You are on page 1of 6

LẬP DÀN Ý PHÂN TÍCH BÀI CHÍ KHÍ ANH HÙNG

Trong đời Kiều có nhiều cuộc chia tay, chia tay đột ngột với Kim Trọng khi mối tình đầu chớm
hé; chia tay Thúc Sinh trong tâm trạng cô đơn, đầy dự cảm không lành. Trong đoạn trích này tác
giả tái hiện cảnh Kiều chia tay Từ Hải để chàng ra đi thực hiện nghiệp lớn. Nhưng tại sao người
soạn sách lại đặt tên cho đoạn trích này là “Chí khí anh hùng” mà không phải “Từ Hải chia tay
Thuý Kiều”? Đó là vì đoạn trích này không tập trung khắc hoạ cảnh chia tay mà muốn khắc hoạ
Từ Hải ở vẻ đẹp, tầm vóc và quyết tâm đạt đến khát vọng.
2213 tới 2230
II/ Đọc hiểu văn bản
1. Ý nghĩa nhan đề đoạn trích:
“Chí”: mục đích cao cần hướng tới.“Khí”: nghị lực để đạt tới mục đích.
“Chí khí anh hùng” là: lí tưởng, mục đích cao và nghị lực lớn của người anh hùng.
2. Chân dung Từ Hải
a. Dáng vẻ, hành động
- “Nửa năm hương lửa đương nồng Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.”
Sống với Kiều được nửa năm, cuộc sống đang lúc đằm thắm, nồng nàn nhất thì Từ Hải muốn ra
đi thực hiện nghiệp lớn. Tâm trí Từ Hải luôn suy nghĩ về những việc lớn lao. Vì thế, việc “động
lòng bốn phương” là hợp lí. Từ “bốn phương” chỉ công việc và chí lớn của người nam nhi thời
xưa. “Động lòng” nhấn mạnh việc Từ Hải nung nấu những ý chí lớn lao. ý chí đó đã có sẵn
trong con người chàng, nó chỉ tạm lui đi trong thời gian sống cùng Kiều, giờ là lúc chàng thể
hiện. Từ “thoắt” diễn tả sự mau chóng trong việc thay đổi tâm trạng, dáng vẻ của Từ Hải. ở đây,
Nguyễn Du đã gọi Từ Hải là “trượng phu”. Đó là cách nói vô cùng trân trọng với các vị anh
hùng. Nó dựng lên dáng vẻ bệ vệ, oai nghiêm, đĩnh đạc của một vị tướng võ.
- “Trông vời trời bể mênh mang Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.”
Câu thơ miêu tả hành động nhìn ra xa, đồng thời khắc hoạ dáng vẻ phóng khoáng của Từ Hải.
Nguyễn Du đã xây dựng hình ảnh Từ Hải song song, sánh ngang với hình ảnh trời đất. Nhắc
đến Từ Hải là thấy hình ảnh cao rộng của trời đất, vũ trụ. Những từ láy, từ biểu cảm chỉ độ rộng,
độ cao càng khắc hoạ rõ hơn tư thế của Từ Hải. Cái nhìn của chàng không phải là trông hay
nhìn bình thường mà là “trông vời” - cái nhìn ẩn chứa sự sáng suốt và suy nghĩ phi thường.
Từ Hải một mình ra đi thực hiện ý nguyện của mình. Việc xây dựng Từ Hải độc lập một mình
không làm chân dung chàng đơn độc mà càng cho thấy sự dũng mãnh của chàng. Hành động
được miêu tả đầy sự dứt khoát, nhanh nhẹn. Đã nghĩ là làm, Từ Hải không bao giờ chần chừ, do
dự, suy tính lâu. “Thoắt đã động lòng bốn phương” là “lên đường thẳng rong” ngay.
- “Quyết lời dứt áo ra đi, Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”
Tác giả để Từ Hải “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.” rồi mới để Kiều nói xin đi
theo nói lên việc chàng ra đi là quyết định chắc chắn, không thể lay chuyển nổi. Thuý Kiều
muốn theo Từ Hải, nhưng với chàng đã làm là dứt khoát. Dặn dò xong Kiều, Từ Hải ra đi ngay.
