Professional Documents
Culture Documents
- Không gian 4 tỷ địa chỉ IPv4 ngày càng cạn kiệt do nhu cầu người dùng tăng
nhanh, thì việc tính đến chuyện mở rộng kích cỡ địa chỉ IP là 1 điều cần thiết.
Do đó, người ta đã mở rộng kích thước địa chỉ IP từ 32 bit lên đến 128 bit.
- Để đơn giản hóa trong việc cấu hình và giúp cho hệ thống mạng nhỏ không cần
thiết có sự tồn tại của DHCP server. IPv6 cho phép thực hiện các chức năng
như auto-configuration.
- Đưa ra 1 loại địa chỉ mới đó là Anycast. Địa chỉ Anycast thuộc dải địa chỉ
unicast (có thể là unique-local, unique-global). Ứng dụng của địa chỉ anycast là
việc load balancing và redundancy. Địa chỉ anycast vẫn học được thông qua
IGP, EGP.
- Loại bỏ địa chỉ Broadcast do địa chỉ Multicast có thể đáp ứng được việc
broadcast gói tin một cách bình thường.
- Trong IPv6 header 1 số trường không cần thiết bị xóa bỏ.
- Bổ sung hỗ trợ các Option extension Header.
- Bổ sung trường Flow Label: Flow là chuỗi các gói tin có cùng địa chỉ
nguồn( unicast), địa chỉ đích (unicast, anycast hoặc multicat). Flow label (do
nguồn thiết lập) cho phép xác định gói tin thuộc flow nào. Flow label tùy thuộc
vào các vendor mà có cách sử dụng khác nhau (QoS, mpls, load balancing,
sercurity, Diffserv….).
- Hỗ trợ các tính năng security IPsec.
Với IPv6, có 6 lợi ích lớn nhất mang lại đó là:
Chúng ta cùng đi vào chi tiết từng loại địa chỉ IPv6.
- Kiểu 1: Loại bỏ tất cả các ký tự 0 bên tay trái sao cho 1 octet chỉ cần còn ít
nhất 1 ký tự. Ví dụ:
o Địa chỉ IPv6: 0002:0002:0002:0002:0002:0002:0002:0002
o Địa chỉ rút gọn: 2:2:2:2:2:2:2:2
- Kiểu 2: Với các octet toàn 0 liền kề nhau, có thể được biểu diễn bởi ký tự “::”
để thay thế. Ký tự “::” chỉ được dùng duy nhất 1 lần nếu các octet toàn 0 không
liên tiếp. Ví dụ:
o Địa chỉ IPv6: 0002:0000:0000:0000:0002:0000:0000:0000
o Địa chỉ rút gọn: 0002::0002:0000:0000:0000
o Địa chỉ kết hợp kiểu 1 và 2: 2::2:0:0:0:0
1.1.2.2 Địa chỉ Unicast.
Địa chỉ Unicast được phân chia thành các địa chỉ nhỏ hơn, cụ thể như sau:
Về mặt hoạt động, OSPF giữ lại rất nhiều đặc điểm trong nguyên tắc hoạt động
của OSPFv2 (cho IPv4) như:
- Giao thức OSPFv3 vẫn được xây dựng trên nền tảng của thuật toán định tuyến
Link-State giống như OSPFv2. Mỗi router sẽ xây dựng và duy trì một cơ sở dữ
liệu mô tả cấu trúc của toàn hệ thống (hệ thống các router chạy OSPFv3) bằng
cách trao đổi các bản tin LSA. Cơ sở dữ liệu này được gọi là link- state
database (cơ sở dữ liệu về trạng thái các kết nối) và mỗi router có một cơ sở dữ
liệu riêng tùy theo vị trí, vai trò của nó trong hệ thống. Để xây dựng nên cơ sở
dữ liệu này, mỗi router sẽ tự tạo ra các bản tin mô tả về trạng thái quanh mình
(trạng thái các giao diện, các router khác trên cùng liên kết...). Các bản tin này
sau đó được các router phát tán tới tất cả các router khác trong hệ thống, từ đó
tính toán chính xác được tuyến đường ngắn nhất tới bất kỳ đích nào dựa vào
thuật toán Dijkstra.
