You are on page 1of 171

GIÁO LÝ BÍ MẬT VỀ

THÂN-TRUNG-ẤM

Đối với người tu tập thuần thành thì cái


CHẾT thực sự không phải là chết
Mà là con đường dẫn đến
sự giác ngộ viên mãn
Copy @ 1998 by Nguyễn Pram
All Rights Reserved

1
PHẬT HỌC VIỆN QUỐC TẾ
-

- Là nơi có đủ các loại kinh sách giá trị và pháp khí để cung ứng nhu cầu
cho những hành giả tu học đạo giác ngộ giải thoát.
- Là nơi đào tạo nhân tài Phật giáo để phục vụ đạo pháp và dân tộc.
- Là nơi bồi dưỡng trí tuệ và từ bi cho người có ý chí cầu tiến trên đường
thánh thiện hóa thân tâm.
Địa chỉ liên lạc: PHẬT HỌC VIỆN QUỐC TẾ
9250 Columbus Ave.
North Hills, CA 91343 – U.S.A.
Tel. (818) 893-5317

Ai là người trí phải nên khéo điều phục cái tâm của mình phải luôn quán
sát Tánh Không (sumyata) và Diệu Hữu (Amogha) của bản tâm và vạn
pháp. Không ai có thể cứu chúng ta khỏi cảnh giới khổ đau, phiền não,
nếu chính bản thân chúng ta cứ mãi bo bo ôm ấp, nâng niu chìu chuộng
cái vỏ Ngã Pháp được tô điểm bởi Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà Kiến,
và Đố kỵ.
Lời nói đầu

Thể gian lìa sanh diệt Ví như hoa hư không


Trí chẳng thấy có không Mà khởi tâm đại bi
Tất cả pháp như huyễn Xa lìa nơi tâm thức
Trí chẳng thấy có không Mà khởi tâm đại bi
Biết nhơn pháp vô ngã Phiền não và sở tri
Thường thanh tịnh không tướng Mà khởi tâm đại bi
Tất cả không Niết-bàn Không Niết-bàn của Phật
Không có Phật Niết bàn Xa lìa giác sở giác
Hoặc có hoặc không có Cả hai thảy đều lìa
Quán Mâu-Ni tịch tĩnh Thế là xa lìa sanh
Ấy gọi là chẳng thủ Đời nầy đời sau tịnh.

Cúi đầu đảnh lễ đức Tỳ-lô Giá na Như Lai (Vairocana Tathagata):
thiên bá ức (10.000.000.000) Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn (Shakyamuni
2
Buddha) Giáo chủ cõi Kham-Nhẩn (Saha) nầy, đức Đại-từ-bi tiếp dẫn
cõi Tây-phương tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn cửu thiên
ngũ bá (36.000.000.119.500) đồng danh đồng hiệu A-Di-Đà-Phật
(Amitabha Buddha), đức Kim-Cang Tát-Đỏa Bồ tát Ma-ha-tát
(Vajrasattva), đức Thất-Cu-Chi (Koti), Phật Mẫu Chuẩn-Đề (Cunde)
Vương Bồ-Tát Ma-ha-tát, đức Vế-Tích Kim-Cang Bồ-Tát Ma-ha-tát,
liệt vị tổ sư, chư A-xà-lê, mười phương khắp cõi Phật sát vi trần số,
quá khứ, hiện tại, và vị lai các ngôi Tam Bảo vô số vô tận đều chứng
biết, và kính xin rủ lòng thương xót từ bi nhiếp thọ lời cầu của con.
Con nay dối đem kiến thức phàm phu trong đời Mạt pháp để soạn sách
nầy, sợ không được hợp Thánh ý của chư Phật, xin cho con được chí
thành sám hối. Ngưỡng vâng sức đại oai thần của ngôi Tam Bảo gia
hộ cho kẻ đệ tử được thành Thánh trí, nếu hợp Thánh ý dù chỉ là một
phần nhỏ như hột cát hột bụi, trọn đem công đức đó hồi hướng đến tất
cả loài hàm linh, nguyện đời nầy chóng dứt phiền não, đời sau không
lâu đồng chứng ngôi Tỳ-lô Giá-na Tam-thân Phổ-Quang-Địa, khi mãn
báo thân lập tức vãng sanh về thế giới Cực-lạc của Phật A-Di-Đà,
hoặc tùy nguyện vãng sanh về mười phương Tịnh độ của chư Phật.
Những pháp môn cao siêu dựa vào các kinh Viên-Giác, Hoa-Nghiêm,
Pháp-Hoa, Bát-Nhã Ba-La-Mật, Tâm-Địa-Quán, Thủ-Lăng-Nghiêm,
Lăng-Già Tâm-Ấn, Kim-Cang v.v… ngày nay rất khó có người tu theo.
Vì sao? Bởi vì các kinh văn nầy phần nhiều chỉ thẳng cảnh giới bất-
tư-nghì của Như Lai, nhưng xét kỹ ra chúng ta ngày nay phần đông
đều là những người có trình độ tâm linh thuộc vào hàng trung hoặc
hạ căn, nên không thể nào lãnh hội thấu đáo cho được. Để đến nỗi khi
nghiệp đến, duyên tan thì ai nấy đều hoảng sợ trước cái chết. Trong
những người tu theo pháp môn Tịnh Độ, thì có những vị nhiệt tâm rất
cao, nhưng không được hướng dẫn kỹ càng khi “hộ niệm”, cho nên
tốn công sức mà chẳng giúp ích gì mấy cho vong nhân.
Vả lại, gần đây những kẻ ngoại đạo mặc áo sa-môn trá hình trong
Phật giáo, chúng chống đối lẫn nhau, chia bè lập phái phá hoại nhau,
không hành Lục Hòa, không giữ đạo nghi, lại thường chấp “không”,
bài xích nhân quả, chê bai nghiệp báo, vọng thuyết cuồng ngôn,
buông lời điên đảo cho rằng tu lai rai, đặt hết lòng tin vào vị Đạo-sư
thì cũng thành Phật cần gì phải tu Chỉ, tu Quán! Đám cuồng ngu nầy
càng ngày càng nổi lên như nấm, mọc lên như cỏ dại, khiến cho ai là
người có tâm hộ trì Phật pháp phải rơi lệ chan hòa! Âu cũng là duyên
nghiệp, sanh ra ở thời Mạt-pháp thì phải nhìn thấy cảnh chướng tai
gai mắt vậy.

3
Vì không biết phương tiện độ sanh nên phần nhiều chư vị tu theo
Thiền-môn, cũng như các ác Sa-môn trá hình ngày nay thường chê
trách việc cứu độ Thân-Trung-Ấm. Họ viện cớ là tốn thời giờ! Cho dù
có đi làm ma chay thì cũng làm cho qua loa.
Hỡi các bậc trí giả, chư vị là sứ giả của Như Lai, khoác áo Như Lai,
học hạnh của chư Phật, Bồ tát, cần khổ vì chúng sanh, sống nhờ vào
đàn na tín thí, lại nỡ nào viện hết cớ nầy đến cớ nọ để từ chối không
chịu cứu giúp vong nhân khiến cho người sống đau buồn, người chết
uất ức. Phải đợi đến khi người ta cầu thỉnh, trăm lễ lạy lục coi như
bậc Thánh sống mới chịu ra tay tế độ ư? Đại-bi-tâm thương xót chúng
sanh như con đỏ, không bỏ chúng sanh của các Ngài để ở đâu? Đại-
từ-bi tâm cứu vớt và an lập chúng sanh nơi Vô-thượng Bồ-đề của các
Ngài để chỗ nào? Đại-thệ-nguyện hộ trì Phật pháp chẳng tiếc thân
khiến cho Phật pháp bất diệt cửu trụ ở đời của các Ngài để ở đâu?Quí
Ngài có thể dối người, dối mình, chớ làm sao dối được Thần thức của
vong nhân về Đạo lực của mình, và trước chư Phật, Bồ tát, cùng các
bậc Thần linh trong Pháp giới, vậy thử hỏi làm thế nào quí Ngài có
thể che dấu chỗ ích kỷ, và biếng nhác của mình cho được?
Vì xa rời Phật pháp nên họ phỉ báng lời chư Phật, Bồ tát dạy nơi các
tôn kinh Địa Tạng, Dược Sư, A Di Đà, Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Tỳ Lô
Giá Na Phật Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn, Đại Bảo Quãng Bát
Lầu Cát Thiện Trụ Bí Mật Đà La Ni, v.v… Nên nhớ, các bậc chân sư
không những hoằng dương Chánh pháp để hướng dẫn người sống,
mà còn biết phương tiện để hướng dẫn cho người chết. Có như vậy
mới nói lên cái ý nghĩa trọn vẹn của câu: “Sanh tử và Niết bàn đâu
phải là hai.” Đây là chỗ đặc thù của Phật gia, trái lại, bọn tà sư, ngoại
đạo, chỉ biết hứa suông, hứa cuội với đám tín đồ điên đảo, si mê về một
thiên đàng không tưởng, rồi đồng kéo nhau vào chốn U minh không
biết đến bao giờ mới thoát ra được.
Xét rằng, không ai mà chẳng chết, nếu chết mà không biết phương
pháp để tự giác ngộ, hoặc siêu sanh về Tịnh độ của mười phương chư
Phật thì chẳng hóa ra mình là đứa ngu ư. Hễ ngu thì làm sao gọi là
người trí, mà trong Phật pháp hễ không có trí tuệ thì dù rằng chết có
để lại vài ba bài kệ để hù kẻ hậu sanh, hoặc lưu lại “xá lợi năm sắc” đi
nữa cũng chỉ là việc trong mộng nào có ích chi!
Khi một người mãn nghiệp thì phải chết, phàm phu gọi đó là cái chết
bình thường, hợp lẽ tự nhiên. Nhưng nếu lấy trí nhãn mà nhìn thì cái
chết không phải đơn giản như nhiều người thường tưởng, cũng không
phải “chết là hết”, như sự chủ trương của bọn người Duy Vật. Đối với
4
người tu theo đạo Vô Thượng Bồ đề thì ba giai đoạn: Đương lúc chết,
đời sống sau khi chết, và sự tái sanh tầm thường cần phải được
chuyển hóa để đồng nhứt với Tam thân của Như Lai. Đây là chỗ khác
biệt lớn lao giữa Mật giáo và Hiển giáo. Đây là chỗ mà ngoại đạo dù
có tử công phu suy tìm cũng không thể nào hiểu thấu.
Đường lối tu hành của Mật giáo, có thể nói đến 70 phần trăm là chú
trọng đến sự chuyển hóa toàn diện ba giai đoạn: Đương lúc chết, đời
sống sau khi chết và sự tự tại tái sanh, còn 30 phần trăm khác là tu tập
để hiệp nhứt với Tam thân của Như Lai khi còn sống! Cuộc đời của
một bậc Du già hành giả không phải chấm dứt khi vị ấy trút hơi thở
cuối cùng như nhiều người lầm tưởng!
Thế nên, Tổ Ti-Lô-Pa xưa có lời “cái chết thực sự không phải là chết
mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.”
Ôi! Đối với hàng cụ phược phàm phu thì cái “CHẾT” quả là thống
khổ, kinh hoàng, nhưng chết thật sự là gì?
Khi một người chết có nghĩa là Lục đại của kẻ đó lần lần bị hòa tan
vào với Lục đại của pháp giới, ở đây màu sắc, tôn giáo, giàu nghèo,
sang hèn v.v… không có gì khác biệt nhau cả. Người đang chết sẽ thấy
những dấu hiệu chắc chắn xảy ra bên trong cũng như bên ngoài.
Những dấu hiệu kia có liên quan vô cùng mật thiết đối với sự tan biến
của các Đại. Đầu tiên, người ấy thấy một dấu hiệu nó giống như một
ảo ảnh, như sóng nước xa xa trên mặt đường tráng nhựa, như nước
giữa sa mạc lúc trưa hè nóng bức, đó là do Địa đại hòa vào Thủy đại.
Nói là Đại nầy tan biến vào Đại kia là cho dễ hiểu, chớ kỳ thật thì thế
lực của Đại trước bị Điạ sau lấn áp mà thấy như vậy, chẳng hạn như
trong đời, nếu Thủy đại lấn áp Hỏa đại nhẹ thì xổ mũi, tiêu chảy, ói
mửa, thân thể càng ngày càng phát phì, phát trướng v.v… nặng thì bỏ
mạng! Một khi Hỏa đại lấn áp Địa đại và Thủy đại nhẹ thì chóng mặt,
nhức đầu, táo bón, thân thể càng lúc càng tiều tụy v.v… nặng thì hoa
mắt, điên khùng, máu tai, máu mũi, máu miệng trào ra, không lâu
quyết sẽ bỏ mạng! Thức cũng vậy, nó càng lúc càng vi tế hơn khi
đương chết so với lúc còn sanh thời.
Tiến trình của cái CHẾT có tám (8) giai đoạn:
1. Địa đại tan biến vào Thủy đại.
2. Thủy đại tan biến vào Hỏa đại
3. Hỏa đại tan biến vào Phong đại
4. Phong đại tan biến vào Hư không đại
5. Hư không đại tan biến vào Thức đại

