cho sự nghiệp giáo dục nước nhà càng phát triển, đất nước
càng giàu mạnh “sánh vai với các cường quốc năm châu” như lời Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khuyên dạy dân tộc ta.
1.2.2. Đội ngũ giáo viên phổ thông góp phần quyết định chất lượng
giáo dục và đào tạo.
Xưa nay, đâu đâu người ta cũng thừa nhận vai trò của người thầy giáo,
có ý nghĩa chủ chốt, quyết định chất lượng quá trình dạy học. Người thầy giáo
là người thay mặt cho xã hội điều khiển quá trình dạy học, họ là nguồn thông
tin, là nguồn tri thức cơ bản, dễ hiểu và lí thú, họ là những tấm gương về đạo lí,
tác phong cho các em học sinh… Như vậy, chất lượng giáo dục và đào tạo có
được nâng lên hay không, phải kể đến một phần lớn ở vai trò của người thầy
giáo.
Ngày 28 tháng 12 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 201/2001/QĐ – TTg về Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo
2001- 2010, trong phần mục tiêu chung có ghi: “Tạo bước chuyển biến cơ bản

Trang 13
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với trình độ, tiến trình của thế giới
phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, của từng vùng, từng địa phương, hướng tới một xã hội
học tập. Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu trên
một số lĩnh vực so với các nước phát triển trong khu vực” [16; 234]. Mặt khác,
Chính phủ cũng đã định ra các danh hiệu cao quý do Chủ tịch nước kí tặng các
nhà giáo như “Nhà giáo ưu tú” và “Nhà giáo nhân dân”; Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo kí tặng các nhà giáo có nhiều thành tích đóng góp nhiều năm
cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo huy hiệu “Vì sự nghiệp giáo dục và đào
tạo”.
Không phải hiển nhiên mà các nhà giáo lại được nhận nhiều danh hiệu
cao quý như vậy. Để nhận được những sự khen tặng đó, họ đã đóng góp không
ít sức lực và trí tuệ cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo của đất nước. Hiện nay,
đội ngũ giáo viên phổ thông chiếm khá lớn số lượng đội ngũ những người ăn
lương của Nhà nước. Trong khi số cán bộ hành chính sự nghiệp có vài trăm
người, số cán bộ trong các viện và cơ sở nghiên cứu có hơn 50.000 người thì
tổng số đội ngũ giáo viên có trên dưới 800.000 người [15; 252]. Điều đó đã
góp phần rất lớn đến việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở nước ta.
Chính vì thế mà trong Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung
ương khóa VIII của Đảng đã khẳng định: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất
lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh” [33; 38].
Số lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên cao hay thấp có ảnh hưởng rất
lớn đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Bên cạnh những giáo viên dạy giỏi,
những giáo viên có thành tích xuất sắc đóng góp cho sự nghiệp giáo dục và đào
tạo của đất nước đã được khen thưởng xứng đáng thì hiện nay vẫn còn nhiều
tình trạng đặt ra trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo về việc bồi dưỡng, sử dụng,
đãi ngộ giáo viên: Về số lượng vẫn còn thiếu rất nhiều (khoảng hơn 150.000
giáo viên Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông); về chất lượng,
số giáo viên chưa đạt chuẩn còn nhiều, việc bồi dưỡng tổ chức chưa được đều
khắp, nhất là phương pháp giảng dạy bộ môn chưa phát triển, chưa đáp ứng
được yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường phổ thông [15; 254].
Để giảm bớt những mặt còn hạn chế về số lượng và chất lượng của đội
ngũ giáo viên phổ thông nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo, ngành Giáo dục và Đào tạo nước ta đã đẩy mạnh công tác bồi dưỡng
thường xuyên cho giáo viên phổ thông chu kỳ 1997 – 2000 theo các Quyết
định số 1734/QĐ – GD – ĐT ngày 25 tháng 07 năm 1997 cho giáo viên Tiểu

Trang 14
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

học, Quyết định số 1733/QĐ – GD – ĐT ngày 27 tháng 05 năm 1997 cho giáo
viên Trung học cơ sở và Quyết định số 1732/QĐ – GD – ĐT ngày 27 tháng 05
năm 1997 cho giáo viên Trung học phổ thông [15; 255 - 256].
Nhờ có vai trò của người thầy giáo, nên chất lượng học tập của học sinh
nước ta đã được nâng lên khá cao. Theo số liệu của Vụ Giáo dục Trung học,
Bộ Giáo dục và Đào tạo thì từ năm 1976 đến năm 2001 nước ta có tổng số 383
học sinh dự thi Olympic Quốc tế, trong đó có 327 em đạt giải (chiếm tỉ lệ 85%
tổng số học sinh dự thi đạt giải) [15; 161].
Trong những năm gần đây thành quả giáo dục nước ta tiếp tục được
nâng lên. Đối với giáo dục phổ thông, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra mục tiêu
phấn đấu đến năm 2010. Cụ thể: “Tăng tỉ lệ huy động học sinh trong độ tuổi
đến trường từ 95% năm 2000 lên 97% năm 2005 và 99% năm 2010. Đạt chuẩn
quốc gia phổ cập Trung học cơ sở ở các thành phố, đô thị, vùng kinh tế phát
triển vào năm 2005, trong cả nước vào năm 2010. Tăng tỉ lệ học sinh Trung
học cơ sở trong độ tuổi từ 74% năm 2000 lên 80% năm 2005 và 90% năm
2010. Đối với Trung học phổ thông, thực hiện chương trình phân ban hợp lí,
đảm bảo cho học sinh có học vấn phổ thông cơ bản theo chuẩn thống nhất,
đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi học sinh giúp cho
các em có những hiểu biết kĩ thuật, chú trọng hướng nghiệp để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phân luồng học sinh sau Trung học phổ thông để học sinh
vào đời hoặc chọn nghề tiếp sau khi tốt nghiệp. Tăng tỉ lệ học sinh trong độ
tuổi vào trường Trung học phổ thông từ 38% năm 2000 lên 45% năm 2005 và
50% năm 2010” [dẫn theo 15; 235 - 236].
Tóm lại, không thể nào có được một thành quả tốt cho lĩnh vực giáo dục
và đào tạo, nếu ở đó không có vai trò của đội ngũ giáo viên hoặc đội ngũ giáo
viên quá ít về số lượng, kém về chất lượng. Vai trò của đội ngũ giáo viên là rất
lớn trong việc nâng cao chất lượng sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Chính vì thế
mà tài năng và phẩm giá của họ luôn được lớp lớp học sinh ca ngợi, xã hội trân
trọng và ngưỡng mộ.
1.2.3. Đội ngũ giáo viên phổ thông góp phần đào tạo nhiều thế hệ
tương lai của đất nước.
Bất kì một nhà thiên tài nào đều phải trải qua thời kì giáo dục tại các
trường phổ thông, được sự dạy dỗ, giáo dục của người thầy giáo. Chính vì thế,
vị trí của người thầy giáo là rất quan trọng. Theo Hồ Chí Minh: “Nghề thầy
giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang, ai có ý kiến không đúng về nghề thầy

Trang 15
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

giáo thì phải sửa chữa” [22; 509]. Nhiệm vụ của người thầy giáo là đào tạo ra
nhiều thế hệ tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản,
nhiệm vụ của người thầy giáo chung quy lại là phải hoàn thành mục đích của
giáo dục, đó là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Và trong Luật Giáo dục
2005 ở nước ta quy định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ
bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm
công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. [19; 32].
Người thầy giáo không chỉ hình thành cho học sinh những kĩ năng về
mặt trí tuệ mà phải giáo dục, hình thành cho các em những phẩm chất đạo đức
cần thiết. Để đội ngũ thầy cô giáo hoàn thành nhiệm vụ và xứng đáng với vị trí
của mình, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: Các thầy cô giáo phải trở thành tấm
gương trong sáng, thành kiểu mẫu cho các em noi theo, “phải là kiểu mẫu về
mọi mặt, tư tưởng, đạo đức, lối làm việc”. Muốn vậy, người thầy giáo ngoài tài
năng, học vấn phải có đạo đức cách mạng “Trong giáo dục không những phải
có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng, có tài phải có đức. Có tài
không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho nước, có đức không có tài như ông bụt
ngồi trong chùa không giúp ích gì được cho ai”. [20; 184]. Như vậy, để giáo
dục được nhiều thế hệ có đủ cả đức và tài thì trước hết bản thân người thầy
giáo phải có đủ hai điều kiện đó. Nhiệm vụ đặt ra đối với người thầy giáo là vô
cùng nặng nề, nếu thầy giáo không có trí tuệ, tài năng cũng như không có đạo
đức thì không thể đảm đương được nhiệm vụ, không đào tạo được những thế
hệ công dân, cán bộ có tài cho xã hội.
Những thành tựu về giáo dục và đào tạo là mục tiêu cần thiết mà Đảng
và Nhà nước ta cần đạt được. Để thực hiện được những mục tiêu trong giáo
dục và đào tạo đều phải tính đến công lao to lớn của các thầy, cô giáo. Những
thành tựu đạt được trong giáo dục và đào tạo cũng chính là tâm nguyện của các
thầy, cô giáo, bởi họ là những con người phải thực hiện những mục tiêu của
giáo dục và đào tạo. Không những thế, đội ngũ giáo viên còn phải giáo dục học
sinh trở thành những con người tốt, người giáo viên phải biết quan tâm giáo
dục học sinh trong lao động học tập, lao động khoa học. Vấn đề không phải chỉ
đơn giản là khuyên học sinh chăm học mà phải đi sâu vào tâm lí, tình cảm, tư
duy, tư tưởng của một con người trong quá trình học tập của học sinh.

Trang 16
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

* *
*
Tóm lại, đội ngũ giáo viên nói chung và đội ngũ giáo viên phổ thông nói
riêng có vai trò vô cùng to lớn trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Đó chính là
một nguồn nhân lực đặc biệt, những con người ngày càng được phát triển cao
về trí tuệ, khỏe mạnh về thể chất, giàu có về tinh thần, trong sáng về đạo đức,
linh hoạt và văn minh. Họ chính là nguồn nhân lực không thể thiếu, là đội ngũ
góp phần quyết định chất lượng, nâng cao hiệu quả giáo dục và đào tạo, là
người đào tạo ra những thế hệ tương lai cho đất nước. Chính vì thế mà trong số
các phương hướng cần thực hiện để góp phần triển khai thắng lợi chiến lược
phát triển giáo dục mà Đại hội lần IX của Đảng ta đã thông qua có phương
hướng rất quan trọng đế cập đến đội ngũ giáo viên: “Tăng cường đào tạo giáo
viên đáp ứng nhu cầu của các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập. Kết
hợp giữa đào tạo với các chính sách thu hút, tuyển dụng những giáo viên đủ
tiêu chuẩn, sàng lọc những giáo viên không đủ tiêu chuẩn để đảm bảo đủ giáo
viên phổ thông theo định mức, cơ cấu và chất lượng. Tăng cường công tác bồi
dưỡng những sinh viên giỏi trở thành những giảng viên đại học”. [34; 244].

