Professional Documents
Culture Documents
Giới thiệu
Các máy tính ban đầu không có hệ điều hành. Người điều hành sẽ tải và chạy
chương trình một cách thủ công. Khi chương trình được thiết kế để tải và
chạy chương trình khác, nó đã thay thế công việc của con người.
Thuật ngữ "hệ điều hành" được dùng gần đây chỉ tới một phần mềm cần thiết
để người dùng quản lý hệ thống và chạy các phần mềm ứng dụng khác trên
hệ thống. Nó không chỉ có nghĩa là "phần lõi" tương tác trực tiếp với phần
cứng mà còn cả các thư viện cần thiết để các chương trình quản lý và điều
chỉnh hệ thống.
Không có sự phân biệt rõ ràng giữa phần mềm ứng dụng và hệ điều hành.
Tuy nhiên, đôi khi vấn đề này cũng được tranh cãi. Thí dụ trường hợp Bộ Tư
pháp Mỹ và Microsoft tranh cãi Internet Explorer có phải là một phần của
Windows không.
Cấp thấp nhất của hệ điều hành là phần lõi (còn gọi là nhân), lớp phần mềm
đầu tiên được tải vào hệ thống khi khởi động. Các phần mềm được tải tiếp
theo phụ thuộc vào nó sẽ cung cấp các dịch vụ cốt lõi cho hệ thống. Những
dịch vụ phổ biến là truy xuất đĩa, quản lý bộ nhớ, định thời, và truy xuất tới
thiết bị phần cứng. Có nhiều tranh cãi về những thành phần nào tạo nên phần
lõi, như hệ thống tập tin có được đưa vào phần lõi không.
Hệ điều hành Nguyễn Thị Lan Hương
Hệ điều hành là gì
Hệ điều hành là một chương trình chạy trên máy tính, dùng để điều hành,
quản lý các thiết bị phần cứng và các tài nguyên phần mềm trên máy tính.
Hệ điều hành đóng vai trò trung gian trong việc giao tiếp giữa người sử dụng
và phần cứng máy tính, cung cấp một môi trường cho phép người sử dụng
phát triển và thực hiện các ứng dụng của họ một cách dễ dàng.
Tuy nhiên có nhiều người quan sát hệ điều hành dưới các góc độ khác nhau
vì thế tồn tại nhiều định nghĩa về hệ điều hành.
Đối với người sử dụng: HĐH là tập hợp các chương trình, phục vụ khai thác
hệ thống tính toán một cách dễ dàng, thuận tiện.
Người sử dụng khi thực hiện một chương trình nào đó trên MTDT thì chỉ quan
tâm đến việc hệ thống có đáp ứng được nhu cầu của họ hay không? Có
chương trình cần thực hiện, có đủ bộ nhớ để chạy hay không. Họ không quan
tâm đến việc hệ điều hành làm nhằm mục đích gì, có cấu trúc như thế nào.
Đối với người làm công tác quản lý: HĐH là một tập các chương trình phục vụ
quản lý chặt chẽ và sử dụng tối ưu các tài nguyên của hệ thống tính toán.
Đối với cán bộ kỹ thuật: HĐH là hệ thống các chương trình bao trùm lên một
máy tính vật lý cụ thể để tạo ra một máy logic với những tài nguyên mới và
khả năng mới.
Các định nghĩa trên phản ánh vị trí quan sát của người nêu. Họ đứng ở ngoài
hệ thống và thể hiện điều họ mong đợi và cũng là điều mà họ nhìn thấy.
Đối với cán bộ lập trình hệ thống: HĐH là hệ thống mô hình hóa, mô phỏng
các họat động của máy, của người sử dụng và thao tác viên họat động trong
các hệ thống đối thoại nhằm tạo môi trường để quản lý chặt chẽ các tài
nguyên và tổ chức khai thác chúng một cách thuận tiện và tối ưu.
Đối với cán bộ lập trình hệ thống, vị trí của họ là ở bên trong hệ điều hành. Họ
quan sát các module, các thành phần của hệ thống, quan sát mối quan hệ
giữa chúng.
