Professional Documents
Culture Documents
CHUYÊN ĐỀ
MÔN HỌC: QUẢN LÝ DỊCH HẠI TỔNG HỢP
CHUYÊN ĐỀ
MÔN HỌC: QUẢN LÝ DỊCH HẠI TỔNG HỢP
1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quản lý sâu bệnh hại trên nền tảng hữu cơ (organic-based plant protection)
mang tính chất mềm dẽo và linh họat, không hoàn toàn như nông nghiệp hữu cơ
theo nguyên tắc IFOAM, có vận dụng trong những trường hợp bắt buộc phải
dùng hóa học o Nông nghiệp hữu cơ làm cho đất khỏe, động vật và thực vật đều
khỏe, con người và hành tinh của chúng ta không tách rời nhau, luôn phụ thuộc
nhau. o Quản lý dựa trên nguyên tắc hệ thống sinh thái và chu kỳ sinh học sống
động o Đảm bảo tính thân thiện với môi trường và cơ hội cho tất cả các loài sinh
vật o An toàn môi trường cho thề hệ con người trong tương lai Ngành bảo vệ
thực đã và đang trãi qua các hình thức quản lý sâu bệnh hại cây trồng như sau: o
BVTV truyền thống: Tránh sự thiệt hại mùa màng bằng cách làm giảm thấp,
hoặc giết chết đối tượng hại (gây tổn thất kinh tế); sử dụng thuốc hóa học để tiêu
diệt đối tượng gây hại. Người ta chỉ sử dụng thuốc khi đối tượng vượt đến
ngưỡng gây hại cho cây (damage threshold). Người ta đã tranh luận nhiều về
ngưỡng kinh tế và ngưỡng gây hại. Ngưỡng kinh tế lệ thuộc nhiều vào năng suất
và giá cả lên xuống của nông sản, nên khó có thể căn cứ vào đây để quyết định
phun thuốc hay không.
Quản lý dịch hại tổng hợp: Tổng hợp nhiều biện pháp sinh học, công nghệ
sinh học, hóa học, canh tác học, cải tiến giống; có xem xét đặc biệt yếu tố môi
trường; khai thác tương tác môi trường và sinh vật có ích; thay thế thuốc hóa
học có hại bằng thuốc ít hại, với thuật ngữ “green chemicals”.
Quản lý sâu bệnh theo phương pháp hữu cơ: (1) Ngăn ngừa sâu bệnh hại,
và cỏ dại thông qua hệ thống cây trồng tối ưu như một nguyên tắc bao quát nhất
(optimized cropping systems); (2) Không tiêu diệt hoàn toàn sâu hại, bệnh hại,
trên cơ sở xác định ngưỡng kinh tế, quản lý sự cân bằng sinh thái; (3) Xây dựng
hệ thống nông nghiệp có tính chất chữa được vấn đề (curative agricultural
system) khi sâu bệnh tấn công, ví dụ như giống cây trồng kháng sâu bệnh, thay
thế thuốc có hại bằng thuốc ít có hại trong trường hợp bắt buộc.
2
II. NỘI DUNG
2. Khái niệm
IPM giúp ích cho mọi người những rủi ro do việc làm dụng thuốc BVTV
ảnh hưởng đến tất cả mọi người: nông dân – rõ ràng là, vì những nguy cơ đối
với sức khỏe và mất khả năng kiểm soát dịch hại như tái bùng phát dịch bệnh và,
nếu hiện tượng kháng thuốc xảy ra, thì nông dân có thể phun thuốc (tăng chi
phí) cho đến khi thuốc không còn tác dụng; công ty và các đại lý thuốc BVTV -
do mất uy tín và nếu hiện tượng kháng thuốc xảy ra, họ có thể mất cơ hội kinh
doanh vì người nông dân chọn các loại thuốc từ những công ty khác; người tiêu
dùng - thuốc không hiệu quả làm giảm khả năng kiểm soát dịch hại: do đó có thể
làm chi phí thực phẩm tăng lên và khi nông dân tăng liều phun lên thì càng làm
tăng nguy cơ về dư lượng thuốc. Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) có thể được
xem là chiến lược tổng thể nhằm khắc phục những rủi ro này, bằng việc kết hợp
quản lý dịch hại với các khía cạnh khác của sản xuất cây trồng, bao gồm cả các
kỹ thuật về nông học.
