You are on page 1of 16

Tìm hiểu về IPv6

Sinh viên thực hiện: Ngô Văn Hiếu


Lớp CNPM A – K44
Khoa Công Nghệ Thông Tin
Bài tập gồm
--> giới thiệu về IP6
--->Các dạng địa chỉ IPv6
--> Tìm hiểu về IPv6 Header
- Kết nối các máy tính IPv6 trong mạng lan
1. Giới thiệu về IPv6
Địa chỉ mới của Internet la Ipv6(Internet Protocol version 6) được
nhóm chuyên trách kỹ thuật IETF(Internet Engineering Task Force) của hiệp
hội Internet đề xuất thực hiện kế thừa trên cấu trúc cà tổ chức của Ipv4
Ipv6 có 32 bit địa chỉ với khả năng lý thuyết có thể cung cấp một
không gian địa chỉ là 2 32 = 4 294 967 296 địa chỉ. Còn Ipv6 có 128 bit địa
chỉ dài hơn 4 lần so với Ipv4 nhưng khả năng lý thuyết có thể cung cấp một
không gian địa chỉ là 2128 nhiều hơn không gian địa chỉ của Ipv4 khoảng 8 tỷ
tỷ tỷ lần
Đây là một không gian địa chỉ cực lớn với mục đích không chỉ cho
Internet mà còn cho tất cả các mạng máy tính, hệ thống viễn thông, hệ thống
điều khiển và thậm chí các vật dụng trong gia đình. Nhu cầu hiện tại chỉ cần
15% không gian địa chỉ Ipv6 còn 85% dự phòng cho tương lai.
2. Các dạng địa chỉ IPv6: Unicast, Multicast, Anycast
địa chỉ Ipv4 được chia ra làm 5 lớp A,B,C,D,E còn Ipv6 lại được phân
ra làm 3 loại chính sau Unicast, Multicast, Anycast
*Các dạng địa chỉ IPv6
Thế hệ địa chỉ IPV6 có các dạng địa chỉ như sau: unicast, multicast và
anycast.
Khái niệm địa chỉ broadcast không tồn tại nữa. Chức năng broadcast được
đảm nhiệm bởi địa chỉ multicast trong IPV6.
Địa chỉ unicast được cấu hình cho mỗi giao diện mạng của một node. Địa
chỉ multicast, mặt khác, được phân bổ cho một nhóm các node. Một địa chỉ
anycast được gắn cho mỗi chức năng nhất định, và địa chỉ anycast được sử
dụng để thực hiện một chức năng nhất định.
Địa chỉ Unicast (đơn hướng) . Là địa chỉ dùng để nhận dạng từng Node
một (Node—điểm nút là tập hợp các thiết bị chuyển mạch nằm ở trung tâm
như router chẳng hạn), cụ thể là một gói số liệu được gửi tới một địa chỉ đơn
hướng sẽ được chuyển tới Node mang địa chỉ đơn hướng – unicast đó
Trong loại địa chỉ này có rất nhiều kiểu, ta xét một số kiểu sau
*1/ Local –use unicast address( địa chỉ đơn hướng dùng nội bộ ) được sủ
dụng cho 1 tỏ chức có mạng máy tính riêng chưa nối với mạng Internet toàn
cầu hiện tại nhưng sẵn sàng được nối khi cần
Địa chỉ này chia làm 2 phần Link Local- nhận dạng đường kết nối nội
bộ và Site Local – nhận dạng trong phạm vi nội bộ có thể có nhiều nhóm
Node-subnet
*2/ IPX address (Internet Packet eXchange) trao đổi các gói số liệu giữa các
mạng – giao thức cơ bản trong hệ điều hành Novell Netware.
*3/ Ipv6 address with embedded Ipv4 (Địa chỉ ipv6 gắn kèm Ipv4) . Đây là
một cấu trúc quan trọng trong bước chuyển tiếp, đổi từ địa chỉ cũ sang địa
chỉ mới trên Internet. Có 2 kiểu sau
+/ Kiểu địa chỉ “ Ipv4 tương thích với Ipv6”. Những Node mang địa chỉ
Ipv6 sử dụng kiểu địa chỉ này để tải địa chỉ Ipv4 ở 32 bítau như vậy mới kết
nối được với các Node mang địa chỉ Ipv4
*4/ Aggregate Global Unicast Address( Địa chỉ đơn hướng trên mạng toàn
cầu). Kiểu địa chỉ này được thiết kế cho cả ISP hiện tại và tương lai, ISP
trong tương lai có quy mô lớn hơn, như là các Internet Carrier. Trường hợp
này được gọi là các trung tâm chuyển đổi(eXchanges) trên Internet, cung
cấp khả năng truy nhập và dịch vụ Internet cho cả khách hàng lẫn ISP, hiện
tại 1 số công ty lớn của Mỹ đã có quy mô này
Trong IPV4, không rõ ràng là một địa chỉ được gắn cho node hay gắn cho
giao diện. IPV6 xác định rõ ràng rằng địa chỉ được cấu hình trên mỗi giao
diện mạng.
Địa chỉ unicast IPV6 có thể được phân loại theo phạm vi. Một phạm vi có
nghĩa là một vùng ứng dụng. Phạm vi toàn cầu (global scope) có thể được sử
dụng để giao tiếp trên toàn cầu, và phạm vi nội bộ (local scope) được sử
dụng cho mục đích trong vòng một site. Link-local scope, được sử dụng trên
một link nội bộ, Nói cách khác, nó có thể được sử dụng trong vòng giới hạn