Hệ điều hành Nguyễn Thị Lan Hương
Theo nguyên tắc, hệ điều hành cần thỏa mãn hai chức năng chính yếu sau:
Quản lý chia sẻ tài nguyên
Tài nguyên của hệ thống (CPU, bộ nhớ, thiết bị ngoại vi, ...) vốn rất giới hạn,
nhưng trong các hệ thống đa nhiệm, nhiều người sử dụng có thể đồng thời
yêu cầu nhiều tài nguyên. Để thỏa mãn yêu cầu sử dụng chỉ với tài nguyên
hữu hạn và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, hệ điều hành cần phải có
cơ chế và chiến lược thích hợp để quản lý việc phân phối tài nguyên.
Ngoài yêu cầu dùng chung tài nguyên để tiết kiệm chi phí, người sử dụng còn
cần phải chia sẻ thông tin (tài nguyên phần mềm) lẫn nhau, khi đó hệ điều
hành cần đảm bảo việc truy xuất đến các tài nguyên này là hợp lệ, không xảy
ra tranh chấp, mất đồng nhất...
7. Cung cấp sự bảo mật cho người dùng và dữ liệu (Providing Security
to user applications and data)
Hệ điều hành phải đảm bảo dữ liệu và ứng dụng được an toàn. Điều
này thông qua sự đăng nhập của người dùng cùng với mật mã, ấn định quyền
truy nhập tập tin, thuộc tính ẩn, chỉ đọc... cung cấp những thông báo cảnh cáo
và thông báo bảo mật tương ứng.
Chúng ta nên hiểu, sau đây là những loại hệ điều hành khác nhau nhưng
không nhất thiết một Hệ điều hành chỉ thừa hưởng duy nhất một tính chất của
một loại. Một hệ điều hành hiện đại có thể là một sự kết hợp của nhiều loại, ví
dụ Linux là một hệ điều hành hỗ trợ "đa chương trình", "Nhiều người sử
dụng", "sử dụng nhiều CPU" v.v...
Hệ điều hành hoạt động theo chế độ phân chia thời gian TSS,Đa
nhiệm(Time Shared System, Multitasking)
Nhiều chương trình được đưa vào bộ nhớ trong và được chia sẻ CPU. Hệ
điều hành phân phối CPU lần lượt cho từng chương trình trong một lượng tử
thời gian nhất định. Sau khoảng thời gian lượng tử đó, CPU sẽ được phân
phối cho chương trình tiếp theo, cứ như vậy cho đến khi tất cả các chương
trình kết thúc. Tuy nhiên sự chuyển tiếp giữa các chương trình diễn ra vô
cùng nhanh làm cho người dùng có cảm giác nhiều chương trình đang được
chạy cùng một lúc.
CPU được phân phối cho các chương trình theo thuật toán này gọi là thuật
toán Round Robin. Tuy nhiên ưu tiên (priority) có thể được gán cho một số
Hệ điều hành Nguyễn Thị Lan Hương
chương trình, điều này quyết định số lượng tử thời gian phân phối cho
chương trình nhiều hoặc ít tùy theo tầm quan trọng của nó.
Windows 95,98 trở về sau là những ví dụ của lọai hệ điều hành này.
Việc phân biệt giữa hệ điều hành nhiều người sử dụng và hệ điều hành một
người sử dụng hỗ trợ mạng là rất quan trọng. Window 2000 và Novell
Netware có thể hỗ trợ hàng trăm hoặc hàng nghìn người sử dụng mạng
nhưng hệ điều hành của chúng không thực sự là hệ điều hành nhiều người
sử dụng. Nhà quản trị hệ thống là người sử dụng duy nhất Window2000 hay
Netware. Hệ điều hành này phải hỗ trợ các ứng dụng trên mạng và cho phép
người sử dụng từ xa đăng nhập mạng và chúng được người quản trị mạng
cho phép sử dụng.
