You are on page 1of 20

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN

BÀI TIỂU LUẬN


MÔN HỌC: SINH THÁI MÔI TRƯỜNG

Tên tiểu luận:


CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Học viên: Hoàng Hải LongMã HV: 17811011Lớp: Cao học Khoa học cây trồng -
K12GVHD: PGS TS. Trần Trung Dũng

Năm 2019

I
MỤC LỤC
1. Đặt vấn đề......................................................................................................................1
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU...........................................................................................2
3. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN................................................................2
3.1. Nội dung.....................................................................................................................2
3.2. Phương pháp thực hiện................................................................................................2
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN........................................................................................3
4.1. Biến đổi khí hậu là gì..................................................................................................3
4.1.1. Thực trạng biến đổi khí hậu ở Việt Nam..................................................................4
4.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp...........................................5
4.2.1. Trên thế giới.............................................................................................................5
a. Tác động của biến đổi khí hậu đối với cây trồng............................................................5
b. Tác động của biến đổi khí hậu đến Chăn nuôi................................................................6
c. Tác động biến đổi khí hậu đến nuôi trồng thủy sản........................................................7
4.2.2. Tại Việt Nam............................................................................................................7
a. Tác động của BĐKH đến trồng trọt................................................................................7
b. Tác động của BĐKH đến chăn nuôi...............................................................................8
c. Tác động của BĐKH đến nuôi trồng thủy sản................................................................9
4.3. Chiến lược phát triển nông nghiệp thích ứng với BĐKH..........................................10
4.3.1. Quan điểm để ứng phó với BĐKH.........................................................................10
4.3.2. Nội dung quan trọng, cần thiết để phát triển nông nghiệp thích ứng với BĐKH....11
4.3.3. Các bước để phát triển nông nghiệp thích ứng với BĐKH.....................................11
a. Đánh giá mức độ và tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam...................................11
b. Xác định các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu...................................................11
c. Xây dựng chương trình khoa học công nghệ về biến đổi khí hậu.................................12
d. Tăng cường năng lực tổ chức, thể chế, chính sách về biến đổi khí hậu........................12
e. Nâng cao nhận thức và phát triển nguồn nhân lực........................................................12
f. Tăng cường hợp tác quốc tế..........................................................................................12
g. Tích hợp yếu tố biến đổi khí hậu vào các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, phát triển ngành và địa phương..............................................................12
h. Xây dựng các kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu................................13

i
4.4. Xu hướng phát triển nông nghiệp và một số đề xuất hướng nghiên cứu KHKT đáp
ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp trong thời gian tới....................................................13
4.4.1. Xu hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao hướng tới nền
nông nghiệp 4.0.........................................................................................................13
4.4.2. Đề xuất hướng nghiên cứu KHKT đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp trong
thời gian tới...................................................................................................................... 14
a. Nghiên cứu các sản phẩm mới phục vụ nông nghiệp công nghệ cao............................14
b. Nghiên cứu chuyển giao các mô hình nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu.....15
5. Kết luận........................................................................................................................ 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................17

ii
1. Đặt vấn đề
Trong hơn 30 năm qua, nông nghiệp tăng trưởng mạnh mẽ đã làm thay đổi tình
trạng kinh tế xã hội của Việt Nam: cải thiện tình hình an ninh lương thực, giảm đói
nghèo, đẩy mạnh xuất khẩu nông nghiệp và tạo sinh kế cho gần một nửa lực lượng lao
động cả nước. Năng suất một số cây trồng như lúa, ngô, cà phê, cao su, điều, chè và hạt
tiêu của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á.
Tuy nhiên, tăng trưởng sản xuất nông nghiệp đã tạo ra những tác động đáng kể đến
môi trường. Việc lạm dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu và nước tưới nhằm gia tăng
năng suất đã khiến nông nghiệp trở thành nguồn phát thải khí nhà kính (nguyên nhân
chính gây biến đổi khí hậu) lớn thứ hai sau ngành năng lượng.
Hiện nay, biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng. Việt Nam với đặc thù hơn 70% dân cư sống bằng nghề
nông nghiệp, do đó BĐKH sẽ tác động trước hết và trực tiếp đến nền sản xuất nông
nghiệp, tăng khả năng bị tổn thương và tạo nguy cơ làm chậm hoặc đảo ngược quá trình
phát triển (Bộ Tài Nguyên và Môi trường, 2008). Sự gia tăng các hiện tượng thời tiết cực
đoan như lũ lụt, các đợt lạnh tăng cường ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ, xâm nhập mặn ở
đồng bằng sông Cửu Long và hạn hán ở Tây Nguyên cho thấy biểu hiện của biến đổi khí
hậu ngày càng rõ rệt hơn ở Việt Nam.
Biến đối khí hậu đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực và phát triển nông
nghiệp: Thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt là một phần đáng kể ở vùng đất thấp
đồng bằng ven biển, đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long bị ngập mặn do nước biển
dâng; tác động lớn đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo trồng, làm tăng
nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng; thời gian thích nghi của cây trồng nhiệt đới mở
rộng và của cây trồng á nhiệt đới thu hẹp lại; ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng, tăng
khả năng sinh bệnh, truyền dịch của gia súc, gia cầm.
Ngoài ra do tác động của biến đổi khí hậu, tài nguyên nước phải chịu thêm nguy cơ suy
giảm do hạn hán ngày một tăng ở một số vùng, mùa, ảnh hưởng trực tiếp đến nông
nghiệp, cung cấp nước ở nông thôn, thành thị và sản xuất thủy điện. Chế độ mưa thay đổi
có thể gây lũ lụt nghiêm trọng vào mùa mưa, và hạn hán vào mùa khô, tăng mâu thuẫn
trong khai thác và sử dụng tài nguyên nước.
Trên qui mô toàn cầu, đang dần hình thành các chính sách về giảm nhẹ phát thải khí
nhà kính có thể tạo ra các rào cản mới trong thương mại. Nếu các nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam, không có lựa chọn phù hợp, hài hòa chính sách quốc gia với quốc tế
thì không vượt được qua rào cản do chưa có đủ tiềm lực tài chính và công nghệ để sản xuất
ra hàng hóa đủ điều kiện tham gia thị trường hàng hóa các-bon thấp.
Dưới tác động của BĐKH, mức xuất khẩu ròng của các sản phẩm gạo, cà phê và sắn
được dự báo sẽ giảm đi do năng suất các cây trồng này có xu hướng giảm mạnh hơn. Để duy
trì sản xuất nông nghiệp trong bối cảnh rủi ro do biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, nhiều
phương pháp thực hành nông nghiệp đã được xác định là có khả năng thích ứng tốt với
BĐKH. Tuy nhiên nhận thức về biến đổi khí hậu của đa số người sản xuất còn hạn chế và
phiến diện, mới chỉ quan tâm nhiều đến các tác động tiêu cực mà biến đổi khí hậu gây ra
mà chưa quan tâm đúng mức tới việc chuyển đổi thực hành sản xuất nông nghiệp truyền
thống sang hướng thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH) và bền vững với môi trường
Những thách thức đó đòi hỏi Việt Nam phải có những nỗ lực hơn nữa trong các
chính sách, biện pháp tăng cường nhận thức và năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu,

1
song song với phát triển nông nghiệp nhằm tăng cường sức cạnh tranh của các sản phẩm
nông nghiệp nước nhà. Chính vì vậy, việc “Nghiên cứu chiến lược phát triển nông
nghiệp trong bối cảnh biến đổi khí hậu” là cần thiết.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Xác định thực trạng biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
- Xác định giải pháp, chiến lược phát triển nông nghiệp thích ứng với BĐKH.
3. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
3.1. Nội dung
- Định nghĩa biến đổi khí hậu (BĐKH), nguyên nhân dẫn đến BĐKH.
- Phân tích, đánh giá thực trạng biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
- Đánh giá tác động của BĐKH đến sản xuất nông nghiệp trên thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng.
- Phân tích đánh giá tình hình thực tiễn để tìm các giải pháp, chiến lược phát triển
nông nghiệp thích ứng với BĐKH.
- Xu hướng phát triển nông nghiệp và đề xuất hướng nghiên cứu KHKT trong thời
gian tới
3.2. Phương pháp thực hiện
Thu thập thông tin: Do đây là nghiên cứu tổng quan nên kết quả nghiên cứu chủ
yếu dựa trên các thông tin đã công bố, được thu thập từ những tài liệu đã công bố như tạp
chí, sách thống kê, báo chuyên ngành và mạng internet.
Phương pháp kế thừa: Dựa vào các kết quả đã nghiên cứu, các báo cáo và các số
liệu thống kê để làm cở sở cho chuyên đề có độ tin cậy cao.
Trên cơ sở tài liệu thu thập được sẽ được tổng hợp và phân tích theo mục tiêu và
nội dung nghiên cứu của chuyên đề.

