Professional Documents
Culture Documents
Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó sản phẩm
đều do những sản xuất ra, mỗi người chuyên làm ra một sản phẩm nhất
định, thành thử muốn thỏa mãn các nhu cầu của xã hội thì cần có mua bán
sản phẩm. Vì vậy sản phẩm trở thành hàng hóa trên thị trường. ( Lênin
Như vậy, kinh tế hàng hóa là một nền kinh tế mở, các quan hệ hầu hết
Kinh tế hàng hóa xuất hiện từ cuối chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã,
tồn tại trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến, đó là sản xuất hàng
hóa giản đơn. Đến chủ nghĩa tư bản sản xuất hàng hóa trở thành phổ biến
và thống trị trong nền kinh tế, không những thế còn phát triển lên giai đoạn
cao hơn là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Đến chủ nghĩa xã hội vẫn
còn sản xuất hàng hóa. Đó là sản xuất hàng hóa lớn XHCN hay còn gọi là
Trang 5
1.1 Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.
Kinh tế hàng hóa ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội gắn
Một là: Có sự phân công lao đông xã hội. Phân công lao động xã hội là
sự chuyên môn hóa sản xuất, mỗi người chỉ sản xuất một hay một số loại
sản phẩm nhất định. Song nhu cầu cuộc sống lại đòi hỏi nhiều loại sản
phẩm khác nhau. Vì vậy người sản xuất này phải dựa vào người sản xuất
Ví dụ: Người nông dân thì sản xuất ra lúa gạo, còn người thợ dệt sản xuất
ra vải vóc. Nhưng người nông dân cũng phải cần đến vải vóc và người thợ
dệt cũng cần lúa gạo. Để thỏa mãn nhu cầu của mình họ phải nương tựa
Như vậy phân công lao động xã hội là biểu hiện sự phát triển của lực
lượng sản xuất làm cho năng xuất lao động tăng lên và làm cho trao đổi sản
phẩm trở thành tất yếu. Tuy nhiên theo Các Mác đây mới chỉ là điều kiện
cần nhưng chưa đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại.
Hai là: Có chế độ tư hữu hoặc các hình thức khác nhau về tư liệu sản
xuất hàng hóa và sản phẩm, điều này làm cho người sản xuất hàng hóa độc
lập với nhau và mỗi người có quyền đem sản phẩm của mình trao đổi với
người khác. Đây là điều kiện đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại.
Như vậy: Phân công lao động xã hội làm người sản xuất phụ thuộc vào
nhau còn chế độ tư hữu lại chia rẽ họ, làm họ độc lập với nhau, đây là một
mâu thuẫn. Tuy nhiên sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đồng thời cả hai
điều kiện trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất
hàng hóa và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hóa.
1.2 Đặc trưng và tính ưu việt của kinh tế hàng hóa.
Đặc trưng
- Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán.
Trang 6
- Lao động của người sản xuất vừa mang tính chất tư nhân, vừa mang
- Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận.
Tính ưu việt
Sản xuất hàng hóa tiếp tục tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội là sản
phẩm của lịch sử phát triển sản xuất của loài người. Bởi vậy nó có nhiều ưu
thế, và là một phương thức hoạt động kinh tế tiến bộ hơn hẳn so với sản
Nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao
động xã hội. Nó thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất nhanh chóng làm
cho sự phân công chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác hóa
chặt chẽ hình thành các mối quan hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau của
những người sản xuất hình thành thị trường trong nước và thế giới. Nó thúc
đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, đó là cơ sở để thúc đẩy
Bước chuyển từ kinh tế háng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường.
Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát
triển. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao nhất của kinh tế hàng
hóa. Kinh tế hàng hóa phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hóa,
tiền tệ và thị trường được phát triển, mở rộng. Hàng hóa không chỉ bao
gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao
hàm các yếu tố đầu vào của sản xuất. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị
trường được hoàn thiện và mở rộng. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều
được tiền tệ hóa. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hóa là kinh tế thị trường.