IPM xem xét: Hiệu quả kinh tế của quản lý dịch hại, Làm thế nào giảm
thiểu rủi ro do sử dụng thuốc BVTV, không chỉ nhằm bảo vệ sức khoẻ và môi
trường mà còn giảm chi phí cho nông dân ở mức tối thiểu và tránh các nguy cơ
như kháng thuốc và tái phát dịch hại. Cách tốt nhất để sử dụng các sản phẩm
BVTV: hay còn gọi là sử dụng thuốc BVTV có trách nhiệm. Trước khi quan tâm
đến việc sử dụng thuốc có trách nhiệm kỹ hơn, chúng ta cần phải xem xét các
thành phần khác nhau của IPM. Dịch hại là gì? Dịch hại: là thuật ngữ dùng để
chỉ bất kỳ loài sinh vật nào gây thiệt hại tới cây trồng hay giá trị sản phẩm của
cây trồng, bao gồm:
Côn trùng: Rầy nâu, sâu cuốn lá, sâu đục thân, bọ xít hôi…
Nhuyễn thể (động vật thân mềm): Sên, ốc…
Động vật có xương sống: Chuột đồng và chuột nhắt (chuột nhà)
Vi sinh vật: Nấm, vi khuẩn, protozoa, vi-rút....gây bệnh cây:
Bệnh do nấm: đạo ôn, đốm vằn
Bệnh do vi khuẩn: cháy bìa lá
Bệnh do vi-rút: lùn xoắn lá, tungro
Bệnh do tuyến trùng: tuyến trùng bướu rễ
Cỏ: bất kỳ cây trồng mọc ở nơi mà con người không mong muốn
3
Phòng trừ dịch hại: là các biện pháp khắc phục được sử dụng khi dịch hại
đã trở thành vấn đề. Chủ yếu dựa vào thuốc BVTV, và thường được dùng để làm
giảm mật số dịch hại xuống mức thấp nhất có thể hoặc diệt trừ chúng hoàn toàn.
Quản lý dịch hại: bao gồm các biện pháp phòng ngừa và các biện pháp
khắc phục, để quản lí mật số của dịch hại đạt mức dưới ngưỡng thiệt hại
2.3 Hệ thống cấp bậc của IPM (và tại sao điều này quan trọng)
Cùng nhau hoạt động chứ không phải chống lại – Tiến trình phòng trừ tự
nhiên là một khái niệm quan trọng trong IPM: cùng với cơ chế phòng trừ sinh
học (thiên địch), phòng trừ bằng kỹ thuật canh tác và chọn giống thích hợp, thì
có thể tránh được các vấn đề về dịch hại.
Do đó nền tảng của quản lý dịch hại tổng hợp hiệu quả là trồng một vụ mùa
khỏe mạnh, tuy nhiên cần thực hiện giám sát: thường xuyên theo dõi tình trạng
sức khỏe tổng thể của ruộng lúa và mức độ dịch hại, không để bùng phát quá
nhiều, kết hợp với hành động can thiệp thực hiện dựa trên cơ sở ngưỡng hành
động: như được giới thiệu bên dưới.
Quản lý dịch hại bằng hành động can thiệp, khi cần thiết, bao gồm việc sử
dụng các tác nhân phòng trừ một cách an toàn, bền vững, đúng đắn, hiệu quả và
tiết kiệm chi phí.
Đặc biệt, khi cần thiết, IPM có thể được miêu tả theo mô hình kim tự tháp,
với nền tảng của mô hình này là tiến trình phòng trừ tự nhiên và đỉnh tháp là
hành động ra quyết định và can thiệp hợp lý (sử dụng thuốc BVTV hóa học hay
không):
5
2.4 Những nguy hiểm/ rủi ro về kỹ thuật của việc lạm dụng thuốc BVTV
Tính kháng Chúng ta đã được nhắc về những nguy hiểm/ rủi ro của việc
phát triển tính kháng thuốc, bởi việc sử dụng liên tục các thuốc BVTV có cùng
cơ chế tác động. Tính kháng thuốc có thể đến với tất cả các loại thuốc BVTV
(thuốc trừ nấm, thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ, .v.v...) và những khuyến cáo chuyên
biệt đã được thực hiện bởi Ủy ban Hành động kháng thuốc - được điều phối bởi
CropLife International.
