Professional Documents
Culture Documents
Đặc Điểm Và Sự Hình Thành Các Sách Tiên Tri
Đặc Điểm Và Sự Hình Thành Các Sách Tiên Tri
Những sách trong Kinh Thánh được xếp vào danh mục các sách tiên tri
nhiều hơn bất kỳ danh mục nào khác. Có bốn sách đại tiên tri (Ê-sai, Giê-rê-
mi, Ê-xê-chi-ên, Đa-ni-ên) và mười hai sách tiểu tiên tri (sau sách Đa-ni-ên
cho đến hết phần Cựu Ước), được viết trong xứ Y-sơ-ra-ên đời xưa, giữa
khoảng 760 - 460 T.C., gồm một loạt sứ điệp đến từ Đức Chúa Trời. Sở dĩ
gọi các sách tiểu tiên tri, chỉ vì các sách ấy tương đối ngắn, còn các sách đại
tiên tri đều là những quyển tương đối dài. Các tên gọi này tuyệt đối không
liên quan gì đến tầm mức quan trọng của các sách. Các sách tiên tri thuộc
thể loại khó đọc, khó hiểu hoặc khó giải nghĩa nhất trong Kinh Thánh.
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA LỜI TIÊN TRI
A. Ý NGHĨA CỦA LỜI TIÊN TRI
Với một số đông người thì từ ngữ tiên tri được hiểu theo định nghĩa đầu tiên
trong phần lớn các từ điển: “Nói trước hay tiên báo điều sắp xảy đến.” Vì thế
nhiều Cơ Đốc nhân chỉ tham khảo các sách tiên tri để tìm những lời tiên báo
về sự giáng sinh của Chúa Giê-xu hoặc một vài nét đặc trưng của thời đại
Giao Ước Mới - xem những lời tiên báo về các biến cố từ rất xa xưa so với
thời đại của chính họ là mối quan tâm chủ yếu của các sách tiên tri. Thật ra,
sử dụng các sách tiên tri theo cách đó là quá hạn hẹp. Liên hệ với vấn đề
này, chúng ta hãy xem các bảng thống kê sau đây: chưa tới 2% lời tiên tri
trong Cựu Ước đề cập Đấng Mết-si-a; chưa tới 5% đề cập cụ thể kỷ nguyên
Giao Ước Mới; chưa tới 1% liên quan đến các biến cố sẽ xảy ra.
Dĩ nhiên các nhà tiên tri có tiên báo về tương lai, nhưng thông thường thì đó
là tương lai gần của các quốc gia Y-sơ-ra-ên, Giu-đa và các lân bang của họ,
chứ không phải là thông báo về tương lai của chúng ta . Do đó, một trong
những cách để chúng ta hiểu được các sách tiên tri và thấy các lời tiên tri của
họ ứng nghiệm là chúng ta phải nhìn lui lại các thời kỳ mà đối với họ vẫn
còn là tương lai, nhưng với chúng ta thì đã là quá khứ.
1. Các nhà tiên tri là những phát ngôn nhân
Trong số hàng trăm tiên tri trong xứ Y-sơ-ra-ên đời xưa vào thời Cựu Ước,
chỉ có mười sáu người được chọn để những sấm truyền (thông điệp từ Đức
Chúa Trời) của họ được sưu tập và viết thành sách. Nhiều nhà tiên tri khác,
như Ê-li và Ê-li-sê, rất có ảnh hưởng trong việc ban phát Lời Đức Chúa Trời
cho dân Ngài và cho nhiều quốc gia khác ngoài xứ Y-sơ-ra-ên, nhưng chúng
ta biết việc làm các tiên tri đó nhiều hơn là biết lời nói của chính họ. Những
gì họ làm được mô tả nhiều hơn là những gì họ nói , và những gì họ nói đã
được tác giả ký thuật các câu chuyện trong Cựu Ước sắp đặt thật cụ thể và rõ
ràng trong bối cảnh đương thời của họ. Trong số rất ít các nhà tiên tri như
Gát (ISa1Sm 22:1-23; IISa 2Sm 24:1-22 v.v...), Na-than (IISa 2Sm 7:1-29;
12:1-31; IVua 1V 1:1-53 v.v...) hay Hun-đa (IIVua 2V 22:1-20), chúng ta
thấy lời tiên tri được kết hợp với tiểu sử - giống như trường hợp của Giô-na
và trong một phạm vi hạn hẹp hơn là Đa-ni-ên. Nhưng nói chung thì trong
các sách ký thuật của Cựu Ước, chúng ta được nghe về các tiên tri, nhưng
được nghe rất ít từ các tiên tri. Tuy nhiên, trong các sách tiên tri chúng ta
được nghe lời từ Đức Chúa Trời qua các tiên tri, nhưng được nghe rất ít về
chính họ. Sự khác biệt này rất quan trọng trong vấn đề làm thế nào để các
sách tiên tri trong Cựu Ước có ý nghĩa.
2. Vấn đề lịch sử
Có bao giờ bạn thấy là rất khó đọc một lần từ đầu chí cuối bất kỳ một sách
tiên tri hơi dài nào hay không? Tại sao như vậy? Theo chúng tôi nghĩ thì
trước nhất có lẽ vì chúng vốn không được viết với ý định được đọc như thế.
Phần lớn các sách tiên tri dài vốn là những bộ sưu tập những lời sấm truyền
(collections of spoken oracles ), không phải lúc nào cũng được trình bày
theo thứ tự thời gian nguyên thủy của chúng. Thường thường không có
những dấu hiệu cho thấy khi nào một sấm truyền kết thúc và một sấm truyền
khác bắt đầu, và cũng thường không có những dấu hiệu về bối cảnh lịch sử
của chúng. Hơn nữa, phần lớn các sấm truyền lại được công bố bằng thơ!
Chúng ta sẽ nói thêm về điểm này dưới đây.
Khoảng cách lịch sử là một vấn đề rắc rối khác khi chúng ta tìm hiểu các
tiên tri. Dĩ nhiên, là các độc giả hiện đại chúng ta sẽ thấy khó hiểu Lời của
Đức Chúa Trời trong thời đại hiện tại của mình hơn là người Y-sơ-ra-ên cũng
nghe cùng những lời lẽ giống y như thế do chính các tiên tri nói ra. Những
điều vốn rõ ràng với họ thường tối nghĩa với chúng ta. Tại sao vậy? Một
phần vì thính giả nghe trực tiếp một diễn giả thì có nhiều lợi thế hơn những
độc giả đọc lời của một diễn giả cách gián tiếp (những gì đã được đề cập liên
hệ đến các dự ngôn trong chương 8). Nhưng đó chưa thật sự là nguyên nhân
của phần lớn các khó khăn. Nói đúng hơn, là những người sống rất xa với
sinh hoạt tôn giáo, lịch sử và văn hóa của dân Y-sơ-ra-ên đời xưa, chúng ta
gặp rắc rối lớn khi muốn đặt lời của các tiên tri đã nói vào đúng bối cảnh của
chúng. Thường thì chúng ta khó mà thấy rõ điều họ đề cập hoặc tại sao họ đề
cập như thế.
B. CHỨC NĂNG CỦA LỜI TIÊN TRI
Muốn hiểu điều Đức Chúa Trời phán dạy chúng ta qua các sách được linh
cảm này, trước hết chúng ta phải hiểu rõ vai trò và chức năng của các tiên tri
trong dân Y-sơ-ra-ên. Có ba điều sau đây cần được nhấn mạnh:
1. Các nhà tiên tri là những người trung gian củng cố việc thực thi giao ước
Trong chương trước, chúng tôi đã giải thích Luật Pháp của dân Y-sơ-ra-ên là
một giao ước giữa Đức Chúa Trời và con dân Ngài. Giao ước này chẳng
những có các luật lệ phải vâng giữ, mà còn mô tả các loại trừng phạt mà Đức
Chúa Trời sẽ áp dụng đối với dân Ngài nếu họ không tuân giữ Luật Pháp,
cũng như các phước hạnh Ngài sẽ ban cho họ nếu họ tuân thủ. Các trừng
phạt thường được gọi là “những lời rủa sả” giao ước, còn các lợi ích là
“những phước hạnh.” Tên gọi không quan trọng. Điều quan trọng là Đức
Chúa Trời không những chỉ ban bố Luật Pháp, mà còn thi hành, làm cho nó
trở thành có hiệu lực. Việc thi hành tích cực là ban phước, việc thi hành tiêu
cực là rủa sả. Đây là chỗ để nhà tiên tri tham dự vào. Qua trung gian các tiên
tri, Đức Chúa Trời công bố việc thi hành (tích cực hoặc tiêu cực) luật pháp
của Ngài, để dân Ngài hiểu rõ các biến cố ban phước hay rủa sả. Môi-se là
người trung gian của Luật Pháp Đức Chúa Trời khi lần đầu tiên Ngài công
bố điều đó, và như thế, ông là một kiểu mẫu cho các nhà tiên tri. Họ là
những người đứng trung gian hay phát ngôn nhân của giao ước. Qua họ,
Đức Chúa Trời nhắc nhở dân Ngài trong các thế hệ sau Môi-se rằng nếu
Luật Pháp được vâng giữ, hậu quả sẽ là phước hạnh; bằng không thì sẽ là sự
trừng phạt. LeLv 26:1-13; PhuDnl 4:32-40; 28:1-14 liệt kê các phước hạnh
sẽ được ban cho dân Y-sơ-ra-ên nếu họ trung tín giữ Luật Pháp. Nhưng các
phước lành này được công bố kèm theo một lời cảnh cáo; nếu dân Y-sơ-ra-
ên không vâng giữ Luật Pháp Đức Chúa Trời, các phước lành sẽ bị ngưng
lại. LeLv 26:14-39; PhuDnl 4:15-28 và cả đoạn 28:15-32:42 liệt kê các loại
trừng phạt (rủa sả) mà dân Y-sơ-ra-ên sẽ chịu nếu họ vi phạm Luật Pháp.
Do đó, ta phải ghi nhớ rằng các nhà tiên tri không tự đặt ra các phước hạnh
và lời rủa sả mà họ công bố. Có thể họ dùng lời lẽ của họ để mô tả các
phước hạnh và lời rủa sả nhằm khiến bắt phục người nghe theo như điều họ
được linh cảm. Nhưng họ chỉ nói lại “lời của Đức Chúa Trời” chứ không
phải là tự nói theo ý mình. Qua các tiên tri, Đức Chúa Trời công bố ý định
của Ngài muốn thực thi giao ước, phước hạnh hay rủa sả, tùy thuộc lòng
trung thành của dân Y-sơ-ra-ên, nhưng bao giờ cũng dựa trên và phù hợp với
các phước hạnh và rủa sả đã có sẵn trong LeLv 6:1-30; PhuDnl 4:1-49; 28:1-
32:52. Nếu bạn bỏ công nghiên cứu các chương sách ấy, bạn sẽ được phần
thưởng là hiểu rõ lý do các tiên tri đã nói như vậy.
Nói cách vắn tắt thì điều ta tìm thấy sẽ như thế này: Luật Pháp hàm chứa
một vài loại phước hạnh thuộc thể cho người trung tín giữ luật pháp: sự
sống, sức khỏe, sự thịnh vượng, mùa màng bội thu, được tôn trọng, được an
toàn. Phần lớn các phước lành cụ thể đã được đề cập đều thuộc vào một
trong sáu nhóm tổng quát. Về những lời rủa sả, luật pháp mô tả các trừng
phạt đối với thân thể mà chúng ta sẽ thấy dễ nhớ nếu tập họp chúng lại dưới
mười tiểu mục là sự chết, bệnh tật, hạn hán, đói kém, nguy hiểm, hủy diệt,
bại trận, bị lưu đày, bần cùng và bất hạnh. Phần lớn các lời rủa sả đều thuộc
vào một trong các loại này.
Những phước lành và rủa sả này cũng được áp dụng cho những gì Đức Chúa
Trời phán truyền qua các tiên tri. Thí dụ khi Ngài muốn báo trước phước
hạnh tương lai cho quốc gia (không phải cho một cá nhân) qua tiên tri A-
mốt, Ngài đã dùng các hình ảnh ví von trong nông nghiệp về mùa màng bội
thu, đời sống, sức khỏe, sự thịnh vượng, được tôn trọng, sự an toàn (AmAm
9:1-15). Khi Ngài thông báo tai họa cho quốc gia không chịu vâng lời vào
thời của Ô-sê, Ngài đã làm việc ấy là tùy theo một hoặc nhiều trường hợp
hơn nữa trong số các tai họa vừa được liệt kê ở phần trên (nghĩa là sự hủy
diệt trong OsHs 8:14 hay lưu đày trong 9:3). Những lời rủa sả ấy thường có
nghĩa bóng, tuy chúng cũng có thể là theo nghĩa đen. Chúng luôn liên quan
đến hợp đoàn, ám chỉ toàn thể quốc gia. Các phước lành và rủa sả không bảo
đảm sự thịnh vượng hay đói khổ cho bất kỳ một cá nhân cụ thể nào. Căn cứ
vào các bảng thống kê, thì phần lớn những gì các nhà tiên tri công bố vào
các thế kỷ thứ tám, thứ bảy, và đầu thế kỷ thứ sáu T.C. đều là lời rủa sả, vì
lần thua trận và bị hủy diệt chính của vương quốc miền Bắc đã không xảy ra
trước năm 722 T.C.; còn lần bại trận và bị hủy diệt chính của vương quốc
miền Nam (Giu-đa) thì đã không xảy ra trước năm 587 T.C.. Dân Y-sơ-ra-ên
(cả ở miền Bắc lẫn miền Nam) đều lao đầu vào sự trừng phạt trong thời kỳ
ấy, cho nên theo lẽ tự nhiên, những lời cảnh cáo rủa sả chứ không phải là
phước hạnh đã bộc khởi vì Đức Chúa Trời muốn cho dân Ngài ăn năn. Sau
khi cả hai vương quốc miền Bắc và miền Nam đều bị hủy diệt, nghĩa là sau
năm 587 T.C., các tiên tri thường chuyển sang nói về các phước hạnh nhiều
hơn là rủa sả. Sở dĩ như thế vì một khi việc trừng phạt dân Ngài đã hoàn tất,
thì Đức Chúa Trời lại bắt đầu kế hoạch căn bản của Ngài là tỏ ra nhân từ
khoan dung (PhuDnl 4:25-31).
Trong khi đọc các sách tiên tri, bạn nên tìm khuôn mẫu đơn giản này: (1)
Việc chỉ ra tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên hoặc tình yêu của Đức Chúa Trời đối
với họ; (2) một lời tiên báo rủa sả hay phước lành tùy theo hoàn cảnh. Phần
lớn thì đó là điều mà các nhà tiên tri ngụ ý muốn nói tùy theo linh cảm của
Đức Chúa Trời cho họ.
2. Thông điệp của các tiên tri không phải là của riêng họ, nhưng là của Đức
Chúa Trời
Chính Đức Chúa Trời đã dấy các tiên tri (đối chiếu XuXh 3:1; EsIs 6:1-13;
Gie Gr 1:1-19; Exe Ed 1:1-3:27; OsHs 1:2; AmAm 7:14-15; Gion Gn
1:1 ...). Nếu một người tự phong cho mình chức vụ tiên tri, thì đó là lý do
chính đáng để người ấy bị xem là tiên tri giả (Gie Gr 14:14; 23:21). Các tiên
tri là người đáp lại tiếng gọi của Đức Chúa Trời. Từ ngữ Hy-bá-lai chỉ tiên
tri (nàbì’ ) vốn ra từ động từ semitic có nghĩa là “gọi” (nàbù’ ). Trong khi
đọc các sách tiên tri bạn hãy lưu ý là các tiên tri đều viết ở lời nói đầu, ở
phần kết thúc, hoặc thường xuyên chấm dứt các sấm truyền của họ bằng
những lời nhắc nhở như “Đức Giê-hô-va phán như vầy” hoặc “Đức Giê-hô-
va phán vậy.” Trong phần lớn các trường hợp, một thông điệp tiên tri được
trực tiếp truyền lại dường như nó được tiếp nhận từ Đức Giê-hô-va ở ngôi
thứ nhất, cho nên Đức Chúa Trời tự xưng là “Ta” hoặc “của Ta.”
Chẳng hạn Gie Gr 27:1-28:17. Nhiệm vụ khó khăn của Giê-rê-mi là truyền
lại cho người Giu-đa một điều cần thiết, đó là họ phải đầu hàng các đạo quân
của kẻ thù, tức vua Ba-by-lôn, nếu họ muốn được đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Những người nghe ông, hay phần đông trong đám họ, đều xem thông điệp
ấy tương đương với tội phản quốc. Tuy nhiên, lúc truyền lại bức thông điệp
ấy, ông nói rõ rằng điều họ nghe đó không phải là ý kiến của ông về vấn đề
ấy, nhưng đó là ý định của Đức Chúa Trời. Ông bắt đầu bằng cách nhắc nhở
họ rằng “Đức Giê-hô-va phán cùng tôi...” (27:2) rồi trích dẫn lệnh truyền
của Đức Chúa Trời “Hãy gởi (lời) cho...” (27:3); “khá dặn họ tâu...rằng...”
(27:4) và thêm “Đức Giê-hô-va phán” (27:11). Lời ông nói đó là Lời Đức
Chúa Trời. Nó được truyền lại bằng uy quyền của Đức Chúa Trời, chứ
không phải của riêng ông (28:15-16).
Là những phương tiện chuyển tải Lời của Đức Chúa Trời đến cho cả dân Y-
sơ-ra-ên lẫn các dân tộc khác, các nhà tiên tri giữ một chức vụ xã hội. Họ
giống như các đại sứ đến từ thiên đình truyền lại ý chỉ của Đức Chúa Trời là
Đấng cầm quyền tể trị cho dân chúng. Các tiên tri không phải là những nhà
cải cách xã hội, cũng chẳng phải các nhà tư tưởng tôn giáo muốn canh tân
triệt để. Các cải cách xã hội và tư tưởng tôn giáo mà Đức Chúa Trời muốn
truyền dạy cho dân Ngài vốn đã được mạc khải trong Luật Pháp có tính cách
giao ước rồi. Bất kể nhóm người nào vi phạm các luật lệ ấy, theo Lời Đức
Chúa Trời qua nhà tiên tri, đều bị trừng phạt. Cho dù các vua (thí dụ IISa
2Sm 12:1-14; 24:11-17; OsHs 1:4), hay hàng giáo phẩm (OsHs 4:4-11;
AmAm 7:17; MaMl 2:1-9) hoặc bất kỳ một nhóm người nào vi phạm giao
ước, nhà tiên tri đều trung tín truyền lại cho họ thông điệp của Đức Chúa
Trời về lời nguyền rủa đối với mọi người. Theo lời của Đức Chúa Trời, thậm
chí các tiên tri đã thiết lập hoặc truất ngôi nhiều vua (IVua 1V 19:16; 21:17-
22) và tuyên chiến (IIVua 2V 3:18-19; IISu 2Sb 20:14-17; OsHs 5:5-8) hoặc
phản đối chiến tranh (Gie Gr 27:8-12).
Vậy, những điều chúng ta đọc thấy trong các sách tiên tri không phải chỉ như
Lời của Đức Chúa Trời như nhà tiên tri đã nhìn thấy, mà còn là Lời Đức
Chúa Trời theo cách Đức Chúa Trời muốn cho nhà tiên tri trình bày ra. Nhà
tiên tri không hề tự mình hành động hay nói ra.
3. Thông điệp của các tiên tri không phải là nguyên bản
Các nhà tiên tri được Đức Chúa Trời linh cảm để trình bày nội dung cốt yếu
của những phước lành và rủa sả của giao ước. Do đó, khi chúng ta đọc lời
tiên tri, thì những gì chúng ta đọc đó chẳng có gì thật sự mới mẻ cả, mà chỉ
là một thông điệp mà bản chất giống hệt với những gì Đức Chúa Trời đã cậy
Môi-se phán truyền. Dĩ nhiên phần hình thức của thông điệp có thể thay đổi.
Đức Chúa Trời đã dấy các tiên tri là để cho con dân Chúa chú ý đến người
đã được sai đến với họ. Được dân chúng chú ý có thể bao gồm việc sắp xếp
lại các câu nói và đặt lại cấu trúc điều gì đó mà họ đã từng được nghe nhiều
lần rồi, khiến nó có được một thứ “mới mẻ” nào đó. Nhưng thật ra đó không
phải là bắt đầu một thông điệp mới hay sửa đổi thông điệp cũ. Các nhà tiên
tri không được linh cảm để đưa ra một luận điểm hay thông báo một giáo lý
nào chưa từng có trong giao ước của Ngũ Kinh.
Chẳng hạn, nửa phần đầu của OsHs 4:2, “Ở đó chỉ thấy những sự thề gian,
thất tín, giết người, ăn trộm và tà dâm” là một thí dụ cho việc bảo tồn thông
điệp của Chúa. Trong câu này, vốn là một phần của một đoạn dài mô tả tội
lỗi của dân Y-sơ-ra-ên vào thời của Ô-sê (750-722 T.C.), năm trong số mười
điều răn đã được tóm tắt, mỗi điều răn chỉ bằng một chữ kép duy nhất. Đó là
“thề gian,” điều răn thứ ba “ngươi chớ lấy danh Đức Giê-hô-va mà làm
chơi” (XuXh 20:7; PhuDnl 5:11). “Thất tín,” điều răn thứ chín, “ngươi chớ
nói chứng dối...” (XuXh 20:16; PhuDnl 5:20). “Giết người,” điều răn thứ sáu
“ngươi chớ giết người” (XuXh 20:13; PhuDnl 5:17). “Ăn trộm,” điều răn
thứ tám “ngươi chớ trộm cướp” (XuXh 20:15; PhuDnl 5:18). “Tà dâm,” điều
răn thứ bảy “ngươi chớ phạm tội tà dâm” (XuXh 20:14; PhuDnl 5:18).
Điều lý thú là nhà tiên tri không làm điều đáng lý ra phải làm, nghĩa là Ô-sê
không trích dẫn nguyên văn Mười Điều Răn. Ông đề cập năm trong số các
điều răn chỉ bằng cách tóm tắt vào một chữ kép mà thôi, rất giống với việc
Chúa Giê-xu đã làm trong LuLc 18:20. Nhưng đề cập năm điều răn dù là
không theo đúng thứ tự thông thường của chúng là một phương pháp rất
kiến hiệu để truyền thông cho dân Y-sơ-ra-ên biết rằng họ đã vi phạm Mười
Điều Răn. Vì ngay khi được nghe năm trong số mười điều răn, kẻ nghe sẽ
nghĩ rằng: “Thế còn các điều răn khác thì sao? Thứ tự bình thường của
chúng là thế nào? Lời lẽ trong nguyên văn là...” Thính giả sẽ bắt đầu suy
nghĩ về tất cả Mười Điều Răn, tự nhắc nhở điều mà Luật Pháp của giao ước
nhân danh sự công chính mà kêu gọi họ. Ô-sê chẳng hề thay đổi một điều gì
trong Luật Pháp cả, chẳng hề làm gì nhiều hơn điều Chúa Giê-xu đã làm khi
ông trích dẫn năm trong Mười Điều Răn để tạo được cùng một tác dụng
tương tự. Nhưng ông đã ghi khắc Luật Pháp vào lòng thính giả bằng một
phương pháp mà nếu chỉ đơn giản nhắc lại từng chữ từng tiếng một, có lẽ đã
chẳng bao giờ có tác dụng như thế.