5
6. Giọt trắng của Bồ đề tâm (tinh cha khi mới thọ thai, từ đảnh đầu đi
xuống hướng trái tim.)
7. Giọt đỏ của Bồ đề tâm (huyết Mẹ khi mới thọ thai, từ đan điền đi lên
hướng trái tim)
8. Giọt đỏ và giọt trắng gặp nhau tại trái tim tại giọt bất hoại, kinh
nghiệm tối xầm, rồi ánh sáng tràn ngập và Thần thức theo một trong
những cửa mở sẵn tùy theo nghiệp mà bỏ thân cũ để thọ thân Trung
ấm sau khi chết (Trung Hữu).
Ngay lúc nguyên khí (cũng gọi là gió vi tế) tan biến vào Thức đại thì
người hấp hối sẽ ngưng hô hấp… Bên trong thì người chết thấy
những đốm sáng chập chờn như đôm đốm… Nếu người chết sẽ bị đọa
vào ba đường dữ, thì đầu tiên hơi ấm của nửa thân phía trên sẽ lần
lần tan mất. Trái lại, nếu sanh về ba đường lành thì đầu tiên hơi ấm
của nửa thân phía dưới sẽ lần lần tan mất. Nếu người chết sanh về
Thánh giới như các cõi Tịnh độ thì hơi ấm cuối cùng sẽ ra từ cửa
thanh tịnh ở trên đảnh đầu…
Thế nên, ai là người muốn giải thoát mình và chúng sanh ra khỏi
chốn sanh tử luân hồi thì hãy nhiếp tâm, tịnh ý mà học tập theo sách
nầy.
Cứu độ Thân trung ấm vốn là một pháp môn của Mật tông, nó được
truyền từ kim khẩu của một bậc Đạo sư, A-xà-lê, xuống đến người đệ
tử thụ pháp, mà không được viết lại thành sách bởi vì các bậc Đạo sư
e sợ ba điều:
1. Những kẻ ngu si, hoặc những người tà kiến chỉ biết căn cứ vào chữ
mà giải thích khiến cho chân nghĩa bị lãng quên.
2. Bóp méo sự thật về Mật tông, khiến chúng sanh bị tội khổ.
3. Ỷ lại sách nầy mà phế bỏ công phu tu tập. Trên căn bản pháp môn
cứu độ Thân trung ấm nầy bao hàm cả Thai tạng và Kim Cang giới.
Pháp môn thù thắng nầy được truyền sang Việt Nam có lẽ vào khoảng
thế kỷ thứ V-VI, do đức Tỳ-ni-đa-lưu-chi, chỉ có phần đầu và nửa
phần giữa, nghĩa là chư A-xà-lê ở Việt Nam chỉ truyền cho chúng đệ
tử giáo lý về Tử hữu và Trung hữu. Như vậy thiết nghĩ cũng quá đầy
đủ rồi. Thế nên, bản thân Mạt nhân chỉ biết được có chừng bấy nhiêu
thôi.
Ở Ấn Độ, sách nầy được Ngài Liên Hoa Sanh (Padma Sambhava) viết
vào thế kỷ thứ VIII-IX cho các đệ tử người Ấn Độ và Tây Tạng, sau đó
ngài Liên Hoa Sanh giấu pháp môn nầy ở một nơi rất kín, mãi đến thế
kỷ thứ XIV thì đức Karma Lingpa tìm được. Trong đó có cả bức mạn-
đà-la bí mật của 48 vị Thiện thần và 52 vị Hung thần, còn các vị Trì
6
minh vương và Trì Minh Phi thì không thấy nói đến (đây là một bộ
phận của hai Mạn đà la Vương Thai Tạng và Kim Cang, hai giới nầy
không được các Phật tử Tây Tạng chú trọng như ở Việt Nam, Nhựt
Bản và Java). Phần thứ ba của sách Thân Trung Ấm đặt căn bản
hoàn toàn trên Guhysamaja-Tantra. Kinh văn nầy không được truyền
sang Việt Nam. Theo ngu ý thì phần thứ ba là một sáng tạo độc đáo
của đức Liên Hoa Sanh vậy.
Thoáng một cái đã hai mươi năm rồi, trước khi xuất dương, A xà lê
của Mạt nhân có huyền ký là, phần cuối của giáo lý Thân Trung Ấm
sẽ được một vị Lạt Ma người Tây Tạng giới thiệu. Mạt nhân rất lấy
làm lạ vì bản thân không biết tiếng Tây Tạng, cũng không biết tiếng
Anh Cát Lợi, với số vốn rất hạn chế về Cổ Phạn thì làm sao có thể học
được. Nhưng rồi, chuyện đâu cũng vào đó, sang đến Hoa Kỳ Mạt
nhân có viếng trung tâm Phật giáo Tây Tạng vào năm 1987 để bái kiến
phương trượng Khempo Rinpoche, Konchoq Gyaltshen và trình bày về
điểm thiếu sót nầy và cầu xin Ngài thành toàn cho, và đồng thời có
trao đổi với Ngài ý chỉ của kinh Chuẩn Đề và Phật Đảnh Tôn Thắng
Đà Ra Ni. Ngài giới thiệu quyển Bardo Teachings: The Way of Death
and Rebirth của Lama Lodo, và trao tặng Mạt nhân một ít sách do
Ngài dịch, và hứa khả sẽ giới thiệu Mạt nhân với đức Ban Thiền nếu
Mạt nhân muốn xuất gia tu học, khi cơ duyên thuận tiện… Rồi Ngài
về Ấn Độ, đi đi lại lại các trung tâm Phật giáo do Ngài sáng lập trên
toàn thế giới để độ sanh. Nói như vậy, không phải Mạt nhân là đệ tử
của Ngài.
Sau khoảng thời gian dài nghiên cứu, Mạt nhân thấy sách này khoảng
80% giống như những điều mà mình đã biết nên khi soạn quyển Giáo
Lý Bí Mật về Thân Trung Ấm, Mạt nhân lấy nó làm cái sườn để triển
khai Mật giáo của Việt Nam cho có quy cũ hơn.
Tuy nhiên, sách do Lama Lodo viết có vài điểm không giống như điều
mà Mạt nhân đã học, nhưng không có nghĩa là Ngài sai! Nói chung,
không có khác biệt chi mấy giữa hai loại truyền thừa này. Chẳng hạn
như chư Bồ tát Ba la mật (Phật mẫu) chỉ hầu cận đức Phật Chủ của
mỗi Bộ chớ không có ôm nhau trong tư thế Phụ mẫu như của Phật
giáo Tây Tạng chủ trương. Vả lại, kinh văn của Phật giáo Tây Tạng
có sự sắp đặt chư Phật mẫu không giống như của Kim Cang Giới Mạn
Đà La. Cũng như dùng chủng tử HRIH thay vì chủng tử AH, hoặc
AM. Đứng trên mặt phán giáo mà xét thì giáo lý cứu độ Thân Trung
Ấm của Ấn Độ và Tây Tạng thuộc Liên Hoa Bộ, còn giáo lý nầy ở Việt
Nam thì thuộc Phật Bộ, cho nên chủng tử được sử dụng cũng có sai

7
khác. Tuy nhiên, cả Liên Hoa Bộ và Phật Bộ trên bản chất vốn không
khác nhau, nhưng trên phương diện độ sanh thì nó có khác biệt. Thai
Tạng Giới chủ trương chỉ có ba bộ đó là Phật, Liên Hoa và Kim Cang
(dựa trên kinh Đại Nhựt, thứ lớp triển chuyển), còn Kim Cang Giới lại
chủ trương cả thảy ngũ bộ (dựa vào 18 Pháp Hội Du Già của Kinh
Kim Cang Đảnh). Vì các điểm khác biệt kia trên bề mặt, Mạt nhân
không ngần ngại chua thêm vài lời chú thích để quí Ngài tiện dịp
nghiên cứu và tu tập.
Nguyên sách nói về Thân Trung Ấm ở Việt Nam đã có một bổn do Cư
sĩ Liên Địch Nguyên soạn bằng Hán văn cho các cư sĩ tu theo pháp
môn Tịnh độ dùng để tu học và hộ niệm, sách nầy được Sa môn Thích
Quang Phú dịch ra Việt văn năm 1968. Sách nầy chỉ nói sơ lược, có lẽ
Liên cư sĩ tin tưởng sự tu học của người đương thời khả dĩ lãnh hội
được cho nên chỉ viết những điều khái quát.
Quyển thứ hai do dịch giả Trần Ngọc Anh chuyển dịch từ tiếng
Âu Mỹ sang Quốc ngữ năm 1993 và tái bản lần thứ hai do nhà xuất
bản Thế giới đảm trách. Sách nầy cũng nói sơ lược, và phạm phải rất
nhiều lỗi lầm nghiêm trọng của Samaya!
Thứ nhứt là do chuyển dịch nhiều bận, nên “tam sao thất bổn.”
Thứ hai là các danh từ chuyên môn của Mật tôn bị bóp méo có lẽ bản
thân dịch giả không có tu tập theo Mật pháp mà ra, chẳng hạn như:
“Ngài Tổng thể Phật” chánh Phạn là “Samantabhadra” tức là đức
Phổ Hiền – “Yếu tố lửa” phải dịch là “hỏa đại”, các “yếu tố” khác
cũng phải dịch là “đại” - “Mẹ Không Tiến Nữ”, chánh Phạn là
“dakini” trong Mật giáo Việt Nam thường dịch là “Mẫu kiết ni”.
“Thực tại Mẫu, Thực Tại Hậu Duệ” đã là thực tại thì làm sao có mẹ
và con? “Thiên thể” để chỉ cho các “bậc thần linh”! Chữ “thực
trạng”, “tình trạng” phải được thay thế bằng “cảnh giới.” “Thánh
Thể Cha Mẹ”, “Cha Mẹ Bạt Già Phạm”? – “Sư Tử ở nước” phải dịch
là “con sấu”… Nhưng, ở đây Mạt nhân không phải làm cái chuyện
bình phẩm người và sách, nhưng nghĩ thương cho dân Việt vốn không
biết, nay lại bị những sự sai lầm gieo trong tâm thức thì thật là tội biết
dường bao!
Vẫn biết rằng viết sách Mật tông là một sự liều lĩnh, nhưng vì muốn
lợi ích cho hết thảy dân Việt, và cũng để đền đáp công ơn dạy dỗ của
cố Hòa thượng Thường Huệ và A xà lê Viên Đức, Mạt nhân quyết
định thành lập tác phẩm có một không hai nầy cho Việt Nam. Đây là
lần đầu tiên trong lịch sử Mật tông Việt Nam, quyển Giáo Lý Bí Mật
về Thân Trung Ấm được thành toàn, nhưng Mạt nhân không hướng
8
dẫn quí Ngài tái sanh trở lại kiếp người, chỉ hy vọng quý Ngài đạt
được sự giải thoát viên mãn.
Chư sư người Tây Tạng đã có truyền thống tái sanh, quí Ngài muốn
chứng minh cùng thế giới rằng tái sanh là chuyện thật, không phải là
ức đoán của hạng cuồng ngu. Ai muốn trở lại cõi nầy tu tập, hoặc dìu
dắt chúng sanh thì hãy đem lòng chí thành, bỏ hết thân tâm cầu Đạo
với chư chân sư Tây Tạng, vì ngày nay chư sư Tây Tạng cũng có
nhiều bê bối.
Rất nhiều người cho rằng không cần phải tu tập, miễn có sách nầy đọc
khi chết thì đủ để được giải thoát. Mạt nhân không đồng ý với quan
điểm nầy. Phật giáo không chủ trương khoác lác, hứa hẹn suông, mà
chú trọng nhứt là sự tu tập. Không tu mà được giải thoát thì chỉ có các
bậc Thượng địa Đại Bồ tát thị hiện mà thôi, kỳ dư tất cả mọi người
không phân biệt già trẻ, gái trai, nếu muốn giải thoát thì phi con
đường tu tập, quyết không thể nào giải thoát! “Phải tự thắp đuốc lên
mà đi!” “Chư Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành.” Mạt
nhân chưa từng nghe, thấy có vị Phật nào không tu mà thành được
đạo Vô thượng Bồ đề vậy.
Nếu có ai đọc sách nầy, nhứt tâm y pháp đây tu hành mà bị đọa lạc
vào ba đường ác, tôi, Nguyễn Pram, pháp danh Thiện Thọ, pháp hiệu
Pháp Định, nguyện sẽ thay thế cho mà chịu những sự đau khổ, nhẫn
đến thay thế chịu khổ nhọc trong vô lượng trăm ngàn ức kiếp nơi Địa
ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, đến khi nào bậc Chánh tín kia được thành
Phật, nhập Vô dư Niết bàn, thì sau đó, tôi sẽ tự vun trồng thiện căn
trong vô lượng trăm ngàn vô số kiếp rốt sau sẽ được Vô thượng Bồ đề.
Mạt nhân nay thành tâm, năm vóc sát đất, cúi dâng sách Giáo Lý Bí
Mật về Thân Trung Ấm đến quí Ngài ngự lãm. Sau khi nghiên cứu kỹ,
xin quí Ngài hãy tự mình rút ra những điều đã được học trong sách
mà viết một nghi quỹ cho riêng mình để tu tập, và dự phòng khi ra đi
thân nhân biết được cách thức trợ giúp. Xin quí Ngài chớ cô phụ lòng
kỳ vọng của Mạt nhân. Mong thay!
Hỡi chư Phật trong tương lai! Con nay xin qui mạng chư vị, xin
thương xót con, luôn nghĩ tưởng đến con!
Soạn giả: Nguyễn Pram
Bồ tát giới tử: Thiện Thọ
Du già hành giả Pháp hiệu: Pháp Định