Kết quả là mất hiệu quả của sản phẩm: với sự mất kiểm soát dịch hại làm
cho nông dân tin rằng phải tăng liều lượng thuốc sử dụng và làm tăng thêm nguy
hiểm về dư lượng tồn dư cao, cho đến khi sản phẩm trở nên vô dụng. Vì thế tất
cả đều phải hứng chịu từ hiện tượng này: nông dân, các công ty thuốc BVTV và
người tiêu dùng.
Sự tái bộc phát: tránh gây bộc phát rầy nâu Nông dân hiểu tốt hơn về nhu
cầu xử lý tối hảo thuốc trừ sâu nói chung là để bảo tồn thiên địch (nhóm các côn
trùng bắt mồi/ăn thịt có lợi và nhóm côn trùng ký sinh) và giảm bớt việc sử dụng
các loại thuốc BVTV hóa học không cần thiết. Vấn đề này đặc biệt gay gắt ở nơi
thuốc trừ sâu phổ rộng (như organophosphates, pyrethroids, avermectins) đã,
đang và được sử dụng dư thừa trên lúa, dẫn đến hậu quả cay đắng về sự tái bộc
phát rầy nâu trải rộng ở Việt Nam và hầu hết các nước Châu Á khác.
Một nghiên cứu gần đây hơn so sánh sử dụng thuốc trừ sâu gốc pyrethroid
đối với sâu cuốn lá, một loại côn trùng gây hại được phun thuốc phổ biến, đã
cho thấy rằng mật số rầy nâu có ảnh hưởng ngược trở lại do bởi giảm các côn
trùng bắt mồi, ăn thịt, trong lô áp dụng phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM) đã
không cho thấy sự tái bộc phát. Vì thế, Cục BVTV nên có lời khuyên mạnh mẽ
hơn cho nông dân là KHÔNG sử dụng thuốc BVTV trong 40 ngày đầu sau khi
sạ/cấy và không sử dụng thuốc BVTV có phổ tác dụng rộng nơi có sự nguy
hiểm của bộc phát rầy nâu. Ở các giai đoạn sau, thuốc trừ sâu phải được sử dụng
thận trọng và nghiêm khắc phù hợp với ngưỡng hành động.
9
2.7 Hướng tiếp cận với nông nghiệp hữu cơ
Xây dựng chiến lược bảo vệ thực vật nhằm mục tiêu loại trừ các nguyên
nhân làm xuất hiện hay bộc phát đối tượng gây hại cây trồng và tạo ra các điều
kiện phục vụ cho quản lý dịch hại thành công.
Phương pháp gián tiếp trong BVTV: ngăn ngừa dịch hại thông qua hệ
thống canh tác thân thiện với môi trường, sử dụng giống kháng, giống chống
chịu.
Phương pháp trực tiếp BVTV: đấu tranh sinh học (biocontrol), cơ – nhiệt
học (mechanical and thermic methods).
Trong chiến lược bảo vệ thực vật của Daniel – ETH (2014), người ta tạo ra
một hình tháp mà đáy là “tính bền vững của tự nhiên và nguồn bảo tồn trong
tự nhiên” làm cơ sở. Sau đó mới xây dựng vùng canh tác phù hợp với sinh thái,
có tính chọn lọc về giống cây trồng, cũng như mùa vụ canh tác. Cao hơn một
chút là tính đa dạng sinh học với quần thể thiên địch được duy trì (bao gồm con
ăn mồi và ký sinh). Kế đến là tiếp cận với cách thức “biocontrol”, sử dụng vi
khuẩn, virus, côn trùng có ích. Ưu tiên sau cùng là thuốc sâu, thuốc diệt khuẩn,
diệt cỏ, pheromones, phương pháp cơ học.