Một thí dụ thứ hai liên quan đến các lời tiên tri về Đấng Mết-si-a. Chúng có
phải là mới không? Không hề! Những chi tiết về cuộc đời và vai trò của
Đấng Mết-si-a mà chúng ta thấy trong Các Bài Ca của Người Đầy Tớ trong
EsIs 42:1-25; 49:1-50:11 và 53:1-12 có thể được xem là mới. Nhưng Đức
Chúa Trời đã không đưa khái niệm về một Đấng Mết-si-a đến cho dân Ngài
lần đầu tiên thông qua các tiên tri. Thật ra nó đã bắt nguồn với Luật Pháp.
Nếu không phải là như thế, thì làm thế nào Chúa Giê-xu lại mô tả cuộc đời
của Ngài đã làm trọn những gì đã được viết “trong Luật Pháp Môi-se, các
sách Tiên tri, và sách Thi Thiên” (LuLc 24:44)? Trong số nhiều phần khác
nữa của Luật Pháp Môi-se báo trước chức vụ của Đấng Mết-si-a, PhuDnl
18:18 là một câu nổi bật: “Ta sẽ lập lên cho chúng một đấng tiên tri như
ngươi, thuộc trong anh em chúng, ta sẽ lấy các lời ta để trong miệng người,
thì người sẽ nói cho chúng mọi điều ta phán dặn người.”
GiGa 1:45 cũng nhắc nhở chúng ta rằng Luật Pháp đã nói về Đấng Christ.
Các tiên tri chẳng nói điều gì mới mẻ về Chúa Giê-xu. Ngũ Kinh không giới
hạn cách thức, văn phong và tính cách đặc thù mà họ dùng để diễn đạt
những tiên đoán được linh cảm. Nhưng thật ra, việc phải có một Giao Ước
Mới được thiết lập do một nhà “Tiên Tri” mới (dùng lời lẽ của PhuDnl 18:1-
22) đã là một câu chuyện cũ.
C. CÁCH THỨC TRUYỀN ĐẠT SỨ ĐIỆP :
Hiển nhiên hình thức truyền thông phổ thông hơn hết của các nhà tiên tri là
nói ra lời tiên tri. Họ cũng đã dùng các hình thức khác như Giê-rê-mi viết
thư (Gie Gr 29:1-32), A-hi-gia đã xé áo choàng của ông (IVua 1V 11:30), Ê-
sai đã hát bài ca yêu thương (EsIs 5:1-7). Nhưng đối với phần lớn các nhà
tiên tri, họ đã nói lời tiên tri, trong chỗ công cộng hoặc riêng tư. Chúng ta có
thể thấy điều này từ ký thuật về các hoạt động của các nhà tiên tri như Sa-
mu-ên , Na-than, Ê-li, Ê-li-sê và nhiều nhà tiên tri khác là những người đã đi
và nói cho thính giả của họ, dù là vua, dân hay các cá nhân. Chúng ta cũng
có thể thấy bằng cớ cho điều này trong các sách tiên tri (EsIs 32:9; 34:1;
40:6; Exe Ed 36:1; OsHs 8:1; AmAm 1:2; Gie Gr 2:2; 37:4). Những dẫn
chứng này và nhiều chỗ khác nhắc chúng ta nhớ rằng các nhà tiên tri là các
phát ngôn viên của Chúa. Điều này không có nghĩa là họ luôn luôn nói.
Nhưng ở đây chúng ta tập chú vào các hình thức diễn đạt đã được các nhà
tiên tri sử dụng.
Công thức diễn đạt rất phổ thông, được các nhà tiên tri dùng là "Đức Giê-hô-
va phán vậy", được tìm thấy trong hầu hết mỗi trang của các sách tiên tri. Từ
công thức diễn đạt rất phổ thông trên, chúng ta có thể suy ra rằng nhà tiên tri
tự xem mình là sứ giả từ Đức Chúa Trời. "Đức Giê-hô-va phán vậy" thường
được dùng để giới thiệu sứ điệp theo sau. Nhưng nó cũng xuất hiện ở giữa
hoặc cuối sứ điệp, để chắc rằng sứ điệp đang tiếp tục và rằng đây không phải
là lời riêng của các nhà tiên tri. Cụm từ quan trọng này được tìm thấy hàng
trăm lần trong các sách tiên tri (ví dụ: 162 lần trong Giê-rê-mi, 82 lần trong
Ê-xê-chi-ên ...)
Trong nguyên văn Hi-bá-lai, cụm từ này là "ne um Yaweh " (lời phán của
Đức Giê-hô-va), truyền đạt ý tưởng về lời phán hoặc lời tuyên bố, được ban
cho bởi sự mặc khải . Nó có thể được dịch là "Sấm ngôn của Đức Giê-hô-
va". Nó gợi ý rằng sứ điệp của nhà tiên tri không phải là một sứ điệp tầm
thường: nó được ban cho bởi sự hà hơi thiên thượng.
Dĩ nhiên có nhiều cách theo đó nhà tiên tri có thể đã nhận sứ điệp thiên
thượng và nhiều hình thức mà ông có thể dùng để truyền thông sứ điệp đó.
Câu "Đức Giê-hô-va phán " không nhất thiết xác định hình thức của sứ điệp.
Nó đơn giản nhắc chúng ta một lần nữa nguồn gốc đặc biệt, thiên thượng
của sứ điệp.
Tuy nhiên, ở nhiều chỗ chúng ta thấy rằng sứ điệp của nhà tiên tri bao gồm
lời văn ngắn, gọn, sắc bén. Có khi nó là một câu hỏi, có khi là lời đe dọa
(ngăm đe) hoặc lời phán xét. Nó phải tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trên người
nghe (IVua 1V 21:19a; IIVua 2V 1:4; IVua 1V 21:19b; 20:1; IIVua 2V 1:3;
Gie Gr 37:17).
Một số học giả đã kết luận rằng dự ngôn tiên tri nguyên thủy luôn luôn vắn
tắt, sắc bén và có tính ngăm đe. Vì vậy, họ cho rằng các dự ngôn dài hơn là
thuộc về thời kỳ về sau. Nhưng dường như không có nền tảng thực sự cho
luận cứ này. Lùi xa về thời Ba-la-am, trong Dan Ds 22:1-41 và 24:1-25
chúng ta thấy các sấm ngôn dài cũng như ngắn.
2. Các thể văn diễn đạt sứ điệp:
Các nhà tiên tri đã sử dụng nhiều thể văn diễn đạt để truyền thông cách sống
động và đáng chú ý các sứ điệp của họ.
a) Hình thức bài ca: Các nhà tiên tri đã dùng nhiều hình thức bài ca khác
nhau để đưa ra sứ điệp của họ cho dân sự, chẳng hạn bài ca tình yêu nhằm
minh họa mối tương quan tình yêu hoặc tương quan giao ước giữa Đức Giê-
hô-va với dân Ngài (EsIs 5:1) bài ca tang lễ, hay ca thương (ai ca) (AmAm
5:1; Exe Ed 19:1-14) bài ca châm biếm (EsIs 37:22-29) bài ca chúc tụng
(AmAm 4:13; 5:8; 9:5). Mỗi loại bài ca đều thích hợp theo nội dung của nó
(Gie Gr 10:12-16; Exe Ed 28:11-19; EsIs 14:4; 13:4-6).
b) Hình thức biện luận: Ở EsIs 40:12 tt, Đức Chúa Trời nói với dân sự của
Ngài như thể họ ở trong cuộc biện luận với Ngài. Với một loạt câu hỏi có
tính tu từ, Ngài dẫn chứng những luận điểm của họ và trả lời cho họ.
c) Hình thức xử án: Các nhà tiên tri thường dùng ngôn ngữ của "tòa án" hoặc
xét xử, trong đó Đức Chúa Trời đem dân sự của Ngài ra xét xử về những tội
lỗi của họ. Hình thức "xét xử" này cho chúng ta biết mối tương quan giữa
Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài (1:2; 3:13-15). Ngoài ra, tất cả các nước
được đem đến tòa án để đối nại về việc họ có các thần khác (43:8 tt).
d) Hình thức rủa sả "khốn thay!" Những lời "khốn thay" mang ý nghĩa một
lời ngăm đe, hoặc như là một lời rủa sả trên người được nói đến (xem 5:8;
10:1; 28:1; 29:15; 30:1; AmAm 5:18; 6:1, 4). Trong đời sống xã hội, hoặc
trong sinh hoạt tôn giáo của Y-sơ-ra-ên, những lời rủa sả hoặc ngăm đe như
thế đóng vai trò rất quan trọng, phản ảnh mối tương quan giữa Đức Chúa
Trời với dân sự Ngài (PhuDnl 27:15; 28:15; LeLv 26:14-42).
e) Lời tuyên bố về Luật Pháp: Luật Pháp của Đức Chúa Trời được đưa ra
cho dân chúng qua các nhà tiên tri do Thánh Linh soi sáng (XaDr 7:12). Từ
liệu Hi-bá chỉ về Luật Pháp là Torah , và từ liệu này được dùng nhiều lần để
mô tả sự dạy dỗ của các tiên tri (xem EsIs 1:10; 5:24; 8:16; 30:9). Các nhà
tiên tri cũng được mô tả là có trách nhiệm dạy Luật Pháp cho dân chúng
(AgKg 2:11-13). Khi các thầy tế lễ đã không hoàn thành vai trò của họ là các
giáo sư về Luật Pháp (OsHs 4:4-6, các sách lịch sử cũng xác nhận sự thất bại
này), thì các nhà tiên tri đã phải bổ túc chỗ trống này và đảm nhiệm vai trò
giáo sư về Luật Pháp (XaDr 7:2-7, 8 tt).
g) Ngoài ra các nhà tiên tri cũng đã diễn đạt lời Chúa qua hình thức bài
giảng hay bài diễn thuyết (Exe Ed 20:1 tt) thư tín (Gie Gr 29:4-28) ẩn dụ
(Exe Ed 16:1-63) Châm ngôn (Gie Gr 13:23) Thi ca (AmAm 1:3; 2:6).
Sự phân tích các hình thức diễn đạt đã được các nhà tiên tri sử dụng giúp
chúng ta hiểu tốt hơn vai trò của họ và cũng giúp đánh giá sự đa dạng của
các hình thức họ đã dùng để truyền thông sứ điệp của họ. Điều này cũng
giúp chúng ta thấy bối cảnh phía sau những lời tiên tri đã được công bố.
II. SỰ HÌNH THÀNH CÁC SÁCH TIÊN TRI
Khi nghiên cứu các sách tiên tri, có một số vần đề căn bản thường được đặt
ra, chẳng hạn: Cách nào và tại sao các sách tiên tri đã được viết ra? Có phải
chính các nhà tiên tri đã viết ra sứ điệp của họ, hay ai khác đã làm điều đó?
Sách mà chúng ta có ngày nay có giống như những gì đã được viết (hoặc
nói) không? Những sách đó có gồm tất cả các lời tiên tri đã được nói ra
không? Có phải các sách tiên tri chỉ gồm những lời tiên tri của các nhà tiên
tri, hay đã có sự thêm vào hoặc thay đổi nào không?
Để trả lời cho những câu hỏi này, các học giả đã theo 3 phương pháp chính,
có thể tóm tắt như sau:
A. PHƯƠNG PHÁP PHÊ BÌNH VĂN CHƯƠNG (Literary Criticism)
Các nhà nghiên cứu Kinh Thánh vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 căn cứ
vào phương pháp phê bình văn chương đã cho rằng lời tiên tri đã được viết
ra một cách khá sớm. Họ phân biệt hai giai đoạn:
1) Chính nhà tiên tri hoặc các môn đệ đã viết phần nhiều trong số lời tiên tri
đã rao ra.
2) Các tác phẩm tiên tri đã trải qua một tiến trình duyệt và sắp xếp lại bởi
các
ký lục và những người khác, theo đó cũng đã có nhiều phần thêm vào và sắp
đặt lại. Những nhà tu chính này đã thêm vào những nhận định thần học và
các nhận định khác của họ hoặc đã giải thích lời nguyên thủy của các nhà
tiên tri.
Vì vậy, khi nghiên cứu các sách tiên tri cần phải phân biệt giữa lời tiên tri
nguyên thủy và những lời thêm vào sau này, căn cứ vào những tiêu chuẩn
sau đây:
(i) Căn cứ vào văn phong, từ vựng, luật thơ, v.v...
Chẳng hạn trong EsIs 10:1-34, có một loạt những câu thơ về A-sy-ri (5-11;
13-19; 28-34), những câu thơ này được xen vào bằng một câu văn xuôi (c.
12) và rồi sau đó tiếp theo bằng một đoạn văn xuôi khác (c. 20tt), lại làm
gián đoạn loạt thơ. Đối với nhà phê bình văn chương thì đây là một ví dụ rõ
ràng của việc thêm vào về sau.
(ii) Căn cứ vào nội dung hoặc ý tưởng:
Trong nhiều trường hợp, các nhà phê bình văn chương cảm thấy rằng một
đoạn nào đó phải là phần phụ lục vì dựa vào nội dung của nó không có vẻ
phù hợp với các đoạn kế cận. Trong 10:1-34 chẳng hạn, chúng ta thấy đã có
dẫn chứng về "dân sót" trong các câu 19 và đặc biệt 20-23. Một số học giả
cảm thấy rằng ý niệm này về dân sót không phải là phần nguyên thủy của sứ
điệp của Ê-sai. Nó là sự giải thích lại về sau. Vì vậy, điều này cho ta những
lý do để giả định rằng đoạn này phải là phần thêm vào về sau.
Một số học giả ở cuối thế kỷ 19 đã lý luận rằng sứ điệp của các nhà tiên tri
thế kỷ thứ 8, như A-mốt, Ô-sê và Ê-sai, chủ yếu là về sự phán xét. Vì vậy, họ
không thể cũng nói về hy vọng. Nó sẽ là sự tương phản. Các nhà tiên tri đã
xác quyết rằng Y-sơ-ra-ên và Giu-đa sẽ bị hủy diệt hoàn toàn. Trong trường
hợp đó, bất cứ dẫn chứng nào về hy vọng phải là sự thêm vào về sau. Vì vậy,
bất cứ đoạn nào nói về dân sót thì hiển nhiên là sự thêm vào sau. Ở AmAm
9:8b và đặc biệt 11-15 có sự chuyển ý khá bất ngờ từ sự phán xét sang hy
vọng.
Tương tự, ở 4:13; 5:8; 9:5 tt có 3 bài thơ ngắn ca ngợi quyền năng của Đức
Chúa Trời trong sự sáng tạo. Nhiều học giả cho rằng giáo lý về sự sáng tạo
phát triển hơn về sau trong Y-sơ-ra-ên. Vì thế, họ cho rằng những bài thơ
này được thêm vào về sau. Họ cũng cảm thấy rằng nó đã cắt đoạn dòng tư
tưởng.
Thật ra những chứng cớ của các nhà phê bình văn chương đưa ra không đủ
thuyết phục. Có rất nhiều bằng cớ từ cả Cựu Ước lẫn Tân Ước cho thấy cùng
một tác quyền, văn xuôi và thi ca bên cạnh nhau. Vì vậy, thật nguy hiểm mà
cho rằng bất cứ đoạn văn xuôi nào trong phần thi ca phải là từ một bàn tay
khác. Chúng ta cần cân nhắc các bằng cớ một cách cẩn thận hơn. Khi nói về
ý niệm “dân sót lại” trong Ê-sai, các nhà phê bình văn chương không đủ
chứng cớ để kết luận rằng ý niệm "dân sót" không phải là một phần sứ điệp
của Ê-sai. Tương tự, các nhà phê bình văn chương cũng khó kết luận rằng
OsHs 14:1-9, một phân đoạn nói về hy vọng ở cuối sách, không có trong lời
tiên tri nguyên thủy, mặc dầu sứ điệp chủ yếu của sách này là về sự phán xét.
Hệ quả của phương pháp này là thường chia nát vụn các sách tiên tri. Phải
mất nhiều thì giờ và năng lực trong việc phân biệt giữa các đoạn nguyên
thủy và phụ lục. Các tiêu chuẩn được sử dụng luôn chủ quan. Không phải tất
cả học giả đều theo phương pháp này, nhưng nó đã khá ưu thế trong cuối thế
kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
B. PHƯƠNG PHÁP PHÊ BÌNH HÌNH THỨC (Form Criticism):
Từ đầu thế kỷ 20 trở đi, những nhà phê bình hình thức đã nhấn mạnh lời
được nói ra tiềm ẩn dưới hình thức văn chương. Họ phân tích hình thức văn
chương và tìm ra các yếu tố nguyên thủy là những dự ngôn ngắn, là hình
thức căn bản của sự diễn giải của các nhà tiên tri. Họ nhấn mạnh rằng các
nhà tiên tri là những phát ngôn viên, và đã phân tích một cách cẩn thận
những hình thức khác nhau của sự giảng giải mà các nhà tiên tri đã dùng.
Một số các nhà phê bình này cũng cho rằng các dự ngôn căn bản thì hầu như
chắc chắn là những lời nói ngắn và thường rất gọn. Một số trong vòng họ đã
bỏ nhiều thì giờ cố gắng tìm ra những lời nói tóm tắt nguyên thủy mà đã
được khai triển về sau. Chúng ta đã biết rằng chắc chắn có các ví dụ về
những dự ngôn như thế, nhưng dường như không nhất thiết rằng những lời
nói nguyên thủy thì luôn luôn ngắn.
Trên căn bản của loại phân tích này, các nhà phê bình đã gợi ý những giai
đoạn phát triển của các sách tiên tri như chúng ta có từ hình thức được nói
ra, được thốt ra. Nhà phê bình Kinh Thánh T.H. Robinson đã gợi ý 3 giai
đoạn:
1) Những dự ngôn riêng rẽ được viết ra: Những lời nói này là những dự
ngôn căn bản nguyên thủy, trong những hình thức khác nhau.
2) Những dự ngôn được sưu tập: Ở một giai đoạn về sau, các dự ngôn riêng
rẽ này được sưu tập lại với nhau trong các quyển sách nhỏ. Có khi nó được
đặt chung nhau dựa trên căn bản có cùng chủ đề, chẳng hạn các dự ngôn
chống lại các ngoại bang (EsIs 13:23; Gie Gr 46:51; Exe Ed 25:32). Có khi
nó dựa trên căn bản có cùng các từ, chẳng hạn EsIs 1:9, 10 cả hai có liên
quan đến Sô-đôm và Gô-mô-rơ. Có khi những người sưu tập các dự ngôn đã
sắp xếp nó một cách sáng tạo, theo các câu lập đi lập lại, hoặc lời mở đầu và
tiêu đề (chẳng hạn AmAm 4:13; 5:8; 9:5 tt).
Robinson cho rằng trong một số trường hợp, chính nhà tiên tri đã sưu tập các
dự ngôn của mình, chẳng hạn Ê-xê-chi-ên, A-ghê và Xa-cha-ri XaDr 1:1-
8:23 (các niên đại được cho đối với mỗi dự ngôn và dường như được sắp
xếp một cách cẩn thận).
3) Những sưu tập các dự ngôn được tổng hợp: Ở một giai đoạn về sau,
những sưu tập ngắn này được đặt chung nhau trong những sách tương đương
với 4 cuộn tiên tri lớn và 12 tiểu tiên tri . Trong tiến trình này, Robinson cho
rằng một số sưu tập ẩn danh được đặt chung nhau và quy cho một nhà tiên
tri, chẳng hạn các phần khác nhau của Ê-sai, Xa-cha-ri, Mi-chê và các lời
tiên tri ngắn của Ma-la-chi và Áp-đia.
C. PHƯƠNG PHÁP PHÊ BÌNH LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG (Historical-
traditional Criticism):
Các học giả Cựu Ước người Scandinavia đã nhấn mạnh tới sự truyền khẩu.
Chẳng hạn H. S. Nyberg cho rằng lời của các tiên tri và lời truyền khẩu đã
được lưu truyền lẫn lộn và thật khó nếu không thể phân biệt ... Ông cho là
những nhóm người hoặc các môn đệ của nhà tiên tri hoặc một trường phái,
đã giữ ký ức về những lời của tiên tri và truyền nó lại với sự thêm vào và
giải thích lại theo họ. Cho đến cuối cùng ở một giai đoạn về sau, nó được
viết ra. Như vậy, sách Ê-sai như chúng ta có bây giờ tiêu biểu cho sự sưu tập
về các truyền thống khác nhau một số trong những lời mấy tiên tri đó qui
cho chính Ê-sai. Nhưng phần lớn gồm những lời của các môn đệ của ông,
hoặc trường phái sau trên 2 thế kỷ.
D. NHẬN ĐỊNH VỀ CÁC PHƯƠNG PHÁP TRÊN TRONG ÁNH SÁNG
CỦA THÁNH KINH :
Những phương pháp phê bình Kinh Thánh nêu trên tuy cần thiết và hữu ích
nhưng không phải là những phương pháp tuyệt đối. Những kết luận mà các
nhà phê bình văn chương, hình thức, hay lịch sử truyền thống đưa ra không
phải dễ dàng được chấp nhận vì một số lý do.
Chẳng hạn, trong các sách tiên tri, chúng ta thấy nhiều chỗ các nhà tiên tri đã
khẳng định là chính họ đã tự viết ra những lời tiên tri cũng như mục đích
được viết trong mỗi trường hợp (EsIs 8:1; 30:8; HaKb 2:2; Gie Gr 29:1;
29:25). Chắc chắn những trường hợp này minh họa sự kiện các nhà tiên tri
đã viết ra sứ điệp của họ trong nhiều cơ hội. Vậy, không có lý do gì cho thấy
họ không thể đã viết nhiều hơn. Ngoài ra, các sách Sử Ký chứa đựng những
trích dẫn đáng kể về những ký thuật được lưu giữ bởi các nhà tiên tri
(ISu1Sb 29:29; IISu 2Sb 20:34; 9:29; 26:22; 12:15; 32:32; 13:22; 33:19).
Nhiều sách tiên tri cho thấy chính các nhà tiên tri đã sắp xếp cẩn thận sách
tiên tri của mình. Đọc kỹ Ê-xê-chi-ên Exe Ed 1:1; 8:1; 20:1; 24:1; 33:21;
40:1, chúng ta sẽ thấy sách Ê-xê-chi-ên được sắp xếp một cách cẩn thận, với
thứ tự niên đại chính xác và cấu trúc rất rõ ràng. Sách phản ảnh chức vụ của
Ê-xê-chi-ên với hai giai đoạn nổi bật và sứ điệp của nó. Chú ý đến 24:2 và
33:21-22 và nội dung của các chương 25-32 ở giữa sách phân chia phần một
(chương 11-24) và phần hai (chương 33-48) của sách, chúng ta sẽ thấy có sự
sắp xếp mạch lạc và cho thấy rằng chính Ê-xê-chi-ên đã viết sách này. Điều
này ăn khớp với sự kiện một số bài diễn thuyết dài hoặc bài giảng có thể đã
được viết, hơn là chỉ được nói ra, từ lúc rất sớm. Ký thuật về khải tượng đền
thờ (40-48) hầu như chắc chắn đã được viết ra.
