You are on page 1of 13

Cô hồn – linh hồn mồ côi

Tháng Bảy âm lịch, người bên lương thường cúng cô hồn.


Giáo dân hay xin lễ cho các linh hồn mồ côi. Vậy hai khái niệm
cô hồn và linh hồn mô côi có liên quan gì với nhau không?
1. Khái niệm cô hồn.
1..1. Nghĩa của chữ cô và hồn.
1.1.1. Cô, có nhiều chữ Hán 孤, 姑, 沽, 泒, 鴣 (鸪), 箍,
罛, 蛄, 觙, 辜, 酤, 菇, 咕, 菰, 苽, 觚, 軲. Trong từ cô hồn
là chữ 孤, nghĩa là: (dt.) (1) Cha chết sớm, hay không có cha.
(2) (cũ) Quan cô (tên chức quan, nằm khoảng giữa chức tam
công và lục khanh, gồm thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo); (3) Xưa
người diễn vai quan lại trong vỡ kịch. (4) Họ Cô. (đdt.) (5) vua
chúa tự xưng: Xưng cô đạo quả. (đt.) (6) Phụ bạc: Cô ân (phụ
ơn). (tt.) (8) Đơn độc: Cô sơn (núi trọi), cô thụ (cây trọi). (Pht.)
(9) Lẻ loi: Cô lập vô trợ (trơ trọi một mình không ai giúp). (10)
Học thức dốt nát hẹp hòi: Cô lậu, (11) Tính tình ngang bướng:
Cô tịch (không thể hoà hợp với ai cả). (12) Một mình: Nhất ý cô
hành (làm theo ý riêng).
1.1.2. Hồn, có những chữ Hán sau: 魂, 渾 (浑), 餛
(馄), 琿 (珲), trong từ cô hồn là chữ 魂, nghĩa là (dt.) (1)
Phần thiêng liêng của con người: Linh hồn. (2) Tinh thần của sự
vật: Quốc hồn (Phần thiêng liêng của quốc gia). (3) Tình cảm
của con người khi quá xúc động: Tiêu hồn (mất hồn)..
1.1.3. Nghĩa thuật từ cô hồn (孤魂): Hồn người chết lẻ
loi, không ai cúng vái.
1.2. Quan niệm về cô hồn.
1.2.1. Theo Phật Giáo: Ngày Rằm tháng Bảy (Â m lịch)
được gọi là ngày “Báo hiếu cha mẹ” tức lễ Vu Lan và cũng là
ngày “Xá tội vong nhân” tức lễ cúng cô hồn. Trong dân gian,
nhiều người vẫn nghĩ hai lễ này chỉ là một, nhưng thực ra đây là
hai lễ khác nhau được cử hành trong cùng một ngày.
Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của ông
Mục Liên: Phật Tổ dạy ông Mục Liên vào giữa tháng Bảy bày
trăm món ngũ quả thiết đãi chư tăng thập phương để chung sức
cứu mẹ ra khỏi địa ngục đau khổ.
Còn tục cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông
A Nan Ð à, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa
(diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Theo “Phật
Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh”: Một
đêm kia, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ
quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào.
Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào
cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ
quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói:
“Ngày mai ông phải thí cho bọn chúng tôi mỗi đứa một hộc
thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường tam bảo thì ông sẽ được tăng
thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên”. A Nan đem
chuyện thưa với Ð ức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi là “Cứu
Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni”, đem tụng trong lễ cúng để
được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng
Diệm Khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ
đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành
cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không
nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng
bái.
1.2.2. Theo Đạo Giáo: Rằm tháng Bảy gọi là Tết Trung
Nguyên. Tết Trung Nguyên bắt đầu từ thời Bắc Nguỵ (năm
386-534), còn gọi là Tết Quỷ. Đạo Giáo có Tam Quan, tức là
Thiên Quan, Địa Quan và Thuỷ Quan, ngày sinh của Tam Quan
là Rằm tháng Giêng, Rằm tháng Bảy và Rằm tháng Mười, ba
ngày này gọi là tam nguyên. Rằm tháng Bảy là Trung Nguyên,
Địa Quan đến xá tội các giới. Theo truyền thuyết, ngày Rằm
tháng Bảy cửa Địa Ngục mở ra, quỷ hồn đều được thả ra. Hồn
có chủ thì về nhà, cô hồn thì đi khắp nơi tìm thức ăn, nên trong
tháng Bảy người ta cúng cô hồn, để họ không làm hại người ta.
1.2.3. Theo tập tục: Việc cúng cô hồn đã có từ đời nhà
Đường bên Trung Quốc khi ngài Huyền Trang trở về sau
chuyến Tây Du, lập đàn cúng tế cầu siêu cho tứ sanh1 đang luân
hồi trong lục đạo. Đến đời nhà Tống (960 - 1279), Nho Giáo,
Phật Giáo và Lão Giáo liên kết với nhau. Ngày Xá Tội vong
nhân của Phật Giáo, Tết Trung Nguyên của Đạo Giáo và việc
thờ kính tổ tiên của Nho Giáo đã kết hợp hoạt động, hình thành
tập tục cúng cô hồn tại vùng Đông Á.
Như nhiều dân tộc Đông Á, người Việt Nam cũng cho
rằng những người chết vì chiến tranh, đánh nhau, bệnh dịch, tàn
sát, chết oan, tội lỗi, thiên tai, tai nạn xe cộ..., những người chết
như vậy thì “đại miếu bất thu, tiểu miếu bất lưu” (Miếu lớn
không nhận, miếu nhỏ không cho ở), hồn không được cúng
dưỡng, phải đoạ đày trong địa ngục hay phải lang thang khắp