biên của router.
Giả sử một node (host) được gắn vào một mạng IPV6 bằng một cáp
Ethernet. Ethernet adapter sẽ có một địa chỉ link-local được cấu hình. Nếu
node đó có kết nối IPV6 toàn cầu, thì giao diện Ethernet đó cần phải được
cung cấp một địa chỉ unicast toàn cầu. Và giả sử nếu như phạm vi site-local
được sử dụng trong tổ chức thì địa chỉ site-local cần phải được cấu hình.
10 bít đầu tiên của địa chỉ link-local luôn luôn là 1111 1110 00 (tức là
FE80::/10 theo dạng thức hexadecimal). 54 bít tiếp theo là 0, theo sau là
định danh giao diện (interface ID) được tạo thành từ địa chỉ MAC trong
trường hợp có Ethernet adapter. Địa chỉ link-local được cấu hình ngay lập
tức khi giao diện được gắn vào mạn. Nói cách khác, địa chỉ link-local được
tạo đầu tiên, trước khi địa chỉ toàn cầu được cấu hình. Router ngăn những
gói tin chứa địa chỉ link-local. Do vậy, địa chỉ link-local chỉ được sử dụng
trên một link.
Sử dụng phổ biến nhất của địa chỉ link-local là trong quá trình tự động cấu
hình của địa chỉ unicast toàn cầu. Như đã nói ở trên, địa chỉ toàn cầu được
cấu tạo từ định danh giao diện (interface ID) và tiền tố mạng (network
prefix). Network prefix được nhận từ router tương ứng trên đường link, do
vậy, node cần phải giao tiếp với router trước tiên. Địa chỉ link-local được sử
dụng chính cho mục đích này
Địa chỉ site-local được xác định cấu hình trong một mạng cấu tạo bởi một
số mạng con. 10 bít đầu tiên của địa chỉ site-local luôn luôn là 1111 1110
11 (tức là FEC0::/10 theo dạng thức hexadecimal). 38 bít sau là 0, sau đó
là 16 bit định danh mạng (subnet ID). Tuy nhiên, địa chỉ site-local nảy
sinh một số vấn đề, bao gồm việc không rõ ràng trong việc định danh
a- Anycast address (địa chỉ bất kỳ hướng nào) là địa chỉ dùng để nhận
dạng một “Tập hợp Node” bao gồm nhiều Node khác nhau hợp thành,
cụ thể là một gói số liệu được gửi tới một địa chỉ “bất cứ hướng nào”
sẽ được chuyển tới một Node gần nhất trong tập hợp Node mang địa
chỉ anycast đó
Anycast là một dạng địa chỉ hoàn toàn mới trong IPV6. Dạng địa chỉ này
không được gắn cho node hay giao diện, mà cho những chức năng cụ thể.
Thay vì thực hiện truyền dữ liệu đến mọi node trong một nhóm như địa chỉ
multicast, anycast gửi gói tin đến node gần nhất (tính theo thủ tục định
tuyến) trong nhóm.
Anycast không có không gian địa chỉ riêng gắn cho nó. Nó được lấy trong
vùng của địa chỉ unicast. Bởi vậy, địa chỉ anycast cũng có ba phạm vi, như
địa chỉ unicast. Nhưng việc sử dụng của địa chỉ anycast cũng không rõ ràng.
Hiện nay đang có những thảo luận về việc có sử dụng dạng địa chỉ anycast
cho những mục đích như tìm DNS hoặc Universal Plug and Play.
b- Multicast address(địa chỉ đa hướng) là địa chỉ dùng để nhận dạng một
‘tập hợp Node” bao gồm nhiều Node khác nhau hợp thành, cụ thể là
một gói số liệu được gửi tới một địa chỉ “đa hướng” sẽ được chuyển
tới tất cả các Node trong tập hợp Node mang địa chỉ Multicast đó.
Địa chỉ multicast được cấu hình trong một nhóm multicast. Nói cách khác,
nhiều node có thể được gắn cho một nhóm multicast nhất định, và nhóm này
được gắn một địa chỉ multicast. Do vậy, node thực hiện truyền dữ liệu sẽ chỉ
cần xác định địa chỉ multicast này, để gửi gói tin đến mọi node (chính xác
hơn là đến các giao diện) trong nhóm multicast này.
Địa chỉ multicast cũng có phạm vi: toàn cầu (global), tổ chức (organization-
local), một site (site-local), link (link-local) và trong node (node-local).
Phạm vi tổ chức và node là hai dạng địa chỉ mới, không có trong dạng địa
chỉ unicast. Phạm vi organization-local được sử dụng trong phạm vi một tổ
chức với một số site, tuy nhiên định nghĩa không rõ ràng. Phạm vi node
local chỉ có tính ứng dụng trong phạm vi một node. Dạng phạm vi địa chỉ
này được định nghĩa vì không như địa chỉ IPV4, một node IPV6 có thể được
gắn rất nhiều địa chỉ.
Dạng thức của địa chỉ multicast như sau:

8 bít đầu tiên trong địa chỉ multicast luôn luôn là 1111 1111 (tức là FF theo
dạng thức hexadecimal). “Flag” sử dụng từ bít thứ 9 đến bít 12 và chỉ ra xem
liệu đây có phải là dạng địa chỉ multicast được định nghĩa trước (well-
known). Nếu có là well-known, mọi bít sẽ là 0. “Scope” chiếm từ bít thứ 13
đến bít thứ 16. Nếu Scope ID = 2, ví dụ, thì đó là phạm vi link-local.
Group ID được sử dụng để xác định một nhóm multicast. Có những group
ID được định nghĩa từ trước (predefined group ID), ví dụ Group ID=1 tức là
mọi node. Bởi vậy, nếu địa chỉ multicast là ff02;;1 có nghĩa Scope ID=2 và
Group ID=1, chỉ định mọi node trong phạm vi một link (link-scope). Điều
này giống như broadcast trong địa chỉ IPV4
Địa chỉ multicast của IPV6 có nhiều ưu điểm so với địa chỉ multicast của
IPV4. Một trong số đó là số lượng địa chỉ để sử dụng. Trong IPV4, Class D
được dành cho multicast, đó chỉ là khoảng không gian địa chỉ nhỏ từ
224.0.0.0 tới 239.255.255.255. Nhưng trong địa chỉ IPV6, vùng địa chỉ dành
cho multicast chiếm tới 1/256 không gian địa chỉ khổng lồ. Do vậy địa chỉ
multicast có thể được sử dụng thoải mái hơn. Thêm nữa cơ sở hạ tầng có hỗ
trợ multicast có thể xây dựng dễ dàng hơn, bởi vì không như IPV4, địa chỉ
multicast là bắt buộc trong thực hiện IPV6.
2. Tìm hiểu về IPv6 Header
Khác biệt cơ bản giữa IPv4 Header và IPv6 Header
IPV6 là một cải tiến về version của thủ tục Internet hiện thời, IPV4. Tuy
nhên, nó vẫn là một thủ tục Internet. Một thủ tục là một tập các quy trình để
giao tiếp. Trong thủ tục Internet, thông tin như địa chỉ IP của nơi gửi và nơi
nhận của gói tin dữ liệu được đặt phía trước dữ liệu. Phần thông tin đó được
gọi là header. Cũng tương tự như khi xác định địa chỉ người nhận và người
gửi khi bạn gửi một bưu phẩm qua đường thư tín.
Hãy so sánh về header giữa IPV4 và IPV6.
Hình 1: IPV4 Header.