Với những kĩ thuật hiện đại, những dòng vi xử lý hiện đại liên tục được xuất ra
thị trường, từ đó có xuất hiện thêm một số dòng hệ điều hành mới nhằm tận
dụng triệt để những kĩ thuật mới này, vì vậy ở một góc độ nào đó ta có thể
phân chia hệ điều hành ra vài dòng 16bit, 32bit, 64bit (Windows Server 2003
64 bit, Windows XP 64 bit, Windows Vista 64 bit, một số hệ điều hành LINUX
cũng hộ trợ điện toán 64-bit …)
Ngoài ra ta còn có thể phân loại hệ điều hành dựa theo một số tiêu chí sau:
Dưới góc độ người dùng (truy xuất tài nguyên cùng lúc)
•Một người dùng
•Nhiều người dùng
•Mạng ngang hàng
Hệ điều hành Nguyễn Thị Lan Hương
Sau đây là một số hệ điều hành phổ biển trên thị trường:
•AmigaOS
•BeOS
•Debian
•FreeBSD
•Linux
•Mac OS và Mac OS X
•MS-DOS và Windows
•OS/2
•Palm OS
•Solaris
•Ubuntu
•UNIX
•Windows Mobile
Hệ điều hành Nguyễn Thị Lan Hương
Các hệ điều hành được sử dụng ngày nay trên các máy tính đa chức năng
(như máy tính cá nhân) chủ yếu gồm hai chủng loại: hệ điều hành họ Unix và
hệ điều hành họ Microsoft Windows. Các máy tính mẹ (Mainframe computer)
và các hệ thống nhúng dùng nhiều loại hệ điều hành khác nhau, không phải là
Unix hay Windows, nhưng cũng tương tự như Unix hay Windows.
MS-DOS
MS-DOS (Microsoft Disk Operating System) là hệ điều hành của hãng phần
mềm Microsoft. Đây là một hệ điều hành có giao diện dòng lệnh (command-
line interface) được thiết kế cho các máy tính họ PC (Personal Computer).
MS-DOS đã từng rất phổ biến trong suốt thập niên 1980, và đầu thập niên
1990, cho đến khi Windows 95 ra đời.
Phiên bản DOS đầu tiên ra đời vào tháng 8 năm 1981, với tên chính thức là
PC DOS 1.0. Tên gọi MS-DOS chỉ đựoc biết đến kể từ tháng 5 năm 1982
(MS-DOS 1.25). Sau đó, Microsoft lần lượt cho ra đời các phiên bản tiếp theo
của MS-DOS song song cùng với PC-DOS.
MS-DOS 5.0 ra đời vào tháng 6 năm 1991 bao gồm nhiều tính năng mới như
quản lý bộ nhớ (MEMMAKER.EXE), trình soạn thảo văn bản (MS-DOS
Editor), ngôn ngữ lập trình QBASIC đã trở nên phổ biển một thời trước khi
MS-DOS 6.22 ra đời vào tháng 6 năm 1994. MS-DOS 6.22 cũng là phiên bản
DOS cuối cùng được chạy như một hệ điều hành độc lập (standalone
version). Sau khi Windows 95 ra đời vào năm 1995, các phiên bản MS-DOS
tiếp theo đều được phát hành đi kèm với Windows, chẳng hạn như MS-DOS
7.0 (8/1995) là nền để cho Windows 95 khởi động, và MS-DOS 8.0 đi kèm với
Windows ME. Đây cũng là phiên bản cuối cùng của hệ điều hành này.
Hệ điều hành Nguyễn Thị Lan Hương
MS-DOS là hệ điều hành đơn nhiệm. Tại mỗi thời điểm chỉ thực hiện một thao
tác duy nhất. Nói một cách khác, MS-DOS chỉ cho phép chạy một ứng dụng
duy nhất tại mỗi thời điểm. Điều này khác hẳn với Windows, vốn là một hệ
điều hành đa nhiệm (multi-tasking) - người dùng có thể thi hành nhiều ứng
dụng cùng một lúc. Mặc dù vậy, về sau người ta đã thiết kế một số ứng dụng
chạy thường trú (TSR, Terminate and Stay Resident) cho MS-DOS. Các ứng
dụng này có thể chạy trên nền của các ứng dụng khác, khiến người sử dụng
có thể thực hiện nhiều thao tác cùng lúc. Ở Việt Nam, phần mềm chạy
thường trú trên MS-DOS rất phổ biến là một chương trình hỗ trợ gõ tiếng Việt,
VietRes.
Unix
Unix hay UNIX là một hệ điều hành máy tính viết vào những năm 1960 và
1970 do một số nhân viên của công ty AT&T Bell Labs bao gồm Ken
Thompson, Dennis Ritchie và Douglas McIlroy. Ngày nay hệ điều hành Unix
được phân ra thành nhiều nhánh khác nhau, nhánh của AT&T, nhánh của một
số nhà phân phối thương mại và nhánh của những tổ chức phi lợi nhuận.