1
Tứ sanh là bốn cách sanh ra. Các loài động vật được chia thành 4 nhóm theo cách
thức sanh ra: thai sanh, noãn sanh, thấp sanh và hóa sanh.
nơi, có khi phá phách, làm hại người sống. Những linh hồn đó
được gọi là cô hồn, tức là hồn người chết lẻ loi, không ai cúng
vái. Để cõi âm và cõi dương đều được bình an, từ xa xưa người
Việt cũng đã có tập tục cúng cô hồn vào tháng Bảy âm lịch, để
họ sớm được thoát khỏi Địa Ngục, mà nhân gian cũng không bị
cô hồn phá rối.
1.3. Nhận xét.
Như vậy, cúng cô hồn là một tập tục thể hiện lòng trắc ẩn,
“nhân đạo”: nhằm cứu giúp những linh hồn khốn khổ, nhưng
đồng thời cũng có thể là một hình thức “hối lộ”: để khỏi bị các
oan hồn quấy phá, hoặc “vụ lợi”: để được họ “giúp đỡ”.
Trong khái niệm cô hồn còn bao gồm một khái niệm khác
là oan hồn. Oan hồn là gì? - Oan hồn là hồn người chết oan.
Nhưng thế nào là chết oan? - Những người bị ám sát, bị bức tử,
bị giết khi chưa kịp sinh ra (thai nhi), chết “bất đắc kỳ tử”...
được coi là chết oan ức (theo nghĩa chữ: oan là trái lẽ công
bằng). Do quan niệm ở đời có “sinh, lão, bệnh, tử”. Có sinh thì
ắt có tử, chết vì già hay do bệnh tật thì là lẽ thông thường, còn
những người chết không theo ‘lẽ thông thường’ này thì người ta
gọi là chết oan, và oan hồn thường không thể “siêu thoát” hay
“đầu thai” được vì nuối tiếc cuộc sống dang dở của mình. Vì thế,
việc cúng cô hồn cũng bao gồm việc cúng tế các oan hồn.
2. Khái niệm linh hồn mồ côi.
2.1. Nghĩa chữ mồ và côi:
2.1.1. Mồ, là tiếng Nôm, vì cách viết chữ chưa thống nhất2,
trong từ mồ côi, mồ có thể viết ba cách: (1) 戊 (Hán Việt đọc là