- Giao thức OSPFv3 cho phép người quản trị hệ thống cấu hình trên mỗi giao
diện một giá trị trọng số liên kết (link- cost). Trọng số này nói lên chi phí phải
trả để một router đẩy gói qua giao diện này và có thể được tính toán từ một
trong số các tham số mạng. Giá trị này chính là tiêu chuẩn để giao thức
OSPFv3 tính toán và lựa chọn tuyến đường ngắn nhất tới đích. Tuyến ngắn
nhất là tuyến có tổng trọng số liên kết nhỏ nhất. Các router trong hệ thống sử
dụng cùng một phương pháp tính toán trên cơ sở dữ liệu. Mỗi router sẽ coi
mình là gốc và áp dụng thuật toán Dijkstra để xây dựng nên cây đường đi ngắn
nhất (Shortest Path Tree) tới tất cả các đích trong hệ thống (bao gồm cả các
router và cả các mạng). Sau đó, từ cây này router tạo nên bảng định tuyến
chính xác. OSPFv3 phân chia hệ thống thành nhiều vùng nhỏ. Cấu trúc của
mỗi vùng được che kín với các vùng khác. Định tuyến OSPFv3 trở thành định
tuyến phân cấp giúp cho giảm bớt nhiều giao thông mạng cho trao đổi các bản
tin định tuyến. Quan trọng nhất trong OSPFv3 (và các giao thức dựa trên thuật
toán định tuyến Link- state khác) là sự đồng bộ cơ sở dữ liệu giữa các router.
Việc tính toán cây đường đi ngắn nhất chỉ chính xác khi tất cả các router tính
toán trên cùng một cơ sở dữ liệu về hệ thống.
- OSPFv3 sử dụng phương pháp phát tán (flooding) để các router trao đổi các
bản tin định tuyến. Phương pháp này giúp các router nhanh chóng đồng bộ cơ
sở dữ liệu, nhanh chóng đáp ứng lại sự biến động tình trạng của hệ thống.
- Theo thuật toán Link State, mỗi nút sẽ phải nắm được toàn bộ trong số của tất
cả các liên kết trong mạng. Thông tin lưu trữ trong một cơ sở dữ liệu về liên
kết (Link State Database), đây chính là bản đồ của toàn mạng. Dựa trên cơ sở
dữ liệu này, mỗi nút sẽ lấy mình làm gốc và tính toán cây tuyến đường ngắn
nhất (shortest path tree) từ nó tới tất cả các đích trong mạng. Như vậy, tất cả
các nút trong toàn mạng phải sử dụng cùng một bản đồ mạng thống nhất. Để
làm được điều này, mỗi nút sẽ phải gửi đi thông tin về tất cả các liên kết của
mình tới tất cả các nút trong mạng. Phương pháp mà các nút truyền đi thông tin
liên kết được sử dụng là phương pháp phát tán thông tin định tuyến (flooding).
Theo phương pháp này, mỗi nút khi nhận được thông tin từ nút hàng xóm
(Neighbor) sẽ nhận và tiếp tục gửi thông tin này tới tất cả các nút Neighbor
khác. Cách làm này sẽ cho các nút mạng nhanh chóng nhận được toàn bộ thông
tin của các router khác. Thuật toán Link State dựa trên thuật toán Dijstra. Thuật
toán này sẽ tính toán đường đi có tổng trọng số nhỏ nhất từ một nút bất kỳ tới
một nút khác trong mạng.
- Ưu điểm của link-state: - Thời gian hội tụ ngắn, có khả năng dùng cho maṇg
lớn và rất lớn.