2
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Biến đổi khí hậu là gì
Biến đổi khí hậu - Climate Change: Sự thay đổi của khí hậu (định nghĩa của
Công ước khí hậu) được quy trực tiếp hay gián tiếp là do hoạt động của con người làm
thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu và đóng góp thêm vào sự biến động khí hậu
tự nhiên trong các thời gian có thể so sánh được. Biến đổi khí hậu xác định sự khác biệt
giữa các giá trị trung bình dài hạn của một tham số hay thống kê khí hậu. Trong đó, trung
bình được thực hiện trong một khoảng thời gian xác định, thường là vài thập kỷ.
* Nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu:
+ Nguyên nhân khách quan (do sự biến đổi của tự nhiên) bao gồm: sự biến đổi các
hoạt động của mặt trời, sự thay đổi quỹ đạo trái đất, sự thay đổi vị trí và quy mô của các
châu lục, sự biến đổi của các dạng hải lưu, và sự lưu chuyển trong nội bộ hệ thống khí
quyển.
+ Nguyên nhân chủ quan (do sự tác động của con người) xuất phát từ sự thay đổi
mục đích sử dụng đất và nguồn nước và sự gia tăng lượng phát thải khí CO 2 và các khí
nhà kính khác từ các hoạt động của con người. Như vậy, biến đổi khí hậu không chỉ là
hậu quả của hiện tượng hiệu ứng nhà kính (sự nóng lên của trái đất) mà còn bởi nhiều
nguyên nhân khác. Tuy nhiên, có rất nhiều bằng chứng khoa học cho thấy tồn tại mối
quan hệ giữa quá trình tăng nhiệt độ trái đất với quá trình tăng nồng độ khí CO 2 và các
khí nhà kính khác trong khí quyển, đặc biệt trong kỷ nguyên công nghiệp. Trong suốt gần
1 triệu năm trước cách mạng công nghiệp, hàm lượng khí CO 2 trong khí quyển nằm trong
khoảng từ 170 đến 280 phần triệu (ppm). Hiện tại, con số này đã tăng cao hơn nhiều và ở
mức 387 ppm và sẽ còn tiếp tục tăng với tốc độ nhanh hơn nữa. Chính vì vậy, sự gia tăng
nồng độ khí CO2 trong khí quyển sẽ làm cho nhiệt độ trái đất tăng và nguyên nhân của
vấn đề biến đổi khí hậu là do trái đất không thể hấp thụ được hết lượng khí CO 2 và các
khí gây hiệu ứng nhà kính khác đang dư thừa trong bầu khí quyển.
* Những hiện tượng biến đổi khí hậu chủ yếu:
- Thời tiết ngày càng trở nên khắc nghiệt
Sự biến đổi khí hậu toàn cầu làm cho các hiện tượng thời tiết biến chuyển theo
chiều hướng cực đoan, khắc nghiệt hơn trước.
Khắp các châu lục trên thế giới đang phải đối mặt, chống chọi với các hiện tượng
thời tiết cực đoan: lũ lụt, khô hạn, nắng nóng, bão tuyết…
Dự báo của IPCC (Ủy ban Liên chính phủ về thay đổi khí hậu) chỉ ra, thế giới sẽ
còn phải đón nhận những mùa mưa dữ dội hơn vào mùa hè, bão tuyết khủng khiếp hơn
vào mùa đông, khô hạn sẽ khắc nghiệt hơn, nắng nóng cũng khốc liệt hơn.
- Mực nước biển tăng cao, nước biển đang dần ấm lên
Sự nóng lên của toàn cầu không chỉ ảnh hưởng tới bề mặt của biển mà còn ảnh
hưởng tới những khu vực sâu hơn dưới mặt biển. Theo đó, ở vùng biển sâu hơn 700m,
thậm chí là nơi sâu nhất của đại dương, nhiệt độ nước đang ấm dần lên.
Nhiệt độ gia tăng làm nước giãn nở, đồng thời làm tan chảy các sông băng, núi
băng và băng lục địa khiến lượng nước bổ sung vào đại dương tăng lên.
- Hiện tượng băng tan ở hai cực và Greenland

3
Trong những năm gần đây vùng biển Bắc Cực nóng lên nhanh gấp 2 lần mức nóng
trung bình trên toàn cầu, diện tích của biển Bắc Cực được bao phủ bởi băng trong mỗi
mùa hè đang dần thu hẹp lại.
- Nền nhiệt độ liên tục thay đổi
Nhiệt độ trung bình mỗi năm của thập niên 90 cao hơn nhiệt độ trung bình của
thập niên 80. Bước sang thế kỷ XXI, mỗi một năm qua đi, nhiệt độ trung bình lại cao
hơn. Theo thống kê, 10 năm đầu của thế kỷ XXI đánh dấu sự gia tăng nhiệt độ lớn với
sức nóng kỷ lục của Trái đất. Nhiệt độ trung bình toàn cầu tính trên mặt đất và mặt biển
đã tăng khoảng 0,74oC trong thế kỷ qua.
- Nồng độ carbon dioxide trong khí quyển đang tăng lên
Theo phân tích các bong bóng khí trong băng ở Nam Cực và Greenland, các nhà
khoa học đã đưa ra kết luận rằng, 650.000 năm qua, nồng độ khí carbon dioxide (CO2)
dao động từ 180 - 300ppm (đơn vị đo lường để diễn đạt nồng độ theo khối lượng, tính
theo phần triệu).
4.1.1. Thực trạng biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Theo số liệu quan trắc, biến đổi của các yếu tố khí hậu ở Việt Nam có những điểm
đáng lưu ý sau:
- Nhiệt độ. Trong khoảng 50 năm qua (1951 - 2000), nhiệt độ trung bình năm ở
Việt Nam đã tăng lên 0,7oC. Nhiệt độ trung bình năm của 4 thập kỷ gần đây (1961 -
2000) cao hơn trung bình năm của 3 thập kỷ trước đó (1931- 1960). Nhiệt độ trung bình
năm của thập kỷ 1991 - 2000 ở Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh đều cao hơn
trung bình của thập kỷ 1931 - 1940 lần lượt là 0,8; 0,4 và 0,6o C. Năm 2007, nhiệt độ
trung bình năm ở cả 3 nơi trên đều cao hơn trung bình của thập kỷ 1931 - 1940 là 0,8 -
1,3o C và cao hơn thập kỷ 1991 - 2000: 0,4 - 0,5o C.
- Lượng mưa. Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa trung bình năm
trong 9 thập kỷ vừa qua (1911- 2000) không rõ rệt theo các thời kỳ và trên các vùng khác
nhau: có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm xuống.
- Mực nước biển. Theo số liệu quan trắc trong khoảng 50 năm qua ở các trạm Cửa
Ông và Hòn Dấu, mực nước biển trung bình đã tăng lên khoảng 20 cm, phù hợp với xu
thế chung của toàn cầu.
- Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi rõ rệt trong hai thập kỷ
gần đây (cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI). Năm 1994 và năm 2007 chỉ có 15-16 đợt
không khí lạnh bằng 56% trung bình nhiều năm. 6/7 trường hợp có số đợt không khí lạnh
trong mỗi tháng mùa đông (XI - III) thấp dị thường (0-1 đợt) cũng rơi vào 2 thập kỷ gần
đây (3/1990, 1/1993, 2/1994, 12/1994, 2/1997, 11/1997). Một biểu hiện dị thường gần
đây nhất về khí hậu trong bối cảnh BĐKH toàn cầu là đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét
hại kéo dài 38 ngày trong tháng 1 và tháng 2 năm 2008 gây thiệt hại lớn cho sản xuất
nông nghiệp.
- Bão. Vào những năm gần đây, số cơn bão có cường độ mạnh nhiều hơn, quỹ đạo
bão dịch chuyển dần về các vĩ độ phía nam và mùa bão kết thúc muộn hơn, nhiều cơn
bão có quỹ đạo di chuyển dị thường hơn.
- Số ngày mưa phùn trung bình năm ở Hà Nội giảm dần trong thập kỷ 1981 - 1990
và chỉ còn gần một nửa (15 ngày/năm) trong 10 năm gần đây.

