You are on page 1of 4

Bài chín mươi hai.

Bàn về dương nhẫn.


DƯƠNG NHẪN LÀ GÌ?
Dương là dương trong âm dương, nhẫn nghĩa là lưỡi dao, dương nhẫn ở trước (theo thời gian,
hoặc địa lý) phương vị lộc một vị trí. Ví dụ như Giáp lộc tại Dần, phía trước một vị trí là Mão, Mão là
dương nhẫn. Do nó đã vượt quá lộc thần, nên là nguy hiểm. Người sinh ngày Giáp gặp Mão, trong
Mão là Ất, Ất là em gái của Giáp, có thể tranh cướp tiền tài của anh trai. Mão và Dậu tương xung,
loại bỏ Tân kim trong Dậu, Ất mộc trong Mão lại cùng với Canh kết hợp thành vợ chồng, Canh kim
chính là thất sát của Giáp mộc. Như vậy, Kiếp tài, xung quan, hợp sát, đều xuất hiện là mệnh cách
hung ác nhất.
Chỉ có 5 can dương là Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm, có dương nhẫn. 5 can âm là Ất, Đinh, Kỉ, Tân,
Quý không gọi là dương nhẫn, không có dương nhẫn. Đối với 5 can âm, gặp thương quan cũng họa
hại giống như can dương gặp dương nhẫn, nên một số người hay gọi thương quan là nhẫn.
Thương quan của Ất mộc là Bính hỏa, lại tương hợp với sát tinh của Ất mộc là Tân kim, để khắc
chế Ất mộc, nên thương quang Bính lại hay gọi là Nhẫn. Âm kim khắc Âm mộc là độc nhất, nên
mức độ hung của nó cũng giống như dương nhẫn đối với các can dương. Dương nhẫn có 3 loại,
loại thứ nhất là kiếp tài nhẫn như sinh ngày Giáp gặp Ất (Ất có trong Mão nên cũng gần như gặp
Mão), loại này không có lợi với cách cục tài, quan (tức bị tranh giành). Loại thứ hai là hộ lộc nhẫn, ví
dụ như sinh ngày Giáp gặp Mão. Loại này có lợi cho cách cục Quy lộc. Loại thứ ba là bội lộc nhẫn,
ví dụ như sinh ngày Ất gặp Bính (tức thương quan), loại này có lợi cho cách cục bỏ quan giữ sát.
"Hỷ kị thiên" viết rằng: Kiếp tài dương nhẫn, kị gặp trong trụ giờ. Nếu lưu niên hành vận đồng thời
gặp nó, tai họa có thể lập tức tới. Chỉ xét dương nhẫn ở tại trụ giờ, đồng thời xuất hiện tại năm,
tháng, ngày. Nếu người sinh ngày Giáp có trụ giờ gặp Ất mão, là chân dương nhẫn. Nếu trong
mệnh gặp dương nhẫn, sẽ khắc hại vợ, phá tài sản. Nếu lưu niên và vận năm tới gọi là cùng tới.
Gặp Tỵ, Dậu gọi là xung với Thái tuế, gặp Hợi, Mùi, Tuất là tương hợp với Thái tuế. Dương nhẫn là
hung sát, Thái tuế là hung thần. Nếu Thái tuế được cát thần tương trợ, tương hợp là cát. Nếu hung
sát dương nhẫn tới xung, hoặc tương hợp gọi là hung sát hội tụ, khó tránh khỏi tai họa.
XUNG HỢP CỦA DƯƠNG NHẪN.
"Kinh" viết rằng: Dương nhẫn xung hợp Thái tuế, tai họa đột ngột đến. Câu này chỉ sự suy đoán về
xung hợp của dương nhẫn, nhưng cần phân tích chi tiết, mấu chốt vấn đề là ở sự cân bằng ngũ
hành trong tứ trụ và nhật can thế nào? Ngoài ra nếu gặp được các cát tinh thiên đức, nguyệt đức
(tức Thái tuế, hoặc tứ trụ có các cát tinh này đến hợp Thái tuế), là có cứu giải, chỉ là tai họa nhẹ,
hạn nhẹ. Có người nói rằng: Trong tứ trụ vốn có dương nhẫn, gặp xung hoặc hợp, vận của năm lại
gặp xung hợp là đại hung. Nếu lưu niên xung hợp mà hành vận không xung hợp, hoặc hành vận
xung hợp mà lưu niên không xung hợp thì suy đoán là tai họa giảm đi một nửa, nhẹ đi nhiều.