Từ “quyết” và “dứt” cùng xuất hiện trong một câu thơ cho thấy sự quyết đoán của Từ.
Câu thơ cuối đoạn dựng lên hình ảnh phóng khoáng, kì vĩ về Từ Hải. Nguyễn Du đã so sánh Từ
Hải với chim bằng để nhấn mạnh bản lĩnh phi thường của chàng. Cảnh chàng ra đi thực hiện sự
nghiệp hùng tráng như cảnh chim bằng tung bay giữa gió mây.
=> Dáng vẻ, hành động của Từ Hải đầy phóng khoáng, kì vĩ, dứt khoát, nhanh nhẹn và oai
nghiêm .
b. Lời nói
Từ Hải ra đi không lưu luyến, bịn rịn tình cảm như thường thấy ở mọi người. Dù yêu thương
Thuý Kiều, coi nàng là “tâm phúc tương tri” song nàng quyết tâm ra đi một mình. Câu hỏi “Sao
chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?” khẳng định chàng là bậc nam nhi sự nghiệp và tình cảm
rạch ròi.
Từ Hải có lí tưởng công danh lớn lao. Điều đó thể hiện qua lời hứa với Thuý Kiều. Những khát
vọng của chàng đều phi thường. Đó là việc phải có được “Mười vạn tinh binh,/ Tiếng chiêng
dậy đất, bóng tinh rợp trời.”. Từ đó để mọi người thấy được tài năng xuất chúng của Từ Hải:
“Làm cho rõ mặt phi thường./ Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”. Từ “mặt phi thường” dùng rất
trúng. Nó cho thấy sự tự tin, kiêu hãnh của Từ Hải. Đây không chỉ là lời của riêng Từ Hải mà ẩn
dấu sau đó còn có cái nhìn trân trọng, tự hào của Nguyễn Du.
Từ Hải hẹn ước chắc nịnh. Chàng hẹn khi thành công sẽ cưới Thuý Kiều. Đó là khi nào? Chàng
không nói vu vơ mà hẹn ước chắc chắn: “Đành lòng chờ đó ít lâu,/ Chầy chăng là một năm vội
gì!”. Xác định rõ mục tiêu và thời gian phấn đấu, Từ Hải đã vẽ ra con đường đi cụ thể cho
mình. Do vậy, những gì chàng nói đều chắc như đinh đóng cột.
=> Từ Hải là người có lí tưởng công danh lớn, rạch ròi giữa sự nghiệp và tình cảm, có cách
phấn đấu cụ thể chứ không chung chung.
: Với chí khí anh hùng, hoài bão lớn lao và niềm tin chắc chắn như vậy, Từ Hải đem đến cho
cuộc đời Kiều không phải cái rung động chớm hé của buổi yêu đầu, không phải cuộc sống bình
thường mà thức dậy ở Kiều những điều người khác không có được: đó là khát vọng về công
bằng, chính nghĩa.
c. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Từ Hải
Từ Hải được miêu tả bằng những từ ngữ trang trọng: “trượng phu”, “mặt phi thường. Bên cạnh
đó là những hình ảnh ước lệ mang tính vũ trụ: “động lòng bốn phương”, “Tiếng chiêng dậy đất,
bóng tinh rợp trời”, “Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”. Những từ ngữ, hình ảnh này nhằm
nhấn mạnh chân dung tiêu biểu của một vị anh hùng đồng thời thể hiện cái nhìn trân trọng của
Nguyễn Du với Từ Hải.
Tác giả chủ yếu miêu tả những hành động và lời nói của Từ Hải, ít đi sâu vào nội tâm. Nguyễn
Du đã sử dụng cách miêu tả lí tưởng hoá để nâng cao tầm vóc của Từ Hải.