Cái lạ của đạo Phật là càng bị áp bức, càng bị đau khổ chừng nào thì
càng khiến cho Bồ tát và quyến thuộc của Ngài (những bậc cùng chí

9
hướng, mới phát tâm được Ngài hướng dẫn, chứ không phải thứ bà
con ruột thịt tầm thường) mau xuất hiện chừng nấy. Ngày nay ở Việt
Nam cũng không thiếu gì Bồ tát dùng Tâm đại bi và sức phương tiện
mà sanh vào nhà của những người Cộng Sản quyền cao, chức trọng
để chuyển hóa lần lần kiến chấp tà vạy của Cha ông, khiến Cha ông
chúng theo về với chánh pháp. Đây chỉ là do cộng nghiệp cùng nhân
duyên mà thôi. Khi nào thời cơ chín mùi, thì sẽ có các trang nam tử,
các hàng nữ nhân từ trong lòng Cộng sản đứng lên quật lại bọn Cộng
sản ngoan cố để cứu độ sanh linh đồ thán. Nói cách khác, nếu Cộng
sản diệt Phật giáo đồ, thì chính là tự diệt con cháu mình luôn! Không
cần phải dụng binh mà tự thành, là nghĩa nầy vậy. Nhưng đây là việc
về sau của thế kỷ XXI…
Giới Thiệu Tổng Quát
***
Chúng sanh trôi nổi trong dòng sanh tử luân hồi cũng vị vọng tưởng mà
sanh điên đảo. Vọng tưởng số kia vô lượng vô biên đồng như chư Pháp.
Chư Pháp tuy nhiều đến số vô lượng vô biên nhưng tựu trung chỉ trong
hai loại đó là Pháp thế gian và Pháp xuất thế gian hoặc Thánh pháp.
Pháp Thế Gian
Pháp thế gian thì không có giới hạn, nhưng theo như lời của đức Đại bi
Thế Tôn thì tất cả Pháp thế gian đều xuất phát từ trong năm nhóm mà
chúng ta thường thấy trong nội điển gọi là Ngũ uẩn (Skandhas).
Ngũ uẩn chính là:
1 - Sắc: Hình tướng, nói chung là phần vật chất.
2 - Thọ: Cảm giác. Cảm nhận sự khoái lạc và đau khổ, buồn phiền hay
dửng dưng tức là xả,
3 - Tưởng: Trí giác tức là kiến v.v…
4 - Hành: Hành động thi vi của tham, sân, tín, huệ v.v… mà tạo ra
Nghiệp nhân vô cùng,
5 - Thức: Thường thì có Tám, đó là: Nhãn (caksur), nhĩ (srotra), tỷ
(ghrana), thiệt (jihva), thân (kaya), ý (mano), Mạt na (klistamanas) và A
lại da (alaya: còn gọi là nghiệp thức hoặc Thần thức; thức nầy rất khó
hiểu nó là cái kho thiện ác và vô ký của Nghiệp, chính từ nó mà hiện
tượng giới lưu xuất, nó không rời Chân như, nên có chỗ gọi là Chân như
tại triền là chỉ cho Thức vi tế nầy). Theo Mật tông thì có thêm Thức thứ
chín đó là Vô cấu thức (amala) hoặc Chân thức, bởi vì nó thanh tịnh và
vô cấu nhiễm, nên có nơi gọi nó là Như Lai xuất triền, nó chính là chân
như (tathata) vậy.

10
Chín thức nầy không bao giờ thiếu vắng trong thân thể của một chúng
sanh trong Mười Pháp giới (từ các chúng sanh tối ngu như ở địa ngục
đến các bậc Đại giác như chư Phật).
Lòng tin sai lầm vào cá tính hay cá nhân phát khởi từ sự phát minh
ra một cái NGÃ ở trên hay bên ngoài năm nhóm (Uẩn) nầy.
Lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý) và Lục trần (sắc, thanh, hương,
vị, xúc và pháp) tạo ra 12 Giới, 18 Xứ, và ba Đường, Sáu nẻo. Đây là
hiện tượng của ảo tưởng sanh tử luân hồi.
Xuất Thế Gian Pháp
Xuất thế gian pháp cũng có vô lượng vô biên, nhưng tựu trung cũng
không ngoài Ba thừa đó là:
1/ Thanh văn, Duyên giác thừa, hoặc Tiểu thừa.
2/ Bồ tát thừa, hoặc Đại thừa.
3/ Bí mật thừa, hoặc Tối thượng Kim cang thừa, hoặc Đại Bất Tư Nghì
Thành Phật Thần Thông thừa.
Nên nhớ, giáo pháp của Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn tuyên thuyết so
với giáo pháp của đức Bất Động Như Lai chỉ là một phần nhỏ mà thôi,
hà huống là giáo pháp của tất cả Như Lai nơi pháp giới. Lời nói trên, vốn
từ nơi Cưỡng Thuyết Môn mà lập, chớ kỳ thật thì giáo pháp của chư Phật
thậm thâm bất khả tư, bất khả thuyết, vượt ra ngoài ngôn ngữ của thế tục.
Xin quý Ngài chớ chấp trước vào Tam Tạng kinh điển, rồi cho là mình là
bậc đa văn, biết hết hiểu khắp.
Thân Trung Ấm
(Antarabhava)
Thân Trung Ấm (kinh Đại Bảo Tích chủ trương) còn có tên là Trung
Hữu. Sau cái thân Tử Hữu trước cái thân Sanh Hữu, chính giữa có cái
thân Ngũ ấm tên là Trung ấm, tức là nó dùng cái ngũ ấm dị thục để làm
thể giữa cả lục thú; ngoại trừ chúng sanh ở Vô sắc giới, vì chỉ có 4 uẩn:
Thọ, tưởng, hành và thức. Kỳ dư tất cả các chúng sanh khác đều có cái
thân đủ 5 căn là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. Song cái hình tượng hoặc lớn
hoặc nhỏ đều như cái lượng của thân bổn hữu. Nói cách khác thì Thân
Trung Ấm là giai đoạn chuyển tiếp thân cũ và thân mới. Kinh nghiệm
quá khứ đã qua, kinh nghiệm tương lai chưa đến, do đó có một khoảng
trống giữa hai kinh nghiệm nầy tạm gọi đó là Thân Trung Ấm.
Thân Trung Ấm còn gọi là Bardo theo tiếng Tây Tạng (đây là do Ngài
Liên Hoa Sanh chủ xướng). “Bar” có nghĩa là “ở giữa”, “do” có nghĩa là
“hòn đảo” hoặc “biên giới”. Với ý nghĩa nầy thì Bardo là giai đoạn
chuyển tiếp giữa ổn kiện và sự bất ổn của tinh thần, hoặc của giai đoạn

11
điên đảo và điên đảo bắt đầu chuyển hóa thành trí tuệ; và dĩ nhiên nó
cũng mang một ý nghĩa là đại diện cho cảnh giới giữa chết và sống.
Trong thực tế có sáu (6) thứ Thân Trung Ấm:
a. Thân Trung Ấm lúc còn sống và hoạt động (Kye Ne Bardo hoặc
Bardo of Life): Nó bao gồm những kinh nghiệm huyễn hóa khi còn
sống. Nó bao gồm cả những hành vi thiện và ác, tích cực và tiêu cực
trong khoảng thời gian của một chúng sanh lúc bắt đầu mới cất tiếng
khóc chào đời cho đến lúc hơi thở cuối cùng đi ra.
b. Thân Trung Ấm trong giấc chiêm bao (Milam Bardo hoặc Bardo
of the Dream State): Nó bao gồm tất cả những hoạt động của tinh thần
trong lúc thân thể vật chất ở vào tình trạng ngủ bao gồm cả khi ngủ mê
do thuốc, hoặc do chấn động gây ra.
c. Thân Trung Ấm khi tĩnh lự/ thiền (Samten Bardo hoặc Bardo of
Meditation): Nó bao gồm những kinh nghiệm nội chứng từ cảnh giới
thấp (nhứt tâm bất loạn) đến đạo quả Vô thượng Bồ đề.
d. Thân Trung Ấm đương lúc chết còn gọi là Tử Hữu (Chikai Bardo
hoặc Bardo of the Process of Death): Đây là chỉ cho giai đoạn từ khi
một cá nhân bắt đầu trút hơi thở cuối cùng cho đến khi thân tâm đã
bị phân tán. Giai đoạn nầy xảy ra trong khoảng bảy (7) đến tám (8)
giờ đồng hồ, lâu nhứt là một ngày, rồi Thân Trung Ấm chuyển qua
giai đoạn kế.
Không một ai trên thế gian này thoát khỏi nó dù cho kẻ đó là tiên, là
thần, là trời đi nữa. Cho nên chúng ta cần phải đem hết nỗ lực ra để
chuẩn bị cho những nỗi khó khăn, những bức não, khổ đau mà chúng ta
chắc chắn sẽ kinh nghiệm một ngày không xa.
Nên nhớ, rất có ít người chết trong an lành, trong những đau đớn mà
chúng ta đã trải qua trong đời thì không có đau đớn nào hơn khi Lục đại
(đất, nước, gió, lửa, hư không và thức) tan rã (có nơi bỏ Hư không đại và
Thức đại nên gọi là Tứ đại).
Hầu như không ai mà chẳng muốn sống, thậm chí có rất nhiều người
không dám liên tưởng đến cái chết. Đối với những người có trình độ tâm
linh thuộc loại thấp thì cái chết là một mối đe dọa rất khủng khiếp. Còn
đối với bậc tu hành có đời sống tâm linh cao thì cái chết là một điều đáng
mừng, vì nghiệp cũ đã xong, thân tàn đáng bỏ, chính vào lúc ấy, cùng
với Tam thân Phật hiển lộ và hiệp nhứt thì còn chi vui sướng cho bằng.
Nhưng ở đời, thử hỏi bậc có trình độ tâm linh cao được bao nhiêu vị?
Khi cái chết nó đến với chúng ta thì dù cho cha mẹ, vợ con, anh em, bạn
bè, tôi tớ v.v… có yêu mến chúng ta đến đâu đi nữa cũng không thể nào
chết thế cho mình được, huống là của cải, bạc tiền, danh vị ở đời…
12
Chết là điều hiển nhiên và chắc thật.
Rồi, ai trong chúng ta cũng phải chết!
Kìa như Đức Đại Bi Thế Tôn Thích Ca,
Ngài cũng thị hiện bỏ thân vào Niết Bàn.
Các bậc tu hành đắc đạo cũng vậy,
Không ai mà chẳng trải qua cái chết.
Thử hỏi chúng ta làm sao mà chẳng chết?
Nhưng than ôi! Có lắm kẻ ngu si ráng kéo dài kiếp sống trong vô nghĩa,
họ ôm ấp bị thịt của mình mong cho nó chậm già nua bằng cách tập
luyện thể dục, du già, hoặc thoa tẩm, uống ăn các chất thuốc để “kéo dài
tuổi thọ”, để được “trường sanh bất tử”. Nghe ở đâu có chùa, đình, tháp,
miếu, nhà thờ nào “linh ứng” thì họ chẳng quản đường xa, chẳng ngại
tiền bạc, ùn ùn, xông xáo tìm đến hầu mong hối lộ thần thánh và đám tu
sĩ dựa danh tôn giáo, tín ngưỡng để sống qua ngày. Họ đinh ninh rằng
những người đó sẽ giúp cho họ sống an vui mà hưởng hết “số trời” và
khi chết sẽ về cõi họ mong muốn. Ôi! Điên đảo lắm thay, nhưng rồi
người ta cứ làm mãi hết thế hệ nầy đến thế hệ khác!
Cái chết là hậu quả chắc thật của thân nầy. Như vậy, chúng ta phải
làm thế nào để đối đầu với cái chết hữu hiệu nhứt?
Trên căn bản thì có hai cách. Cách thứ nhứt là tu tập theo Chánh pháp
của đức Phật Đà với lòng Đại Từ Bi xót thương tất cả chúng sanh. Cách
thứ hai là phải đặt hết lòng tin vào Chánh Pháp. Với hai cách nầy chúng
ta có thể vượt qua mọi trở ngại khi cái chết đến.
d. Thân Trung Ấm sau khi chết còn gọi là Trung Hữu (Chonyi
Bardo hoặc Bardo of After Death): Thân Trung Ấm khởi sự khi vọng
tâm trở về với bản thể của nó. Giai đoạn nầy rất quan trọng, nó xảy ra
trong khoảng bảy (7) ngày sau khi chết. Thân Trung Ấm sẽ trải qua
những kinh nghiệm về ánh sáng/ quang minh.
e. Thân Trung Ấm đi tìm thân sau để đầu thai trong vòng sanh tử
luân hồi còn gọi là Sanh Hữu (Sipai Bardo hoặc Bardo of the Search
for Rebirth in Samsara): Giai đoạn nầy xảy ra khi vọng tâm bắt đầu
chấp lấy một thể xác khác để đi đầu thai.
***
Ba thứ Thân Trung Ấm sau sẽ được trình bày cặn kẽ hơn vì nó là điểm
chủ chốt để cứu độ vong nhân.
Tuy nhiên, muốn hiểu về Thân Trung Ấm thì cần phải hiểu về Thần thức
hoặc A lại da thức. Thức nầy ở thể động gọi là Như Lai tại triền, tức là
chúng sanh chìm đắm trong biển khổ sanh tử luân hồi. Thức nầy có công
năng huân tập các chủng tử thiện ác, và biến hiện ra Ba cõi, Sáu đường,