Trong kinh văn còn nói, can của trụ ngày không có khí, trụ giờ gặp dương nhẫn không chủ hung,
thậm chí là may mắn. Nghĩa là khi thiên can của trụ ngày ở trạng thái tử tuyệt, mộ, bệnh và ở
phương vị bạo bại, khí của trụ tháng lại không thông, là thân yếu không kham nổi tài quan. Nếu gặp
dương nhẫn là có thể phân chia tài thần, hợp hóa sát tinh, giống như anh trai yếu ớt mà có nhiều tài
sản, được em trai phân chia, tức là có thể dùng tài đó, khiến chúng mang lại lợi ích cho ta, do đó
không thể coi là hung. Trụ ngày, thân yếu gặp tài quan đương nhiên cần dương nhẫn giúp phân tài,
hợp sát. Nếu gặp thực thần, thương quan, thân yếu không có khí cũng thích được dương nhẫn trợ
giúp. Nếu Ấn thụ sinh trợ trụ ngày, không phải là can của trụ ngày không có khí nữa. Thân thể khỏe
mạnh, đủ sức lực để gánh tài quan, đương nhiên kị bị dương nhẫn cướp đoạt. Thân yếu không đủ
sức đảm nhận tài, mới thích gặp dương nhẫn, không kị bị cướp đoạt.
HỢP KỊ CỦA DƯƠNG NHẪN CÁCH.
Dương nhẫn cách và thương quan cách giống nhau. Thông thường, người nhập cách cục dương
nhẫn có mắt to, râu vàng, tính tình mạnh mẽ, chí khí rất lớn, không có lòng nhân từ trắc ẩn, phần
lớn đối xử lạnh lùng, vô tình với người khác, dễ mắc bệnh thần kinh, tham lam, đa nghi, thiếu quyết
đoán, sinh ra trong các gia đình thường dân, khắc hại cha mẹ, hoặc gặp tam hình, tự hình, đều
thành đạt ở nơi biên cương. Nếu vô tình gặp nơi tài vượng, chủ về hung. Nếu có đủ tam hình, lục
hại, và trụ ngày có dương nhẫn, đắc địa, lại có chi cứu giúp thì là mệnh vô cùng quý.
Trong kinh văn nói rằng: Dương nhẫn cách đều không nên hành vận tài, sợ bị xung. Ví dụ, người
sinh ngày Mậu có dương nhẫn tại Ngọ, mà Tý Ngọ tương xung, nên kị hành vận ở phương vị Tý là
chính tài. Các trường hợp khác cũng suy đoán tương tự như vậy. Ví dụ, người sinh ngày Nhâm có
dương nhẫn tại Tý, kị hành vận tài Ngọ là chính tài, người sinh ngày Canh có dương nhẫn tại Dậu,
kị hành vận Mão là phương vị của chính tài. Nhưng những người sinh các ngày khác lại có thể
không kị tài, như sinh ngày Giáp, nhẫn ở Mão nên kị hành vận Dậu, vì Dậu là Quan, nên các
phương vị khác là tài như thìn tuất sửu mùi, tỵ ngọ không kị. Sinh ngày Bính kị tý vận, và Tý không
phải là tài do vậy các trường hợp này không kị hành vận tài, mà tài sinh quan, hành vận tài sẽ may
mắn chứ không nhất định cứ có dương nhẫn, do sợ kiếp tài nên không thể hành vận tài.
"TÂM KÍNH" BÀN VỀ DƯƠNG NHẪN.
"Tâm kính" viết rằng: Trong mệnh có nhiều dương nhẫn, lại gặp tài, là mệnh phú quý và có nhiều
vàng bạc. Có người nói rằng: Người sinh ngày Giáp Mậu Canh gặp dương nhẫn và gặp xung sẽ
gặp tai họa nguy hiểm (câu này đúng, trong thực tế là các tai nạn liên quan trực tiếp đến thân thể
như thương tích, tàn tật, thậm chí mất mạng, bạn đọc quan tâm hãy sưu tầm tứ trụ của những
người bị tai nạn giao thông, ngã, bỏng... thì sẽ thấy). Còn người sinh ngày Nhâm, Bính gặp dương
nhẫn và có Tý Ngọ xung phần lớn là không gặp tai họa. Bởi vì Bính hỏa gặp Quý thủy trong Tý,
Nhâm thủy gặp Kỉ thổ trong Ngọ, đều là gặp chính quan, nên coi là khí quý.