Hình 2: IPV6 Header


Trường địa chỉ nguồn (Source Address) và địa chỉ đích (Destination
Address) có chiều dài mở rộng đến 128 bít.
Mặc dù trường địa chỉ nguồn và địa chỉ đích có chiều dài mở rộng tới gấp 4
lần số bít, song chiều dài header của IPV6 không hề tăng nhiều so với header
của IPV4. Đó là bởi vì dạng thức của header đã được đơn giản hoá đi trong
IPV6.
Một trong những thay đổi quan trọng là không còn tồn tại trường options
trong header của IPV6. Trường Options này được sử dụng để thêm các thông
tin về các dịch vụ tuỳ chọn khác nhau. VD thông tin liên quan đến mã hoá
có thể được thêm vào tại đây.
Vì vậy, chiều dài của IPV4 header thay đổi tuỳ theo tình trạng. Do sự thay
đổi đó, các router điều khiển giao tiếp theo những thông tin trong IP header
không thể đánh giá chiều dài header chỉ bằng cách xem xét phần đầu gói tin.
Điều này làm cho khó khăn trong việc tăng tốc xử lý gói tin với hoạt động
của phần cứng.
Trong địa chỉ IPV6 thì những thông tin liên quan đến dịch vụ kèm theo được
chuyển hẳn tới một phân đoạn khác gọi là header mở rộng “extension
header”. Trong hình vẽ trên là header cơ bản. Đối với những gói tin thuần
tuý, chiều dài của header được cố định là 40 byte. Về xử lý gói tin bằng phần
cứng, có thể thấy trong IPV6 có thể thuận tiện hơn IPV4.
Một trường khác cũng được bỏ đi là Header Checksum. Header checksum là
1 số sử dụng để kiểm tra lỗi trong thông tin header, được tính toán ra dựa
trên những con số của header. Tuy nhiên, có một vấn đề nảy sinh là header
chứa trường TTL (Time to Live), giá trị trường này thay đổi mỗi khi gói tin
được truyền qua 1 router. Do vậy, header checksum cần phải được tính toán
lại mỗi khi gói tin đi qua 1 router. Nếu giải phóng router khỏi công việc này,
chúng ta có thể giảm được trễ.
Thực ra, tầng TCP phía trên tầng IP có kiểm tra lỗi của các thông tin khác
nhau bao gồm cả địa chỉ nhận và gửi. Vậy có thể thấy các phép tính tương tự
tại tầng IP là dư thừa, nên Header Checksum được gỡ bỏ khỏi IPV6.
Trường có cùng chức năng với “Service Type” được đổi tên là Traffic Class.
Trường này được sử dụng để biểu diễn mức ưu tiên của gói tin, ví dụ có nên
được truyền với tốc độ nhanh hay thông thường, cho phép thiết bị thông tin
có thể xử lý gói một cách tương ứng. Trường Service Type gồm TOS (Type
of Service) và Precedence. TOS xác định loại dịch vụ và bao gồm: giá trị, độ
tin cậy, thông lượng, độ trễ hoặc bảo mật. Precedence xác định mức ưu tiên
sử dụng 8 mức từ 0-7.
Trường Flow Label có 20 bít chiều dài, là trường mới được thiết lập trong
IPV6. Bằng cách sử dụng trường này, nơi gửi gói tin hoặc thiết bị hiện thời
có thể xác định một chuỗi các gói tin, ví dụ Voice over IP, thành 1 dòng, và
yêu cầu dịch vụ cụ thể cho dòng đó. Ngay cả trong IPV4, một số các thiết bị
giao tiếp cũng được trang bị khả năng nhận dạng dòng lưu lượng và gắn
mức ưu tiên nhất định cho mỗi dòng. Tuy nhiên, những thiết bị này không
những kiểm tra thông tin tầng IP ví dụ địa chỉ nơi gửi và nơi nhận, mà còn
phải kiểm tra cả số port là thông tin thuộc về tầng cao hơn. Trường Flow
Label trong IPV6 cố gắng đặt tất cả những thông tin cần thiết vào cùng nhau
và cung cấp chúng tại tầng IP.
IPV6 có mục tiêu cung cấp khung làm việc truyền tải thông minh, dễ dàng
xử lý cho thiết bị bằng cách giữ cho header đơn giản và chiều dài cố định.
Chức năng của Header mở rộng (Extension Header) trong IPv6
Header mở rộng (extension header) là đặc tính mới trong thế hệ địa chỉ
IPV6.
Trong IPV4, thông tin liên quan đến những dịch vụ thêm vào được cung cấp
tại tầng IP được hợp nhất trong trường Options của header. Vì vậy, chiều dài
header thay đổi tuỳ theo tình trạng.
Khác thế, địa chỉ IPV6 phân biệt rõ ràng giữa header mở rộng và header cơ
bản, và đặt phần header mở rộng sau phần header cơ bản. Header cơ bản có
chiều dài cố định 40 byte, mọi gói tin IPV6 đều có header này. Header mở
rộng là tuỳ chọn. Nó sẽ không được gắn thêm vào nếu các dịch vụ thêm vào
không được sử dụng. Các thiết bị xử lý gói tin (ví dụ router), cần phải xử lý
header cơ bản trước, song ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt, chúng
không phải xử lý header mở rộng. Router có thể xử lý gói tin hiệu quả hơn
vì chúng biết chỉ cần nhìn vào phần header cơ bản với chiều dài như nhau.
Header mở rộng được chia thành nhiều loại tuỳ thuộc vào dạng và chức
năng chúng phục vụ. Khi nhiều dịch vụ thêm vào được sử dụng, phần header
mở rộng tương ứng với từng loại dịch vụ khác nhau được đặt tiếp nối theo
nhau.
Trong cấu trúc header IPV6, có thể thấy 8 bít của trường Next Header.
Trường này sẽ xác định xem extension header có tồn tại hay không, khi mà
header mở rộng không được sử dụng, header cơ bản chứa mọi thông tin tầng
IP. Nó sẽ được theo sau bởi header của tầng cao hơn, tức hoặc là header của
TCP hay UDP, và trường Next Header chỉ ra loại header sẽ theo sau.