3. Thái độ và ước mơ của N.Du qua Từ Hải
Có giai thoại như sau: vua Tự Đức khi đọc đến đoạn Nguyễn Du viết về Từ Hải đã đòi phạt tác
giả 300 roi. Tại sao lại vậy? Vì theo giai cấp phong kiến, Từ Hải chỉ là một tên giặc cỏ (VD:
Cao Bá Quát, Nguyễn Huệ). Trong “Kim Vân Kiều truyện”, Từ Hải cũng được miêu tả là một
tên có nét tướng cướp. Nhưng khi bước vào “Truyện Kiều”, con người dám chống lại triều đình
ấy được miêu tả như một anh hùng. Nguyễn Du đã dùng những hình ảnh đẹp nhất để miêu tả
Từ. Từ Hải là bóng dáng của những người anh hùng nông dân khởi nghĩa với bao phen thay đổi
sơn hà.
Thái độ của tác giả với Từ Hải: yêu quý, cảm phục. Nguyễn Du đã dồn nén giấc mơ về tự do và
công lí của mình trong con người Từ Hải.
Quan điểm về người anh hùng của tác giả: người anh hùng phải làm được những việc lớn lao,
dám nghĩ dám làm, có dáng vẻ phóng khoáng, dứt khoát, oai nghiêm.
III/ Tổng kết
Từ Hải là một vị anh hùng đầy phóng khoáng, dứt khoát, nhanh nhẹn và oai nghiêm, có lí tưởng
công danh lớn, rạch ròi giữa sự nghiệp và tình cảm.
Nguyễn Du đã sử dụng cách miêu tả lí tưởng hoá để nâng cao tầm vóc của Từ Hải.
Từ Hải là hiện thân cho giấc mơ tự do, công lí của Nguyễn Du.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------
a. Mở bài:
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, ông có đóng góp to lớn đối với văn học dân tộc
về nhiều phương diện nội dung và nghệ thuật, xứng đáng là thiên tài văn học. Tác phẩm
“Truyện Kiều” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Trong “Truyện Kiều”, ND
đã đồng cảm với khát vọng tình yêu và công lý của con người. Nếu khát vọng tình yêu tự do
ND gửi gắm vào nhân vật TK thì khát vọng về công lý ông gửi gắm vào nhân vật Từ Hải - một
người chí khí, một người siêu phàm. Con người ấy đến từ một giấc mơ và ở lại như một huyền
thoại. Hiện diện trong “Truyện Kiều” như một nhân cách sử thi, Từ Hải đã làm nên những trang
sôi động nhất, hào sảng nhất trong cái thế giới buồn đau dằng dặc của “Đoạn Trường Tân
Thanh”. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” là một đoạn trích tiêu biểu khắc họa rõ nét nhất về chí
khí của người anh hùng Từ Hải.
b. Thân bài:
1. NLVH: * Người anh hùng và nàng Kiều tài sắc đang sông êm đềm bên nhau nhưng chàng
muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm đã quyết định từ biệt Kiều ra đi. 4 câu thơ đầu đã cho
ta thấy rõ khát vọng lên đường của người anh hùng( Trích 4 câu thơ đầu)
-Nửa năm: thời gian TK – Từ Hải sống bên nhau
- Hương lửa: hình ảnh ước lệ chỉ tình yêu => “Hương lửa đương nồng”: Tình yêu nồng nàn, say
đắm của Thúy Kiều – Từ Hải.
=> Thời điểm Từ Hải ra đi lập nên sự nghiệp lớn cũng chính là lúc cuộc sống lứa đôi với Thúy
Kiều mới đang bắt đầu và vô cùng mặn nồng hạnh phúc.
-“Trượng phu” (Đại trượng phu): Là từ chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng => Nguyễn
Du dùng cách nói này thể hiện thái độ trân trọng với các vị anh hùng. Nó dựng lên dáng vẻ bệ
vệ, oai nghiêm, đĩnh đạc của một tướng võ.
-“Thoắt” (Tính từ): Chỉ sự dứt khoát, mau lẹ, kiên quyết, nhanh chóng trong khoảnh khắc bất
ngờ. Nói lên cách xử sự dứt khoát, khác thường của Từ Hải.
-“Động lòng bốn phương” (cụm từ ước lệ): Chỉ chí khí anh hùng tung hoành thiên hạ. Đó cũng
là lí tưởng anh hùng thời đại, không bị ràng buộc bởi vợ con, gia đình mà ở bốn phương trời, ở
không gian rộng lớn, quyết mưu cầu sự nghiệp phi thường.
