Professional Documents
Culture Documents
ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du
nhập từ Ấn Độ. Riêng về Đạo giáo, chính tư tưởng Hoàng Lão (Hoàng Đế
黃帝 - Lão Tử 老子) hay tư tưởng Đạo gia, Vu thuật (巫術, shamanism), và
khát vọng trường sinh bất tử đã dẫn đến sự hình thành tôn giáo này.
Trong Đạo giáo, có nhiều tông phái; mỗi tông phái có sự hình thành, cơ cấu và
hoạt động, ảnh hưởng đối với triều đình và quần chúng khác nhau. Có ba giáo
phái tiêu biểu, xuất hiện vào thời kỳ ban đầu của Đạo giáo, đó là: Ngũ Đấu Mễ
Đạo (五斗米道), Thái Bình Đạo (太平道), và Bạch Gia Đạo (帛家道).
Khái lược
Đạo giáo Trung Quốc có nhiều tông phái (tức giáo phái). Thuật ngữ tông (宗)
và phái (派) đồng nghĩa nhau và Đạo giáo hay dùng lẫn lộn phái và tông để đặt
tên. Người Tây phương thường dùng chữ sect để dịch chữ phái và chữ school
để dịch chữ tông. Thực tế, tuy tông và phái đồng nghĩa nhau, nhưng Phật giáo
có xu hướng dùng chữ tông và Đạo giáo có xu hướng dùng chữ phái. Trong vài
chục tông phái của Đạo giáo Trung Quốc, ngoài thuật ngữ tông và phái, thuật
ngữ đạo và giáo cũng được dùng. Nhưng các thuật ngữ này được dùng không
theo quy tắc nào cả và cũng không hề có sự so sánh về qui mô lớn nhỏ giữa
các thuật ngữ ấy. Ở đây dùng thuật ngữ "giáo phái" là một thuật ngữ phổ
thông, có thể dùng cho một tôn giáo bất kỳ.
Giáo phái đầu tiên là Ngũ Đấu Mễ Đạo (五斗米道), xuất hiện vào đời Đông
Hán (東漢, 25-220), triều vua Thuận Đế (順帝, 126-144). Sau đó, giữa những
năm Kiến Ninh (建寧) và Hi Bình (熹平, 168-177) dưới triều Hán Linh Đế (漢
靈帝, 168-189), Thái Bình Đạo (太平道) được hình thành. Cho đến đời Đông
Tấn (東晉, 317-420) và Nam Bắc Triều (南北朝, 420-589), có thêm nhiều giáo
phái xuất hiện như Thượng Thanh (上清), Linh Bảo (靈寶), Lâu Quán (樓觀),
v.v... Đến đời Nam Tống (南宋, 1127-1279) và đời Kim (金, 1115-1234), phía
Bắc xuất hiện Toàn Chân Đạo (全真道), Chân Đại Đạo (真大道), Thái Nhất
Đạo (太一道), v.v... và phía Nam xuất hiện Thiên Tâm Phái (天心派), Thần
Tiêu Phái (神霄派), Thanh Vi Phái (清微派), Đông Hoa Phái (東華派), Tịnh
Minh Đạo (靜明道), v.v... Đó là giai đoạn phát triển cực thịnh của Đạo giáo.
1|Page13
Trong lịch sử phát triển của Đạo giáo, người ta thấy rằng tùy theo sự biến thiên
của xã hội mà nhiều giáo phái suy vong, thì lại có tân giáo phái ra đời. Có khi
do hoàn cảnh xã hội, một giáo phái nhỏ sáp nhập với một giáo phái khác, hoặc
một giáo phái lớn bị phân hoá thành chi phái nhỏ hơn. Đó là hiện tượng hưng
(興) - suy (衰) - phân (分) - hợp (合) trong lịch sử phát triển khoảng 2000 năm
của Đạo giáo Trung Quốc. Thí dụ:
Ngũ Đấu Mễ Đạo đã trải qua hai cuộc cải cách do đạo sĩ Khấu Khiêm
Chi (寇謙之, Bắc Ngụy) và đạo sĩ Lục Tu Tĩnh (陸修靜, Nam Triều
Tống) tiến hành. Khấu Khiêm Chi cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo (tức Thiên
Sư Đạo) ở phương bắc nên nhánh này gọi là Bắc Thiên Sư Đạo, còn Lục
Tu Tĩnh cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo ở phương nam nên nhánh này gọi là
Nam Thiên Sư Đạo. Đến đời Tùy thì Nam và Bắc Thiên Sư Đạo hợp nhất
làm một. Khoảng đời Đường sử sách không chép rõ diễn biến của Thiên
Sư Đạo. Sau đời Đường, cháu của Trương Lăng (tương truyền là Trương
Thịnh (張盛), con thứ 4 của Trương Lỗ) tiếp tục truyền giáo tại Long Hổ
Sơn ở Giang Tây. Núi này dần trở thành một trung tâm truyền bá Thiên
Sư Đạo và giáo phái mang tên mới là Long Hổ Tông (龍虎宗) theo tên
của nơi truyền đạo là Long Hổ Sơn, cũng gọi là Long Hổ Sơn Thiên Sư
Đạo.