- Nhược điểm của link-state: - Phức tạp ̣ và khó cấu hình: Phải đảm bảo chắc
chắn rằng tất cả các nút trong mạng phải sử dụng cùng một cơ sở dữ liệu về
mạng để tính toán cây đường đi ngắn nhất và xây dựng bảng định tuyến đúng
đắn. Sự đồng bộ về cơ sở dữ liệu tại tất cả các nút đòi hỏi các giao thức định
tuyến sử dụng thuật toán Link State phải có cơ chế tổ chức chặt chẽ, thiết kế
hợp lý. Việc sử dụng cơ sở dữ liệu chung về mạng cũng khiến các nút phải sử
dụng nhiều bộ nhớ, quá trình tính toán tập trung đòi hỏi máy tính tốc độ cao.
- Trên router Cisco, OSPFv3 cũng sử dụng giá trị AD là 110, metric vẫn được
tính theo cost tích lũy trên các interface.
- Sử dụng các loại gói tin giống như với OSPFv2: Hello, Database Description
(DBD), Link State Request (LSR) và Link State Update (LSU).
- V.v…
- Các gói tin OSPF vẫn được mô tả bởi 5 loại bản tin: Hello, Database
Description, Link State Request, Link State Update và Link State
Acknownledgment. Nhưng chi tiết các bản tin lại có sự thay đổi nhỏ, những sự
thay đổi đó sẽ được trình bày phía sau.
- Cơ chế tìm kiếm, thiết lập và duy trì mối quan hệ neighbor vẫn được giữ
nguyên.
- Cơ chế hoạt động, bầu bán DR (designated Router) và BDR (Backup
Designated Router) vẫn không đổi.
- Các kiểu mạng như: Point-to-point, broadcast, non-broadcast multi access,
point-ti-multipoint và virtual link được giữ nguyên.
- Các trạng thái cũng như những sự kiện không thay đổi như: Init, 2-way,
Exstart, Exchange, Loading và Full.
- Giá trị timer không thay đổi vẫn là (10s hello interval và 40s dead interval cho
mạng broadcast, point-to-point) (30s hello interval và 120s dead interval cho
mạng NBMA và point-to-multipoint).
Dưới đây là bảng so sánh những đặc điểm cơ bản của 2 phiên bản:
LSA OSPFv3 đổi tên 2 loại LSA và định nghĩa thêm 2 loại
LSA nữa so với OSPFv2
Trong OSPFv3 có rất nhiều sự thay đổi cần thiết so với OSPFv2 để đáp ứng những
yêu cầu trong IPv6 cũng như để tối ưu sự hoạt động. Chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết hơn về
những sự thay đổi đó ở phần sau đây.
o Với OSPFv2, kết quả là R1, R2 sẽ không thiết lập neighbor với nhau.
o Còn trong OSPFv3, thông tin neighbor và các route học được sẽ được
thể hiện dưới đây.
Trong OSPFv3, sự xuất hiện của các địa chỉ IP được xá bỏ hoàn toàn trong các gói
tin OSPF và chỉ còn xuất hiện trong một số loại LSA.
- Địa chỉ IPv6 không còn xuất hiện trong các gói tin OSPF, ngoại trừ trong LSA
payload ở bản tin Link State Update.
- Các Router-LSA và Network LSA sẽ không còn chứa bất kỳ thông tin “prefix”
và “prefixlength”, do đó chúng sẽ đơn giản trong việc phân phối thông tin
topology.
- OSPF Router ID, Area ID và Link State ID vẫn có kích cỡ 32 bit như địa chỉ
IPv4. Không thể cấu hình các giá trị ID bằng địa chỉ IPv6.
- Giá trị Router ID không được lựa chọn bởi các địa chỉ IP mà phải cấu hình trực
tiếp.
- Các router hàng xóm luôn luôn được nhận diện thông qua giá trị Router ID.