Trang 17
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

Chương 2: Vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo
dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001
đến nay.
2.1. Vị trí địa lí, đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội huyện
An Phú, tỉnh An Giang.
2.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên.
Huyện An Phú thuộc tỉnh An Giang, là huyện đầu nguồn sông Cửu
Long, có đường biên giới Việt Nam – Cămpuchia dài 42 km. Phía Đông giáp
huyện Tân Châu, Tây và Bắc giáp Cămpuchia, Nam giáp thị xã Châu Đốc.
Diện tích tự nhiên 208,97 km2, chiếm 6% diện tích của tỉnh. Dân số trên
180.000 người, trong đó đa số là người Kinh với 1s73.900 người (chiếm
96,6%), dân tộc Chăm có 6.100 người (chiếm 3,38%), còn lại là dân tộc Hoa
và Khơmer rất ít.
Toàn huyện có 2 thị trấn (An Phú và Long Bình); 12 xã (Đa Phước, Phú
Hội, Khánh Bình, Nhơn Hội, Vĩnh Hội Đông, Phước Hưng, Vĩnh Trường, Phú
Hữu, Vĩnh Lộc, Quốc Thái, Khánh An, Vĩnh Hậu).
Về giao thông rất thuận lợi, đường bộ có Tỉnh lộ 956 và 957, đường
thủy có sông Hậu và sông Châu Đốc và đặc biệt là điểm đầu nối với quốc lộ 21
của Cămpuchia, cách thủ đô PhnômPênh 76 km – là con đường ngắn nhất đi từ
Việt Nam đến Cămpuchia. Tại khu vực cửa khẩu, Chính phủ hai nước đã thống
nhất xây dựng cầu hữu nghị Khánh Bình – Chạy Thum để thông tuyến đường
bộ Việt Nam – Cămpuchia. Phía Cămpuchia, quốc lộ 21 đã xây dựng láng
nhựa hoàn chỉnh, đang đầu tư tụ điểm Casino và một số công trình phục vụ cho
việc phát triển kinh tế cửa khẩu hai quốc gia trên tinh thần hòa bình, hợp tác và
hữu nghị. Đây là những yếu tố quan trọng cho phép huyện đẩy mạnh quá trình
phát triển kinh tế biên giới, mở rộng giao lưu kinh tế với thị trường Cămpuchia
và khu vực.
Địa hình chung của huyện An Phú tương đối bằng phẳng. Phần lớn đất
nằm trong diện tích đất phù sa, bãi bồi, một phần thuộc đất trầm tích lâu năm.
Khí hậu mang tính chất của khí hậu ẩm gió mùa, chia làm hai mùa rõ
rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm

Trang 18
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

sau. Nhiệt độ trung bình cả năm là 27oC, sự chênh lệch giữa các tháng là không
cao (2 đến 3oC). Do địa hình là đồng bằng nên chế độ gió khá đồng nhất, gió
Tây Nam bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 gây mưa (chiếm 90% lượng nước),
gió Đông Bắc thổi từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, làm cho thời tiết khô và
không mưa, lượng mưa trung bình là 1.500 mm. Mùa mưa thường trùng với
mùa lũ, do đó mà lượng nước giữa hai mùa có sự chênh lệch khá lớn. Hằng
năm, vào mùa nước nổi, nước trong đồng ruộng ngập sâu từ 1 đến 3 mét. Do
nằm đầu nguồn sông Cửu Long nên hàng năm nước lũ về sớm hơn các huyện
khác, vì vậy phải thường xuyên tu bổ hệ thống đê bao bảo vệ sản xuất vụ hè
thu.
(Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang – An Phú
tiềm năng và cơ hội đầu tư, năm 2005).
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội.
2.1.2.1. Điều kiện kinh tế.
Huyện có diện tích nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản lớn, có nhiều
cửa khẩu biên giới nên thuận lợi trong giao lưu kinh tế quốc tế, đặc biệt với
Cămpuchia và vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Kinh tế nông nghiệp chiếm 49% trong cơ cấu kinh tế của huyện. Đất đai
phù sa bồi đắp hàng năm, mạng lưới sông ngòi, kênh mương thủy lợi thuận
tiện, hệ thống đê bao ngăn lũ vững chắc phù hợp cho sản xuất cây lúa và các
loại cây hoa màu, có trên 2.760 ha mặt nước sông, kênh rạch là điều kiện thuận
lợi cho khai thác và nuôi trồng thủy sản.
Huyện An Phú có các cửa khẩu: Khánh Bình, Bắc Đai, Vĩnh Hội Đông
và Đồng Đức, trong đó cửa khẩu Khánh Bình có nhiều ưu thế do có hệ thống
giao thông đường bộ, đường sông thuận tiện, nối liền với các tỉnh biên giới và
thủ đô Cămpuchia, đây là điều kiện thuận lợi để phát huy lợi thế, thúc đẩy kinh
tế biên giới phát triển.
Về nguồn lực, huyện An Phú có nguồn lao động rất dồi dào, tham gia
trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch
vụ, đồng thời, còn có một lực lượng lao động chưa có việc làm do chưa được
đào tạo tay nghề và không có đất sản xuất.
Kinh tế huyện An Phú trong những năm qua vẫn duy trì nhịp độ tăng
trưởng khá cao và ổn định, bình quân 10,28%/năm, thu nhập đầu người 6,272
triệu đồng/năm. Toàn huyện có 654 cơ sở công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp,

Trang 19
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

từ chương trình khuyến công và các chính sách ưu đãi của tỉnh đã hỗ trợ hơn 5
tỉ đồng cho các cơ sở mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị và nâng cao chất
lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường. Ngoài ra, huyện còn quan tâm
đẩy mạnh phát triển ngành nghề truyền thống địa phương, giải quyết việc làm
cho hơn 20.000 lao động.
Đầu tư cơ bản hoàn chỉnh hệ thống chợ biên giới như: Chợ Khánh Bình,
Khánh An, Đồng Ky, Vĩnh Hội Đông, Nhơn Hội, Phú Hữu, Phước Hưng…đã
phát huy tác dụng. Triển khai xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Khánh Bình. Khu
dân cư đô thị Cồn Tiên và khu du lịch Búng Bình Thiên. Hàng hóa xuất nhập
khẩu qua biên giới năm 2003 là 36 triệu USD, năm 2004 xuất khẩu là 52 triệu
USD.
(Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang – An Phú
tiềm năng và cơ hội đầu tư, năm 2005).
2.1.2.2. Điều kiện xã hội.
Giáo dục và đào tạo: Ngày càng được quan tâm đầu tư để phát triển
nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế. Chất lượng dạy và học ngày
càng được nâng cao. Toàn huyện có 4 trường Trung học phổ thông: Quốc thái,
An Phú, bán công An Phú và Vĩnh Lộc; Có 14 trường Trung học cơ sở trên 14
xã – thị trấn; Có trên 30 trường Tiểu học. Năm 2006 toàn huyện có 31.068 học
sinh, trong đó Mẫu giáo 2.984 học sinh, Tiểu học 15.144 học sinh, Trung học
cơ sở 9.386 học sinh, Trung học phổ thông 3.554 học sinh. Điều kiện về cơ sở
vật chất và giáo viên cơ bản đã đáp ứng tốt nhu cầu dạy và học. Huyện có một
trung tâm giáo dục thường xuyên đào tạo các lớp chứng chỉ A Tin học và Anh
văn, liên kết với trường đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh, mở một lớp đại
học Kinh tế Luật có 229 học viên; Một trung tâm dạy nghề ngắn hạn: May
công nghiệp, dệt len, dệt chiếu, kỹ thuật nuôi cá nước ngọt…góp phần giải
quyết việc làm trên địa bàn.
Về y tế: Công tác khám và điều trị bệnh thực hiện tốt, công tác chăm
sóc sức khỏe người dân được nâng cao, làm tốt công tác phòng chống dịch
bệnh, giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng từ 25% xuống còn 23%. Toàn huyện có
14 trạm y tế, một trung tâm y tế dự phòng và bệnh viện đa khoa An Phú.
Huyện có 370 ca bị nhiễm HIV, chuyển sang AIDS 15 ca, tử vong 10 ca.
Về văn hóa – xã hội: Hội chợ giao thương cửa khẩu Khánh Bình, liên
hoan văn hóa mùa nước nổi Búng Bình Thiên, ngày Hội văn hóa – thể thao
truyền thống huyện An Phú, Hội thi thể thao dân tộc Chăm với các hoạt động

Trang 20
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao diễn ra phong phú và đa dạng phục vụ nhu
cầu vui chơi giải trí cho nhân dân. Đặc biệt, hàng năm vào ngày 02 tháng 09, lễ
Hội văn hóa – thể thao truyền thống được tổ chức là dịp giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa tốt đẹp của đồng bào dân tộc.
Về tôn giáo: Đa số dân tộc Kinh của huyện An Phú là theo đạo Phật,
đạo Hòa Hảo, Đạo Tin Lành, tập trung ở thị trấn An Phú, còn một phần là theo
đạo Thiên Chúa tập trung ở xã Khánh Bình. Dân tộc Chăm thì chủ yếu là theo
đạo Hồi, tập trung ở 5 xã: Nhơn Hội, Khánh Bình, Quốc Thái, Đa Phước, Vĩnh
Trường. Dân tộc Hoa và dân tộc Khơmer chủ yếu theo đạo Phật hoặc không
theo đạo. Tình hình hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường đúng với tôn chỉ và
Hiến chương của đạo.
(Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang – An Phú
tiềm năng và cơ hội đầu tư, năm 2005).
2.2. Vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông
ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
2.2.1. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú là lực lượng quan
trọng trong cuộc vận động: “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh
thành tích trong giáo dục”.
Lâu nay, vấn đề chống tiêu cực trong giáo dục, đặc biệt là tiêu cực trong
thi cử và bệnh chạy theo thành tích đã được nêu lên trong một số Hội nghị, Hội
thảo nhưng phương pháp và chủ trương chưa cụ thể nên chưa mạnh dạn và
chuyện chống tiêu cực chỉ trong lý thuyết là chính. Một số nhà quản lý giáo
dục và giáo viên vẫn còn thỏa hiệp hoặc làm ngơ, vô cảm trước các hiện tượng
tiêu cực. Nạn chạy trường, chạy lớp, cố tìm cách đạt tỉ lệ cao trong các kì thi
tốt nghiệp, kì thi học sinh giỏi, nạn mua bằng cấp để thăng quan, tiến chức,…
đã diễn ra ở khá nhiều đối tượng và kết quả đã tạo ra cho xã hội những con
người không trung thực về mọi phương diện. Điều đó, đã gây ra nhiều lãng phí
trong giáo dục: Lãng phí về thời gian học tập của học sinh, lãng phí về tiền bạc
của phụ huynh, lãng phí về công sức của thầy, cô và lãng phí về nguồn lực của
xã hội.
Để nhanh chóng khắc phục những tiêu cực trong giáo dục, ngày 31
tháng 07 và ngày 01 tháng 08 năm 2006, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức
Hội nghị tổng kết năm học 2005 – 2006 và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong năm
học 2006 – 2007. Tại Hội nghị này, những yếu kém, bất cập của ngành Giáo
dục đã được đưa ra phân tích và bàn thảo, tìm ra giải pháp nhằm chấn hưng