Thượng Thanh Phái đến đời Đào Hoằng Cảnh (陶弘景) thì lấy Mao Sơn
làm trung tâm truyền đạo, nên gọi là Mao Sơn Tông (茅山宗).
Lý Gia Đạo từ đời Đông Tấn về sau thì nhập vào Thiên Sư Đạo.
Linh Bảo Phái đến đời Bắc Tống thì phân hoá thành Đông Hoa Phái; đến
đời Nguyên thì nhập vào Chính Nhất Đạo.
Lâu Quán Đạo suy thoái vào đời Nguyên, được Toàn Chân Đạo khôi
phục, nên nhập vào Toàn Chân. v.v...
Cho dù do những điều kiện chủ quan và khách quan dị biệt như thế nào, thì các
giáo phái có một đặc điểm chung là: xuất hiện vào những thời kỳ mà xã hội bị
phân hóa, nảy sinh nhiều mâu thuẫn, và nhân dân lầm than khốn khổ. Thí dụ
như:
2|Page13
Ngũ Đấu Mễ Đạo (五斗米道) và Thái Bình Đạo (太平道) xuất hiện vào
cuối đời Đông Hán lúc mà tình hình chính trị tối tăm mục nát, khủng
hoảng kinh tế nặng nề.
Thượng Thanh Phái (上清派) và Linh Bảo Phái (靈寶派) xuất hiện vào
đời Đông Tấn bị suy yếu do các nước phân tranh.
Các giáo phái phương Bắc (như Toàn Chân Đạo 全真道, Chân Đại Đạo
真大道, Thái Nhất Đạo 太一道, ...) và các giáo phái phù lục phương
Nam (như Thiên Tâm Phái 天心派, Thần Tiêu Phái 神霄派, Thanh Vi
Phái 清微派, Đông Hoa Phái 東華派, ...) xuất hiện vào đời Bắc Tống (北
宋, 960-1127) là thời hai vua Huy Tông (徽宗) và Khâm Tông (欽宗) bị
giặc bắt giữ, và đời Nam Tống (南宋, 1127-1279) là một thời kỳ loạn lạc
liên miên.
Với hoàn cảnh xã hội tao loạn điêu linh trong cơn binh lửa như vậy, các giáo
phái đã ra đời như một điểm tựa tâm linh cho quần chúng vốn dĩ quá ngao
ngán trước thế cuộc và băn khoăn đau xót về thân phận phù du của kiếp người.
3|Page13
cho Dương Hi (楊羲) và Hứa Mật (許謐) bộ Thượng Thanh Chân Kinh
(上清真經).
Linh Bảo Phái (靈寶派) thì nói rằng giáo chủ Cát Sào Phủ (葛巢甫, cháu
họ của Cát Hồng) đã có được bộ Linh Bảo Kinh (靈寶經) mà xưa kia
Nguyên Thủy Thiên Tôn (元始天尊) đã truyền cho Cát Huyền (葛玄).
Những truyền tụng đại loại như vậy thì rất nhiều, nhưng điều này cho thấy việc
đặt tên cho giáo phái dựa trên cơ sở ban đầu là tên của tổ kinh (tương truyền
do thần tiên giáng cơ bút dạy cho vị đạo sĩ sáng lập giáo phái). Thí dụ như:
Trương Giác (張角) căn cứ vào bộ Thái Bình Kinh (太平經) mà đặt tên
giáo phái mình là Thái Bình Đạo (太平道).
Trương Lăng (張陵) căn cứ vào bộ Chính Nhất Minh Uy (正一盟威) mà
đặt tên giáo phái là Chính Nhất Đạo (正一道; Ngũ Đấu Mễ Đạo 五斗米
道 và Thiên Sư Đạo 天師道 là tên gọi bình dân của Chính Nhất Đạo).
Dương Hi (楊羲) và Hứa Mật (許謐) căn cứ bộ Thượng Thanh Đại Đỗng
Chân Kinh (上清大洞真經) mà đặt tên phái mình là Thượng Thanh Phái
(上清派).
Cát Sào Phủ (葛巢甫) căn cứ bộ Linh Bảo Kinh (靈寶經) mà đặt tên phái
mình là Linh Bảo Phái (靈寶派).
Đạo sĩ Nhiêu Động Thiên (饒洞天; đời Bắc Tống) mộng thấy thần tiên
mách bảo bèn lên núi Hoa Cái (華蓋) khai quật một hộp bằng vàng chứa
bộ Thiên Tâm Kinh Chính Pháp (心經正法), từ đó lập giáo phái và đặt
tên là Thiên Tâm Phái (天心派).
Các đạo sĩ Vương Văn Khanh (王文卿) và Lâm Linh Tố (林靈素, cuối
đời Bắc Tống) được Uông Quân Hỏa Sư (汪君火師) truyền cho Phi Thần
Yết Đế Đạo (飛神謁帝道) và Triệu Thăng (趙升, đệ tử của Trương Lăng)
truyền cho bộ Thần Tiêu Thiên Đàn Ngọc Thư (神霄天壇玉書 ) nên đặt
tên giáo phái là Thần Tiêu Phái (神霄派).
Đạo sĩ Lưu Đức Nhân (劉德仁, đầu đời Kim) được Lão Tử giáng bút dạy
cho yếu lĩnh của bộ Đạo Đức Kinh nên lập Đại Đạo Giáo (大道教), sau
đổi thành Chân Đại Đạo (真大道).
4|Page13
Lấy khẩu quyết luyện đan
Tiêu biểu nhất là Toàn Chân Đạo 全真道 và Thái Nhất Đạo 太一道. Đời Kim,
Vương Trung Phu 王中孚 (tự là Duẫn Khanh 允卿) gặp tiên Lã Động Tân 呂
洞賓 tại trấn Cam Hà 甘河, được Lã Tổ truyền cho khẩu quyết luyện đan là
Toàn chân 全真. Ý nói bảo toàn tam bảo (toàn tinh 全精, toàn khí 全氣, toàn
thần 全神) hội tụ trung cung 中宮, kim đan thành tựu. Vương bỏ Nho theo
Đạo, tu luyện tại núi Chung Nam 終南, đổi tên là Vương Triết (chữ Triết gồm
3 chữ Cát 吉), tự là Tri Minh 知明, hiệu là Trùng Dương Tử 重陽子 (người
đời hay gọi là Vương Trùng Dương 王重陽). Từ khẩu quyết luyện đan, Vương
Trùng Dương chọn tên của giáo phái là Toàn Chân Đạo. Đầu đời Kim, đạo sĩ
Tiêu Bão Trân 蕭抱珍 xưng là được thần tiên truyền cho Thái Nhất Tam
Nguyên Pháp Lục 太一三元法籙, cho nên sáng lập giáo phái là Thái Nhất Đạo
太一道 hoặc Thái Nhất Giáo 太一教, chuyên về phù lục 符籙.
7|Page13
2. Các Tạo Tông 閣皂宗
3. Kim Đan Phái Nam Tông 金丹派南宗
4. Long Hổ Tông 龍虎宗
5. Mao Sơn Tông 茅山宗
6. Nam Bắc Tông 南北宗
7. Nam Tông 南宗
1 giáo phái tên gọi có chữ Giáo
1. Huyền Giáo 玄教
10 | P a g e 1 3
Lục Ty 道錄司 tổng quản lý Đạo giáo. Ở mỗi Phủ có Đạo Kỷ Ty 道紀司, mỗi
Châu có Đạo Chính Ty 道正司, mỗi Huyện có Đạo Hội Ty 道會司.
12 | P a g e 1 3
Bạch Gia Đạo thoạt đầu là tín ngưỡng bình dân, cũng gọi là «tục thần đảo» 俗
神禱 vì thờ các tục thần và dâng cúng các thứ huyết thực. Đến đời Đông Tấn
(317-420), Bạch Gia Đạo phát triển ở Giang Tô và Chiết Giang, không ít tín đồ
thuộc giai cấp sĩ tộc thế gia. Từ đời Đông Tấn trở đi, sử sách không ghi chép
về Bạch Gia Đạo, nhưng do mối quan hệ giữa giáo phái này với Thượng
Thanh Phái và Thiên Sư Đạo, có lẽ Bạch Gia Đạo đã sáp nhập vào hai giáo
phái đó.
13 | P a g e 1 3