2
Cách viết của chữ Nôm chưa thống nhất, nhưng theo ông Vũ Văn Kính, tác giả
Tự Điển Chữ Nôm tái bản năm 1992, có lời giới thiệu của ông Hồng Dân, Chủ
mậu, chỉ can thứ năm trong thập can) cách viết này được dùng
nhiều hơn; (2) 慕 3 (Hán Việt đọc là mộ, nghĩa là: nghĩ tới,
nhớ tới; yêu mến, ham thích); và (3) 炐 (cũng đọc là phừng,
gồm bộ hỏa (火) ghép với chữ phong (丰): nhiều, đầy đủ). Mồ
nghĩa là mất cha, hoặc mẹ, hoặc cả hai.
2.1.2. Côi, cũng là tiếng Nôm, có bốn cách viết: (1) 孤,
(Hán Việt đọc là cô, nghĩa là: một mình, trơ trọi, lẻ loi, cô đơn,
không có cha hay cha chết4); (2) (kết hợp bởi hai chữ cô (孤)
và ngôi (嵬) nghĩa là: cao ngất); (3) (kết hợp bởi hai chữ thị
(示) nghĩa là: bảo cho biết, cho hay, biểu hiện, tỏ rõ; và quỷ (鬼)
nghĩa là: tinh ma, xảo trá, đáng ghét; người chết cũng gọi là
quỷ); (4) (kết hợp bởi hai chữ cô (孤) và khôi (魁) nghĩa là:
to lớn, cao lớn; người đứng đầu, kẻ đầu sỏ).
Côi nghĩa là mất cha mẹ: Mẹ goá con côi.
2.1.3. Nghĩa thuật từ mồ côi: (1) Người không còn cha
hay mẹ, hay không còn cả cha lẫn mẹ. Khi mất cha gọi là mồ
côi cha, mất mẹ gọi là mồ côi mẹ: “Mồ côi cha, ăn cơm với cá,
Mồ côi mẹ, lót lá mà nằm” (Ca dao). (2) Côi cút, đơn độc, thiếu
sự hỗ trợ (về tinh thần hay vật chất) của những người khác trong
một hoàn cảnh nào đó: “Đàn ông đi biển có đôi, Đàn bà đi biển
mồ côi một mình” (Nói về sự khó nhọc mà người đàn bà phải
chịu trong khi sinh nở).
2.2. Nghĩa của thuật ngữ "linh hồn mồ côi":