A-ghê là một sách khác trong đó những lời tiên tri được ghi niên đại chính
xác (AgKg 1:1; 2:1; 2:10, 20). Cấu trúc rõ ràng và đơn giản, với ký thuật
vắn tắt, gọn, rõ về các sứ điệp và đáp ứng của dân sự.
Các sách khác như Xa-cha-ri hoặc Ma-la-chi, có chứng cớ của một cấu trúc
được sắp xếp cách cẩn thận (dù không quá rõ hoặc đơn giản như trong
trường hợp Ê-xê-chi-ên hoặc A-ghê).
Những nhận xét này tuy không trả lời đầy đủ hay xác định cho các vấn đề
của chúng ta nhưng đó là một phần chứng cớ giúp chúng ta đánh giá các
phương pháp nghiên cứu về sự hình thành các sách tiên tri như đã trình bày
ở trên.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MỘT SÁCH TIÊN TRI
Một số người quan niệm mọi sự trong Kinh Thánh phải rõ ràng cho tất cả
những người đọc nó, chẳng cần phải nghiên cứu, cũng chẳng cần bất luận sự
trợ giúp nào từ bên ngoài. Lý do đưa ra là nếu Đức Chúa Trời đã viết Kinh
Thánh cho chúng ta (toàn thể các tín hữu), thì chúng ta phải có khả năng
thông hiểu nó ngay lần đầu tiên chúng ta đọc nó, vì chúng ta có Đức Thánh
Linh bên trong. Quan niệm như thế là sai lầm. Nhiều phần trong Kinh Thánh
chỉ rõ ràng trên bề mặt, nhưng nhiều phần khác thì không. Các tư tưởng của
Đức Chúa Trời vốn sâu nhiệm vô cùng so với ý nghĩ của con loài người (Thi
Tv 92:5; EsIs 55:8), do đó đừng ngạc nhiên khi có vài phần trong Kinh
Thánh đòi hỏi phải có thì giờ và nghiên cứu kiên nhẫn mới có thể hiểu được.
Thiết tưởng chúng tôi cần nhắc lại ở đây là có ba nguồn trợ giúp đang ở
trong tầm tay bạn, đặc biệt là với việc giải nghĩa các sách tiên tri. Nguồn thứ
nhất là các bộ Thánh Kinh Tự Điển cung cấp bối cảnh lịch sử của từng sách,
bố cục cơ bản của nó, các nét đặc trưng ẩn chứa trong đó, và các vấn đề về
giải nghĩa mà mỗi độc giả phải biết. Bạn nên tập thói quen đọc một bài viết
trong Thánh Kinh Tự Điển về một sách tiên tri nào đó trước khi bạn bắt đầu
nghiên cứu sách ấy. Bạn cần biết số thông tin liên hệ đến bối cảnh trước khi
có thể nắm được luận điểm của phần lớn những gì nhà tiên tri muốn truyền
đạt. Lời Đức Chúa Trời qua các tiên tri đến với mọi người trong những hoàn
cảnh cá biệt . Giá trị của nó cho chúng ta tùy thuộc một phần vào khả năng
hiểu rõ các hoàn cảnh ấy, để đến lượt mình, chúng ta có thể ứng dụng cho
hoàn cảnh cá biệt của chúng ta.
Nguồn trợ giúp thứ hai là các sách giải nghĩa . Các bộ sách này cung cấp
nhiều phần dẫn nhập dài cho từng sách, có phần giống với các bộ Thánh
Kinh Từ Điển. Tuy thường ít được sắp xếp kỹ lưỡng nhưng điều quan trọng
là chúng cung cấp nhiều phần giải nghĩa cho nhiều câu riêng biệt. Chúng có
thể trở thành cần thiết nếu bạn muốn nghiên cứu kỹ một phần tương đối nhỏ
của một sách tiên tri, nghĩa là ít hơn một chương mỗi lần.
Nguồn trợ giúp thứ ba là những cuốn Thánh Kinh Đại Cương . Quyển sách
tốt nhất thuộc loại này kết hợp các nét đặc trưng của các quyển Thánh Kinh
Tự Điển lẫn các sách chú giải, tuy không đi sâu vào các chi tiết như các tài
liệu dẫn nhập, cũng không giải nghĩa từng câu một. Tuy nhiên mỗi lần đọc
nhiều chương của một sách tiên tri, thì một sách Thánh Kinh Đại Cương có
thể cung cấp rất nhiều hướng dẫn hữu ích với số thì giờ tối thiểu.
Để có thể hiểu đúng sứ điệp các sách tiên tri, chúng ta cần nghiên cứu những
điểm quan trọng sau đây:
I. NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN
A. NGHIÊN CỨU BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Đối với các sách tiên tri, bối cảnh lịch sử có thể bao quát (thời đại của các
nhà tiên tri) hoặc đặc thù (bối cảnh của từng lời sấm truyền). Muốn thực
hiện tốt công tác giải kinh đối với tất cả các sách tiên tri, bạn cần hiểu rõ cả
hai loại bối cảnh lịch sử này.
1. Bối cảnh bao quát
Điều lý thú đáng ghi nhận là mười sáu sách tiên tri của Cựu Ước đã ra đời từ
một giai đoạn có thể nói là nhỏ hẹp trong toàn cảnh lịch sử dân Y-sơ-ra-ên,
nghĩa là từ khoảng 760-460 T.C.. Tại sao chúng ta lại không có các sách tiên
tri ngay từ thời của Áp-ra-ham (khoảng năm 1800 T.C.) hoặc từ thời của
Giô-suê (khoảng 1400 T.C.), hay vào thời của Đa-vít (khoảng 1000 T.C.)?
Phải chăng Đức Chúa Trời đã không phán dạy dân Ngài và thế giới của họ
trước năm 760 T.C.? Tất nhiên câu trả lời là Ngài có làm việc ấy, và chúng ta
đã có rất nhiều tài liệu trong Kinh Thánh về các thời kỳ đó, kể cả một số tài
liệu đề cập đến các tiên tri (thí dụ IVua 1V 17:1-24; IIVua 2V 13:1-25). Hơn
nữa, nên nhớ rằng Đức Chúa Trời đã đặc biệt phán dạy dân Y-sơ-ra-ên trong
Luật Pháp, vốn đã được hoạch định cứ đứng vững suốt phần còn lại của lịch
sử dân tộc, cho đến khi Giao Ước Mới sẽ thay thế cho nó (Gie Gr 31:31-34).
Thế tại sao lại có việc tập trung để viết lại lời tiên tri suốt ba thế kỷ, giữa A-
mốt (khoảng 760 T.C.), sách sớm nhất trong số các sách tiên tri đã được viết
ra và Ma-la-chi (khoảng 460 T.C.), là sách tiên tri cuối cùng? Câu trả lời là
giai đoạn này trong lịch sử dân Y-sơ-ra-ên đã được dành đặc biệt cho việc
“đứng trung gian để khiến cho giao ước có hiệu lực,” và đó là nhiệm vụ của
các tiên tri. Còn một yếu tố thứ hai nữa là Đức Chúa Trời muốn ghi chép lại
những lời cảnh cáo và các phước hạnh mà các nhà tiên tri thay mặt Đức
Chúa Trời để thông báo suốt những năm then chốt này cho cả phần lịch sử
tiếp theo sau đó.
Những năm này có ba đặc điểm: (1) sự phục hưng chưa từng có trước đó về
các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế và xã hội; (2) sự bất trung cao độ
về mặt tôn giáo, và khinh thường giao ước của Môi-se; và (3) nhiều thay đổi
về dân số và các ranh giới quốc gia. Trong những tình hình như thế, Lời Đức
Chúa Trời cần được làm cho mới lại. Vì thế Ngài đã dấy lên nhiều tiên tri để
thông báo Lời Ngài.
Trong khi sử dụng Thánh Kinh Tự Điển, Thánh Kinh Đại Cương và sách
chú giải, bạn sẽ nhận thấy vào năm 760 T.C., xứ Y-sơ-ra-ên đã vĩnh viễn bị
chia đôi do một cuộc nội chiến kéo dài. Các chi phái ở phía Bắc gọi là “Y-
sơ-ra-ên” (có khi gọi là “Ép-ra-im”) đã ly khai với chi phái Giu-đa ở phía
Nam. Miền Bắc, nơi việc bất tuân giao ước vượt xa tất cả những gì đã được
biết trong xứ Giu-đa, đã bị Đức Chúa Trời ghi vào danh sách là sẽ bị hủy
diệt vì cớ tội lỗi của nó. A-mốt, bắt đầu trước sau năm 760 và Ô-sê, bắt đầu
từ trước sau năm 755 đã thông báo là sự hủy diệt đang treo trên đầu. Năm
722 T.C., Miền Bắc đã sa vào tay A-sy-ri là siêu cường quốc tại Trung Đông
lúc đó. Từ đó trở đi, tội lỗi của Giu-đa cứ gia tăng và sự dấy lên của một siêu
cường quốc khác nữa là Ba-by-lôn, đã cấu thành đề tài cho nhiều nhà tiên tri,
kể cả Ê-sai, Giê-rê-mi, Giô-ên, Mi-chê, Na-hum, Ha-ba-cúc, Sô-phô-ni. Xứ
Giu-đa cũng bị hủy diệt vì sự không vâng lời năm 587 T.C. Sau đó, Ê-xê-
chi-ên, Đa-ni-ên, A-ghê, Xa-cha-ri và Ma-la-chi đã thông báo ý chỉ của Đức
Chúa Trời về sự phục hồi của con dân Ngài (bắt đầu với việc hồi hương từ
cuộc lưu đày năm 538 T.C.), việc tái lập quốc gia và tôn giáo. Tất cả mọi
việc này đều theo đúng mẫu mực cơ bản đã được ấn định trong PhuDnl
4:25-31.
Phần lớn các tiên tri đã truyền phán trực tiếp các biến cố này . Nếu bạn
không biết các biến cố đó và nhiều biến cố khác trong giai đoạn này - vốn
quá nhiều để có thể nêu ra ở đây - thì có lẽ bạn sẽ không thể nào theo dõi kịp
những gì các tiên tri muốn nói. Đức Chúa Trời đã phán trong lịch sử và về
lịch sử. Muốn thấu triệt Lời Ngài, chúng ta phải hiểu biết đôi điều về lịch sử
ấy.
2. Các bối cảnh đặc thù
Mỗi lời sấm truyền của nhà tiên tri đều được truyền phán trong một bối cảnh
lịch sử cụ thể. Đức Chúa Trời đã nhờ các nhà tiên tri Ngài phán dạy dân
chúng vào một thời gian và địa điểm nhất định nào đó, cũng như trong
những hoàn cảnh nhất định. Do đó sự hiểu biết về niên đại, thính giả và hoàn
cảnh - khi có thể biết được - sẽ góp phần chủ yếu cho khả năng lãnh hội lời
tiên tri của người đọc.
Hãy đọc OsHs 5:8-10, một sấm truyền ngắn gọn, tự nó vốn đã đầy đủ, tập
họp nhiều sấm truyền khác trong chương này. Một người am hiểu thời thế
lúc bấy giờ sẽ vạch rõ cho bạn thấy sự kiện sấm truyền này có hình thức của
một sấm truyền chiến tranh, một hình thức sấm truyền thông báo sự phán xét
của Đức Chúa Trời do việc chiến chinh đem đến. Thường các yếu tố của một
hình thức như vậy gồm có: tiếng còi báo động, phần mô tả cuộc tấn công và
lời tiên báo thất trận. Giống như cách nó giúp nhận ra phần hình thức, nó
cũng giúp nhận ra phần nội dung cụ thể nữa.
Niên đại là năm 734 T.C. Thính giả là dân Y-sơ-ra-ên ở miền Bắc (được gọi
là Ép-ra-im) là những người đang được Ô-sê truyền giảng cho. Thông điệp
được dành đặc biệt cho một số thành phố nằm trên con đường đi từ thủ đô
của xứ Giu-đa là Giê-ru-sa-lem, đến trung tâm thờ tà thần của dân Y-sơ-ra-
ên là Bê-tên. Hoàn cảnh là chiến tranh. Giu-đa đang phản công lại Y-sơ-ra-
ên sau khi Y-sơ-ra-ên và Sy-ri xâm lăng xứ Giu-đa (xem IIVua 2V 16:5).
Cuộc xâm lăng đã bị đánh trả nhờ sự trợ giúp của siêu cường quốc A-sy-ri
(16:7-9). Thông qua Ô-sê, Đức Chúa Trời báo động theo nghĩa bóng cho các
thành phố nằm trong lãnh thổ Bên-gia-min (OsHs 1:8) vốn là một phần của
vương quốc miền Bắc. Sự hủy diệt là chắc chắn (c.9) vì Giu-đa sẽ chiếm lấy
vùng lãnh thổ mà nó xâm lấn. Nhưng rồi cả Giu-đa cũng sẽ phải trả món nợ
của nó. Cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời cũng sẽ giáng trên họ, cả vì hành
động chiến tranh này, lẫn vì tội thờ thần tượng của họ (IIVua 2V 16:2-4). Cả
Giu-đa lẫn Y-sơ-ra-ên đều bị giao ước giữa họ với Đức Chúa Trời trói buộc,
mà giao ước ấy đã cấm một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn như thế.
Cho nên Đức Chúa Trời sẽ trừng phạt việc họ đã vi phạm giao ước này của
Ngài.
Biết được các sự kiện trên tạo sự khác biệt rất nhiều cho khả năng tìm hiểu
lời sấm truyền trong OsHs 5:8-10. Hãy tham khảo các bộ sách giải nghĩa
hoặc Thánh Kinh Đại Cương khi bạn đọc các sách tiên tri, và như việc vẫn
luôn luôn phải làm là hãy cố tìm hiểu niên đại, thính giả và hoàn cảnh của
các sấm truyền mà bạn đang đọc.
B. TÁCH RỜI TỪNG SẤM TRUYỀN
Khi ta thật sự muốn nghiên cứu hay đọc thật đầy đủ các thông tin để giải
nghĩa các sách tiên tri, điều đầu tiên ta phải tập làm là suy nghĩ từng sấm
truyền . Không phải lúc nào điều này cũng dễ làm, nhưng biết rõ chỗ khó
khăn và sự cần thiết phải làm như thế là khởi điểm cho một phát hiện đầy
phấn khởi rồi.
Trong phần lớn các trường hợp, điều nhà tiên tri nói được trình bày trong
sách của họ một cách dồn dập. Nghĩa là những lời họ đã nói nhiều lần và từ
nhiều nơi khác nhau qua nhiều năm chức vụ đều được sưu tập và viết ra
chung với nhau, không có sự phân chia nào để chỉ cho thấy đến đâu thì một
lời sấm chấm dứt và một lời sấm khác bắt đầu. Hơn nữa, cả khi một lời sấm
có thể phỏng đoán ra là đã kết thúc nhờ có sự thay đổi đề tài, và có lẽ là một
lời sấm khác được bắt đầu, thì việc thiếu lời giải thích (nghĩa là các điểm lưu
ý hoặc chuyển tiếp) khiến ta phải thắc mắc tự hỏi: “Mấy lời này đã được nói
ra nhân cùng một ngày cho cùng một nhóm thính giả hay đã được nói ra
nhiều năm sau - hoặc sớm hơn - cho một nhóm người khác, nhân nhiều hoàn
cảnh khác?” Câu trả lời có thể khiến cho việc hiểu biết của ta sẽ khác đi rất
nhiều.
Một vài phần trong các sách tiên tri cũng có ngoại lệ. Trong sách A-ghê và
các chương đầu của sách Xa-cha-ri chẳng hạn, mỗi lời tiên tri đều có đề
ngày. Nhờ sự trợ giúp của bộ Thánh Kinh Tự Điển, Thánh Kinh Đại Cương
hay sách chú giải, bạn có thể theo dõi khá dễ dàng diễn tiến của các lời tiên
tri ấy trong bối cảnh của chúng. Và một vài lời tiên tri trong các quyển sách
khác, đáng chú ý nhất là hai sách Giê-rê-mi và Ê-xê-chi-ên, cũng đã được
tác giả đề ngày và đặt vào một bối cảnh như thế.
Nhưng không phải lúc nào sự việc cũng như vậy. Thí dụ, khi đọc A-mốt
chương 5 trong một bản dịch Kinh Thánh không có các tiêu đề giải thích
được thêm vào (các tiêu đề này chỉ là ý kiến riêng của các học giả mà thôi),
hãy tự hỏi phải chăng cả chương này đều chỉ là một lời tiên tri (sấm truyền)
duy nhất hay không? Nếu nó là một lời tiên tri duy nhất, tại sao lại có quá
nhiều lần thay đổi chủ đề như thế (bài ca thương về việc dân Y-sơ-ra-ên bị
hủy diệt, câu 1-3 lời mời gọi hãy tìm kiếm Đức Chúa Trời để được sống câu
5-6,14 những lời phản đối sự bất công xã hội, câu 7-13 lời tiên báo các khổ
nạn, câu 16-17 phần mô tả ngày của Đức Giê-hô-va, câu 18-20 phần chỉ
trích việc thơ phượng giả dối, câu 21-24 và một phần kiểm điểm vắn tắt lịch
sử đầy tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên mà cao điểm là lời tiên báo về cuộc lưu
đày, câu 25-27)? Nếu nó không phải là một sấm truyền duy nhất, thì phải
hiểu các thành phần riêng rẽ đã cấu thành nó như thế nào? Phải chăng chúng
đều độc lập đối với nhau? Có một số nào có thể tập họp lại với nhau không?
Nếu có, thì tập họp lại như thế nào?
Thật ra, nhiều người đồng ý rằng chương 5 chứa đựng đến ba lời sấm truyền.
Các câu 1-3 tạo thành một bài ca thương ngắn thông báo sự trừng phạt, các
câu 4-17 tạo thành một lời sấm riêng (tuy phức tạp) về lời mời gọi hãy nhận
phước hạnh và lời cảnh cáo về sự trừng phạt, còn các câu 18-27 họp thành
một lời sấm duy nhất (cũng phức tạp) cảnh cáo về sự trừng phạt. Như thế,
không phải hễ mỗi lần có thay đổi đề tài chút ít thì đều là dấu chỉ về điểm
bắt đầu của một lời sấm mới. Mặt khác, sự phân chia các chương cũng
không phù hợp với từng lời sấm riêng rẽ. Phải tách rời các lời sấm bằng cách
chú ý đến các hình thức đã được biết rõ về chúng (xem dưới đây). Cả ba lời
sấm trong chương 5 đều được ban truyền vào cuối thời trị vì của vua Giê-rô-
bô-am của Y-sơ-ra-ên (793-753 T.C.), cho một dân tộc mà sự thịnh vượng
tương đối đã khiến họ không thể nghĩ rằng đất nước họ sẽ bị tàn phá đến độ
không còn tồn tại nữa chỉ trong vòng một thế hệ mà thôi. Một cuốn Thánh
Kinh Từ Điển hoặc Thánh Kinh Đại Cương hay sách chú giải tốt sẽ giải
thích những việc như thế cho bạn khi bạn đọc nó. Đừng tự gây trở ngại cho
mình cách không cần thiết bằng cách không cần tham khảo các sách như thế.
Vì việc tách riêng từng lời sấm truyền là một trong những chìa khóa để hiểu
rõ các sách tiên tri, nên điều quan trọng là bạn phải biết các hình thức khác
nhau mà các tiên tri đã dùng để viết các sấm truyền. Toàn bộ Kinh Thánh
được soạn thảo bằng rất nhiều thể loại và hình thức văn chương. Cũng vậy,
các tiên tri đã sử dụng nhiều loại hình văn chương để phục vụ cho những
bức thông điệp được Đức Chúa Trời linh cảm cho họ. Các sách chú giải có
thể nhận diện và giải thích các hình thức ấy. Trong các sách tiên tri, các thể
loại văn chương phổ biến nhất là thể loại kiện tụng, lên án, rủa sả, ngăm đe,
lời hứa (xem lại chương 1).
C. ÁP DỤNG SỨ ĐIỆP TRONG BỐI CẢNH HIỆN TẠI :
Nhiệm vụ giải kinh là phải đặt các Tiên Tri vào chính bối cảnh lịch sử của
họ, và nghe được những gì Đức Chúa Trời muốn nói gì với dân Y-sơ-ra-ên
qua họ, sau đó tìm hiểu Lời Đức Chúa Trời muốn phán gì cho chúng ta qua
các sấm truyền thi ca linh cảm từng được truyền phán cho dân tộc của Ngài
thời xưa. Thứ nhất, một khi chúng ta được nghe những gì Đức Chúa Trời đã
phán dạy họ, dù hoàn cảnh của chúng ta có rất khác xa đi chăng nữa, chúng
ta sẽ vẫn thường nghe lại chúng một lần nữa ngay trong các hoàn cảnh tình
hình của chúng ta theo một cách khác. Ngày nay sự phán xét của Đức Chúa
Trời vẫn luôn luôn chờ đợi những kẻ “bán kẻ nghèo lấy một đôi dép"
(AmAm 2:6), hoặc lợi dụng tôn giáo làm chiếc áo choàng để che đậy lòng
tham lam và sự bất nghĩa (EsIs 1:10-17), hoặc pha lẫn các tội thờ thần tượng
hiện đại (như thái độ tự xưng là công chính) với Phúc Âm của Đấng Christ
(OsHs 13:2-4). Các tội này cũng chính là các tội trong thời đại của Giao Ước
Mới nữa.
Nhưng ngoài các loại ứng dụng ấy ra, còn ba vấn đề khác cần được đề cập:
một là phải cẩn trọng, một vấn đề nữa là về mối quan tâm và một vấn đề
khác nữa là về sự lợi ích.
1. Cần thận trọng về các lời tiên báo tương lai
Ngay từ đầu chúng ta đã lưu ý rằng công tác chính của các tiên tri không
phải là báo trước tương lai xa. Lẽ dĩ nhiên là họ có tiên báo các biến cố
tương lai, nhưng phần lớn là tương lai mà bây giờ đã trở thành quá khứ rồi.
Nghĩa là họ nói về sự phán xét hay cứu rỗi sắp đến trong một tương lai
tương đối rất gần với dân Y-sơ-ra-ên, chứ không phải là tương lai của chính
chúng ta. Chúng ta phải thận trọng là muốn thấy lời tiên tri của các vị ứng
nghiệm, chúng ta phải “nhìn lui trở lại” các thời kỳ mà đối với các vị là
tương lai, nhưng đối với chúng ta thì đã là quá khứ. Nguyên tắc giảng kinh
này cần được minh họa.
Về trường hợp các sứ điệp tiên tri vốn chú trọng vào một tương lai gần chứ
không phải một tương lai xa, chúng tôi đề nghị bạn đọc một mạch các
chương từ 25-39 của sách Ê-xê-chi-ên. Cần lưu ý là nhiều sấm ký trong khối
lớn tài liệu này vốn liên quan đến số phận của các dân tộc khác chứ không
phải là dân Y-sơ-ra-ên, tuy dân Y-sơ-ra-ên cũng được đề cập tới. Điều quan
trọng là phải thấy rằng những gì Đức Chúa Trời nói về số phận của các dân
tộc ấy và phần ứng nghiệm thì đã đến “chỉ trong vòng vài thập kỷ” sau khi
các lời tiên tri ấy được công bố, nghĩa là phần lớn là trong thế kỷ thứ sáu
T.C.. Lẽ dĩ nhiên là nguyên tắc này cũng có những ngoại lệ cá biệt. Exe Ed
37:15-28 mô tả thời đại Tân Ước, và các phước hạnh mà Đức Chúa Trời sẽ
đổ xuống trên Hội Thánh thông qua Đấng Mết-si-a. Nhưng phần lớn các lời
tiên tri, kể cả những lời tiên tri trong hai chương 38 và 39 (hãy tra cứu một
bộ sách chú giải về hai chương này) đều liên quan đến các thời kỳ về biến cố
Cựu Ước.
Quá nhiệt thành trong việc đồng hóa các biến cố Tân Ước với lời tiên tri
Cựu Ước có thể dẫn tới nhiều hậu quả kỳ quặc. Câu trong EsIs 49:23 đề cập
các vua “sẽ cúi mặt sát đất ở trước mặt ngươi” nghe ra khá giống với việc ba
nhà thông thái đến viếng con trẻ Giê-xu (Mat Mt 2:1-11) để khuyến khích
nhiều người cho rằng mấy lời này của Ê-sai ám chỉ Đấng Mết-si-a. Một lời
lý giải như thế đã bỏ qua bối cảnh (cả các vua lẫn các hoàng hậu đều được
đề cập; vấn đề của khúc sách này là việc phục hồi địa vị cho dân Y-sơ-ra-ên
sau cuộc lưu đày), ý định (ngôn ngữ của lời sấm này nhằm chứng minh xứ
Y-sơ-ra-ên sẽ rất được trọng vọng một khi Đức Chúa Trời đã phục hồi địa vị
cho nó), văn phong (là thi ca biểu tượng, dùng hình ảnh các vua của các dân
các nước tự xem họ là bà con cùng một vú nuôi với dân tộc Y-sơ-ra-ên, và
liếm bụi đất dưới chân dân tộc ấy) và từ ngữ (Magi - các nhà thông thái là
các nhà hiền triết/chiêm tinh gia, chứ không phải là các vua). Chúng ta phải
thận trọng, đừng khiến cho các lời tiên tri, hay bất luận một thành phần nào
trong Kinh Thánh nói những gì mà chúng ta thích cho là câu ấy muốn nói.
Chúng ta phải lắng nghe điều mà “Đức Chúa Trời” muốn cho câu nói ấy.
Lẽ dĩ nhiên là cũng phải lưu ý rằng một số các lời tiên tri về tương lai gần đã
được đặt vào bối cảnh của một tương lai rộng lớn có tính lai thế, và nhiều
khi dường như chúng đã bị hòa lẫn vào trong đó. Chúng tôi lại sẽ đề cập vấn
đề này trong chương 13. Hiện tại, xin lưu ý lý do của việc ấy là Thánh Kinh
vẫn thường nhìn thấy các hành động của Đức Chúa Trời trong lịch sử tạm
thời trong viễn tượng của kế hoạch toàn diện của Ngài cho cả lịch sử nhân
loại. Cho nên cái tạm thời phải được nhìn thấy trong viễn tượng của kế
hoạch đời đời. Sự việc cũng giống như khi ta nhìn vào hai cái đĩa; cái nhỏ
hơn nằm trong cái lớn hơn theo cách nhìn thẳng; rồi theo viễn cảnh của lịch
sử nối tiếp nhau, việc trước đi trước, việc sau đi sau, nên theo cách nhìn trắc
diện (nhìn ngang) ta sẽ thấy là việc trước thật ra đã cách xa với việc sau.
Như thế, trong các sách tiên tri, có một số sự việc có vẻ như thuộc vào số
các biến cố cuối cùng của thời đại (thí dụ, Gio Ge 3:1-3; SoXp 3:8-9; XaDr
14:9). Nhưng những cuộc phán xét tạm thời thường được đề cập gắn liền với
các biến cố cuối cùng ấy không thể cũng bị đẩy vào trong cái tương lai ấy.
Ngoài ra chúng ta cũng cần lưu ý rằng ngôn ngữ lai thế theo bản tính thường
có nghĩa bóng. Nhiều khi chính các hình bóng ấy diễn tả các biến cố sau
cùng bằng ngôn ngữ của thi ca, nhưng không nhất thiết có ý định báo trước
chính các biến cố ấy. Một thí dụ là trong Ê-xê-chi-ên Exe Ed 37:1-4 sử dụng
ngôn ngữ đề cập sự sống lại của kẻ chết, một biến cố mà chúng ta biết là sẽ
xảy ra vào lúc “kết thúc” của thời đại này; qua Ê-xê-chi-ên, Đức Chúa Trời
đã tiên báo việc dân Y-sơ-ra-ên sẽ từ cuộc lưu đày Ba-by-lôn hồi hương vào
thế kỷ thứ sáu (cc.12-14). Như thế, một biến cố mà đối với chúng ta đã là
quá khứ rồi (như đã được mô tả trong E-xơ-ra Exo Er 1:1-2:68) đã được nói
tiên tri theo nghĩa bóng bằng ngôn ngữ lai thế, dường như đó là một biến cố
của ngày tận thế vậy.
2. Lời tiên tri và ý nghĩa thứ hai
Một số chỗ trong Tân Ước có những câu trích dẫn được bảo là từ Cựu Ước,
nhưng dường như những khúc sách ấy trong Cựu Ước không đề cập điều mà
Tân Ước cho là Cựu Ước đề cập. Nghĩa là những khúc sách như thế dường
như vốn có ý nghĩa rõ ràng trong bối cảnh nguyên thủy của chúng trong Cựu
Ước, nhưng lại được một tác giả Tân Ước dùng với ý nghĩa khác hẳn.
Chẳng hạn, hai câu chuyện về cách thức Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên đã được
cung cấp nước bằng phép lạ là khiến nước từ các tảng đá chảy ra trong sa
mạc, một lần tại Rê-phi-đim (XuXh 17:1-7) và một lần tại Ca-đe (Dan Ds
20:1-13). Các câu chuyện này có vẻ khá đơn giản và rất rõ ràng trong các
bối cảnh nguyên thủy của chúng. Nhưng trong ICo1Cr 10:4 dường như
Phao-lô muốn đồng hóa từng trải đó của dân Y-sơ-ra-ên với cuộc gặp gỡ với
Đấng Christ. Ông nói: “(Họ) uống một thứ uống thiêng liêng; vì họ uống nơi
một hòn đá thiêng liêng theo mình, và đá ấy tức là Đấng Christ.” Trong cả
hai câu chuyện trong Cựu Ước, đã chẳng hề có ý muốn nói bóng gió gì về
một tảng đá có ý nghĩa gì khác hơn là một tảng đá. Phao-lô đã ban cho tảng
đá một ý nghĩa thứ hai, đồng hóa nó với “Đấng Christ.” Ý nghĩa thứ hai này
thường được gọi là sensus plenior (ý nghĩa đầy đủ hơn).
Nhờ suy nghĩ, ta có thể thấy là Phao-lô đã dùng suy luận loại suy. Thật ra,
ông ngụ ý nói rằng: “Với họ, tảng đá ấy giống như Chúa Cứu Thế đối với
chúng ta - Ngài là một nguồn nâng đỡ, tiếp trợ theo đúng như cách mà
những điều thuộc linh nâng đỡ, chu cấp cho chúng ta vậy.” Ngôn ngữ của
Phao-lô trong mấy câu 2-4 vốn đầy nghĩa bóng. Ông muốn người Cô-rinh-tô
hiểu rằng từng trải của dân Y-sơ-ra-ên trong sa mạc có thể được hiểu như có
nghĩa bóng, ám chỉ chính từng trải của họ với Chúa Cứu Thế, nhất là tại Bàn
Tiệc Thánh.
Ngày nay, chúng ta là các độc giả hiện đại rất khó có thể tự mình nhận thấy
những điểm giống nhau này theo cách Phao-lô đã mô tả nó. Nếu Phao-lô
không viết mấy lời trên đây, chúng ta có thể đồng hóa đám mây và biển với
phép báp-tem (c.2) hoặc tảng đá với Chúa Cứu Thế (c.4) hay không? Nói
khác đi, chúng ta có thể tự mình xác định một sensus plenior hay ý nghĩa thứ
hai nào đến một mức độ chắc chắn nào đó hay không? Câu trả lời là không.
Đức Thánh Linh đã cảm thúc Phao-lô để viết về một mối liên hệ tương tự
giữa dân Y-sơ-ra-ên trong sa mạc với sự sống trong Chúa Cứu Thế mà chẳng
cần phải theo các quy luật thông thường nào về bối cảnh , ý định , bút pháp
và chữ nghĩa cả (xem mục Tiên Tri Là Người Tiên Báo Tương Lai ở phần
trên). Đức Thánh Linh đã hướng dẫn Phao-lô mô tả sự kiện dân Y-sơ-ra-ên
đã nhận được nước từ những tảng đá nhiều hơn một lần bằng thứ ngôn ngữ
theo nghĩa bóng và không bình thường là có một tảng đá đã “đi theo” họ.
Nhiều chi tiết khác nữa trong ngôn ngữ mô tả mà Phao-lô dùng trong 10:1-4
(những từ ngữ không theo nghĩa đen như “tổ phụ chúng ta” trong câu 1 và
“thứ ăn thiêng liêng” và “thứ uống thiêng liêng” (cc 3-4) đều cũng rõ ràng là
bất bình thường như thế.
Tuy nhiên, chúng ta không phải là các trước giả được linh cảm để viết Kinh
Thánh. Chúng ta không được phép làm điều mà Phao-lô đã làm. Các mối
liên hệ theo nghĩa bóng mà ông đã được linh cảm để tìm ra giữa Cựu Ước và
Tân Ước là đáng tin cậy. Nhưng chẳng thấy có chỗ nào trong Kinh Thánh
dạy chúng ta rằng: “Hãy đi và làm giống như thế.” Cho nên nguyên tắc là:
Sensus plenior (ý nghĩa đầy đủ hơn ) là một chức năng của sự linh cảm , chứ
không phải là của sự soi sáng . Cùng một Đức Thánh Linh đã linh cảm một
tác giả Cựu Ước viết ra một số từ ngữ hay khúc sách nào đó, có thể linh cảm
một tác giả Tân Ước bỏ qua việc tôn trọng bối cảnh, ý hướng, bút pháp và
chữ nghĩa thông thường để đồng nhất hóa số từ ngữ hoặc khúc sách đó để
cho nó có thêm một ý nghĩa thứ hai. Nhưng chúng ta không phải là những
tác giả được linh cảm. Chúng ta chỉ là các độc giả được soi sáng. Linh cảm
là động cơ thúc đẩy nguyên thủy để trước tác Kinh Thánh theo cách thức
nào đó. Soi sáng là cái nhìn thông tuệ để hiểu điều các tác giả Kinh Thánh
đã viết. Chúng ta không thể viết lại hay tái định nghĩa Kinh Thánh viện lẽ là
mình đã được soi sáng. Chúng ta chỉ có thể tin nhận được một sensus plenior
đến một mức độ nào sau khi đã có sự kiện xảy ra mà thôi. Một sự việc
không thể được nhận diện quả quyết như là một sensus plenior từ Cựu Ước
do chúng ta tự quyền quyết định, trừ phi khi sự việc đã được nhận diện là
một sensus plenior trong Tân Ước.
Các sách nghiên cứu Kinh Thánh, sách giải nghĩa, Thánh Kinh Đại Cương
và các bản dịch Kinh Thánh có những cột hướng dẫn tham cứu đều có xu
hướng chỉ ra những khúc sách tiên tri trong Cựu Ước có một ý nghĩa thứ hai
trong Tân Ước. Một số thí dụ tiêu biểu, nơi Tân Ước có thêm một ý nghĩa
thứ hai là: Mat Mt 1:22-23 (Exe Ed 7:14) 2:15 (OsHs 11:1) 2:17-18 (Gie Gr
31:15) GiGa 12:15 (XaDr 9:9).
Chúng ta chỉ cần lấy một trong những trường hợp trên đây để minh họa cho
hiện tượng về ý nghĩa thứ hai đã được gán cho một khúc sách tiên tri: Mat
Mt 2:15. Trong OsHs 11:1 chúng ta đọc thấy: “Khi Y-sơ-ra-ên còn thơ ấu , ta
yêu dấu nó (và ) ta đã gọi con trai ta ra khỏi Ai Cập .”
Trong sách Ô-sê, bối cảnh là việc dân Y-sơ-ra-ên được cứu khỏi Ai Cập nhờ
biến cố Xuất Ai Cập. Ý định là muốn chứng minh thế nào Đức Chúa Trời đã
yêu mến dân Y-sơ-ra-ên chẳng khác gì yêu mến chính con trai của Ngài vậy.
Văn phong là phép song đối đồng nghĩa trong thi ca theo đó “con trai ta”
được buộc chặt với dân Y-sơ-ra-ên. Cách dùng chữ là theo nghĩa bóng:
chẳng có gì để thắc mắc trong việc dân Y-sơ-ra-ên đã được nhân cách hóa
thành một “con trai” trong câu này. Ngôi thứ hai trong Thượng Đế Ba Ngôi,
là Chúa Cứu Thế đã không được đề cập bằng ý nghĩa “rõ ràng” trong câu
Kinh Thánh này.
Nếu chúng ta không có câu Mat Mt 2:15 trong Kinh Thánh của mình, có lẽ
chúng ta sẽ không xem câu này trong sách Ô-sê như là một lời tiên tri chỉ
Chúa Giê-xu người Na-xa-rét. Nhưng Ma-thi-ơ vốn có điều mà chúng ta
không có. Ông có được uy quyền linh cảm từ cùng một Đức Thánh Linh đã
cảm thúc Ô-sê viết ra OsHs 11:1. Cùng một Đức Thánh Linh ấy đã cảm thúc
ông quyết định rằng lời lẽ mà Ô-sê đã dùng có thể được tái sử dụng trong
một bối cảnh, ý định, bút pháp và kết hợp với một số lời lẽ (từ ngữ, chữ
nghĩa) khác đề cập Đấng Mết-si-a. Đức Thánh Linh đã “đặt” những lời,
những chữ chọn lọc đó trong sách Ô-sê để chúng có thể sẵn sàng được tái sử
dụng kết hợp với các biến cố trong cuộc đời của Chúa Giê-xu. Ma-thi-ơ đã
không áp dụng các từ ngữ này cho Chúa Giê-xu căn cứ vào một nguyên tắc
hay một tiến trình giải kinh hay giảng kinh tiêu biểu nào cả. Thay vào đó,
ông chỉ lấy các từ ngữ ấy từ bối cảnh nguyên thủy của chúng và “cho” chúng
một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ. Ông có thẩm quyền để làm việc ấy. Chúng ta
chỉ có thể đọc và tán thưởng điều ông đã làm. Tuy nhiên, chúng ta không thể
tùy tiện làm công việc như vậy đối với bất kỳ một khúc sách nào cả.
3. Tin và sống
Thông qua các sách tiên tri, Đức Chúa Trời kêu gọi dân Y-sơ-ra-ên và Giu-
đa đời xưa giữ thế cân bằng giữa niềm tin đúng và hành động đúng. Dĩ nhiên
đó cũng chính là sự quân bình mà Giao Ước đòi hỏi (Gia Gc 1:27; 2:18; Eph
Ep 2:8-10). Điều Đức Chúa Trời muốn nơi dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa cũng là
điều Ngài muốn nơi chúng ta. Các sách tiên tri có thể được dùng như những
lời nhắc nhở của Đức Chúa Trời đối với chúng ta là phải quyết định thực
hành giao ước của Ngài. Với những ai vâng giữ các điều kiện của Giao Ước
Mới (yêu mến Đức Chúa Trời và yêu mến người lân cận mình) thì kết quả
đời đời, cuối cùng sẽ là phước hạnh, mặc dầu có thể họ không nhận được
chúng trong đời này. Đối với những kẻ không tuân giữ, thì hậu quả sẽ chỉ có
thể là sự rủa sả, bất chấp những kẻ ấy có được sống sung sướng đến đâu trên
đất này. Lời cảnh cáo trong MaMl 4:6 vẫn còn hiệu lực.
II. CÁC BƯỚC CĂN BẢN ĐỂ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu một sách tiên tri có thể dường như là điều khó khăn. Thật không
phải dễ đọc một sách tiên tri thông suốt từ đầu đến cuối. Phần đông người
đọc sách tiên tri thấy rằng thật khó tìm ra bố cục rõ ràng. Chủ đề dường như
thay đổi luôn. Ngôn ngữ thường là thi ca và biểu tượng. Thời gian thay đổi
từ quá khứ, đến hiện tại, đến tương lai; đôi khi ngay trong cùng một đoạn.
Những khải tượng, phần tường thuật và phần tiên tri trộn lẫn nhau, không có
một trình tự rõ ràng nào. Thường thật khó tìm thấy một sự sắp đặt về niên
đại.
Đó là một số trong những khó khăn trong việc nghiên cứu một sách tiên tri.
Nó có vẻ như thể chúng ta đang đi vào một khu rừng hoang! Chúng ta tìm
đường như thế nào?
Các bước căn bản trong việc nghiên cứu một sách tiên tri gồm:
1. Tìm những thông tin (chỉ dẫn ) về niên đại và địa điểm : Những thông tin
sơ khởi này thường ở đầu sách. Tìm ra càng nhiều càng tốt về bối cảnh lịch
sử (từ các sách Các Vua, Sử Ký...)
2. Tìm những thông tin về đời tư của các nhà tiên tri , sự kêu gọi và kinh
nghiệm của họ về Đức Chúa Trời : Những thông tin này có khi có ngay
trong sách tiên tri. Nhưng cũng có khi cần tham khảo trong các sách Các
Vua, Sử ký...
3. Đọc lướt qua cả sách : Tìm những chỉ dẫn khác về bối cảnh lịch sử, tình
huống lúc đó và những điểm nhấn mạnh chính của nhà tiên tri.
Bước này trong thực tế được lập đi lập lại nhiều lần, mỗi lần tìm những
phương diện khác nhau. Mỗi lần đọc, bạn sẽ tìm thấy điều mới nào đó trong
ánh sáng của những bước khác mà bạn thực hiện.
4. Tìm những chỉ dẫn về kết cấu của sách : Những chỉ dẫn này không phải
luôn luôn dễ tìm. Có khi những lời tiên tri được sắp xếp theo thứ tự niên đại
(Ê-xê-chi-ên). Có khi sẽ có một nhóm những lời tiên tri nhắc lại với các
nước ngoại bang (ví dụ Gie Gr 46:51). Có khi có một tường thuật lịch sử
(như EsIs 36:1-39:8). Có khi có một loạt những khải tượng (như AmAm
7:1-9:15; XaDr 1:1-6:15), có khi không có những chỉ dẫn rõ ràng , nhưng sự
nghiên cứu cẩn thận có thể tìm ra một đề tài căn bản.
Việc nghiên cứu kết cấu giúp cho chúng ta thấy một bức tranh tổng quát về
sách và các phần của nó, khiến dễ nắm và dễ nhớ hơn, dồng thời cũng giúp
chúng ta thấy những điểm nhấn mạnh chính của nhà tiên tri - những gì ông
bao hàm, những gì ông bỏ qua, cách ông sắp xếp nó - cũng giúp chúng ta
nắm được những điểm chính của sứ điệp của ông ta.
5. Tìm những chủ đề quan trọng và những câu chìa khóa : Những chủ đề
hiển nhiên sẽ xuất hiện cách rõ ràng. Những chủ đề khác có thể cần được
khám phá bằng sự quan sát kỹ hơn. Có thể câu nhất định nào đó sẽ nổi bật
như những tóm lược của các chủ đề này. Có thể được, cần thuộc lòng những
câu chìa khóa để dễ ghi nhớ các chủ đề.
6. Tóm tắt của chủ đề chính và sứ điệp của sách : Đến đây có thể tóm tắt
sách một cách toàn thể. Chỉ ra những chủ đề chính của nó và sứ điệp tổng
quát của nhà tiên tri, trong bối cảnh lịch sử của nó.
Sáu bước trên đây sẽ cho chúng ta nắm cách căn bản bất cứ sách tiên tri nào.
Ngoài ra để nghiên cứu một sách tiên tri, chúng ta cũng cần thực hiện thêm
những bước khác, chẳng hạn:
7. So sánh những chủ đề chính và sứ điệp của sách với các tiên tri khác và
các phần khác của Kinh Thánh : Đây là việc làm sẽ đưa ra nhiều tia sáng cả
sách mà chúng ta đang nghiên cứu, lẫn các sách khác.
8. Nghiên cứu chi tiết các phần , chương hoặc đoạn , đặc biệt của sách :
Trong phần còn lại của loạt bài này, chúng ta sẽ lược khảo các sách tiên tri
trong Cựu Ước, theo Kinh Điển Hy Bá và theo thứ tự lịch sử, nghĩa là theo
niên đại. Chúng ta sẽ bắt đầu với sách A-mốt, vì lời tiên tri của ông là sớm
nhất trong các lời tiên tri thành văn.
Hai nhà tiên tri tiếp theo mà chúng ta sẽ nghiên cứu ở hai niên đại khác
nhau, nhưng lời tiên tri có đặc tính giống nhau. Cả hai mô tả sự phán xét của
Đức Chúa Trời trên một quốc gia khác hơn Y-sơ-ra-ên hoặc Giu-đa. Đó là
Na-hum, thuộc thế kỷ thứ bảy T.C., cùng với Sô-phô-ni, Giê-rê-mi và Ha-ba-
cúc; và Áp-đia, thuộc thế kỷ thứ sáu T.C., cùng với Ê-xê-chi-ên và về sau là
A-ghê và Xa-cha-ri.
I. NHÀ TIÊN TRI VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Na-hum, trước giả viết quyển sách nầy, là một người quê quán ở Ên-cốt.
Trong xứ A-sy-ri, gần các phế tích của Ni-ni-ve, có một ngôi mộ mà dân bản
địa bảo là của Na-hum. Nhưng phần lớn các học giả có thẩm quyền nghĩ
rằng địa danh Ên-cốt nầy thuộc xứ Ga-li-lê. Ngày nay, nó chỉ còn là một phế
tích hoang tàn đổ nát.
Về tên người cũng như về thông điệp truyền giảng, “Na-hum” có nghĩa là
“an ủi” cho Giu-đa. “Đức Giê-hô-va là tốt lành, làm đồn lũy trong ngày hoạn
nạn, và biết những kẻ ẩn náu nơi Ngài” (NaNk 1:7). Đề mục lớn của Đức
Chúa Trời cho dân sự Ngài, là dân Giu-đa được giải cứu và kẻ thù của họ là
người A-sy-ri sẽ bị hủy diệt. Ca-bê-na-um, nơi Đấng Yên Ui đã làm nhiều
phép lạ, có nghĩa là “làng của Na-hum” (an ủi). Thị trấn nơi nhà tiên tri Na-
hum ra đời là Ên-cốt, vốn ở sát bên đó.
Có lẽ Na-hum là người quê quán ở Ga-li-lê, sống vào thời trị vì của minh
quân Ê-xê-chia, và của nhà đại tiên tri Ê-sai. Chắc lúc quân đội A-sy-ri bạo
tàn xâm lăng quê hương ông và bắt đi mười chi phái của Y-sơ-ra-ên, ông đã
lánh nạn xuống vương quốc Giu-đa ở phía Nam. Có lẽ ông đã đến trú ngụ tại
Giê-ru-sa-lem, nơi mà bảy năm sau đó, ông chứng kiến cảnh San-chê-ríp vây
thành phố ấy, mà kết quả là phép lạ đã hủy diệt đạo quân A-sy-ri. Chắc bạn
còn nhớ là đã có 185.000 người ngã chết chỉ trong một đêm, như đã được
ghi chép trong IIVua 2V 19:35. Có lẽ Na-hum NaNk 1:2 ám chỉ việc ấy. Ông
đã viết sách nầy ngay sau biến cố đó.
Chủ đề sách nầy là sự phá hủy Ni-ni-ve, thành phố mà Giô-na đã cảnh cáo.
Ni-ni-ve là một bị cáo mà Đức Chúa Trời sai Na-hum đến để công bố sự
phán xét công nghĩa của Ngài đối với nó. Trong việc phán xét Ni-ni-ve,
chúng ta nhìn thấy Đức Chúa Trời đang phán xét một thế gian tội lỗi. Na-
hum đã viết sách của ông chừng một trăm năm mươi năm sau cuộc phục
hưng của thời Giô-na, khi nhà tiên tri ấy đã khiến được Ni-ni-ve ăn năn
“trong tro bụi.” Lòng nhân từ mà không được chú ý, thì cuối cùng sẽ đưa
đến sự đoán phạt.
Chắc lúc đó, dân thành Ni-ni-ve đã thật lòng ăn năn, nhưng tình trạng ấy đã
không tồn tại được lâu. Họ lại sa vào cùng chính những tội lỗi mà họ từng ăn
năn. Ni-ni-ve, vinh quang của người A-sy-ri, đã đạt đến mức độ trở thành lời
thách đố hoàn toàn cố ý đối với Đức Chúa Trời hằng sống. Họ không phải
chỉ là những kẻ sa ngã! Mà họ cố ý chối bỏ Đức Chúa Trời mà họ từng tin
nhận (IIVua 2V 18:25, 30, 35; 19:10-13).
Đức Chúa Trời đã sai Na-hum tiên báo số phận khủng khiếp cuối cùng và sự
suy sụp hoàn toàn của Ni-ni-ve với đế quốc ấy. Đế quốc A-sy-ri đã được xây
lên bằng bạo lực. Người A-sy-ri là những đại chiến sĩ. Họ luôn luôn đi ra
chinh chiến để cướp bóc. Họ xây dựng quốc gia của họ bằng cách cướp phá
các dân tộc khác. Họ làm mọi sự để gây khủng khiếp kinh hoàng. Họ bảo sở
dĩ họ làm như vậy là vâng theo lời thần họ dạy bảo. Đức Chúa Trời đã định
cho người A-sy-ri phải mai một đi cách tàn bạo và khác thường. Mọi điều đó
đã xảy ra khoảng tám mươi sáu năm sau. Hãy đọc sự hung ác, tàn bạo như
thú dữ của dân tộc ấy (NaNk 2:11, 12).
A-sy-ri hưởng được một thời gian sáng chói ba trăm năm. Đế quốc ấy đã
cương quyền cả thế giới. Ni-ni-ve là kinh đô của đế quốc hùng cường đó.
Vào năm 721 T.C., nó hủy diệt Y-sơ-ra-ên và đe dọa Giu-đa, nhưng Đức
Chúa Trời thấy rõ là đế quốc ấy đã đến ngày tàn. Thông điệp của Na-hum
chứng tỏ Đức Chúa Trời có thể giải quyết một dân tộc gian ác và phản loạn
như thế nào. Ngài sẽ tận diệt họ.
Định mệnh khủng khiếp dành cho thành phố Ni-ni-ve được triển hạn chừng
một trăm năm mươi năm. Sau ngày Giô-na công bố, nhưng cuối cùng rồi nó
cũng sụp đổ. Lời tiên tri của Na-hum không kêu gọi ăn năn, nhưng là lời
khẳng định về một số phận khủng khiếp chắc chắn và dứt khoát (1:9; 3:18,
19). Tên A-sy-ri sẽ hoàn toàn bị tuyệt diệt (1:14). Đức Chúa Trời đã đào mồ
để chôn nó.
Lời tiên tri của Na-hum rất có thể đồng thời với những năm đầu của chức vụ
Giê-rê-mi, có cùng sự nhấn mạnh về sự phán xét của Đức Chúa Trời trên các
nước. Nhưng ông tập trung trên một thành phố ngoại giáo lớn đặc biệt là Ni-
ni-ve (1:1), thủ đô của A-sy-ri (3:18).
Đức Chúa Trời đã dấy A-sy-ri lên để hình phạt dân sự của Ngài. Thành Ni-
ni-ve bị sụp đổi trước liên minh quân sự của Ba-by-lôn và Mê-đi vào năm
612 T.C.. Vì Na-hum nói tiên tri có liên quan đến sự hủy diệt sắp đến của
Ni-ni-ve, nên niên đại của lời tiên tri phải trước năm 612 T.C.. Nhà tiên tri
Na-hum tham khảo một biến cố lịch sử nổi tiếng trong thời ông (3:8-10).
Đây là sự hủy diệt của thành Nô A-môn (tức Thebes), thủ đô cổ của Ai-cập,
bởi quân đội A-sy-ri năm 663 T.C.. Vậy, lời tiên tri Na-hum phải được nói
giữa năm 663 T.C. và năm 612 T.C..
II. SỨ ĐIỆP TIÊN TRI NA-HUM
A. ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ VỊ THẨM PHÁN (1:1-7)
Trong Na-hum 1, chúng ta thấy Đức Chúa Trời là Vị Thẩm Phán thánh khiết
ngồi trên ghế của tòa án trên thiên đàng, phán xử thành phố Ni-ni-ve gian ác.
Vụ án được trình bày. Đức Chúa Trời nầy là một Đức Chúa Trời công bằng,
do đó Ngài phải báo thù mọi tội ác.
Có hai điều được tiết lộ về cá tính của vị Thẩm Phán của cả thế gian nầy. Có
một câu khẳng định các thuộc tính cao quí và đầy quyền năng của Đức Chúa
Trời, cấu tạo thành phần nền tảng cho mọi hành động của Ngài đối cùng loài
người. Bài học nầy cho chúng ta một cơ hội tuyệt vời để giới thiệu các thuộc
tính của Đức Chúa Trời.
Khải tượng của nhà tiên tri về Đức Chúa Trời trong Na-hum 1:2-7 cho thấy
với tư cách là Thẩm phán, Ngài là Đức Chúa Trời hay ghen, báo thù, đầy sự
thạnh nộ (furious); cưu giận (wrathful); có quyền lớn; chẳng cầm kẻ mắc tội
là vô tội; tức giận (indiguant). Với tư cách là Cha, thì Đức Chúa Trời chậm
giận; tốt lành; làm đồn lũy trong ngày hoạn nạn; biết những kẻ ẩn náu
(nương cậy) nơi Ngài.
Bảy từ ngữ đầu của khải tượng gợi lên nỗi kinh hoàng. Đức Giê-hô-va ghen
và báo thù. Suy nghĩ về Đức Chúa Trời như thế khiến chúng ta tự xét mình.
Chúng ta sẽ thấy rằng trong người chúng ta chẳng có đức công chính. Tư
tưởng nầy phải đẩy chúng ta vào trong vòng tay yêu thương của một Cứu
Chúa vốn là Đấng “Khỏa lấp tội lỗi” chúng ta và mặc vào cho chúng ta
những chiếc áo dài của sự công chính của Ngài.
Xin chú ý là Đức Chúa Trời đã không hấp tấp giáng cơn phán xét của Ngài
trên A-sy-ri. Ngài đã kiên nhẫn suốt một thời gian dài. Ngài chậm giận,
nhưng rồi sẽ đem sự tàn hại đến. Ngài là một Đức Chúa Trời của công lý
tuyệt đối. Ngài là Đức Giê-hô-va, là Giê-hô-va Đức Chúa Trời nhơn từ,
thương xót, chậm giận, giàu ơn, kiên nhẫn và sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi.
Thế nhưng Ngài chẳng cầm kẻ mắc tội là vô tội. Giô-na từng được ở trong
mặt đầu tiên của cá tính nầy của Đức Chúa Trời, tức là tình yêu (Gion Gn
4:2). Nhưng Na-hum còn nêu ra mặt thứ hai nữa, tức là phương diện thánh
khiết của Đức Chúa Trời khiến Ngài phải đối phó với tội lỗi bằng biện pháp
phán xét (NaNk 1:2, 6). Vị Thẩm Phán thánh khiết nầy vốn công bằng, và là
Đấng biện minh (kể là công chính) cho người tin vào Chúa Giê-xu (RoRm
3:26) vì Luật Pháp thánh khiết của Ngài đã được thập tự giá của Chúa Cứu
Thế đền trả rồi.
B. BẢN ÁN DÀNH CHO NI-NI-VE (NaNk 1:8-14)
Na-hum 1:8-14 nêu rõ bản án về việc đánh và diệt thành phố Ni-ni-ve băng
hoại. Nó bị để lên cân và nhận thấy là khiếm khuyết. Bản án dành cho Ni-ni-
ve, đó là: (1) bị kết án phải tận diệt (1:8-9) (2) bị bắt trong lúc những kẻ bảo
vệ nó say sưa (1:10) (3) tên bị xoá (1:14) (4) chính Đức Chúa Trời đào mồ
cho nó 1:4).
Chúng ta không thể đọc nó mà không run rẩy vì cớ tính cách nghiêm trọng
của tất cả mọi việc đó. Na-hum đã công bố sự hủy diệt nầy như một lời tiên
tri. Ngày nay, chúng ta nhìn vào nó như đã là lịch sử rồi. Phải, Đấng Phán
Xét đã làm ứng nghiệm mọi việc đó. Ngày nay, du khách nhìn thấy thành
Ni-ni-ve của quá khứ đó vẫn còn nằm trong đổ nát hoang tàn.
Quyển Sách nầy vẽ ra cho chúng ta bức tranh về cơn thịnh nộ của Đức Chúa
Trời. Hãy đọc lại câu thứ hai một lần nữa “Giê-hô-va là Đức Chúa Trời ghen
và báo thù; Đức Giê-hô-va báo thù, và đầy sự thạnh nộ. Đức Giê-hô-va báo
thù kẻ cừu địch mình và cưu giận cho kẻ thù mình.” Đây là một bức tranh vẽ
Đức Chúa Trời và là một Đức Chúa Trời đang hành động trong cơn thịnh nộ.
Chẳng có gì là thích thú khi được nghe nhắc lại rằng Đức Chúa Trời là một
Đức Chúa Trời của sự giận dữ cũng y như Ngài vốn là một Đức Chúa Trời
của tình yêu. Nhưng cần phải nhớ rằng cả hai thuộc tính ấy đều vốn là của
Ngài. Ngài là một Đức Chúa Trời thánh khiết. Ngài thù ghét tội lỗi. Ngài sẽ
giáng sự phán xét trên nó.
C. THI HÀNH BẢN ÁN (NaNk 2:1-13)
Hãy đọc những gì Đức Chúa Trời đã phán trong hai chương sách ngắn ngủi
nầy. Chúng ta thấy một bức tranh về cuộc bao vây, thất thủ và cảnh hoang
tàn của Ni-ni-ve. Tất cả những gì Đức Chúa Trời có thể làm cho một dân tộc
phản loạn và thách đố Ngài, là hủy diệt nó.
Bức tranh về việc bao vây, thất thủ của Ni-ni-ve và cảnh hoang vu tiếp theo
đó đã được mô tả bằng tài hùng biện như khắc như họa trong Na-hum 2 và
3. Đức Chúa Trời sẽ kết thúc nó bằng một nạn lụt tràn ngập tất cả; tên nó sẽ
hoàn toàn bị xoá sạch và Ngài sẽ đào mồ cho nó. Việc các đạo quân tập họp
chung quanh Ni-ni-ve, và các lực lượng đồng loạt giày xéo bên trong thành
phố đã được tả vẽ dường như nhà tiên tri khiến những người nghe ông nhìn
thấy tất cả các khung cảnh khủng khiếp của tấm thảm kịch đó vậy!
Ngoài các vách thành thì dân Mê-đi đã tập trung những chiếc thuẫn được vẽ
thật sáng chói. Các áo dài có màu điều. Gươm sáng loè, giáo nhấp nhoáng
thật là khủng khiếp dưới ánh mặt trời. Gang thép của xe cộ sáng ngời. Bên
trong thành phố thì bọn ma cô dắt mối đang ngự trị. Đã quá muộn rồi, các
vua cố tìm cách lập liên minh với các giới quý tộc nhằm bảo vệ cho thành
phố yêu dấu đã trở tay không kịp. Sông Ti-gơ-rơ còn gây ra một trận lụt quét
sạch hầu hết bức tường thành mà đối với họ, trông có vẻ như bất khả xâm
chiếm. Việc nầy thêm kẻ thù cho họ. Nữ hoàng bị bắt làm tù binh, và các
cung nữ của nữ hoàng thì vây quanh bà ta để kêu khóc, như một bầy bồ câu
vậy!
Tiếng gọi nhau của dân Mê-đi được nhiều người nghe thấy. Hãy cướp bạc,
cướp vàng, vì của báu nó vô ngần, mọi đồ đạc quí giá nhiều vô số. Thành
phố bị cướp bóc, trong khi dân chúng đứng đó với hai đầu gối chạm vào
nhau vì sợ hãi. Ni-ni-ve không còn khiến được các dân các nước sợ hãi nữa
vì Đức Chúa Trời đã kết thúc nó. Việc nầy sẽ xảy đến cho tất cả các dân các
nước gian ác trên thế gian nầy.
Người Mê-đi và người Ba-by-lôn đã hoàn toàn tiêu diệt Ni-ni-ve năm 612
T.C.. Nó từng xuất hiện trên tột đỉnh vinh quang của thế lực của mình. Theo
lời tiên tri của Na-hum, thì việc nó đã ứng nghiệm - một lần nước sông Ti-
gơ-rơ dâng lên đột ngột đã cuốn đi phần lớn vách thành, giúp cho đạo quân
của người Mê-đi và người Ba-by-lôn lật đổ nó luôn (2:6). Một phần của
thành phố đã bị lửa hủy diệt (3:13, 15).
Đức Chúa Trời đã đào mồ cho Ni-ni-ve thật sâu và kiến hiệu đến nỗi mọi
dấu vết về sự hiện hữu của nó đều biến mất qua nhiều thời đại và di chỉ của
nó chẳng còn được ai biết đến. Lúc A-lịch-sơn đại đế đánh trận Arbela gần
đó năm 331 T.C., vua ấy thậm chí không biết là tại đấy từng có một thành
phố. Khi Xenophon và đạo quân 10.000 người chuyển qua gần đó khoảng
200 năm sau, ông ta tưởng các gò đống hoang tàn kia là một thành phố nào
đó của dân Parthian (người Bạt-thê). Lúc Nã phá luân đóng trại gần di chỉ
ấy, ông ta cũng chẳng hay biết gì cả.
Thành phố nầy còn bị tố giác một lần nữa, do Sô-phô-ni đưa ra mấy năm sau
đó (SoXp 2:13). Năm 612 T.C., tất cả đều đã ứng nghiệm. Sự tàn phá thật
trọn vẹn đến nỗi mọi dấu vết về đế quốc A-sy-ri đều đã biến mất. Nhiều học
giả nghĩ rằng Thánh Kinh đã đề cập Ni-ni-ve chỉ là huyền thoại. Dường như
một thành phố như thế đã chẳng hề tồn tại bao giờ. Năm 1845, Layard xác
nhận những điều nghi ngờ của người Anh là Claud James Rich, vào năm
1820 từng nghĩ rằng các gò đống từ Mosul nối dài đến sông Ti-gơ-rơ là các
tàn tích của Ni-ni-ve. Các đống đổ nát ấy vốn là của các cung điện nguy nga
tráng lệ của các vua A-sy-ri, và nhiều ngàn bảng có khắc chữ đã được khai
quật, cho chúng ta biết câu chuyện về A-sy-ri do chính người A-sy-ri tự tay
viết lấy. Thế là thủ đô huy hoàng của một đất nước giàu có nhất và thành
phố lộng lẫy nhất thế giới thời của nó đã được phát kiến, và phần ký thuật
của Thánh Kinh đã được xác nhận.
D. GIEO VÀ GẶT (NaNk 3:1-19)
Ni-ni-ve đã gieo gì, thì phải gặt nấy. Đó là luật Trời. Ni-ni-ve đã củng cố
tăng cường để chẳng gì có thể xâm bại nó được. Với những tường thành cao
30 m (90 feet) và rộng đủ cho 4 chiến xa song hành, một chu vi 80 dặm,
được trang hoàng bằng mấy trăm tháp canh, nó ngồi khoanh tay tự mãn. Một
đường hào rộng 40 m (140 feet) và sâu gần 20 m (60 feet) vây quanh các
vách thành rộng lớn ấy. Nhưng Ni-ni-ve đã chẳng đếm xỉa gì đến Đức Giê-
hô-va cả. Cho nên đối với Đức Chúa Trời tất cả chỉ là gạch và hồ mà thôi!
Đế quốc hùng cường với Sanh-ma-na-se, La-gôn và San-chê-ríp đó đã dấy
lên, để rồi Đức Giê-hô-va đánh đổ nó chỉ bằng một cái đánh nhẹ. Các phát
kiến của văn minh đều bất lực khi cần phải chống lại với đội pháo binh của
thiên đàng.
Ni-ni-ve chỉ bóng về tất cả các dân tộc các nước đang quay lưng lại với Đức
Chúa Trời. Trong thời đại của chúng ta, nhiều nền văn minh kiêu hãnh đang
đặt mọi sự dựa vào sức người và máy móc, mà xem thường Đức Chúa Trời.
Chúng ta đã thấy sở dĩ Ni-ni-ve bị lật đổ là vì tội lỗi của nó (3:1-7); vã rằng
sự giàu có và sức mạnh của nó đã không đủ để cứu nó, (3:8-19). Các dân các
nước thường trông cậy vào thế và lực để tồn tại. Họ quên rằng ấy chẳng phải
là bởi quyền thế, cũng chẳng phải là bởi năng lực, bèn là bởi Thần Ta, Đức
Giê-hô-va vạn quân phán vậy (XaDr 4:6). Người nào hay đất nước dân tộc
nào cố ý và cuối cùng chối bỏ Đức Chúa Trời, tức là cố ý để cuối cùng phải
nhận lấy số phận khủng khiếp. Cần cảnh giác đối với việc nầy.
Hãy nghe những lời cảnh cáo của Thánh Phi-e-rơ nói mấy trăm năm sau đó.
IIPhi 2Pr 3:9-10 “Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người
kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn
cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn. Song le,
ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Bấy giờ các từng trời sẽ có tiếng vang
rầm mà qua đi, các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên
nó đều sẽ bị đốt cháy cả.”
Sách Na-hum có thể được chia cách dễ dàng làm 3 phần, mỗi chương là một
phần. Chương 1 là lời tuyên bố rằng vì cớ những hành động gian ác của A-
sy-ri và hình phạt Đức Chúa Trời sẽ dành cho thành Ni-ni-ve của họ.
Chương 2 bao gồm một bài thơ đơn giản, mô tả sự bao vây thành Ni-ni-ve
đã bắt đầu. Nó sẽ được theo sau bởi sự cướp phá (cc 7-10). Chương 3 cũng
là một bài thơ sống động đơn giản. Trong đó đưa ra những lý do sự sụp đổ
của thành Ni-ni-ve (c. 5).
Na-hum, giống như các tiên tri tiền bối, tin nơi sự công bình của Đức Giê-
hô-va (NaNk 1:7). Vì cớ đó, Ngài không thể nhìn xem tội cố ý. Ni-ni-ve đã
cướp phá các nước và được lợi về thương mại. Nhưng cả quân đội hùng hậu
lẫn sự thành công về thương mại của Ni-ni-ve đều sẽ không cứu nó khỏi sự
phán xét của Đức Giê-hô-va, mà ở đây, như các nhà tiên tri thường mô tả,
được tiêu biểu bằng lửa (3:15).
Sách Xa-cha-ri gồm hai phần rõ rệt: chương 1-8 và chương 9-14. Đương
nhiên là Xa-cha-ri, con trai Ba-ra-chi, con trai của Y-đô vốn là tác giả của
phần sách thứ nhất: chương 1-8. Tám chương này được viết ra trong thời
gian từ tháng thứ tám năm thứ hai (520 T.C.) đến ngày 5 tháng 9 năm thứ tư
của triều vua Đa-ri-út (518 T.C.).
Còn chương 9-14 được viết theo một lối văn khác hẳn chương 1-8. Mấy
chương này được chia làm hai phần, chương 9-11 và 12-14, mở đầu mỗi
phần là câu “Gánh nặng của Đức Giê-hô-va” (sách Ma-la-chi cũng có câu
mở đầu tương tự như vậy).
A. TUYỂN DÂN VÀ NGÔI ĐỀN THỜ (XaDr 1:1-8:23)
Giờ đây, chúng ta nhận thấy Giu-đa chỉ là một số dân còn sót lại, Giê-ru-sa-
lem chưa được tái thiết, các dân ngoại đang sống thoải mái chung quanh nó
(1:14-16). Xa-cha-ri, một nhà tiên tri trẻ từng đứng bên cạnh một A-ghê già
nua, đã giục lòng mạnh mẽ cho các con cái Y-sơ-ra-ên lúc họ xây cất Đền
Thờ và cảnh cáo họ chớ nên làm cho Đức Chúa Trời thất vọng như Cha ông
họ từng làm. Ông tả về tình yêu và sự chăm sóc của Đức Chúa Trời đối với
dân Ngài. Ông đánh thức kỳ vọng của họ bằng cách vẽ ra những bức tranh
đầy màu sắc về cái thời kỳ phước hạnh miên viễn sẽ đến với dân Y-sơ-ra-ên
vào những thời đại hãy còn rất xa.
Cũng như A-ghê, Xa-cha-ri là một nhà tiên tri cho những người Do Thái còn
sót lại từ Ba-by-lôn hồi hương sau bảy mươi năm lưu đày. Dân Do Thái, một
thời vốn là cường quốc như Đức Chúa Trời đã định, bấy giờ chỉ còn là một
thiểu số sống sót đáng thương và vô nghĩa, sở dĩ được cư trú tại đất hứa của
họ là nhờ lòng tốt của một nhà vua ngoại quốc. Cả A-ghê lẫn Xa-cha-ri đều
cố gắng nói cho dân sự biết rằng tình trạng sẽ không cứ mãi như vậy. Có một
ngày, Đấng Mết-si-a sẽ đến, và tuyển dân của Đức Chúa Trời sẽ lại dấy lên
thành một cường quốc.
Xa-cha-ri là nhà tiên tri của sự phục hồi địa vị và vinh quang. Xa-cha-ri
không kết án dân tộc ông mà giới thiệu sự hiện diện của Đức Chúa Trời
bằng nhiều bức tranh sáng chói nhằm củng cố tinh thần và giúp đỡ họ. Ông
đặc biệt khích lệ Xô-rô-ba-bên là quan tổng đốc, vốn là người tự ý thức được
các nhược điểm của mình. Hãy nghe điều Xa-cha-ri nói: “Ấy chẳng phải là
bởi quyền thế, cũng chẳng phải là bởi năng lực, bèn là bởi Thần ta, Đức Giê-
hô-va vạn quân phán vậy” (4:6-10). Ông hứa rằng các núi khó khăn rồi sẽ bị
cắt đi. Chân lý nầy đã ứng nghiệm diệu kỳ biết bao vào ngày lễ Ngũ tuần khi
Đức Chúa Trời đổ đầy quyền năng Ngài cho nhiều người.
1. Các khải tượng
Trong số các Tiểu Tiên Tri, chỉ có Xa-cha-ri là thấy nhiều khải tượng. “Ta
thấy trong ban đêm, nầy... ” (1:1-7). Những khải tượng mà Xa-cha-ri thấy
gồm:
a) Vị thiên sứ cỡi ngựa (1:1-7) đây là bức tranh về dân Y-sơ-ra-ên hôm nay,
đã bị loại trừ nhưng vẫn chưa bị Đức Chúa Trời quên hẳn.
b) Những cái sừng và những thợ rèn (1:18-21) Việc nước Y-sơ-ra-ên bị các
kẻ thù lật đổ đã được nhìn thấy trước.
c) Sợi dây đo (2:1-13) Sự hưng thịnh hầu đến của Giê-ru-sa-lem đã được
nhìn thấy trước. Thành phố có hiện diện của Đức Chúa Trời làm vách thành,
có phạm vi rộng lớn, và được phước hạnh nhờ đặc ân của Ngài.
d) Giê-hô-sua, Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm (3:1-10) Ao bẩn của thầy tế lễ,
tượng trưng cho tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên được cất đi, thay thế, và Nhánh
Công Bình, tức là Chúa Cứu Thế, được giới thiệu.
e) Các chơn đèn vàng (4:1-14) dân Y-sơ-ra-ên được trình bày như người cầm
đèn cho Đức Chúa Trời trong tương lai. Hai cây ô-li-ve được Đức Chúa Trời
xức dầu chỉ về quan Tổng đốc Xô-rô-ba-bên và thầy tế lễ Giê-hô-sua.
f) Cuộn sách bay (5:1-4) Các chính quyền gian ác nhận lấy lời nguyền rủa
của Đức Chúa Trời làm một bức tranh có một không hai.
g) Cái Ê-pha (5:5-11) Điều gian ác được các cánh của Đức Chúa Trời mang
đi và cất khỏi họ.
h) Bốn cỗ xe (6:1-8) “Các lực lượng cai trị công chính” (Tiến sĩ G. Campbell
Morgan).
2. Lễ đăng quang
Tiếp theo các khải tượng là một hành động có ý nghĩa tượng trưng, là ban
mão miện cho thầy tế lễ thượng phẩm (6:9-11). Vàng bạc từ Ba-by-lôn đem
về được làm thành một mão miện rồi đặt trên đầu Giê-hô-sua, thầy tế lễ
thượng phẩm. Với hành động ấy, cả hai chức vụ quan trọng là thầy tế lễ và
vua đã được nhập một. Điều đó chỉ bóng về Đấng Christ là nhà Vua sẽ ngự
trên ngôi vinh quang Ngài với tư cách thầy tế lễ khi Ngài tái lâm để thiết lập
nước một ngàn năm của mình.
Hai năm sau đó, chúng ta thấy một phái đoàn từ Bê-tên đến, ra mắt Xa-cha-
ri để hỏi ông có nên giữ các ngày lễ kiêng ăn đó, và thường kiêng ăn vào
những ngày đại lễ hằng năm. Xa-cha-ri đã cảnh cáo họ về việc họ chỉ giữ
các nghi lễ tôn giáo bằng thái độ hình thức lạnh nhạt mà thôi. Ông khuyên
họ hãy biến các ngày kiêng ăn của họ thành những ngày lễ vui mừng, và nên
thực thi sự công nghĩa. Đức Chúa Trời phán “Sự vâng lời tốt hơn của tế lễ sự
nghe theo tốt hơn mỡ chiên đực” (IISa 2Sm 15:22).
Kiêng ăn chỉ có lợi như một dấu hiệu bề ngoài chỉ sự xưng tội bên trong. Chỉ
kiêng ăn mà thôi thì chẳng bao giờ đem được phước hạnh đến. Đức Chúa
Trời muốn một tấm lòng khiêm hạ và đau thương thống hối kia!
B. ĐẤNG MẾT-SI-A VÀ VƯƠNG QUỐC (XaDr 9:1-14:21).
Xa-cha-ri các chương 9-14 không có dấu hiệu gì về niên đại và bối cảnh lịch
sử. Các sứ điệp trong phần này tập trung vào việc thiết lập vương quốc của
Đấng Mết-si-a trong tương lai. Trong 11:7, nhà tiên tri tượng trưng cho Đấng
Mết-si-a, được bổ nhiệm làm người chăn dân chúng. Công việc của người
không được ưa thích, cũng như sự phục vụ không được mong muốn. Cuối
cùng, người bị bán với giá 30 miếng bạc (11:12b; Mat Mt 27:9). Trong
chương 13 chủ đề về người chăn chiên được lặp lại. Ở đây (XaDr 13:7)
người chăn bị đánh và bầy chiên tan tác. Chương cuối cùng xác quyết rằng
đến ngày cuối cùng, Đức Chúa Trời sẽ chiến thắng và Ngài sẽ đến và đứng
trên núi Ô-li-ve (c. 4).
Sau đây là những lời tiên tri liên hệ đến Chúa Giê-xu:
Đấng Christ cỡi lừa con vào thành Giê-ru-sa-lem, 9:9
Đấng Christ là Người Chăn Chiên Hiền Lành, 9:16; 11:11
Đấng Christ là Người Chăn Chiên bị đánh, 13:7
Đấng Christ bị phản nộp vì 30 miếng bạc, 11:12, 13
Đôi tay Đấng Christ bị đâm thủng, 12:10
Dân của Đấng Christ được cứu, 12:10; 13:1
Đấng Christ bị thương trong nhà các bạn Ngài, 13:6
Đấng Christ tái lâm trên núi Ô-li-ve, 14:3-8
(Đấng đã từ núi Ô-li-ve thăng thiên cũng sẽ trở lại y như cách Ngài đã ra đi,
Cong Cv 1:11).
Chúa Cứu Thế sắp tái lâm và được phong vương, 14.
Có người bảo rằng muốn đọc cho đúng đắn các khải tượng trong sách nầy,
bạn phải chiếu vào đó hai tia sáng: tia sáng của thập tự giá và của chiếc
vương miện. Nếu không, bạn sẽ thấy là các hình ảnh mà Xa-cha-ri vẽ ra đều
không có chiều sâu hay bối cảnh. Nhà tiên tri nhìn xa vào tương lai đã thấy
Đấng Mết-si-a của những ngày sắp đến với tư cách một Thân Vị (a Person=
một Con Người), nhưng dưới hai góc cạnh. Trước hết, ông thấy Ngài bị sỉ
nhục và đau đớn, và sau đó, ông thấy Ngài trong uy nghi và giữa ánh hào
quang lớn.
Dân Do Thái chẳng biết gì đến Chúa Cứu Thế trên thập tự giá. Còn các Cơ-
đốc nhân thì lại thường quên mất Chúa Cứu Thế với chiếc vương miện trên
đầu. Cả hai đều sai lầm! Dường như Xa-cha-ri để mặc cho vinh quang của
Đức Chúa Trời chiếu rạng trong tất cả những lời dạy và giảng của ông.
Mấy đoạn nầy chứa đầy những lời hứa về Đấng Mết-si-a sắp đến và về một
vương quốc bá chủ cả thế giới. Nhà tiên tri không còn tả vẽ một thành phố
được xây lại trên nền cũ của nó nữa, nhưng là một đô thị huy hoàng mà
chính Chúa là vách thành. Nó không được võ trang để tranh chiến, nhưng là
một đô thị hòa bình, vì Chúa Bình An cai trị tại đó. Ngài sẽ đến lần thứ nhất
với tư cách một Đấng Nhu Mì, cỡi trên một con vật tầm thường (9:9).
Nhưng chúng ta thấy Đấng Khiêm Nhu ấy trở thành một nhà Vua đầy uy
quyền (14:8-11). Đấng Mết-si-a trong toàn thể vinh quang và uy quyền Ngài,
sẽ giày đạp tất cả kẻ thù Ngài dưới chân, sẽ thiết lập vương quốc Ngài tại
Giê-ru-sa-lem, và sẽ ngự trên ngôi Đa-vít. “Quyền thế Ngài sẽ trải từ biển
nầy đến biển kia, từ sông cái cho đến các đầu cùng đất” (9:10).
Nếu ai chịu đọc kỹ hơn các chương nầy, sẽ khám phá ra sự chiến thắng của
dân Y-sơ-ra-ên trên tất cả các kẻ thù; chương 11 cho thấy Đấng Chăn Chiên
sẽ tìm cách để cứu rỗi dân Y-sơ-ra-ên, nhưng bị từ khước. Ngài bị bán với
giá ba mươi miếng bạc, là giá của một nô lệ. Điều nầy chỉ bóng về Chúa
Cứu Thế và việc Ngài bị Giu-đa phản nộp. Chương 12 cho chúng ta lời tiên
tri về việc Giê-ru-sa-lem bị Antichrist và các kẻ thù của nó vây hãm trong
những ngày sau rốt. Sau đó, chúng ta thấy sự ăn năn của dân Do Thái (c.12)
khi họ sẽ nhìn thấy Đấng mà họ đã đâm. Suối nước sẽ được mở cho nhà Đa-
vít, vì tội lỗi và sự ô uế (13:1). Rồi việc Đấng Mết-si-a trở lại trên núi Ô-li-
ve, khiến nó bị nứt ra vì một cơn động đất (14:11) nhắc chúng ta về cái ngày
mà Ngài đã lìa khỏi đất nầy tại cùng một chỗ ấy, với lời hứa là Ngài sẽ trở
lại (Cong Cv 1:11). Cuối cùng, Ngài sẽ làm Vua trên cả đất và tất cả các dân
tộc đều sẽ nên thánh cho Ngài (14:9-20).
Các phước hạnh trong Nước của Chúa Cứu Thế gồm (1) Nước Ngài được
mở rộng - 14:9 (2) Có nhiều mưa - 10:1 (3) Thần Linh được đổ xuống trên
dân Y-sơ-ra-ên - 12:10 (4) Đấng Mết-si-a “từng bị đâm” xuất hiện - 12:10
(5) Trong xứ Palestine có nhiều thay đổi - 14:4-5, 10-11 (6) Nước Ngài được
thiết lập trên đất - 14:9-15 (7) Giê-ru-sa-lem trở thành trung tâm của sự thờ
phượng - 14:16-17.
Xa-cha-ri nhấn mạnh về quyền năng của Đức Chúa Trời trên toàn thế giới.
Ngài cho phép các dân tộc thi hành án trên dân của Ngài là người Giu-đa,
nhưng họ chỉ được phép hành động trong giới hạn nghiêm ngặt. Người Giu-
đa vốn là và vẫn là tuyển dân của Đức Chúa Trời. Ngài hình phạt họ với mục
đích phục hồi mối quan hệ giữa họ với Ngài như thuở ban đầu. Hễ dân tộc
nào vượt quá giới hạn cho phép đều bị Đức Chúa Trời trừng phạt. Nằm trong
chương trình này có một số nhân vật giữ những vai trò quan trọng. Hai nhân
vật lịch sử là ông Xô-rô-ba-bên (quan tổng trấn) và ông Giê-hô-sua (thầy tế
lễ thượng phẩm) là những người đứng ra tái thiết đền thờ và tái lập cuộc thờ
phượng tại đền thờ. Dầu vậy, hai nhân vật này còn tiêu biểu cho một Đấng
lớn lao hơn. Họ tiêu biểu cho “Đấng được xức dầu” đứng trước Chúa của thế
giới” (4:14). Về một phương diện nào đó ông Xô-rô-ba-bên còn hình bóng
về “nhánh” (3:8; 6:12), là một từ dùng để mô tả Đấng Mết-si-a trong Gie Gr
23:5 và 33:15 (so sánh EsIs 4:2).
Ma-la-chi là quyển sách cuối cùng trong Cựu Ước. Sách nầy tóm tắt phần
lớn lịch sử Cựu Ước. Nếu Martin Luther gọi GiGa 3:16 là “Sách Phúc Âm
nhỏ” thì chúng ta có thể gọi sách Ma-la-chi là “Cựu Ước nhỏ.” Sách Ma-la-
chi là nhịp cầu nối liền Cựu và Tân Ước. (so sánh MaMl 3:1 với GiGa 1:23
và LuLc 3:3, 4). Có một thời gian im lặng 400 năm giữa tiếng nói của Ma-
la-chi và tiếng người kêu trong đồng vắng: “Hãy dọn đường cho Chúa”. Cựu
Ước chấm dứt bằng chữ “rủa sả” nhưng Tân Ước kết thúc bằng lời chúc
phước: “Nguyền xin ân điển của Đức Chúa Giê-xu Christ ở với mọi người.
A-men”.
Bấy giờ, đã hơn một trăm năm từ khi dân Do Thái trở về Giê-ru-sa-lem sau
thời gian bị lưu đày tại Ba-by-lôn. Ma-la-chi là nhà tiên tri cuối cùng đã nói
tiên tri cho dân Y-sơ-ra-ên tại xứ sở họ. Ở đây, từ ngữ Y-sơ-ra-ên ám chỉ toàn
thể những người Y-sơ-ra-ên và Giu-đa còn sót lại, đã từ cuộc lưu đày hồi
hương. Những háo hức buổi đầu sau ngày từ Ba-by-lôn hồi hương đã phai
dần. Tiếp sau một giai đoạn phục hưng (Nê 10:28:39;), dân chúng đã trở
thành lạnh nhạt về phương diện tôn giáo và thờ ơ về phương diện đạo đức.
Chúng ta đã thấy rằng một số người Do Thái đã đặt hy vọng lớn lao nơi Xô-
rô-ba-bên, là người có thể lại ngồi trên ngai Đa-vít, và làm ứng nghiệm tất cả
những lời tiên tri đầy vinh quang về sự phục hưng (AgKg 2:20-23).
Nhưng điều gì đã xảy ra cho Xô-rô-ba-bên? Điều gì đã xảy ra cho cộng đồng
nhỏ bé ở Giê-ru-sa-lem? Chúng ta không thực sự biết, nhưng cho đến đây
chúng ta biết là không có điều gì đã xảy ra. Người ta không nghe gì hơn về
Xô-rô-ba-bên, nói chung thật ra cũng không có gì được nghe về cộng đồng
Giê-ru-sa-lem. Đã không có sự phục hồi vinh quang. Thay vào đó, thuộc địa
nhỏ bé đã chìm sâu hơn vào sự tối tăm. Đền thờ vẫn còn đó và của lễ được
dâng lên. Nhưng dân sự dường như đã không làm những điều đó một cách
nghiêm chỉnh. Việc kết hôn với các nhóm khác đã trở thành phổ thông hơn,
tự nhiên hơn. Chính phần lớn Giê-ru-sa-lem vẫn còn đổ nát và không có
nhiều người sống ở đó. Chúng ta có một hình ảnh về tình trạng của thời kỳ
này từ sách Ma-la-chi. Một cách tổng quát thời kỳ này được coi là thời kỳ
giữa năm 500-450 T.C. (MaMl 1:6-14; 2:14-16; 3:13-15).
Tiên tri Ma-la-chi xuất hiện như một nhà cải cách, nhưng ông vừa khích lệ
vừa khiển trách. Ông lo cho một dân tộc đang bối rối, ngã lòng, đức tin đặt
nơi Đức Chúa Trời dường như đang gặp cơ nguy có thể bị sụp đổ. Nếu họ
vẫn chưa ra mặt chán ghét Đức Giê-hô-va, thì họ đang thật sự sa vào cái cơ
nguy của việc trở thành hoài nghi. Tên Ma-la-chi có nghĩa là “sứ giả của
Đức Giê-hô-va.” Cũng như Giăng Báp-tít là người dọn đường cho Chúa,
Ma-la-chi cũng chỉ là một tiếng nói mà thôi.
II. NỘI DUNG VÀ SỨ ĐIỆP TIÊN TRI MA-LA-CHI
Sách Ma-la-chi là một ký thuật về một số lời tuyên bố ngắn, được nói vào
các cơ hội khác nhau. Nó có vẻ như là ông bị ngắt lời cách khiêm nhã bởi
các thính giả của ông, vì họ không chấp nhận những gì ông đã nói. Dĩ nhiên,
nó có thể là chính Ma-la-chi đã đặt các câu hỏi mà ông cho là thính giả của
ông đang nghĩ.
Đối diện với đám đông đầy rắc rối, nghi ngờ, bất đồng ý kiến và khinh miệt
này, Ma-la-chi đã nói với uy quyền, hợp lý, thẳng thắng và khích lệ. Ông đã
rao ra lời của Đức Chúa Trời cho dân sự tại Giê-ru-sa-lem.
Sách Ma-la-chi có những chủ đề căn bản sau đây:
i) Lời đầu tiên của Ma-la-chi về tình yêu của Đức Chúa Trời thực sự là chủ
đề căn bản của cả sách. Chủ đề đó là gì? (1:2). Chính vì để thuyết phục dân
sự của Đức Chúa Trời về tình yêu của Ngài đối với họ, Ma-la-chi kéo sự chú
ý của họ về những gì đã xảy ra cho Ê-đôm.
ii) Ma-la-chi nói chi tiết hành động sai trật (tội lỗi) của người Do Thái đã
ngăn trở phước hạnh của Đức Chúa Trời (1:7, 12; 2:14-16; 2:17; 3:13-15;
3:5; 3:8-10).
iii) Hướng đến tương lai, Ma-la-chi nói về "Ngày của Chúa” là ngày Ngài sẽ
đến để thanh tẩy dân Ngài (3:1-6). Ma-la-chi kết thúc với sứ điệp hy vọng.
Sứ điệp của Ma-la-chi đã có hệ quả nào thì chúng ta không biết. Nhưng có lẽ
ông đã giúp dọn đường cho những cải cách của E-xơ-ra và Nê-hê-mi, những
người đã tái lập quốc gia và làm cho nó có khả năng sinh tồn cho đến thời kỳ
La-mã và sự đến của Đấng Mết-si-a mà Ma-la-chi và các tiên tri khác đã
trông đợi.
A. TỘI LỖI CỦA CÁC THẦY TẾ LỄ (1:1-2:9)
Thái độ hoài nghi nảy sinh trong dân sự tự chứng minh cho sự nguội lạnh về
tôn giáo và sự lơi lỏng về xã hội. Điều nầy luôn luôn nghiệm đúng. Các thầy
tế lễ cả nào bất kính và chểnh mảng (1:6, 11-12). Đức Chúa Trời phán: Sự
tôn kính thuộc về ta ở đâu? - Hỡi các thầy tế lễ vô tâm vì đã dâng lên những
con vật vô giá trị làm của lễ cho Đức Chúa Trời mà thật ra, họ không dám
dâng chúng cho quan trấn thủ. Họ đã hành động tương phản rõ rệt với chức
vụ tế lễ lý tưởng của Đức Chúa Trời. Họ đã chẳng còn thấy gì cả về tiếng gọi
cao cả của họ, và đáng bị điều đáng ghê tởm chất chồng trên họ. Họ không
chịu làm việc ngoại trừ khi được trả tiền. Lời buộc tội của Đức Chúa Trời
bắt đầu với các cấp lãnh đạo (2:1-9). Bao lâu các thầy tế lễ công khai chứng
tỏ họ không thích hợp với chức vụ của họ, thì còn trông mong gì ở dân sự
nói chung? Hậu quả là dân Chúa đã chẳng còn quan tâm gì đến việc tự giữ
mình phân rẽ với các dân ngoại đạo. Những cuộc hôn nhân lộn xộn với các
phụ nữ ngoài chi phái trở thành phổ biến. Một số đàn ông đã không ngần
ngại ly dị vợ họ là người Y-sơ-ra-ên để khiến việc kia trở nên khả thi (2:10-
16).
B. TỘI LỖI CỦA DÂN CHÚNG (2:10-3:18)
Bạn nghĩ thế nào về một người tự ý giữ một vật gì đó trước mắt mình, rồi
than phiền rằng mình chẳng nhìn thấy gì cả? Gợi ý của bạn nhằm nhanh
chóng giải quyết điểm khó khăn đó là gì? Vâng, đó chính là việc mà Ma-la-
chi đã phải làm. Dân Do Thái bảo rằng Đức Giê-hô-va đã không yêu thương
họ như Ngài từng phán (1:2). Họ đã không thấy rằng tình yêu của Ngài từng
có ích lợi gì đặc biệt cho họ.
Một hậu quả khác nữa của việc dân sự lơi lỏng không giữ lòng trung thành
với Đức Chúa Trời, là việc tội lỗi trong xã hội cứ ngày càng gia tăng để
chiếm thế áp đảo (3:5) 3:7 cho thấy dân sự dửng dưng về phương diện tôn
giáo và tỏ thái độ hoài nghi.
Các tội mà Ma-la-chi quở trách là: (1) việc thờ phượng theo thói quen nhàm
chán, thiếu tinh thần, 1:6-8 (2) những cuộc hội họp gian ác, 2:10-12 (3) thắc
mắc về đức công bằng của Đức Giê-hô-va, 2:17-3:6 (4) ăn cắp của Đức
Chúa Trời, 3:7-12 (5) không biết kiên trì chờ đợi, 3:17-4:3
Con cái Y-sơ-ra-ên có thể trông cậy vào Đức Giê-hô-va trong vấn đề tha tội.
Đây cũng giống như bức tranh mà Chúa Giê-xu đã đưa ra về người Cha khi
Ngài dạy về đứa con trai hoang đàng trở về nhà. Khi người Cha nhìn thấy
con trai mình từ đằng xa, thì đã chạy ra để đón nó. Đó cũng luôn luôn là thái
độ của Đức Chúa Trời.
Dân Do Thái đã được chữa lành tội thờ thần tượng, nhưng họ lại ngày càng
trở nên vô tâm và dửng dưng đối với nhiều việc khác. Họ đã bỏ bê nhà của
Đức Chúa Trời. Các thầy tế lễ đều chểnh mảng. Họ dâng các của lễ thấp kém
cho Đền Thờ. Họ đã ăn cắp một phần mười về các của dâng của họ. Họ sa
vào nhiều tội lỗi xã hội. Họ trở nên ích kỷ và tham lam đến độ Ma-la-chi
phải mạnh dạn thách thức họ bằng câu nói: Người ta có thể ăn trộm Đức
Chúa Trờì sao? (3:8).
Chiếc chìa khoá để mở các cánh cửa sổ rộng lớn của các phước hạnh của
Đức Chúa Trời là việc bạn phải thừa nhận chủ quyền của Đức Chúa Trời
bằng cách dâng trở lại cho Ngài một phần phải là của số tiền hay tài sản mà
Ngài cho phép bạn thủ đắc. “Các ngươi hãy đem hết thảy phần mười vào
kho,” dâng một phần mười là thừa nhận bằng thái độ bên ngoài rằng mọi sự
đều thuộc về Đức Chúa Trời. Chúng ta phải dâng trọn cho Ngài toàn thể con
người chúng ta - nghĩa là cả thân thể, tâm thần, và linh hồn nữa kia. Như thế,
Ngài sẽ tiếp nhận chúng ta và mở các cửa sổ trên trời để đổ các phước hạnh
của Ngài xuống cho chúng ta.
C. NHỮNG VIỆC SẮP ĐẾN (3:1-4:6)
Tại sao Đức Chúa Trời lại cho phép mọi việc ấy? Sở dĩ dân chúng đã có thái
độ như thế có lẽ vì họ cảm thấy rằng các lời hứa sáng chói của A-ghê và Xa-
cha-ri và các nhà tiên tri khác đã không ứng nghiệm. Họ bảo rằng Đức Giê-
hô-va dường như chẳng phân biệt người thiện với kẻ ác (2:17). Ngài ban
phước cho mọi người như nhau, và những kẻ ác thường lại thịnh vượng do
bóc lột đồng bào mình (3:14-15). Thế thì làm điều thiện để làm gì? Phải
chăng đây vẫn còn là một lời than phiền của những kẻ cứ tưởng rằng họ là
những người tốt? Họ nói: “Đức Chúa Trời làm gì mà lại cho phép những
việc như thế?” Lời đáp cho một câu than phiền như thế, ấy là Đức Giê-hô-va
vẫn quan tâm. Ngài chứng minh việc đó cho họ thấy bằng cách phán rằng sẽ
có ngày Ngài sẽ sai sứ giả của Ngài đến (Giăng Báp-tít) để dọn đường cho
Ngài, rồi đích thân Ngài sẽ “thình lình” đến và ngồi trên ngôi phán xét để
phân rẽ kẻ ác với người thiện (3:1). Sự phán xét của Ngài sẽ là dò tìm và
kiến hiệu giống như lửa của thợ luyện, như tro thợ giặt (3:2, 3). Một khi Đức
Chúa Trời đã thật sự sẵn sàng hành động, thì Ngài sẽ làm gì? Hành động ấy
sẽ là dứt khoát (3:1-3).
Chúng ta thấy gánh nặng của bức thông điệp của Đức Chúa Trời mà Ma-la-
chi phải nêu rõ cho dân sự Ngài trong câu thứ hai của quyển sách nầy: Đức
Giê-hô-va có phán: Ta yêu các ngươi. Thật là một bức thông điệp lạ lùng cho
một dân tộc đã phạm tội như dân Y-sơ-ra-ên và đã chối bỏ tình yêu của Đức
Giê-hô-va. Đức Chúa Trời luôn luôn sai sứ giả của Ngài đi trước để dọn
đường cho Ngài (3:1). Ngài muốn toàn thể con cái Ngài phải tôn trọng và
thờ lạy Ngài. Ngài trông mong chúng ta vâng lời và thờ phượng Ngài.
Nhưng ai sẽ đứng nổi trong ngày mà Ngài sẽ hiện ra? Và có ai chịu nổi ngọn
lửa luyện của Ngài (3:2)? Sứ giả của Đức Chúa Trời sẽ là nhân chứng vạch
trần sự tàn bạo, những lời dối trá, các bất công và cách đối xử nước đôi của
chúng ta. Điều nầy có thể được nói cho ngày hôm nay cũng y như cho dân
Do Thái đời xưa. Người đại diện của Đức Giê-hô-va đến và nhận thấy chúng
ta đang ăn cắp điều chúng ta đáng lẽ phải trả cho Ngài (3:2-5). Thế nhưng,
Đức Giê-hô-va vốn bất biến. Ngài chẳng bao giờ quên các lời hứa của tình
yêu bất tử và lòng nhân từ thương xót đời đời của Ngài. Ma-la-chi của Đức
Chúa Trời được sai đến trước Ngài để dọn đường cho Ngài hầu cho dân
Chúa có thể tôn kính và thờ phượng Ngài. Ma-la-chi kêu lớn: “Hãy quay trở
lại với nhà của Đức Chúa Trời! Hãy quay trở lại với lời của Đức Chúa Trời!
Hãy quay trở lại với công việc của Đức Chúa Trời! Hãy quay trở lại với ân
điển của Đức Chúa Trời!”
Mỗi người đều có thể giống như Ma-la-chi, làm một người tiền hô (rao loa)
cho Chúa Cứu Thế, Đấng sắp tái lâm mà chúng ta đang chờ đợi. Mỗi người
yêu mến và trông chờ Ngài đều có thể giúp việc dọn đường cho Ngài bằng
cách sống và làm việc của mình.
Hãy nghĩ về các nhu cầu của hôm nay, các nhu cầu của Hội Thánh và của thế
gian. Lời tố cáo hôm nay chống lại các Hội Thánh của chúng ta phải chăng
cũng chỉ là hình thức chủ nghĩa suông - một thái độ tuân giữ bề ngoài, mà
chẳng có một tình yêu tự đáy lòng? Phải chăng cả chúng ta nữa, cũng đang
dâng các của lễ chẳng có chút giá trị gì? Phải chăng chúng ta cũng đang ăn
trộm của Đức Chúa Trời trong vấn đề dâng một phần mười?
Giữa tất cả những gì là đạo đức giả của ngày hôm nay, đang có những người
trong cộng đồng Do Thái (số dân còn sót lại) vẫn còn kính sợ Đức Chúa Trời
và vẫn giữ lòng tận trung. Nếu chúng ta lật đến Ma-la-chi 3:16, chúng ta sẽ
tìm thấy điều đó. Ma-la-chi trông mong phát triển một tổ chức các tín hữu
nhiệt thành, có thể ảnh hưởng đến dân sự trong tương lai. Điều lý thú cần ghi
nhận là Đức Chúa Trời vẫn đang nghiêng tai nghe dân Ngài nói về Ngài
(3:16).
Chúng ta cần chú ý lời tuyên bố nghiêm trọng của Ma-la-chi liên quan đến
sự tái lâm của Chúa Cứu Thế mà chúng ta đang trông đợi, trong Ma-la-chi
3:16-4:3;. Vâng, “Mặt Trời Công Bình sẽ mọc lên, trong cánh nó có sự chữa
lành.”
Có người cho rằng trong tất cả các nhà tiên tri, Giô-ên là người trước nhất có
sách được lưu truyền đến chúng ta. Tiểu sử ông chỉ được chép trong một
câu: “Nầy là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-ên con trai của Phê-thu-ên”
(Gio Ge 1:1). Tên ông có nghĩa là: “Giê-hô-va là Đức Chúa Trời tôi.” Chúng
ta không biết nhiều về nhà tiên tri Giô-ên, con của Phê-thu-ên. Chúng ta suy
đoán rằng ông đã sống ở Giu-đa và không phải là thầy tế lễ. Có lẽ lúc còn
thanh niên, ông đã quen biết cả Ê-li lẫn Ê-li-sê. Ông là người có trình độ văn
hóa tốt. Ông viết Hi-bá-lai với văn phong trong sáng. Đó là tất cả những gì
chúng ta được biết. Dầu không biết nhiều về Giô-ên nhưng chắc chắn điều
này không làm giảm đi giá trị thuộc linh của sứ điệp Giô-ên cho thời đại của
ông và cho các thế hệ về sau.
Về niên đại, một số học giả cho rằng Giô-ên không đề cập đến hoặc A-sy-ri
hoặc Ba-by-lôn. Vì thế, có lẽ ông đã nói tiên tri trước sự dấy lên của A-sy-ri,
vào thế kỷ thứ tám, hoặc sau sự sụp đổ Ba-by-lôn, vào thế kỷ thứ sáu T.C.
(một khoảng cách lớn về thời gian). Một số học giả khác cho rằng không có
sự liên quan đến vương quốc phía Bắc. Vì vậy, có thể rằng nó được viết sau
khi vương quốc đó không còn. Đó là sau sự sụp đổ Sa-ma-ri vào năm 721
T.C..
Giô-ên là nhân vật đầu tiên đã nói tiên tri về việc Đức Thánh Linh sẽ được
đổ xuống trên mọi loài xác thịt (2:28) Giô-ên đã xuất hiện trước Ô-sê một ít,
có điều là ông truyền giảng cho vương quốc Giu-đa ở miền Nam, trong khi
Ô-sê truyền giảng cho các chi phái ở phía Bắc.
II. NỘI DUNG VÀ SỨ ĐIỆP TIÊN TRI GIÔ-ÊN
Nội dung của sách Giô-ên nói đến tình trạng nguy cấp (Giô-ên 1) và ngày
của Đức Giê-hô-va (2:1-27). Tình trạng nghiêm trọng này đã xoay tư tưởng
của Giô-ên đến một thời điểm, khi Đức Chúa Trời sẽ can thiệp bằng quyền
năng của Ngài vào các vấn đề của quốc gia Do Thái (1:15; 2:1; 3:31; 3:14).
Xứ Y-sơ-ra-ên vừa bị một nạn cào cào khủng khiếp. Chúng đã cắn nát tất cả
những vật có màu xanh, để lại sau lưng chúng cả một cảnh hoang tàn. Giô-
ên tin rằng đó là sự đoán phạt do Đức Chúa Trời sai đến vì cớ tội lỗi của dân
Ngài.
Chúng ta không biết rõ hoặc ông muốn nói rằng tai họa lúc đó chính là Ngày
của Đức Giê-hô-va hoặc nó dọn đường hay báo hiệu cho Ngày đó. Nhưng
trong ánh sáng của sự đến của Ngày đó, ông đã kêu gọi các thầy tế lễ và toàn
dân phải kiêng ăn, nhóm hiệp, khóc lóc và kêu cầu cùng Chúa (1:14; 2:12-
17). Trong khi kêu gọi cả quốc gia tập họp lại cầu nguyện, Giô-ên đã bao
gồm nhiều hạng người, vốn thường không được trông đợi tham dự vào các
nhiệm vụ chung. Kèm theo lời kêu gọi là những lời hứa quan trọng (2:8-
3:3). Về phần các lân bang, họ sẽ bị phán xét theo sự ngược đãi của họ với
Giu-đa (3:4, 19). Vậy, cuối cùng chính nghĩa sẽ thắng và sự gian ác sẽ bị
phán xét.
Giô-ên được gọi là “nhà tiên tri của sự phục hưng tôn giáo”. Ông biết rằng
sự phục hưng phải theo sau sự ăn năn. “Tiếp theo một tấm lòng bị xé rách, là
một bức màn bị xé, và thiên đàng.” Ông đã cố gắng đưa dân tộc mình đến
chỗ đó. Khi chúng ta thật lòng ăn năn, chúng ta sẽ đến được ngôi thi ân và
từng trải hiện diện của Đức Thánh Linh.
A. TAI HỌA: LỜI CẢNH CÁO (Gio Ge 1:1-20).
Sau một thời gian nắng hạn và nạn cào cào, một nạn đói khủng khiếp đã tàn
phá xứ Y-sơ-ra-ên. Dân chúng và súc vật sắp chết vì thiếu thức ăn và nước
uống.
Giô-ên nói tiên tri cho xứ Giu-đa. Ông lợi dụng sự đoán phạt hiện tại là nạn
cào cào để kêu gọi dân chúng ăn năn. Ông muốn cứu họ khỏi những lần
đoán phạt càng khủng khiếp hơn nữa bởi bàn tay của các đạo quân thù địch.
Cào cào là loại biểu tượng tiên báo sự tàn phá mà chúng sẽ đưa đến.
Ông đã mô tả tai họa ấy một cách linh động, kêu gọi những người cao tuổi
hãy xác nhận sự kiện là từ trước, chưa bao giờ có một đại nạn như vậy (1:2).
Những kẻ say sưa đã nhận thấy hậu quả của tai họa ấy, bởi vì các cây nho
đều bị phá hoại (1:5). Các thầy tế lễ không còn của lễ chay, lễ quán bằng
rượu để dâng lên nữa (1:9). Các bầy súc vật, chiên, bò, kêu rống ngoài đồng
(1:20). Giô-ên thúc giục dân chúng hãy thực hiện một ngày kiêng ăn (1:13).
Rồi ông tiếp tục mô tả tai họa đó.
Giô-ên kêu gọi dân sự hãy tra xét nguyên nhân đã gây ra tai họa. Họ phải
thật sự ăn năn, khóc lóc, nếu muốn tránh khỏi sự đoán phạt càng nặng nề
hơn nữa (2:12-17). Trong cơn tuyệt vọng, họ đều sẵn sàng nghe bất cứ ai
giải thích được tai họa của họ. Đây là một thì giờ nghiêm trọng đối với
người truyền đạo, bởi vì bấy giờ, trong cơn cùng khốn, người ta sẽ bằng lòng
quay lại với Đức Chúa Trời.
B. SỰ KIÊNG ĂN - LỜI HỨA (2:1-32).
Mở đầu đoạn sách nầy là tiếng tù và kêu gọi dân chúng tập họp để thực hiện
một cuộc kiêng ăn lớn (2:1). Mọi người cả già lẫn trẻ, đều có mặt. Ngay đến
các chàng rễ, các cô dâu nhằm ngày đám cưới, cũng đến dự, (2:16). Các thầy
tế lễ đến với tang phục, mọp sát đất để kêu cầu Đức Chúa Trời trong nơi
Thánh. Họ kêu cầu với Ngài rằng: “Hỡi Đức Giê-hô-va, xin để cho dân Ngài
được sống sót,” và bảo với dân chúng: “Hãy xé lòng các ngươi, và đừng xé
áo các ngươi. Khá trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi” (2:13).
Đây là một biến cố để đưa dân sự trở lại với Đức Chúa Trời.
Cào cào đã biến một vườn Ê-đen thành đồng hoang (2:3). Đối với người nào
chưa được trông thấy chúng, thì đạo quân cào cào là một việc khó tưởng
tượng nổi. Chúng bay đầy trời che kín cả mặt trời, như có nhật thực vậy
(2:2). Chúng đáp xuống, phủ đầy mặt đất đến hàng mấy dặm. Các đạo quân
ấy với chủ tướng của chúng dẫn đầu, cứ tiến tới và phá hủy tất cả những vật
gì có màu xanh. Chỉ trong vài phút, tất cả lá cây, lá cỏ đều biến mất. Những
bầy khác nối theo, lột luôn vỏ của cây cối (1:6, 7). Dân chúng đào hầm, đốt
lửa, rồi đập và đốt chết từng đống cào cào, nhưng nỗ lực của họ chỉ là phí
công vô ích. Một xứ đã bị cào cào phá hại, phải qua nhiều năm mới có thể
phục hồi sinh hoạt bình thường (1:17-20). Người ta nghe thấy tiếng bay của
chúng cách mấy dặm, như tiếng reo hò của lửa cháy (2:5). Phần đất nào bị
chúng đi qua, trông giống như bị lửa thiêu hủy vậy (2:3). Sau khi các đồng
quê bị lột trần trụi, chúng tràn vào thành thị như những đoàn kỵ binh xông
vào nhà và phá hủy tất cả những gì chúng có thể hủy phá được (2:4, 7-9).
Đối với đám dân chúng đã chứng kiến cảnh hoang tàn do cào cào gây ra, thì
lời hứa của Đức Chúa Trời”Ta sẽ đền bù cho ngươi về mấy năm đã bị cắn
phá bởi cào cào” (2:25) càng trở thành linh động hơn.
C. LỜI HỨA VỀ LỄ NGŨ TUẦN (2:28, 29).
Nhà tiên tri trấn an dân chúng rằng, chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ đưa đến cả
những ơn thương xót tạm thời (2:18-27) lẫn các phước hạnh thuộc linh
(2:28-32). Phải, Đức Chúa Trời sẽ sai sự giải cứu từ trời xuống. “Sau đó, ta
sẽ đổ Thần ta trên cả loài xác thịt, con trai và con gái các ngươi sẽ nói tiên
tri; những người già cả các ngươi sẽ thấy chiêm bao, những kẻ trai trẻ các
ngươi sẽ xem sự hiện thấy. Trong những ngày đó, dầu là những đầy tớ trai và
đầy tớ gái, ta cũng đổ Thần ta lên” (2:28, 29). Đây là lời hứa về ngày lễ Ngũ
tuần.
Lời hứa nồng cốt và quan trọng của sách Giô-ên là sự giải cứu thuộc linh.
Các nhà tiên tri khác đã báo trước những chi tiết liên quan đến đời sống của
Chúa Giê-xu trên đất, và cả đến thời trị vì trong tương lai của Ngài nữa. Giô-
ên thì được ban cho cái đặc ân là nói rằng Ngài sẽ đổ Thần Ngài trên mọi
xác thịt. Ông cho chúng ta biết rằng phước hạnh ấy sẽ từ Giê-ru-sa-lem tuôn
trào ra (2:32; 3:18). Lời tiên tri mà chúng ta được cho biết thật dứt khoát đó,
đã ứng nghiệm vào ngày lễ Ngũ Tuần. Thánh Phi-e-rơ đã tuyên bố: “Ay là
điều Đấng tiên tri Giô-ên đã nói tiên tri” (Cong Cv 2:16 đọc thêm 2:1-47).
Có một bài học cho chúng ta ngày nay. Hội Thánh đang lâm vào tình trạng
hoang tàn. Nhiều kẻ thù thuộc linh đã phá hoang Hội Thánh, mà Gio Ge 1:4
mô tả thật đúng. Đói kém và nắng hạn đang bủa vây bốn phía. Các Cơ-đốc
nhân ngày nay được kêu gọi hãy mọp sát đất trước mặt Chúa với tấm lòng
ăn năn thật sự. Sự ăn năn này phải được bắt đầu với các mục sư, truyền đạo,
các trưởng lão. Nếu chúng ta bằng lòng quay về với Đức Chúa Trời, Ngài sẽ
làm trọn lời hứa là sẽ đổ Đức Thánh Linh xuống và sẽ đền bù những năm mà
cào cào đã phá hại. Việc đổ Thần Ngài xuống trên dân Y-sơ-ra-ên sẽ xảy ra
trong tương lai (Exe Ed 36:23-33). Nhu cầu quan trọng trên tòa giảng và trên
ghế nhà thờ hiện nay, là quyền năng của Đức Thánh Linh.
D. NGÀY CỦA ĐỨC GIÊ-HÔ-VA
“Ngày của Đức Giê-hô-va” được đề cập năm lần trong quyển sách ngắn ngủi
này, ám chỉ sự đoán phạt. Nó nói về một loạt nhiều cơn đoán phạt, nạn cào
cào hiện tại, các đạo quân xâm lăng sắp kéo đến là ngọn roi của Đức Chúa
Trời giáng trên xứ ấy, và ngày cuối cùng của Đức Giê-hô-va được mô tả
trong Giô-ên đoạn 3. “Ngày của Đức Giê-hô-va” (hay “Ngày của Chúa) là
giai đoạn từ khi Chúa Giê-xu tái lâm trong vinh quang, đến khi có trời mới
đất mới (EsIs 2:17-20; 3:7-18; 4:1-2; 13:6-9; Gie Gr 46:10; MaMl 4:5;
ICo1Cr 5:5; ITe1Tx 2:2; IIPhi 2Pr 3:10). Ngày của Chúa kéo dài một ngàn
năm (KhKh 20:4).
E. PHƯỚC HẠNH TƯƠNG LAI (Gio Ge 3:1-21).
Giô-ên rao báo một tương lai đầy sáng lạn cho xứ Giu-đa: (1) Kẻ thù bị lật
đổ, 3:1-15 (2) Giê-ru-sa-lem được giải cứu, 3:16-17 (3) Xứ được ban phước,
3:18 (4) Giu-đa được phục hồi địa vị, 3:19-21.
Chỉ một mình Đức Chúa Trời mới có thể cho Giô-ên biết việc dân Do Thái
từ cuộc lưu đày được hồi hương. Chẳng những Giô-ên trông thấy việc người
Do Thái từ Ba-by-lôn trở về, mà ông còn trông thấy việc họ được thâu thập
từ các ngoại bang. Ông cũng nói về cuộc phán xét các nước sau trận Ha-ma-
ghê-đôn (3:2-7; Mat Mt 25:32; KhKh 19:17-21). Ngày mà loài người quyết
định đã chấm dứt. Giờ định mệnh của Đức Chúa Trời đã đến.
Sau khi dân Y-sơ-ra-ên được phục hồi địa vị và các dân các nước thế gian đã
bị phán xét (Gio Ge 3:1, 2) thì nước đời đời sẽ được thiết lập (3:20). Một lần
nữa xứ Palestine là đất hứa, sẽ trở thành trung tâm của thế lực, và là nơi hội
họp các dân các nước để chịu đoán xét. Đấng Christ sẽ trở lại để thiết lập
nước do Ngài cầm quyền tể trị. Đức Chúa Trời sẽ ngự tại Si-ôn (3:17).
Tác giả
7 Tống Thượng Tiết
Tác giả: Tống Thượng Tiết
CÁC CUỘC HÀNH TRÌNH TRUYỀN ĐẠO Ở MIỀN NAM TRUNG HOA
(1931-1932)
Sau cuộc hành trình truyền đạo rất gian lao và nguy hiểm nhưng đầy kết quả
tốt đẹp ở Mãn Châu về thì năm vị Truyền đạo của Ban Bê-tên được hoan
nghênh nhiệt liệt. Họ đã vất cả hầu việc Chúa ròng rã 4 tháng trường. Đáng
lẽ khi về đến nhà thì nghỉ ngơi để dưỡng sức nhưng trái lại họ liền lao mình
vào một chiến dịch Tin Lành tại nhà thờ Bê-tên nữa. Lòng họ nặng nề và lo
lắng cho số phận linh hồn một số học sinh và sinh viên cùng những cô đỡ
chưa được cứu ở đây. Cám ơn Chúa, thật Ngài có dùng sứ mạng Ngài qua họ
để cứu một số linh hồn sau mỗi buổi giảng.
Từ khi Mãn Châu đã lọt vào tay của Nhật rồi thì chính đất Trung Hoa cũng
bị hăm doạ. Thượng hải là mục tiêu thứ hai trong chương trình xâm lăng của
Nhật bản. Tình hình chính trị căng thẳng. Lúc bấy giờ thể theo lời mời của
Hội Ministerial Association mà toàn Ban Bê-tên đến giảng đạo trong nhà thờ
lớn của Hội Allen Memorial Church tại Chapei. Tình hình đang rối ren như
thế nên người ta không ngờ sẽ có đông thính giả đến nghe. Nhưng lạ lùng
thay, mới buổi giảng thứ nhất vào tối 1/1/1932 nhà thờ đã đông nghịt người
ta rồi. Ban đầu Hội thánh sắp đặt chương trình chỉ giảng ba ngày thôi nhưng
sau lại gia thêm 3 ngày. Dầu vậy khi thấy Bác sĩ giảng rất được ơn, Hội
thánh bèn xin Bác sĩ giảng 4 ngày nữa. Còn trong buổi nhóm cầu nguyện
cuối cùng số thính giả đông quá sức tưởng tượng đến nỗi không thể chen
chơn được. Tín đồ của tất cả các chi hội đua nhau đến nghe Bác sĩ Tiết
giảng. Thật là một chiến dịch đầy phước hạnh Chúa. Có hằng tăm hằng ngàn
người trở lại với Chúa và mỗi chi hội đều cảm thấy rõ ràng có một luồng gió
Phục hưng thổi đến.
Sau khi chiến dịch Tin Lành này kết liễu hai tuần lễ thì nửa đêm 28/1 năm ấy
cuộc chiến tranh Nhật Hoa bùng nổ. Đạo binh Nhật hoàng đổ bộ ở Woosung
và tiến rất nhanh để bao vây cả thành phố. Đạo quân Trung Hoa chiến đấu
rất anh dũng nhưng vô hiệu quả, không thể đẩy lui quân địch được.
Nhà thờ Allen Memorial Church ở dưới làn bom đạn và một số Mục sư
truyền đạo Trung Hoa bị giết. Đoàn dân tị nạn ào ạt kéo vào các khu quốc tế.
Hội truyền giáo Bê-tên cũng phải tản cư tín đồ và lo khiên đi bệnh viên, các
Trường học cùng Cô nhi việc đi. Các nhà Truyền đạo, các Bác sĩ của Hội
hăng hái đến các trại tản cư để giúp đỡ, giảng dạy và băng bó, chữa bệnh cho
dân chúng.
Chương trình của Ban Bê-tên gồm có chẳng những lưu hành truyền đạo mà
còn lo mở Thánh Kinh Tiểu học đường nữa. Nhưng gặp phải tình thế này e
việc tổ chức Thánh Kinh Tiểu học đường không thành chăng. Dầu vậy có 8
đại biểu các chi hội ở Mãn Châu đã đến xin nhập học Bác sĩ Tiết không
muốn để họ thất vọng đi không về rồi nên dầu quân hai bên đang kịch chiến
xung quanh thành phố thì nhân viên Ban Bê-tên cứ thản nhiên ngay ngày
dạy Kinh Thánh. Một đôi học sinh mới tin Chúa nên sau khi mãn khoá liền
lên đường trở về quê hương để bắt đầu phục vụ Chúa giữa gia đình, xóm
làng mình.
Chương trình Ban Bê-tên sẽ đi truyền đạo ở miền Nam Trung Hoa cũng đã
thảo xong. Đầu tháng 3 năm ấy họ sẽ lên đường. Dầu vậy Bác sĩ Tiết cũng
chẳng có thì giờ nào nghỉ ngơi cả. Vì trước khi cuộc chiến tranh chưa bùng
nổ thì Bác sĩ làm chủ bút từ “The Guide to Holoness” là cơ quan ngôn luận
của Hội Bê-tên. Bởi sắp vắng mặt ở Thượng Hải lâu ngày nên Bác sĩ lo soạn
bài cho báo này sẵn trước sáu tháng. Bác sĩ yêu cầu toàn Ban Bê-tên giúp tài
liệu. Nhưng nhờ ơn Chúa tiếp trợ tờ báo vẫn tiếp tục xuất bản những tháng
sau đó. Và cũng tình cờ mà Ban lại cổ động thêm được 800 độc giả ở Mãn
Châu nữa.
Lúc bấy giờ người ta phải khó khăn lắm mới tìm được tàu cho Ban Bê-tên đi
qua Hồng-kông vào sáng thứ sáu ngày mồng 4 tháng 3 thì tài bị giữ lại 40
ngày ngoài khơi vì hành khách trên tài bị bệnh đậu mùa. Một số đông tín đồ
của Hội thánh Phê-ni-ên ngong ngóng đứng trên bến tàu để đón rước Ban.
Nhưng hôm ấy Ban chưa được phép xuống tàu, bởi vậy chiều thứ bảy anh
em tín đồ thuê một chiếc xà lúp ra khơi. Khi vừa gặp Ban thì hết thảy đều
rao mừng vui vẻ hoan nghênh Ban. Bấy giờ Ban Bê-tên mới được phép vào
bến và có xà lúp đưa vào. Khi xà lúp cặp bến Ban liền thẳng đến Hội thánh
và tại đây đã có 1000 người đang chờ đợi nghe sứ mạng Chúa Tối ấy sau
cuộc hoà nhạc rất cảm động thì Bác sĩ Tiết giảng. Hongkong là một thuộc
địa của Anh quốc nên dân chúng rất rành Anh văn. Bởi vậy Bác sĩ Tiết giảng
bằng Anh văn và ông Philip Lee thông dịch ra tiếng Quảng Đông. Trải qua
hai giờ những lời nẩy lửa tuôn tràn từ lòng nóng cháy của Bác sĩ. Diễn giả
và dịch giả liên tiếp nói không một phút ngập ngừng. Mọi người đều cảm
động sâu xa. Theo chương trình ấn định thì mỗi ngày giảng ba lần và mỗi lần
độ hai giờ. Trong sáu ngày Bác sĩ Tiết và Mục sư Kế Chí Văn thay phiên
nhau rao truyền sứ mạng Chúa. Bệnh tật và sự tắc tiếng nhiều lần muốn
ngăn trở chức vụ hai tôi tớ Ngài. Nhưng Đức Chúa Trời quyền năng giúp đỡ
hai ông và ban cho đủ sức và ơn phục vụ Ngài trọn cả chiến dịch. Chúa có
đồng công cộng tác với tôi tớ Ngài nên Hội chúng được ơn phước lớn. Các
thính giả thì hoặc thuộc phái thượng lưu hay hạ lưu ngu dốt, giàu có hay
nghèo hèn, kẻ sang trọng hay người tầm thường người ăn mặc lụa là sống
trong những biệt thự lộng lẫy hoặc người áo quần rách rưới nương tựa nơi
chòi tranh vách đất, tín đồ thuộc giáo hội này ha giáo hội khác thay thảy đều
chen chút nhau trong Nhà thờ Phê-ni-ên để lãnh những ơn phước kỳ diệu
Đức Chúa Trời ban cho. Có rất nhiều tội nhân ăn năn tin Chúa cách đặc biệt
trong kỳ này Cũng có một số trong các nhà thủ lãnh Hội thánh Chúa ở Hong
Kong và Kowton đứng dậy làm chứng rằng đời thuộc linh và chức vụ họ
được dức dấy lên do sự giảng dạy của Bác sĩ. Một vị Truyền đạo này đã
thường xuyên đi thăm viếng, giảng Tin Lành nhiều nơi ở Hồng-kông và
Kowton. Ông cũng giảng cho người di cư và đã dẫn dắt nhiều người đến với
Chúa. Ông chẳng nhận lãnh phụ cấp của ai cả. Ông tự túc lấy và luôn luôn
ngưỡng vọng nơi Chúa là Đấng hằng tiếp trợ ông. Nhưng không phải vì thế
ông bê trễ trong chức vụ thánh đâu. Ông trung tín lo tròn trách nhiệm. Thật
là một gương sáng lạng.
Lần thứ nhất, tại Kowton đây mà Ban Bê-tên đã tổ chức buổi cầu nguyện
đặc biệt cho bệnh nhân. Trải qua chiến dịch này một số Ban viên được khỏi
bệnh sốt rét và một vài chứng bệnh khác là nhờ lời cầu nguyện. Nhưng khi
đoàn dân đau ốm, bệnh tật đến xin họ cầu nguyện thì họ hỏi nhau rằng:
“Chúng ta có thể làm gì?” “Nếu Chúa Giê-xu đang ở đây thì Ngài sẽ làm
gì?” Thế rồi họ mời 50 bệnh nhân nhóm lại trong một buổi cầu nguyện đặc
biệt.
Các bệnh nhân được khuyên giục xưng hết tội lỗi ra và cầu nguyện riêng với
Chúa trước. Họ phải học tập vận dụng đức tin mình. Sau khi mỗi người đã
xưng tội và cầu nguyện rồi thì Bác sĩ Tiết cùng Mục sư Kế Chí Văn đặt tay
và cầu nguyện cho họ. Tối ấy liền có một buổi nhóm họp ngợi khen Chúa và
nhiều người đứng dậy làm chứng đã được Chúa chữa lành. Trong số những
người được Chúa chữa lành cũng có các giáo sĩ nữa.
Ngày 12/3 toàn ban Bê-tên đi qua Đại lục Trung Hoa để ở nhà thờ rộng lớn
và lộng lẫy của Hội Union Church. Trong hai ngày đầu thính giả rất ít nên
Hội thánh họ biệt riêng thì giờ để cầu nguyện thiết đảo với Chúa. Chúa
nhậm lời cầu nguyện con cái Ngài nên các buổi nhóm tối rất đông thính giả.
Giữa một Hội thánh ham mê thế gian, giàu có, xa hoa như Hội thánh Hong
Kong này, Bác sĩ Tiết chỉ giảng Đức Chúa Giê-xu Christ và thập tự giá Ngài
thôi. Đức Thánh Linh đã hành động cách quyền năng nên sau mỗi buổi
giảng có nhiều người tin Chúa và tìm kiếm Ngài, xưng tội lỗi và xin đền bù
sự gian lận của họ. Cả giáo sĩ cũng như tín đồ ai ai cũng làm chứng đã được
Thánh Linh cảm động lòng họ thấm thía và rất được phước khi nghe Bác sĩ
Tiết giảng.
Một bà kia đã cầu nguyện cho con trai bà lâu nay. Và cậu con trai ấy theo
thuyết vô thần. Cậu cũng đã đi Mỹ quốc ba lần để học hco xong chương
trình. Nhưng khi thấy mẹ cứ cầu nguyện cho mình tin Chúa thì cậu đâm ghét
bà và dự định giết bà đi. Trong khi Bác sĩ Tiết giảng ở đây thì một người bạn
đã mời cậu đến dự thính. Cậu bằng lòng đi nghe chỉ có ý muốn xem “ông
Tiết khùng kia nhảy múa trên toà giảng thôi”. Nhưng trong khi cậu ngồi
nghe thì cậu cảm xúc tội lỗi quá đỗi liền quỳ xuống nơi chỗ cậu ngồi mà cầu
nguyện tin Chúa. Sau đó cậu đi qua phiá phụ nữ ngồi để tìm mẹ cậu và thổn
thức xin bà tha tội cho. Bà cảm động quá nên khóc nức nở, lớn tiếng dâng
lời cảm tạ Chúa đã nhận lời bà cầu nguyện lâu nay.
Từ Canton Ban sang sông đi đến Vũ Châu trong tỉnh Quảng tây. Các Hội
thánh cả trong tỉnh và ở thành phố này đều ít tín đồ lắm. Hội truyền giáo Cơ-
đốc và Giáo sĩ Liên hiệp hội (C.& M.A.) có lập một Trường Kinh Thánh tại
đây. Một học sinh của Trường này là ông N.S. rất được phước Chúa do chức
vụ Ban tại Thưởng Hải trong kỳ Hội đồng mùa hạ ở nhà thờ Bê-tên năm
1931. Ông đã giúp các học sinh khác sẵn sàng nhận phức Chúa. Nhưng lạ
thay sau buổi giảng thứ nhất vào ngày 27/3 thì Ban lấy làm thất vọng khi
thấy ông này hết sức chỉ trích Ban. Dầu vậy quyền phép Chúa vẫn ở trên
Bác sĩ nên ngày thứ hai Bác sĩ giảng cách có ơn và Thánh Linh Chúa dò xét
mỗi tấm lòng. Nên các học sinh lẫn ông Đốc học đều không thể nào chống
cự nổi với Ngài. Trước hết vị Đốc học kế toàn thể học sinh, rồi một số tín đồ
nữa bước lên toà giảng quỳ gối trước sự hiện diện Chúa xưng tội lỗi, khóc
lóc cầu nguyện. Trải qua 10 ngày như thế công việc kỳ diệu Đức Thánh Linh
đã liên tiếp bày tỏ ra trước mặt mọi người. Trọn mấy đêm người ta chuyênt
âm cầu nguyện và phước Chúa lan tràn trên cả thành phố. Một nữ tín đồ bị
Thánh Linh cáo trách về tội đã ăn cắp một chiếc vgòng 20 năm về trước.
Theo thời giá là 300 mỹ kim. Bà được Chúa thúc giục lấy số tiền ấy dâng
cho Ban. Đêm trước khi từ giã Vũ Châu, Bác sĩ mớ và hát rằng: “Ngoài ta
ngoài ta các ngươi chẳng làm gì được.
Ngoài ta, ngoài ta ra thì các người sẽ bị chặt bỏ như một nhánh khô và bị đốt
đi thôi”.
Khi tỉnh dậy thì ông khóc. Lạ lắm theo chữ Trung Hoa thì chữ Vũ trong chữ
Vũ Châu có gợi ý về thập tự giá và bản ngã. Về điều này Bác sĩ nhận thấy
một lời cảnh cáo của Chúa là dầu mỗi ngày ông đóng đinh bản ngã, người cũ
trên thập tự giá thì cũng cảm biết mình có thể bị chặt bỏ như một nhánh khô
kia và bị liệng vào lò lửa đốt cháy. Và ý nghĩ luôn luôn ở trong tâm trí ông
là: “Dầu tôi có điều này hay điều khác mà không có tình thương yêu thì tôi
chẳng ra gì hết”.
Tại Kweihsien có một trường mù. Hai vị nữ giáo sĩ phục vụ Chúa trong
trường ấy. Họ hết lòng săn sóc các cô thiếu nữ mù. Hội thánh thì rất ít tín đồ.
Hai giáo sĩ ấy không tiếc gì với các côn thiếu nữ mù trong trường. Họ
thương yêu tha thiết các cô kia nhưng điều làm họ buồn là rất ít cô tin Chúa.
Khi Bác sĩ đến giảng ở đây thì dầu nhiều người được phước nhưgn các cô
mù ấy chẳng cảm động gì cả. Ngày này đến ngày khác họ vẫn trơ như đá
lạnh như đồng. Bác sĩ Tiết rất lưu ý đến địa vị thuộc linh họ. Ông giải thích
cho họ rõ về tình thương yêu và sự săn sóc của Cha thiên thượng. Và một
ngày kia trong khi ông khuyên lơn thúc giục họ tin Chúa thì họ chịu cảm
động. Lòng họ tan chảy và bị Thánh Linh chinh phục bởi tình thương yêu
cao cả. Họ vui mừng tiếp rước Cứu Chúa.
Khi tiếp được thơ của các Hội thánh Nan-ning và Yulin mới thì Ban cũng lại
phải bắt thăm lần nữa để biết ai đươực chỉ định đi giảng chỗ nào. Sau khi bắt
thăm các ông Tiết, Lee và Nieh đi giảng ở Yulin. Hội thành Chúa ở đây rất
thịnh vượng nhưng nền văn hoá rất kém cỏi bởi vậy Bác sĩ khó giảng cho họ
lắm. Vả lại vì không đống lòng hiệp một và thiếu một thông dịch viên có
thiện cảm nên cuộc giảng tại đây không được phước. “Không có tình thương
yêu, tôi chẳng ra gì hết” là vậy đó.
Ban trở về Vanton để giảng cho Hội thánh Báp-tít do ông Mục sư Kế Chí
Văn lãnh đạo. Sau đó ông Văn đi Swaton cònc ác ban viên khác thì về Hong
Kong để mở một chiến dịch nữa vào ngày 26/4 đến 1/5 năm ấy mới bế mạc.
Trong chiến dịch này có rất đông thính giả đến nghe Lời Chúa ở nhà thờ
Phê-ni-ên. Khi chiến dịch này bế mạc thì có làm báo-tem và người ta cũng
mời Bác sĩ làm báp-tem cho một số tín đồ. Nhưng Bác sĩ tiếp: “Tôi chưa hề
chịu báp-tem”. Vì vậy ông Reiton làm cho bác sĩ trước, sau đó Bác sĩ lại làm
báp-tem cho 21 phụ nữ và 12 nam tín đồ. Bắt đầu từ thứ ba ngày 2/5 thì Bác
sĩ Tiết giảng buổi mai tại nhà thờ Hội Giám lý còn buổi tối thì giảng ở nhà
thờ Họp Yat Tong. Cả hai nhà thờ này đểu ở tại cù lao Hong Kong. Trọn cả
tuần lễ ấy Bác sĩ Tiết giảng rất quyền phép trước một hội chúng khá đông
đúc. Các ban viên khác thì có trách nhiệm hát và giúp đỡ người hỏi đạo và
tin Chúa Mục sư Kế Chí Văn lại lo cai trị các buổi cầu nguyện. Trong ngày
thứ 8 là ngày chót của chiến dịch này Bác sĩ cũng giảng buổi sáng ở nhà thờ
Hội Giám lý và buổi tối tại nhà thờ Hop Yat Tong. Ngày 6 thì Ban bê-tên lại
lên đường đi Phúc kiến. Ông Tiết và ông Ling thì ở lại Phúc Châu. Còn ba
ông Văn, Tee và Nieh đi đến Hinh Hoa là quê hương của Bác sĩ Tiết, Bác sĩ
Tiết không đi vì ông nói rằng: “Chẳng có tiên tri nào đựơc trọng đãi trong
chốn quê hương và vòng bà con mình hết”. Đức Thánh Linh có cùng đi với
tôi tớ Chúa đến Hinh Hoa và Sienyu nên tất cả những chướng ngại vật đều
bị đánh hạ và cất bỏ. Tín đồ hiệp một, đồng tình đồng ý hướng về mục mục
đích. Con cái Chúa ở đây rất thích hát bài Thánh ca: “Huyết Chúa chẳng bao
giờ mất linh năng”. Mục sư Giáo sĩ W.B.Cole làm chứng lại rằng “Nhờ sự
giảng dạy của Ban mà các Hội thánh được đắc thắng lớn và tinh thần hoàn
taòn mới mẻ đã ngự lâm vào Hội thánh, Trường Kinh Thánh và cả Trường
Trung học nữa. Những người lạu nay tức giận, cắn xé nhau đều trở lại làm
hoà nhau và tinh thần chứng đạo, cầu nguyện đã được phục hưng.” Trong
lúc ấy thì hai ông Tiết và Ling ở lại Phúc Châu và và họ từng trải một ơn
phước có lẽ lớn hơn hết mà lâu nay chưa từng được. Ban đầu thì rất ít người
nghe giảng vì gặp phải mùa thi cử. Nhưng danh tiếng của Bác sĩ đồn đãi ra
cách mau chóng lắm. Bởi vậy có nhiều học sinh trong Trường chánh phủ
cũng như trpng trường của Hội truyền giáo bắt đầu đến dự thính. Chúng cứ ở
lại nhà thờ từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Chúng không dám đi ăn vì sợ mất
chỗ ngồi. Cũng có bốn năm trăm sinh viên trường Đại học đến nghe giảng
nữa. Ngày này đến ngày khác Bác sĩ Toiết dốc đổ tâm linh ông ra trong khi
ông rao truyền sứ mạng Chúa. Trong tuần thứ hai Đức Thánh Linh đã giáng
xuống nên có hằng trăm người được tái sinh. Họ ăn năn khóc lóc, xưng tội
lỗi ra và lìa bỏ. Các học sinh và sinh viên thì lo đền bù sự gian lận họ cùng
các giáo sư. Mỗi ngày những người lâu nay chống nghịch nhau, ghen ghét
nhau trở lại làm hoà nhau và sự vui mừng tràn khắp đường phố vì khi giải
tán ra về các học sinh và sinh viên vừa đi vừa ca hát ngợi khen Chúa.
Trải qua 27 ngày, dau trời mưa dầm dề, dầu bị các giáo sư cấm đoán nhưng
các học sinh và sinh viên không hề bỏ buổi giảng nào. họ lo học và làm bài
ban đêm để có thì giờ đến nhghe Bác sĩ. Ông Frank Ling là thông dịch viên
đắc lực của Bác sĩ Tiết.,Nếu không có ông thông dịch thì Bác sĩ không thể
giảng được. Vì vậy khi con gái ông Ling qua đời thì khi chôn con xong ông
từ huyệt mả con đi thẳng lên toà giảng để thông dịch cho Bác sĩ vì không
muốn bỏ một buổi giảng nào cả Nhưng khi Hội thánh Chúa được phước thì
ma quỷ cũng rất tức giận. Khi chiến dịch này gần bế mạc Bác sĩ có nhận
được thơ ngăm doạ rằng: “Hãy đi khỏi Phúc Châu không thì sẽ bị tống lao”.
Khắp trên các tường thành người ta dán nhiều đáp hiệu chống Bác sĩ. Các
bái chí cũng công kích Bác sĩ kịch liệt. Nhưng trải qua một tháng trên một
ngàn thanh thiếu niên tin Chúa và nhiều người khác trước theo thuyết duy
vật, chống đối Xạo Chúa thì nay đã trở lại với Ngài Có 127 người giữa họ đi
Thượng Hải để dự Hội đồng của Hội truyền giáo Bê-tên trong tháng 7 tới.
Hội đồng năm 1932 này là Hội đồng lần thứ 5 được tổ chức từ ngày 4 đến
14/7 tại Thượng Hải. Vì chiến tranh, loạn ly nên sự giao thông bị cắt đứt. Tín
đồ các miền xa trong nước Trung Hoa không thể đến dự hội đồng được. Chỉ
có một số lớn ở Nam Trung Hoa, Phúc Châu, Swaton, Hong Kong đến nhóm
thôi. Dầu vậy Hội Bê-tên cũng rất vất vả lo đón tiếp và sắp đặt chỗ cho trên
500 đại biểu. Từ tưng tưng sáng cho đen tối mịt nhà thờ Bê-tên chật ních
người ta. Ơn phước và kết quả Chúa ban cho Hội đồng rất lớn nên sau Hội
đồng hai ông Tiết và Văn liền tổ chức một Thánh Kinh Tiểu học đường ba
tuần lễ. Các học sinh phải tự túc lấy. Có 120 học sinh ghi tên ở lại học. Dầu
lúc ấy là mùa hạ rất nóng nực nhưng họ đã học mỗi ngày buổi sáng ba giờ
Kinh Thánh, buổi chiều thì đi ra chứng đạo, thăm viếng, còn buổi tối lại kê
cứu Cựu ước. Trọn ba tuần lễ họ đã học 16 sách trong Kinh Thánh.
Tính đến ngày Hội đồng bế mạc trong tháng 7 năm 1931 kể từ khi Bác sĩ
Tống Thượng Tiết gia nhập Ban Bê-tên đến nay ông đã chu lưu 54.823 dặm,
giảng 1.199 buổi cho 400.000 thính giả trong 13 tỉnh và có 18.000 linh hồn
tiếp nhận Chúa. Ban Truyền đaọ lưu hành Bê-tên này đã giảng trong các chi
hội thuộc 13 Hội truyền giáo tất cả. Sau khi Hội đồng bế mạc và lớp Kinh
Thánh mãn khoá thì ông Tiết, ông Lee và ông Nieh qua Kwangtung để giảng
cho hội đồng Báp-tít ở Swaton trong tuần tháng tám đến đầu tháng 9. Các
cuộc giảng này cũng rất được ơn phước Chúa.