2. Các nhân tố và quy luật vận động của kinh tế hàng hóa.
Trang 7
* Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào
đó
* Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng (đem tiêu dùng/ sử dụng)
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người thể hiện ở việc sử dụng và tiêu dùng. Giá trị sử dụng hay
công dụng của hàng hóa trước hết là do thuộc tính tự nhiên của vật thể
hàng hóa quyết định. Như vậy, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
Một sản phẩm đã là hàng hóa thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng. Nhưng
không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng là hàng hóa (vì hàng hóa
phải là sản phẩm lao động của con người). Trong kinh tế hàng hóa, giá trị
Theo Các Mác muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao
đổi. Có thể nói trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào giá trị, có nghĩa là: hai
hàng hóa trao đổi với nhau phải ngang nhau về mặt giá trị.
Vậy giá trị của hàng hóa là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra
hàng hóa đó. Hay nói cách khác giá trị là lao động xã hội của người sản
xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Khi giá trị thay đổi thì giá trị trao
đổi cũng thay đổi, giá trị trao đổi chính là hình thức biểu hiện của giá trị.
Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên, thì giá trị là thuộc tính xã hội của
hàng hóa.
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị,
nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Sự mâu thuẫn này thể hiện
ở chỗ:
- Với tư cách là giá trị sử dụng thì hàng hóa khác nhau về chất, còn với
tư cách là giá trị thì với mọi hàng hóa đều đồng nhất về chất.
- Quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng khác nhau về không gian
và thời gian.
Trang 8
* Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa: Các Mác là người
đầu
tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Đó là
Lao động cụ thể là lao động sản xuất vật chất của con người, nó tồn tại
dưới hình thức nghề nghiệp chuyên môn nhất định, lao động cụ thể tạo ra
giá trị sử dụng của vật phẩm, các lao động cụ thể khác nhau về chất, mỗi
lao động cụ thể có mục đích riêng, phương pháp riêng, đối tượng và kết
quả riêng.
Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, nó gắn liền với lao động sản
nói chung về sức thần kinh, cơ bắp, thể lực và trí lực, nếu như gạt bỏ tính
muôn màu muôn vẻ của các hình thức cụ thể của lao động. Lao động trừu
tượng tạo ra giá trị của hàng hóa nên nó là một phạm trù lịch sử.
Tuy nhiên cần chú ý là không phải có 2 thứ lao động kết tinh trong hàng
hóa mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa có tính 2 mặt mà thôi.
Trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn thì tính hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa là sự biếu hiện của mâu thuẫn lao động tư nhân và lao động
xã hội của những người sản xuất hàng hóa. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản
Giá trị của hàng hóa rất trừu tượng, nó chỉ được bộc lộ qua giá trị trao
đổi, giá trị hàng hóa được biểu hiện bằng tiền thì được gọi là giá cả của
nó.Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình lâu dài của sản xuất và trao đổi
hàng hóa, của các hình thức giá trị hàng hóa.Đó là: Hình thái giá trị đơn
giản hay ngẫu nhiên -> Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng -> Hình thái
Trang 9
* Bản chất của tiền tệ chính là vật ngang giá chung, là một hàng
hóa đặc
biệt thể hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
2.2 Quy luật vận động của kinh tế hàng hóa là quy luật giá trị và quy
Trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào giá trị, đây chính là nội dung của quy
luật giá trị. Quy luật giá trị là quy luật của sản xuất hàng hóa.Ở đâu có sản
xuất hàng hóa ở đó có quy luật giá trị tác động. Quy luật giá trị chi phối
việc sản xuất và trao đổi trong nền kinh tế hàng hóa. Nội dung của quy luật
này được biểu hiện thông qua sản xuất và lưu thông. Trong sản xuất, đối
với thời gian hao phí cá biệt thì đại bộ phận là tương đương với thời gian
lao động cần thiết, một số ít nhỏ hơn thì lại có một số lớn hơn. Đối với toàn
xã hội thì tổng thời gian hao phí cá biệt bằng tổng thời gian lao động xã hội
cần thiết. Trong lưu thông, đối với một loại hàng hóa giá cả có thể lên
xuống nhưng phải xoay quanh trục giá trị (nguyên nhân là do tác động của
quan hệ cung – cầu). Đối với tổng hàng hóa trên phạm vi xã hội thì giá trị
của nó được biểu hiện là: tổng giá cả hàng hóa bằng tổng giá trị hàng hóa.