Như vậy việc bảo tồn tài nguyên sinh vật trong tự nhiên là nền tảng vững
chắc nhất theo chiến lược này.
Trong phương pháp ngăn ngừa sâu bệnh hại xảy ra: Stoeva (2014) đề ra
lý thuyết “suitable production site” (nơi sản xuất hợp lý), cây trồng thích nghi
với đất và khí hậu, điều kiện tăng trưởng và phát triển của cây trồng tối hảo, cây
che bóng, cây trụ đỡ (support) không là ký chủ phụ của sâu bệnh hại, ẩm độ đất,
đặc điểm hóa lý của đất được nghiên cứu kỹ, nhất là quần thể tuyến trùng gây
hại có thể tăng trưởng theo thời gian với điều kiện cho phép. Tác giả nhấn mạnh
yếu tố ánh nắng mặt trời và độ dốc mặt ruộng có tác dụng tích cực trong ngăn
ngừa sâu bệnh hại.
Trong phương pháp ngăn ngừa sâu bệnh hại xảy ra: Stoeva (2014) đề ra
lý thuyết “suitable production site” (nơi sản xuất hợp lý), cây trồng thích nghi
với đất và khí hậu, điều kiện tăng trưởng và phát triển của cây trồng tối hảo, cây
che bóng, cây trụ đỡ (support) không là ký chủ phụ của sâu bệnh hại, ẩm độ đất,
đặc điểm hóa lý của đất được nghiên cứu kỹ, nhất là quần thể tuyến trùng gây
hại có thể tăng trưởng theo thời gian với điều kiện cho phép. Tác giả nhấn mạnh
10
yếu tố ánh nắng mặt trời và độ dốc mặt ruộng có tác dụng tích cực trong ngăn
ngừa sâu bệnh hại.
Các yếu tố về môi trường có ảnh hưởng tích cực là tiểu khí hậu (micro
climate) vùng canh tác, phì nhiêu đất đai và cách tiếp cận với dinh dưỡng trong
đất, địa hình canh tác, hệ thống môi sinh tự nhiên (natural ecosystem). Stoeva
(2014) kết luận rằng những kỹ thuật canh tác hữu cơ đều có thể giúp nông dân
tự bảo vệ mùa màng và luôn gắn liền với môi trường canh tác.
Quản lý dinh dưỡng là chìa khóa trong ngăn ngừa sâu bệnh hại có tính chất
kinh điển nhất. Hàm lượng hữu cơ trong đất phải được quản lý theo hướng có lợi
nhất cho cây sử dụng các phân khoáng hiệu quả cao. Đi liền với hữu cơ trong
đất là hoạt động của biết bao vi sinh vật có ích và nhiều loài sinh vật khác, đóng
vai trò dịch vụ tự nhiên trong kiểm soát đối tượng gây hại, hoặc hạn chế quần
thể của chúng dưới ngưỡng gây hại. Phân chuồng, phân xanh, phân ủ được nhấn
mạnh với sự tương tác của các chủng vi sinh, nhằm thúc đẩy quá trình mong
muốn xảy ra thuận lợi trong đất.
Kỹ thuật canh tác có tác động lớn đến vai trò phòng ngừa này, mang tính
giáo trình từ nhiều năm nay. Canh tác chống “soil compaction” (đất chai cứng),
chống sa mạc hóa, chống suy thoái / thoái hóa đất, xét về độ phì nhiều,.. là
những hợp phần được thảo luận hiều nhất (Stoeva 2014). Cày đất với tần suất
bao nhiêu là vừa, luân canh/xen canh, bón phân cân đối là nội dung tuy cũ,
nhưng vẫn còn mới trong nông nghiệp hữu cơ, với khái niệm “green
fertilization” (phì nhiêu xanh, thân thiện môi trường). Sức khỏe của rễ gắn liền
với sức khỏe của cây, giúp cây tăng cường hệ thống tự bảo vệ, hệ thống miễn
nhiễm.