Mỗi header mở rộng (extension header) cũng chứa trường Next Header và
xác định header mở rộng nào sẽ theo sau nó. Node đầu cuối khi nhận được
gói tin chức extension header sẽ xử lý các extension header này theo thứ tự
được sắp xếp của chúng.
v Dạng của extension header
Có 6 loại của extension header: Hop-by-Hop Option, Destination Option,
Routing, Fragment, Authentication, and ESP (Encapsulating Security
Payload). Khi sử dụng cùng lúc nhiều extension header, thường có một
khuyến nghị là đặt chúng theo thứ tự như thế này.
 Hop-by-Hop Option
Phía trên có đề cập là thông thường, chỉ có những node đầu cuối xử lý các
extension header. Chỉ có một ngoại lệ của quy tắc này là header Hop-by-Hop
Option. Header này, như tên gọi của nó, xác định một chu trình mà cần được
thực hiện mỗi lần gói tin đi qua một router.
 Destination Option
Destination Option header được sử dụng để xác định chu trình cần
thiết phải xử lý bởi node đích. Có thể xác định tại đây bất cứ chu trình
nào. Chúng tôi đã đề cập là thông thường chỉ có những node đích xử
lý header mở rộng của IPV6. Như vậy thì các header mở rộng khác ví
dụ Fragment header có thể cũng được gọi là Destination Option
header. Tuy nhiên, Destination Option header khác với các header
khác ở chỗ nó có thể xác định nhiều dạng xử lý khác nhau.
 Routing
Routing header được sử dụng để xác định đường dẫn định tuyến. Ví dụ, có
thể xác định nhà cung cấp dịch vụ nào sẽ được sử dụng, và sự thi hành bảo
mật cho những mục đích cụ thể. Node nguồn sử dụng Routing header để liệt
kê địa chỉ của các router mà gói tin phải đi qua. Các địa chỉ trong liệt kê này
được sử dụng như địa chỉ đích của gói tin IPV6 theo thứ tự được liệt kê và
gói tin sẽ được gửi từ router này đến router khác tương ứng.
 Fragment
Fragment header được sử dụng khi nguồn gửi gói tin IPV6 gửi đi gói tin lớn
hơn Path MTU, để chỉ xem làm thế nào khôi phục lại được gói tin từ các
phân mảnh của nó. MTU (Maximum Transmission Unit) là kích thước của
gói tin lớn nhất có thể gửi qua một đường dẫn cụ thể nào đó. Trong môi
trường mạng như Internet, băng thông hẹp giữa nguồn và đích gây ra vấn đề
nghiêm trọng. Cố gắng gửi một gói tin lớn qua một đường dẫn hẹp sẽ làm
quá tải. Trong địa chỉ IPV4, mối router trên đường dẫn có thể tiến hành phân
mảnh (chia) gói tin theo giá trị của MTU đặt cho mỗi giao diện. Tuy nhiên,
chu trình này áp đặt một gánh nặng lên router. Bởi vậy trong địa chỉ IPV6,
router không thực hiện phân mảnh gói tin (các trường liên quan đến phân
mảnh trong header IPV4 đều được bỏ đi).
Node nguồn IPV6 sẽ thực hiện thuật toán tìm kiếm Path MTU, để tìm băng
thông hẹp nhất trên toàn bộ một đường dẫn nhất định, và điều chỉnh kích
thước gói tin tuỳ theo đó trước khi gửi chúng. Nếu ứng dụng tại nguồn áp
dụng phương thức này, nó sẽ gửi dữ liệu kích thước tối ưu, và sẽ không cần
thiết xử lý tại tầng IP. Tuy nhiên, nếu ứng dụng không sử dụng phương thức
này, nó phải chia nhỏ gói tin có kích thướng lớn hơn MTU tìm thấy bằng
thuật toán Path MTU Discovery. Trong trường hợp đó, những gói tin này
phải được chia tại tầng IP của node nguồn và Fragment header được sử
dụng.
 Authentication and ESP
Ipsec là phương thức bảo mật bắt buộc được sử dụng tại tầng IP. Mọi node
IPV6 phải thực thi Ipsec. Tuy nhiên, thực thi và tận dụng lại là khác nhau, và
Ipsec có thực sự được sử dụng trong giao tiếp hay không phụ thuộc vào thời
gian và từng trường hợp. Khi Ipsec được sử dụng, Authentication header sẽ
được sử dụng cho xác thực và bảo mật tính đồng nhất của dữ liệu, ESP
header sử dụng để xác định những thông tin liên quan đến mã hoá dữ liệu,
được tổ hợp lại thành extension header. Trong IPV4, khi có sử dụng đến
Ipsec, thông tin được đặt trong trường Options.
IPV6 ứng dụng một hệ thống tách biệt các dịch vụ gia tăng khỏi các dịch vụ
cơ bản và đặt chúng trong header mở rộng (extension header), cao hơn nữa
phân loại các header mở rộng theo chức năng của chúng. Làm như vậy, sẽ
giảm tải nhiều cho router, và thiết lập nên được một hệ thống cho phép bổ
sung một cách linh động các chức năng, kể cả các chức năng hiện nay chưa
thấy rõ ràng.
3. Tự động cấu hình địa chỉ trong IPv6
Một chức năng mới trong địa chỉ IPV6 là việc tự động cấu hình địa chỉ.
Trong IPV6, các thiết bị kết nối được giả định là không phải là các thiêt bị
PC hay đầu cuối máy tính. Cách thức tự động cấu hình địa chỉ được đưa ra
nhằm cho phép các thiết bị này có thể kết nối mạng plug-and-play, giảm đi
sự quá tải về việc quản lý.
Địa chỉ IP được gắn cho mỗi giao diện mạng của một node. Một giao diện sử
dụng địa chỉ IPV6 thường có ít nhất địa chỉ link-local và địa chỉ toàn cầu.
Địa chỉ link-local được sử dụng cho các chức năng điều khiển còn địa chỉ
toàn cầu được sử dụng cho giao tiếp dữ liệu thông thường. Trong IPV4,
nguyên tắc cơ bản là chỉ một địa chỉ được gắn cho một giao diện xong trong
địa chỉ IPV6, không giới hạn số lượng này.
Nói chung, có những cách thức sau đây để gắn địa chỉ IP cho một node
Cấu hình bằng tay (Manual Configuration).
Có nghĩa là thực hiện gắn địa chỉ IP cho giao diện một bằng nhân công.
Cũng bao gồm cả địa chỉ được cấu hình trước dựa theo một file cấu hình tại
thời điểm bật máy.
2. Tự động cấu hình có trạng thái (Stateful Address Autoconfiguration)
Nó bao gồm chức năng quản lý phân bổ địa chỉ IP cho các node một cách
tập trung. Ví dụ như DHCP(Dynamic Host Configuration Protocol) và địa
chỉ phân bổ cho kết nối dialup. Nó được gọi là “có trạng thái –statefull” bởi
vì máy chủ quản lý những địa chỉ này duy trì trạng thái đó. Đây là phương
thức cấp địa chỉ phổ biến nhất trong IPV4.
3. Tự động cấu hình địa chỉ không trạng thái (Stateless Address
Autoconfiguration)
Tự động cấu hình địa chỉ trong IPV6 là dạng này. Một node có thể tự cấu
hình địa chỉ của riêng nó, sử dụng những thông tin trên mạng. Nó được gọi
là “không trạng thái – stateless” vì không có gì khác ngoài chính node tự
quản lý địa chỉ của nó.
* Quá trình phân bổ địa chỉ stateful