Unix có thể chạy trên nhiều loại máy tính khác nhau, từ những máy tính cá
nhân cho đến các máy chủ dịch vụ. Nó là một hệ điều hành đa nhiệm (có thể
cùng lúc thực hiện nhiều nhiệm vụ) hỗ trợ một cách lý tưởng đối với các ứng
dụng nhiều người dùng. Unix được viết bằng ngôn ngữ lập trình C, một ngôn
ngữ rất mạnh và mềm dẻo. Unix hỗ trợ các ứng dụng mạng và hỗ trợ nhiều
môi trường lập trình khác nhau. Với hàng trăm lệnh và một số lượng rất lớn
các tùy chọn, Unix thực sự là một khó khăn đối với người mới bắt đầu. Với sự
phát triển của các shell Unix hệ điều hành này đã trở nên phổ dụng hơn trong
lĩnh vực điện toán.
Vì Bell Laboratories bị cấm không cho phép tiếp thị Unix vì lệnh chống độc
quyền đối với AT & T nên Unix đã được cung cấp miễn phí cho các trường đại
học trên toàn Bắc Mỹ từ năm 1976. Năm 1979 Đại học California tại Berkeley
đã xây dựng một phiên bản của Unix dùng cho các máy tính VAX. Sau khi đã
được ưa thích trong các lĩnh vực công nghệ, AT & T đã dành được quyền tiếp
thị đối với Unix và đã cho ra đời System V vào năm 1983. Cho đên nay Unix
vẫn được sử dụng rất rộng rãi trong thị trường dành cho máy chủ. Đã có
nhiều phiên bản phát triển khác nhau, trong đó có Linux.
Unix là một trong những hệ điều hành 64 bit đầu tiên. Hiện nay Unix được sử
dụng bởi nhiều công ty tập đoàn lớn trên thế giới vì mức độ bảo mật của nó
tương đối cao.
Hệ điều hành Nguyễn Thị Lan Hương
LINUX
Linux là tên gọi của một hệ điều hành máy tính và cũng là tên hạt nhân của
hệ điều hành. Nó có lẽ là một ví dụ nổi tiếng nhất của phần mềm tự do và của
việc phát triển mã nguồn mở.
Phiên bản Linux đầu tiên do Linus Torvalds viết vào năm 1991, lúc ông còn là
một sinh viên của Đại học Helsinki tại Phần Lan. Ông làm việc một cách hăng
say trong vòng 3 năm liên tục và cho ra đời phiên bản Linux 1.0 vào năm
1994. Bộ phận chủ yếu này được phát triển và tung ra trên thị trường dưới
bản quyền GNU General Public License. Do đó mà bất cứ ai cũng có thể tải
và xem mã nguồn của Linux.
Một cách chính xác, thuật ngữ "Linux" được sử dụng để chỉ Nhân Linux,
nhưng tên này được sử dụng một cách rộng rãi để miêu tả tổng thể một hệ
điều hành giống Unix (còn được biết đến dưới tên GNU/Linux) được tạo ra
bởi việc đóng gói nhân Linux cùng với các thư viện và công cụ GNU, cũng
như là các bản phân phối Linux. Thực tế thì đó là tập hợp một số lượng lớn
các phần mềm như máy chủ web, các ngôn ngữ lập trình, các hệ quản trị cơ
sở dữ liệu, các môi trường làm việc desktop như GNOME và KDE, và các
ứng thích hợp cho công việc văn phòng như OpenOffice.
Khởi đầu, Linux được phát triển cho dòng vi xử lý 386, hiện tại hệ điều hành
này hỗ trợ một số lượng lớn các kiến trúc vi xử lý, và được sử dụng trong
Hệ điều hành Nguyễn Thị Lan Hương
nhiều ứng dụng khác nhau từ máy tính cá nhân cho tới các siêu máy tính và
các thiết bị nhúng như là các máy điện thoại di động.