Trang 21
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

nền giáo dục nước nhà. Trong đó, cuộc vận động: “Nói không với tiêu cực
trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” được xem là giải pháp mang
tính đột phá, cần được tổ chức, triển khai thực hiện sâu rộng, mạnh mẽ ở các
trường học trong từng địa phương.
Để thực hiện theo cuộc vận động này, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang
đã có Chỉ thị 16/2006/CT – UBND và chỉ đạo thực hiện ở các huyện. Huởng
ứng Chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh, ngày 22 tháng 09 năm 2006, Ủy ban
nhân dân huyện An Phú đã ban hành Quyết định số 2474/QĐ – UBND về việc
thành lập Ban chỉ đạo cuộc vận động: “Nói không với tiêu cực trong thi cử và
bệnh thành tích trong giáo dục”. Sau đó phòng Giáo dục huyện An Phú đã tổ
chức triển khai thực hiện mạnh mẽ ở 35 trường Tiểu học, 13 trường Trung học
cơ sở và 4 trường Trung học phổ thông [9; 13].
Thực hiện cuộc vận động: “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh
thành tích trong giáo dục” là nhiệm vụ của toàn xã hội, của cả hệ thống chính
trị nhưng trước hết là của đội ngũ giáo viên. Do đó, đội ngũ giáo viên phổ
thông của huyện An Phú đã có sự quyết tâm rất cao, nâng cao tự chủ của bản
thân trong các tiết dạy, làm sao để tiết dạy thật sự đạt hiệu quả cao, giúp học
sinh hiểu bài nhiều hơn, tiếp thu được nhiều kiến thức, đảm bảo cho việc làm
các bài kiểm tra đạt chất lượng. Mặt khác, để đảm bảo cho các bài kiểm tra, bài
thi của học sinh thật sự đạt hiệu quả, giáo viên trong Huyện đã có biện pháp ra
đề kiểm tra, đề thi phù hợp, không quá khó nhưng cũng không quá dễ, đã thật
sự nghiêm khắc trong việc gác kiểm tra, gác thi cũng như trong công tác cho
điểm, đảm bảo cho điểm đúng với thực lực của học sinh.
Để đánh giá đúng kết quả giảng dạy của đội ngũ giáo viên và kết quả
học tập của học sinh, phòng Giáo dục huyện An Phú đã đưa ra nhiều biện pháp
thực hiện. Trước hết, phòng Giáo dục đã thành lập những đoàn thanh tra ở các
trường và ở các bậc học. Năm học 2002 – 2003, phòng Giáo dục Huyện đã tiến
hành thanh tra toàn diện giáo viên ở một số trường Tiểu học, Trung học cơ sở
và Trung học phổ thông thuộc 4 xã: Vĩnh Lộc, Quốc Thái, Phú Hội, Phước
Hưng. Kết quả có 5 giáo viên đạt loại tốt, 37 giáo viên đạt loại khá, 28 giáo
viên đạt yêu cầu, 3 giáo viên chưa đạt yêu cầu [5; 7]. Đến năm học 2006 –
2007, phòng Giáo dục tiếp tục đẩy mạnh công tác thanh tra toàn diện giáo viên
ở bậc Tiểu học và Trung học cơ sở. Kết quả có 5 giáo viên đạt loại tốt, 40 giáo
viên đạt loại khá và 55 giáo viên đạt yêu cầu trong tổng số 100 giáo viên được
thanh tra [9; 13].

Trang 22
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

Qua một năm thực hiện cuộc vận động: “Nói không với tiêu cực trong
thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”, với sự hưởng ứng tích cực của toàn
thể nhân dân trong Huyện, nhất là sự tham gia nhiệt tình của đội ngũ giáo viên,
đã giúp cho ngành giáo dục phổ thông của Huyện phát hiện được một số tiêu
cực trong thi cử ở trường Trung học cơ sở Vĩnh Hội Đông (trong công tác phổ
cập); phát hiện vi phạm chuyên môn ở trường Trung học cơ sở Vĩnh Lộc; Phát
hiện vi phạm đạo đức nhà giáo ở các trường Tiểu học: “B” Khánh An, “C”
Quốc Thái, “A” Nhơn Hội, “B” Đa Phước, “A” Long Bình [9; 15]. Mặt khác,
kết quả tốt nghiệp của học sinh được đánh giá đúng thực chất hơn. Trong năm
học này, tỉ lệ tốt nghiệp bậc Tiểu học đạt 91,28%, bậc Trung học cơ sở đạt
89,80%, bậc Trung học phổ thông đạt 86,06% [9; 11]. Kết quả này là thấp hơn
so với năm học 2001 – 2002 (bậc Tiểu học đạt 99,78%, bậc Trung học cơ sở
đạt 88,88%, bậc Trung học phổ thông đạt 86,08%) [4; 27 - 29] nhưng điều đó
không có gì là đáng lo ngại. Bởi vì, đây là sự đánh giá đúng chất lượng.
2.2.2. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú góp phần giáo dục,
nâng cao đạo đức, lối sống cho học sinh.
Trong xu thế phát triển chung hiện nay, vấn đề giáo dục đạo đức, lối
sống cho con người, nhất là cho tầng lớp thanh, thiếu niên là một điều rất quan
trọng. Bởi trên thực tế, vẫn còn rất nhiều bộ phận thanh, thiếu niên trong đó, có
học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, lối
sống thực dụng, thiếu hoài bão cho tương lai của bản thân và đất nước.
Đạo đức, lối sống là cái cốt, là yếu tố không thể thiếu được ở mỗi con
người. Hồ Chí Minh đã dạy: Con người phải có đức và tài, lấy đức làm gốc.
Đối với học sinh phổ thông, đạo đức, lối sống cũng cần phải được xem là gốc
để hình thành những năng lực, những thói quen tốt. Để nâng cao, giáo dục đạo
đức, lối sống lành mạnh cho học sinh không phải là một việc của riêng ai mà là
của toàn xã hội, của từng gia đình, nhà trường, nhưng điều quan trọng hơn ai
hết chính là vai trò của các thầy, cô giáo dạy ở trường phổ thông. Chính các
thầy, cô giáo đã dạy cho các em học sinh những điều hay, lẽ phải, cách đối xử
với bạn bè, thầy, cô, cha, mẹ và những người xung quanh, dạy cho các em biết
giúp đỡ mọi người, không nên làm những việc xấu, những việc có hại cho
người khác. Từ đó, dần dần hình thành nên những thói quen sống có đạo đức
cho học sinh, hình thành cho các em những phẩm chất tốt đẹp.
Việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh phổ thông ở huyện An
Phú, tỉnh An Giang là rất quan trọng. Bởi huyện An Phú, phần lớn học sinh là

Trang 23
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

con em ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Một bộ phận học sinh trong
huyện chưa được sự giáo dục chu đáo của các bậc phụ huynh. Chính vì thế, để
nâng cao ý thức đạo đức cho các em, hướng cho các em có lối sống lành mạnh
thì rất cần đến vai trò to lớn của đội ngũ giáo viên.
Giáo viên phổ thông trong Huyện đã thực hiện việc giáo dục đạo đức,
lối sống cho học sinh, nhất là cho học sinh Tiểu học thông qua việc lồng ghép
vào trong các tiết dạy trên lớp, qua các hoạt động ngoài giờ, sinh hoạt chủ
nhiệm…bằng nhiều hình thức dùng lý lẽ để giảng dạy cho các em hiểu được
thế nào là đúng, là lẽ phải; kể cho học sinh nghe những mẩu chuyện hay có ý
nghĩa giáo dục; bằng những hành vi tốt đẹp của bản thân như quan tâm giúp đỡ
học sinh nghèo, tận tình giảng dạy và thầy, cô luôn là những tấm gương sáng
cho học sinh noi theo.
Ngoài ra, đối với học sinh ở các bậc Trung học cơ sở, Trung học phổ
thông, việc nâng cao đạo đức, lối sống còn thông giáo dục pháp luật, giáo dục
thẩm mỹ, giáo dục hướng nghiệp, giáo dục thể chất, giáo dục môi trường, giáo
dục lao động…, đặc biệt là giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân
tộc. Từ đó, giúp học sinh có ý thức rèn luyện về hạnh kiểm, chấp hành tốt nội
quy của nhà trường, đại bộ phận học sinh đã tỏ ra chăm ngoan, có thói quen lễ
phép, có lối sống lành mạnh, hành vi văn minh, có ý thức phòng chống các tệ
nạn xã hội như ma túy, AIDS và các tệ nạn xã hội khác. Tỉ lệ học sinh có hạnh
kiểm khá, tốt rất cao. Cụ thể:

Tỉ lệ học sinh có hạnh kiểm khá, tốt (%)


Năm học Bâc Trung học phổ
Bậc Tiểu học Bậc Trung học cơ sở
thông

2001 - 2002 100 98,44 95,08

2003 - 2004 100 97,15 92,21

2006 - 2007 100 96,95 84,71

(Nguồn: Báo cáo tổng kết của phòng Giáo dục huyện An Phú).
Qua kết quả về hạnh kiểm trên, nhận thấy vai trò của đội ngũ giáo viên
phổ thông huyện An Phú là rất lớn, họ không chỉ truyền thụ cho học sinh
những kiến thức phổ thông một cách đơn thuần. Mà họ còn có vai trò to lớn

Trang 24
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

trong việc giáo dục, nâng cao đạo đức, lối sống cho học sinh, hướng các em trở
thành người “vừa hồng”, “vừa chuyên”.