13
thông suốt cả Thập pháp giới. Khi Thức nầy trở về thể tịnh thì không còn
gọi là A lại da thức mà gọi là Vô cấu thức, còn gọi là Như Lai xuất triền,
chúng sanh nào thân chứng được cảnh giới của Vô cấu thức thì gọi là
Phật Thế Tôn. Vì tầm quan trọng của Thần thức chi phối cả cuộc đời
chúng ta hiện nay, đương lúc lâm chung, sau khi chết nhẫn đến khi thành
Phật, cho nên, người trí cần phải thông đạt Thức vi diệu nầy.
Khổ nỗi, căn cứ vào Kinh Lăng Già Tâm Ấn (Duy thức tông) thì chỉ có
hàng Viễn hành địa (Thất địa) Đại Bồ tát trở lên mới có thể hiểu thấu
hoạt động của nó mà thôi! Thế nên, Mạt nhân sẽ trích một phần của
Kinh Đại Bảo Tích,Pháp Hội Hiền Hộ Trưởng Giả để làm sáng tỏ
nghĩa nầy. Nhưng, nên nhớ, Tôn Kinh đây dạy cho chư vị Quyền Thừa
Bồ tát chớ không dạy cho phàm phu. Kinh nầy do Hòa thượng Thích Trí
Tịnh dịch, Mạt nhân có sửa đổi chút đỉnh, có lẽ do người sắp chữ, hoặc
đánh máy sai vì không biết rõ Phật pháp vậy, chớ không dám “đánh
trống qua cửa nhà sấm.”
Thần Thức
(Alaya-vijnana/A lại da thức)
KINH VĂN:
… Trưởng giả Hiền Hộ bạch rằng:
Bạch Đức Thế Tôn! Các chúng sanh biết mình có Thần thức. Mà Thần
thức nầy như cái hộp báu lúc chưa mở ra thì chẳng biết trong đó có báu
gì?
Bạch Đức Thế Tôn! Thần thức ấy tướng mạo ra sao? Do duyên cớ gì gọi
là Thần thức? Lúc mạng căn các căn sắp diệt, Tứ đại sắp phân tán, Thần
thức ấy không tay,không chân,không mặt,không mắt thì làm sao từ trong
thân dời ra được.Thần thức ấy màu gì, hình gì? Từ trong thân làm sao rời
lìa được Thần thức ấy? Thế nào xả bỏ thân nầy thành tựu thân khác? Thế
nào là xả bỏ các Đại, các Nhập nầy mà hướng đến đời sau? Thế nào
thành tựu nhiều thân sai khác? Nay người đã chết các Nhập vị lai thế nào
tùy thuận? Thế nào đời này tạo căn lành đời vị lai thọ quả báo? Thế nào
đời nay các Ấm, Nhập nầy tạo các căn lành mà đời sau các Ấm, Nhập
khác thọ lấy quả báo? Thế nào Thần thức nầy được thân nơi chỗ kia?
Thế nào các Nhập hình thể theo chỗ kia?
Đức Phật dạy:
Lành thay, lành thay, đúng như lời ông hỏi. Nầy Hiền hộ! Nay ông nên
chí tâm lắng nghe lãnh thọ. Ta sẽ vì ông mà nói Thần thức đến đi dời dứt
.
Nầy Hiền hộ! Ví như Phong đại không hình sắc chẳng nhìn thấy được,
nhưng do nhân duyên mà hiện hình sắc. Nó hiện hình sắc như thế nào?
14
Như gió thổi động các cây cối, thồi chạm vào vách núi bờ sông phát ra
tiếng, do nhân duyên lạnh nóng sanh ra gió nên có thể cảm thọ được, mà
hình thể gió ấy chẳng thấy được, cũng chẳng thấy được tay, chân, mặt,
mắt ra sao, nhưng trên các hình sắc nó có tác dụng tăng ích hơn lên, hoặc
đen, hoặc trắng.
Thần thức giới nầy cũng vậy, chẳng thể dùng màu sắc thấy được
cũng chẳng đến hình sắc, chỉ do chỗ sở nhập làm ra hình thể mà
hiện màu sắc.
Tại sao nơi chỗ kia Thức giới nầy được tên là thọ xúc pháp giới? Lại thế
nào Thức giới nầy bỏ thân nầy rồi sau đó thọ ái xúc v.v…?
Ví như Phong giới hay dời hơi hương nên biết mùi hoa nầy theo gió thổi
lại. Nhưng thiệt ra Phong giới ấy chẳng mang mùi hoa đến cũng chẳng
phải không gió mà mùi hoa hay đến. Hương ấy không có sắc, gió ấy
cũng không có sắc, căn ngửi mùi kia cũng không có sắc.
Cũng vậy, người chết kia Thần thức sắp dời giữ lấy xúc, thọ, v.v…
và các giới rồi có dời kia, do Phụ mẫu hòa hiệp rồi sau biết được có
Thức, do có Thức thì biết có Thọ, có Xúc hòa hiệp mà thành.
Ví như người khỏe mạnh, Thức cường thắng nên có căn ngửi hương, vì
có căn ngửi hương mạnh nên có hương mạnh. Vì có hai xứ thắng nên có
hai sự thắng có thể thấy được. Hai sự thắng là Sắc và Xúc.
Vì gió kia nhiều nên mùi hoa cũng nhiều. Cũng vậy vì Thức lớn nên Thọ
cũng lớn, vì Thọ lớn nên Thức cũng lớn, vì Thức lớn nên các Giới cũng
lớn mà chẳng biết đây là thiện, đây là ác vậy.
Ví như họa sư đã thành tựu giỏi rồi thì bản họa tùy ý muốn phát xuất để
làm liền có thể thành ý hiểu tốt, nên tùy màu sắc đều làm được. Nhưng,
họa sư ấy nếu không có màu sắc thì không thể hiện thành màu sắc. Cũng
vậy, Thức ấy thành tựu sáu sắc căn:
1 – Nhân nhãn (mắt) thấy sắc mà có Nhãn thức (caksur-vijnana), nhân
nhãn thấy sắc, mà thực ra không có sắc;
2 – Nhân nhĩ (lỗ tai) nghe thanh mà có Nhĩ thức (srotra-vijnana), nhân
nghe, mà thực ra không có sắc;
3 - Nhân tỷ (mũi) ngửi hương mà có Tỷ thức (ghrana-vijnana), nhân
ngửi, mà thực ra không có sắc;
4 – Nhân thiệt (lưỡi) nếm vị mà có Thiệt thức (jihva-vijnana), nhân nếm,
mà thực ra không có sắc.
5 – Nhân thân giác xúc mà có Thân thức (kaya-vijnana), nhân chạm xúc,
mà thực ra không có săc;
6 – Nhân ý phân biệt mà có Ý thức (mano-jnana), nhân phân biệt, mà
thực ra không có sắc;