Ban đầu, Linux được phát triển và sử dụng bởi những người say mê. Tuy
nhiên, hiện nay Linux đã có được sự hỗ trợ bởi các công ty lớn như IBM và
Hewlett-Packard, đồng thời nó cũng bắt kịp được các phiên bản Unix độc
quyền và thậm chí là một thách thức đối với sự thống trị của Microsoft
Windows trong một số lĩnh vực. Sở dĩ Linux đạt được những thành công một
cách nhanh chóng là nhờ vào các đặc tính nổi bật so với các hệ thống khác:
chi phí phần cứng thấp, tốc độ cao (khi so sánh với các phiên bản Unix độc
quyền) và khả năng bảo mật tốt, độ tin cậy cao (khi so sánh với Windows)
cũng như là các đặc điểm về giá thành rẻ, không bị phụ thuộc vào nhà cung
cấp. Một đặc tính nổi trội của nó là được phát triển bởi một mô hình phát triển
phần mềm nguồn mở hiệu quả.
Tuy nhiên, hiện tại số lượng phần cứng được hỗ trợ bởi Linux vẫn còn rất
khiêm tốn so với Windows vì các trình điều khiển thiết bị tương thích với
Windows nhiều hơn là Linux. Nhưng trong tương lai số lượng phần cứng
được hỗ trợ cho Linux sẽ tăng lên.
Microsoft Windows là tên của các dòng phần mềm hệ điều hành độc quyền
của hãng MicroSoft. Lần đầu tiên Microsoft giới thiệu một môi trường điều
hành mang tên Windows (cửa sổ) là vào tháng 11 năm 1985 với những tín
năng thêm vào MS-DOS giao diện hình tượng (Graphical User Interfaces,
GUI) - đang được sự quan tâm cao vào thời điểm này đồng thời để cạnh
tranh với hãng Apple Computers.
•Windows khởi đầu được phát triển cho những máy tính tương thích với
IBM (dựa vào kiến trúc x86 của Intel), và ngày nay hầu hết mọi phiên bản
của Windows đều được tạo ra cho kiến trúc này (tuy nhiên Windows NT đã
được viết như là một hệ thống xuyên cấu trúc cho bộ xử lý Intel và MIPS,
và sau này đã xuất hiện trên các cấu trúc PowerPC và DEC Alpha. Sự phổ
biến của Windows đã khiến bộ xử lý của Intel trở nên phổ biến hơn và
ngược lại. Thật vậy, thuật ngữ Wintel đã được sử dụng để miêu tả những
máy tính cá nhân đang chạy một phiên bản của Windows.
•Từ đó đến nay Microsofts Windows dần dần chiếm ưu thế trong thị trường
máy tính cá nhân trên tòan thế giới với số lượng được cài đặt khoảng 90%
vào năm 2004. Windows là phần mềm nguồn đóng có bản quyền do công
ty Microsoft giữ và kiểm soát việc phân phối. Vì lý do này, Microsoft đang
có một vị trí độc quyền trong lĩnh vực máy tính cá nhân. Tất cả các phiên
bản hệ điều hành gần đây của Windows đều dựa trên sự phát triển từ
phiên bản đầu tiên.
Hệ điều hành Nguyễn Thị Lan Hương
Phiên bản
Các phiên bản của Windows là tên gọi chung cho các thế hệ của sản phẩm
phần mềm Windows và có thể được chia thành các thể loại sau:
•Môi trường làm việc 16 bit. Dùng trong những máy vi tính cá nhân
(personal computer).
•Các phiên bản đầu tiên của Windows chỉ là giao diện đồ họa hay
desktop, phần lớn vì chúng dùng hệ điều hành MS-DOS ở lớp dưới
cho các dịch vụ hệ thống tập tin và các tiến trình hệ thống.
•Sau đó, các phiên bản Windows 16 bit đã có dạng tập tin có thể
chạy được và tự cung cấp chương trình điều khiển thiết bị (device
driver) (cho bo mạch đồ họa, máy in, chuột, bàn phím và âm thanh).
•Khác với DOS, môi trường của Windows cho phép mọi người dùng
thi hành nhiều chương trình đồ họa cùng một lúc. Hơn nữa, chúng
đã thực thi một phối hợp bộ nhớ ảo theo đoạn (segment) trong phần
mềm cho phép GUI thi hành các chương trình lớn hơn bộ nhớ: các
đoạn mã nguồn và nguồn lực được đem vào và bị loại bỏ khi không
còn giá trị nữa hay khi số lượng còn lại trong bộ nhớ bị thấp và các
đoạn dữ liệu được đưa vào bộ nhớ khi một chương trình nào đó trả
quyền điều khiển cho bộ xử lý. Các hệ điều hành này gồm có
Windows 1.0, (1985), Windows 2.0 (1987) và Windows/286 (gần
giống Windows 2.0).