2.2.3. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú không ngừng đổi
mới nội dung và phương pháp giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục.
Ngày nay, với xu thế phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của khoa học và
công nghệ, yếu tố con người trở nên có vai trò quyết định đối với sự nghiệp
phát triển của mỗi quốc gia. Điều đó đã đặt ra thách thức đối với ngành Giáo
dục là phải phát huy vai trò mới trong kỉ nguyên trí tuệ, nhằm tạo ra nguồn
nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Một
trong những vai trò mới, quan trọng mà ngành Giáo dục cần phát huy hiện nay
là việc đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy. Phương pháp
giảng dạy truyền thống phải được thay thế bằng phương pháp dạy học mới, tức
là đòi hỏi cả thầy và trò cùng khám phá kiến thức, cùng tìm tòi cái mới được
hỗ trợ bởi các phương tiện dạy học hiện đại mà khoa học và công nghệ, đặc
biệt là công nghệ thông tin đem lại.
Trong giáo dục phổ thông, phương pháp giảng dạy là điều kiện cần
thiết, là phương tiện quan trọng để người giáo viên thực hiện vai trò của mình
trong việc truyền đạt kiến thức cho học sinh, giúp học sinh nắm vững, nắm
chắc những nội dung quan trọng của bài học, có kĩ năng liên hệ thực tế và có
nhận thức đúng đắn sau mỗi tiết học.
Việc áp dụng các phương pháp dạy học mới, phương pháp phát huy vai
trò chủ động của học sinh, phương pháp lấy người học làm trung tâm là việc
làm vô cùng quan trọng nhằm thúc đẩy chất lượng học tập cũng như chất lượng
rèn luyện đạo đức, lối sống cho học sinh. Từ năm 2001, phòng Giáo dục huyện
An Phú đã thực hiện việc cải tiến phương pháp giảng dạy, hạn chế tình trạng
dạy thuyết giảng, đọc chép đơn thuần mà thay vào đó các phương pháp dạy
học lấy học sinh làm trung tâm, hình thành năng lực tự học, tích cực hóa và
chủ động hóa hoạt động học tập của học sinh.
Trong năm học 2002 – 2003, phòng Giáo dục Huyện tiếp tục quan tâm
thực hiện khá triệt để việc cải tiến phương pháp giảng dạy cho giáo viên, nhờ
đó mà chất lượng học tập của học sinh đã có những bước chuyển biến tích cực.
Ở bậc Trung học cơ sở, số học sinh yếu kém đã có chiều hướng giảm, số học

Trang 25
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

sinh khá giỏi tăng lên. Với tổng số 11.060 học sinh, tỉ lệ đạt loại giỏi 18,37%,
khá là 36,88%, trung bình là 36,94%, yếu là 6,87%, kém là 0,34% [5; 5].
Việc đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy đã được ngành Giáo
dục Huyện quan tâm đẩy mạnh hơn nữa trong năm học 2005 – 2006 và 2006 –
2007, tổ chức thực hiện dưới nhiều hình thức, yêu cầu giáo viên sử dụng tốt đồ
dùng dạy học, đẩy mạnh các hoạt động thực hành thí nghiệm. Giáo viên có cố
gắng thực hiện giảng dạy theo phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, dạy đủ
và đúng theo phân phối chương trình. Ngoài ra, Huyện đã đẩy mạnh phát triển
Tin học trong nhà trường nhằm phục vụ cho việc dạy và học của giáo viên và
học sinh. Tính đến năm học 2006 - 2007, toàn Huyện có 51 bộ máy vi tính
được cấp phát về các trường, đa số giáo viên của huyện đã cơ bản sử dụng
được máy vi tính để phục vụ cho việc soạn giảng hoặc lên lớp giảng dạy (nhất
là ở môn Tin học) [7; 12].
Đi đôi với việc đổi mới phương pháp giảng dạy, phòng Giáo dục Huyện
An Phú đã tổ chức, triển khai thực hiện việc đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông, tổ chức bồi dưỡng thay sách cho giáo viên giảng dạy ở các bậc học.
Năm học 2002 – 2003, Huyện đã tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên thay
sách lớp 1. Để đáp ứng cho việc giảng dạy tốt chương trình thay sách, ngay
trong hè theo chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh An Giang, phòng Giáo
dục đã tiến hành mở 3 lớp bồi dưỡng thay sách lớp. Toàn Huyện có tổng số là
257 giáo viên được học lớp bồi dưỡng, trong đó: Lớp An Phú 1 là 82 giáo viên,
lớp An Phú 2 là 83 giáo viên, lớp An Phú 3 là 92 giáo viên [8; 31]. Nhìn
chung, giáo viên bước đầu nắm được nội dung và ra sức tham gia cải tiến
trương trình mới một cách có hệ thống [5; 4].
Năm học 2003 – 2004, Huyện tiếp tục thực hiện việc bồi dưỡng thay
sách cho giáo viên ở các khối lớp 1, 2 và 6, 7. Đội ngũ giáo viên của Huyện đã
tham gia tích cực học tập, nắm vững các phương pháp dạy học mới, từ đó tổ
chức soạn giảng cho phù hợp làm cho chất lượng học tập của học sinh được
củng cố và chuyển biến tốt. Trong năm học này, kết quả học tập của học sinh ở
các khối lớp thay sách (lớp 1 và lớp 2) khá cao. Đặc biệt là ở 2 môn Toán,
Tiếng Việt. Ở khối lớp 1, tổng số học sinh là 3.607 em, trong đó, môn Tiếng
Việt: giỏi 26,66%, khá 37,87%, trung bình 23,22%, yếu 1,61%; môn Toán:
giỏi 36,85%, khá 36,35%, trung bình 25,56%, yếu 1,25%. Ở khối lớp 2, tổng
số học sinh là 3.624 em, trong đó, môn Tiếng Việt: giỏi 26,66%, khá 39,71%,

Trang 26
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

trung bình 32,56%, yếu 1,08%; môn Toán: giỏi 39,81%, khá 37,56%, trung
bình 22,27%, yếu 0,66% [6; 3].
Đến năm học 2006 - 2007, giáo viên phổ thông của huyện An Phú tiếp tục
được bồi dưỡng thay sách ở các khối lớp 6, 7, 8 và 9. Nhìn chung, giáo viên đã có
chủ động nghiên cứu, nắm vững các phương pháp dạy học tích cực để giảng dạy tốt
ở các khối lớp này [7; 6]. Do đó, kết quả học tập của học sinh ở các khối lớp thay
sách trong năm học này là tương đối tốt, với tổng số học sinh là 9.455 em, trong đó:
giỏi 8,08%, khá 27,63%, trung bình 44,375 [9; 3].
Tóm lại, vai trò của đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú là rất to
lớn trong sự nghiệp phát triển giáo dục phổ thông của huyện. Họ là lực lượng
đi đầu trong việc tham gia cuộc vận động: “Nói không với tiêu cực trong thi cử
và bệnh thành tích trong giáo dục”; là lực lượng góp phần giáo dục, nâng cao
đạo đức, lối sống cho học sinh và là lực lượng không ngừng trong việc đổi mới
nội dung và phương pháp giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
của huyện nhà.
2.3. Những kết quả đạt được và những hạn chế từ vai trò của đội ngũ
giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An
giang từ năm 2001 đến nay.
2.3.1. Những kết quả đạt được.
Được sự quan tâm của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân Huyện, cùng các
Chỉ thị, văn bản hướng dẫn về nhiệm vụ năm học của sở Giáo dục và Đào tạo,
với sự nỗ lực, phấn đấu khắc phục khó khăn của toàn ngành, đồng thời, quan
tâm đặc biệt đến việc phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên. Thời gian qua (từ
năm 2001 đến năm 2007) sự nghiệp giáo dục phổ thông của Huyện từng bước
được củng cố và phát triển, đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Với số
lượng đội ngũ giáo viên tương đối ổn định và ngày càng được bổ sung đã đáp
ứng được phần nào sự nghiệp phát triển giáo dục của huyện nhà. Tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phân công, bố trí giáo viên công tác ở các bậc học, ở các
vùng khác nhau một cách hợp lí hơn. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục. Những kết quả đạt được từ vai trò của đội ngũ giáo viên
được biểu hiện những nội dung cơ bản:
Thứ nhất, chất lượng giảng dạy của giáo viên ngày càng được cải thiện
và nâng cao.

Trang 27
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

Đội ngũ giáo viên phổ thông luôn gương mẫu, đi đầu thực hiện tốt nhiệm vụ
chuyên môn, đảm bảo thực hiện đúng chương trình, giáo viên khi lên lớp đều có bài
giảng nghiêm túc; vai trò của tổ bộ môn và tổ chuyên môn được phát huy mạnh mẽ.
Trong năm học 2006 – 2007, toàn Huyện có 31 giáo viên được công nhận là giáo
viên dạy giỏi cấp huyện và 5 giáo viên được công nhận là giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh.
Trong phong trào viết sáng kiến, kinh nghiệm giảng dạy, toàn Huyện có 1 giáo viên
đạt giải A, 5 giáo viên đạt giải B và 10 giáo viên đạt giải C [9; 10 - 11]; công tác bồi
dưỡng cho giáo viên được phòng Giáo dục Huyện thực hiện khá nghiêm túc theo tinh
thần của Sở Giáo dục và Đào tạo, nhiều giáo viên đã có tinh thần cao trong việc
hưởng ứng thực hiện công tác này, toàn Huyện có 466 giáo viên được bồi dưỡng đạt
chuẩn và 145 giáo viên được bồi dưỡng trên chuẩn [4; 37].
Ngành Giáo dục Huyện đã triển khai đưa công nghệ thông tin vào trường học,
khuyến khích giáo viên đi học Tin học để ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác
quản lí và giảng dạy. Về vấn đề này, Huyện đã đưa ra mục tiêu phấn đấu đến năm
học 2008 – 2009, tất cả cán bộ, giáo viên, công nhân viên phải có chứng chỉ A Tin
học. Đa số giáo viên đều đồng tình và ra sức học tập, rèn luyện, nâng cao khả năng sử
dụng máy vi tính trong việc soạn giáo án và giảng dạy, thực hiện mục tiêu mà ngành
Giáo dục Huyện đã đề ra. Chính vì thế mà hiện nay đa số cán bộ, giáo viên của
Huyện đều biết sử dụng máy vi tính trong quản lí và giảng dạy. Tính đến nay, Huyện
đã có 51 bộ máy vi tính phân phát về các đơn vị trường.
Thứ hai, chất lượng giảng dạy của giáo viên được nâng cao, do đó chất lượng
học tập của học sinh cũng khá tốt.
Tỉ lệ tốt nghiệp của học sinh qua các năm học tương đối tốt. Cụ thể:

Tỉ lệ tốt nghiệp của học sinh. (%).