15
Những cái được biết ấy cũng không có sắc. Nên biết trong cảnh giới ấy
cũng không có sắc. Theo thứ đệ như vậy, nên biết [Thần] thức ấy cũng
không có sắc. Phải quán sát như vậy.
Nầy Hiền hộ! Ông hỏi [Thần] thức nầy bỏ thân đến đời kia như thế
nào?
Nầy Hiền hộ! Lúc mạng chung, Thức nầy do nghiệp nắm giữ. Lúc
nghiệp và mạng ấy hết, ví như người nhập tịch diệt tam muội có thân
thức, Thức nầy diệt rồi sau nhập ở trong tịch diệt định. Cũng vậy, Thức
nầy ở bên người chết xả thân và các Đại xả rồi, chỉ có niệm lực biết
như vầy: Tôi là tên… họ… đó. Phàm khi người xả thân có hai thứ:
1. - Một là chánh niệm;
2. – Hai là xúc.
Mà lúc người ấy mạng chung nên thân có Xúc, hai Thọ:
1. - Một là thân thọ;
2. – Hai là niệm thọ,
Sau khi chết, niệm có Xúc.
Lại nữa, ông hỏi Thức ấy nghĩa là gì?
Nầy Hiền hộ! Như có hột giống hay mọc mầm, từ Trí sanh Thức thì
gọi là Niệm. Thế nên Trí hay sanh gọi là Thức, rồi sau trở lại thọ
nơi xúc. Vì trí biết khổ, lạc nên gọi là Thức, sau lại thọ thiện ác, cũng
có thể biết cảnh giới thiện ác nên gọi là Thức, như hột mọc mầm
thân ấy thành tựu, nên gọi là Thức.
Lại nữa, Thức nầy thế nào, bỏ thân đây rồi đến kia?
Nầy Hiền hộ! Ví như trong gương soi hiện thân hình, lại như trong
khuôn đất đúc ra thân hình, lại như lúc mặt nhựt mọc hay diệt trừ tối
tăm, mặt nhựt ấy lặn rồi thì tối trở lại, nhưng mà tối ấy không có chỗ
thường định, chẳng phải không có chỗ thường định, nhưng tối ấy không
có sắc, không thọ chẳng thấy được. Cũng vậy, Thức nầy sanh thân rồi
như tối rời sáng, thân sanh cũng vậy, người ấy chẳng thấy Thức thọ
thân nầy. Ví như phụ nhân thọ thai, mà chẳng biết thai tôi mang đây là
nam hay nữ, là đen là trắng, các căn đủ hay chẳng đủ, tay chân ngay
thẳng hay chẳng ngay thẳng, mà kẻ ở trong thai hoặc vì ăn nóng [hoặc
lạnh] chạm xúc nên liền máy động. Cũng vậy, Thức nầy đến đi co duỗi
cùng chung với mắt mở nhắm, do các nghiệp tạo ra từ trước, nên có
những cảnh giới, tức nơi cười nói v.v… các việc phát sanh mà biết
được Thức an trụ trong sắc thân. Nhưng các chúng sanh chẳng biết
Thức ở trong sắc thân ta hình thể gì.
Nầy Hiền hộ! Các cõi và Thức cảnh giới, sáu (6) căn [nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân và ý] là sáu (6) Giới xứ [sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp].
16
Có bốn (4) Đại xứ [đất, nước, gió, lửa].
Có năm (5) Ấm xứ [sắc, thọ, tưởng, hành và thức].
Ông nên biết cảnh giới Thức cũng như vậy.
Nầy Hiền hộ! Ví như người gỗ do một cơ quan mà tác động, tất cả việc
chạy nhảy và hiện ra các thứ múa men. Ý ông thế nào, có duyên cớ gì mà
người gỗ làm các sự ấy?
Trưởng giả Hiền hộ đảnh lễ chân Phật, bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!
Chỗ hỏi của Như Lai chẳng phải cảnh giới của tôi, tôi không có trí để
đáp được.”
Đức Phật dạy:
Nầy Hiền hộ! Sự kia là do sức trí huệ khéo mà làm ra các sự việc, mà
việc khó ấy không có sắc do trí sanh ra. Cũng vậy, thân người nầy do
Thức khéo mà sanh ra, mà các thứ thân do Thức làm ra, Thức nầy tạo
thân nên sanh ra, nhưng Thức nầy không thể cùng tận. Như do pháp giới
huân tu nên các thân từ xưa trước ý ức niệm thành tựu. Ví như ánh sáng
mặt nhựt soi đến các tử thi tanh hôi dơ dáy mà không bị ô nhiễm, nhưng
hôi dơ ấy chẳng lìa ánh sáng mặt nhựt. Cũng vậy, Thức nầy sơ sanh tại
hôi dơ, do ăn uống các vật bất tịnh [máu huyết của mẹ] thậm chí, lại ở
trong bụng chó heo mà thọ thai, mà Thức nầy chẳng bị ô nhiễm [Amala-
vijnana: vô cấu thức].
Lại nầy Hiền hộ! Thức nầy xả thân rồi tùy theo nghiệp thiện ác đã làm.
Nghĩa nầy là sao? Sau khi bỏ thân thể nầy, Thức liền thọ lấy tội phước
kia. Ví như Phong giới từ đầu núi phát xuất đến rừng chiêm bặc, vì xúc
chạm nên gió ấy thọ mùi hương vi diệu, rồi đến chỗ hôi dơ có các tử thi,
tùy đến nhiều chỗ, gió ấy nhận lấy nhiều mùi. Như gió ấy mang các mùi
kia đi qua, mà gió ấy không sắc, các mùi kia cũng không sắc. Cũng vậy,
xả thân nầy rồi Thức ấy mang thiện ác mà dời theo thứ đệ mà đi. Thức
ấy muốn dời đi, dường như người chiêm bao biết có tất cả các vật mà
thân chẳng dời bổn xứ. Cũng vậy, có phước cũng sanh, lúc Thức muốn
dời đi, dường như chiêm bao thấy có các sự vật, nhưng Thức ấy chẳng từ
yết hầu đi ra, chẳng từ lỗ lông mà đi ra, lúc Thức ấy ra cũng chẳng tìm
các lỗ [yết hầu, các lỗ chân lông]. [Đây là chỗ lập cước của Duy thức và
Mật tông về Thần thức khi xuất ra khỏi thân.]
Trưởng giả Hiền hộ đảnh lễ chân Phật, bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!
Như trứng gà, trứng ngỗng, Thức ở trong vỏ, vỏ ấy không có lỗ, làm sao
biết có Thức riêng khác, trứng ấy không vỡ, Thức ấy làm sao dời đi?”
Đức Phật dạy:
Nầy Hiền hộ! Ví như dùng các thứ hoa chiêm bặc v.v… ướp mè đen cho
thục, rồi ép lấy dầu mà gọi là dầu chiêm bặc v.v… Hơi hương của hoa

17
chẳng phá hoại hột mè đen, mà hơi hương nhập vào, hương ấy chẳng
dính lấy mè, nhân nơi mè và hoa hòa hiệp mà hơi hương dính lấy nhau,
hơi hương chẳng tìm lỗ bên hột mè để chui vào. Nhân nơi hai thứ hoa mè
mà hơi hương dời đổi. Cũng vậy, Thức nầy chẳng phá hoại vỏ trứng mà
nó chuyển dời, ông phải biết như vậy.
Lại nữa, Thức ấy chẳng dời đổi, ví như ánh sáng của mặt nhựt, lửa và
ma-ni-bửu (cintamani) v.v… phải thấy biết như vậy.
Lại nữa, Thức ấy dời đổi dường như hột giống gieo trong đất, mọc ra
mầm, cây, lá, hoa quả hoặc trắng, hoặc đỏ, hoặc đen đều riêng tự có vị
lực thành thực, mà Địa giới ấy vẫn là một, thủy, hỏa, và phong cũng vẫn
là một. Cũng vậy, Thức nầy có một Pháp giới mà thành tựu thân trong tất
cả các cõi rồi sau mới sanh, hoặc đen, hoặc trắng, hoặc đỏ, hoặc các màu
sắc, hoặc bổn tánh cang cường, hoặc bổn tánh điều nhu.
Lại nữa, lúc mạng chung Thần thức nầy xả thân thành chủng tử của thân
sau sắp làm thành thân thể, tay, chân v.v… mà đương thời chưa có Thân
phần, nó bỏ địa phận nầy mà lấy Pháp giới phần, các giới ấy cùng hòa
hiệp với niệm, nhưng niệm ấy do sức tín kính nên hòa hiệp với Niệm
pháp giới, giữ lấy Thức chẳng rời lìa Thức mà pháp giới có thể thấy
được, cũng chẳng rời lìa pháp giới mà Thức có nhân, nhưng Thức ấy
được phong lực trợ giúp, tự có các pháp giới khác đều là vi diệu, đó là
Niệm giới, Thọ giới, Pháp giới, Sắc giới vậy.
Trưởng giả Hiền hộ đảnh lễ chân Phật, bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!
Thức ấy thế nào có sắc?”
Đức Phật dạy:
Nầy Hiền hộ! Phàm có hai thứ sắc là:
1. Nội sắc
2. Ngoại sắc.
Nội sắc là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý vậy.
Ngoại sắc là gì? Đó là sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp vậy.
Nầy Hiền hộ! Như người sanh manh, ban đêm trong chiêm bao thấy
những sắc đẹp tối thắng, tối thượng của cõi trời, thấy rồi người nầy sanh
lòng hỷ lạc tối thắng. Thức giấc không còn thấy, đến sáng nói với mọi
người rằng: Trong đêm rồi tôi chiêm bao thấy thân hình phụ nữ đoan
chánh tối diệu tối thượng, lại thấy trượng phu số đông trăm ngàn, tôi còn
thấy vườn hoa, rừng cây v.v…
Người sanh manh ấy thuật rõ cảnh tượng người vật đã trông thấy trong
giấc chiêm bao mà mọi người chẳng thấy. Ý ông thế nào? Người sanh
manh ấy chiêm bao tại sao được thấy?

18
Trưởng giả Hiền hộ đảnh lễ chân Phật, bạch rằng: “Lành thay, bạch đức
Thế Tôn! Xin vì tôi mà nói sự ấy, tại sao được thấy?”
Đức Phật dạy:
Nầy Hiền hộ! Bởi nhục nhãn nhân trí lực mà người sanh manh ấy ở trong
chiêm bao được thấy, chẳng phải thiệt mắt thấy.
Nầy Hiền hộ! Như người chiêm bao thấy sắc chánh niệm chốc lát, người
chết thấy nội sắc cũng như vậy.
Nầy Hiền hộ! Ta lại vì ông mà giải nói Thần thức người chết dời đổi như
chủng tử.
Ví như chủng tử gieo xuống đất thọ lấy tứ đại, Thần thức nầy thọ chánh
niệm rồi, thọ xúc thọ rồi, thọ thiện, bất thiện rồi, xả thân rồi sau đó mới
dời. [Tử Hửu].
Trưởng giả Hiền hộ đảnh lễ chân Phật, bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!
Thế nào Thần thức nầy thọ thiện và bất thiện rồi sau đó Thần thức nầy
mới dời?”
Đức Phật dạy:
Nầy Hiền hộ! Ví như ma-ni bửu theo bóng sắc mà biến đổi. Nếu để ở nơi
bóng đen thì hình ma ni biến thành đen, nếu để ở trong bóng trắng thì nó
biến thành trắng. Tùy ở chỗ bóng hình thế nào thì ma ni bửu ấy liền biến
đồng màu sắc ấy. Thần thức nầy thọ thiện và ác liền dời đi cũng như vậy.
Trưởng giả Hiền hộ đảnh lễ chân Phật, bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!
Thần thức nầy thể chất gì mà hiện?”
Đức Phật dạy:
Nầy Hiền hộ! Thần thức nầy vô hình không có chỗ tụ họp không có chỗ
tích trữ, cứu cánh không thể được, chẳng thể nói được. Thần thức nầy có
sanh, có diệt, có khổ não, cũng chẳng thể nói được.
Ví như từ hột sanh mầm cũng chẳng thể được. Chẳng phải hột hư sanh
mầm, mà hột tốt kia mới sanh mầm được. Ý ông như thế nào? Hột sanh
mầm ấy vốn ở chỗ nào? Là ở tại thân cây, hay ở tại lá, hay ở tại rễ, hoặc
ở tại nhánh? Cũng vậy, Thần thức nầy ở tại thân thể không có nương ở
chỗ nào, nó chẳng ở tại nhãn, chẳng ở tại nhĩ, chẳng ở tại, tỷ, thiệt, thân
hay ý.
Cũng như từ một hột sanh mầm, hột sanh mầm ấy lấy thủ thọ làm gốc, vì
ở chỗ kia tử nên liền thọ thai, thọ thai rồi liền có xúc. Như sanh mầm rồi
y theo thời tiết mà có nhánh, lá, quả, liền có hột. Cũng vậy, Thần thức
nầy trước tiên thành tựu thân thể, thân thể được thành tựu rồi Thần thức
nầy không có chỗ an trụ mà cũng chẳng rời lìa Thần thức có thân thể.
Như từ trái chín có hột giống chẳng phải từ trái sống. Cũng vậy, lúc thân
mạng nầy chung, từ trong thân thể Thần thức nầy hiển hiện. Do thọ hòa