Sự khác biệt giữa cấu hình stateful và stateless là ai là người quản lý địa chỉ.
Trong ví dụ về phân bổ stateful là DHCP.
Trong thủ tục DHCP, máy chủ DHCP được đặt trong mạng để phân bổ địa
chỉ theo quy trình sau đây:
(1) Node gửi DHCPDISCOVER và tìm thấy máy chủ DHCP
(2) Máy chủ DHCP nhận DHCPDISCOVER và gửi trả lại DHCPOFFER.
(3) Node nhận DHCPOFFER và gửi DHCPREQUEST
(4) Máy chủ DHCP nhận DHCPREQUEST và gửi trả lại DHCPACK.
(5) Node nhận DHCPACK và cấu hình giao diện của nó.
Điểm quan trọng ở đây là máy chủ DHCP quản lý thông tin địa chỉ và duy trì
là địa chỉ nào sẽ được phân bổ cho ai. Trong phân bổ địa chỉ bằng DHCP,
một node chỉ có thể sử dụng duy nhất một DHCP server (mặc dù có thể có
nhiều máy chủ DHCP trong một mạng. Như vậy chỉ có một địa chỉ IP được
phân bổ cho giao diện của một node.
* Qúa trình tự động cấu hình không trạng thái (stateless)
Vậy địa chỉ IPV6 được tự động cấu hình như thế nào ?
Trong IPV6, 128 bít địa chỉ được phân làm hai phần: tiền tố mạng, để xác
định mạng và định danh giao diện (interface ID) để xác định giao diện. Phần
định danh giao diện sẽ được tự node cấu hình lên, còn prefix được thông báo
bởi mạng (thường là do router). Hai phần đó sẽ kết hợp lại để cấu thành lên
địa chỉ IPV6