Năm học
Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông

2001 - 2002 99,78 88,88 86,08

2002 - 2003 99,97 83,32 80,7

2003 - 2004 99,98 86,82 75,36

2004 - 2005 96,5 90,05 81,7

2005 - 2006 97,08 98,07 71,62

Trang 28
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

2006 - 2007 91,28 89,80 86,06

(Nguồn: Báo cáo tổng kết của phòng Giáo dục huyện An Phú).
Dưới sự tác động từ nhiều mặt của giáo viên đã giúp cho học sinh có sự
tiến bộ không chỉ về kết quả học tập mà còn ở kết quả rèn luyện. Đa số các em
học sinh đều có ý thức đạo đức tốt, có thái độ lễ phép với người lớn, chăm
ngoan trong học tập. Ở bậc Trung học cơ sở và Trung học phổ thông, đa số học
sinh đã ý thức được việc học tập của mình và có sự cố gắng cao, tích cực tham
gia các hoạt động trong và ngoài giờ ngoại khóa do nhà trường tổ chức, trong
đó, có các phong trào: Hội khỏe Phù Đổng, thi học sinh giỏi, thi viết thư UPU.
Với kết quả: Hội khỏe Phù Đổng, có 17 em đạt huy chương vàng; thi học sinh
giỏi, có 33 em đạt giải (trong đó, 26 giải ba, 7 giải khuyến khích); thi viết thư
UPU, có 1 em đạt giải ba cấp quốc gia [5; 5].
Thứ ba, do nhu cầu về những điều kiện vật chất phục vụ cho việc dạy
và học, nhiều giáo viên đã lên tiếng yêu cầu với phòng Giáo dục Huyện về việc
trang bị cơ sở vật chất trong nhà trường, ra sức vận động Hội phụ huynh học
sinh, các mạnh thường quân đóng góp về tài chính để xây dựng trường, lớp,
mua sắm trang thiết bị dạy học. Nhờ đó mà cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ
cho giáo dục phổ thông của Huyện, từng bước được cải thiện hơn: Nếu như
năm học 2001 – 2002, bậc Tiểu học, có tổng số là 449 phòng học, chưa có
trường nào có phòng Thư viên, phòng thiết bị riêng; bậc Trung học cơ sở, có
166 phòng học (tỉ lệ lớp/phòng là 1,7); bậc Trung học phổ thông với 3 đơn vị
trường có 50 phòng học [4; 3 - 6]. Thì đến năm học 2006 – 2007, bậc Tiểu học,
có tổng số là 447 phòng học, nhưng tỷ lệ kiên cố chiếm 43,38%, đã có 20 Thư
viện trên tổng số 35 trường; bậc Trung học cơ sở, có 201 phòng học, trong đó,
có 180 phòng kiên cố, có 10 Thư viện trên tổng số 13 trường; bậc Trung học
phổ thông, có 45 phòng học kiên cố, một số trường đã được trang bị máy vi
tính [9; 21].
Nguyên nhân của những kết quả trên:
Đạt được những kết quả đáng khích lệ trên đây là do nhiều nguyên
nhân, nhưng tập trung chủ yếu ở những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú được sự quan
tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và toàn thể nhân dân trong
Huyện, với phương châm: “Toàn dân chăm lo sự nghiệp giáo dục”. Từ đó ra

Trang 29
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

sức chăm lo, phát huy tối đa mọi ngưồn lực phục vụ tốt cho giáo dục, đẩy
mạnh các hoạt hộng của Hội khuyến học, xây dựng dự án về tự giáo dục.
Huyện Ủy, Ủy ban nhân dân Huyện thường xuyên tăng cường công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng trong cán bộ, giáo viên, công nhân viên trên cơ sở
quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Trung ương, của tỉnh và các Luật mới được
ban hành. Hàng năm, trong công tác giáo dục của Huyện đều thực hiện xây
dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ, đặc biệt là đội ngũ giáo viên, bằng cách
bồi dưỡng, đào tạo lại, khuyến khích giáo viên tự học, tự nghiên cứu, bổ sung
kiến thức. Nâng cao ý thức, đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm cho cán bộ,
giáo viên trong việc thực hiện chức trách của mình.
Trong từng năm học, phòng Giáo dục của Huyện thực hiện các Chỉ thị,
văn bản hướng dẫn của Ủy ban nhân dân Huyện về việc thực hiện “Đổi mới
phương pháp giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện”, đồng thời,
triển khai cho các cấp học ở trường thuộc phạm vi của Huyện cùng thực hiện.
Đặc biệt, Huyện đã đẩy mạnh nâng cao vai trò của đội ngũ giáo viên, bằng
cách thực hiện các chính sách ưu tiên, ưu đãi, tạo điều kiện để người giáo viên
tận tâm, tận lực với nghề giáo của mình.
Thứ hai, việc phân công, bố trí giáo viên giảng dạy của phòng Giáo
dục, của các trường khá hợp lí, phù hợp với chuyên môn đào tạo, hàng năm
phòng Giáo dục đã tiến hành rà soát, sắp xếp, bố trí lại đội ngũ theo tinh thần
đề án “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giai đoạn 2003 – 2010”.
Thứ ba, phòng Giáo dục và Công đoàn ngành Giáo dục của Huyện phối
hợp tích cực chăm lo đời sống cán bộ công chức, bảo lãnh tín chấp cho cán bộ
công chức vay vốn cải thiện đời sống, vận động quỹ hỗ trợ học bổng cho học
sinh nghèo học giỏi.
Thứ tư, Huyện đã có sự duy trì tốt kỉ cương nề nếp trong hoạt động
chuyên môn, đảm bảo nghiêm túc trong kiểm tra, thi cử và đánh giá, đẩy mạnh
cuộc vận động: “Hai không” trong toàn ngành và được nhân dân trong Huyện
đồng tình hưởng ứng. Cải tiến công tác thanh tra, giữ nề nếp trong dạy học và
quản lí, từ đó chất lượng giảng dạy từng bước được nâng cao.
Thứ năm, toàn Huyện đã quán triệt Chỉ thị 34/CT.TƯ về việc phát triển
đảng viên trong giáo dục và đào tạo, giúp cho các cấp nhận thức đầy đủ vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển đảng viên trong trường học. Từ
đó đẩy mạnh nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên trong nhà trường.

Trang 30
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

2.3.2. Những hạn chế:


Việc phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên trong giáo dục phổ thông ở
huyện An Phú bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn những hạn chế
nhất định:
Thứ nhất, việc huy động học sinh ra lớp vẫn còn nhiều khó khăn, công
tác vận động học sinh bỏ học trở lại trường còn nhiều giáo viên thực hiện chưa
đạt hiệu quả cao, số học sinh bỏ học không còn ở địa phương từ 6 tháng trở lên
chiếm tỉ lệ khá cao. Nếu như năm học 2001 - 2002, tỉ lệ bỏ học của học sinh ở
bậc Tiểu học là 482 em (chiếm 1,43%), bậc Trung học cơ sở bỏ học 658 em
(chiếm 3,69%), bậc Trung học phổ thông bỏ học 117 em (chiếm 4,1%) [4; 5 -
6]. Đến năm học 2006 – 2007, tỉ lệ bỏ học không giảm mà còn có xu hướng
tăng lên: Bậc Tiểu học có 423 em bỏ học (chiếm 2,79%); bậc Trung học cơ sở
có 1.187 em bỏ học (chiếm 12,55%); bậc Trung học phổ thông có 486 em bỏ
học (chiếm 13,99%). [9; 4 - 5].
Thứ hai, chất lượng văn hóa có chuyển biến nhưng chưa đồng đều ở các
trường và các xã khác nhau; việc đổi mới và cải tiến phương pháp giảng dạy,
nhất là đối với các lớp thay sách, cũng còn giáo viên thực hiện hiệu quả thấp;
việc cải tiến nội dung sinh hoạt chuyên môn và sử dụng các trang thiết bị dạy
học đôi lúc còn hạn chế. Theo số liệu báo cáo của công tác thanh tra trong
Huyện, tỉ lệ giáo viên được đào tạo ở trình độ chuẩn còn thấp, đặc biệt là giáo
viên Tiểu học (chỉ có 40,89%). [6; 6]. Còn nhiều giáo viên cần được đào tạo,
bồi dưỡng thêm để đạt trình độ chuẩn. Cụ thể: Năm học 2001 – 2002, có 53
giáo viên (ở cả 3 cấp) [4; 9]. Năm học 2002 - 2003, có 48 giáo viên Tiểu học
[5; 22]. Các năm về sau, Huyện vẫn phải tiếp tục đưa đi đào tạo thêm và đào
tạo lên trình độ cao hơn; tình trạng thiếu giáo viên dạy môn Nhạc, Họa, Thể
dục ở bậc Trung học cơ sở và môn tiếng Anh cho học sinh từ lớp 3 đến lớp 5
vẫn còn kéo dài; ở các trường Tiểu học môn Tin học chưa được đưa vào giảng
dạy.
Khi lên lớp, nhiều giáo viên vẫn còn bố trí thời gian chưa hợp lí, chưa
phát huy được tính chủ động của học sinh trong học tập. Thao tác, kĩ năng vận
dụng các phương pháp giảng dạy đôi khi chưa phù hợp, linh hoạt, việc giảng
dạy chưa thật sự đạt hiệu quả. Việc thực hiện các tiết giảng có sử dụng công
nghệ thông tin của các giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, có nhiều đơn vị
trường không có phòng vi tính phục vụ cho chương trình dạy và học. Tính đến
nay, toàn Huyện chỉ có 51 bộ máy vi tính trên tổng số 51 trường học ở cả 3 bậc

Trang 31
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông [9; 10]. Chất lượng dạy và
học vẫn còn chênh lệch giữa vùng thuận lợi với vùng khó khăn. Một bộ phận
học sinh vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng biên giới vẫn còn rụt
rè trong giao tiếp, ít phát biểu tham gia xây dựng bài, kết quả học tập còn thấp.
Một số cán bộ quản lý chưa đầu tư đúng mức cho hoạt động quản lí,
còn tham gia trực tiếp giảng dạy quá nhiều hoặc thiếu tinh thần cải tiến nên
hiệu quả quản lí đội ngũ còn hạn chế. Ban Giám Hiệu các trường có tăng
cường công tác kiểm tra nhưng việc góp ý chưa mạnh dạn, chưa đi sâu vào
chuyên môn và chưa có tính thúc đẩy cao. Công tác quản lý hành chính, văn
thư, lưu trữ, Thư viện, thiết bị diễn biến còn chậm, nhiều đơn vị chưa chấp
hành đúng quy định về chế độ thông tin, báo cáo. Công tác quản lý trường học
nhìn chung có chuyển biến, nhưng chưa rõ nét, năng lực của một bộ phận cán
bộ quản lý chưa đáp ứng trước đòi hỏi ngày càng cao trong công tác quản lý
giáo dục và đào tạo.
Thứ ba, còn nhiều giáo viên chưa phát huy hết được khả năng giảng
dạy của mình do cơ sở vật chất chưa đảm bảo. Việc nâng cao chất lượng giáo
dục, giảng dạy chưa đạt hiệu quả do thiếu kinh phí mua sắm tài liệu chuyên
môn, trang thiết bị dạy học cho giáo viên. Cho đến nay, vẫn còn tình trạng
phòng học cất bằng tre lá tạm bợ và chưa có phòng Thư viện: Ở bậc Tiểu học,
với tổng số 447 phòng học, có 36 phòng tre lá tạm bợ và chỉ có 20 thư viện
trên tổng số 35 trường học; Ở bậc Trung học cơ sở với tổng số 201 phòng học,
có 15 phòng tre lá tạm bợ và chỉ có 10 thư viện trên tổng số 13 trường học [9;
21 - 22].
Kho chứa trang thiết bị còn thiếu nhiều, các phòng chức năng còn rất
hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu trong việc dạy và học. Việc giảng dạy cho
học sinh học 2 buổi/ngày (đặc biệt là lớp 1 và lớp 5) chưa được các giáo viên
thực hiện đúng do thiếu cơ sở vật chất. Việc sử dụng và bảo quản trang thiết bị,
đồ dùng dạy học ở một vài trường chưa được sắp xếp ngăn nắp, khoa học.
Nguyên nhân của những hạn chế trên:
Về nguyên nhân khách quan:
Các cấp Ủy Đảng và chính quyền địa phương rất quan tâm, chăm lo sự
nghiệp giáo dục, nhưng vẫn chưa tương xứng với quan điểm: “Giáo dục và
Đào tạo là quốc sách hàng đầu”.

