You are on page 1of 4

Cung tiền, lạm phát và những tác động đến

kinh tế vĩ mô

Cung tiền và lạm phát có vai trò rất quan trọng trong điều hành chính sách kinh tế
của mỗi quốc gia.
Trong đó, cung tiền là một trong những công cụ của Ngân hàng Nhà nước nhằm duy trìổn
định kinh tế vĩ mô; còn lạm phát ảnh hưởng trực tiếp tới sức mua của người dân… Ở Việt
Nam, cung tiền và lạm phát trong những năm qua luôn là hai yếu tố căn bản tác động đến
hiệu quả điều hành chính sách kinh tế của đất nước.
Quan hệ giữa cung tiền và lạm phát
Trong các tình huống kinh tế bình thường, nếu cung tiền tăng nhanh hơn sản lượng thực tế
sẽ gây ra lạm phát. Trong nền kinh tế khủng hoảng (gặp bẫy thanh khoản), mối tương quan
"bị phá vỡ" bởi một sự suy giảm của tốc độ chu chuyển tiền tệ. Điều đó giải thích tại sao
trong nền kinh tế suy thoái các Ngân hàng Trung ương có thể tăng cung tiền mà không gây
lạm phát.

Tại Việt Nam, trong khoảng gần 10 năm trở lại đây (2003 -2012), tốc độ tăng cung tiền tại
Việt Nam từ năm 2003 đến nay liên tục duy trì trên dưới 25% mỗi năm và tín dụng nội địa
cũng tăng trên 35%. Trong khi nhập khẩu tăng đột biến trong mấy năm trở lại đây để đáp
ứng với lượng cầu nội địa tăng thì đối với một số hàng hóa như khách sạn, văn phòng, điện,
lao động có kỹ năng (những hàng hóa chủ yếu được sản xuất trong nước) không thể tăng
tương ứng. Kết quả là giá của những hàng hóa này phải tăng theo tốc độ tăng cung tiền. Tuy
nhiên, tốc độ tăng cung tiền lại không tương xứng với tốc độ tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng
của Việt Nam lại chỉ có tăng từ 7-8% trong khi đầu tư hàng năm của nền kinh tế chiếm tới
35% GDP.

Các phân tích đã chỉ ra rằng, việc tăng cung tiền trong những năm qua nhằm duy trì tốc độ
tăng trưởng cao trong một thời gian dài. Tuy nhiên, khi mất cân đối giữa tốc độ tăng cung
tiền và tốc độ tăng trưởng GDP lớn thì sức ép lạm phát bắt đầu xuất hiện. Ví dụ, trong hai
năm 2005 và 2006, GDP của Việt Nam tăng trưởng 17% trong khi đó M2 (gồm tiền mặt
trong lưu thông và tiền gửi trong ngân hàng) tăng tới 73%. Trái lại, trong cùng giai đoạn
này, GDP của Trung Quốc tăng 22% trong khi M2 chỉ tăng có 36%. Tăng trưởng của Việt
Nam thấp hơn của Trung Quốc nhưng tốc độ tăng cung tiền lại cao gần gấp đôi.

Ổn định kinh tế vĩ mô là một trong những vấn đề quan trọng trong định hướng chính sách
của Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Trong 3 năm gần đây, Việt Nam đang phải đối mặt
với nhiều vấn đề bất ổn kinh tế vĩ mô như lạm phát cao, sự tăng trưởng cung tiền của Ngân
hàng Trung ương nhằm khắc phục một phần thâm hụt ngân sách và đảm bảo các nhiệm vụ
về chính sách tiền tệ đã ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012.

Trước bối cảnh này, Chính phủ đã có sự điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế phù hợp
với thực tế, trong đó ưu tiên kiềm chế lạm phát thông qua công cụ điều hành chính sách tiền
tệ linh hoạt, hạn chế cung tiền ra thị trường. Đồng thời, điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng
kinh tế theo hướng ổn định, bền vững… Kết quả là, Việt Nam đã đạt được mục tiêu kép
trong năm 2013, kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng GDP đạt mức khả quan (5,42%); lạm
phát được kiềm chế ở mức 6,04%; thị trường tiền tệ lưu thông ổn định, bền vững về nhiều
mặt (chính sách, lãi suất giảm cả huy động và cho vay).