Còn viết: Giáp mộc coi Kỉ thổ là tài, trong tứ trụ có Mão, Ất là kiếp tài dương nhẫn, Kỉ thổ bị thương
không thể trợ giúp Giáp mộc nên mệnh chủ sẽ phải chịu tang vợ. Nếu lưu niên và hành vận lại gặp
Mão, Ất, là kiếp tài dương nhẫn thịnh vượng, khó tránh khỏi gặp tai họa. Nếu trong các trụ khác có
Canh, Tân, Thân, Dậu, thì Canh kim có thể lấy Ất mộc làm vợ, trở thành người một nhà, không còn
là thất sát của Giáp mộc nữa, Tân kim trợ giúp Giáp là quý, có thể khắc Ất sát, hung lại thành cát.
Trong "Kinh" viết: Giáp cho em gái Ất làm vợ Canh, hung lại thành cát, chính là nói đến đạo lý này.
Những thiên can khác cũng có thể suy đoán tương tự như vậy. Còn viết: Sinh ngày Giáp gặp Ất
mão là hung, gặp Tân mão cát. Sinh ngày Giáp thân gặp Đinh mão không thể coi là dương nhẫn,
bởi Canh kim trong Thân có thể kết hợp với Ất mộc trong Mão thành tài, nhưng nếu lại có thêm tài
tinh xuất hiện thì càng hung hơn. Đinh hỏa có thể làm tổn hại quan tinh của Giáp mộc, Ất mộc tranh
cướp tài của Giáp mộc. Nếu lưu niên và hành vận đều gặp Đinh hỏa và Ất mộc thì khó tránh khỏi
gặp tai họa. Có một số trụ ngày tuy gặp thần ở trước phương vị lộc một chi nhưng không được coi
là dương nhẫn. Ví dụ, người sinh ngày Ất dậu gặp giờ Canh thìn, người sinh ngày Bính tý gặp giờ
Giáp ngọ, người sinh ngày Đinh hợi gặp giờ Đinh mùi, sinh ngày Canh ngọ gặp giờ Ất dậu, sinh
ngày Quý tỵ gặp giờ Quý sửu đều thuộc trường hợp này, chỉ cần không gặp hình xung, phá hại, đều
là mệnh tốt.
DƯƠNG NHẪN LÀ HUNG TINH.
Còn viết: Dương nhẫn là hung tinh trên trời, ác sát trong nhân gian, thích thiên quan, ấn thụ, kị phản
ngâm, phục ngâm, khôi cang, tam hợp. Đại để là giống với thất sát, nên dương nhẫn thích gặp thất
sát, hai hung tinh khắc chế lẫn nhau. Giống như chính quan thích chính ấn, thiên đi với thiện là
phúc.
"Kinh" viết rằng: Thất sát không có dương nhẫn không xuất hiện, dương nhẫn không có thất sát
không có uy. Nếu trong tứ trụ có đủ thất sát và dương nhẫn, mệnh chủ không phải người bình
thường. Nếu thân vượng và không gặp thương quan sẽ là mệnh tốt. Nếu trong mệnh có thất sát và
dương nhẫn, lưu niên và hành vận lại gặp chúng, hoặc trong tứ trụ có dương nhẫn mà không có
thất sát, vận của năm tới phương sát, đều có thể phát phúc lớn. Nếu trong mệnh có dương nhẫn, có
ấn thụ, mà không có thất sát, lưu niên gặp thất sát lại thành có phúc dày. Nếu trong tứ trụ không có
dương nhẫn và thất sát, mệnh hợp cách cục tài quan, và lưu niên lại gặp dương nhẫn, thất sát trong
năm đó, mệnh chủ làm mọi việc đều không thuận lợi, vì của cải mà dẫn tới tranh đoạt, anh em bất
hòa, thê thiếp ly tán. Nếu trong tứ trụ vốn không có dương nhẫn, tuy hành nhẫn vận không sao,
nhưng sẽ khắc vợ, hại vợ. Nếu trong tứ trụ vốn có dương nhẫn, lưu niên không thể lại gặp dương
nhẫn hoặc tới phương thương quan, tài tinh. Nếu trong mệnh vốn có thương quan, tài tinh mà lưu
niên lại gặp chúng, tai họa vô cùng nghiêm trong, thân yếu là vô cùng nguy hiểm. Còn viết: Dương
nhẫn ở trụ ngày, chỉ có 3 ngày là Mậu ngọ, Bính ngọ, Nhâm tý, phương pháp suy đoán giống với
dương nhẫn. "Kinh" viết rằng: Xích hoàng là ngủ một mình, mệnh nam hại vợ, mệnh nữ hại chồng,
là chỉ 3 ngày đó. Không thích hình xung, phá hại, tam hợp, lục hợp, cần có thất sát khắc chế lẫn
nhau, lại hành vận ở quan ấn, trở thành mệnh tốt.
