Professional Documents
Culture Documents
Tham Khao Khang Oxi Hoa PDF
Tham Khao Khang Oxi Hoa PDF
Một chất được coi là có khả năng kháng oxy hóa khi nó là một phân tử đủ bền và có
khả năng cho một điện tử đến gốc tự do và trung hòa nó, từ đó, loại trừ khả năng gây hại
của nó. Các chất kháng oxy hóa làm chậm hoặc ngăn chặn các tổn hại của tế bào chủ yếu
nhờ đặc tính bắt gốc tự do [34]. Các chất kháng oxy hóa thường có phân tử lượng nhỏ, có
thể tương tác một cách an toàn với các gốc tự do và kết thúc chuỗi phản ứng trước khi
chúng làm hại các đại phân tử sinh học. Cơ thể tồn có khả năng sinh ra một số chất kháng
oxy hóa quan trọng như glutathione, ubiquinol và acid uric; chúng được sinh ra trong quá
trình biến dưỡng bình thường của cơ thể [65]. Một số chất kháng oxy hóa khác yếu hơn có
sẵn trong thức ăn. Mặc dù có nhiều hệ enzyme trong cơ thể có thể bắt gốc tự do, nhưng các
chất dinh dưỡng vi lượng (vitamins) có hoạt tính kháng oxy hóa là vitamin E (α-
tocopherol), vitamin C (ascorbic acid), và β-carotene vẫn rất cần thiết cho cơ thể [47]. Cơ
thể chúng ta không thể sản xuất ra các yếu tố vi lượng này, mà phải lấy từ thức ăn.
Các chất kháng oxy hóa hoạt động như những yếu tố bắt gốc tự do, cho hydrogen,
cho điện tử, phân hủy peroxide, dập tắt các oxy nguyên tử, ức chế enzyme, chất hỗ trợ, yếu
tố bắt kim loại. Cả các những chất kháng oxy hóa theo cách có hoặc không có sự xúc tác
của enzyme đều tồn tại trong tế bào và ngoài tế bào để khử ROS [30].
Có hai cơ chế chính về tác động của chất kháng oxy hóa đã được đề nghị [61]: (1)
Làm gián đoạn chuỗi phản ứng của gốc tự do bằng cách cho điện tử vào gốc tự do trong hệ
thống phản ứng để trung hòa chúng. (2) Sự loại bỏ các yếu tố kích hoạt ROS/RNS bằng
cách ngăn chặn sự khởi động chuỗi phản ứng của các gốc tự do. Các chất kháng oxy hóa
có thể tạo ra tác động lên hệ thống sinh học bằng nhiều cơ chế khác nhau, như sự cho điện
tử, bắt kẹp ion kim loại, nhờ các chất đồng kháng oxy hóa, hoặc bởi sự điều hòa biểu hiện
gen [45].
1.1.2.3. Các cấp độ kháng oxy hóa
Chất kháng oxy hóa trong các hệ thống phòng vệ của cơ thể hoạt động ở nhiều cấp
độ khác nhau, từ phòng ngừa, tiêu diệt gốc tự do, sửa chữa lại và cuối cùng là sự thích
nghi.
Các chất kháng oxy hóa ở cấp độ này có tác dụng ngăn cản sự hình thành gốc tự do.
Mặc dù cơ chế chính xác và vị trí hình thành gốc tự do in-vivo còn chưa biết được thấu
đáo, nhưng quá trình phân hủy các hydroperoxide và hydrogen peroxide được cảm ứng bởi
kim loại có thể là một trong những nguồn chính sinh ra gốc tự do. Để ngăn chặn những
phản ứng này, một số chất kháng oxy hóa khử các hydroperoxide và hydrogen peroxide
thành nước và các alcol trước khi chúng gây hại, do đó không tạo ra được gốc tự do và một
số ion kim loại tự do.
Các chất kháng oxy hóa bắt và tiêu diệt các gốc tự do để chặn sự khởi đầu và/hoặc
làm gián đoạn sự lan truyền các chuỗi phản ứng của chúng. Nhiều chất kháng oxy hóa có
khả năng bắt gốc tự do nội sinh, trong đó một số ưa nước như: Vitamin C, acid uric,
bilirubin, albumin và các thiol; một số ưa lipid như: vitamin E, ubiquinol. Trong nhóm ưa
lipid, vitamin E được coi là chất kháng oxy hóa tốt hơn cả.