Biện pháp luân canh (crop rotation) được bình luận khá dài trong nông
nghiệp hữu cơ, với những lợi ích như sau: (1) cải thiện được cấu trúc đất; (2) gia
tăng độ phì nhiêu đất; (3) quản lý cỏ dại, sâu bệnh; (4) giảm thiểu nhiều rủi ro
trong nông nghiệp; (5) gia tăng sự cố định đạm thông qua vi khuẩn cộng sinh
của cây họ đậu; (6) cải tiến được cân đối N-P-K cả hai nguồn phân hữu cơ và vô
cơ.
Ví dụ luân canh trong BVTV tại Châu Âu (Karov et al., AUP, 2013): Năm
thứ nhất (2005) trồng cỏ alfalfa: cung cấp nguồn cỏ khô chất lượng tốt, tăng độ
phì đất, cải thiện có nhiều nguồn bệnh trong đất. Năm thứ hai (2006) trồng Cải
bó xôi (spinach) và lúa mì. Năm thứ ba (20078) trồng Khoai tây. Năm thứ tư
11
(2008) trồng Cà rốt và hành tây: ức chế pathogen trong đất, ngăn ngừa nấm Psila
rosae và Delia radicum. Năm thứ năm (2009) trồng Ớt. Năm thứ sáu (2010)
trồng Lúa mạch đen (Rye) và đậu đỗ mùa đông (winter pea). Năm thứ bảy
(2011) trồng Cà chua và tỏi tây (leek): cho kết quả phòng chống pathogen trong
đất tốt. Năm thứ tám (2012) trồng Đậu cô ve (bean) và đậu Hà Lan (pea): làm
giàu đất với N hữu cơ. Sau đó (2013), thực hiện kế hoạch trồng Lúa mạch và
bắp cải.
Phòng ngừa bằng biện pháp canh tác bao gồm: 1. Xen canh (intercropping)
2. Trồng từng băng xen kẽ, mỗi băng mỗi loài khác nhau (stripe cropping) 3.
Trồng nối tiếp nhau sau mỗi loài cây trồng khác nhau (relay cropping)
Ví dụ trồng xen canh tỏi đen và cần tây (celery) phòng ngừa được bệnh rỉ
sắt và bù lạch; trồng xen bắp và cây họ cà (ớt, cà tím, cà chua) phòng ngừa được
“leaf hopper”; cà rốt trồng xen với tỏi đen phòng ngừa được ruồi đục cà rốt
(carrot fly); tỏi trồng xen dâu tây phòng ngừa được nhiều pathogens
Phòng ngừa bằng đa dạng cây trồng (crop diversity) bao gồm: 1. Cánh
đồng hữu cơ (organic fields) 2. Kết hợp nhiều biện pháp canh tác với nhau
(associated mixed cultures) - Tạo ảnh hưởng đa chiều trong BVTV (multiple
plant protection effect) - Cây cúc calendula trồng rải rác trong líp rau chống
được nhện đỏ (mite) và nhiều pathogens - Cây bông vạn thọ (Tagetes erecta)
hoặc rau dền (Amaranthus) làm bẩy để bắt giữ tuyến trùng có hại.
Giống cây trồng kháng/Chống chịu stress sinh học
Giống thích nghi với điều kiện sinh thái là điều kiện tiên quyết, có những
giống mang tính chất “native variety” (giống bản địa) phải được bảo tồn.
Giống kháng hoặc chống chịu sâu bệnh hại chính Chiến lược giống kháng
là một ngành khoa học rất lớn, sẽ được thảo luận riêng và chuyên sâu. Điều cơ
bản là làm sao quản lý tính kháng này một cách bền vững.