TÍNH CHẤT CỦA DƯƠNG NHẪN TRONG ẤN THỤ.
"Phú" viết rằng: Ngày nhẫn đại kị xung hợp, thích quan và sát khắc chế lẫn nhau. Mệnh có hình hợp
chủ hung, gặp ấn chủ cát. Mệnh có ấn mà không có dương nhẫn, là có dũng mà không có uy. Mệnh
có dương nhẫn mà không có sát, làm việc xấu xa mà không được hiển đạt. Trong mệnh có thất sát
mà gặp vận thất sát, tai họa cùng tới. Trong mệnh có dương nhẫn, và hành vận gặp dương nhẫn
cần phải kị phạm vào tai ách. Tài vương, quan, thương, năm đó không được coi là hung. Còn viết:
Sinh ngày Mậu ngọ, trụ năm và trụ tháng gặp nhiều hỏa, luận là ấn thụ. Sinh ngày Nhâm tý, trụ
tháng và trụ giờ gặp nhiều Tý là cách cục Phi thiên lộc mã. Sinh ngày Bính ngọ gặp nhiều Ngọ cũng
là cách cục Đảo xung lộc mã. Hơn nữa, bản thân dương nhẫn có 3 ngày: Quý sửu, Đinh mùi, Kỉ
mùi, nên tọa tại phương vị của tỷ kiên, dương nhẫn. Phi nhẫn có 4 ngày: Bính tý, Đinh sửu, Mậu tý,
Kỉ sửu, tọa tại phương vị xung ra dương nhẫn, có hợp kị tương tự với trường hợp sinh ngày Nhẫn
nói trên (Giải thích: Chữ Tý xung Ngọ, Ngọ là dương nhẫn nên bảo rằng ngày Bính tý có thể xung ra
dương nhẫn, nếu trong mệnh có nhiều chữ Tý, khi ấy tính chất của mệnh chủ cũng giống người có
mang dương nhẫn thật).
Dương nhẫn ở trụ năm quan trọng hơn dương nhẫn ở trụ giờ. Dương nhẫn trụ năm chủ về phá bại
gia nghiệp tổ tiên, không được hưởng sản nghiệp của cha mẹ, bình sinh làm ơn mà mắc oán.
Dương nhẫn tại trụ giờ chủ về khắc vợ, lớn tuổi không kết hôn. Nếu trong tứ trụ lại gặp nó nữa thì
anh em gặp tai họa, bệnh tật. Dương nhẫn tại trụ tháng không có vai trò lớn, tại trụ ngày vai trò còn
kém nữa.
Người có can chi của trụ tháng và trụ ngày mang nhiều tài, can của trụ ngày suy yếu, trụ giờ mang
dương nhẫn thì vô hại. Trụ tháng mang thất sát, trụ giờ mang dương nhẫn, trụ ngày có khí, là mệnh
đại quý. Nếu trụ tháng mang dương nhẫn, trụ giờ mang một chút quan tinh, sức mạnh không thể
khắc chế cũng chủ hung. Còn viết: Mệnh nam gặp kiếp tài ở phương vị bại, lại gặp thương quan chủ
về khắc vợ, mệnh nữ khắc chồng.
"Phú" viết rằng: Kiếp tài ở cung bại là tỷ kiên, là thần cướp đoạt. Tài tinh nhiều mà thân yếu gặp nó
là mệnh tốt. Tài yếu thân vượng mà gặp nó là tai họa. Vận hành ở phương tài là tự có thể lập
nghiệp. Không có tài tinh mà gặp kiếp tài, dù lưu niên không gặp tài cũng cần có xung tài mới tốt,
không có kiếp tài lại gặp kiếp tài là mệnh cả đời nghèo khó, thê thảm (giải thích: vốn dĩ không có
kiếp tài, thân đã mạnh rồi, nay mạnh thêm nữa, khắc tài đương nhiên không có tiền, phải nghèo).
CỔ THƯ BÀN VỀ DƯƠNG NHẪN.
"Tướng tâm phú" viết rằng: Trong mệnh có kiếp tài, dương nhẫn, chủ về lập gia đình xa quê hương,
vẻ bề ngoài khiêm tốn, nhân nghĩa, mà tâm địa độc ác, đối xử với người khác lạnh lùng, vô tình,
không có lòng nhân từ.
"Tâm kính" viết rằng: Trong mệnh có nhiều dương nhẫn lại gặp thất sát là mệnh đại quý, sẽ thi đỗ
trạng nguyên.