Các enzyme thủy giải protein, các proteinase, các protease và các peptidase, hiện diện
trong cytosol và ti thể của tế bào động vật, nhận dạng, làm suy giảm, và loại bỏ các proteins
đã bị oxy hóa, ngăn chặn sự tích tụ của chúng trong tế bào.
Các hệ thống sửa chữa DNA cũng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống
phòng vệ chung của tế bào chống lại sự tổn hại do oxy hóa. Nhiều loại enzyme như các
glycosylase và các nuclease sửa chữa DNA, đã được biết đến.
Một chức năng quan trọng khác được gọi là sự thích nghi, sự sản sinh và các phản
ứng của gốc tự do cũng là tín hiệu cảm ứng cho sự hình thành và vận chuyển các chất
kháng oxy hóa tương ứng đến đúng ngay vị trí tế bào cần [57].
Tế bào được bảo vệ khỏi stress oxy hóa bằng một mạng lưới bảo vệ, gồm rất nhiều
các enzyme có hoạt tính kháng oxy hóa [67]. Superoxide được phóng thích từ các quá trình
như phosphorin hóa oxy hóa, đầu tiên được chuyển thành hydrogen peroxide và sau đó
được khử thành nước. Quá trình này có sự tham gia của nhiều enzyme khác nhau, các
superoxide dismutase xúc tác bước đầu tiên và sau đó các catalase và một số peroxidase
khác loại bỏ hydrogen peroxide [40].
Các SOD là một họ các enzyme có quan hệ gần gũi với nhau, xúc tác cho quá trình
bẻ gãy anion superoxide thành oxygen và hydrogen peroxide [12], [83]. Các enzyme SOD
hiện diện hầu hết trong các tế bào hiếu khí và trong dịch ngoại bào [42]. SOD có ba họ lớn
được phân loại theo kim loại làm cofactor, đó là: Họ Cu/Zn (gắn với cả Cu và Zn); họ Fe
và Mn (gắn với Fe hoặc Mn); và cuối cùng là họ Ni (gắn với Ni) [81]. Ở thực vật bậc cao,
người ta đã phân lập được các isozymes của SOD ở nhiều ngăn khác nhau của tế bào: Mn-
SOD ở ti thể và các peroxisome; Fe-SOD thấy có mặt chủ yếu ở lục lạp nhưng cũng thấy
ở các peroxisome; và CuZn-SOD thấy ở cytosol, lục lạp, peroxisome và apoplast [21], [22],
[81].
Ở người (kể cả động vật hữu nhũ và hầu hết đông vật có xương sống), đều có sự hiện
diện của tất cả các họ SOD kể trên. SOD1 hiện diện trong tế bào chất, SOD2 trong ti thể,
và SOD3 ở dịch ngoại bào. SOD1 là một dimer (gồm 2 tiểu đơn vị), hai nhóm còn lại là
tetramer (gồm 4 tiểu đơn vị). SOD1 và SOD3 chứa đồng và kẽm, SOD2 chứa mangan
trong trung tâm phản ứng [18].
Catalase
Catalase là một enzyme thường thấy ở hầu hết tất cả sinh vật sống có tiếp xúc với
oxy. Nó xúc tác cho quá trình phân hủy hydrogen peroxide thành nước và oxygen [19].
Hydrogen peroxide là một sản phẩm độc hại, được sinh ra từ nhiều quá trình biến dưỡng
bình thường. Để tránh khỏi sự tổn thương do nó, chắc hẳn tế bào phải có cơ chế để chuyển
hóa nó thành thứ khác ít độc hơn. Vào giai đoạn cuối của quá trình đó, catalase được tế bào
dùng để xúc tác nhanh chóng sự phân rã hydrogen peroxide thành nước và một khí phản
ứng kém hơn đó là oxygen [31]. Tất cả các loài động vật, kể cả con người, đều dùng catalase
trong mỗi cơ quan, đặc biệt ở gan, enzyme này có nồng độ rất cao [24].