Không giống với IPv4, các loại mạng như broadcast, Non-broadcast multi-
access hay Point-to-multipoint sẽ được nhận diện thông qua địa chỉ IPv4.
- Với ví dụ ở hình 2-10, cho thấy các Router-LSA và Network-LSA không còn
có sự xuất hiện của địa chỉ IP nữa. Đồng thời, các thông tin neighbor sẽ luôn
luôn là các giá trị Router ID.
Flooding scope của các loại SLA được xuất hiện trong trường Link State type. Với
sự bổ sung của “Link-local scope” chúng ta sẽ có tất cả 3 giá trị scope:
Dưới đây là bảng so sánh giữa các loại LSA của OSPFv3 và OSPFv2 tương ứng
với các giá trị scope.
OSPFv2 LSA OSPFv3 LSA
Network Summary
3 Area 0x2003 Area Inter-area-prefix-LSA
LSA
Inter-area-router-
4 Area ASBR Summary LSA 0x2004 Area
LSA
Link-
0x0008 Link-LSA
local
Ví dụ:
- Dưới đây là ví dụ về việc OSPFv3 cho phép chạy multiple instance trên cùng 1
link. Hình 2-11 có 4 router thuộc chung 1 link, cấu hình sao cho R1, R2 thuộc
instance 1 và R3, R4 thuộc cùng instance 2.
Hình 2-11 Mô hình liên kết giữa các Router thuộc 1 link
- Cấu hình trên từng thiết bị như sau:
- Dự đoán kết quả là R1, R2 phải thiết lập được neighbor với nhau. R3, R4 phải
thiết lập neighbor với nhau, đồng thời tất cả router phải được nhận biết thông
qua giá trị Router ID đã cấu hình cho từng thiết bị.
- Kiểm tra thông tin neighbor trên router R1, R2, R3, R4:
e) Địa chỉ link-local được sử dụng để trao đổi bản tin OSPFv3.
- Địa chỉ link-local có dạng: FF80::/10 và tự động sinh ra khi khởi động IPv6
trên interface.
- IPv6 router không chuyển tiếp gói tin có source và destination IP address là địa
chỉ link-local.
- Địa chỉ IP link-local được gán duy nhất trên 1 interface với mục đích là thực
hiện neighbor discovery, auto-configuration, v.v…Đồng thời do tiến trình
OSPFv3 lại được chạy theo “per-link”. Do đó, địa chỉ link-local được sử dụng
dụng làm source và destination IP.
- Tất cả các OSPFv3 interface ngoại trừ virtual-link, các gói tin OSPFv3 sẽ được
gửi với source IP là địa chỉ link-local. Router sẽ sử dụng tất cả các địa chỉ link-
local tồn tại trong các Link-LSA để sử dụng như next-hop trong khi chuyển
tiếp gói tin.
- Trong virtual-link, địa chỉ unique-local hay unique-global sẽ được sử dụng làm
source và destination IP cho các gói tin OSPFv3.
- Địa chỉ link-local chỉ xuất hiện trong các OSPFv3 link-LSA mà không cho
phép xuất hiện trong bất kỳ 1 loại OSPFv3 LSA khác.
Dưới đây là kết quả khi bắt các gói tin OSPFv3 và OSPFv2.
Hình 2-14 OSPFv2 sử dụng địa chỉ IP của interface để trao đổi OSPFv2 packet
Hình 2-15 OSPFv3 sử dụng địa chỉ IP Linl-local khi trao đổi OSPFv3 packet
OSPFv3 chạy trực tiếp trên IPv6. Bên cạch đó, tất cả các thông tin địa chỉ đều
được loại bỏ ở OSPFv3 header và được đưa vào 1 số loại LSA. Chi tiết sự thay đổi của
format gói tin OSPFv3 sẽ được nêu ra sau đây:
Thông tin về địa chỉ IPv6 được xóa bỏ trong LSA header và cả trong 2 loại LSA
đó là Router-LSA, Network-LSA. Khi đó, 2 loại LSA sẽ chỉ miêu tả topology của miền
định tuyến mà không chứa bất kỳ thông tin địa chỉ IPv6 nào hết.