"Thiên lý mã" viết rằng: Dương nhẫn, thiên quan có khắc chế, mệnh chủ được làm quan, thanh
danh vang xa. Còn viết: Dương nhẫn nhập quan, sát, mệnh chủ uy chấn biên cương.
"Ngọc hạp phú" viết rằng: Hỏa, kim dương nhẫn, là mệnh cục của Lục châu nhảy lầu tự tử. Còn viết:
Trong mệnh có ba, bốn dương nhẫn, sẽ mắc bệnh mù, câm.
"Bảo giám phú" viết rằng: Sinh vào tháng dương và có nhiều dương nhẫn, công thành danh toại.
"Mật quyết" viết rằng: Mệnh có nhiều dương nhẫn, và có khắc chế, mệnh chủ cả đời phú quý và
được chết an lành. Còn viết: Trong mệnh đồng thời có dương nhẫn và ấn thụ, mệnh chủ có tài năng
bày mưu kế như Liêm pha. Còn viết: Giờ và trụ tháng có cùng chi là dương nhẫn, can là quan, gặp
quan nhất định sẽ hiển đạt. Ví dụ như người sinh ngày Giáp gặp Tân mão.
"Cổ ca" viết rằng: Dương nhẫn ở trụ giờ không coi là hung, thân nhẹ lại thành ra có trợ giúp thành
trung hòa. Chỉ kị trụ năm và trụ tháng cùng gặp dương nhẫn, coi trụ giờ là cung phẫn nộ.
Còn viết: Dương nhẫn ghét xung hợp, Thái tuế, lưu niên gặp nó, mệnh chủ gặp khó khăn, tai họa.
Nếu cùng gặp tam hình, thất sát sẽ nhất định bị Diêm vương triệu tập.
Còn viết: Trụ giờ gặp dương nhẫn thích thiên quan, nếu gặp tài tinh thì tai họa không ngớt. Lưu niên
gặp tương xung và tương hợp, đột nhiên tai họa đến. Còn viết: Mệnh có nhiều dương nhẫn nên có
thương quan, mệnh chủ tính khí mạnh mẽ. Hình xung quá nặng phần lớn sẽ gặp hung họa, có khắc
chế mới bảo toàn cát lợi. Còn viết: Dương nhẫn gặp thất sát thích phương vị quan, chỉ sợ gặp hình
xung. Nếu gặp lộc không thịnh. Gặp hợp lại hành vận ở phương tài vượng, đề phòng gặp tai họa.
Còn viết: Tỷ kiên, dương nhẫn là cách cục phi thường, cần gặp quan tinh và hành vận thất sát. Nếu
nguyên thần không có quan, sát khắc chế, lại hành vận tỷ kiếp, kiếp tài, tai họa khó mà chống đỡ.
Còn viết: Kiếp tài làm tổn thương nhẫn nên tránh gặp phải, tứ trụ không có tài cả đời nghèo túng,
phải rời xa gia đình làm kẻ xuất gia, nếu không sẽ bị tàn tật, hoặc bản thân cũng chịu tổn thương.
Còn viết: Can của trụ ngày gặp vượng ở trụ tháng, trụ năm, thân vượng, chuyên lộc và tài, quan ở
phương vị tuyệt. Như vậy không nên lại gặp dương nhẫn và kiếp tài, cho dù có đẹp đẽ đến đâu
cũng trở thành hung hại.
Còn viết: Can của trụ ngày vượng nhờ có trợ giúp, lại thích vận năm gặp phương tài. Nguyên mệnh
có tài thì gặp tài sẽ phát, không có tài mà gặp tài sẽ đoản mệnh. Còn viết: Tài tinh ít, yếu ớt còn
dương nhẫn mạnh, hành vận ở phương thân vượng rất không cát lợi. Mệnh chủ phải sống cô độc,
lạnh lẽo một mình, khắc vợ đến hai, ba lần. Còn viết: Khí thần vượng, và can trụ ngày lớn mạnh, tứ
trụ không có tài và bị khắc thương. Đồng thời phạm vào phương vị của không vong, hoa cái, mặc áo
bào đen, đội mũ bái Hư hoàng (tức làm đạo sĩ)
Trong trụ ngày có dương nhẫn thích gặp thất sát, vận hành tới phương tài sẽ mất quý. Có đủ hình
thương là phương vị cát, tài thần gặp hợp là năm tai họa
Còn viết: Dương nhẫn gặp thất sát, vận hành ở phương quan sẽ bị phá hại, hình xung là mệnh quý
một cách khác thường. Kị gặp phương vị tài vượng, sẽ gặp tai họa và chịu tội hình, bị thương.
.... Vân vân
Hết bài chín mươi hai

You might also like