Ascorbic acid
Ascrobic acid (hay vitamin C) là một dẫn xuất 6 carbon của glucose có hoạt tính
kháng oxy hóa, hiện diện ở cả động vật và thực vật. Con người không thể tự tổng hợp được
chất này mà phải lấy từ thực phẩm [68]. Phần lớn động vật có thể tự tổng hợp được vitamin
C trong cơ thể chúng và không cần lấy thêm từ thức ăn. Trong tế bào, hợp chất này tồn tại
ở dạng khử nhờ phản ứng với glutathione dưới sự xúc tác của enzyme disulfide isomerase
và các glutaredoxin [53]. Vitamin C là một tác nhân khử, có thể khử và trung hòa ROS như
hydrogen peroxide [58]. Ngoài khả năng kháng oxy hóa, Vitamin C còn là cơ chất cho
enzyme kháng oxy hóa ascorbate peroxidase, điều này rất quan trọng trong việc kháng
stress ở thực vật [66].
Hình Error! No text of specified style in document..1 Cấu trúc phân tử acid L-ascorbic
Glutathione
GSH là một peptide có chứa cysteine, tìm thấy ở hầu hết các sinh vật hiếu khí [54].
Nó có thể được tổng hợp trong tế bào từ những amio acid mà không cần phải lấy từ thức
ăn. GSH có các đặc tính kháng oxy hóa nhờ nhóm thiol của cysteine hoạt động như một
tác nhân khử và có thể biến đổi qua lại ở 2 trạng thái: oxy hóa và khử. Trong tế bào, GSH
tồn tại ở dạng khử nhờ glutathion reductase, và được dùng để khử các hợp chất biến dưỡng
và các hệ enzyme, cũng như có thể phản ứng trực tiếp với các tác nhân oxy hóa [52]. Do
nó tồn tại ở nồng độ cao và nó đóng vai trò trung tâm trong duy trì trạng thái oxy hóa –
khử trong tế bào, GSH là một trong những yếu tố kháng oxy hóa quan trọng nhất [51].
Trong một số sinh vật, GSH được thay thế bởi các thiol khác, như mycothiol ở
Actinomycetes, hoặc trypanothione ở Kinetoplastids [28].
Hình Error! No text of specified style in document..2 Cấu trúc phân tử Glutathione
Melatonin
Về mặt hóa học, melatonin là N-acetyl-5-methoxytryptamine, là một hormone tự
nhiên, thấy ở động vật và một vài sinh vật khác, trong đó có tảo [16]. Melatonin là một
chất kháng oxy hóa rất mạnh, có thể dễ dàng đi qua màng tế bào và hàng rào máu não
(BBB: blood-brain barrier) [60]. Khác với các chất kháng oxy hóa khác, melatonin không
trải qua chu trình oxy hóa – khử để tạo ra khả năng khử và oxy hóa một cách đan xen lẫn
nhau. Melatonin một khi đã bị oxy hóa thì sẽ không được khử về trạng thái ban đầu nữa vì
nó tạo ra một số sản phẩm cuối rất bền khi phản ứng với gốc tự do. Do vậy, nó được xem
như là chất kháng oxy hóa kết thúc (cảm tử) [72].
Hình Error! No text of specified style in document..3 Cấu trúc phân tử melatonin
Vitamin E là tên gọi chung cho một họ gồm 8 tocopherol và tocotrienol, tan trong
dầu và có đặc tính kháng oxy hóa [39]. Trong họ này, α-tocopherol được nghiên cứu kỹ
nhất vì nó có tính sinh khả dụng (BA: bioavailability) cao nhất, và được cơ thể ưu tiên hấp
thu và chuyển hóa dạng này [15]. α-tocopherol là dạng có tính tan tốt nhất trong lipid, và
nó bảo vệ các màng khỏi sự oxy hóa do các gốc tự do sinh ra trong phản ứng chuỗi peroxid
hóa lipid [73]. Nó loại bỏ các dạng trung gian của gốc tự do và ngăn ngừa các phản ứng
tiếp diễn. Qua đó, nó biến thành dạng gốc oxy hóa α-tocopheryl rồi tái sinh lại dạng khử
ban đầu nhờ sự khử của các chất kháng oxy hóa khác như ascorbate, retinol hoặc ubiquinol
[78].
Hình Error! No text of specified style in document..4 Cấu trúc phân tử α-tocopherol
Acid uric
Acid uric chịu trách nhiệm cho gần một nửa khả năng kháng oxy hóa của huyết tương.