Việc phân phối thông tin địa chỉ IPv6 sẽ được xử lý bởi các loại LSA mới. Sau
đây chúng ta sẽ đi vào chi tiết những thay đổi của format các loại LSA.
Thứ nhất, trường “Option” sẽ được di chuyển từ LSA header sang LSA body của
các loại LSA sau: Router-LSA, Network-LSA, Link-LSA và Inter-area-router-LSA.
Thứ hai, hai loại Router-LSA và Network-LSA không còn mang thông tin về địa
chỉ IP và subnet mask mà chúng được đưa vào trong 2 loại LSA mới đó là Link-LSA và
Intra-area-prefix-LSA.
Thứ ba, địa chỉ trong các LSA mang sẽ là [Prefix và Prefix length] thay thế cho
[address và subnet mask] của IPv4. Với default route có prefix length bằng 0.
Hình 2-20 Thông tin chi tiết LSA-1 và LSA-2 của OSPFv2
- Hình 2-20, cho thấy trường “Option” trong 2 loại Router-LSA và Network-
LSA xuất hiện trong LSA header. Router-LSA và Network-LSA mang thông
tin địa chỉ IP (192.168.12.2, 192.168.12.1) và subnet mask (255.255.255.0).
Hình 2-21 Thông tin chi tiết LSA-1, LSA-2 và LSA-8 của OSPFv3
- Hình 2-21, cho thấy trường “Option” trong 3 loại Router-LSA, Network-LSA
và Link-LSA xuất hiện trong LSA body.
Hình 2-22 Thông tin prefix trong LSA-8 và LSA-9
- Hình 2-22, cho thấy 2 loại LSA mới là Link-LSA và Intra-area-prefix-LSA sẽ
chứa thông tin Prefix (2000::) và prefixlength (64).
Thứ tư, trong trường LSA type được mở rộng đến 16 bit và thêm vào 3 bit
flooding scope và handling unknown LSA type.
Hình 2-23 3 bit mở rộng trong LSA Type OSPFv3
- Hình 2-23, cho thấy 3 bit mới được thêm mới vào:
o S1 và S2 bit: 2 bit S1, S2 thể hiện scope của loại LSA đó. Ở đây nếu
S1S2 = 00 đó là Link-local scope (chỉ trong phạm vi 1 liên kết). Nếu
S1S2 = 01 đó là Area scope (phạm vi các area chạy OSPFv3). Nếu
S1S2 = 10 đó là AS scope (phạm vi giữa các miền định tuyến khác
nhau).
o U bit: Nếu U bit = 0, các LSA unknown sẽ được ứng xử với scope là
link-local scope. Nếu U bit = 1, Router sẽ lưu và flood LSA đấy và coi
như router nhận biết được loại LSA này.
Thứ năm, LSA loại 3 và LSA 4 được đổi tên cho phù hợp với mục đích sử dụng
của chúng.
- LSA type 3: Có giá trị LSA type là 0x2003. Được chuyển từ “Network
Summary LSA” trong IPv4 sang “Inter-area-prefix-LSA” trong IPv6 và có
flooding scope trong phạm vi area. Với mục đích quảng bá prefix và prefix
length trong phạm vi các area khác nhau hay có thể nói là trong nội bộ một AS.
LSA type 3 có 1 số chú ý sau:
o Trường Link State ID: Có tác dụng phân biệt giữa các Inter-area-
prefix-LSA cùng sinh ra bởi 1 Router.
o PrefixLength, PrefixOption và Address Prefix: Sử dụng để mô tả
Prefix đó và nằm bên trong LSA body.
o Link-local address: Địa chỉ này không bao giờ được quảng bá bên
trong Inter-area-prefix-LSA.
o NU bit: NU bit bên trong trường PrefixOption thường được clear.