=> Bối cảnh dẫn đến cuộc chia ly: Người anh hùng gặp người đẹp tri kỉ, đang say đắm trong
hạnh phúc lứa đôi, chợt nghĩ đến chí lớn chưa thành, đã động lòng bốn phương, dứt áo ra đi
theo tiếng gọi của ý chí.
- Tư thế: + “Thanh gươm yên ngựa”:1 mình, 1 gươm, 1 ngựa.
+ “Thẳng rong”: đi liền 1 mạch.
=> Với tư thế oai phong, hào hùng sánh ngang với trời đất
- Cách miêu tả: đặt nhân vật sánh ngang với không gian trời bể mênh mang.
=> Một tư thế đẹp, thể hiện sự kiên quyết, dứt khoát, ra đi hiên ngang, độc lập, không vướng
bận
- “Trời bể mênh mang”: không gian vũ trụ rộng lớn => Cảm hứng vũ trụ, con người vũ trụ với
kích thước phi thường, không gian bát ngát, nâng cao tầm vóc người anh hùng.
* Tiểu kết: Từ Hải không phải là một con người của những đam mê thông thường, mà là con
người của khát vọng, công danh.
* Trước ý chí quyết tâm mưu cầu nghiệp lớn của Từ Hải, TK chấp nhận và ngỏ ý muốn theo Từ
Hải. Từ Hải đã từ chối mong muốn của Kiều và thể hiện rõ lý tưởng anh hùng của mình (Trích
Từ rằng:...vội gì!”)
-“Tâm phúc tương tri”: Coi Kiều là tri kỉ của mình, hiểu Từ Hải hơn ai hết, hơn hẳn người vợ
bình thường – tầm thường.
-“Nữ nhi thường tình”: khuyên TK vượt lên t/cảm thông thường để xứng làm vợ một anh hùng.
=>Từ chối mong muốn của Kiều và mong muốn Kiều là tri âm, tri kỉ xứng đáng nhất.
- Người anh hùng nêu lên lý tưởng của mình:
+ “Mười vạn tinh binh”, “Tiếng chiêng dậy đất”, “Bóng tinh rợp đường” => Hình ảnh âm thanh
hào hùng => Niềm tin sắt đá, sự quyết tâm, khát vọng lớn lao, cao cả về một sự nghiệp lẫy lừng
- MĐ ra đi: làm cho rõ mặt phi thường=> chứng tỏ khả năng hơn người, bản lĩnh, ý chí phi
phàm
=> ND đã thể hiện hình ảnh người anh hùng oai phong, bản lĩnh với lý tưởng cao cả, ý chí, hoài
bão lớn lao.
- Lời hứa: “Sẽ rước nàng nghi gia”. Một lời hứa sẽ cho Thúy Kiều một cuộc sống có danh phận,
viên mãn bên người chồng thành công trong sự nghiệp =>Từ Hải là người anh hùng có chí khí,
thống nhất giữa khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với người tri kỉ.
-“Bốn bể không nhà”: Thực tế gian nan, vất vả của buổi đầu lập nghiệp.
-Lời hẹn: “Một năm sau”: Khẳng định ý chí, bản lĩnh, sự tự tin.
=> Những câu sau không chỉ nói lên hoàn cảnh thực tại của người anh hùng đầy rẫy những khó
khăn mà còn nói lên tính cách rất dứt khoát, chí khí nhưng cũng rất tâm lí, gần gũi của Từ Hải.
* Hình ảnh dứt áo ra đi của anh hùng Từ Hải
-Hành động: “Quyết lời” + “Dứt áo ra đi”=>Thái độ, cử chỉ, hành động dứt khoát, không hề do
dự, không để tình cảm bịn rịn làm lung lạc và cản bước ý chí của người anh hùng.
-Ẩn dụ: “Chim bằng”: Tượng trưng về người anh hùng có lí tưởng cao đẹp, hùng tráng, phi
thường, mang tầm vóc vũ trụ. =>Đem hình ảnh chim bằng để ẩn dụ cho tư thế ra đi của Từ Hải,
Nguyễn Du muốn khẳng định Từ Hải chính là bậc anh hùng cái thế, có tầm vóc phi thường,
sánh ngang với đất trời, vũ trụ.