2.12 Pheromones
Pheromone là những chất được sử dụng như những tín hiệu hóa học giữa
các cá thể cùng loài, những chất này được tiết ra ngoài cơ thể côn trùng và có
thể gây ra những phản ứng chuyên biệt cho những cá thể khác cùng loài. Đôi khi
chất này còn được gọi là hormone xã hội (social hormone) hay được xem như
một hệ thống thông tin hóa học. Có loài chỉ sản xuất một số ít pheromone, một
số loài khác lại có khả năng sản xuất nhiều hơn. Hệ thống pheromone khá phức
tạp ở các loài côn trùng sống thành xã hội bầy đàn. Thông tin hóa học này khác
với cơ quan thị giác hay thính giác. Sự truyền bá thông tin bởi pheromone tương
đối chậm (pheromone phân tán trong không khí) nhưng tín hiệu của pheromone
được duy trì lâu, xa và đôi khi đến vài km hay xa hơn nữa. Sử dụng “synthetic
sex pheromone” bao gồm
Bẫy pheromones (dục tình hương tự nhiên): chủ yếu để dẫn dụ con đực
Dispensers (chất do người ta bào chế giống như dục tình hương):
diammonium phosphate, pyrethroids (deltamethrin hoặc lambdacyhalothrin)
Bột có tính chất tĩnh điện (electrostatic powder) o Kết hợp với chất triệt
sinh (chemosterilant) với pheromone
Kết hợp với bẩy dính có màu với pheromone
Theo số liệu đã thống kê, có hơn 900 loài côn trùng có hại đã có thể được
người ta áp dụng pheromones để dẫn dụ chúng vào bẩy, và tiêu diệt chúng.
Pheromones và những hóa chất tổng hợp giống như dục tình hương được sử
dụng (1) theo dõi côn trùng; (2) bảo vệ trực tiếp mùa màng; (3) làm xáo trộn sự
thụ tinh của côn trùng; (4) bắt giữ được số lượng lớn con trưởng thành vào bẩy
(mass trapping)
14
Ví dụ: đạo luật (EC) No 834/2007 của EU và 889/2008 tiếp theo đó. Người
ta có thể chấp nhận thuốc trừ sâu sinh học (biopesticides), thậm chí thuốc trừ sâu
hóa học (chemical pesticides), với những tiêu chí về ngưỡng tồn dư tối thiểu
(MRL) rất khắc khe, sau một thời gian nhất định nào đó.
15
phục hồi của các hệ thống canh tác trên thế giới và được định hướng bởi các
‘công nghệ sinh thái’. ACP dựa trên việc triển khai một cách hệ thống các kỹ
thuật canh tác thông qua phương pháp tiếp cận có hệ thống và có sự tham gia
(SPA), ưu tiên các biện pháp phòng ngừa thay vì phương pháp trừ diệt và chú
trọng vào việc bảo tồn và phát huy sinh vật có ích (loài ăn mồi chân đốt, loài ký
sinh, vi sinh vật ký sinh, loài thụ phấn và loài phân giải chất hữu cơ).
Về bản chất, ACP sử dụng những nguyên lý và biện pháp canh tác trong
bảo vệ cây trồng. Mục đích của ACP là tăng cường chức năng sinh thái trong các
hệ thống canh tác qua tối ưu hóa trực tiếp hoặc gián tiếp các tương tác trong
cộng đồng thực vật, động vật và vi sinh vật. Sức khỏe đất và đa dạng sinh học là
hai trụ cột của ACP. Chúng tạo ra cân bằng hiệu quả của các quần thể trong hệ
thống canh tác cũng như khả năng chống chịu đối với những thiệt hại do sinh vật
gây ra, giảm nguy cơ và mức độ xâm hại, lây nhiễm, bùng phát, dịch bệnh và
xâm nhập của dịch hại.
3.3 Giải pháp để triển khai thành công acp trong một tình huống sản xuất
nhất định
Trong những năm gần đây, đã có nhiều tiến bộ trong lĩnh vực bảo vệ cây
trồng theo hướng nông nghiệp sinh thái. Để triển khai thành công ACP, cần có
một chương trình quốc gia về ACP và một chiến lược giảm sử dụng thuốc
BVTV. Vì ACP là một phương pháp mới, nó phải được thiết kế và thực hiện trên
một quy mô rộng với sự tham gia của nhiều đối tác liên quan (ngành nông
nghiệp, chính quyền địa phương, chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ kỹ thuật, cán
bộ nông nghiệp và đặc biệt là nông dân mà chấp nhận và hưởng ứng phương
pháp này). Sự phối hợp năng động, tích cực và linh hoạt của các đối tác trong
triển khai một chương trình ACP là cần thiết
17
3.4 Ứng dụng các nguyên tắc acp trên đồng ruộng
Nguyên tắc 1: Phòng trừ sinh học theo hướng bảo tồn là yếu tố chính của
ACP, bao gồm các biện pháp như: ngừng ngay việc sử dụng thuốc hóa học, tạo
môi trường sống thích hợp cho thiên địch nhưng không thích hợp cho sâu bệnh,
thiết kế hệ thống canh tác và kế hoạch quản lý cây trồng giúp bảo tồn thiên địch.