4
Báo cáo của Ủy ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu cho thấy: ở Việt Nam trong
vòng 50 năm qua nhiệt độ trung bình đã tăng khoảng 0,5 - 0,7 oC, mực nước biển đã dâng
khoảng 20 cm. Hiện tượng El Nino, La Nina ngày càng tác động mạnh mẽ. Biến đổi khí
hậu thực sự đã làm cho những thiên tai, đặc biệt là bão, lũ và hạn hán ngày càng khốc
liệt.
Củng theo báo cáo trên, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị
ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, trong đó đồng bằng sông Cửu Long là một
trong ba đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất do nước biển dâng, bên cạnh đồng
bằng sông Nile (Ai Cập) và đồng bằng sông Ganges (Bangladesh). Theo các kịch bản
biến đổi khí hậu, vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm ở nước ta tăng khoảng 2 -
3oC, tổng lượng mưa năm và lượng mưa mùa mưa tăng, trong khi đó lượng mưa mùa khô
lại giảm, mực nước biển có thể dâng khoảng từ 75 cm đến 1 m so với thời kỳ 1980 -
1999. Nếu mực nước biển dâng cao 1m, sẽ có khoảng 40% diện tích đồng bằng sông Cửu
Long, 11% diện tích đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng
ven biển sẽ bị ngập, trong đó, thành phố Hồ Chí Minh sẽ bị ngập trên 20% diện tích;
khoảng 10 - 12% dân số nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 10% GDP. Tác
động của biến đổi khí hậu đối với nước ta là rất nghiêm trọng, là nguy cơ hiện hữu cho
mục tiêu xoá đói giảm nghèo, cho việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển
bền vững của đất nước.
Trong những năm qua, dưới tác động của biến đổi khí hậu, tần suất và cường độ
thiên tai ngày càng gia tăng, gây ra nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, các cơ sở hạ
tầng về kinh tế, văn hoá, xã hội, tác động xấu đến môi trường. Chỉ tính trong 10 năm gần
đây (2001 - 2010), các loại thiên tai như: Bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán,
xâm nhập mặn và các thiên tai khác đã làm thiệt hại đáng kể về người và tài sản, đã làm
chết và mất tích hơn 9.500 người, giá trị thiệt hại về tài sản ước tính chiếm khoảng 1,5%
GDP/năm.
4.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp
4.2.1. Trên thế giới
BĐKH sẽ tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi trường trên phạm
vi toàn thế giới: theo dụ báo đến 2080 sản lượng ngũ cốc có thể giảm 2 - 4%, giá sẽ tăng
13 - 45%, tỷ lệ dân số bị ảnh hưởng của nạn đói chiếm 36 - 50%; mực nước biển dâng
cao gây ngập lụt, gây nhiễm mặn nguồn nước, ảnh hưởng đến nông nghiệp, và gây rủi ro
lớn đối với công nghiệp và các hệ thống KT - XH trong tương lai.
a. Tác động của biến đổi khí hậu đối với cây trồng
Xuất khẩu của Mỹ cung cấp hơn 30% tất cả lúa mì, ngô, và lúa gạo trên thị trường
toàn cầu. Những thay đổi về nhiệt độ, lượng carbon dioxide (CO 2), và tần số, cường độ
của thời tiết khắc cực đoan có thể có tác động đáng kể đến năng suất cây trồng.
Cây trồng ở Hoa Kỳ rất quan trọng cho việc cung cấp thực phẩm ở nội địa và khắp
nơi trên thế giới. Xuất khẩu của Mỹ cung cấp hơn 30% tất cả lúa mì, ngô, và lúa gạo trên
thị trường toàn cầu. Những thay đổi về nhiệt độ, lượng carbon dioxide (CO 2), và tần số,
cường độ của thời tiết khắc cực đoan có thể có tác động đáng kể đến năng suất cây trồng.
Nhiệt độ ấm hơn có thể làm cho nhiều loại cây trồng phát triển nhanh hơn, nhưng
nhiệt độ ấm hơn cũng có thể làm giảm sản lượng. Cây trồng có xu hướng phát triển
nhanh hơn trong điều kiện ấm hơn. Tuy nhiên, đối với một số cây trồng (như ngũ cốc),
tăng trưởng nhanh làm giảm thời gian mà các hạt có để phát triển và trưởng thành. Điều
5
này có thể làm giảm sản lượng (tức là, số lượng cây trồng được sản xuất từ một lượng đất
nhất định) được trồng ở đó. Tuy nhiên, nếu sự nóng lên vượt quá nhiệt độ tối ưu của cây
trồng, năng suất có thể giảm.
• Hàm lượng CO2 cao có thể tăng năng suất. Sản lượng một số cây trồng, như lúa
mì và đậu nành có thể tăng 30% hoặc nhiều hơn khi tăng dưới gấp đôi nồng độ CO 2.
Năng suất cho các loại cây trồng khác như ngô, cho thấy một thích ứng nhỏ hơn nhiều
(tăng ít hơn 10%). Tuy nhiên, một số yếu tố có thể chống lại những tiềm năng tăng năng
suất. Ví dụ, nếu nhiệt độ vượt quá mức tối ưu của cây trồng hoặc nếu đủ nước và chất
dinh dưỡng không có sẵn, tăng năng suất có thể được giảm hoặc đảo ngược.
• Nhiệt độ cực cao và lượng mưa tăng lên có thể ngăn chặn các loại cây trồng phát
triển. Thời tiết cực đoan, đặc biệt là lũ lụt và hạn hán có thể gây hại cho cây trồng, giảm
sản lượng. Ví dụ, trong năm 2008, sông Mississippi tràn ngập trước giai đoạn thu hoạch
của nhiều loại cây trồng, gây thiệt hại ước tính khoảng 8 tỷ USD cho nông dân.
• Đối phó với hạn hán có thể trở thành một thách thức trong khu vực có nhiệt độ
mùa hè được dự báo sẽ tăng và lượng mưa được dự báo giảm. Việc giảm cung cấp nước
có thể gặp khó khăn hơn việc đáp ứng nhu cầu nước.
• Nhiều cỏ dại, sâu bệnh và nấm phát triển mạnh dưới nhiệt độ ấm hơn, khí hậu
ẩm ướt hơn và nồng độ CO2 tăng. Hiện nay, nông dân đã tốn hơn 11 tỷ USD mỗi năm để
đối phó với cỏ dại tại Hoa Kỳ. Sự biến động của cỏ dại và sâu bệnh có khả năng mở rộng
về phía bắc. Điều này sẽ gây ra những vấn đề mới cho cây trồng của người nông dân mà
trước đây các loại này chưa phơi nhiễm. Hơn nữa, tăng cường sử dụng thuốc trừ sâu và
thuốc diệt nấm có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe con người.
b. Tác động của biến đổi khí hậu đến Chăn nuôi
Ngành công nghiệp chăn nuôi của Mỹ sản xuất 100 tỷ USD giá trị hàng hóa vào
năm 2002. Biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến động vật.
Người Mỹ tiêu thụ hơn 37 triệu tấn thịt mỗi năm. Ngành công nghiệp chăn nuôi
của Mỹ sản xuất 100 tỷ USD giá trị hàng hóa vào năm 2002. Biến đổi khí hậu có thể ảnh
hưởng trực tiếp và gián tiếp đến động vật.
Sóng nhiệt, được dự kiến sẽ tăng dưới sự biến đổi khí hậu, có thể đe dọa trực tiếp
chăn nuôi. Một số bang báo cáo tổn thất hơn 5000 loài động vật chỉ vì một làn sóng nhiệt.
Ứng suất nhiệt ảnh hưởng đến các loài động vật cả trực tiếp và gián tiếp. Theo thời gian,
ứng suất nhiệt có thể tăng nguy cơ bị bệnh, làm giảm khả năng sinh sản và giảm sản xuất
sữa.
• Hạn hán có thể đe dọa các đồng cỏ và nguồn cung cấp thức ăn cho chăn nuôi.
Hạn hán làm giảm lượng thức ăn cho gia súc chất lượng có sẵn để chăn thả gia súc. Một
số khu vực có thể trải nghiệm dài, hạn hán khốc liệt hơn, do nhiệt độ mùa hè cao hơn và
lượng mưa giảm. Đối với động vật mà sống dựa vào lương thực thì những thay đổi trong
sản xuất cây trồng do hạn hán cũng có thể trở thành một vấn đề.
• Biến đổi khí hậu có thể làm tăng tỷ lệ ký sinh trùng và các bệnh ảnh hưởng đến
hoạt động chăn nuôi. Mùa xuân bắt đầu sớm hơn và mùa đông ấm hơn có thể cho phép
một số ký sinh trùng và các mầm bệnh để tồn tại một cách dễ dàng hơn. Trong khu vực
có lượng mưa tăng, độ ẩm - tác nhân gây bệnh phụ thuộc có thể phát triển mạnh.
• Tăng lượng khí carbon dioxide (CO2) có thể làm tăng năng suất đồng cỏ, nhưng
cũng có thể làm giảm chất lượng của chúng. Sự gia tăng CO 2 trong khí quyển có thể tăng

6
năng suất của các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ ra
rằng chất lượng của một số thức ăn được tìm thấy trong đồng cỏ giảm với lượng
CO2 tăng lên cao hơn. Kết quả là, gia súc sẽ cần phải ăn nhiều hơn để có được dinh
dưỡng.
c. Tác động biến đổi khí hậu đến nuôi trồng thủy sản
Biến đổi khí hậu có thể làm trầm trọng thêm hoạt động thuỷ sản gây áp lực, bao
gồm cả đánh bắt quá mức và ô nhiễm nguồn nước, vv.
Ở Mỹ ngành thủy sản đánh bắt hoặc thu hoạch 5.000.000 tấn cá và tôm, cua, sò,
hến mỗi năm. Những loại thủy sản này đóng góp hơn 1,4 tỷ USD cho nền kinh tế hàng
năm (như năm 2007). Nhiều nhà thủy sản đã phải đối mặt với nhiều áp lực, bao gồm cả
đánh bắt quá mức và ô nhiễm nguồn nước. Biến đổi khí hậu có thể làm trầm trọng thêm
những căng thẳng này. Đặc biệt, sự thay đổi nhiệt độ có thể dẫn đến tác động đáng kể.
Sự biến động của nhiều loài cá và các loài động vật có vỏ có thể thay đổi. Nhiều
loài sinh vật biển có phạm vi nhiệt độ nhất định mà ở đó chúng có thể sống sót. Ví dụ, cá
tuyết ở Bắc Đại Tây Dương yêu cầu nhiệt độ nước dưới 54°F (100 oF = 37.8oC). Ngay cả
nước dưới đáy biển nhiệt độ trên 47°F có thể làm giảm khả năng sinh sản và cá tuyết con
để tồn tại. Trong thế kỷ này, nhiệt độ trong khu vực có khả năng sẽ vượt quá cả hai
ngưỡng.
• Nhiều loài thủy sản có thể tìm thấy các khu vực lạnh của suối, hồ hoặc di chuyển
về phía bắc dọc theo bờ biển hoặc trong đại dương. Tuy nhiên, di chuyển vào các khu vực
mới có thể đưa các loài này vào cạnh tranh với các loài khác về thực phẩm và các nguồn
lực khác, như được giải thích trên trang Các tác động lên hệ sinh thái.
• Một số bệnh ảnh hưởng đến đời sống thủy sinh có thể trở nên phổ biến hơn trong
nước ấm. Ví dụ, ở miền nam New England, sản lượng đánh bắt tôm hùm đã giảm đáng
kể. Vi khuẩn ngoài vỏ nhạy cảm với nhiệt độ có thể gây ra chết hàng loạt đã dẫn đến sự
suy giảm.
• Thay đổi về nhiệt độ và mùa có thể ảnh hưởng đến thời gian sinh sản và di cư.
Nhiều bước trong vòng đời của một động vật thủy sản được điều khiển bởi nhiệt độ và
thay đổi của các mùa. Ví dụ, ở Tây Bắc ấm hơn nhiệt độ của nước có thể ảnh hưởng đến
vòng đời của cá hồi và tăng khả năng gây bệnh. Kết hợp với các tác động khí hậu khác,
những hiệu ứng này được dự đoán sẽ dẫn đến sự suy giảm lớn trong các quần thể cá hồi.
Ngoài sự nóng lên, các đại dương trên thế giới đang dần dần có tính acid hơn do
gia tăng trong khí quyển lượng khí carbon dioxide (CO 2). Tăng nồng độ acid có thể gây
tổn hại cho động vật có vỏ bằng cách làm suy yếu vỏ của chúng được tạo ra từ canxi và
dễ bị tổn thương khi nồng độ axit tăng dần. Axit hóa cũng có thể đe dọa cấu trúc của các
hệ sinh thái nhạy cảm mà một số loài cá, tôm, cua, sò, hến sống phụ thuộc vào nó.
4.2.2. Tại Việt Nam
a. Tác động của BĐKH đến trồng trọt
Việt Nam đặc thù là nước nông nghiệp, với hai vựa lúa lớn là đồng bằng Sông
Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long. BĐKH đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực
và phát triển nông nghiệp. Tác động của BĐKH đến trồng trọt qua các biểu hiện như mất
diện tích canh tác, giảm năng suất, chất lượng nông sản, cùng với đó là tăng nguy cơ xuất
hiện các loại dịch bệnh. Từ đó làm sụt giảm mạnh thu nhập từ trồng trọt. BĐKH cũng
làm thay đổi quy luật của các con sông gây nên hạn hán, cũng như làm thay đổi điều kiện
7
sinh sống của các loại sinh vật, làm mất đi hoặc thay đổi các mắt xích trong chuỗi thức ăn
dẫn đến tình trạng biến mất của một số loài sinh vật và ngược lại xuất hiện nguy cơ gia
tăng các loại dịch bệnh. Nhiệt độ tăng trong mùa đông sẽ tạo điều kiện cho sâu bọ có khả
năng sinh sôi nhanh hơn và gây hại mạnh hơn. BĐKH cũng có thể làm phát sinh một số
chủng, nòi sâu mới, gây hại không những trong sản xuất mà còn trong bảo quản nông
sản, thực phẩm.
Những thay đổi của khí hậu sẽ dẫn đến sự biến đổi đặc tính của đất và ảnh hưởng
đến sự thích hợp sinh trưởng của các loại cây trồng. Nhiều loại cây trồng không thể thích
ứng kịp với sự thay đổi của thời tiết. Hiện tượng khô cằn, sa mạc hóa, cùng với việc mặn
hóa, giảm lượng nước ngầm và sự dâng lên của nước biển làm cho diện tích đất canh tác
ngày càng bị thu hẹp. Rủi ro tăng lên do lũ lụt bất thường. Những thay đổi trong phân bổ
nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp như trồng trọt và chăn nuôi. Các mối đe dọa từ
việc tăng sâu bệnh và dịch bệnh do thay đổi trong phân bổ sinh vật truyền bệnh (Phạm
Thị Trầm và Nguyễn Song Tùng, 2010).
Diện tích gieo trồng bị thu hẹp, đất đồng bằng bị nhiễm mặn do BĐKH, nước biển
dâng cao sẽ khiến cho nhiều vùng đất ven biển, khu vực đồng bằng bị nhiễm mặn, diện
tích gieo trồng sẽ bị thu hẹp gây ra hiện tượng thiếu đất canh tác. Theo dự báo của Ủy
ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC, 2007), nếu nước biển dâng lên 1 mét sẽ có
khả năng ảnh hưởng tới 12% diện tích và 10% dân số Việt Nam, làm ngập 5.000 km2 ở
Đồng bằng Sông Hồng, và từ 15.000 km2 đến 20.000 km2 ở Đồng bằng Sông Cửu Long
và hàng trăm ngàn héc ta ven biển miền Trung. Ước tính Việt Nam sẽ mất đi rất nhiều
diện tích đất nông nghiệp. Đồng bằng Sông Cửu Long là vùng tạo ra 50% sản lượng
lương thực và 40% giá trị nông nghiệp của cả nước. Tuy nhiên, Đồng bằng Sông Cửu
Long được dự báo là vùng sẽ phải chịu tác động của BĐKH nhiều nhất và những tác
động này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến an ninh lương thực của vùng cũng như toàn quốc.
Xâm nhập mặn vừa là kết quả của những hiện tượng thiên tai khác và đồng thời là
nguyên nhân góp phần cùng các thiên tai khác ảnh hưởng không nhỏ đến toàn bộ đời
sống sinh hoạt và sản xuất của người dân trong khu vực. Trong điều kiện diễn biến thời
tiết khí hậu tiếp tục diễn biến bất thường và bất lợi như hiện nay, tình hình xâm nhập mặn
có thể vẫn tiếp tục gia tăng và gây tác động xấu (UNDP, 2015).
Nhiệt độ tăng do BĐKH cũng khiến cho nhu cầu tưới nước cao và dẫn đến thiếu
hụt nguồn nước sử dụng cho trồng trọt. Trong điều kiện nhiệt độ tăng lên 100C thì nhu
cầu tưới nước cho cây trồng sẽ tăng 10% làm cho năng lực tưới của các công trình thủy
lợi như hiện nay không đáp ứng đủ (IPCC, 2007). Nhiệt độ tăng đồng thời cũng gây ra
dịch bệnh và các loại sâu hại phát triển tốt hơn trong điều kiện cung cấp nước tối ưu. Vì
vậy sự ấm lên toàn cầu có khả năng mở rộng sự phân bố các loại dịch bệnh và sâu hại
trên cây trồng. Khí hậu đang có khuynh hướng ấm hơn vào mùa đông có thể cho phép
thời kỳ trứng của côn trùng sống qua mùa đông và kết quả gây nên dịch bệnh trong suốt
mùa vụ gieo trồng.
b. Tác động của BĐKH đến chăn nuôi
Việt Nam có khoảng 72% dân số sống ở khu vực nông thôn và ngành chăn nuôi
vẫn đang đóng một vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Nhiệt độ tăng vào
mùa hè dẫn đến nhu cầu nước cho vật nuôi tăng lên rõ rệt. Trong khi đó nguồn nước cung
cấp không được đáp ứng một cách đầy đủ. BĐKH có thể làm giảm khả năng sinh trưởng
và sản xuất của vật nuôi như giảm tăng trọng, sinh sản và sản xuất sữa (Rex và cộng sự,
2007) thông qua giảm chất lượng thức ăn và tăng nhiệt độ xung quanh. Ở Việt Nam,