* Tiểu kết: Thể hiện ước mơ về người anh hùng lí tưởng của Nguyễn Du: chân dung kì vĩ, chí
khí, bản lĩnh, tài năng phi thường, thực hiện giấc mơ công lí.
- NT: Xây dựng nhân vật bằng những hình ảnh ước lệ. Thông qua hành động, lời thoại trực tiếp,
thể hiện sự tự tin, bản lĩnh nhân vật => Lý tưởng hóa nhân vật mang cảm hứng ngợi ca
2. NLXH:
- Lý tưởng sống là cái đích tốt đẹp mà mỗi con người muốn hướng tới, là lí do, mục đích mà
mỗi con người mong mỏi đạt được. Người có lý tưởng sống cao đẹp là người luôn suy nghĩ và
hành động để hoàn thiện mình hơn, giúp ích cho mình, gia đình xã hội và đất nước.
- Biểu hiện:
+ Trong thời kỳ chiến tranh, bao lớp thanh niên xông pha lên đường với một mục tiêu - lý tưởng
tất cả vì tiền tuyến, vì độc lập tư do của đất nước. Với các tấm gương tiêu biểu bao đời vẫn
được ghi danh: Phan Đình Giót lấy thân mình bịt lỗ châu mai, Bế Văn Đàn lấy vai làm giá
súng,...
+ Thanh niên ngày nay đại đa số đều xác định được tưởng sống của riêng mình, biết phấn đấu,
nỗ lực để đạt được lý tưởng ấy. Vd: Nhiều bạn trẻ đã thể hiện lối sống cao đẹp, thổi bùng ngọn
lửa vì cộng đồng và không cam chịu đói nghèo. Các mùa hè tình nguyện đã thu hút hàng nghìn
trí thức trẻ tình nguyện lên đường về nông thôn, miền núi. Nhiều dự án lớn do thanh niên đảm
nhiệm. Luôn khắc phục khó khăn vươn lên trong cuộc sống như Nguyễn Ngọc Kí,...
- Biểu hiện người không có lý tưởng sống: Một số chỉ biết sống cho chính bản thân mình,
những người có lối sống buông thả, sống cho qua ngày, họ chùn bước trước khó khăn, lắc đầu
trước thử thách và sống vô trách nhiệm với xã hội. Không có ước mơ, hoài bão, sống thực dụng
và ỷ lại, ăn chơi đua đòi, lãng quên quá khứ, sống thờ ơ với mọi người
- Là 1 thanh niên thế kỉ 21 với bước hội nhập hiện nay, với những lý tưởng và hoài bão lớn, em
sẽ ra sức học tập và sống có đạo đức để thật sự là 1 người có ích trên xã hội này. Chúng ta ai
cũng sống có khát vọng, hoài bão và hết mình vì nó. 'Cái quý nhất của con người là cuộc sống,
đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi phải xót xa, ân hận vì nhưng năm tháng
sống phí, cho khỏi phải hổ thẹn vì những năm tháng sống hoài, sống phí... Sống có lý tưởng để
đưa đất nước mình đi lên hội nhập với các cường quốc năm châu.
- Tóm lại, thanh niên chúng ta cần phải biết và tạo cho mình một lý tưởng sống cao đẹp, vì mọi
người, vì quê hương đất nước. Bản thân mỗi chúng ta hãy tự nhìn lại cách sống của mình để
hướng đến tương lai tươi sáng.
c. Kết bài:
Dưới hình thức một cuộc chia li, đoạn trích “Chí khí anh hùng” mang chở khát vọng tự do, ước
mơ công lí của Nguyễn Du. Từ Hải- một con người chí khí phi thường, lý tưởng cao cả, tự tin,
đầy bản lĩnh, dứt khoát, kiên quyết trong hành động nhưng tâm lý lại gần gũi và sâu sắc. Chỉ có
người như vậy mới che chở được những nạn nhân sống dưới bầu trời tăm tối của thể giới
“Truyện Kiều”.