Từ nội dung của quy luật giá trị, ta có thể thấy rõ được tác dụng của nó
trong nền kinh tế hàng hóa. Thứ nhất, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết
tự phát sản xuất (phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động) và lưu thông
(nguồn hàng) qua sự biến động của giá cả thi trường. Thứ hai, quy luật giá
trị kích thích sự phát triển tự phát koa học công nghệ, lực lượng sản xuất,
hiệu quả và năng suất lao động xã hội, làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá
tri xã hội. Ngoài ra quy luật giá trị còn phân hóa người sản xuất thành kẻ
Trang 10
giàu người nghèo, làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát sinh và
phát triển.
Cạnh tranh là động lực, là nguyên tắc cơ bản và tất yếu của kinh tế hàng
hóa. Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hóa độc lâp và khác
nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị
sản xuất hàng hóa đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao
đọng xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, các đơn vị kinh doanh phải ganh
đua, đấu tranh nhằm giành được những điều kiện thuận lợi và thu nhiều lợi
ích cho mình. Đối tượng cạnh tranh của các chủ thể kinh tế
là giành nguồn nguyên liệu, thị trường, lực lượng khoa học kỹ thuật, chất
lượng, giá cả bằng các thủ đoạn kinh tế và phi kinh tế.
Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm: cạnh tranh nội bộ ngành và
cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông
bao gồm: cạnh tranh giữa những người tham gia trao đổi hàng hóa và dich
vụ trên thị trường. Hình thức và những biện pháp cạnh tranh có thể rất
phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng của cạnh tranh là lợi
nhuận.
*Lợi nhuận là động lực mạnh nhất của nền kinh tế hàng hóa.
Trong nền kinh tế hàng hóa lợi nhuận luôn được các nhà đầu tư kinh tế,
các tổ chức kinh tế coi là động lực mục tiêu của mình. Làm thế nào để chi
phí ít nhất mà lợi nhuận thu về nhiều nhất. Điều này đòi hỏi tính chuyên
môn cao, sự sắp xếp lại cách tổ chức quản lý. Tổ chức lại các bộ phận quản
lý và thiết lập mối quan hệ giữa chúng để quá trình hoạt động nhịp nhàng
thông suốt tránh sự trì trệ không cần thiết trong một số khâu nào đó làm
ảnh hưởng tới cả hệ thống quản lý. Hạn chế bớt một số bộ phận cồng kềnh
còn giúp các nhà kinh tế giản bớt được chi phí, đồng nghĩa với việc tăng
lợi nhuận. Ngoài ra còn cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề cho đội ngũ
cán bộ nhân viên. Tóm lại lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động
10
Trang 11
Theo quan điểm của Các Mác kinh tế hàng hóa không phải là một
phương thức sản xuất độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại
trong các phương thức xã hội. Với phạm vi và mức độ khác nhau, tuy cùng
là nền kinh tế hàng hóa nhưng bản chất của xã hội quy định đặc điểm của
kinh tế hàng hóa xã hội đó. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa nên
vai trò quản lý của nhà nước định hướng nền kinh tế hàng hóa theo chủ
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm sản xuất của các nước
XHCN, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hóa tập trung dựa
trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của
nhân dân ta cộng thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác, mô
hình kế hoạch hóa đã phát huy được những tính ưu việt của nó. Từ một
nền kinh tế hàng hóa lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch Nhà nước
đã tập trung vào tay mình một lực lượng quan trong về đất đai, tài sản và
Ngay từ tháng 8 năm 1979, Nhà nước ta đã chủ trương phát triển sản
xuất hàng hóa. Chỉ thị 1000 của ban Bí thư trung ương và quyết định số
25/CP của Chính phủ năm 1981 đã để cho các hợp tác xã tự chủ trong sản
Đại hội Đảng VI, tháng 12 năm 1986 đã khẳng định quá trình từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lởn nước ta là quá trình chuyển từ nền inh tế tự cung tự
cấp sang nền kinh tế hàng hóa. Điều quan trọng là ở đây chúng ta không
chỉ thừa nhận từng khâu, từng phần sản phẩm là sản xuất hàng hóa mà là cả
một nền kinh tế hàng hóa, coi đó là một quá trình có tính quy luật đi lên
sản xuất XHCN ở nước ta. Tại hội nghị TW 6 (khóa VI, 3/1989) và Đại hội
VII (6/1991) trên cơ sở nhận thức sâu hơn về tình hình đất nước, Đảng ta
mới có điều kiện nói rõ và nhấn mạnh “ Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
11
Trang 12
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là hoàn
toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất của
xã hội”.