19
hiệp, do ái trói buộc, do niệm nắm lấy cùng hòa hiệp với thiện phan
duyên hay với bất thiện phan duyên, do phong giới giữ lấy, trí huân theo
nghiệp, nhân phụ mẫu hòa hiệp sau đó Thần thức nầy hiển hiện.
Ví như gương sáng tốt soi thấy hình mặt, chẳng phải không có mặt mình
mà thấy được hình mặt, cũng chẳng phải không gương sáng mà có được
hình mặt. Do gương sáng và mặt hai duyên hòa nên có bóng mặt, mà
bóng mặt ấy không có sắc, cũng không có thọ, không có Thức. Tùy theo
thân chuyển động thì bóng hình trong gương cũng chuyển động, như
thân nói năng dời đổi, chuyển động, duỗi co, cúi ngửa, tùy theo động tác
của thân bóng hình trong gương cũng có những tướng dạng như vậy hiển
hiện.
Nầy Hiền hộ! Ý ông thế nào, bóng mặt ấy do sự gì mà hiện trong gương?
Trưởng giả Hiền hộ đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
Bạch Đức Thế Tôn! Do thân thể người đối với gương nên có bóng hình
hiện trong gương. Tùy theo thân diện có sắc như vậy, bóng hình cũng sắc
như vậy, hoặc các căn đủ hay chẳng đủ, trong gương cũng hiện ra bóng
hình như vậy.
Đức Phật dạy:
Nầy Hiền hộ! Như trong gương sáng hiện có bóng hình, do vì có thân
người mà bóng hình hiện ra trong gương sáng. Cũng vậy, Thân nầy nhân
nơi Thức mà có Thọ, có Thủ, có Thức [7 thức], có các Hành tư niệm
thành tựu thân thể. Nói gương sáng ấy là nói duyên nơi phụ mẫu hòa
hiệp. Nên biết, như thân diệt rồi không có Thức hình, như gương sáng
kia đã hiện bóng mặt xong rồi ở nơi nước trong lại thấy bóng mặt. Cũng
vậy, Thần thức nầy xả thân rồi đến nơi kia lại thọ các ấm khác.
Ví như hột câu Ni-câu-đà, hoặc hột cây Ưu-đàm-bà-la v.v… dầu hột ấy
nhỏ bé mà hay sanh ra cây nhánh rất lớn. Sanh ra cây nhánh rất lớn, rồi
hột lại bỏ rời cây ấy mà đến sanh cây chỗ khác. Cũng vậy, Thần thức nầy
vi tế không có hình sắc nhứt định sanh ra thân rồi lại bỏ để sanh ra các
thân thể khác nữa.
Ví như các thứ hột lớn nhỏ, đại mạch, tiểu mạch, mè đen v.v… tùy gieo
tại địa phương nào, nó liền ở nơi địa phương ấy bén rễ. Cũng vậy, Thần
thức nầy ở trong thân chúng sanh dời đến chỗ kia liền có Thủ, có Thọ mà
ở tại đó, hoặc thọ phước, hoặc thọ tội, từ đời nầy dời đến đời kia.
Như con ong mật, nó tìm mật trong hoa, lấy mật rồi bỏ hoa ấy lại dời đến
hoa khác, hoặc bỏ hoa xấu dời đến hoa tốt, đậu trên hoa rồi, vui say hoa
ấy lấy vị mật của hoa. Cũng vậy, Thần thức nầy do nhiều thiện căn hoặc
thọ thân trời, bỏ thân trời, rồi do nghiệp ác, hoặc thọ thân các thân địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thọ rồi lại thọ thân khác nữa.
20
Nhưng, Thần thức nầy phải quán sát như thế nào?
Như hột Uất-kim-hương, hay hột Hoa-hồng-lam, hay hoa Phân-đà-lợi,
hình thể nó tùy theo phần sắc bất định, mà trong hột nó chẳng thể thấy
mầm cũng không sắc nhứt định. Nhưng hột ấy xuống đất được nước
thấm nhuần liền sanh mầm, có mầm cây rồi sau mới sanh hoa, mà sắc
hoa không thể thấy được nơi hột, cũng chẳng rời lìa hột mà có mầm cây
và màu sắc. Cũng vậy, Thần thức xả thân nầy rồi sắp thành thân kia,
trong khối thịt kia còn chưa có các căn huống là có các nhập, đã không
các căn các nhập đâu được có thiên nhãn, thiên nhĩ, và thể chất hương vị
xúc để được có biết. Đâu có thể biết rằng tôi ở lúc ấy làm nghiệp như
vậy, thân thể quá khứ của tôi như vậy, chỉ nhân nơi Thức mà thọ.
Như con tằm, từ thân miệng nó nhả ra chỉ tơ làm kén bọc vấn thân nó rồi
bỏ thân tằm đổi thành thân khác. Cũng vậy, Thần thức sanh thân rồi trở
lại tạo nghiệp liền tự diệt thân dời đến nơi kia.
Như hoa sen sanh trong nước có sắc đẹp hương thơm, nhưng trong hoa
không có thể chất nước ấy. Hoa sen ấy diệt rồi có địa phương nào đặt hột
nó trong đó thì có sắc hương ở đó. Cũng vậy, chỗ Thần thức nầy được
dời, Thọ cũng không dời, cái được dời ấy chỉ có pháp giới.
Như Châu-như-ý, tùy đến chỗ nào có cần vật gì thì tùy ý được có. Như
ánh sáng mặt nhựt tự theo mặt nhựt, mặt nhựt đến đâu ánh sáng ấy cũng
đến đó. Cũng vậy, chỗ mà Thần thức nầy được dời đến thì Pháp giới của
Thọ, Tưởng v.v… cũng theo nó chẳng rời lìa.
Lại nữa, Thần thức bỏ thân nầy rồi lấy tất cả các hữu tụ họp lại, lấy rồi,
không thịt không xương dời đến thân sau. Nó lấy các hữu và các xúc
v.v… các việc dùng Thiên nhãn xem thấy Thọ và Thủ thiện ác.
Ví như những trái táo nhỏ, thiên-niên-táo, am-ma-la, ca-tì-đà v.v… lúc
nó chưa thành tựu đều riêng có một vị, hoặc đắng, hoặc chua, hoặc ngọt,
hoặc mặn v.v… Những trái ấy chín rồi tùy ở tại địa phương nào thì vị nó
ở trong trái ấy. Hột nó dời đến chỗ kia thì đều riêng có vị ấy. Cũng vậy,
Thần thức nầy dời đến chỗ nào thì nó tự có xúc theo dõi, phước và vô
phước do hữu và niệm tự theo nó mà dời.
Lại nữa Thần thức nầy lúc xả thân nó nghĩ như vầy: “Nay tôi bỏ thân
nầy”, nên gọi niệm thức nầy là Thức. Vì biết nghiệp thiện, nghiệp bất
thiện, biết nghiệp nầy theo tôi mà đi, biết nghiệp nầy theo tôi mà đi, do
vì biết như vậy nên gọi là Thức. Lại vì thân nầy biết tạo tất cả nghiệp nên
gọi là Thức.
Ví như phong giới, hoặc có lúc lạnh có lúc nóng, hoặc có lúc theo
hôi mà có mùi, hoặc nhân thơm mà có mùi, nên biết đó là gió. Cũng
vậy, thể chất của Thức nầy không có sắc, hoặc do sắc, do Thủ sắc làm

21
nhân, hoặc Dục thủ làm nhân, hoặc Kiến thủ làm nhân, hoặc Trì giới cầu
Báo thủ làm nhân, nhẫn đến Hữu và Thọ, nhân nơi Thọ mà thọ thân thể
sắc thành tựu nên gọi là Thức.
Bấy giờ, trong đại chúng có một trưởng giả tử tên Chơn Nguyệt đứng
dậy đảnh lễ chân Phật, chấp tay bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!
Cần phải quán sát sắc ấy, Thủ ấy, Dục thủ ấy, Kiến thủ ấy, và Giới thủ
ấy thế nào?”
Đức Phật dạy:
Nầy Chơn Nguyệt! Phàm là người trí muốn biết những điều ông hỏi thì
phải nên biết như vầy:
Nầy Chơn Nguyệt! Nếu có thiện sắc hay có phi thiện sắc từ nơi khối thịt
phải quán sát gân, máu, mạch và khí mạch, sọ đầu túm lấy óc, ruột già,
ruột non, phổi, tim, gan, cật/thận, tì, mật, các tạng phủ, mỡ, thịt, tủy,
máu, đàm, nước mũi, nước bọt, hôi thúi dơ bẩn phi thường đáng sợ, lông,
tóc, râu ria, da thứa gói che tụ họp, tụ rồi tất cả các sắc đều do bốn Đại
làm thành. Bốn Đại ấy lấy sắc để làm thành thân thể nên gọi là Thủ sắc.
Nầy Chơn Nguyệt! Thân thể ấy do Phụ mẫu hòa hiệp thành cứng rắn đó
là Địa đại, chất ướt lỏng đó là Thủy đại, hơi ấm nóng đó là Hỏa đại, động
tác chuyển lay co duỗi đó là Phong đại, có hay biết đó gọi là thanh,
hương, vị, xúc các giới, hay nhớ biết nên gọi là Thức [Đại].
Trưởng giả tử Chơn Nguyệt bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Thế
nào là lúc chết xả sắc giới? Thế nào Thần thức ra khỏi thân ấy? Thế nào
thân lúc xả rồi nhớ biết như vầy: Đây là thân của tôi?”
Đức Phật dạy:
Nầy Chơn Nguyệt! Thọ thân nầy lúc đương còn, thân nghiệp đã hết thì
xả các Đại. Ví như đem sữa hòa với nước dùng lửa đun nấu. Do vì được
hơi nóng mà sữa và nước đều riêng biệt, nhưng nước ấy có vị mỡ nhờn,
nó không có sắc. Cũng vậy, người chết thọ thân khác, cái Đại khác, Thần
thức cũng có khác, nhưng Thần thức ấy nắm lấy các đại và nắm lấy Pháp
giới rồi dùng Pháp giới huân nơi niệm nắm lấy thiện và bất thiện đến nơi
đời kế sau.
Ví như thuốc dầu tô ma-ha-ca-lương-na, lấy dầu tô cùng các thứ vị thuốc
dùng lửa đun nấu, trong ấy hoặc có cay có đắng, hoặc có chát, có mặn,
hoặc có lạt, nếu lấy các vị rồi nhập vào dầu thành có các vị, sắc, hương
v.v… dầu tô ấy bỏ dời tự thể mà thành vị thuốc. Cũng vậy, xả thân rồi
Thần thức ấy nắm lấy thiện và ác và nắm lấy Pháp giới dời đi đến đời kế
sau.
Nói thể chất dầu tô là để ví dụ cho thân thể. Nói các vị thuốc kia hòa
hiệp tụ tập là ví dụ các căn. Nói dầu thuốc sắc hương vị xúc là ví dụ
22
Thần thức ấy dời đi. Nói sắc sai khác là thiện sắc và ác sắc. Nếu lúc uống
thuốc vào thân mà tiêu hóa lành mạnh là dụ cho thiện nghiệp. Nếu uống
thuốc dầu tô ấy vào thân mà hiện ra héo vàng là dụ cho ác nghiệp.
Nên quán sát thức nầy như thuốc dầu tô ma-ha-ca-lương-na. Như dầu tô
nắm lấy sắc vị của các món thuốc, lấy xong thành thuốc dầu tô ma-ha-
ca-lương-na, nhưng dầu tô ấy không có tay chân và các căn, chỉ lấy vị
của các món thuốc. Cũng vậy, Thức nầy xả thân rồi và xả các giới chỉ
lấy Pháp giới, thủ thọ rồi mang lấy thiện và ác mà đi.
Nầy Chơn Nguyệt! Người ấy xả thân rồi ở đời kế sau được chánh niệm,
được thiện niệm, hoặc lấy Lục Dục Thiên (sáu cõi trời của Dục giới),
hoặc lấy mười sáu đại Địa ngục, hoặc thấy thân thể các căn đầy đủ. Lúc
ấy họ biết như vầy: “Đây là thân của tôi vậy.”
Lúc người ấy mạng chung, họ nhớ thấy các sự tướng: Hoặc thấy xe cộ vi
diệu, hoặc thấy vườn rừng vi diệu, trong vườn rừng ấy có các thứ cây
mới sanh sum suê khả ái, hoặc có ao nước vi diệu, hoặc thấy các sự
thành tựu, thấy rồi họ sanh lòng hoan hỷ. Sanh lòng hoan hỉ rồi họ an ổn
như pháp thọ sanh mạng chung, mà Thần thức của họ dường như cỡi
ngựa, nên quán sát như vậy.
Nói cỡi ngựa ấy, ví như có người ở giữa chiến trường, thân mặc giáp
chắc tốt, giỏi cầm cương ngựa ruổi chạy nhanh lẹ. Cũng vậy, Thần thức
nầy mặc giáp phan duyên thiện quả báo nhanh lẹ, cỡi hơi thở ra vào, xả
các giới, các nhập, xả rồi thọ sanh Phạm Thiên nhẫn đến Sắc cứu cánh
thiên, các xứ vi diệu vậy.
Bấy giờ, trong đại chúng có một đại Bồ tát, Vương Tử Đại Dược, đứng
dậy chỉnh y phục chấp tay bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Thần thức
nầy từ thân nầy dời đi, nó sẽ có màu sắc gì?”
Đức Phật dạy: “Nầy Vương tử Đại Dược! Sự nghĩa được ông hỏi ấy rất
sâu chỉ có chư Phật là biết được thôi, Thức ấy trừ Phật ra không còn có
ai biết được.”
Trưởng giả tử Hiền hộ bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Rất hi hữu,
Vương Tử Đại Dược nầy có thể hỏi sự thậm thâm tối vi tối tế thậm thâm
thậm mật.”
Đức Phật dạy:
Đúng như vậy. Nầy Hiền hộ! Vì Đại Dược thuở xưa đã từng cúng dường
Phật Tỳ Bà Thi gieo trồng căn lành vậy.
Nầy Hiền hộ! Xưa năm trăm đời Vương Tử Đại Dược đây từng làm
ngoại đạo, thuở ấy đã từng hỏi nghĩa của Thức nầy, nhưng ông ấy cũng
chẳng biết được Thức nầy đến đâu, đi đâu. Nay Ta sẽ vì ông ấy quyết rõ
nghĩa đó.