(Đoạn văn tham khảo về phân tích 4 đoạn đầu


TH xuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu độitrời, chân đạp đất. Khi
cứu K ra khỏi lầu xanh, là vì việc nghĩa, là vì trọng K như một tri kỉ. Nhưng khi kết duyên cùng
K, TH thực sự là người đa tình. Song dẫu đa tình, TH không quên mình là 1 tráng sĩ, 1 người có
chí khí mạnh mẽ. Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vùng vẫy giữa đất
trời cao rộng. TH quả là 1 bậc anh hùng có chí lớn và có nghị lực để đạt mục đích cao đẹp của
bản thân. Chính vì thế, trong khi đang sống với K những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh
phúc nhưng TH không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc,chợt "động
lòng 4 phương", thế là toàn bộ tâm trí hướng về "trời bể mênh mông, với "thanh gươm yên ngựa
lên đường thẳng rong".
Đây là đoạn văn trích từ sách, chỉ tham khảo )
2chữ "dứt áo" trong cụm từ "quyết lời dứt áo ra đi" thể hiện được phong cách mạnh mẽ, phi
thường của đấng trượng phu trong lúc li biệt
"gió mây = đã đến kì dặm khơi": là 1 hình ảnh so sánh thật đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Tác giả muốn
ví TH như chim cỡi gió bay ngoài biển khơi . Ko chỉ thế , trong câu thơ còn diễn tả được tâm
trạng của con người khi thoả chí tung hoành
Người anh hùng ra đi không muốn vướng bận nữ nhi, không chút mềm yếu trước lời nói
của thê tử:
Nàng rằng: phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Thuý Kiều là người sâu sắc đến mấy cũng không thoát khỏi chuyện phu - thê quyến luyến.
Nàng chỉ muốn theo Từ Hải đi để làm trọn bổn phận làm vợ của mình, mà không nghĩ đến việc
lớn của chàng. Vì thế Từ Hải đã trách khéo nàng tâm phúc tương tri tức là hai người đã hiểu rõ
lòng dạ của nhau một cách sâu sắc như thế, cần gì phải quan tâm đến chuyện nghĩa theo chồng
như đạo Nho bắt làm. Sau đó chàng động viên Thuý Kiều ở nhà yên tâm đợi tin vui:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chuông dậy đất bóng tỉnh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Còn bây giờ giữa trời đất bao la bốn bể không nhà, nàng mà đi theo chi làm bận tâm thêm,
huống chi chưa biết rõ là đi đâu. Vì vậy nàng hãy dằn lòng chờ đợi chỉ một hai năm vội gì. Thế
rồi chàng:
Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Hình ảnh con chim bằng được lấy điển tích từ truyện ngụ ngôn kể rằng chim bằng là một
giống chim rất lớn, đập cách làm động nước trong ba ngàn dặm, thường tượng trưng cho những
người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn Du đã ví Từ
Hải như là con chim bằng đã đến lúc tung cánh bay lên cùng gió mây.
Cuộc sống của một con người luôn khao khát không trung, tự do thỏa chí vẫy vùng, không
bao giờ chịu sống trong cảnh tù túng, gò bó trong không gian nhỏ bé thường ngày của người
bình thường. Khi miêu tả người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và cử
chỉ ngôn ngữ mang ý nghĩa mạnh mẽ, dứt khoát như: thoắt đã, thẳng giong, sao chưa thoát khỏi,
dậy đất, phi thường, vội gì, quyết lời dứtáo ra đi,... Ngoài ra thêm các từ chữ Hán để bộc lộ tư
tưởng tình cảm của tác giả, rồi dùng điển cố, điển tích...và cả xây dựng thời gian, không gian
mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang, ...
Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vật Từ Hải dường như xuất hiện từ một
giấc mơ, từ một giấc mơ hùng vĩ về chính phía mà hàng triệu người khốn khổ áp bức hằng ôm
ấp. Vì vậy mà khi xây dựng, Nguyễn Du đã có những sáng tạo các phương thức nghệ thuật
riêng, để biểu đạt khát vọng của mình và của thời đại Nguyễn Du sống - khát vọng về sự tự do,
công bằng lẽ phải. Từ một cuộc chia li mà nói lên được toàn bộ chí khí anh hùng của Từ Hải.

You might also like