Tịch Hội Ngôn Ngữ Học Tp. HCM, thì cách cấu tạo chữ Nôm được xếp thành 7
loại chính: 1. Chữ Hán, 2. Đọc nghĩa, 3. Hài thanh, 4. Hài thanh Nôm, 5. Hội ý, 6.
Giả tá, 7. Giả tá Nôm.
3
Hai chữ 戊 và 慕 đều theo cách giả tá, tức là mượn chữ Hán.
4
Trong tiếng Hán Việt, cha chết thì xưng là cô tử; mẹ chết thì xưng là ai tử; người
mà cả cha và mẹ cùng qua đời thì gọi là cô ai tử.
Theo tôi hiểu, “linh hồn mồ côi” là cụm từ được Giáo Hội
Công Giáo dùng như một thuật từ để gọi chung linh hồn của
những người đang ở trong Luyện Ngục mà khi còn sống trên
đời đã phải đơn độc trong cuộc lữ hành đức tin, hoặc trong hiện
tại không mấy ai nhớ cầu nguyện cách riêng cho họ nữa. Nói
vắn tắt là: những linh hồn đang thiếu sự giúp đỡ của những
người thân thuộc đang sống.
2.3. Quan niệm về linh hồn mồ côi:
2.3.1. Trong bài Lễ Các Đẳng5, tôi đã có phân tích ý nghĩa
của thuật từ này: Khi nói “linh hồn mồ côi”, chúng ta nghĩ tới
linh hồn của hạng người phải đơn độc trong cuộc lữ hành đức
tin khi còn ở trên đời. “Đơn độc”, “cô quả”, “mồ côi”.... hiểu
theo nghĩa đời thường là không có người thân thích, bạn bè,
không có ai đồng hành để được quan tâm, nâng đỡ đời sống đức
tin. Họ có thể là những tín hữu cô nhi, quả phụ hay kẻ cơ bần
sống đơn chiếc. Họ cũng có thể là những tín hữu giàu sang, con
đàn cháu đống, bạn hữu tứ phương mà thực ra những người
quen biết xung quanh họ không ai có niềm tin Công Giáo như
họ, để xin lễ hay cầu nguyện cho họ. Họ cũng có thể là những
tín hữu như bao tín hữu khác, khi qua đời cũng có thân nhân,
bạn hữu cầu nguyện cho họ... nhưng hiện tại những người đó
cũng đã qua đời và không còn mấy ai nhớ đến họ nữa, vì họ
chết đã quá lâu. Và nay, những linh hồn đó đang ở trong Luyện
Ngục, đang cần đến lời cầu nguyện từ Giáo Hội chiến đấu6. Hay

5
Xem Bài Giảng Chúa Nhật, số 11, năm 2010.
6
Công đồng Florence (1431) đã định tín: Có luyện ngục để thanh luyện các linh
hồn. Các linh hồn ra khỏi trần gian không còn có thể làm được việc gì lành để cứu
mình nên chỉ trông cậy vào những người còn sống lập công cầu nguyện cho mình
để rút ngắn thời gian thanh luyện. Vì thế mà Giáo Hội kêu gọi tín hữu cầu nguyện
nói cách khác, người ta hiểu theo kiểu quan hệ của con người
trong đời sống trần thế là cô thân cô thế. Vì thế “linh hồn mồ
côi” không phải là linh hồn bị Giáo Hội bỏ rơi hay lãng quên,
lại càng không phải là linh hồn không được Chúa đoái trông
chăm sóc, ít được Chúa yêu thương hay bị Ngài lãng quên...
Suy nghĩ như vậy là hoàn toàn sai lầm.
2.3.2. Có những vị phủ nhận khái niệm linh hồn mồ côi
trong đức tin Công Giáo, họ cho rằng: “Nói linh hồn “mồ côi”
là nói theo suy nghĩ của con người mà thôi; và điều này không
đúng với giáo lý và thực hành trong phụng vụ thánh của Giáo
Hội, vì Giáo Hội không hề phân biệt linh hồn nào là mồ côi,
linh hồn nào có thân nhân còn sống như người ta quen nghĩ mà
chỉ cầu chung cho tất cả các tín hữu đã ly trần ngay cả trong
những thánh lễ có người xin cầu riêng cho những linh hồn thân
nhân của họ đã qua đời. Như vậy, không có vấn đề “linh hồn
mồ côi” trong niềm tin và thực hành của Giáo Hội.”7Hoặc: “Là
linh hồn mồ côi khi không có ai cầu nguyện cho, bây giờ hàng
ngày có người cầu nguyện cho thì hẳn là hết tình trạng mồ côi.
Chúng ta chấp thuận lối lý luận sơ đẳng này chứ?...Giáo Hội
không bao giờ quên cầu cho các linh hồn. Không những cầu
cho các linh hồn Kitô hữu mà còn nhớ đến các linh hồn chưa
biết Chúa, chưa tin Chúa đã sống lại. Cầu cho cả những ai
không cùng niềm tin Kitô giáo... Với tâm tình đó Giáo Hội
không có linh hồn mồ côi”8.

cho các linh hồn nơi luyện tội.