Trang 32
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

Điều kiện kinh tế - xã hội của Huyện vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu kinh
phí đầu tư cho giáo dục và đào tạo, là một huyện còn gặp nhiều khó khăn, có
nhiều xã vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Đặc biệt, hàng năm Huyện
phải chịu những thiệt hại do lũ gây ra, gây cản trở nhiều đến việc học tập của
các em học sinh. Mặc khác, một bộ phận nhân dân trong Huyện chưa quan tâm
đến việc học tập của con em mình, xem trách nhiệm chăm lo giáo dục là của
ngành Giáo dục, của trường học và của đội ngũ thầy, cô giáo.
Công tác quản lý nhà nước về giáo dục ở một số xã chưa có kế hoạch cụ
thể về phát triển quy mô và nâng cao chất lượng. Hoạt động phối hợp giữa
ngành với các tổ chức đoàn thể vẫn còn thực hiện theo phong trào, chưa
thường xuyên, liên tục.
Công tác xã hội hóa giáo dục đã có bước phát triển nhưng chưa đi sâu
vào chiều sâu, chưa đáp ứng được đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển
sự nghiệp giáo dục ở huyện nhà.
Cơ sở vật chất – kỹ thuật của ngành được đầu tư ngày càng khá hơn,
nhưng chủ yếu mới đáp ứng yêu cầu phát triển mà chưa đáp ứng được yêu cầu
“hiện đại hóa, chuẩn hóa” theo quy định của ngành.
Về nguyên nhân chủ quan:
Vai trò tham mưu của ngành đối với cấp ủy, chính quyền địa phương
chưa được thường xuyên và đúng mức, chưa phối hợp chặt chẽ với các ngành,
các cấp nhằm phát huy tiềm lực toàn xã hội để phát triển giáo dục.
Đội ngũ giáo viên còn thiếu, đặc biệt là ở các bộ môn Kỹ thuật, Nhạc,
Họa, Thể dục, Anh văn, Tin học. Năng lực giảng dạy chưa đáp ứng với yêu cầu
đề ra. Chậm đổi mới phương pháp giảng dạy, một bộ phận giáo viên còn thiếu
tâm huyết trong việc đầu tư cho các tiết dạy đạt hiệu quả.
Năng lực của một bộ phận cán bộ quản lý ở trường học chưa đáp ứng
nhu cầu đổi mới công tác quản lý giáo dục, thiếu năng động, sáng tạo, thiếu
kiên trì và quyết tâm thực hiện những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp. Công tác
quản lý, chỉ đạo chuyên môn ở phòng Giáo dục được cải tiến nhưng chất lượng
giáo dục chưa cao.
Công tác đánh giá, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển cán bộ và tinh
giản biên chế chưa được thực hiện triệt để. Việc đổi mới hoạt động quản lý
trường học trong thời gian qua còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới

Trang 33
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

sự nghiệp giáo dục, chưa theo kịp tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương.
2.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa vai trò của đội
ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An phú, tỉnh
An Giang trong thời gian tới.
2.4.1. Rà soát và đánh giá đúng thực trạng về số lượng và chất lượng
đội ngũ giáo viên phổ thông.
Đây là giải pháp quan trọng không thể thiếu, bởi chỉ có rà soát và đánh
giá đúng thực trạng mới có thể phát hiện ra những mặt đạt được và những mặt
chưa đạt được về số lượng và chất lượng giáo viên phổ thông. Từ đó, đưa ra
những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao dần về số lượng và chất lượng giáo
viên. Để thực hiện giải pháp này có hiệu quả, đòi hỏi các ngành, các cấp ủy
Đảng trong Huyện phải thực sự quan tâm đặc biệt đến đội ngũ giáo viên trong
huyện.
Trước hết, cần có sự chỉ đạo và hướng dẫn sâu sát của Đảng bộ Huyện
trên cơ sở tiếp nhận sự chỉ đạo của các cấp lãnh đạo cấp trên về việc rà soát và
đánh giá đúng số lượng và chất lượng giáo viên. Cụ thể:
Đối với phòng Giáo dục: Hàng năm phải có các số liệu báo cáo sát thực
về thực trạng giáo viên ở từng cấp học để Đảng bộ Huyện nắm và có cách giải
quyết những tình trạng yếu kém và thiếu hụt về giáo viên cho kịp thời ở những
năm học sau; đẩy mạnh công tác thanh tra giáo dục phổ thổng, nhất là thanh tra
giáo viên dưới nhiều hình thức khác nhau như thanh tra đột xuất, thanh tra theo
từng nội dung chuyên đề cụ thể để công tác thanh tra có tác dụng hơn đối với
các giáo viên. Bởi vì, trong khi thanh tra, đoàn thanh tra có thể sẽ phát hiện
những mặt mạnh, mặt còn hạn chế, tư đó có hướng đề xuất với giáo viên, nhà
trường và phòng Giáo dục, nhằm thúc đẩy việc nâng cao chất lượng giảng dạy
của giáo viên, giúp các giáo viên được thanh tra thấy được hết những ưu,
khuyết điểm để có hướng khắc phục, sửa chữa.
Đối với các đơn vị trường: Hàng tháng, hàng quí phải báo cáo với
phòng Giáo dục về tình hình đội ngũ giáo viên; báo cáo về chất lượng giảng
dạy của giáo viên và học tập của học sinh; báo cáo về việc tham gia vào các
công tác xã hội, công tác giáo dục đạo đức cho học sinh; báo cáo về năng lực
sử dụng đồ dung dạy học hiện đại của giáo viên. Vấn đề này cần đảm bảo đánh
giá đúng, tránh tình trạng một số trường vì chạy theo thành tích mà có sự báo
cáo sai, che giấu những yếu kém, khuyết điểm của đội ngũ giáo viên.

Trang 34
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

Việc rà soát và đánh giá đúng thực trạng về số lượng và chất lượng đội
ngũ giáo viên của Huyện không phải là việc làm đơn giản, đòi hỏi cần có sự
hợp tác của các đơn vị trên cơ sở chỉ đạo của Đảng bộ Huyện, phải có sự kiểm
tra một cách nghiêm túc và thường xuyên của phòng Giáo dục đối với đội ngũ
giáo viên ở tất cả các trường học trong Huyện, kể cả các trường học ở vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới. Nhưng để làm được điều đó, yêu cầu phải tăng
cường công tác tuyên truyền làm cho mọi tổ chức và cá nhân giáo viên hiểu
được tầm quan trọng của công tác này, từ đó có sự hợp tác thực hiện.
2.4.2. Đổi mới mạnh hơn nữa về nội dung và phương pháp dạy và học
ở các bậc học.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta đã khẳng
định: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi nới cơ cấu tổ chức, cơ chế
quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại
hóa, xã hội hóa”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”. [35; 95].
Vấn đề đổi mới nội dung và phương pháp dạy và học ở huyện An Phú là
vấn đế rất cần thiết, góp phần đẩy mạnh giáo dục toàn diện cho học sinh: Giỏi
về năng lực tư duy, tri thức, thẩm mỹ, đảm bảo thể chất, tốt về đạo đức,… Để
thực hiện tốt vấn đề này, ngành Giáo dục huyện An Phú có thể thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, đổi mới nội dung và phương pháp dạy và học ở các bậc học
phải theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, rèn
luyện năng lực tư duy, học tập nhẹ nhàng, chủ động và tự tin. Dành nhiều thời
gian cho học sinh thực hành, tự học, tích cực hóa hoạt động học tập trong lớp.
Thứ hai, đẩy mạnh giáo dục và đào tạo toàn diện cho học sinh, giúp các
em tham gia tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp, nhằm phát triển kĩ năng giao
tiếp, tập luyện cho học sinh quen dần với việc làm việc tập thể và hòa nhập với
xã hội. Ở các đơn vị trường có học sinh là người dân tộc, đặc biệt là dân tộc
Chăm, cần vận động khuyến khích các em giao tiếp bằng tiếng Việt trong và
ngoài giờ học.
Thứ ba, cần tăng cường đưa ngoại ngữ, Tin học vào giảng dạy ở các
cấp học. Vận dụng phương pháp dạy học mới có hiệu quả, như phương pháp
đặt vấn đề, phương pháp tổ chức Hội thảo, phương pháp thảo luận chuyên đề
nhằm phát huy tính chủ động, tích cực học tập của học sinh.

Trang 35
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng bộ môn, tổ bộ môn trong
việc tư vấn về chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm, cải tiến phương pháp, nội
dung giảng dạy, đẩy mạnh hoạt động việc thực hành thí nghiệm, khuyến khích
hình thức tổ chức giảng dạy thông qua công nghệ thông tin, đưa Tin học vào
dạy chính khóa, phát huy sử dụng Internet phục vụ cho việc giảng dạy của giáo
viên và học tập của học sinh.
Thứ năm, tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Nói không với tiêu cực và
bệnh thành tích trong giáo dục”. Tập trung vận động không “đọc chép, cách
truyền thụ kiến thức một chiều”, đổi mới cách ra đề thi và cách đánh giá học
sinh nhằm mục tiêu điều chỉnh cách dạy và cách học, chống thói quen “học
vẹt, học tủ”, không vi phạm đạo đức nhà giáo và không để tình trạng học sinh
không đủ kiến thức lên lớp.
Thứ sáu, thực hiện tốt việc đổi mới sách giáo khoa, tổ chức giảng dạy
hợp lý theo nội dung chương trình đã được đổi mới. Đồng thời tiếp tục chỉ đạo
thật tốt việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, thay sách và
phân ban ở các lớp Trung học phổ thông. Việc thay đổi nội dung, phương pháp
giáo dục và đào tạo cần phải chú ý đến khả năng tiếp thu của học sinh, thực
hiện hiệu quả phương pháp tích cực, gắn việc vận dụng trang thiết bị dạy học
với việc tăng cường hướng dẫn phương pháp học tập, thói quen cho học sinh,
đồng thời gắn chặt với công tác thi cử, đánh giá để đảm bảo chất lượng và hiệu
quả thiết thực.
Thứ bảy, cần đưa vào nội dung giáo dục các vấn đề về tư tưởng, chính
trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, thường xuyên giáo dục truyền thống cách
mạng, văn hóa dân tộc lồng ghép trong các môn học, các hoạt động, các hình
thức giáo dục. Các thầy, cô giáo cần phải nêu cao sự gương mẫu, không chỉ
giáo dục học sinh bằng việc lên lớp giảng bài mà cần có thái độ tận tụy với
nghề, thương yêu học sinh, nêu gương sáng cho học sinh noi theo.
2.4.3. Tăng cường nguồn đầu tư ngân sách và đầu tư có hiệu quả cho
hệ thống giáo dục và đào tạo ở các bậc học.
Hiện nay, ngân sách phân bổ về các đơn vị trường học của Huyện là khá
lớn nhưng chưa đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục và đào tạo hiện nay
trong một Huyện còn thiếu thốn nhiều về cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy
và học. Do đó, Huyện cần tăng cường hơn nữa nguồn đầu tư về ngân sách để
phục vụ tốt cho sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo ở các bậc học.