- LSA type 4: Có giá trị LSA type là 0x2004. Được chuyển từ “ASBR Summary
LSA” trong IPv4 sang “Inter-area-router-LSA” trong IPv6 và có flooding
scope trong phạm vi area. Với mục đích thông báo các con Router nào là
ASBR đang tồn tại trong 1 miền OSPF.
o Link-Sate ID: Không còn là thông tin Router-ID của ASBR. Giá trị
Router-ID có thể tìm thấy bên trong LSA body. Link-State ID cho phép
phân biệt giữa các Inter-area-router-LSA cùng sinh ra bởi 1 Router.
o Option field: Được set tương đương với cả Option field của Router-
LSA mà ASBR sinh ra.
- Các loại LSA khác vẫn được giữ nguyên tên gọi cũ trong IPv4 và chức năng
không thay đổi.
Thứ sáu, OSPFv3 đưa ra loại LSA mới đó là Link-LSA (giá trị LSA type là
0x0008) có phạm vi flood là Link-local scope và không bao giờ flood sang một link khác.
Link-LSA không nên được sinh ra bởi các Router kết nối bởi virtual link.
Hình 2-24 Format Link-LSA
- Hình 2-24, cho ta thấy format của Link-LSA với các trường cụ thể như sau:
o LS Age: Thời gian kể từ khi Link-LSA được sinh ra.
o LS Type: Chỉ rõ đây là loại LSA nào.
o Link State ID: Giá trị để phân biệt các Link-LSA khác nhau mà cùng
sinh ra bởi 1 Router.
o Advertising Router: Router ID của Router sinh ra Link-LSA đó (ví dụ
Network-LSA thì Advertising Router là Router ID của Designated
Router).
o LS sequence number: Giá trị này được sử dụng để ngăn ngừa việc
LSA bị duplicate.
o LS checksum: Trường kiểm tra nội dung của LSA header và LSA body
nhưng loại trừ trường “LS age” vì trường này luôn thay đổi phải tính
toán lại checksum.
o Length: Độ dài của cả LSA header và LSA body (tính theo byte).
o Rtr Priority: Độ ưu tiên của interface thuộc một Router nào đó.
o Option: Chuỗi các bit tùy chọn mà Router sinh ra, nó tương tự Option
trong Network-LSA do Designated Router sinh ra.
o Link-local Interface Address: Địa chỉ link-local của interface gửi
Link-LSA.
o # Prefixes: Số IPv6 prefix chứa trong Link-LSA.
o Phần còn lại: Là danh sách IPv6 prefix liên kết với link đó và các
trường PrefixLength, PrefixOption và Address Prefix kèm theo từng
Prefix.
- Sự ra đời của Link-LSA với các mục đích sau:
o Cung cấp địa chỉ link-local của router cho tất cả router mà cùng liên kết
chung 1 link đó.
o Router gốc thông báo cho các router khác trên cùng 1 link về danh sách
tất cả các IPv6 prefix tồn tại trên link của nó.
o Chúng cho phép router quảng bá một tập các thông tin trong trường
Option trong Network-LSA mà được sinh ra bởi Designated Router
trong Broadcast và NBMA link.
Hình 2-25 Thông tin prefix trong Link-LSA
- Hình 2-25, cho thấy các thông tin chi tiết được mang trong loại Link-LSA như
địa chỉ Link-local và các prefix thuộc link đấy.
- Nguyên nhân sự ra đời của Link-LSA như sau:
o Trong IPv4, Router-LSA sẽ mang thông tin địa chỉ IPv4 của interface
đó tương đương với địa chỉ link-local trong IPv6. Nhưng địa chỉ này chỉ
được sử dụng làm next hop khi tính toán định tuyến OSPF, trong khi đó
chúng lại bị flood ra ngoài phạm vi 1 link. Do đó, sử dụng Link-LSA sẽ
mang lại sự tối ưu hơn.
o Trong IPv6, địa chỉ link-local không được học khi router nhận bản tin
Hello có source là IPv6 link-local trong tất cả các trường hợp. Do đó,
Router sẽ sử dụng địa chỉ IPv6 link-local trong Link-LSA để trao đổi
các gói tin OSPF.