Các nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát


Thâm hụt ngân sách:Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát là thông qua kênh
tiền tệ và trong một số trường hợp có thể thông qua kênh cầu kéo. Ngoài ra, khi nhu cầu vốn
tăng lên do tổng cầu tăng lại được tài trợ bằng vay tín dụng ngân hàng có thể sẽ làm cho lãi
suất trong nền kinh tế tăng lên và do vậy rất có thể quay trở lại làm tăng giá trong nền kinh
tế trong khi chi phí tài chính có ảnh hưởng lớn tới các quyết định về giá. Như vậy, trong
trường hợp này, tăng thâm hụt ngân sách có thể dẫn đến tăng giá.
Cung tiền M2:Một số nhà kinh tế học cổ điển và tân cổ điển đã dùng thuyết số lượng tiền
để giải thích cho những nguyên nhân gây ra lạm phát từ tiền tệ. Trong đó, bất cứ sự gia tăng
nào trong cung tiền cũng làm tăng GDP danh nghĩa.
Lãi suất:Chính sách tiền tệ thông qua các công cụ của mình và qua các kênh truyền dẫn, để
tác động đến mức sản lượng và giá cả trong nền kinh tế. Việc thay đổi lãi suất điều hành của
ngân hàng trung ương sẽ tác động đến sản lượng và giá cả theo bốn kênh chủ yếu: lãi suất
thị trường, tín dụng, giá tài sản và tỷ giá.
Tỷ giá hối đoái:Tỷ giá là một trong những kênh truyền tải của chính sách tiền tệ, truyền dẫn
tác động từ các công cụ đến mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ. Trong đó, quan trọng
nhất là mục tiêu ổn định giá cả. Việc phá giá đồng nội tệ có thể làm gia tăng lạm phát.
Ngoài những nhân tố ở trên tác động trực tiếp đến lạm phát làm thay đổi tỷ lệ lạm phát, còn
có những yếu tố khác có thể ảnh hưởng gián tiếp đến lạm phát như: chính sách mở cửa của
nền kinh tế; yếu tố tâm lý, đầu cơ, găm hàng, làm giá; thu nhập của dân cư; giá cả hàng hóa
trên thế giới. Những nhân tố này là một phần ảnh hưởng đến lạm phát.

Và những tác động đến nền kinh tế


Hầu hết các nước đang phát triển đều có mức lạm phát biến đổi thất thường và rất cao. Đối
với Việt Nam, lạm phát giảm là một trong những chỉ tiêu quan trọng trong năm 2012, 2013
và các năm tiếp theo, điều này giúp thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu: Ổn định vĩ mô
của nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển bền vững. Mức lạm phát năm 2012 đạt 6,81%, năm
2013 đạt 6,04% - đúng với mục tiêu đề ra (một con số).

Lạm phát là một trong những yếu tố có tác động tích cực lẫn tiêu cực với tốc độ tăng trưởng
kinh tế thông qua nhiều kênh khác nhau với mức độ ảnh hưởng tổng thể khác nhau, phụ
thuộc đáng kể vào cơ cấu thể chế (cả nhà nước và tư nhân) của nền kinh tế, phụ thuộc vào
khả năng thích nghi với mức lạm phát hiện hành và khả năng dự báo lạm phát. Do đó, lạm
phát vừa phải được xem là giúp tăng trưởng kinh tế thông qua khuyến khích huy động vốn
và tăng tính linh hoạt tỷ giá. Tỷ lệ lạm phát thấp có thể giúp bôi trơn thị trường hàng hóa,
lao động và tăng tính linh hoạt tương đối đối với giá cả.

Nếu giá cả (kể cả tiền lương và giá cả của các nhân tố khác) giảm xuống với tính linh hoạt
thấp và nếu các ngành sản xuất khác nhau có mức cầu và năng suất tăng không đồng đều thì
giá cả sẽ tăng nhẹ có thể tạo ra một mức độ linh hoạt giá cả cả tương đối lớn cần thiết cho
sự phân bổ hiệu quả các nguồn lực. Tỷ lệ lạm phát thấp và ổn định sẽ tạo ra một trong
những động lực mạnh nhất để giúp nền kinh tế đạt được mức tăng trưởng ổn định.
Tuy nhiên, lạm phát xảy ra ngoài dự kiến sẽ tạo nên biến động bất thường về giá trị tiền tệ
và làm sai lệch toàn bộ thước đo các quan hệ giá trị, ảnh hưởng đến mọi hoạt động kinh tế
xã hội (kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế, thu nhập thực của người lao động bị giảm sút, lãi
suất danh nghĩa tăng, ảnh hưởng đến tiết kiệm và đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến mức tăng
trưởng kinh tế). Đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư, sự biến động bất thường của lạm phát gây
khó khăn cho việc xác định mức sinh lợi chính xác của các khoản đầu tư, khiến cho các nhà
đầu tư ngần ngại khi tiến hành đầu tư, nhất là đầu tư vào các dự án dài hạn, làm ảnh hưởng
đến sự tăng trưởng kinh tế.

Bên cạnh đó, lạm phát cũng làm cho đời sống dân cư gặp khó khăn hơn, làm rối loạn hệ
thống tiền tệ, làm xấu đi tình trạng của cán cân thanh toán quốc tế, gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Như vậy, có thể thấy ngoại trừ trường hợp lạm phát vừa phải còn tác động tích cực đến nền
kinh tế, các loại lạm phát còn lại đều gây ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển của kinh tế
- xã hội.

Các chuyên gia đã chỉ ra rằng, lạm phát, tỷ giá và cung tiền có vai trò rất lớn đối với kinh tế
- xã hội. Là chính sách của Chính phủ nhằm ổn định nền kinh tế bằng cách kiểm soát tỉ lệ lãi
suất và nguồn cung tiền, chính sách tiền tệ chủ yếu tập trung vào ổn định tiền tệ (kiểm soát
lạm phát); tăng trưởng kinh tế; tạo việc làm và cân bằng cán cân thanh toán. Chính sách tiền
tệ sử dụng các công cụ có tác động nhanh chóng trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng,
từ đó tác động đến lạm phát. Tỷ giá và cung tiền là những công cụ của ngân hàng nhà nước
nhằm duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.

You might also like