23
Trưởng giả tử Hiền hộ khen Vương Tử Đại Dược: “Lành thay! Lành
thay! Vương Tử Đại Dược có trí tuệ quảng đại không có biên tế mới có
thể hỏi nghĩa thậm thâm nơi Đức Thế Tôn. Nay tôi khuyến thỉnh Đại
Dược xin Ngài hỏi Đức Thế Tôn về nghĩa ấy. Chớ để ông Chơn Nguyệt
vui sướng chút việc mà hỏi Phật trước. Tại sao? Vì ông ấy luôn luôn não
loạn, chẳng khéo hỏi Đức Thế Tôn. Chỉ do Đức Phật Thế Tôn xuất thế
rất khó, nơi thế gian mà tụ họp pháp hội như vầy lại càng khó, nên nay
Ngài phải khuyến thỉnh Đức Thế Tôn giải thích nghĩa xứ thậm thâm ấy.”
Đại Dược Bồ tát chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, thấy Đức Thế Tôn vui vẻ
thanh tịnh như đầu mùa hoa sen vừa nở. Thấy rồi lòng vui mừng bạch
rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Vì tôi khát ngưỡng nên thích nghe
Chánh Pháp, lo sợ Đức Thế Tôn chẳng nói rõ đủ pháp yếu cho tôi,
chẳng quyết nghi cho tôi. Lại lo sợ chẳng bao lâu Đức Thế Tôn sẽ nhập
Niết Bàn. Lại lo sợ các chúng sanh chẳng biết nghiệp báo thiện ác hằng
thọ sanh tử phiền não chẳng bỏ rời được.”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Thuở xa xưa, vì một bài kệ mà ta gieo mình từ gộp núi
lớn để bố thí, Ta lại thật hành vô lượng vô biên khổ hạnh khó làm trăm
ngàn ức các thứ sự việc.
Nầy Đại Dược! Ông có điều gì nghi nên hỏi Phật chớ có ngần ngại, Ta
theo ý ông mà phân biệt giải nói.
Đại Dược Bồ tát lại bạch hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn! Thần thức ấy màu
sắc gì?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! [Thần] Thức ấy như lửa ảo thuật sư, như bóng người
trong nước, như luồng gió vô định, không có sắc nhứt định, như chúng
sanh mắt thấy hư không giống như ái.
Đại dược Bồ tát bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Ái ấy thế nào?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Ví như người bắn cung, do có nhãn căn nên thấy lúc tên
bay đi, như người cầm gương sáng, trong gương thấy bóng. Cũng vậy,
Thức nầy từ thân người dời đi, Thức giới ấy chỉ thấy tội phước.
Như người sanh manh chẳng thấy mặt nhựt lúc mọc, lúc trưa, lúc chiều,
ban đêm cũng chẳng thấy mặt nguyệt lúc mọc, lúc lặn. Cũng vậy, Thần
thức nầy ở trong thân cũng không thấy được.
Nầy Đại Dược! Trong thân nầy, về ái trước và thủ cùng tưởng trí ấy chỉ
có thức. Thân nầy chỗ có hòa hiệp tụ tập các Giới, các Nhập, các Ấm,
v.v… những nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, và sắc, thanh, hương, vị v.v… các thọ
hoặc khổ hay lạc, ý v.v… bao nhiêu những sắc ấy, đây gọi là Thức vậy.
24
Nầy Đại Dược! Như người do thiệt căn mà biết các vị, hoặc đắng hoặc
cay, mà lưỡi kia có sắc còn các vị thì không sắc. Trong thân nầy những
xương tủy máu thịt là có sắc, còn cảm thọ kia thì không sắc, đây gọi là
Thức, là cái lãnh thọ tội phước vậy.
Trưởng giả Hiền hộ đảnh lễ chân Phật rồi bạch rằng: “Bạch Đức Thế
Tôn! Cái thọ tội phước ấy là ai?”
Đức Phật dạy:
Nầy Hiền hộ! Ông lắng nghe nhận kỹ, Ta sẽ nói cho ông. Người thấy
chơn thiệt thì họ thấy Thức nầy, mà Thức nầy chẳng thể thấy được như
trái am-bà-la trong bàn tay có thể thấy được. Thức nầy chẳng ở nơi cảnh
giới của nhãn căn, cũng chẳng phải dùng nhãn căn thấy được, nó không
có sắc thấy được.
Như hằng hà sa số Như Lai thấy Thức nầy. Ta cũng vậy, chỉ vì hàng
phàm phu ngu si chẳng biết, chẳng thấy, nên Ta vì họ mà nói chỉ có
tên Thức chẳng thể thấy nó được.
Nầy Hiền hộ! Thức nầy thọ tội phước, Ta sẽ nói cho ông, ông nên lắng
nghe.
Ví như có người mắc âm quỷ, hoặc dương điên quỷ, hoặc càn-thát-bà
quỷ, hoặc Thiên thần. Nầy Hiền hộ! Ý ông thế nào, trong mình người
bịnh ấy có thể thấy được các âm quỷ thần ấy chăng?
Trưởng giả Hiền hộ bạch Phật rằng:
Quỷ thần ấy ở trong thân người bịnh hoặc nội, hoặc ngoại thiệt không
thể thấy, ở trong thân người bịnh các quỷ thần ấy cũng không có sắc.
Đức Phật dạy:
Nầy Hiền hộ! Như thiên thần tối thắng ở trong thân thể người bệnh, lấy
hoa hương tối diệu, hương thoa hương bột và các vòng hoa, đến ăn uống
đều lấy món tối thượng thù thắng. Thiên thần linh ở trong thân người
bệnh thọ tế tự tối thắng, hoặc thọ vương vị hoặc thọ giàu có nhuận thân
người bệnh khiến khoái lạc hoan hỉ. Thần thức nầy thọ phước quả báo
cũng như vậy, lúc thân nầy lấy nghiệp lành tối thắng, do Thức nên thọ
hoặc lấy vương vị trị dân tự tại, hoặc lấy giàu có làm nhà trưởng giả,
hoặc lấy quả báo chư Thiên.
Nầy Hiền hộ! Như quỷ dơ hôi Tỳ-xá-xà nương ở trong thân người bệnh
lấy các vật dơ hôi, hoặc thọ tế tự tại nhà xí, được tế tự rồi sanh vui mừng.
Người bệnh bị quỷ lực nên thường thích chỗ dơ hôi, vì lòng ưa thích nên
khi được vật hôi dơ thì sanh vui mừng. Thần thức nầy thọ ác quả báo
cũng như vậy, lúc thân nầy lấy nghiệp ác ti tiện, do Thức nên thọ, hoặc
sanh nhà bần tiện, hoặc sanh nhà hạ liệt, hoặc sanh loài ngạ quỷ, hằng ăn
vật hôi dơ lòng sanh vui mừng.

25
Nầy Hiền hộ! Như Thiên thần kia linh, dầu không sắc hình mà thọ tế tự
tối thắng, tối thượng. Cũng vậy, [Thần] Thức nầy dầu không sắc mà thọ
quả báo tối thắng, tối diệu theo nghiệp thọ thân.
Nầy Hiền hộ! Như quỷ Phú-đơn-na kia dầu không sắc mà thích ăn các
vật hôi dơ. Cũng vậy, [Thần] Thức nầy ở tại nghiệp bất tịnh thì hằng ưa
chỗ hạ liệt.
Nầy Hiền hộ! Như quỷ thần kia ở trong thân người mà không có sắc.
Thức nầy thọ quả báo thiện hay bất thiện cũng như vậy.
Đại dược Bồ tát bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Thần-thức thọ dục như
thế nào?”
Đức Phật dạy rằng:
Nầy Đại Dược! Sẽ thấy có người hòa hiệp nên sanh ý tưởng dục.
Ví như dùng gỗ cọ ra lửa, do sức nơi thân người rồi sau mới phát ra lửa.
Dục thọ ở nơi dục do nơi ý cảm nơi xúc rồi sau sanh dục sự.
Ví như do nơi hoa thành hột, nhưng trong hoa ấy ban sơ không có hột, vì
có hoa nên sau kết hột có thể thấy được. Cũng vậy, thân nầy sanh rồi sau
Thức ấy có thể thấy được, mà trong thân ấy cũng không có Thức có thể
thấy. Do có Thức nên trong thân có xương, tủy, máu, thịt v.v… các vật
bất tịnh.
Ví như hột giống kia, gieo trồng rồi sanh hoa, do hoa mà thọ sắc hương
vị v.v… đã thành thân rồi cũng trở lại diệt. Cũng vậy, Thức nầy thành
thân rồi cũng trở lại diệt, chỉ mang lấy thiện ác thọ tâm tưởng ý thức đến
nơi đời khác.
Như nam nữ kia hòa hiệp [làm tình] sanh lòng hoan hỉ. Nhân họ hòa
hiệp trì nhau xuất bất tịnh [xuất tinh], xuất bất tịnh rồi trở lại rời lìa
nhau. Nhưng hai kẻ kia lúc thọ lạc lòng sanh hoan hỉ, đã thọ dục rồi
không còn ý tưởng dục trở lại rời lìa nhau, hoặc sanh chán lìa dục
tưởng. Cũng vậy, Thức nầy do thân phan duyên sanh lòng hoan hỉ tăng
trưởng thọ tưởng.
Dường như thân người [nam] do thấy nữ sắc liền sanh dục tưởng cùng
tham trước nơi thân, thọ dục xong rồi trở lại chán lìa bỏ đi. Cũng vậy,
Thức nầy đã thọ thân rồi trở lại chán lìa bỏ đi.
Lại nữa, do dục sự của phụ mẫu cảm nghiệp phan duyên thọ thân của
trung ấm, thức hữu nầy theo trung ấm nhập vào nơi dục, do đó thành tựu
thân thể. Nhưng nghiệp ấy không có sắc, dục sự của nam nữ ấy cũng
không có sắc, chỉ do sự phan duyên nên sanh dục tưởng mà bèn có sắc,
nên gọi là thọ dục tưởng vậy. Sắc thọ dục tưởng nên gọi là thọ dục.
Lại nữa, nầy Đại Dược! Do trì giới phan duyên nên thọ quả báo sau. Sự
ấy thế nào Ta sẽ vì ông mà nói:
26
Nói trì giới là:
1. – Thân dứt sát sanh,
2. - Chẳng trộm vật của người,
3. - Chẳng làm tà dâm,
4. - Miệng chẳng vọng ngữ,
5. - Chẳng uống rượu đấu loạn,
6. - Cẩn thận chẳng phóng dật,
Đây là phan duyên: Muốn thọ đời sau lấy quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-
hàm bèn thọ thân đời sau, hoặc thân Trời, thân Người, mà họ có thiện
nghiệp hoặc hữu lậu hoặc vô lậu thành tựu các ấm v.v… nhuận chỗ ấy,
Thức thọ trì các nghiệp thiện và bất thiện thành tựu, thức v.v… thọ các
dục sự rồi trở lại tự chán lìa. Thế nên gọi đây là do trì giới nên thọ quả
báo sau vậy.
Đại Dược Bồ tát bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Thức nầy thế nào thọ
thân Trời? Thế nào thọ thân Địa ngục?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Nay ông lắng nghe Ta sẽ vì ông giải nói sự ấy. Nầy Đại
Dược! Thức nầy do Pháp trì giới nên sanh tâm thấy Thiên-cung, nhưng
thấy Thiên-cung ấy chẳng phải là nhục nhãn thấy, thể chất được thấy ấy
tức là thọ nhân nên gọi là kiến thọ nhân vậy. Thiên-cung được người nầy
thấy đó tức là phước phan duyên thiện thành tựu liền thấy Thiên-cung, ở
trong cung trời cõi Dục thọ các thứ vui ngũ dục, thấy như vậy rồi thì
sanh dục tâm, do như vậy bèn khởi trí rằng: Nay tôi cần phải đến chỗ ấy.
Họ sanh dục tâm như vậy rồi phát sanh nhiễm trước niệm tâm thủ lấy
hữu tướng. Họ lại thấy thân cũ của họ bị vất bỏ trong rừng thây ma [lâm
thi ở bên Ấn Độ ngày xưa]. Thấy rồi họ nghĩ rằng: Đây là tâm thức cõi
trời của tôi, đã tu tạo thiện căn rồi tôi nên hướng đến cõi trời.
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Thức ấy đã chấp trước
thây cũ như vậy, tại sao nó chẳng liền nhập vào thây cũ?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Ví như có người cạo râu tóc rồi, người ấy thấy râu tóc đã
rơi xuống đất thì nghĩ rằng: Râu tóc nầy của tôi đen tốt thơm sạch
nguyện nó lại dính trên đầu tôi như cũ. Nầy Đại Dược! Ý ông thế nào?
Râu tóc ấy có thể lại dính trên đầu họ chăng?
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Không được.”
Đức Phật dạy: “Nầy Đại Dược! Cũng như vậy, người ấy Thần thức đã bỏ
thân họ rồi mà muốn trở lại nhập vào ở trong thân cũ thì không bao giờ
có.”