Trang 36
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

Thực hiện biện pháp này đòi hỏi các cấp lãnh đạo của Huyện cần tập
trung chỉ đạo và tạo điều kiện để ngành Giáo dục bảo đảm thực hiện đúng tiến
độ và có chất lượng việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo kế
hoạch. Cân đối ngân sách địa phương, khai thác và huy động thêm các nguồn
ngoài ngân sách, có thể huy động sự đóng góp của nhân dân, của các mạnh
thường quân, đảm bảo kinh phí cho việc nâng cấp và xây dựng trường lớp,
thực hiện kiên cố hóa trường lớp, tạo điều kiện từng bước chuyển sang dạy học
hai buổi/ngày, trước hết là đối với các trường Tiểu học, đồng thời, tăng cường
cung cấp trang thiết bị và đồ dùng dạy học trong nhà trường, nhất là đối với
môn Tin học và nối mạng Internet. Ưu tiên đầu tư khắc phục tình trạng thiếu
thốn, phải dùng chung cơ sở vật chất của các trường Tiểu học và Trung học cơ
sở, sử dụng có hiệu quả các cơ sở vật chất, các trang thiết bị đã được đầu tư,
kết hợp với việc bảo quản và sử dụng trang thiết bị nhằm phục vụ thiết thực
công tác giảng dạy và học tập.
Đa dạng hóa, mở rộng và quản lý chặt chẽ các loại hình trường lớp, xóa
bỏ tình trạng lạm thu, tiến tới xóa bỏ tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan.
Khuyến khích các trường, các cơ sở tăng cường sản xuất các loại thiết bị dạy
học, từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống các thư viện, các phòng thí
nghiệm ở các trường học, cần đồng bộ thống nhất bộ sách giáo khoa, sách
tham khảo. Thực hiện chủ trương đổi mới chương trình, phương pháp giảng
dạy và thay sách giáo khoa mới. Cải tiến phương pháp dạy học theo hướng
hiện đại, phát triển và cải tiến hình thức dạy học từ xa, nhất là dạy học trên các
phương tiện thông tin đại chúng, tạo điều kiện cho nhiều người, nhất là ở
những nơi khó khăn được học tập toàn diện.
Huyện cần tập trung một phần ngân sách phục vụ cho việc hỗ trợ học
bổng cho sinh viên có kết quả học tập từ khá trở lên, tổ chức tốt hơn các Hội
khuyến học, tạo điều kiện cho những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
được đến trường. Quan tâm đặc biệt đối với học sinh là con em dân tộc thiểu
số, ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Cấp, phát học bổng thường xuyên cho
học sinh giỏi, học sinh có năng lực đặc biệt, tạo động lực cho các em tiếp tục
phát huy khả năng của mình.
Đầu tư ngân sách cho việc tổ chức các cuộc thi về dạy tốt, học tốt, các
cuộc thi tìm hiểu lịch sử quê hương, dân tộc, các cuộc thi về các môn văn hóa
nhằm nâng cao trình độ hiểu biết cho cả giáo viên và học sinh, để ngày càng
tìm ra được nhiều giáo viên dạy giỏi, phát hiện nhiều học sinh có năng lực đặc
biệt và tiếp tục đào tạo bồi dưỡng thêm cho các đối tượng này.

Trang 37
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

Cần tập trung nguồn ngân sách hợp lí nhằm phát triển đội ngũ giáo viên,
tạo điều kiện để người giáo viên được tiếp tục học tập bồi dưỡng trình độ
chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên, đảm bảo cho giáo viên có thể ứng phó
được với những tình huống khó trong giảng dạy, nắm vững được lý thuyết và
thực tiễn, mục tiêu và phương tiện để đạt được mục tiêu trong giáo dục và đào
tạo. Về kiến thức, giáo viên được đào tạo chính quy cẩn thận, biết hướng dẫn,
thu nhận và ứng dụng thông tin một cách thành thục để định hướng và tạo ra
các giá trị cho học sinh. Về phương pháp, được đào tạo và sử dụng các kỹ thuật
và công cụ dạy học vào việc truyền đạt tri thức một cách hiệu quả nhất. Đồng
thời, cần phải quan tâm chăm lo đến đời sống của đội ngũ cán bộ, giáo viên,
thực hiện tốt chính sách về tiền lương, tạo động lực để giúp cho giáo viên ngày
càng tận tâm, tận lực với nghề và giảng dạy ngày càng hiệu quả hơn.

2.4.4. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi cho cán bộ trí thức, giáo viên,
học sinh vùng sâu, vùng xa.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta khẳng
định: “Dành nguồn vốn thích đáng cho việc giải quyết các nhu cầu cấp bách,
đặc biệt là về kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, để những vùng còn kém phát
triển, nhất là các vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng có bước phát triển nhanh hơn, dần dần giảm
bớt sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng,
coi đây là một trung tâm chỉ đạo của các ngành, các cấp” [32; 89 - 90].
Việc thực hiện chính sách ưu đãi cho cán bộ trí thức, giáo viên, học sinh
vùng sâu, vùng xa là một trong những giải pháp quan trọng và cần thiết. Bởi
huyện An Phú là một huyện còn gặp nhiều khó khăn, nhiều cán bộ trí thức,
giáo viên phải công tác ở những nơi có điều kiện bất lợi, đặc biệt là vùng chịu
ảnh hưởng nặng nề và trực tiếp nhất từ cơn lũ diễn ra hàng năm ở đây. Do đó,
các cấp lãnh đạo của Huyện phải thực hiện chính sách ưu đãi hợp lý cho các
đối tượng này nhằm tạo động lực, tạo điều kiện để họ yên tâm công tác và
phục vụ lâu dài cho ngành Giáo dục của huyện nhà. Cụ thể:
Ngoài chế độ tiền lương, Huyện cần quan tâm thực hiện tốt các chính
sách khác như cấp đất, cấp nhà ở, tăng tiền lương, tiền trợ cấp cho cán bộ, giáo
viên đang công tác ở những vùng khó khăn; hỗ trợ kinh phí, khuyến khích cán
bộ, giáo viên đang công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới tích cực đi học
bồi dưỡng, tạo điều kiện để họ không ngừng nâng cao trình độ, được đào tạo

Trang 38
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thường xuyên; thường xuyên tổ chức và vận
động các giáo viên đang công tác ở vùng khó khăn tham gia cuộc thi giáo viên
dạy giỏi; có sự khen thưởng xứng đáng đối với giáo viên đạt được thành tích
cao trong công tác giảng dạy, giáo dục học sinh và nâng cao tay nghề.
Huyện cần có chính sách đặc biệt cho học sinh là người dân tộc thiểu số,
tạo mọi điều kiện thuận lợi để các em được học tập ổn định, đẩy mạnh xây
dựng và phát triển các trường dân tộc nội trú; trợ cấp học bổng, miễn, giảm
tiền học phí, hỗ trợ các chi phí phục vụ cho việc học tập; thường xuyên tổ chức
những đoàn cán bộ đến thăm hỏi gia đình và tặng sách, vở, đồ dùng học tập
cho các em, động viên các em nỗ lực hơn nữa trong học tập, khắc phục dần sự
chênh lệch về nhận thức, trình độ giữa các em ở nơi đây với những nơi thuận
lợi trong Huyện.
Ngoài ra, ngành Giáo dục Huyện có chính sách thu hút những sinh viên
mới ra trường về công tác ở những vùng khó khăn; kịp thời động viên, khen
thưởng bằng vật chất và tinh thần đối với những học sinh, sinh viên có thành
tích học tập cũng như kết quả tốt nghiệp cao; có chính sách hỗ trợ kinh phí để
học sinh ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới được tiếp tục học tập lên cao hơn
ở các trường cao đẳng, đại học hoặc các trường dạy nghề.

* *
*
Qua nghiên cứu, tổng kết thực tiễn việc phát huy vai trò của đội ngũ
giáo viên trong giáo dục phổ thông huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001
đến nay, cho thấy, giáo dục phổ thông của Huyện nhìn chung có phát triển
tương đối ổn định, hệ thống trường, lớp tạm đủ đáp ứng cho nhu cầu học tập
của các em, học lực và đạo đức của học sinh có bước phát triển, đội ngũ giáo
viên trong Huyện cũng tương đối ổn định về số lượng và có bước phát triển về
chất lượng.
Bên cạnh đó, giáo dục phổ thông của huyện An Phú vẫn còn những hạn
chế: Trình độ giảng dạy của đội ngũ giáo viên chưa cao, việc áp dụng phương
pháp dạy học mới chưa thật sự có hiệu quả, công tác quản lý giáo dục chưa ổn
định, cơ sở vật chất, kỹ thuật công nghệ mới phục vụ cho việc dạy và học còn
thiếu, nhất là ở những trường vùng sâu, vùng xa. Do đó, kết quả giảng dạy và
học tập của giáo viên và học sinh còn thấp so với các huyện khác trong tỉnh An

Trang 39
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

Giang. Đặc biệt, tình trạng bỏ học của học sinh với số lượng hàng năm khá lớn
ở cả ba cấp học, cho đến nay Huyện vẫn chưa tìm ra những giải pháp hữu hiệu
nhất để giải quyết tình trạng này.
Để đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục nói chung và giáo dục phổ
thông nói riêng ở một huyện còn gặp nhiều khó khăn về điều kiện tự nhiên, về
điều kiện kinh tế - xã hội so với các Huyện khác trong tỉnh, tôi mạnh dạn nêu
ra một vài giải pháp để phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ giáo viên trong
phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang. Nhưng thực
hiện các giải pháp đó không phải là đơn giản, không chỉ là lý luận, nhận thức
mà phải biến thành hành động cụ thể, đòi hỏi rất lớn sự năng động của các cấp,
các ngành trong huyện An Phú.
Dẫu rằng chưa phải là đã đầy đủ nhưng các giải pháp nêu trên theo tôi
đều có ý nghĩa cần thiết, cấp bách và sẽ có tính khả thi, điều đó sẽ làm cho giáo
dục phổ thông của huyện An Phú, tỉnh An Giang trong những năm tới có bước
tiến, gặt hái được nhiều thành tựu hơn nữa.

