You are on page 1of 22

 B.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I/ Lý luận của chủ nghĩa Mác về Kinh tế hàng hóa.

1. Kinh tế hàng hóa.

Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó sản phẩm

đều do những sản xuất ra, mỗi người chuyên làm ra một sản phẩm nhất

định, thành thử muốn thỏa mãn các nhu cầu của xã hội thì cần có mua bán

sản phẩm. Vì vậy sản phẩm trở thành hàng hóa trên thị trường. ( Lênin

toàn tập, tập 1, trang 106).

Như vậy, kinh tế hàng hóa là một nền kinh tế mở, các quan hệ hầu hết

được thể hiện dưới hình thái giá trị.

Kinh tế hàng hóa xuất hiện từ cuối chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã,

tồn tại trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến, đó là sản xuất hàng

hóa giản đơn. Đến chủ nghĩa tư bản sản xuất hàng hóa trở thành phổ biến

và thống trị trong nền kinh tế, không những thế còn phát triển lên giai đoạn

cao hơn là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Đến chủ nghĩa xã hội vẫn
còn sản xuất hàng hóa. Đó là sản xuất hàng hóa lớn XHCN hay còn gọi là

nền kinh tế thị trường XHCN.

Trang 5

1.1 Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.

Kinh tế hàng hóa ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội gắn

liền với hai điều kiện tiền đề:

Một là: Có sự phân công lao đông xã hội. Phân công lao động xã hội là

sự chuyên môn hóa sản xuất, mỗi người chỉ sản xuất một hay một số loại

sản phẩm nhất định. Song nhu cầu cuộc sống lại đòi hỏi nhiều loại sản

phẩm khác nhau. Vì vậy người sản xuất này phải dựa vào người sản xuất

khác, phải trao đổi sản phẩm cho nhau.

Ví dụ: Người nông dân thì sản xuất ra lúa gạo, còn người thợ dệt sản xuất

ra vải vóc. Nhưng người nông dân cũng phải cần đến vải vóc và người thợ
dệt cũng cần lúa gạo. Để thỏa mãn nhu cầu của mình họ phải nương tựa

vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau.

Như vậy phân công lao động xã hội là biểu hiện sự phát triển của lực

lượng sản xuất làm cho năng xuất lao động tăng lên và làm cho trao đổi sản

phẩm trở thành tất yếu. Tuy nhiên theo Các Mác đây mới chỉ là điều kiện

cần nhưng chưa đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại.

Hai là: Có chế độ tư hữu hoặc các hình thức khác nhau về tư liệu sản

xuất hàng hóa và sản phẩm, điều này làm cho người sản xuất hàng hóa độc

lập với nhau và mỗi người có quyền đem sản phẩm của mình trao đổi với

người khác. Đây là điều kiện đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại.

Như vậy: Phân công lao động xã hội làm người sản xuất phụ thuộc vào

nhau còn chế độ tư hữu lại chia rẽ họ, làm họ độc lập với nhau, đây là một

mâu thuẫn. Tuy nhiên sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đồng thời cả hai

điều kiện trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất

hàng hóa và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hóa.
1.2 Đặc trưng và tính ưu việt của kinh tế hàng hóa.

 Đặc trưng

- Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán.

Trang 6

- Lao động của người sản xuất vừa mang tính chất tư nhân, vừa mang

tính chất xã hội.

- Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận.

 Tính ưu việt

Sản xuất hàng hóa tiếp tục tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội là sản

phẩm của lịch sử phát triển sản xuất của loài người. Bởi vậy nó có nhiều ưu

thế, và là một phương thức hoạt động kinh tế tiến bộ hơn hẳn so với sản

xuất tự cung tự cấp.

Nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao
động xã hội. Nó thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất nhanh chóng làm

cho sự phân công chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác hóa

chặt chẽ hình thành các mối quan hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau của

những người sản xuất hình thành thị trường trong nước và thế giới. Nó thúc

đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, đó là cơ sở để thúc đẩy

quá trình dân chủ hóa, bình đẳng và tiến bộ xã hội.