27
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Thức nầy rất vi tế,
không có sắc chánh quảng đại vô biên, sao nó có thể đến thân đại bạch
tượng, nó lại có thể phá thân kim cang, nó đã không có sức ngàn voi,
người sanh ra bèn có sức ngàn voi?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Ví như phong giới không có sắc thấy được, mà lúc gió
ấy phát xuất có thể làm ngã gãy lỡ sập cả thảy, cho đến núi chúa Tu-Di
nó cũng có thể làm lở sụp.
Nầy Đại Dược! Ý ông thế nào? Gió ấy có sắc gì? Núi ấy lại là sắc gì?
Đại Dược Bồ tát bạch: “Bạch Đức Thế Tôn! Gió ấy mềm yếu lại không
có sắc thân, nên thấy biết như vậy.”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Gió ấy thể chất yếu mềm lại không sắc thể. Cũng vậy,
Thức ấy cũng mềm yếu lại không sắc thân nhưng nó không ngại có thể
thành tựu thân lớn, có thể thành tựu thân rất nhỏ, mà nơi thân muỗi, thân
với Thức ấy vẫn một thứ không khác.
Nầy Đại Dược! Ví như ánh sáng đèn đuốc nhỏ hoặc trong nhà, hoặc bên
vách nó có thể diệt phần lớn tối tăm. Cũng vậy, Thức nầy vi tế mà có thể
thành tựu hình sắc nhỏ hay lớn, nhưng mà đều do nghiệp mà thọ lấy vậy.
Đại Dược Bồ tát bạch: “Bạch Đức Thế Tôn! Nghiệp ấy có sắc gì có thể
gì, bao nhiêu thứ nhân do phải nên quán sát?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Cảnh giới của các nghiệp ấy là vi diệu thọ khoái lạc, thọ
uống ăn cõi trời. Ví như có hai người cùng du hành đến đồng hoang.
Trong hai người ấy, một người bỗng gặp nước trong mát và được uống,
còn người kia đói khát mạng chung, mà nước ấy chẳng thể tự nó chảy
vào miệng người kia, nó cũng không ở nơi người nầy mà chẳng cho
uống, chỉ do vì nhân duyên nên một người gặp nước trong mát và uống,
còn người kia chẳng gặp nên đói khát và chết. Cũng vậy, các pháp thiện
và bất thiện cũng như vậy.
Ví như đêm trăng sáng và đêm tối, pháp thiện và bất thiện nên thấy biết
như vậy.
Ví như trái sống khi chín rồi biến đổi thành sắc khác, nhưng sắc ấy do
sức nóng nhiều khiến nó thành thục. Cũng vậy, thân nầy do sức phước
nhiều nên sanh vào nhà đại trưởng giả có dư của báu, hoặc hiện thọ
khoái lạc tại Thiên cung, hiển hiện thọ khoái lạc cõi trời rồi sau đó mất
thế lực tự tại cõi trời thì lại hiển hiện thế lực vô phước.
Ví như hột giống gieo nơi đất sau khi mọc lên cây, trên cây ấy không
hiện có hột giống ấy, chẳng có nơi cành cây, chẳng hiện trong thân cây,
28
cũng không có ai cầm hột giống ấy đặt trên cây ấy, cũng chẳng ở rễ cây
hiện hột giống ấy. Cũng vậy, các nghiệp nầy hoặc thiện hoặc ác nương ở
trong thân mà chẳng hiển hiện.
Như từ hột giống rồi sau có hoa, từ hoa rồi sau có trái, có hột. Hoa ấy
chẳng ở trong hột giống, trái hột ấy chẳng ở trong hoa, trái hột và hoa
không có hai thể riêng. Cũng vậy, trong thân nầy có nghiệp, từ nghiệp có
thân. Thân ấy chẳng ở trong nghiệp có được, nghiệp ấy chẳng ở trong
thân thấy được.
Như hoa thành thục rồi mới thành hột. Cũng vậy, thân thành thục rồi các
nghiệp có thể hiện.
Như hột giống có chỗ đất để gieo, có chỗ đất gieo rồi thì có hoa, có hoa
rồi sau mới có hột. Cũng vậy, thân nầy có chỗ sanh rồi ở nơi chỗ ấy thấy
thiện thấy ác thì có nghiệp hiện, nhưng các nghiệp căn ấy không có sắc.
Như người đi thân hình mà có bóng, mà bóng ấy không nhứt định, không
sắc trở lại theo người mà đi,nhưng bóng ấy chẳng nương ở nơi người,
cũng chẳng rời thân có bóng hiển hiện. Cũng vậy, thân nầy trong ấy hiện
thiện ác theo nhau mà chẳng lìa nhau, thân đến đâu nghiệp theo đó,
nghiệp ấy theo khắp nơi chẳng rời thân mà có, cũng chẳng rời thân mà
nghiệp ấy có thể hiện.
Như các vị thuốc hoặc cay hoặc ngọt hoặc đắng, người uống thuốc rồi có
thể trừ các bệnh, đã trừ các độc của thân thành êm dịu hiện nhan sắc tốt,
mọi người nhìn thấy có thể biết được hình tướng, người nầy thân gặp
thuốc hay, nhưng vị và công lực của thuốc ấy không có màu sắc, màu
sắc của vị lực thuốc ấy chẳng thể hiển hiện, chỉ ở thân người hình sắc
đoan chánh có thể thấy thôi. Cũng vậy, thiện nghiệp nầy không có sắc
mà đến thân người, do ăn uống tốt, mặc y phục tốt, các căn đầy đủ nên
thân thọ khoái lạc, lại dùng vàng bạc châu báu trang nghiêm thân nầy
nên có hình thế giàu sang. Đây đều là cảnh giới của thiện nghiệp vậy.
Người mất thế lực không có phước nghiệp nghèo cùng khốn khổ xa lìa
của cải thường thiếu thốn rình tìm vật người khác ăn uống, thô xấu, đi
đứng nằm ngồi đều hạ liệt không phước báu tốt dưỡng dục thân thể sanh
ra xấu xí. Đây đều là cảnh giới của nghiệp bất thiện vậy.
Ví như gương sáng, do nó sáng nên hình mặt đẹp xấu hiển hiện rõ ràng,
mà trong gương ấy không có sắc. Cũng vậy, do sức thiện ác nên Thức
nầy hiển hiện trong thân người, hoặc trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Nầy Đại Dược! Các nghiệp nầy theo nơi Thức nầy. Ông nên biết như
vậy, thấy như vậy.
Đại Dược Bồ tát bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Thức nầy thế nào
thành tựu các căn thọ thân to lớn, thế nào xả các căn?”

29
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Ví như thợ săn vào núi rừng sâu, tay cầm cung cứng liền
lấy thuốc độc thoa vào đầu mũi tên để bắn voi lớn. Giọt thuốc độc ấy dầu
thấm vào da voi đến máu chút ít mà khí độc lưu hành khắp trong thân
đến các căn làm cho các căn bế tắc rút gãy các lóng đốt làm cho máu
biến sắc khắp các thân phần thì voi chết, khí độc ấy trở lại đến chỗ nó
vào thì tự nhiên phát ra ngoài.
Nầy Đại Dược! Độc dược ấy chỉ có một giọt rất nhỏ ít, thân voi ấy rất
lớn, mà khí độc dời đi khắp thân thể.
Cũng vậy, lúc Thần thức nầy xả thân, xả các căn, xả các giới theo thứ đệ
cũng như vậy.
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Thức nầy thế nào thọ
thân rộng mà chẳng sợ khó?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Như núi Tu Di cao tám vạn bốn ngàn do tuần (1 do tuần
tương đương với là 80 dặm hoặc 128 km). Núi ấy có hai Long Vương:
Nan Đà và Bạt Nan Đà vấn núi ấy ba vòng, giữ chặt núi ấy. Hơi thở của
Long Vương ấy nước biển không chứa nổi. Khi Long Vương ấy thở hút
thì núi Tu Di rung động. Các Long-Vương Bà-Tu-Cát và Đức-xoa-ca
thân thể to rộng nhiều sức lực cũng như vậy. Ý ông thế nào, [Thần] Thức
của Long-Vương cùng [Thần] Thức của con muỗi có đồng bằng nhau
chăng?
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Như chỗ tôi hiểu thì
[Thần] Thức của Long- Vương và [Thần] Thức của con muỗi đồng bằng
nhau không khác.”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Như có một thứ độc tên là Bà-ta-na-bà, lại có một thứ
độc tên là Ha-la-ha-la, đem thứ độc nầy chừng bằng hột cải cho Long-
Vương ấy ăn thì liền chết.
Nầy Đại Dược! Độc của rồng, độc của thuốc, ý ông thế nào, độc rồng
sức lớn hay độc thuốc sức lớn?
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Như chỗ tôi hiểu thì
độc rồng sức tuy lớn, nhưng không mạnh bằng sức độc của thuốc”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Cũng vậy, dầu có thân to rộng sức lực địch chín ngàn voi
cũng không ngại, Thức ấy dầu nhỏ, không sắc, không thể thấy, mà Thức
ấy do nghiệp duyên thành tựu thân lớn.

30
Ví như hột ni-câu-đà dầu nhỏ cũng không ngại, nó có thể thành tựu cây
to nhánh nhóc dài rộng che cả khu đất lớn. Ý ông thế nào, hột và cây ấy
hình thể to nhỏ ra sao?
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Như đem lỗ lông so
với hư không.”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Nhưng cây ấy chẳng thể thấy tại trong hột, mà cũng
chẳng rời hột sanh ra cây. Như hột nhỏ ấy sanh cây to rộng. Cũng vậy,
[Thần] Thức nầy không sắc mà thành tựu sắc to lớn, thân thể do Thức
mà hiện ra sắc, rời Thức không có sắc thân hiển hiện để được thấy.
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! [Thần] Thức ấy bền
chắc như kim cang, sao lại thành tựu thân yếu mềm?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Ví như có người nghèo cùng bỗng gặp Như Ý Bửu
Châu, cầm được châu ấy rồi mọi sự đều như ý, nào là lâu đài, nào ao suối
cổng cao, vườn rộng cây trái sum suê bông hoa đua đẹp của cải vật dụng
đều tùy tâm tự nhiên hóa hiện. Các sự vật ấy mỏng manh, mau hư, chóng
tan. Lúc sau, bỗng thất lạc bửu-châu như-ý, tất cả sự vui đẹp trên liền
diệt chẳng còn.
Nầy Đại Dược! Bửu-châu như-ý ấy rất kiên cố và có công năng như vậy,
dầu ngàn kim cang phá nó cũng chẳng làm hư nó được, có nó thì tùy ý
muốn liền được toại nguyện. Cũng vậy, [Thần] Thức nầy bền vững như
kim cang, mà thân được thọ thì chẳng bền vững.
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Thức ấy yếu đuối làm
sao phá được thân cứng rắn mà dời đến thân sau?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Như nước chảy trong núi rồi xoi núi mà thoát ra, dầu
nước mềm núi cứng. Cũng vậy, Thức nầy bốn thể mềm mại mà có thể
phá thân lớn cứng để được đi ra.
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Chúng sanh xả thân
sau khi chết thế nào họ lại thọ thân Trời, thế nào lại thọ thân các loài
khác?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Có chúng sanh xả thân, sau khi chết do làm sự phước
nghiệp mà thọ thân, