You are on page 1of 4

1. Quy định về xác định tư cách nguyên đơn.

Có hai loại chủ thể khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp và chủ thể được
chuyển giao hoặc thừa kế quyền, lợi ích. Xét theo luật thực định khoản 2 Điều
68 Bộ Luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2015 quy định:
“Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khời kiện, người được cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác do bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu tòa án giải
quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị
xâm hại.
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu
tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình
phụ trách cũng là nguyên đơn”.

Điều đó cho thấy nguyên đơn có vai trò quan trọng trong vụ án dân sự so với
các đương sự khác. Vì để phát sinh vụ án dân sự tại Tòa án, đồng thời là cơ sở
để bắt đầu giải quyết vụ án dân sự phải có nguyên đơn khởi kiện hoặc các chủ
thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng để bảo vệ quyền lợi của nguyên
đơn.

Bộ Luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2015 chỉ quy định nguyên tắc
chung để xác định nguyên đơn thông qua hành vi khởi kiện của chủ thể có
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp. Theo đó, nguyên đơn
trong vụ án dân sự là người khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân
sự khi cho rằng quyền và lợi ích của người đó bị xâm phạm.

Theo quy định trên thì nguyên đơn là chủ thể thỏa mãn hai điều kiện sau:

– Được giả thiết có quyền lợi bị xâm hại hay tranh chấp với bị đơn.

– Đã tự mình khởi kiện.

1
Các quy định trên của BLTTDS chưa đủ để xác định tư cách của đương sự
trong vụ án dân sự. Bởi lẽ, để có thể xác định đúng tư cách của nguyên đơn
thì ngoài các điều kiện trên, cần có các quy định của pháp luât hôn nhân gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Việc xác định tư cách của nguyên
đơn phải dựa trên cơ sở quan hệ pháp luật có tranh chấp, pháp luật nội dung
điều chỉnh quan hệ đó. 1

Để trở thành nguyên đơn thì cá nhân, cơ quan, tổ chức phải đáp ứng những
quy định nhất định:

Thứ nhất, khi các chủ thể cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm hại. Điều này cho thấy việc nguyên đơn tham gia tố tụng mang tính chủ
động, khi nhận thấy quyền lợi của bản thân bị xâm hại chủ thể tự mình yêu
cầu cơ quan chức năng bảo vệ quyền lợi cho mình. Nó trái ngược lại với tính
bị động của bị đơn khi tham gia tố tụng. Việc yêu cầu bảo vệ quyền lợi bị
xâm hại xuất phát từ ý chí chủ quan của nguyên đơn. Vì việc xác định quyền
lợi của chủ thể có bị xâm hại hay không thì phải được khẳng định trong các
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực. Khi bản án, quyết định của Tòa án
chưa có hiệu lực pháp luật khẳng định vấn đề đó, thì quyền và lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn mới chỉ dừng lại là giả thiết bị xâm phạm.

Thứ hai, để tham gia vào quan hệ pháp luật Tố tụng dân sự  thì nguyên đơn
phải có năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Vì ngoài việc có khả năng pháp luật quy định nguyên đơn còn phải
tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người
đại diện tham gia tố tụng lúc đó họ trở thanh nguyên đơn.

Thứ ba, các chủ thể trở thành nguyên đơn khi yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình hoặc lợi ích công cộng, lợi ích thuộc lĩnh vực
1
. Ai có tư cách là nguyên đơn trong vụ án / Nguyễn Thị Mai / Toà án nhân dân.Toà án nhân dân tối cao,Số
7/12016, tr. 20 - 22.

2
mình phụ trách. Đối với chủ thể là cá nhân có năng lực hành vi tố tụng
dân sự đầy đủ hoặc cơ quan, tổ chức thông qua người đại diện hợp pháp khởi
kiện vụ án dân sự được Tòa án thụ lý thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức đó trở
thành nguyên đơn. Trường hợp cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng
dân sự đầy đủ mà được người đại diện hợp pháp của người này thì người
được bảo vệ quyền lợi cũng được xác địnhlà nguyên đơn. Việc quy định
nhiều chủ thể có thể trở thành nguyên đơn cho thấy sự quan tâm của pháp luật
tới việc đảm bảo lợi ích của mọi chủ thể trong xã hội.

Thứ tư, để khởi kiện và xác định tư cách là nguyên đơn thì chủ thể phải có
đơn khởi kiện, gửi đơn kiện tới Tòa án và Tòa án thụ lý đơn khởi kiện. Đơn
khởi kiện phải đầy đủ nội dung được quy định tại khoản 2 Điều 189 Bộ Luật
tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2015.

Trong trường hợp cả hai bên chủ thể của một quan hệ pháp luật nội dung
trong tranh chấp mà cùng khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết quan hệ nội
dung tranh chấp đó thì Tòa án thụ lý đơn khởi kiện của bên nào trước
thì bên đó được xác định là nguyên đơn.

Ngoài nguyên đơn là người có đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền
lợi của cá nhân, lợi ích công cộng…thì bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan cũng trở thành nguyên đơn trong trường hợp:

+ Trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn vẫn 
giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn.+
Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người có nghĩa vụ với
yêu cầu độc lập trở thành nguyên đơn2

2
. Xác định tư cách nguyên đơn và bị đơn trong một vụ kiện / Nguyễn Quang Lộc Toà án nhân dân.Toà án
nhân dân tối cao,Số 9/2016, tr. 20 - 21.

3
4

You might also like