You are on page 1of 23

Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh

Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên


Bộ Môn Hải Dương, Khí Tượng Và Thủy Văn
-------------------------------------------------

Bài Báo Cáo Thực Tập

Đề Tài:
CÁC CÔNG TRÌNH VEN BỜ VÀ XÓI LỞ CLIFF

Thực hiện: SV LÊ THÚY HẰNG


TRẦN THỊ KHÁ
MẠC THỊ QUYÊN
NGUYỄN BÁ TUYÊN
VŨ ĐÌNH SAN
Hƣớng dẫn thực tập: TS VÕ LƢƠNG HỒNG PHƢỚC

TP. HỒ CHÍ MINH, năm 2008


Đề tài:
CÁC CÔNG TRÌNH VEN BỜ- XÓI LỞ CLIFF
1. Các công trình ven biển:
Đới bờ biển là khu vực chuyển tiếp giữa lục địa và biển, là nơi thƣờng xuyên xảy
ra các tác động tƣơng tác giữa quá trình sông và biển.

Loại công trình biển Tác dụng Đặc trƣng

Đê biển Bảo vệ và giảm nhẹ Loại công trình


bão, lũ từ ngoài biển. thƣờng không cho phép
nƣớc đi qua, xây dựng theo
đƣờng bờ biển.

Tƣờng đứng Bảo vệ đất đai và Củng cố một phần


các công trình tránh bão lũ. đƣờng bờ.

Kè lát mái Bảo vệ đƣờng bờ


chống xói mòn.

Tƣờng chắn đất Bảo vệ và chống Củng cố bờ đất.


trƣợt cho phần đất phía sau
tƣờng.

Đập mỏ hàn Chống xói mòn bờ Giảm lƣợng bùn cát


biển. vận chuyển do dòng dọc bờ.

Đập phá sóng Chống xói mòn bờ Giảm chiều cao


(ngoài khơi) biển. sóng, đồng thời có tác dụng
giảm vận chuyển bùn cát
dọc bờ.

Dải ngầm Chống xói mòn bờ Giảm chiều cao


biển. sóng khi tiến vào bờ.

Ngƣỡng tràn Chống xói mòn bờ Làm chậm lại quá


biển. trình chuyển động bùn cát.

Thoát nƣớc bãi Chống xói mòn bờ Tập trung nƣớc, vật
biển. liệu vào rãnh thoát nƣớc.
Đập phá sóng Tạo vùng nƣớc lặng Giảm năng lƣợng
trong cảng và cho luồng tàu sóng hoặc phản xạ lại một
tránh tác động của sóng, phần năng lƣợng sóng.
dòng chảy.

Đập phá sóng nổi Tạo vùng nƣớc lặng Giảm chiều cao
trong cảng và nơi neo đậu sóng do phản xạ hoặc do
thuyền chống hiện tƣợng sóng tiến vào bờ.
cộng hƣởng (nguyên nhân
do sóng có chu kỳ ngắn).

Cầu cảng Ổn định kênh dẫn Giảm ảnh hƣởng của


tàu tại cửa sông và vủng dòng do sóng và dòng triều,
triều. Bảo vệ công trình chóng gió
bão và dòng ngang bờ.

Tƣờng hƣớng dòng Chống bồi, xói và Hƣớng dòng chảy tự


bảo vệ nơi neo đậu tàu nhiên hoặc tạo ra dòng chảy
thuyền dƣới tác động của theo ý muốn con ngƣời
dòng chảy. bằng cách giảm tác dụng
của dòng ven bờ.

Barrier chắn sóng Bảo vệ vùng cửa Tạo ra một lá chắn


sông tránh tác động của bão ngăn cửa sông và biển.
biển.

Hệ thống ống chống Vận chuyển chất Ổn định dƣới tác


sạt lở lỏng. dụng trọng lực.

Bảo vệ hố xói Bảo vệ các công Tăng độ cấu kết của


trình tránh mất ổn định bởi đất dƣới tác dụng của sóng
hố xói. và dòng.

1.1 Kè biển:
Định nghĩa: là đê dọc bờ xây dựng sát mép nƣớc tạo thành rào cản ngăn cách biển với
đất liền. Các đê hay kè này bảo vệ và cố định đƣờng bờ tại vị trí đê.

Phân loại: Về cấu tạo các kè biển có thể đƣợc phân ra làm các loại:
Kè tường đứng hoặc tường nghiêng: Kè tƣờng trọng lực các loại có mặt đứng
hoặc nghiêng kể cả tƣờng cừ có cấu tạo cơ bản nhƣ tƣờng bến hay tƣờng chắn đất thông
thƣờng và đƣợc xây dựng ở các nơi bờ có dốc lớn. Các công trình loại này phả i chịu lực
do sóng rất lớn do sóng bị phản xạ trƣớc tƣờng.
Kè mái nghiêng: là kết cấu mái nghiêng gia cố bằng vật liệu nặng nhƣ đá đổ hoặc
khối bê tông.
Kè hỗn hợp: là loại phổ biến bao gồm một phần mái nghiêng đƣợc gia cố bên
dƣới và cấu trúc kiểu trọng lực để chịu lực vỗ trực tiếp của sóng ở bên trên.

Đặc điểm cấu tạo:


Do bãi biển và đƣờng bờ luôn luôn có khuynh hƣớng biến động bồi hay xói nên
việc cố định đƣờng bờ bằng kè không phù hợp với tính di động của nền đáy trƣớc đƣờng
bờ. Ảnh hƣởng của các công trình cứng, cố định làm mất sự cân bằng bùn cát trƣớc khi
có công trình, vì thế trƣớc chân công trình,dù là công trình dạng mái nghiêng, thƣờng xói
chân theo từng thời kỳ và công trình sẽ bị phá hủy toàn bộ nếu bị trƣợt hoặc lật khi hố xói
phát triển quá lớn. Do đặc điểm này khi thiết kế kè biển phải lƣu ý một số điếm sau:
- Để chống xói trƣớc chân công trình phải bố trí chân khay liên tục và sâu hay
màn cừ tạo thành màn kín ngăn không cho đất dƣới móng công trình bị xói ngầm lôi ra
phía hố xói.
- Các mái nghiêng phải đƣợc tựa lên một khối móng (chân khay) dạng lăng thể đá
giữ chân hoặc dầm dọc bờ. Chân khay phải cắm sâu xuống dƣới độ sâu xói lớn nhất và
đƣợc bảo vệ chống xói lớn nhất và đƣợc bảo vệ chống xói ngầm bằng một màn kín bằng
cừ có neo vào trong đất liền. Phải lƣu ý neo màn hàng cừ chân khay sao cho đầu cừ
không bị dịch chuyển,tách ra khỏi mái nghiêng tạo thành khe nứt và để đất thoát ra.
- Cần tránh dùng các công trình dạng tƣờng đứng hay tƣờng có góc nghiêng lớn vì
hiện tƣợng xói chân công trình loại này. Nguyên nhân là do tƣờng phản xạ sóng, tạo
thành sóng đứng trƣớc công trình, dao động do sóng vì thế sẽ tăng lên làm bùn cát đáy bị
bốc lên và bị các dòng chảy khác nhau mang đi nơi khác.
- Các công trình dạng tƣờng kín không thấm nƣớc phả i chịu áp lực thủy tĩnh rất
lớn, vì thế phải bố trí thiết bị thoát nƣớc để hạ thấp mực nƣớc ngầm sau tƣờng khi nƣớc
xuống hoặc thiết kế công trình chịu đƣợc áp lực xô ngang này.
- Các kè bờ phải chống đƣợc lực vỗ trực tiếp của sóng và không để đỉnh sóng
vƣợt qua đỉnh kè gây xói phía sau. Vì vậy phần trên của tƣờng thƣờng đƣợc nâng cao
bằng con trạch hay tấm hắt sóng và đƣợc uốn cong đến thẳng đứng hoặc hơi chồm về
phía biển, đỉnh tƣờng và sau tƣờng đƣợc gia cố bằng lớp phủ kín nƣớc nhƣ bê tông nhựa
hoặc xây vữa.
- Công trình sẽ đƣợc bảo vệ tốt hơn nếu sóng phản xạ yếu vì thế mái dốc trƣớc
công trình phải thật nhẹ, thông thƣờng mái dốc bờ kè nhỏ hơn 3/1(từ 4/1 đến 10/1). Tuy
nhiên những mái dốc bờ kè nhẹ nhƣ thế nào làm tăng khối lƣợng bờ kè rất lớn, khi bãi
biển tƣơng đối ổn định, ít bồi xói và cấu tạo bằng vật liệu thô khá lớn nhƣ đá cuội, sỏi …
thì có thể dùng các mái dốc lớn hơn (2/1 hoặc 3/2).
- Mái nghiêng có cấu tạo là một lớp khối xây cứng có các lỗ thoát nƣớc, đặt trên
các lớp vật liệu của tầng lọc ngƣợc. Lớp khối xây có thể là đá hay khối bê tông liên kết
bằng vữa xi măng hay nhựa đƣờng. Khi kích thƣớc các khối đủ lớn có thể dùng mái đá đổ
hoặc khối bê tông nhân tạo không có vữa liên kết.
- Kích thƣớc của lớp bên ngoài đƣợc chọn càng sớm càng tốt và thƣờng đƣợc
chọn theo khả năng của phƣơng tiện thi công.
- Vì không thể sửa chữa ngay khi có bão nên khi có một chỗ yếu trên bờ kè, sóng
lớn do bão sẽ làm sụp đổ từng mảng kè bờ và sự phá hoại sẽ lan ra nhanh chóng theo
chiều dọc kè. Để giới hạn thiệt hại phải phân đoạn kè bờ bằng các tƣờng ngang.
Vai trò của bờ kè:
Đây là công trình bảo vệ bờ biển hoặc bảo vệ các công trình ven bờ khác chống
lại tác dụng phá hoại của sóng, chủ yếu là tác động xói mòn hoặc bồi lắng có hại cho sự
an toàn của bờ hoặc sự vận hành bình thƣờng của công trình ven bờ.
Theo cách bố trí có thể phân ra làm hai loại:
Đê dọc bờ: bố trí song song hay gần song song với đƣ ờng bờ ta có kè bờ hoặc kè
biển.
Đê ngang bờ hay đập đinh, đê kiểu bán đảo: bố trí vuông góc hoặc xiên góc với
bờ.

Kè mỏ hàn:
Nguyên tắc vận hành và cách bố trí:
Đập đinh (kè mỏ hàn ) là công trình bảo vệ theo phƣơng vuông góc với bờ, đƣợc
dùng để chống lại tác động dọc bờ của sóng. Mục đích của đập đinh không nhằm ngăn
cản toàn bộ chuyển động bùn cát dọc bờ và chủ yếu là gây bồi lắng một phần bùn cát để
tạo ra một lớp bảo vệ bờ, chống xói mòn.
Chiều dài đập đinh:
Khi chỉ nhằm giảm bớt chuyển động bùn cát do dòng chữ chi zích zắc ven bờ thì
các đập đinh rất ngắn trên phần bái sát mép nƣớc.
Khi muốn giảm sự vận chuyển bùn cát do dòng dọc bờ thì các đập đinh đƣợc kéo
dài ra khỏi dải cát ngầm dọc bờ hay vị trí sóng vỡ và chặn ngang toàn bộ vùng có chuyển
động bùn cát tích cực.
Nhƣ vây, đập đinh dài nhất sẽ vƣơn ra đến vị trí sóng vỡ ứ ng với mức nƣớc thủy
triều thấp, trên thực tế các đập đinh thƣờng chỉ vƣơn ra đến vị trí mức nƣớc thấp trên bãi
hoặc ngắn hơn nữa nếu bãi có cấu tạo là đá sỏi hạt thô
Hướng và khoảng cách đập đinh:
Đập đinh chắn ngang đƣờng vận chuyển bùn cát dọc bờ nên sẽ hình thành bãi
bồi ở phía thƣợng lƣu đập đinh và gây xói ở phía kia, vì vậy đập đinh đƣợc bố trí thành
dãy nhiều cái, bắt đầu từ hạ lƣu vùng cần bảo vệ so với hƣớng vận chuyển bùn cát chủ
yếu.
Trong khoảng cách giữa hai đập đinh, phía đối diện với sóng tới có xu hƣớng
hình thành bãi bồi, ngƣợc lại phía khuất sóng có khuynh hƣớng bị xói. Ngƣời ta cũng
nhận thấy có dòng chảy xoáy hƣớng về phía bờ ở phía đối diện với sóng và hƣớng ra khơi
ở phía khuất sóng. Bãi bồi ở giữa hai đập đinh sẽ có khuynh hƣớng tạo nên đƣờng bờ mới
song song với đỉnh sóng tới.
Nhƣ vây việc bố trí các đập đinh thành dãy phải bảo đảm sao cho gốc đê phía
khuất sóng của các đập đinh không bị xói, khi cần thiết gốc đập đinh có thể đƣợc bảo vệ
bằng kè gia cố bờ. Thông thƣờng khoảng cách giữa các đập đinh vào khoảng 1,5 đến 2
lần chiều dài đập. Khoảng cách này càng phải gần hơn khi sóng càng lớn và hƣớng vuông
góc vào bờ. Khi dòng bùn cát dọc bờ yếu và hƣớng theo hƣớng truyền sóng chủ đạo (nếu
có hƣớng sóng chủ đạo) thì các đập đinh có thể bố trí cách xa hơn. Để xác định cụ thể
khoảng cách thích hợp của các đập đinh phải sử dụng mô hình thu nhỏ.
Các đập đinh phải có chiều dài bằng nhau vì các đập ngắn hơn sẽ bị mất tác
dụng.

1.2 Bờ kè vùng Cần Giờ:


Kè ven biển:

Hình 1.1: Bờ kè ở Cần Giờ

Hình 1.2: Mạt dừa theo sóng và triều tới ven bờ

Lịch sử phát triển: Trƣớc khi có bờ kè thì hàng năm biển xâm thực vào đất liền
rất nhiều.
Từ năm 94-95: Triển khai kè toàn bộ khoảng 12 đến 13 cây số và hoàn thiện vào
năm 1999.
Hiên nay:
Trên đoạn kè, một số đoạn bồi, từ Vàm Lở chạy về Long Hòa đa số là bồi (bị mất
kè).
Từ Cần Thạnh đến cửa sông Đồng Tranh: 1 số đoạn bị xói. Tại Long Hòa- Đồng
Tranh bị xói. Ngay tại đầu doi bị xói. Hàng năm chi tu khoảng 3 tỷ đồng.
Kè chủ yếu chống sạt lở, bảo vệ đất liền, kè chỉ chịu đƣợc bão cấp5,cấp 6.
Nguyên nhân gây xói lở:
Sóng vào mùa gió chƣớng: Gió chƣớng là gió thổi từ biển vuông góc với bờ ảnh
hƣởng đến sinh hoạt ngƣời dân .
Triều cƣờng: triều cao khoản 1.3m. Triều cƣờng cao nhất 1.5 m so với mực
chuẩn.
Ảnh hƣởng của chế độ thuỷ văn ven bờ.
Kè mỏ hàn:

Hình 1.3: Kè mỏ hàn


Mỏ hàn có chiều dài khoảng 100m.
Chiều dài kè ven biển 13 km có khoảng 34 kè mỏ hàn.
Khoảng cách giữa hai mỏ hàn khoảng 200m trở lại.
Mỏ hàn dùng để chắn sóng và ngăn việc di chuyển phù sa ,trầm tích ven bờ.
Kè mỏ hàn xây dựng cao 2m so với giá trị trung bình.

2. Geotube:
2.1 Định nghĩa:

Hình 2.1: Geotube


Geotube đƣợc định nghĩa nhƣ là một ống lớn có mặt cắt ngang là hình bầu dục
đƣợc chế tạo từ vải địa kỹ thuật có độ bền cao.

2.2 Cấu trúc và cách lắp đặt:


Cấu trúc:
Mỗi geotube có chu vi lớn hơn 2.5m và chiều dài lớn hơn 6m. Chiều dài của
geotube tuy thuộc vào công trình xây dựng sử dụng geotube.Bên ngoài đƣợc bao bọc bởi
lớp vải địa kỹ thuật, bên trong chứa đầy cát và nƣớc, loại cát này là hỗn hợp của đất và xi
măng.

Hình 2.2: Nƣớc còn sót lại trên các bao geotube

Hình 2.3: Quá tình bơm nƣớc vào ống


Để có đƣợc những ống geotube này trƣớc tiên ngƣời ta sẽ bơm đầy hỗn hợp cát và
nƣớc vào bên trong sau đo sử dụng máy bơm hút hết nƣớc vào hồ chứa và khi hồ chứa
đầy thì máy bơm sẽ tự động bơm nƣớc đến nơi cần thiết.

Cách lắp đặt:


Để có một kết cấu vững chắc và đạt hiệu quả, ngƣời ta thƣờng thiết kế một ống
geotube nhỏ hoặc đặt các bao cát gần với ống geotube lớn để chống lại hiệu ứng xói mòn
phía chân do chà xát để bảo vệ nền móng của ống geotube chính.Sự chà xát dƣới chân
của geotube chủ yếu do tác động của sóng và dòng.
2.3 Ứng dụng và hiệu quả :
Ứng dụng:
Công nghệ sử dụng geotube đƣợc xem nhƣ là một thành phần quan trọng trong
việc thiết kế và xây dựng các loại cấu trúc công trình ven biển hay các công trình thủy lợi
nhƣ đê chắn sóng ở biển (breakwaters), đê (levies), và các hệ thống ngăn chặn hƣ hại ở
biển.
Ngoài ra, công nghệ sử dụng geotube còn có tác dụng bảo vệ đƣờng
bờ(shoreline), phục hồi lại bãi biển, cải tạo đất ở vùng biển.
Sử dụng công nghệ geotube là một thách thức nhƣng nó là loại phƣơng pháp
mang lại hiệu lợi nhuận cao trong việc bảo vệ đƣờng bờ và cấu trúc ven biển. Nó đƣợc
đặt tại trung tâm của những đụn cát, đầm lầy và những môi trƣờng khác; đê chắn sóng
(jetties), con đê (dikes), đê biển (groynes) và những cấu trúc dƣới nƣớc vì vậy nó sẽ tạo
ra những vùng đất mới (islands) từ bên dƣới lớp nƣớc.
Đê chắn sóng goetube là một cấu trúc mềm thích ứng hơn với môi trƣờng là rừng
ngập mặn.
Hiệu quả của việc sử dụng geotube:
Hệ thống geotube đƣợc lắp đặt đầu tiên vào năm 1962 và có hơn 150 dặm (hải lý )
đƣợc lắp đặt ở hơn 50 quốc gia.
Nó đƣợc biết đến nhƣ là giải pháp tốt cho cả các biện pháp ngắn kỳ lẫn dài kỳ,
mang lại lợi nhuận cao.
Công nghệ này sẽ làm phục hồi lại vùng đầm lầy (wetland).
Cấu trúc geotube mang lại hiệu quả cao khi biết kết hợp với cấu trúc đƣờng bờ
làm bằng vật liệu truyền thống. Có khả năng tận dụng đƣợc vật liệu tại chỗ thay thế cho
khối đá lõi có thể tích lớn.
Geotube đƣợc cấu tạo từ một loại vải có độ bền cao có khả năng chống lại áp suất
trong suốt quá trình bơm.khối vật liệu đƣợc bao bọc tạo đƣợc một khối lớn đồng nhất nên
khả năng chịu đựng các yếu tố thiên nhiên bất lợi cao.
Nó không đòi hỏi một công cụ đặc biệt nào trong quá trình chế tạo và lắp đặt.
Cách chế tạo rõ ràng, dễ lắp đặt và mức độ đòi hỏi bảo dƣỡng thấp.

2.4 Một số công trình sử dụng geotube ở Việt Nam:


Khu lấn biển Cần Giờ:
Về tổng thể phần lấn biển là 600 ha, toàn bộ hệ thống san lấp là 378 ha chia
thành 4 khu san lấp mỗi khu vựccó diện tích khoảng 95 ha đƣợc ngăn cách bằng các
ống geotube.
2 ống geotube đầu tiên đƣợc lắp đặt cách mép biên dữ án khoảng 150m để bảo
vệ 2 biên của dựi án, ngăn cách và thi công vùng nƣớc đục do quá trình thi côngbơm
cát san lấp dự án sẽ không bị lan truyền dọc bờ và không bị ảnh hƣởng đến các khu vực
lân cận khác.
Các ống geotube khác đƣợc dùng để làm đƣờng bao cho các khu vực san lấp
khác. Vậy toàn bộ khu vực san lấp của dự án đƣợc chia thành các khu vực san lấp nhỏ
bằng các ờ bao là các ống goetube, bên ngoài còn đƣợc bao bọc bằng 1 lớp bờ bao thứ
2 bao phủ toàn bộ khu vực san lấp để nƣớc đục sẽ không lan tỏa ảnh hƣởng đến các khu
vực xung quanh dự án.

Dự án đê chắn sóng geotube ở Miền trung:


Đây là loại đê chắn sóng với khối đá lõi đƣợc thay thế từ các geotube (ống vải
địa kỹ thuật ). Loại đê này tận dụng tối đa ƣu điểm của đê chắn sóng mái nghiêng bằng
đá đổ, khả năng tận dụng vật liệu tại chỗ cùng với sự ra đời của loại vải địa kỹ thuật có
tuổi thọ trên 50 năm.

Hình 2.4: Mặt cắt ngang đê mái nghiêng dùng lõi đá với loại dùng geotube.
Ta thấy các khối đá lõi gồm các hạt rời thi công kiểu đổ tự do và san ủi nên khó
định hình bằng ác ống geotube với lõi cát đƣợc bơm đầy trực tiếp. Lớp phủ vẫn có kết
cấu nhƣ các loại đê mái nghiêng.
Đê chắn sóng kiểu geotube có thể đƣợc sử dụng ở mọi độ sâu nếu đáy biển cho
phép thả cọc neo đồng thời nó mang lại hiệu quả kinh tế cao vì tiết kiệm đƣợc khoản
chi phí khá lớn.

Hiình 2.5: So sánh chi phí làm một khối lõi của đê đá đổ và đê geotube

3 Khu lấn biển Cần Giờ:


3.1 Vị trí –đặc điểm:
Cần Giờ là một huyện ven biển nằm ở phía Đông Nam của Thành phố Hồ Chí
Minh, cách trung tâm khoảng 50 km. Diện tích của huyện là 704,2 km². Địa hình chia cắt
bởi sông, rạch, không có nƣớc ngọt. Rừng Sác và đƣớc, đất rừng chiếm 47,25% diện tích.
Huyện Cần Giờ tiếp cận với biển Đông hiện hữu một khu rừng ngập mặn đan xen với hệ
thống sông rạch dày đặc chứa đựng các hệ sinh thái mang tính đa dạng sinh học cao với
nhiều loài động thực vật đặc hữu của miền duyên hải Việt Nam. Đó là khu rừng ngập
mặn Cần Giờ nằm gọn trong địa giới huyện Cần Giờ và rừng Sác huyện Nhơn Trạch tỉnh
Đồng Nai.
Khu lấn biển Cần Giờ nằm phía nam Cần Giờ.
Khu lấn biển Cần Giờ khỏang 600ha. Độ dốc khoảng 2%. Sóng nơi đây yếu chủ
yếu là sóng gió với chu kỳ khỏang 3-4 s. Sóng gần nhƣ hình sin. Ở đây có các doi cát do
các dòng rút tạo ra những doi cát này. Nƣớc biển ở đây không trong nhƣ biển ở nơi khác
vì bãi biển Cần Giờ là bãi cát bùn. Bãi biển Cần Giờ vốn là vùng hội tụ dòng chảy, bãi
nông, nƣớc đục…

Hình 3.1: Khu Lấn biển Cần Giờ

Hình 3.2: Bãi triều của khu lấn biển

3.2 Động lực học:


Biển Cần Giờ chịu tác động trực tiếp từ hệ thống cửa sông và sóng biển. Sóng ở
Cần giờ là sóng gió với chu kì khoảng 3-4 s. Sóng nơi đây gần nhƣ hình sin. Không có
sóng vỗ ven bờ vì địa hình đáy tƣơng đối lài. Khi triều lên vận tố c lên chậm hơn so với
khi triều rút vì khi triều rút dòng triều kết hợp với dòng từ sông đi ra. Nhƣng vận tốc rút ở
đây chậm. Ở khu lấn biển có dòng chảy ven bờ mang phù sa di chuyển dọc ven bờ. Các
dòng chảy ven bờ khi gặp nhau tạo các dòng rút ra biển rấ t mạnh. Các dòng rút này tạo ra
các doi cát chạy dọc bờ biển. Biền Cần Giờ là vùng bán nhật triều.

Hình 3.3: Đƣờng dòng rút còn in trên cát

Khu vực này xây dựng 2 bờ kè 2 bên để giữ cát và làm cho bồi tụ ở đây. Nhƣng ở
đây có 2 đới gió mùa tây nam và đông bắc. 2 đới gió mùa này ảnh hƣởng đến quá trình
bồi tụ ở đây. Khi gió mùa Tây nam hoặc đông bắc thì phía bên hƣớng có gió mùa thì quá
trình bồi xảy ra còn bên kia bờ kè xảy ra xói lở.

Hình 3.4: Mỏ hàn


Hình 3.5: Bãi triều nhìn từ bờ

Hình 3.6: Bãi triều nhìn dọc theo bờ

3.3 Quá trình thực hiện:


Do bãi biển Cần Giờ vốn là vùng hội tụ dòng chảy, bãi nông, nƣớc đục... nên để
xây dựng công trình phải khắc phục các “hạn chế” nói trên bằng cách đào sâu mặt bãi để
đảm bảo độ sâu bãi tắm đồng thời loại trừ sóng vỡ; làm đê ngầm phía ngoài để nƣớc
không rút hết khi triều thấp và chắn sóng đồng thời cắt chân triều nhằm làm giảm biên độ
thủy triều. Ngoài ra, để ngăn chặn nƣớc đục tràn từ ngoài vào, phải làm kè cách ly khu
vực bãi tắm với vùng biển bên ngoài.
Hình 3.7: Bản đồ Xây dựng khu lấn biển

Cụ thể, sẽ xây dựng hai “mỏ hàn” lớn để chắn sóng và chỉnh trị dòng chảy. Theo
đó, từ hai cửa rạch Cát Lở và Hà Thanh sẽ xây dựng hai “mỏ hàn” lớn có tầm vƣơn
khoảng 2.000 mét thẳng góc với bãi biển, khoảng cách giữa hai “mỏ hàn” là 2.500 mét,
thân “mỏ hàn” có bề mặt rộng từ 2.500-6.000 mét là nơi tổ chức các công trình xây dựng.
Khoảng cách hai mũi mỏ hàn, cửa thông với biển để tiếp nhận nƣớc ra vào rộng 550 mét.
Theo thiết kế, phƣơng án này cung cấp một diện tích bãi tắm khoảng 200 ha và một vùng
mặt nƣớc khoảng 200 ha.
Và để làm đƣợc điều này, phải đào đắp một khối lƣợng đất cát khổng lồ để phục
vụ mục đích san lấp, lấn biển cũng nhƣ thu hẹp vùng bãi biển nông, loại bỏ khu nƣớc
đục, tạo vùng nƣớc trong và thay cát phục vụ tắm biển và du lịch... bằng cách lắp đặt các
ống Geotube cƣờng độ cao may từ loại vải Poly Propylence.
Nạo vét hàng triệu mét khối đất, cát để hạ thấp cao trình bãi biển nhằm làm trong
nƣớc biển và đảm bảo độ sâu đủ để tắm; phần đất dƣ do nạo vét đƣợc đắp lên bờ để xây
dựng khu thể thao, vui chơi giải trí; thay cát mịn, nhiễm bẩn trên bãi bằng cát thô, sạch
đƣa từ nơi khác đến; xây dựng các công trình kè lấn biển, đê chắn sóng...

3.4 Mục đích- Ý nghĩa và ảnh hưởng của khu lấn biển:
Mục đích-ý nghĩa:
Dựa trên những điều kiện tự nhiên sẵn có, đầu tƣ vốn và khoa học kỹ thuật đúng
mức, đúng lúc, đúng chỗ sẽ góp phần làm tăng thêm giá trị và sức hấp dẫn của du lịch
thành phố, “văn minh hóa” một vùng đất giàu tiềm năng, góp phần vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Theo quy mô các hạng mục công trình, việc đầu tƣ
kinh doanh chính của dự án là các công trình phục vụ du lịch nhƣ khác h sạn, khu resort,
dịch vụ du lịch (nhà hàng, karaoke, khu công viên thủy cung... ) trong khu đô thị lấn biển.
Nhƣng, do tổng vốn đầu tƣ cho hệ thống công trình lấn biển quá lớn nên để dự án mang
tính khả thi, các nhà đầu tƣ đề nghị cho phép đƣợc kinh doanh quyền sử dụng đất để tăng
khả năng đầu tƣ. Cụ thể, việc lấn biển sẽ tạo đƣợc một quỹ đất giúp cho việc kinh doanh
bán nền đất khu lấn biển, từ đó tạo thêm nguồn vốn đầu tƣ vào việc xây lấp nền hạ tầng
lấn biển và hạ tầng cơ sở khu đô thị. Trong đó, ngoài các công trình đƣợc đầu tƣ kinh
doanh phục vụ du lịch thì dự kiến tổng diện tích nền đất xây nhà trên 100 héc ta, tức bằng
60% diện tích đất đƣợc quy hoạch làm khu đất ở.
Ảnh hưởng chung:
Những băn khoăn của các nhà khoa học có xu hƣớng càng tăng hơn trƣớ c tình
hình mới: biến đổi khí hậu làm dâng cao mực nƣớc biển…

Hình 3.8: Mô phỏng dự án sau khi lấn biển


Giáo sƣ Lê Huy Bá, viện trƣởng viện Quản lý khoa học công nghệ và quản lý môi
trƣờng trực thuộc đại học Công nghiệp TP.HCM cho rằng, theo giải pháp kỹ thuật để
tránh sự bồi tích của phù sa sông Sài Gòn thì phải xây dựng hai bờ kè dẫn luồng chảy của
sông Sài Gòn ra 2 - 3km xa về phía biển. Thế nhƣng, những tính toán về thủy lực, dòng
chảy, độ ô nhiễm chƣa đƣa ra đƣợc những con số thuyết phục.
Từ xƣa đến nay độ mặn của khu vực rừng ngập mặn đã ổn định, khi đƣa dòng
chảy ra xa độ mặn hoàn toàn có thể sẽ giảm xuống và chỉ cần có sự thay đổi ở mức 2%
độ mặn là rừng ngập mặn sẽ chết.Tác động của sự dâng cao mực nƣớc biển đối với công
trình cũng là một vấn đề. Theo một “kịch bản tối thiểu” đã đƣợc các nhà khoa học đƣa ra
thì đến năm 2020, mực nƣớc biển sẽ dâng lên ít nhất 10cm, lúc đó khu vực duyên hải c ủa
Việt Nam sẽ mất đi 16% diện tích đất. Một “kịch bản tối đa” đƣợc cảnh báo là đến năm
2050, mực nƣớc biển sẽ dâng đến một mét, dìm 46% khu vực duyên hải Việt Nam xuống
nƣớc biển.
Việc thay đổi mục đích sử dụng đất và khai thác công trình sẽ tác động mạnh
trƣớc tiên đến môi trƣờng xã hội và quá trình thi công cũng nhƣ bản thân công trình sẽ
tác động đến môi trƣờng vật lý. Sự thay đổi địa hình bãi Cần Giờ làm vùng ngập triều mở
rộng ra phía biển sẽ làm vùng bãi triều bị thu hẹp và độ ngập trên bãi tăng lên, thời gian
ngập kéo dài cũng nhƣ thay đổi sự truyền sóng đến công trình và tốc độ dòng chảy - kéo
theo sự bồi lắng hoặc xói mòn bãi biển. Tiếp theo, việc xây dựng công trình sẽ làm cho
dòng chảy, sóng gió tăng lên và dự báo một số khu vực có tốc độ xói mòn tăng cao... Khi
lấn biển, đồng nghĩa là dùng một hệ thống nào đó để chỉnh sửa dòng chảy của hệ thống
sông cũng nhƣ tác động của sóng. Bên cạnh đó, việc cải tạo bờ biển Cần Giờ sẽ làm thay
đổi tác động của sóng biển theo quy luật tự nhiên hàng triệu năm na y. Đáng ngạc nhiên
là, nhìn trên các bản đồ cơ cấu và phân khu chức năng quy hoạch chi tiết khu đô thị du
lịch lấn biển Cần Giờ, có thể thấy ngay toàn bộ khu tắm biển bị bao bọc bởi nhà và nhà,
kể cả biệt thự. Nói cách khác là du khách phải bỏ tiền ra để tắm trong một cái vũng hay
một cái hồ, vì với một hệ thống đập kè chằng chịt nhƣ vậy thì khu vực đƣợc gọi là “biển
sạch” này chƣa chắc đã có sóng. Một điều chắc chắn, sóng biển không tải vào vùng này
sẽ chuyển sang những vùng khác, lúc đó chƣa biết mức độ tác động của nó nhƣ thế nào.
PGS Lê Quang Toại, Trƣờng ĐH Khoa học Tự nhiên, lo ngại rằng biển Cần Giờ là vùng
luồng lạch, tàu ra vào với lƣu lƣợng lớn, không tránh khỏi ô nhiễm dầu thải. Ngoài ra,
việc cải tạo bãi biển rất khó gìn giữ đƣợc khu dự trữ sinh quyển mà UNESCO đã công
nhận.
3.5 Hai quan điểm khi xây khu lấn biển:
Ủng hộ việc lấn biển:
Dựa trên những điều kiện tự nhiên sẵn có, đầu tƣ vốn và khoa học kỹ thuật đúng
mức, đúng lúc, đúng chỗ sẽ góp phần làm tăng thêm giá trị và sức hấp dẫn của du lịch
thành phố, “văn minh hóa” một vùng đất giàu tiềm năng, góp phần vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Theo quy mô các hạng mục công trình, việc đầu tƣ
kinh doanh chính của dự án là các công trình phục vụ du lịch nhƣ khách sạn, khu resort,
dịch vụ du lịch (nhà hàng, karaoke, khu công viên thủy cung... ) trong khu đô thị lấn biển.
Nhƣng, do tổng vốn đầu tƣ cho hệ thống công trình lấn biển quá lớn nên để dự án mang
tính khả thi, các nhà đầu tƣ đề nghị cho phép đƣợc kinh doanh quyền sử dụng đất để tăng
khả năng đầu tƣ. Cụ thể, việc lấn biển sẽ tạo đƣợc một quỹ đất giúp cho việc kinh doanh
bán nền đất khu lấn biển, từ đó tạo thêm nguồn vốn đầu tƣ vào việc xây lấp nền hạ tầng
lấn biển và hạ tầng cơ sở khu đô thị. Trong đó, ngoài các công trình đƣợc đầu tƣ kinh
doanh phục vụ du lịch thì dự kiến tổng diện tích nền đất xây nhà trên 100 héc ta, tức bằng
60% diện tích đất đƣợc quy hoạch làm khu đất ở. Các nhà đầu tƣ và cơ quan thực hiện dự
án lại cho rằng “dựa trên những điều kiện tự nhiên sẵn có, đầu tƣ vốn và khoa học kỹ
thuật đúng mức, đúng lúc, đúng chỗ sẽ góp phần làm tăng thêm giá trị và sức hấp dẫn của
du lịch thành phố, “văn minh hóa” một vùng đất giàu tiềm năng, góp phần vào sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc”.
Không ủng hộ việc lấn biển:
Điều đáng nói nhất là khi đánh giá tác động môi trƣờng của việc lấn biển, báo cáo
nghiên cứu tiền khả khi của dự án đã khẳng định “có thể thấy trƣớc rằng: việc thay đổi
mục đích sử dụng đất và khai thác công trình sẽ tác động mạnh trƣớc tiên đến môi trƣờng
xã hội và quá trình thi công cũng nhƣ bản thân công trình sẽ tác động đến môi trƣờng vật
lý”. Cụ thể, sự thay đổi địa hình bãi Cần Giờ làm vùng ngập triều mở rộng ra phía biển sẽ
làm vùng bãi triều bị thu hẹp và độ ngập trên bãi tăng lên, thời gian ngập kéo dài cũng
nhƣ thay đổi sự truyền sóng đến công trình và tốc độ dòng chảy - kéo theo sự bồi lắng
hoặc xói mòn bãi biển. Tiếp theo, việc xây dựng công trình sẽ làm cho dòng chảy, sóng
gió tăng lên và dự báo một số khu vực có tốc độ xói mòn tăng cao... PGS Lê Quang Toại,
Trƣờng ĐH Khoa học Tự nhiên, lo ngại rằng biển Cần Giờ là vùng luồng lạch, tàu ra vào
với lƣu lƣợng lớn, không tránh khỏi ô nhiễm dầu thải. Ngoài ra, việc cải tạo bãi biển rất
khó gìn giữ đƣợc khu dự trữ sinh quyển mà UNESCO đã công nhậ n. Bên cạnh đó, việc
cải tạo bờ biển Cần Giờ sẽ làm thay đổi tác động của sóng biển theo quy luật tự nhiên
hàng triệu năm nay. Một điều chắc chắn, sóng biển không tải vào vùng này sẽ chuyển
sang những vùng khác, lúc đó chƣa biết mức độ tác động của nó nhƣ thế nào. Để thực
hiện một dự án lớn nhƣ đề án này, cần có những khảo sát và nghiên cứu hết sức nghiêm
túc. Có thể bây giờ chƣa thấy gì, nhƣng 5, 10 năm sau sẽ thấy thiên nhiên nổi giận nhƣ
thế nào.

Quan điểm cá nhân:


Theo chúng tôi thì không ủng hộ xây dựng khu lấn biển. Đúng là khi xây dựng
khu lấn biển thì có lợi về mắt kinh tế( phát triển du lịch, các khu resort, khu đô thị…)
nhƣng cũng không thể không nói đến cái thiệt hại nó sẽ gây ra. Trƣớc mắt chúng ta thấy
có lợi nhƣng lợi chỉ 1 mà cái thiệt hại sau đó sẽ lớn gấp nhiều lần. Sau 5, 10 năm nữa thì
hậu quả để lại là gì thì chúng ta chƣa biết đƣợc. Nhƣng thiên nhiên rất khắc nghiệt, một
khi nó nổi giận thì chúng ta sẽ lãnh mọi hậu quả. Không phải con ngƣời chƣa lãnh hậu
quả của mình gây ra. Vì vậy có làm gì thì chúng ta phải tính toán kỹ trƣớc khi ảnh hƣởng
đến môi trƣờng xung quanh ma ta đang sống.

4. Xói lở của cliff ở Cần Giờ:


Định nghĩa Cliff:
Theo địa chất học cliff là một vách thẳng đứng hay hầu nhƣ thẳng đứng có thể là
một vách đá. Nó đƣợc hình thành từ sự xói lở của các dạng đất đá hay ảnh hƣởng của các
yếu tố thời tiết dẫn đến quá trình xói lở.

4.1 Nguyên nhân xói lở ở Cần Giờ:


Triều: do mực nƣớc triều thấp hơn so với cây nên khi triều lên quá trình động lực gây rối
mạnh tạo ra xoáy mạnh làm cuốn trôi hết đất đá đi theo mà chủ yếu là mấm và đƣớc.
Đồng thời do xoáy triều mạnh và nƣớc triều thấp làm sụp lở một phần đất ở dƣới chân,
phần trên đƣợc rễ giữ lại gây nên hiện tƣợng hàm ếch.