Trang 40
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

PHẦN KẾT LUẬN


Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và
trong tương lai quá trình ấy sẽ càng được đẩy mạnh hơn nữa để nhanh chóng
đạt được mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra hàng loạt
vấn đế bức xúc cho cả nước và cho huyện An Phú. Để đưa huyện An Phú tiến
vững chắc lên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà đặc biệt là công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, việc đẩy mạnh phát triển
giáo dục và đào tạo, trọng tâm là giáo dục phổ thông bằng biện pháp chủ yếu là
phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên của huyện An Phú là một việc vô cùng
quan trọng.
Trong thời gian qua, đặc biệt là những năm đổi mới đất nước, dưới ánh
sáng của các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, các Nghị
quyết của tỉnh Ủy An Giang, chương trình hành động của Ủy ban nhân dân
tỉnh An Giang, chương trình hành động của Ủy ban nhân dân huyện An Phú,
các ban ngành liên quan, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục
phổ thông nói riêng ở huyện An Phú đã có nhiều tiến bộ, đội ngũ giáo viên
huyện An Phú đã bước đầu phát huy được vai trò, vị trí của mình, cống hiến
không nhỏ vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh nhà.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu về vai trò của đội ngũ giáo viên trong việc
phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang, tôi nhận thấy
thực trạng giáo dục phổ thông của huyện An Phú vẫn còn nhiều hạn chế cần
giải quyết: Trình độ giảng dạy của đội ngũ giáo viên chưa cao, việc áp dụng
phương pháp dạy học mới chưa thật sự có hiệu quả, công tác quản lý giáo dục
chưa ổn định, cơ sở vật chất, kỹ thuật công nghệ mới phục vụ cho việc dạy và
học chưa tốt, kết quả giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh còn thấp,
tình trạng bỏ học của học sinh hàng năm khá lớn. Thực trạng đó đã kìm hãm
rất nhiều đến sự nghiệp phát triển giáo dục phổ thông của Huyện, làm cho hiệu
quả giáo dục còn thấp, chất lượng đào tạo chưa cao.
Nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên, bên cạnh những
nguyên nhân khách quan vốn có, không ít những nguyên nhân chủ quan thuộc
năng lực quản lí của cán bộ giáo dục; Vai trò tham mưu của ngành đối với cấp
ủy Đảng, chính quyền địa phương; Công tác đánh giá, bổ nhiệm, luân chuyển

Trang 41
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

cán bộ chưa được thực hiện triệt để và cả nguyên nhân về sự thiếu tâm huyết
trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo của một bộ phận giáo viên.
Để đáp ứng sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo ở địa phương, cần
xác định đúng và thực hiện tốt những giải pháp chủ yếu, có tính khả thi. Do
vậy, chú trọng nâng cao vai trò của đội ngũ giáo viên bằng cách quan tâm
chăm lo đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần cho họ, đẩy mạnh công tác đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và khả năng vận dụng
phương pháp dạy học mới có hiệu quả, tạo điều kiện để đội ngũ giáo viên phát
huy tối đa vai trò tích cực của mình trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào
tạo nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng.

Trang 42
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

PHỤ LỤC 1
Bảng 1: KẾT QUẢ TỐT NGHIỆP BẬC TIỂU HỌC, HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN
GIANG TỪ NĂM HỌC 2001 ĐẾN NĂM HỌC 2007.

Số học
Tổng số Số học Tỷ lệ tốt Số học Số học
sinh
Năm học học sinh sinh được nghiệp sinh sinh
trung
dự thi tốt nghiệp (%) giỏi khá
bình

2001-2002 3669 3661 99,78 395 1693 1573

2002-2003 3903 3902 99,97 721 1598 1583

2003-2004 3373 3373 99,98 693 1446 1234

2004-2005 3750 3619 96,5 630 1442 1547

2005- 2006 3152 3060 97,08 698 1155 1207

2006-2007 2992 2731 91,28 318 894 1464


(Nguồn: Báo cáo tổng kết của phòng Giáo dục huyện An Phú )
Bảng 2: KẾT QUẢ TỐT NGHIỆP BẬC TRUNG HỌC CƠ SỞ, HUYỆN AN PHÚ,
TỈNH AN GIANG TỪ NĂM HỌC 2001 ĐẾN NĂM HỌC 2007.

Tổng số Số học Tỷ lệ tốt Số học Số học Số học


Năm học học sinh sinh được nghiệp sinh sinh sinh
dự thi tốt nghiệp (%) giỏi khá trung
bình
2001-2002 1816 1614 88,88 180 336 1098

2002-2003 2169 1813 83,32 241 430 1227

2003-2004 2117 1838 86,82 210 508 1120

2004-2005 2213 1993 90,05 231 480 1282

2005- 2006 2068 2028 98,07 164 677 1187

Trang 43
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

2006-2007 1853 1664 99,80 94 500 1070


(Nguồn: Báo cáo tổng kết của phòng Giáo dục huyện An Phú )
Bảng 3: KẾT QUẢ TỐT NGHIỆP BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG, HUYỆN AN
PHÚ, TỈNH AN GIANG TỪ NĂM HỌC 2001 ĐẾN HỌC NĂM 2007.

Số học
Tổng số Số học Tỷ lệ tốt Số học Số học
sinh
Năm học học sinh sinh được nghiệp sinh sinh
trung
dự thi tốt nghiệp (%) giỏi khá
bình

2001-2002 815 704 86,06 10 78 616

2002-2003 870 702 80,7 08 70 624

2003-2004 909 685 75,38 06 69 610

2004-2005 1162 949 81,7 18 63 868

2005- 2006 1057 757 71,62 15 74 768

2006-2007 1022 705 86,06 08 54 643


(Nguồn: Báo cáo tổng kết của phòng Giáo dục huyện An Phú )

Trang 44
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

PHỤ LỤC 2
Bảng 1: TÌNH HÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG, BẬC TIỂU HỌC, HUYỆN AN PHÚ,
TỈNH AN GIANG TỪ NĂM HỌC 2001 ĐẾN NĂM HỌC 2007.

Tổng số Tổng số học Tổng số giáo


Năm học Tổng số lớp
trường sinh. (người) viên. (người)

2001-2002 37 648 19.950 655

2002-2003 36 604 18.982 670

2003-2004 36 593 18.161 688

2004-2005 36 584 16.693 672

2005-2006 36 562 15.364 639

2006-2007 35 543 15.170 635


(Nguồn: Báo cáo tổng kết của phòng Giáo dục huyện An Phú )

Bảng 2: TÌNH HÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG, BẬC TRUNG HỌC CƠ SỞ, HUYỆN
AN PHÚ, TỈNH AN GIANG TỪ NĂM HỌC 2001 ĐẾN NĂM HỌC 2007.

Tổng số Tổng số học Tổng số giáo


Năm học Tổng số lớp
trường sinh. (người) viên. (người)

2001-2002 13 268 10.462 326

2002-2003 13 273 11.060 404

2003-2004 13 272 10.888 430

2004-2005 13 272 9.946 430

2005-2006 13 269 9.484 446

2006-2007 13 254 9.455 480


(Nguồn: Báo cáo tổng kết của phòng Giáo dục huyện An Phú )

Trang 45
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

Bảng 3: TÌNH HÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG, BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG,
HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG TỪ NĂM HỌC 2001 ĐẾN NĂM HỌC 2007.

Tổng số Tổng số học Tổng số giáo


Năm học Tổng số lớp
trường sinh. (người) viên. (người)

2001 -2002 3 68 10.462 114

2002-2003 3 73 11.060 104

2003-2004 3 84 10.888 119

2004-2005 4 99 9.946 132

2005-2006 4 88 9.484 151

2006-2007 4 87 9.455 159


(Nguồn: Báo cáo tổng kết của phòng Giáo dục huyện An Phú )

Trang 46
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]- Ủy ban nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang – An Phú tiềm năng và
cơ hội đầu tư, năm 2005.
[2]- Ủy ban nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang, số 69/ BC-UBND - Báo
cáo tình hình kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, năm 2006 và kế hoạch năm
2007.
[3]- Ủy ban nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang, số 67/ BC-UBND - Báo
cáo tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng, kế hoạch 3 tháng cuối năm 2007.
[4]- Phòng Giáo dục huyện An Phú, tỉnh An Giang - Báo cáo tổng kết năm
học 2001 - 2002 và hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2002 - 2003.
[5]- Phòng Giáo dục huyện An Phú, tỉnh An Giang - Báo cáo tổng kết năm
học 2002 - 2003 và hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2003 - 2004.
[6]- Phòng Giáo dục huyện An Phú, tỉnh An Giang - Báo cáo tổng kết năm
học 2003 - 2004 và hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2004 - 2005.
[7]- Phòng Giáo dục huyện An Phú, tỉnh An Giang - Báo cáo tổng kết năm
học 2004 - 2005 và hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2005 - 2006.
[8]- Phòng Giáo dục huyện An Phú, tỉnh An Giang - Báo cáo tổng kết năm
học 2005 - 2006 và hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2006 - 2007.
[9]- Phòng Giáo dục huyện An Phú, tỉnh An Giang - Báo cáo tổng kết năm
học 2006 - 2007 và hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2007 - 2008.
[10]- C.Mác, Ph.Ănggen và V.I.Lênin bàn về Giáo dục, Nxb Giáo dục, 1984.
[11]- C.Mác - Bộ Tư bản, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960.
[12]- C.Mác và Ph.Ănggen, Tuyển tập, tập 3, Tiếng Việt, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1982.
[13]- C.Mác và Ph.Ănggen, Tuyển tập, tập 16 Tiếng Nga, Nxb Chính trị
Quốc gia Macxcơva, 1962.
[14]- C.Mác và Ph.Ănggen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995.

Trang 47
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

[15]- Phạm Minh Hạc - Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỉ XXI,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
[16]- Đặng Quốc Bảo và Nguyễn Đắc Hưng - Giáo dục Việt Nam hướng
tới tương lai, vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
.
[17]- Nguyễn Văn Lê - Nghề thầy giáo, Nxb Giáo dục, 1998.
[18]- Luật Giáo dục, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
[19]- Luật Giáo dục 2005, Nxb Giáo dục.
[20]- Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb Từ điển Bách khoa.
[21]- Hồ Chí Minh về Giáo dục và đào tạo, Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội,
2007.
[22]- Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
[23]- Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
[24]- Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
[25]- Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
[26]- Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
[27]- Thái Duy Tuyên - Những vấn đề chung của Giáo dục học, Nxb Đại học
Sư phạm, 2004.
[28]- V.I.Lênin, Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Macxcơva, 1978.
[29]- V.I.Lênin, Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Macxcơva, Tiếng Việt, 1977.
[30]- V.I.Lênin, Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Macxcơva, Tiếng Việt, 1977.
[31]- Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991.
[32]- Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
[33]- Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp
hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.
[34]- Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.

Trang 48
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

[35]- Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.

Trang 49

You might also like