8
BĐKH kéo theo hiện tượng El Nino đã làm giảm đến 20 - 25% lượng mưa ở khu vực
miền Trung - Tây Nguyên, gây ra hạn hán không chỉ phổ biến và kéo dài mà thậm chí còn
gây khô hạn. Thực tế tình hình nước nhiễm mặn và nhiễm phèn ở một số tỉnh Tây Nam
Bộ đã làm khan hiếm nguồn nước ngọt cung cấp cho chăn nuôi. Theo một số nghiên cứu
thì trong tương lai, ngành chăn nuôi không những thiếu nguồn nước cung cấp mà chi phí
trả cho việc cung cấp nước cũng tăng lên và kéo theo chi phí sản xuất chăn nuôi tăng cao.
Nhiều nghiên cứu cho thấy BĐKH là nguyên nhân quan trọng dẫn đến dịch bệnh
trên vật nuôi (Thornton và cộng sự, 2007; Thornton & Mario, 2008). BĐKH tác động
không giống nhau đến các loại vật nuôi khác nhau. Các nghiên cứu cho thấy tùy theo
hình thức biểu hiện của BĐKH đối với vật nuôi mà tác động có thể khác nhau. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến dịch bệnh của vật nuôi. Để chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa
BĐKH và dịch bệnh vật nuôi là điều không dễ. Nhiệt độ thấp (rét đậm và rét hại) làm
khan hiếm nguồn thức ăn cho vật nuôi đồng thời làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể,
tăng nguy cơ mắc bệnh từ đó gây chết vật nuôi. BĐKH làm cho khí hậu thay đổi thất
thường, khi nhiệt độ tăng cao làm ảnh hưởng đến mức chịu đựng của một số loài, môi
trường sinh thái xấu đi.Sự thay đổi này bao gồm thay đổi về đất đai, nguồn nước, thức ăn,
đồng cỏ, hệ động thực vật, vi sinh vật (Hoffmann, 2008) tạo điều kiện cho một số vi sinh
vật có hại gây bệnh cho vật nuôi. Thực tế cho thấy BĐKH khiến mầm bệnh gây hại cho
vật nuôi có biến đổi khó lường, chẳng hạn vi khuẩn phẩy, một dạng mầm bệnh thường
thấy ở vùng biển ấm, trở nên ngày càng phổ biến do nhiệt độ nước biển tăng. Các dịch
bệnh nguy hiểm khác cũng đang gia tăng, tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho ngành chăn
nuôi. Trong khi đó người nghèo sống ở vùng cao không có khả năng tiếp cận được với
các dịch vụ thú y dẫn đến bùng nổ dịch bệnh trên vật nuôi và kết quả tăng tỷ lệ chết gia
súc, gia cầm (Gorforth, 2008). Khi dịch bệnh diễn ra, thị trường quay lưng lại với sản
phẩm chăn nuôi. Điều này thêm một lần nữa gây thiệt lại lớn cho người chăn nuôi. Nông
dân nghèo có hoạt động chăn nuôi là những người có các hoạt động sinh kế dễ bị tổn
thương nhất do BĐKH (Rex và cộng sự, 2007; Gorforth, 2008).
c. Tác động của BĐKH đến nuôi trồng thủy sản
Tại Việt Nam, rất nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản ven biển đã được phát triển
cho từng nhóm đối tượng có đặc tính phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của
từng vùng. Hoạt động nuôi trồng thủy sản thường xuyên chịu tác động của thời tiết và
thiên tai như nước biển dâng, nhiệt độ tăng, bão lũ, sóng lớn, triều cường và các hiện
tượng thời tiết cực đoan khác. Những biểu hiện này của BĐKH có thể ảnh hưởng trực
tiếp hay gián tiếp lên nuôi trồng thủy sản (ở dạng đơn lẻ hay kết hợp) gây nhiều thiệt hại
về kinh tế, xã hội cho cộng đồng người nuôi. Tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói
riêng và cả nước nói chung, nghề nuôi tôm đang phải chịu ảnh hưởng nặng nề của những
cơn mưa trái mùa với tần suất càng ngày càng tăng. Mưa lớn làm độ mặn của nước trong
ao giảm đột ngột, vượt quá ngưỡng chịu đựng của tôm khiến tôm mất cân bằng, bị sốc và
có thể chết hàng loạt. Lượng mưa thay đổi cũng làm thay đổi độ mặn và dòng chảy của
các sông và cửa sông chính. Đối với khu vực Bắc Trung Bộ, nơi thường xuyên phải chịu
tác động bất lợi của thời tiết và khí hậu, như hạn hán, bão, lũ lụt, gió Tây Nam khô nóng,
nước biển dâng, thì việc gia tăng nhiệt độ và thay đổi lượng mưa gây ảnh hưởng nghiêm
trọng cho việc nuôi trồng thủy sản tại đây. Những tác động bất lợi và tiêu cực của BĐKH
nếu không có biện pháp can thiệp, sẽ đe dọa các mục tiêu tăng trưởng bền vững của
ngành thủy sản.
Một số nghiên cứu khác cho thấy, BĐKH có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
đến nuôi trồng thủy sản thông qua nguồn nước, diện tích nuôi, môi trường nuôi, con

9
giống, dịch bệnh… và qua đó gây ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng và cơ sở hạ tầng
của các vùng nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi trồng thủy sản ven biển nói riêng.
Các hiện tượng thời tiết bất thường như bão lũ, hạn hán, nắng nóng hoặc giá rét
kéo dài có thể tác động tiêu cực đến nguồn nước và sức đề kháng của các đối tượng nuôi,
gây bùng phát dịch bệnh. Tại Việt Nam, khu vực ven biển là vùng bị tổn thương cao và
cộng đồng những người nuôi trồng thủy sản ven biển quy mô nhỏ là một trong những đối
tượng nhạy cảm nhất với BĐKH cả về mặt kinh tế, xã hội và năng lực thích ứng.
Tháng 1/2013, trong một công bố của Tổ chức DARA International về tính dễ bị
tổn thương với BĐKH, Việt Nam được xếp ở mức báo động đỏ, là nước đứng đầu danh
sách về mức thiệt hại thủy sản do BĐKH (Ngọc Thúy, 2014).
Nông nghiệp bấp bênh, khả năng chống chịu với thiên tai, dịch bệnh còn nhiều
yếu kém, bất cập. Thiệt hại vật chất do thiên tai, dịch bệnh hàng năm khoảng 1% GDP,
tác động chủ yếu vào nông nghiệp, thủy sản và người nông dân nghèo khó. Theo thống
kê, nông dân chiếm 9% tổng số người nghèo trong cả nước, thu nhập bình quân đầu
người ở nông thôn chưa bằng một nửa khu vực thành thị nhưng đang đóng góp khoảng
20% GDP, trong khi nhà nước đầu tư cho nhóm ngành nông, lâm nghiệp – thủy sản chỉ
khoảng 8,5% (chủ yếu cho thủy lợi phục vụ đa mục tiêu), đáp ứng được 17% nhu cầu
phát triển (Tô Vân Trường, 2009).
4.3. Chiến lược phát triển nông nghiệp thích ứng với BĐKH
Để gia tăng giá trị hàng hóa, cải thiện đời sống cho người sản xuất và phát triển
nông nghiệp bền vững thích ứng với BĐKH thì cần phải có chiến lược, giải pháp phù hợp
và hiệu quả.
4.3.1. Quan điểm để ứng phó với BĐKH
Theo đánh giá của chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu
(Bộ Tài nguyên Môi trường, 2008) đã chỉ ra các quan điểm để ứng phó với BĐKH gồm:
1) Ứng phó với BĐKH phải được tiến hành trên nguyên tắc phát triển bền vững,
hệ thống, tổng hợp, ngành/liên ngành, vùng/liên vùng, bình đẳng về giới, xóa đói giảm
nghèo;
2) Các hoạt động ứng phó với BĐKH phải được tiến hành có trọng tâm, trọng
điểm; ứng phó với những tác động cấp bách trước mắt và những tác động tiềm tang lâu
dài; đầu tư cho ứng phó với BĐKH là hiệu quả về kinh tế, ứng phó hôm nay sẽ giảm
được những thiệt hại lớn hơn nhiều trong tương lai;
3) Ứng phó với BĐKH là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị, của toàn xã hội,
của các cấp, các ngành, các tổ chức, mọi người dân và cần được tiến hành với sự đồng
thuận và quyết tâm cao, từ phạm vi địa phương, vùng, quốc gia đến toàn cầu;
4) Các yếu tố BĐKH phải được tích hợp vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển ở các cấp, các ngành, các địa phương, cả trong các văn bản quy phạm pháp luật
cũng như tổ chức thực hiện;
5) Thực hiện đúng theo nguyên tắc “Trách nhiệm chung nhưng có phân biệt” được
xác định trong Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH, Việt Nam sẽ thực hiện
có hiệu quả chương trình giảm nhẹ BĐKH khi có sự hỗ trợ đầy đủ về vốn và chuyển giao
công nghệ từ các nước phát triển và các nguồn tài trợ quốc tế khác.