7
Xem bài của Lm. PX. Ngô Tôn Huấn: CÓ LINH HỒN NÀO “MỒ CÔI” VÀ
“KHỐN NẠN” KHÔNG?
(http://liengiaositusi.com/MucVu/LMNTH/004LMNTH-LHMoCoi.html )
8
Xem bài của Lm. Giuse Vũ Đình Tường: HÃ Y CẦU CHO CÁC ĐẢNG LINH
Chúng tôi đồng ý: “Nói linh hồn mồ côi là nói theo suy
nghĩ của con người” nhưng không có gì “không đúng với giáo
lý và thực hành trong phụng vụ thánh của Giáo Hội”. Trong
phụng vụ, thánh lễ hay kinh nhật tụng, Giáo Hội không cầu
nguyện cách riêng cho các linh hồn mồ côi KHÔ NG CÓ
NGHĨA LÀ KHÔNG CÓ CÁC LINH HỒN NÀ Y.
2.3.3. Tại sao chúng ta phải nhớ cầu nguyện cho ông bà,
cha mẹ, thân nhân, hay cho những người nào đó cách riêng? Hội
Thánh đã chẳng chính thức công nhận và khuyến khích việc cầu
nguyện cho những linh hồn riêng rẻ đó sao (nhất là qua việc xin
lễ)? Vậy thì, việc cầu nguyện ấy phải tăng thêm lợi ích cho các
linh hồn riêng rẻ. Từ đó, suy ra: Những linh hồn không có thân
nhân, không được ai nhớ đến trong luyện hình phải là những
linh hồn ‘thua thiệt’, kém may mắn hơn. Vì thế, đức ái đòi buộc
chúng ta phải chiếu cố đến họ - cũng tương tự như đối với
những người cô thân, cô thế trong xã hội mà ta đang sống vậy.
Nếu các linh hồn ấy không được ‘xếp loại’ để được chiếu cố thì
cũng chẳng cần xin lễ cầu nguyện cho ai cả - “Giáo Hội đã
chẳng cầu nguyện CHUNG trong Kinh Nguyện Thánh Thể rồi
sao ?” (!). Điều nầy vẫn không ra ngoài tín điều “Các thánh
thông công”.
2.3.4. Nếu hiểu linh hồn mồ côi theo nghĩa hẹp là “vong
linh mất cha hoặc mất mẹ hoặc mất cả cha lẫn mẹ” thì thuật từ
này không có ý nghĩa gì hết. Vì “linh hồn nào không có Chúa là
Cha và Mẹ Maria là mẹ” hoặc người đã ở bên kia thế giới (vong

HỒN
(http://www.giaoxukimphat.com/tailieu/cacdang/957-HAY-CAU-CHO-CAC-DAN
G-LINH-HON)
linh) thì thế nào gọi là mất cha hay mẹ? Vậy phải hiểu theo
nghĩa rộng, tức là “vong linh thiếu lời cầu nguyện của người
thân”, “thiếu” chứ không phải là “không có”, “thiếu” theo nghĩa
là “chưa đủ mức”, như thánh Phaolô đã nói: “Những gian nan
thử thách Ð ức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho
đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1, 24).
Cha Mark (CMC), hiểu linh hồn mồ côi theo nghĩa đó, đã
viết: “Việc cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi vì là một điều
rất nên có, một truyền thống tốt đẹp của giáo dân Việt Nam rất
đáng trân trọng, khuyến khích, vừa theo văn hóa, vừa theo tình
thương, vừa theo luật tự nhiên ‘Nay ta thương người, mai Chúa
soi cho người khác thương ta’”. Và ngài còn nhắc lại ý tưởng
của cha Gioan Trần Bình Trọng: “Các linh mục sau khi qua đời
cũng rất dễ trở thành những linh hồn mồ côi. Linh mục là người
tế lễ hằng ngày để thờ phượng Chúa và xin ơn tha tội cho người
tội lỗi. Tuy nhiên thường không mấy ai nghĩ rằng linh mục cũng
cần lời cầu nguyện vì người ta cho rằng linh mục phải thánh
thiện hơn giáo dân. Rồi khi một linh mục nằm xuống vĩnh viễn
thì thường ông bà cố thân sinh cũng như các anh chị đã ra đi
trước, không còn mấy ai để nhắc nhở cho các cháu chắt cầu
nguyện cho nữa. Như vậy phải chăng linh mục khi chết rồi, có
thể trở thành những linh hồn mồ côi chăng?”9.
Anh A muốn xin lễ cho cha mình là một tử sĩ, đồng thời
anh cũng muốn nhân dịp đó cầu nguyện chung cho các linh hồn
“chiến sĩ trận vong”, chúng ta có thể từ chối ý lễ này vì lý do:

9
Xem bài của Lm. Mark, CMC: CÓ LINH HỒN MỒ CÔ I KHÔ NG???
(http://www.xuanha.net/gl-LUYENNGUC/Luyennguc-cuocthanhtaycuoicung/pt5-l
inhhonmocoi.htm).
“Giáo Hội không bao giờ quên cầu cho các linh hồn” hay
“không có chỗ nào phân biệt linh hồn tử sĩ với các linh hồn
khác” hay không?
3. Một vài suy nghĩ .
3.1. Tất cả giáo huấn của Chúa Giêsu, chủ yếu tập trung
nơi chính thân phận con người đang sống, để làm sao đạt được
ơn cứu độ. Các vấn đề khác, tuỳ mức độ cần thiết trong tương
quan đến chủ đích ấy, được mặc khải hay không và mặc khải
ít hay nhiều.
Giáo lý về các linh hồn (hiểu như là các hữu thể tồn tại từ
con người sau khi đã chết) cho biết một số chân lý nào đó về số
phận các linh hồn, nhưng cũng không bao giờ giải thích tường
tận được theo logic mà con người đang dùng hôm nay. Thí dụ:
Trong thế giới thiêng liêng có thời gian hay không? Linh hồn là
hữu thể thiêng liêng, vậy có thay đổi không? Thời gian trong
Luyện Ngục là gì? Cũng thế, nhiều giáo phái Kitô Giáo vẫn còn
tranh luận về vấn đề hiện hữu của Hỏa Ngục, vì đối chiếu với
tính nhân từ yêu thương vô hạn của Thiên Chúa... Việc các linh
hồn mồ côi cũng thế. Nếu vẫn muốn hiểu theo cái logic của con
người đang dùng, thì vẫn còn nhiều điểm để tranh luận, chẳng
hạn:
• Chúa chẳng là Cha nhân từ đủ cho các linh hồn hay
sao lại để phải có những linh hồn mồ côi?
• Trong thế giới do chính Thiên Chúa làm Vua, lại còn
có những phần tử thất thế, thua thiệt, côi cút, cần phải được con
người thế trần đặc biệt chiếu cố?
• Trong nơi không còn tội lỗi, chỉ có tình thương như
Luyện Ngục, các linh hồn ‘giàu có’ có san sẻ với các linh hồn
cô độc không? vv...
Tuy nhiên, về mặt luận lý, không bàn đến tín lý, thì cũng
có thể đi từ ‘đầu kia’, nghĩa là các lập luận đã dẫn trên, để đến
kết luận là cần cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi. Điều này
cũng tương tự như lập luận giải thích các mầu nhiệm khác thôi.
Hơn nữa, đặc tính của Giáo Hội Công Giáo là thông công.
Chính do đặc tính này mà mọi người được tha tội, thánh hoá và
cứu độ nhờ vào Đầu là Chúa Giêsu Kitô. Do đó, Chúa muốn
mọi chi thể phải luôn hợp thông với nhau bằng Đức Ái. Đối với
các linh hồn, đức ái trọn vẹn thể hiện qua việc hợp thông với
những linh hồn mồ côi. Cũng như trên trần thế, Đức Ái đặc biệt
thể hiện qua những người ‘nghèo khó và bé nhỏ’.
Tóm lại: Thiên Chúa, tự Chúa, không cần chúng ta làm gì
cả, để Cháu hiện hữu như chính Chúa, nghĩa là hiện hữu trọn
vẹn và hợp lý. Nhưng mọi việc mà chúng ta phải làm, thực ra