Đến đại hội lần VIII (6/1996) trên cơ sở kế thừa những đường lối, chủ
trương đúng đắn về việc sử dụng kinh tế hàng hóa do các đại hội trước đề
ra, Đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò của kinh tế hàng hóa – mà phát triển
cao hơn chính là kinh tế thị trường “ Cơ chế thị trường đã phát huy tác
dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những
không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây
Đây là bước tiến quan trọng trong việc đổi mới tư duy kinh tế của Đảng
ta. Quan điểm này xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội ở nước ta, từ
nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta, trên cơ sở vận dụng mô hình của
Nó phù hợp với thực tế của nước ta, phù hợp với các quy luật kinh tế và
Thứ nhất: nếu chúng ta không thay đổi cơ chế kinh tế mà vẫn giữ
nguyên cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng
chứ chưa muốn nói đến tích lũy vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những
năm cuối của thập kỉ 80 đã chỉ rõ việc thực hiện cơ chế cũ cho dù chúng ta
đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế cũ, nhưng hiệu quả
của nền kinh tế xã hội đạt đến mức rất thấp, sản xuất không đáp ứng nổi
tiêu dùng của xã hội, tích lũy hầu như không có, đôi khi còn ăn lạm cả vào
Thứ hai: do nền kinh tế đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng
nhắc do nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn
phát triển nền kinh tế theo chiều rộng, nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại
quá dài do đó mó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc
12
Trang 13
đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm
Thứ ba: xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta
đang hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, nước ta còn tồn tại kinh
tế đối ngoại, còn tham gia vào sự phân công hiệp tác quốc tế. Mặt khác nếu
nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới,giao lưu về
hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài sẽ làm cho sự vận
động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế
giới, tương quan giá cả các loại hàng hóa trong nước sẽ gần gũi hơn với
Thứ 4: xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển
kinh tế của mỗi nước không thể tách rời phát triển và hội nhập quốc tế. Sự
cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số
đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích chính
sách của các quốc gia là tạo ra được nhiều của cải vật chất trong quốc gia
của mình, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được ổn định,
thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã thành thước đo chủ yếu, vai trò sức
mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức
mạnh của Đảng cầm quyền.
2. Tiềm năng và hạn chế của nền kinh tế hàng hóa ở nước ta.
- Có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, vị trí địa lí
thuận lợi.
- Có sức lao động dồi dào, trình độ văn hóa, trình độ về chuyên môn so
với nhiều nước đang phát triển thì nước ta ở mức trung bình.
- Chúng ta có đường lối, chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà
nước.
13
Trang 14
- Tuy là nước nông nghiệp nhưng bình quân ruộng đất canh tác
theo
- Nền kinh tế kém phát triển, mang nặng dấu ấn của kinh tế tự nhiên,
còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thi trường
chưa phát triển và chưa đồng bộ, thu nhập quốc dân theo đầu người thấp,
- Kết cấu hạ tầng cơ sở còn kém phát triển, trình độ khoa học kĩ thuật
Đảng và Nhà nước ta đang có những chính sách, giải pháp để khắc phục
3. Những thành tựu kinh tế mà nước ta đạt được từ những năm đổi
Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan
điểm phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Từ nền kinh tế bao cấp trì trệ bị bao vây cấm vận,
đời sống nhân dân hết sức khó khăn, đến hôm nay, sau gần 30 năm đổi
mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến
vững vàng , tạo đà cho thế kỷ phát triển mới của đất nước. Chúng ta có thể
tự hào khẳng định kinh tế Việt Nam 30 năm qua đạt được nhiều thành tựu
to lớn.
Một là, đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, kinh
tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, đời
sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện.
Từ năm 1986 đến năm 1989, công cuộc đổi mới đạt được những thành
tựu bước đầu rất quan trọng. Nhưng vào đầu thập kỷ 90, khi bước vào thực
hiện chiến lược 10 năm 1991-2000, đất nước ta vẫn chưa thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội. Nhờ triển khai mạnh mẽ đường lối đổi mới toàn diện
của Đảng, đến năm 1995, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 1991