Quy trình sau đây là quy trình thực sự của cấu hình tự động địa chỉ IPV6
không trạng thái

(1) Node mới trong mạng tạo địa chỉ link-local và gắn nó cho giao diện. Địa
chỉ link-local có dạng như sau: fe80:0000:0000:0000:0000:

(2) Node thực hiện kiểm tra để chắc chắn rằng địa chỉ link-local không có sử
dụng rồi trong cùng mạng bằng DAD- Duplicate Address Detection. Trước
tiên, node truyền thông điệp Neighbor Solicitation (NS) trong mạng. Nếu
một node nào đó đã sử dụng cùng địa chỉ rồi, node này sẽ gửi thông điệp
Neighbor Advertisement (NA). Node mới sẽ sử dụng địa chỉ link-local nó
vừa tạo nếu sau một khoảng thời gian nó không nhận được thông điệp NA
nào. Nếu trong khoảng thời gian đó nó nhận được thông báo về tình trạng
trùng lặp địa chỉ link-local, nó sẽ không sử dụng địa chỉ link-local đó và ngắt
giao diện.
(3) Node mới gửi thông điệp Router Solicitation (RS) trong mạng để yêu cầu
thông tin, sử dụng địa chỉ link-local vừa tạo. Việc node truyền đi thông điệp
RS không phải là bắt buộc, node có thể thụ động đợi thông điệp RA vốn
được gửi theo thời đoạn từ router.
(4) Router nhận thông điệp RS sẽ gửi lại thông điệp RA (Router
Advertisement). Thông điệp RA được truyền theo thời hạn thời gian nhất
định, do vậy node cũng không bắt buộc phải gửi thông điệp RS.
(5) Node nhận RA và thu được tiền tố địa chỉ IPV6 của nó.
(6) Khi đó node cấu thành địa chỉ IPV6 bằng cách kết hợp tiền tố mạng
(prefix) và định danh giao diện (interface ID), như là nó đã thực hiện với địa
chỉ link-local.
The node forms the global IPv6 address by combining prefix and interface
ID, just as it did for link-local address.