 Bước chuyển từ kinh tế háng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường.

Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát

triển. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao nhất của kinh tế hàng

hóa. Kinh tế hàng hóa phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hóa,

tiền tệ và thị trường được phát triển, mở rộng. Hàng hóa không chỉ bao

gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao

hàm các yếu tố đầu vào của sản xuất. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị

trường được hoàn thiện và mở rộng. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều

được tiền tệ hóa. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hóa là kinh tế thị trường.
2. Các nhân tố và quy luật vận động của kinh tế hàng hóa.

2.1 Các nhân tố của kinh tế hàng hóa.

2.1.1 Hàng hóa

Trang 7

 * Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào
đó

của con người thông qua trao đổi mua bán.

* Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng (đem tiêu dùng/ sử dụng)

và giá trị (đem trao đổi/ mua bán).

Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó

của con người thể hiện ở việc sử dụng và tiêu dùng. Giá trị sử dụng hay

công dụng của hàng hóa trước hết là do thuộc tính tự nhiên của vật thể

hàng hóa quyết định. Như vậy, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.

Một sản phẩm đã là hàng hóa thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng. Nhưng

không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng là hàng hóa (vì hàng hóa
phải là sản phẩm lao động của con người). Trong kinh tế hàng hóa, giá trị

sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.

Theo Các Mác muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao

đổi. Có thể nói trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào giá trị, có nghĩa là: hai

hàng hóa trao đổi với nhau phải ngang nhau về mặt giá trị.

Vậy giá trị của hàng hóa là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra

hàng hóa đó. Hay nói cách khác giá trị là lao động xã hội của người sản

xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Khi giá trị thay đổi thì giá trị trao

đổi cũng thay đổi, giá trị trao đổi chính là hình thức biểu hiện của giá trị.

Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên, thì giá trị là thuộc tính xã hội của

hàng hóa.

Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị,

nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Sự mâu thuẫn này thể hiện

ở chỗ:

- Với tư cách là giá trị sử dụng thì hàng hóa khác nhau về chất, còn với
tư cách là giá trị thì với mọi hàng hóa đều đồng nhất về chất.

- Quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng khác nhau về không gian

và thời gian.

Trang 8

 * Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa: Các Mác là người
đầu

tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Đó là

lao động cụ thể và lao động trừu tượng.

Lao động cụ thể là lao động sản xuất vật chất của con người, nó tồn tại

dưới hình thức nghề nghiệp chuyên môn nhất định, lao động cụ thể tạo ra

giá trị sử dụng của vật phẩm, các lao động cụ thể khác nhau về chất, mỗi

lao động cụ thể có mục đích riêng, phương pháp riêng, đối tượng và kết

quả riêng.

Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, nó gắn liền với lao động sản

xuất vật chất của con người.


Lao động trừu tượng là lao động hao phí của người sản xuất hàng hóa

nói chung về sức thần kinh, cơ bắp, thể lực và trí lực, nếu như gạt bỏ tính

muôn màu muôn vẻ của các hình thức cụ thể của lao động. Lao động trừu

tượng tạo ra giá trị của hàng hóa nên nó là một phạm trù lịch sử.

Tuy nhiên cần chú ý là không phải có 2 thứ lao động kết tinh trong hàng

hóa mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa có tính 2 mặt mà thôi.

Trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn thì tính hai mặt của lao động sản

xuất hàng hóa là sự biếu hiện của mâu thuẫn lao động tư nhân và lao động

xã hội của những người sản xuất hàng hóa. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản

của sản xuất hàng hóa giản đơn.