Thứ bẩy, một loại LSA mới nữa được đưa ra đó là Intra-area-prefix-LSA (giá trị
LSA type là 0x2009) có phạm vi flood là area scope. Intra-area-prefix-LSA mang tất cả
prefix mà như trong IPv4 Network-LSA và Router-LSA mang network và subnet.
Hình 2-26 Format Intra-area-prefix-LSA
- Hình 2-26, cho ta thấy format của Intra-area-prefix-LSA với các trường cụ thể
như sau:
o LS Age: Thời gian kể từ khi Intra-area-prefix-LSA được sinh ra.
o LS Type: Chỉ rõ đây là loại LSA nào.
o Link State ID: Giá trị để phân biệt các Intra-area-prefix -LSA khác
nhau mà cùng sinh ra bởi 1 Router.
o Advertising Router: Router ID của Router sinh ra LSA đó (ví dụ
Network-LSA thì Advertising Router là Router ID của Designated
Router).
o LS sequence number: Giá trị này được sử dụng để ngăn ngừa việc
LSA bị duplicate.
o LS checksum: Trường kiểm tra nội dung của LSA header và LSA body
nhưng loại trừ trường “LS age” vì trường này luôn thay đổi phải tính
toán lại checksum.
o Length: Độ dài của cả LSA header và LSA body (tính theo byte).
o # Prefixes: Số IPv6 prefix chứa trong Intra-area-prefix-LSA.
o R Referenced LS Type, Referenced Link State ID, and Referenced
Advertising Router: Xác định loại LSA nào gắn với prefix đó. Ví dụ
nếu Referenced LS Type = 0x2001 thì Prefix đó gắn với Router-LSA,
Referenced Advertising Router tương ứng với Router-ID của Router
sinh ra Prefix này. Link-State ID thường set bằng 0.
o Metric: Là giá trị cost của prefix đó. Tương tự như cost của interface
trong Router –LSA.
o Phần còn lại: Danh sách IPv6 prefix liên kết với link đó và các trường
PrefixLength, PrefixOption và Address Prefix kèm theo từng Prefix.
Hình 2-27 Thông tin prefix trong Link-LSA
- Hình 2-27, cho thấy các thông tin chi tiết được mang trong Intra-area-prefix-
LSA (đó là address Prefix và các trường Reference).
- Nguyên nhân sự ra đời của Intra-area-prefix-LSA như sau:
o Trong IPv4, toàn bộ thông tin về địa chỉ IP và subnet mask đều được
mang trong Router-LSA và Network-LSA.
o Chẳng hạn khi có sự thay đổi về Prefix như: địa chỉ được đánh lại,
Router sẽ gửi ra bản Link-State Update chứa Router-LSA và Network-
LSA để cập nhật sử thay đổi đó. Khi các Router khác nhận được Router-
LSA và Network-LSA mới này, nó sẽ tính toán lại thuật toán OSPF.
Trong khi đó nó chỉ thay đổi thông tin từ địa chỉ IP này sang 1 địa chỉ IP
khác. Để giải quyết vấn đề đó, người ta đã đưa ra Intra-area-prefix-LSA.
o Trong IPv6, toàn bộ thông tin về prefix được mang trong Intra-area-
prefix-LSA. Khi có sự thay đổi về Prefix, Router sẽ gửi bản tin Update
chỉ có chứa Intra-area-prefix-LSA. Khi đó, các Router khác sẽ chỉ cập
nhật lại thông tin topology mà không cần tính toán lại SPF OSPF.