10
Trong sản xuất nông nghiệp, thích ứng với BĐKH trong nông nghiệp chủ yếu là
đảm bảo xây dựng nền nông nghiệp sạch, hàng hóa, đa dạng, bền vững, tiếp cận nhanh và
áp dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ mới, công nghệ cao, có khả năng
cạnh tranh trong nước và quốc tế; xây dựng nông thôn mới có hạ tầng kỹ thuật phát triển,
theo hướng hiện đại, có cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ hợp lý; đảm
bảo đủ việc làm, xóa đói giảm nghèo, xã hội nông thôn văn minh, dân chủ và công bằng,
mọi người sống sung túc; đảm bảo an ninh lương thực và phát triển nền nông nghiệp sinh
thái.
4.3.2. Nội dung quan trọng, cần thiết để phát triển nông nghiệp thích ứng với BĐKH
Xây dựng và hoàn thiện khung các văn bản pháp luật đồng bộ với các luật và các
văn bản dưới luật để bảo vệ nền nông nghiệp hàng hóa, sạch, đa dạng, phát triển bền
vững. Ngoài ra cần rà soát hệ thống pháp luật, chính sách hiện hành, đánh giá mức độ
quan tâm đến yếu tố BĐKH trong các văn bản pháp luật và chính sách của Nhà nước, từ
đó xác định những văn bản cần ban hành, cần sửa đổi bổ sung và những nội dung cần bổ
sung để nâng cao trách nhiệm của các ngành, các cấp. Xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh hệ
thống văn bản qui phạm pháp luật liên quan đến ứng phó với BĐKH và các cơ chế chính
sách khác có liên quan; đảm bảo các cơ sở pháp lý để triển khai các hoạt động, chú trọng
các định chế tích hợp yếu tố BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển
KT-XH, phát triển ngành và địa phương. Xây dựng cơ chế khuyến khích việc phối hợp
thực hiện Chương trình trên toàn quốc, các vùng lãnh thổ, các ngành và các thành phần
kinh tế; hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức quản lý liên quan
tới BĐKH từ trung ương tới địa phương;
Sửa đổi và hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ áp dụng các công nghệ
mới, các giải pháp khoa học kỹ thuật hiện đại chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và
biện pháp kỹ thuật canh tác mới phù hợp với BĐKH;
Xây dựng và triển khai thực hiện các hoạt động KHCN thích ứng với BĐKH của
ngành nông nghiệp;
Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, mặt nước thủy sản hiệu quả với sự xem xét
đến tác động trước mắt và tác động tiềm tàng của BĐKH đảm bảo nền sản xuất nông
nghiệp hàng hóa ổn định và bền vững;
Quy hoạch khai thác sử dụng hiệu quả nguồn nước trên các hệ thống thủy lợi có
xét đến tác động của BĐKH.
4.3.3. Các bước để phát triển nông nghiệp thích ứng với BĐKH
a. Đánh giá mức độ và tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện ngay là đánh giá diễn biến khí hậu; xây dựng
các kịch bản BĐKH, đặc biệt là nước biển dâng, và đánh giá tác động của BĐKH (bao
gồm cả biến động khí hậu, nước biển dâng và các hiện tượng khí tượng cực đoan) đến
các lĩnh vực, các ngành và các địa phương.
b. Xác định các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu
Trên cơ sở kết quả đánh giá tác động của BĐKH và khả năng tổn thương do
BĐKH đối với các lĩnh vực/ngành và địa phương, xây dựng và lựa chọn các giải pháp
ứng phó với BĐKH.

11
c. Xây dựng chương trình khoa học công nghệ về biến đổi khí hậu
Xây dựng và triển khai chương trình khoa học công nghệ quốc gia nhằm cung cấp
cơ sở khoa học cho việc xây dựng các thể chế, chính sách và kế hoạch hành động ứng
phó với BĐKH; tham gia tích cực vào các hoạt động hợp tác quốc tế về BĐKH; nghiên
cứu và triển khai sử dụng năng lượng hiệu quả và tiết kiệm; phát triển công nghệ năng
lượng sạch; tăng cường năng lực ứng phó với BĐKH trong các bộ/ngành.
d. Tăng cường năng lực tổ chức, thể chế, chính sách về biến đổi khí hậu
Rà soát hệ thống pháp luật, chính sách hiện hành, đánh giá mức độ quan tâm đến
yếu tố BĐKH trong các văn bản pháp luật và chính sách của Nhà nước, từ đó xác định
những văn bản cần ban hành, cần sửa đổi bổ sung và những nội dung cần bổ sung để
nâng cao trách nhiệm của các ngành, các cấp. Xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống
văn bản qui phạm pháp luật liên quan đến ứng phó với BĐKH và các cơ chế chính sách
khác có liên quan; đảm bảo các cơ sở pháp lý để triển khai các hoạt động, chú trọng các
định chế tích hợp yếu tố BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển
KT-XH, phát triển ngành và địa phương. Xây dựng cơ chế khuyến khích việc phối hợp
thực hiện Chương trình trên toàn quốc, các vùng lãnh thổ, các ngành và các thành phần
kinh tế; hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức quản lý liên quan
tới BĐKH từ trung ương tới địa phương.
e. Nâng cao nhận thức và phát triển nguồn nhân lực
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm
cho toàn xã hội về BĐKH; tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc hoạch
định chính sách và cơ chế điều phối, sự tham gia rộng rãi của các doanh nghiệp và cộng
đồng trong thực hiện các hoạt động ứng phó với BĐKH. Đẩy mạnh công tác đào tạo
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của Chương
trình qua từng giai đoạn.
f. Tăng cường hợp tác quốc tế
Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm góp phần giải quyết hai yêu cầu chính là:
(1)Tranh thủ khai thác, tiếp nhận và sử dụng hiệu quả các nguồn tài trợ của quốc tế, bao
gồm cung cấp tài chính, chuyển giao công nghệ mới thông qua các kênh hợp tác song
phương, khu vực và đa phương và (2) Tham gia các hoạt động hợp tác khu vực và toàn
cầu về BĐKH.
g. Tích hợp yếu tố biến đổi khí hậu vào các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành và địa phương
Tích hợp yếu tố BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển KT-
XH (sau đây gọi tắt là Kế hoạch phát triển) là hoạt động điều chỉnh, bổ sung Kế hoạch
phát triển đó, bao gồm chủ trương, chính sách, cơ chế, tổ chức có liên quan đến việc thực
hiện Kế hoạch phát triển, các nhiệm vụ và sản phẩm của kế hoạch cũng như các phương
tiện, điều kiện thực hiện Kế hoạch phát triển cho phù hợp với xu thế BĐKH, các hiện
tượng khí hậu cực đoan và những tác động trước mắt và lâu dài của chúng đối với Kế
hoạch phát triển.
Với những tác động của BĐKH, việc tích hợp yếu tố BĐKH vào Kế hoạch phát
triển là sự rà soát, điều chỉnh và bổ sung các Kế hoạch phát triển đã được hoặc sẽ được
ban hành có tính đến các tác động của BĐKH và các biện pháp ứng phó tương ứng. Lồng