cũng chỉ là cho chính mình mà thôi. Nói thế, mới nghe có vẻ
như nghịch với nguyên lý: Mọi sự phải quy về trong Chúa Kitô.
Nhưng thực tế là thế, Chúa không cần chúng ta phải đọc mấy
kinh dâng cho Chúa, để người được thêm vinh quang hay hài
lòng...; Chúa cũng không cần chúng ta bố thí cho người cùi
chén cơm nguội hay năm mười ngàn gì đó. Chúa có thể cho con
người ấy thành một người hạnh phúc mọi mặt dễ dàng. Nhưng
nói cho cùng, những hành động ấy, Chúa muốn ta làm giống
như một người Cha khôn ngoan, tập cho con cái mình biết chia
cái bánh cho anh chị em của nó vậy.
3.2. Chúng ta chưa có thuật từ nào để gọi riêng cho tập thể
các linh hồn nạn nhân của một cuộc thiên tai, khủng bố hay dịch
họa... những linh hồn mà lương dân gọi là “oan hồn”, nhưng
việc cầu nguyện cách riêng cho những trường hợp như thế
không có gì là không đúng với giáo lý và thực hành trong phụng
vụ thánh của Giáo Hội. Một thánh lễ cầu nguyện cho “các linh
hồn nạn nhân cuộc khủng bố ngày 11/9” chẳng hạn, là việc tốt
lành. Nhưng không thể nói đó là thánh lễ cầu nguyện cho “các
oan hồn ngày 11/9”. Vì khái niệm “oan hồn” - như đã nói trên,
ngoài ý nghĩa “chết không theo ‘lẽ thông thường’” còn hàm
nghĩa: “không thể siêu thoát hay đầu thai”, “còn nuối tiếc cuộc
sống dang dở của mình”... là những ý niệm không phù hợp đức
tin Công Giáo.
3.3. “Qua nhiều chứng tá từ việc các linh hồn hiện về xin
cầu nguyện10 ta có thể nghiệm ra rằng: Linh hồn mồ côi chính
là những linh hồn bị thân nhân quên lãng hoặc cũng được thân
nhân xin lễ cầu nguyện định kỳ hàng năm theo thói quen (cho
yên tâm) chứ không đặt tấm lòng vào thánh lễ hay các giờ kinh
nguyện, để tha thiết nài xin cho linh hồn đó. Vậy xin anh chị em
hãy “bỏ ống lòng thương xót” cho những linh hồn này hầu các
ngài được về hưởng Nhan Thánh Chúa”11
4. Kết Luận

10
Xem bài của Lm. Mark, CMC (đã dẫn)
11
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt: CẦU NGUYỆN CHO CÁ C LINH HỒN MỒ
CÔ I TRONG LUYỆN NGỤC
(http://thanhcavietnam.org/forum/archive/index.php?t-16281.html).
Hai khái niệm cô hồn (linh hồn người chết lẻ loi, không ai
cúng vái) và linh hồn mồ côi (linh hồn bị thân nhân quên lãng)
đều gợi lên ý tưởng đơn độc, cô quả, khốn khổ, cần sự giúp đỡ.
Nhưng để tránh sự lẫn lộn trong niềm tin về số phận của
người quá cố trong các tôn giáo khác, Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam đã sử dụng cụm từ “linh hồn mồ côi”, với ý nghĩa mà
chúng tôi đã nêu ra ở trên, như một thuật từ riêng của Giáo Hội
Việt Nam vậy.

You might also like