•Môi trường làm việc 16/32 bit. Dùng trong các máy vi tính hệ Intel
Pentium 386 - 486 - 586.
•Windows/386 ra mắt hạt nhân hoạt động trong chế độ bảo vệ và
một trình theo dõi máy ảo. Trong một phiên làm việc của Windows,
nó cung cấp các it provided a device virtualization cho bộ điều khiển
đĩa, bo mạch đồ họa, bàn phím, chuột, bộ định thời và bộ điều khiển
ngắt. Kết quả rõ nhất mà người sử dụng nhìn thấy là họ có thể làm
việc tạm thời với nhiều môi trường MS-DOS trong các cửa sổ riêng
(các ứng dụng đồ họa yêu cầu cửa sổ phải được chuyển về chế độ
toàn màn hình).
•Các ứng dụng của Windows vẫn thuộc loại "đa nhiệm cộng tác"
trong môi trường chế độ thực. Windows 3.0 (1990) và Windows 3.1
(1992) đã hoàn thiện thiết kế này, đặc biệt là tính năng bộ nhớ ảo và
trình điều khiển thiết bị ảo (VxDs) cho phép họ chia sẻ các thiết bị
dùng chung (như đĩa cứng, đĩa mềm...) giữa các cửa sổ DOS.
Hệ điều hành Nguyễn Thị Lan Hương
•Quan trọng nhất là các ứng dụng Windows có thể chạy trong chế
độ bảo vệ 16-bit (16-bit protected mode) (trong khi Windows đang
chạy trong chế độ chuẩn hay chế độ 386 nâng cao), cho phép người
sử dụng truy cập đến một vài megabyte bộ nhớ mà không phải tham
gia vào quá trình quản lý bộ nhớ ảo. Các chương trình này vẫn chạy
trong cùng một không gian địa chỉ, trong đó bộ nhớ đã được phân
đoạn để chia thành các mức bảo vệ riêng, và vẫn hoạt động "đa
nhiệm cộng tác".
•Trong phiên bản Windows 3.0, Microsoft đã chuyển các tác vụ quan
trọng từ C sang assembly, làm cho phiên bản này chạy nhanh hơn
và ít tốn bộ nhớ hơn các phiên bản trước đó.
•Hệ điều hành 16/32 bit. Bằng việc công bố khả năng truy cập file 32-bit
trong Windows for Workgroups 3.11, Windows cuối cùng đã chấm dứt phụ
thuộc vào DOS trong việc quản lý hồ sơ (file). Ngoài ra, Windows 95 cũng
đưa ra hệ thống "Tên file dài", do vậy hệ thống tên file 8.3 của DOS chỉ
còn vai trò trong đoạn mã khởi động nạp hệ điều hành.
•Đặc điểm mang tính cách mạng nhất trong phiên bản này là khả
năng chạy các chương trình giao diện đồ họa 32-bit đồng thời, trong
khi các chương trình này lại chia thành các phân tuyến (thread) chạy
song song với nhau.
•Microsoft đã đưa ra 3 phiên bản của Windows 95 (phiên bản đầu
tiên năm 1995, các phiên bản sửa lỗi được đưa ra năm 1996 và
1997 chỉ được bán cho nhà sản xuất máy tính, được bổ sung thêm
một vài tính năng mới như hỗ trợ FAT32).
•Hệ điều hành tiếp theo của Microsoft là Windows 98; có 2 phiên
bản (bản đầu tiên năm 1998, và bản thứ hai là "Windows 98 Second
Edition", năm 1999). Trong năm 2000, Microsoft đưa ra Windows
Me, với mục tiêu cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa Windows 98 SE
và Windows NT, bao gồm một vài tính năng mới như System
Restore, cho phép người sử dụng đưa máy tính của mình trở lại
trạng thái trước đó. Dù vậy, đó vẫn không phải là một tính năng
được chấp nhận rộng rãi vì đã có nhiều người sử dụng gặp phải vấn
đề. ME được coi là sự thay thế tạm thời trong việc hợp nhất hai
dòng sản phẩm này. Microsoft đã đợi một khoảng thời gian ngắn để
Windows Millennium trở nên phổ biến trước khi công bố phiên bản
Windows tiếp theo - Windows XP.