Các kỹ thuật phòng trừ sinh học khác (du nhập giới thiệu thiên địch hay qua
nhân nuôi phóng thích thiên địch) cũng có thể được sử dụng kết hợp nhằm tăng
hiệu quả.
Nguyên tắc 2: Tăng cường đa dạng sinh học đòi hỏi quản lý tốt hệ sinh thái
nông nghiệp cả về không gian và thời gian: quản lý/định hướng tốt hệ thực vật
tại chỗ; đa dạng trong luân canh cây trồng; trồng cây phủ đất đa mục tiêu; xen
canh với nhiều loại hay giống cây trồng khác nhau; quản lý tốt các hệ nông sinh
thái (các luống hoa, hàng rào, đất hoang, mương, kè, hành lang); thiết kế lại các
lô cây trồng không phù hợp hoặc quá rộng để có thể thay đổi số lượng, quy mô
và bản chất của đa dạng sinh học thực vật để hiệu quả hơn. Tăng cường đa dạng
sinh học thực vật để thúc đẩy đa dạng sinh học động vật. Tối ưu hóa tương tác
giữa hai quần thể này là chìa khóa để hệ sinh thái hoạt động tốt và hiệu quả
(xem nguyên tắc 1).
Nguyên tắc 3: Cải thiện sức khỏe đất bao gồm việc tối ưu hóa tương tác
giữa các đặc tính của đất với khí hậu và kỹ thuật canh tác. Mục tiêu là để cải
thiện chất lượng đất (hàm lượng chất hữu cơ, cấu trúc, đặc tính hóa lý như pH và
khả năng oxy hóa khử và chức năng sinh học) và để bảo vệ đất, chống xói mòn
và giảm bốc thoát hơi nước bằng việc sử dụng các biện pháp canh tác bền vững
thân thiện với môi trường, nhằm hạn chế sự phát triển của sâu bệnh. Qua đó, sức
khỏe cây trồng được cải thiện và gia tăng tính chống chịu đối với sâu bệnh.
Nguyên tắc 4: Áp dụng các biện pháp canh tác thích hợp giúp cây trồng cải
thiện khả năng chống chịu với thiệt hại do sinh vật gây ra (biotic stress) như sự
tấn công của sâu bệnh hại và sự cạnh tranh của cỏ dại.
Cần kết hợp các kỹ thuật bao gồm: sử dụng các giống kháng/chống chịu và
kỹ thuật canh tác thích hợp giúp cây trồng ít mẩn cảm với sâu bệnh (phương
pháp né tránh, gây ngạt thở, thay đổi kiến trúc hay điều kiện sinh lý của cây để
ngăn trở sâu bệnh (thí dụ như thay đổi lịch xuống giống, mật độ trồng, bón phân
tưới nước, tỉa thưa thích hợp)
18
3.5 Các mô hình bảo vệ cây trồng theo hướng nông nghiệp sinh thái:
Quản lý ruồi đục quả theo hướng nông nghiệp sinh thái
Phòng trừ sinh học rệp sáp trên khoai mì
Sử dụng kiến vàng làm tác nhân sinh học trong vườn cây có múi
Ứng dụng công nghệ sinh thái phòng trừ sâu bệnh hại lúa tại Đồng bằng
sông Cửu Long
Cải thiện sức khỏe đất bằng các phân bón sinh học và chế phẩm sinh học
19
III. KẾT LUẬN
Quản lý dịch hại tổng hợp: Tổng hợp nhiều biện pháp sinh học, công
nghệ sinh học, hóa học, canh tác học, cải tiến giống; có xem xét đặc biệt yếu tố
môi trường; khai thác tương tác môi trường và sinh vật có ích; thay thế thuốc
hóa học có hại bằng thuốc ít hại, với thuật ngữ “green chemicals”.