Hình 4.1: Hàm ếch

Sóng tàu: Tàu chạy nhiều làm xáo trộn nƣớc và góp phần làm tăng thêm cƣờng độ sóng
truyền vào bờ,tốc độ truyền nhanh hơn  bờ chịu áp lực lớn và xói lở nhanh hơn.
Có nhiều hang cua: có hang lớn (rộng: 50 cm; dài: 1,1 m) và nhiều hang nhỏ. Khi triều
lên nƣớc sẽ tràn và đi sâu vào các hang cua,nó làm mềm đất  dễ xói lở và sụp đổ xuống
(do có độ rỗng cao).
Hình 4.2: Đây là hình của một trong nhiều hang cua ở bãi bồi (Cần
Giờ)

Hình 4.3: Hang cua rộng và sâu

Sóng gió: góp phần làm tăng thêm cƣờng độ sóng vỗ vào bờ.
Tác động của con người đối với hang cua: do tác động của con ngƣời các hang cua
ngày càng rộng và sâu hơn.
Mưa: nƣớc mƣa chảy sẽ cuốn trôi theo những phần đất rời không có gì bám và góp phần
làm tăng mức độ xói .
Yế u tố địa chất: cấu trúc đất ở đây cũng là nguyên nhân dễ gây ra xói lở, sụp đổ.
………….

4.2 Hậu quả của việc xói, lở ở Cần Giờ:


Làm sạt lở đất, gây chết cây vì vậy diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp.
Thay đổi môi trƣờng sinh thái…
Tăng diện tích bãi triều và tăng khả năng xâm thực vào đất liền.
Hình 4.4: Bãi triều rất xa bờ

4.3Cách đo đạc và kết quả:


Cách đo và thời gian lấy mẫu:
Gồm có 7 vị trí;
Mỗi vị trí sẽ cấm 4 cây sắt (dài khoảng 50 cm) vào vách đứng nhƣng còn dƣ lại
khoảng 3 cm ra khỏi mặt đất sau khi đã đo độ cao của vách.
Tùy theo độ cao của vách mà chia khoảng cách các cây để cấm vào đất cho thích
hợp.
Sau 1 đến 2 ngày ta sẽ lấy mẫy và đo đạc lại.

Hình 4.5: Một vị trí đặt 4 cây sắt để đo tốc đô xói trong số 7 vị trí.

Mục đích:
Để xem tốc độ xói, lở của bờ.

Kết quả:
Số liệu đo đạc:
Cây sắt Vị trí 1 Vị trí 2 Vị trí 3 Vị trí 4 Vị trí 5 Vị trí 6 Vị trí 7
1 3 cm 3.3 cm 3.4 cm 3.3 cm 3 cm 3.5 cm 3 cm
2 3.7 cm 3.7 cm 4 cm 3.5 cm 3 cm 4 cm 3 cm
3 3 cm 4 cm 3.5 cm 3.5 cm 3 cm 3.5 cm 7 cm
4 3.3 cm 3.4 cm 3 cm 4 cm 3.5 cm 4 cm 3.5 cm

Biểu đồ đường so sánh mức độ xói lở cliff

8
7
Chiều dài (cm)

6
cây sắt 1
5
cây sắt 2
4
cây sắt 3
3
cây sắt 4
2
1
0
1 2 3 4 5 6 7
Vị trí

Biểu đồ dạng cột so sánh mức độ xói lở cliff

8
7
6
Chiều dài (cm)

cây sắt 1
5
cây sắt 2
4
cây sắt 3
3
cây sắt 4
2
1
0
1 2 3 4 5 6 7
Vị trí

Nhận xét:
Biểu đồ so sánh mức độ xói lở tại 7 vị trí đo đạc tại cliff.
Với các cây sắt 1, cây sắt 2, cây sắt 3 và cây sắt 4 đƣợc đánh dấu theo thứ tự từ trên
xuống.
Tại vị trí 7 có một bất thƣờng ở cây sắt thứ 3 (7 cm). Ta có thể giải thích hiện tƣợng bất
thƣờng này có thể là do tác động chủ yếu của con ngƣời.
Nhìn chung tại các vị tri khảo sát của bãi bồi đều có xu hƣớng bị xói lở.
Vị trí thứ 5 là vị trí bị xói ít nhất.
Đa phần các cây sắt thứ 4 thƣờng bị xói (vị trí thứ 1: 3.3 cm, vị trí thứ 2: 3.4 cm, vị trí thứ
4: 4 cm, vị trí thứ 5: 3.5 cm, vị trí thứ 6: 4 cm, vị trí thứ 7: 3.5 cm).
Phần lớn các cây sắt thứ nhất ít xói (vị trí thứ 1: 3cm).
Tóm lại: nơi chúng ta khảo sát và đo đạc là nơi có tốc độ xói lở cao, vì chỉ trong
thời gian ngắn 1 đến 2 ngày mà xói lở trung bình khoảng 0.77cm, có nơi xói tới 4 cm (vị
trí 7). Nguyên nhân xói chủ yếu ở đây là do ảnh hƣởng của sóng tàu và triều. Ngoài ra
còn có những nguyên nhân khác nhƣ: cấu trúc địa chất, mƣa, tác động của con ngƣời và
sinh vật…

VI. Kết luận chung:


Cùng với hoạt động kinh tế ven biển đó là các công trình ven biển có quy mô
ngày càng lớn, có nhiệm vụ bảo vệ chống sóng và có nhiều nhiệm vụ phức tạp khác
nhau nhƣ gây bồi tạo bãi, hƣớng dòng, chắn cát tạo luồng… Vì thế nó hỗ trợ tích cực
cho phát triển hoạt động kinh tế ven bờ và xa bờ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách tham khảo:


Các công trình ven bờ. NXB Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
Inte rnet:
http://www.vnexpress.net
http://www.vietbao.vn
http://www.vietnamnet.vn
http://www.nld.com.vn
http://www.nea.gov.vn
http://www.vitinhcu.com
http://www.horea.org.vn
http://www.diaoc.tuoitre.com.vn
http://www.quanlymt.blogspot.com
http://www.vi.wikipedia.org
http://www.khoahocphothong.com.vn
http://www.trenvanneoduong.vn
http://www.geotube.com
http://www.vimaru.edu.vn

You might also like