•Hệ điều hành 32 bit ban đầu được thiết kế và quảng bá là các hệ thống
Hệ điều hành Nguyễn Thị Lan Hương
Mac OS (viết tắt của Macintosh Operating System) là hệ điều hành có giao
diện cửa sổ và được phát triển bởi công ty Apple Computer cho các máy tính
Apple Macintosh. Phiên bản đầu tiên ra đời năm 1984.
Những version đầu tiên của Mac OS chỉ tương thích với những dòng máy
Motorola 68000 của Macintosh, những version sau này dần tương thích với
kiểu kiến trúc PowerPC (PPC). Gần đây nhất Mac OS X đã tương thích với
kiến trúc máy intel x86
Mac OS có thể được chia ra làm hai họ hệ điều hành:
Mac OS cổ điển (Classic Mac OS) (1984-2001 đến Mac OS 9) và Mac OS X
Phiên bản
•Mac OS 6
•Mac OS 7
•Mac OS 8
•Mac OS 9
•Mac OS X
Classic Mac OS
Đặc điểm của Mac OS classic là loại bỏ hoàn toàn dao diện dòng lệnh
(command line), đó là một HĐH đồ họa hoàn toàn. với đặc điểm rất dễ dùng.
Đồng thời nó cũng còn hạn chế ở tính đa nhiệm của hệ điều hành, và rất hạn
chế ở hệ thống quản lý bộ nhớ, không có hệ thống bảo vệ bộ nhớ, đồng thời
rất dễ xung đột giữa các HĐH khác khi cung cấp các chức năng như mạng
(networking), nó cũng chỉ hỗ trợ một số thiết bị nhất định.
Tóm lại việc giải quyết những vấn đề xung đột, tìm lỗi trong Classic Mac OS là
Hệ điều hành Nguyễn Thị Lan Hương
Mac OS X
Mac OS X (Phiên âm quốc tế: /mæk.oʊ.ɛs.tɛn/) là một dòng hệ điều hành đồ
hoạ, độc quyền, được phát triển và phân phối bởi công ty Apple, bản mới nhất
được cài đặt sẵn trên các máy tính Macintosh. Mac OS X là thế hệ kế tiếp của
Mac OS, hệ điều hành ban đầu của Apple từ năm 1984. Không như Mac OS,
Mac OS X là một hệ điều hành kiểu Unix được xây dựng trên công nghệ
được phát triển tại NeXT trong nửa đầu những năm 1980 và cho đến khi
Apple mua công ty này vào đầu năm 1997.
Mac OS X mang hệ thống quản lý bộ nhớ theo kiểu Unix và hỗ trợ đầy đủ tính
đa nhiệm. Nó dựa trên sự bổ sung của nhân Mach và BSD của UNIX, và hợp
nhất thành NeXTSTEP, hệ thống lập trình hướng đối tượng được phát triển
bởi NeXT.
Hệ thống quản lý bộ nhớ mới của Mac OS X mang lại khả năng chạy nhiều
chương trình cùng một lúc và chính thức loại bỏ khả năng một chương trình
sẽ làm ảnh hưởng một chương trình khác.
Đây cũng là một thế hệ điều hành thứ hai của Macintosh mà dao diện dòng
lệnh đã được hỗ trợ khi người dùng kích hoạt "terminal emulator".
Tuy nhiên, bởi vì những tính năng mới đòi hỏi những tài nguyên hệ thống cao
hơn, vì vậy Mac OS X chỉ hỗ trợ nhũng thế hệ vi xử lý mới.
streaming đã được phát huy trong vài chuẩn MPEG 4 liên quan đến
định dạng của những đĩa giải trí DVD.
• TrueType: TrueType là một công nghệ rất thành công trong việc định
dạng font chữ, và cũng được sử dụng trong Microsoft Windows, và sau
này đã được tích hợp vào chuẩn font chữ OpenType.
Mục lục
• Giới thiệu
• Hệ điều hành là gì
o MS-DOS
o Unix
o LINUX