12
ghép việc ứng phó với BĐKH vào các Kế hoạch phát triển là triển khai sâu rộng chủ
trương, đường lối của Đảng, nhà nước, là sự thể hiện trách nhiệm không những của các
bộ, ngành, địa phương mà cả các doanh nghiệp và cả cộng đồng xã hội ứng phó với
BĐKH.
Việc tích hợp cần được tiến hành một cách toàn diện về cả ba mặt: thể chế, tổ chức
và hoạt động, từ đó xác định các chỗ hổng và nhu cầu của các chương trình, chính sách
hiện tại liên quan tới con người và các lĩnh vực KT-XH để điều chỉnh và bổ sung.
Việc tích hợp yếu tố BĐKH vào các Kế hoạch phát triển đã được xây dựng, đang
thực hiện hoặc sẽ được xây dựng và thực hiện nhằm mục đích bảo đảm tính hiệu quả và
bền vững của các Kế hoạch phát triển, phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra đối với các
kế hoạch đó do tác động của những hiện tượng khí hậu cực đoan và xu thế BĐKH dài
hạn, hoặc những hậu quả chưa lường hết được về môi trường và xã hội do việc thực hiện
các kế hoạch đó gây ra.
h. Xây dựng các kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu
Dựa trên các đánh giá về diễn biến khí hậu, tác động và khả năng tổn thương theo
các kịch bản BĐKH đã được thống nhất, các giải pháp thích ứng với BĐKH đã được xác
định, các bộ/ngành và các địa phương xây dựng kế hoạch hành động của mình để ứng
phó với BĐKH thực hiện Chương trình (sau đây gọi tắt là Kế hoạch hành động). Việc xây
dựng Kế hoạch hành động phải được thực hiện từng bước theo một trình tự nhất định,
bảo đảm chất lượng, tính khả thi và hiệu quả thực hiện.
4.4. Xu hướng phát triển nông nghiệp và một số đề xuất hướng nghiên cứu KHKT
đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp trong thời gian tới
4.4.1. Xu hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao hướng
tới nền nông nghiệp 4.0
Ứng dụng công nghệ tự động, bán tự động trong sản xuất nông nghiệp đã góp
phần nâng cao hiệu quả sản xuất, sản phẩm đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, như:
Rau, hoa trồng trong nhà màng, nhà kính đạt giá trị hàng tỉ đồng/ha; nuôi tôm thẻ chân
trắng đã nâng cao năng suất chất lượng tôm, năng suất đạt 40 tấn/ha gấp 40 lần so với sản
xuất đại trà, chi phí sản xuất giảm 30 - 35% so với quy trình cũ; nuôi bò lấy sữa đã đạt
năng suất sữa trên 30 lít/ngày/con, chất lượng tốt ... Công nghệ thông tin đã và đang được
ứng dụng trong sản xuất nông - lâm - thủy sản để quản lý các yếu tố dinh dưỡng đầu vào,
quản lý yếu tố môi trường xung quanh đảm bảo phù hợp với yêu cầu của cây trồng vật
nuôi, nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm; ứng dụng trong dự báo dịch
bệnh cây trồng vật nuôi, dự báo các yếu tố thiên tai bất thường.
Trong ứng dụng các công nghệ cao vào nông nghiệp thì công nghệ sinh học đóng
vai trò rất quan trọng, đã được ứng dụng trong chọn tạo các giống cây trồng, vật nuôi có
năng suất cao, chất lượng tốt, có sức chống chịu cao. Công nghệ nhân giống in vitro được
ứng dụng rộng rãi trong nhân giống cây lâm nghiệp, cây hoa, cây chuối… giúp giảm giá
thành cây giống, tạo ra lô cây giống có độ đồng đều cao, sạch bệnh. Nhiều chế phẩm sinh
học đã được nghiên cứu tạo ra và ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp để cung cấp dinh
dưỡng cho cây trồng vật nuôi, hạn chế dịch bệnh hại, thay thế dần thuốc hoá học.
Cùng với đó, việc tăng cường tự động hóa sẽ giúp nông dân có thể tiết giảm chi
phí đầu vào. Nông nghiệp số còn giúp cung cấp dữ liệu để tối ưu hóa sâu hơn các quá
trình nông học và hậu cần ... Các doanh nghiệp cũng có thể nhờ đó mà cải thiện quan hệ

13
tốt hơn và gần gũi với khách hàng bằng việc đảm bảo tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm;
quản trị được chi phí sản xuất cũng như các thông số bảo vệ môi trường, thông qua việc
kết nối mạng thông minh; tối ưu hóa quy trình cho các hoạt động hỗ trợ và đại lý...
Tuy nhiên, việc lựa chọn công nghệ ứng dụng lại phụ thuộc vào điều kiện cụ thể
của từng vùng, từng địa phương hoặc của từng hộ gia đình. Cơ bản nhất là cần nhận thức
rằng, ứng dụng công nghệ thông minh trong sản xuất sẽ giúp đem lại hiệu quả cao hơn,
giảm chi phí và rủi ro.
Bên cạnh đó, cần tạo ra môi trường và hệ sinh thái tốt để thúc đẩy sự phát triển
của các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ số, công nghệ thông minh.
Có như vậy, khi nhân rộng mới thực sự dễ dàng, thuận lợi và đem lại hiệu quả.
Dẫn chứng cho việc tạo hệ sinh thái nông nghiệp công nghệ cao ứng dụng công
nghệ 4.0, Tiến sĩ Dương Trọng Hải, Viện Khoa học và Công nghệ Industry 4.0, Đại học
Nguyễn Tất Thành cho biết, nhằm xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông nghiệp và
đảm bảo chất lượng theo những tiêu chuẩn và thương mại hóa sản phẩm, hệ sinh thái
nông nghiệp công nghệ cao 4.0 sẽ gồm 1 chuỗi cung ứng nông nghiệp - công nghệ cao;
trong đó, có việc quản lý quá trình canh tác dựa trên chuẩn VietGab. Đi kèm đó là công
nghệ quan trắc yếu tố môi trường nông nghiệp phục vụ canh tác tự động và điều khiển từ
xa. Cùng với đó, truy xuất nguồn gốc sản phẩm dựa trên mã QR để biết quá trình canh
tác, phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng để đảm bảo sản phẩm có nguồn gốc và
tránh giả mạo.
Ngoài ra, bên cạnh việc cần tối ưu quá trình vận chuyển và giao hàng trong chuỗi
cung ứng, quản lý chuỗi cung ứng, ngành nông nghiệp cần hướng tới phát triển nền nông
nghiệp công nghệ cao ứng dụng 4.0 vào sản xuất và quản trị quá trình sản xuất; trong đó,
tập trung vào phần truy xuất nguồn gốc, logistics, thương mại điện tử và cá nhân hóa chế
biến thực phẩm...
Tóm lại, việc ứng dụng công nghệ 4.0 trong sản xuất nông nghiệp thực sự trở
thành xu hướng và đem lại hiệu quả. Khi tổ chức được chu trình khép kín trong sản xuất,
lưu thông, phân phối ra thị trường; những giá trị đem lại từ công nghệ số sẽ cải thiện
được những điểm yếu của ngành nông nghiệp; trong đó, không chỉ giúp giải phóng sức
lao động cho nông dân; mà còn đảm bảo chất lượng sản phẩm, giảm thiểu chi phí và rủi
ro hư hỏng. Chắc chắn, đó là điều mà toàn ngành nông nghiệp mong đợi để chờ đón
những cơ hội mới, vận hội mới trong cuộc cách mạng công nghệ 4.0 như hiện nay.
4.4.2. Đề xuất hướng nghiên cứu KHKT đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp
trong thời gian tới
a. Nghiên cứu các sản phẩm mới phục vụ nông nghiệp công nghệ cao
Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp công nghệ cao thì việc áp dụng các thiết bị
máy móc (cơ giới hóa trong nông nghiệp) và vật tư thông minh là điều cần hướng tới.
Cơ giới hoá nông nghiệp nông thôn là một nội dung quan trọng mà Đảng và Nhà
nước ta đặt ra trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trong những năm qua,
hoạt động cơ giới hoá nông nghiệp đã có những tác động tích cực vào việc làm thay đổi
bộ mặt của nông thôn, đồng thời giảm bớt sức lao động của người nông dân trong các
khâu sản xuất.
Theo các chuyên gia ngành nông lâm đánh giá, với cây lúa nước thì cơ bản đã cơ
giới hóa được nhiều khâu. Tuy nhiên, với cây trồng cạn thì trái ngược lại gần như là chưa

14
có gì, ngoài khâu làm đất, ngoài máy cày, máy kéo làm đất. Cũng có nhiều đề tài khoa
học về cơ giới hóa cây trồng các loại, cũng có nghiên cứu sản xuất thử, nhưng tới nay áp
dụng cho bền vững và đại trà thì vẫn chưa khẳng định được.
Ví dụ như cây cà phê trên địa bàn Tây Nguyên, khâu thu hoạch chiếm 30 - 40% cơ
cấu lao động tuy nhiên việc áp dụng máy móc là chưa khả thi. Hay việc chế tạo nghiên
cứu các thiết bị đánh giá nhanh thiếu hụt dinh dưỡng trên cây trồng hiện nay cũng chưa
được quan tâm.
Ngoài việc áp dụng máy móc vào nông nghiệp thì áp dụng các vật tư thông minh
cũng là giải pháp cần hướng tới. Như việc sản xuất các loại phân bón thông minh (phân
CRF) đã được nhiều đơn vị tiếp cận nhưng chưa đáp ứng được với nhu cầu của các loại
cây trồng hiện nay.
b. Nghiên cứu chuyển giao các mô hình nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu
Phát triển mô hình nông lâm kết hợp là một trong những định hướng chiến lược
của kinh tế nông nghiệp Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, mô hình nông lâm kết hợp
là hiện tượng phổ biến trong tổ chức sản xuất nông, lâm nghiệp của các dân tộc dựa trên
cơ sở điều kiện tự nhiên, mà trước hết là đất, rừng và khí hậu. Nông lâm kết hợp có vai
trò quan trọng trọng việc bảo tồn nước, cải thiện đất đai, cải thiện điều kiện tiểu khí hậu,
hỗ trợ các điều kiện dân sinh kinh tế của nông dân nghèo và không có đất canh tác, hơn
thế nữa nó còn có ý nghĩa trong việc giải quyết công ăn việc làm, cung cấp nguồn nguyên
liệu cho tiểu thủ công nghiệp, nguồn lương thực, năng lượng, thức ăn gia súc…
Những năm qua, một số nghiên cứu cho thấy mô hình nông lâm kết hợp đã đem
lại hiệu quả kinh tế bền vững cho bà con nông dân. Các mô hình nông lâm kết hợp có sẵn
trong sản xuất cho thấy, vườn cà phê có cây che bóng vẫn đạt được hiệu quả kinh tế khá
cao. Với mật độ cây che bóng thích hợp từ 70 - 90 cây keo dậu hoặc 60 cây muồng đen
trên một ha, chẳng những cải thiện được tiểu khí hậu và môi trường đất trong vườn cà
phê mà năng suất cà phê có thể duy trì ổn định ở mức 3,4 - 3,7 tấn/ha. Trồng xen từ 160 -
280 cây tiêu leo trên cây keo dậu hoặc trồng xen từ 80 - 90 cây sầu riêng đã không ảnh
hưởng nhiều đến năng suất cây cà phê và nông dân có thể thu thêm khoảng 20 triệu
đồng/ha từ các sản phẩm trồng xen (Lê Ngọc Báu, 2007).
Trồng xen các loại cây ăn trái trong vườn cà phê không những giúp năng suất cà
phê ổn định, tăng thêm thu nhập (từ 40 – 150 %) mà còn có tác dụng kéo dài chu kỳ tưới
cho cây cà phê (khoảng 5 – 10 ngày) do cây che bóng làm hạn chế được quá trình bốc
thoát hơi nước. Đây là giải pháp kỹ thuật quan trọng góp phần sản xuất cà phê bền vững
và thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu.
Mô hình nông lâm kết hợp không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất,
mà còn đáp ứng các yêu cầu về bền vững môi trường như bảo vệ, cải thiện đất, giữ nước,
hấp thụ và lưu khí CO2 trong hệ thống, giảm lượng khí gây hiệu ứng nhà kính trong khí
quyển, đóng góp vào việc giảm thiểu sự biến đổi khí hậu. Kết quả này là khởi đầu cho
việc nghiên cứu giá trị dịch vụ môi trường của các mô hình nông lâm kết hợp, trong đó
tập trung vào nghiên cứu khả năng hấp thụ CO 2. (Đề tài: “Ước lượng năng lực hấp thụ
CO2 của bời lời đỏ (Litsea glutinosa) trong mô hình nông lâm kết hợp Bời lời đỏ - Sắn ở
huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai – Tây Nguyên, Việt Nam” ( Bảo Huy, 2005).
5. Kết luận
Với hơn 70% dân cư là nông dân, hoạt động sản xuất nông nghiệp của người nông
dân Việt Nam phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Trong khi đó, sản xuất nông

15
nghiệp chủ yếu dựa vào các hộ cá thể, quy mô nhỏ, trình độ khoa học kỹ thuật thấp. Đó là
một thách thức lớn đối với Việt Nam trong bối cảnh BĐKH. Những tác động tiêu cực của
BĐKH đã và đang gây ra những hậu quả nặng nề cho nền sản xuất nông nghiệp, làm ảnh
hưởng đến đời sống và sinh kế của người nông dân.
Do đó, việc phòng chống và ứng phó hiệu quả đối với các hiện tượng BĐKH đòi
hỏi phải có những giải pháp phù hợp cả trước mắt và lâu dài trong việc xây dựng, phát
triển sinh kế bền vững, giảm thiểu mức độ tổn thương cho người nông dân. Các giải pháp
bao gồm việc nâng cao nhận thức của người nông dân về BĐKH, huy động các tổ chức
chính trị xã hội tham gia vào hoạt động phòng chống thiên tai… đặc biệt, cần xây dựng
mô hình sinh kế đa dạng, bền vững cho người nông dân. Bên cạnh đó, các giải pháp cũng
cần chú ý đến việc lồng ghép vấn đề BĐKH vào chương trình Nông thôn mới hiện nay.
Để phát triển nông nghiệp bền vững và thích ứng với BĐKH cần phải áp dụng
đồng bộ tất cả các giải pháp (chính sách; nghiên cứu; ứng dụng; đầu tư…) để mang lại
hiệu quả tốt nhất. Để đạt được điều này cần phải có sự kết hợp hài hòa giữa 4 nhà (Nhà
nước; nhà đầu thư; nhà nghiên cứu và nhà nông).
Mặc dù đứng trước những khó khăn thách thức khi phát triển nông nghiệp trong
tình hình BĐKH, nhưng với sự nổ lực sáng tạo và có được hướng đi đúng đắng thì đây
cũng là cơ hội để nông nghiệp Việt Nam bứt phát, tạo bàn đạp để vươn lên một nền NN
cơ giới hóa, hiện đại hóa ngang tầm thế giới.

16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bảo Minh. 2013. Thuận theo tự nhiên để ứng phó với biến đổi khí hậu.
(http://www.dmhcc.gov.vn/tin-tuc/2212/Thuan-theo-tu-nhien-de-ung-pho-voi-bien-doi-
khi-hau.html, Truy cập ngày 15/9/2013). Bộ Tài nguyên và Môi trường. 2008. Chương
trình Mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu.
2. Dự án Bảo vệ và Phát triển những vùng đất ngập nước ven biển Miền Nam Việt Nam.
2006. Báo cáo phân tích kinh tế - xã hội.
3. Trần Thọ Đạt, Vũ Thị Hoài Thu. 2012. Biến đổi khí hậu và sinh kế ven biển. Bài viết
trong Diễn đàn Phát triển Việt Nam. Nhà xuất bản Giao thông Vận tải, Hà Nội.
4. Minh Huệ (theo Báo Trí thức trẻ). 2014. Các tai họa con người phải hứng chịu do biến
đổi khí hậu. (http://kenh14.vn/kham-pha/cac-tai-hoa-con-nguoi-phai-hung-chiu-do-bien-
doi-khi-hau-2014061508048567.chn, Truy cập ngày 16/ 6/2014).
5. Ngọc Thúy. 2014. Tác động của biến đổi khí hậu đến nuôi trồng thủy sản ven biển.
(http://www.fistenet.gov.vn/e-nuoi-trong-thuy-san/b-nuoi-thuy-san/tac-111ong-cua-bien-
111oikhi-hau-111en-nuoi-trong-thuy-san-ven-bien/, Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2014).
6. Tô Văn Trường. 2009. Tác động của biến đổi khí hậu đến an ninh lương thực quốc gia,
Ban chủ nhiệm chương trình trọng điểm cấp nhà nước KC08/06-10.
7. Lê Anh Tuấn. 2010. Tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng lên tính đa dạng
sinh học và xu thế di dân vùng ven biển bán đảo Cà Mau. Trong Hội thảo khoa học: “Bảo
tồn các giá trị dự trữ sinh quyển và hỗ trợ cư dân vùng ven biển”. Cà Mau.
8. Phạm Thị Trầm, Nguyễn Song Tùng. 2010. Nghiên cứu dự báo tác động biến đổi khí
hậu giai đoạn 2011-2020 và đề ra giải pháp ứng phó nhằm phát triển bền vững ở Việt
Nam. Báo cáo đề tài cấp Bộ.
9. Vũ Minh Hải, 2012. Biến đổi khí hậu, giới và di cư. Bài tham luận của Oxfam trong kỷ
yếu hội thảo: Thích ứng với biến đổi khí hậu tại Đồng bằng sông Cửu Long (CTU, IOM
và UNDP). Đại học Cần Thơ, 4-5/6/2012.
10. Quyết định số 2139/QĐ-TTg “Quyết định phê duyệt chiến lược quốc gia về biến đổi
khí hậu” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 05 tháng 12 năm 2011.

17

You might also like