2.1.2 Tiền tệ.

* Nguồn gốc, lịch sử ra đời của tiền tệ

Giá trị của hàng hóa rất trừu tượng, nó chỉ được bộc lộ qua giá trị trao

đổi, giá trị hàng hóa được biểu hiện bằng tiền thì được gọi là giá cả của

nó.Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình lâu dài của sản xuất và trao đổi
hàng hóa, của các hình thức giá trị hàng hóa.Đó là: Hình thái giá trị đơn

giản hay ngẫu nhiên -> Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng -> Hình thái

giá trị chung -> Tiền tệ ra đời.

Trang 9

 * Bản chất của tiền tệ chính là vật ngang giá chung, là một hàng
hóa đặc

biệt thể hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.

* Chức năng của tiền tệ: - Là thước đo giá trị.

- Phương tiện lưu thông.

- Phương tiện cất trữ.

- Phương tiện thanh toán.

- Tiền tệ thế giới.

2.2 Quy luật vận động của kinh tế hàng hóa là quy luật giá trị và quy

luật cạnh tranh.

Trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào giá trị, đây chính là nội dung của quy
luật giá trị. Quy luật giá trị là quy luật của sản xuất hàng hóa.Ở đâu có sản

xuất hàng hóa ở đó có quy luật giá trị tác động. Quy luật giá trị chi phối

việc sản xuất và trao đổi trong nền kinh tế hàng hóa. Nội dung của quy luật

này được biểu hiện thông qua sản xuất và lưu thông. Trong sản xuất, đối

với thời gian hao phí cá biệt thì đại bộ phận là tương đương với thời gian

lao động cần thiết, một số ít nhỏ hơn thì lại có một số lớn hơn. Đối với toàn

xã hội thì tổng thời gian hao phí cá biệt bằng tổng thời gian lao động xã hội

cần thiết. Trong lưu thông, đối với một loại hàng hóa giá cả có thể lên

xuống nhưng phải xoay quanh trục giá trị (nguyên nhân là do tác động của

quan hệ cung – cầu). Đối với tổng hàng hóa trên phạm vi xã hội thì giá trị

của nó được biểu hiện là: tổng giá cả hàng hóa bằng tổng giá trị hàng hóa.

Từ nội dung của quy luật giá trị, ta có thể thấy rõ được tác dụng của nó

trong nền kinh tế hàng hóa. Thứ nhất, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết

tự phát sản xuất (phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động) và lưu thông

(nguồn hàng) qua sự biến động của giá cả thi trường. Thứ hai, quy luật giá
trị kích thích sự phát triển tự phát koa học công nghệ, lực lượng sản xuất,

hiệu quả và năng suất lao động xã hội, làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá

tri xã hội. Ngoài ra quy luật giá trị còn phân hóa người sản xuất thành kẻ

Trang 10

giàu người nghèo, làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát sinh và

phát triển.

Cạnh tranh là động lực, là nguyên tắc cơ bản và tất yếu của kinh tế hàng

hóa. Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hóa độc lâp và khác

nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị

sản xuất hàng hóa đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao

đọng xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, các đơn vị kinh doanh phải ganh

đua, đấu tranh nhằm giành được những điều kiện thuận lợi và thu nhiều lợi

ích cho mình. Đối tượng cạnh tranh của các chủ thể kinh tế
là giành nguồn nguyên liệu, thị trường, lực lượng khoa học kỹ thuật, chất

lượng, giá cả bằng các thủ đoạn kinh tế và phi kinh tế.

Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm: cạnh tranh nội bộ ngành và

cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông

bao gồm: cạnh tranh giữa những người tham gia trao đổi hàng hóa và dich

vụ trên thị trường. Hình thức và những biện pháp cạnh tranh có thể rất

phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng của cạnh tranh là lợi

nhuận.

*Lợi nhuận là động lực mạnh nhất của nền kinh tế hàng hóa.

Trong nền kinh tế hàng hóa lợi nhuận luôn được các nhà đầu tư kinh tế,

các tổ chức kinh tế coi là động lực mục tiêu của mình. Làm thế nào để chi

phí ít nhất mà lợi nhuận thu về nhiều nhất. Điều này đòi hỏi tính chuyên

môn cao, sự sắp xếp lại cách tổ chức quản lý. Tổ chức lại các bộ phận quản

lý và thiết lập mối quan hệ giữa chúng để quá trình hoạt động nhịp nhàng

thông suốt tránh sự trì trệ không cần thiết trong một số khâu nào đó làm
ảnh hưởng tới cả hệ thống quản lý. Hạn chế bớt một số bộ phận cồng kềnh

còn giúp các nhà kinh tế giản bớt được chi phí, đồng nghĩa với việc tăng

lợi nhuận. Ngoài ra còn cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề cho đội ngũ

cán bộ nhân viên. Tóm lại lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động

của nền kinh tế hàng hóa.

10

Trang 11

 II/ Liên hệ thực tế ở Việt Nam.

Theo quan điểm của Các Mác kinh tế hàng hóa không phải là một

phương thức sản xuất độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại

trong các phương thức xã hội. Với phạm vi và mức độ khác nhau, tuy cùng

là nền kinh tế hàng hóa nhưng bản chất của xã hội quy định đặc điểm của

kinh tế hàng hóa xã hội đó. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa nên

vai trò quản lý của nhà nước định hướng nền kinh tế hàng hóa theo chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam.


1.Thực trạng kinh tế Việt Nam để chúng ta phải chuyển sang phát

triển kinh tế hàng hóa là tất yếu khách quan.

Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm sản xuất của các nước

XHCN, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hóa tập trung dựa

trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của

nhân dân ta cộng thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác, mô

hình kế hoạch hóa đã phát huy được những tính ưu việt của nó. Từ một

nền kinh tế hàng hóa lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch Nhà nước

đã tập trung vào tay mình một lực lượng quan trong về đất đai, tài sản và

tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.

Ngay từ tháng 8 năm 1979, Nhà nước ta đã chủ trương phát triển sản

xuất hàng hóa. Chỉ thị 1000 của ban Bí thư trung ương và quyết định số

25/CP của Chính phủ năm 1981 đã để cho các hợp tác xã tự chủ trong sản

xuất kinh doanh.

Đại hội Đảng VI, tháng 12 năm 1986 đã khẳng định quá trình từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lởn nước ta là quá trình chuyển từ nền inh tế tự cung tự

cấp sang nền kinh tế hàng hóa. Điều quan trọng là ở đây chúng ta không

chỉ thừa nhận từng khâu, từng phần sản phẩm là sản xuất hàng hóa mà là cả

một nền kinh tế hàng hóa, coi đó là một quá trình có tính quy luật đi lên

sản xuất XHCN ở nước ta. Tại hội nghị TW 6 (khóa VI, 3/1989) và Đại hội

VII (6/1991) trên cơ sở nhận thức sâu hơn về tình hình đất nước, Đảng ta

mới có điều kiện nói rõ và nhấn mạnh “ Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành

11

Trang 12

phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là hoàn

toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất của

xã hội”.

Đến đại hội lần VIII (6/1996) trên cơ sở kế thừa những đường lối, chủ

trương đúng đắn về việc sử dụng kinh tế hàng hóa do các đại hội trước đề
ra, Đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò của kinh tế hàng hóa – mà phát triển

cao hơn chính là kinh tế thị trường “ Cơ chế thị trường đã phát huy tác

dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những

không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây

dựng và phát triển đất nước theo con đương XHCN”.

Đây là bước tiến quan trọng trong việc đổi mới tư duy kinh tế của Đảng

ta. Quan điểm này xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội ở nước ta, từ

nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta, trên cơ sở vận dụng mô hình của

Mác-Lênin về một chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế hàng hóa.

Nó phù hợp với thực tế của nước ta, phù hợp với các quy luật kinh tế và

với xu thế của thời đại. Bởi vì:

Thứ nhất: nếu chúng ta không thay đổi cơ chế kinh tế mà vẫn giữ

nguyên cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng

chứ chưa muốn nói đến tích lũy vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những

năm cuối của thập kỉ 80 đã chỉ rõ việc thực hiện cơ chế cũ cho dù chúng ta
đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế cũ, nhưng hiệu quả

của nền kinh tế xã hội đạt đến mức rất thấp, sản xuất không đáp ứng nổi

tiêu dùng của xã hội, tích lũy hầu như không có, đôi khi còn ăn lạm cả vào

vốn vay của nước ngoài.

Thứ hai: do nền kinh tế đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng

nhắc do nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn

ngắn và chỉ có tác dụng

phát triển nền kinh tế theo chiều rộng, nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại

quá dài do đó mó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc

12

Trang 13

đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm

giảm năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất.

Thứ ba: xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta
đang hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, nước ta còn tồn tại kinh

tế đối ngoại, còn tham gia vào sự phân công hiệp tác quốc tế. Mặt khác nếu

nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới,giao lưu về

hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài sẽ làm cho sự vận

động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế

giới, tương quan giá cả các loại hàng hóa trong nước sẽ gần gũi hơn với

tương quan giá cả hàng hóa quốc tế.

Thứ 4: xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển

kinh tế của mỗi nước không thể tách rời phát triển và hội nhập quốc tế. Sự

cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số

đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích chính

sách của các quốc gia là tạo ra được nhiều của cải vật chất trong quốc gia

của mình, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được ổn định,

thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã thành thước đo chủ yếu, vai trò sức

mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức
mạnh của Đảng cầm quyền.

2. Tiềm năng và hạn chế của nền kinh tế hàng hóa ở nước ta.

2.1 Tiềm năng

- Có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, vị trí địa lí

thuận lợi.

- Có sức lao động dồi dào, trình độ văn hóa, trình độ về chuyên môn so

với nhiều nước đang phát triển thì nước ta ở mức trung bình.

- Chúng ta có đường lối, chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà

nước.

2.2 Hạn chế

13

Trang 14

 - Tuy là nước nông nghiệp nhưng bình quân ruộng đất canh tác
theo

đầu người thấp.

- Nền kinh tế kém phát triển, mang nặng dấu ấn của kinh tế tự nhiên,
còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thi trường

chưa phát triển và chưa đồng bộ, thu nhập quốc dân theo đầu người thấp,

sức mua còn hạn chế.

- Kết cấu hạ tầng cơ sở còn kém phát triển, trình độ khoa học kĩ thuật

chưa cao, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập…

Đảng và Nhà nước ta đang có những chính sách, giải pháp để khắc phục

những hạn chế trên.

3. Những thành tựu kinh tế mà nước ta đạt được từ những năm đổi

mới đến nay.

Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan

điểm phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng chủ

nghĩa xã hội ở nước ta. Từ nền kinh tế bao cấp trì trệ bị bao vây cấm vận,

đời sống nhân dân hết sức khó khăn, đến hôm nay, sau gần 30 năm đổi

mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến

vững vàng , tạo đà cho thế kỷ phát triển mới của đất nước. Chúng ta có thể
tự hào khẳng định kinh tế Việt Nam 30 năm qua đạt được nhiều thành tựu

to lớn.

Một là, đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, kinh

tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, đời

sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện.

Từ năm 1986 đến năm 1989, công cuộc đổi mới đạt được những thành

tựu bước đầu rất quan trọng. Nhưng vào đầu thập kỷ 90, khi bước vào thực

hiện chiến lược 10 năm 1991-2000, đất nước ta vẫn chưa thoát khỏi khủng

hoảng kinh tế xã hội. Nhờ triển khai mạnh mẽ đường lối đổi mới toàn diện

của Đảng, đến năm 1995, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 1991

You might also like