Quản lý sâu bệnh theo phương pháp hữu cơ: (1) Ngăn ngừa sâu bệnh
hại, và cỏ dại thông qua hệ thống cây trồng tối ưu như một nguyên tắc bao quát
nhất (optimized cropping systems); (2) Không tiêu diệt hoàn toàn sâu hại, bệnh
hại, trên cơ sở xác định ngưỡng kinh tế, quản lý sự cân bằng sinh thái; (3) Xây
dựng hệ thống nông nghiệp có tính chất chữa được vấn đề (curative agricultural
system) khi sâu bệnh tấn công, ví dụ như giống cây trồng kháng sâu bệnh, thay
thế thuốc có hại bằng thuốc ít có hại trong trường hợp bắt buộc
Quản lý sâu bệnh hại trên nền tảng hữu cơ (organic-based plant protection)
mang tính chất mềm dẽo và linh họat, không hoàn toàn như nông nghiệp hữu cơ
theo nguyên tắc IFOAM, có vận dụng trong những trường hợp bắt buộc phải
dùng hóa học. Nông nghiệp hữu cơ làm cho đất khỏe, động vật và thực vật đều
khỏe, con người và hành tinh của chúng ta không tách rời nhau, luôn phụ thuộc
nhau.
Quản lý dựa trên nguyên tắc hệ thống sinh thái và chu kỳ sinh học sống
động
Đảm bảo tính thân thiện với môi trường và cơ hội cho tất cả các loài sinh
vật
An toàn môi trường cho thề hệ con người trong tương lai
Tóm lại thì tất cả những điều nêu trên đều dựa trên Sinh Thái Học, để từ đó
xây dựng và sẽ giúp cho chúng ta hiểu được các khía cạnh khác nhau của quản
lý dịch hại tổng hợp (IPM) và vai trò bảo vệ và nuôi dưỡng sinh vật có ích trong
công tác phòng trừ sinh vật gây hại đối với cây trồng. Qua đó hy vọng rằng
chúng ta sẽ học cách để hiểu rõ hơn về thông tin dịch hại, đồng thời đảm bảo
đồng ruộng an toàn và và giúp ích trong cách quản lý sâu bệnh hiệu quả nhất.
20
Tài liệu tham khảo
1. Nguồn chính: Atanaska Stoeva (Agricultural University - Plovdiv). 2014.
Plant protection in organic farming; Lecture 6: Joint Bachelor Course on
Organic Agriculture 2014 Nguồn bổ sung: M. Xavier LANGLET. 2010.
2. Phytopharmaceutical products statutory point on their use in organic farming -
Evolution of the regulations. European Symposium Of the Technical Institute for
Organic Agriculture (ITAB) and partners of the VETABIO and
TRANSBIOFRUITS projects. 10 - 11 March 2010 in Lille.
Tham khảo trực tuyến:
1. http://www.ifoam.org/sites/default/files/ifoam_poa.pdf. Last access: 27th
April 2014
2. http://www.infonet-biovision.org/default/ct/251/soilfertilitymanagement. Last
access: 28th April 2014
3.http://www.fao.org/ag/ca/AfricaTrainingManualCD/PDF
%20Files/06CROP1.PDF#page=4. Last access: 28th April 2014
4.http://www.intechopen.com/books/weed-and-pest-control-conventional-and-
new-challenges/companion-planting-and-insect-pestcontrol#article-front. Last
access: 28th April 2014
5.http://msue.anr.msu.edu/news/it_is_time_to_integrate_biological_control_into
_your_reduced_risk_ipm_progr. Last access: 28th April 2014
6. http://vegalab.com/larva-bio-control/. Last access: 28th April 2014
7.http://www.seedbuzz.com/knowledge-center/article/bio-pesticides-benefits-
barriers. Last access: 28th April 2014
access: 28th April 2014
21