Trên thực tế, acid uric rất có thể đã thay thế cho ascorbate trong quá trình tiến hóa ở người
[41]. Tuy nhiên, giống như ascorbate, acid uric cũng có thể là trung gian trong việc tạo ra
các ROS.
Hình Error! No text of specified style in document..5 Cấu trúc phân tử acid uric
Hợp chất phenol (phenolic compounds) bao gồm một họ các hợp chất có nhóm
hydroxyl gắn trực tiếp trên nhân thơm, trong đó hợp chất đơn giản nhất là phenol
(C6H5OH). Nếu dựa vào số đơn vị phenol trong phân tử thì hợp chất phenol được chia
thành hai nhóm chính, các phenol đơn giản, và polyphenol. Trong nhóm polyphenol có
một nhóm rất lớn các hợp chất được nghiên cứu rất nhiều về cấu trúc và hoạt tính sinh học
của chúng đó là flavonoid. Trong tự nhiên, hợp chất phenol hiện diện ở hầu hết các sinh
vật, từ vi sinh vật, thực vật đến động vật; nhưng chủ yếu được nghiên cứu nhiều các hợp
chất có hoạt tính sinh học ở thực vật, đặc biệt về hoạt tính kháng oxy hóa trong nhóm
flavonoid [6].
Flavonoid là nhóm lớn nhất của hợp chất phenol và hầu hết đều có màu. Hơn một nửa
rau củ quả đều chứa flavonoid. Hiện nay có khoảng hơn 4000 hợp chất đã được xác định
cấu trúc, chiếm khoảng một nửa trong tổng số các hợp chất phenol. Flavonoid có cấu trúc
mạch carbon cơ bản là C6 – C3 – C6, trong đó, gốc C6 (B) – C3 có nguồn gốc từ con đường
shikimic; C6(A) còn lại có nguồn gốc từ sự hợp lại của 3 phân tử acid acetic [7].
C B
A
C
C
Hình Error! No text of specified style in document..6 Khung carbon cấu trúc chung của
flavonoid [33]
Các dẫn chất flavonoid có hoạt tính dập tắt các gốc tự do ROS, RNS, tiêu biểu như
HOO, ROO, NO. Flavonoid có thể tạo được phức với các ion kim loại mà chính các ion
kim loại này là xúc tác của nhiều phản ứng oxy hoá; bảo vệ tế bào và thể ngăn ngừa các
nguy cơ như xơ vữa động mạch, tai biến mạch, lão hoá , tổn thương do bức xạ, thoái hoá
gan; kháng viêm bằng cách ức chế con đường tổng hợp prostaglandin; điều hòa nhịp tim
và tăng tuần hoàn máu; chống lão suy, rối loạn trí nhớ, mất tập trung. Một số tài liệu gần
đây có nói đến tác dụng chống ung thư của một số chất như leucocyanidin,
leucopelargonidin, leucodelphinidin và tác dụng kháng HIV của một số dẫn chất thuộc
nhóm flavon như chrysin, acacetin 7-O-β-D-galactopyranosid [6], [96].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Y tế (2009), Dược điển Việt Nam IV, Nxb. Khoa học - Kỹ thuật, Hà Nội.
[2]. Võ Văn Chi (2007), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb. Giáo dục, TP Hồ Chí Minh.
[3]. Nguyễn Văn Đàn và Nguyễn Viết Tựu (1985), Phương pháp nghiên cứu hóa học
cây thuốc, Nxb Y học, Hà Nội.
[4]. Đỗ Tất Lợi (2014), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, Hà
Nội.
[5]. Nguyễn Kim Phi Phụng (2011), Phương pháp cô lập hợp chất hữu cơ, Nxb. Đại học
quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh.
[6]. Ngô Văn Thu (2011), Bài giảng dược liệu, Tập 1, Trường đại học Dược Hà Nội.
[7]. Viện dược liệu (2004), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, Tập 2, Nxb.
Khoa học - Kỹ thuật, Hà Nội.
[8]. Vụ Khoa học và đào tạo - Bộ Y tế (2011), Bào chế và sinh dược học, Tập 1, Nxb.
Y học, Hà Nội.