Chú ý rằng những thiết bị gửi RA, như router, chỉ gửi tiền tố cố định được
gắn của mạng. Nói cách khác, nó không quan tên đến sẽ gửi RA cho ai. Bởi
vậy, nếu cho hai router thuộc cùng mạng đó và quảng bá các prefix khác
nhau bằng RA, node nhận thông điệp sẽ tự động lấy cả hai RA và tạo nên
những địa chỉ khác nhau cho cùng một giao diện.
Cấu hình định danh giao diện (Interface ID) từ địa chỉ MAC
Định danh giao diện (Interface ID) trong địa chỉ IPV6 là 64 bít cuối trong
128 bít địa chỉ IPV6. Định danh này có thể được tự động cấu hình lên từ địa
chỉ card mạng MAC theo quy trình như sau:
3.Kết nối các máy tính IPv6 trong mạng lan

1. Windows 2000 Pro


IPv6 adu 4/2001:0dc8::1
2. Windows 2K advance server
IPv6 adu 4/2001:0DC8::2
3. Windows XP
IPv6 adu 4/2001:0DC8::3
4. Linux
ip -6 addr add 2001:0DC8::4/32 dev 0
Từ bất kỳ máy nào, ping tới các máy khác :
D:\Documents and Settings\Administrator>ping6 2001:0dc8::1
Pinging 2001:0dc8::1
from 2001:0dc8::1 with 32 bytes of data:
Reply from 2001:0dc8::1: bytes=32 time<1ms
Reply from 2001:0dc8::1: bytes=32 time<1ms
Reply from 2001:0dc8::1: bytes=32 time<1ms
Reply from 2001:0dc8::1: bytes=32 time<1ms
Ping statistics for 2001:0dc8::1:
Packets: Sent = 4, Received = 4, Lost = 0 (0% loss),
Approximate round trip times in milli-seconds:
Minimum = 0ms, Maximum = 0ms, Average = 0ms
D:\Documents and Settings\Administrator>ping6 2001:0dc8::2
Pinging 2001:0dc8::2
from 2001:0dc8::2 with 32 bytes of data:
Reply from 2001:0dc8::2: bytes=32 time<1ms
Reply from 2001:0dc8::2: bytes=32 time<1ms
Reply from 2001:0dc8::2: bytes=32 time<1ms
Reply from 2001:0dc8::2: bytes=32 time<1ms

Ping statistics for 2001:0dc8::2:


Packets: Sent = 4, Received = 4, Lost = 0 (0% loss),
Approximate round trip times in milli-seconds:
Minimum = 0ms, Maximum = 0ms, Average = 0ms

D:\Documents and Settings\Administrator>ping6 2001:0dc8::3

Pinging 2001:0dc8::3
from 2001:0dc8::2 with 32 bytes of data:

Reply from 2001:0dc8::3: bytes=32 time<1ms


Reply from 2001:0dc8::3: bytes=32 time<1ms
Reply from 2001:0dc8::3: bytes=32 time<1ms
Reply from 2001:0dc8::3: bytes=32 time<1ms

Ping statistics for 2001:0dc8::3:


Packets: Sent = 4, Received = 4, Lost = 0 (0% loss),
Approximate round trip times in milli-seconds:
Minimum = 0ms, Maximum = 0ms, Average = 0ms

D:\Documents and Settings\Administrator>ping6 2001:0dc8::4

Pinging 2001:0dc8::4
from 2001:0dc8::4 with 32 bytes of data:

Reply from 2001:0dc8::4: bytes=32 time<1ms


Reply from 2001:0dc8::4: bytes=32 time<1ms
Reply from 2001:0dc8::4: bytes=32 time<1ms
Reply from 2001:0dc8::4: bytes=32 time<1ms

Ping statistics for 2001:0dc8::4:


Packets: Sent = 4, Received = 4, Lost = 0 (0% loss),
Approximate round trip times in milli-seconds:
Minimum = 0ms, Maximum = 0ms, Average = 0ms

You might also like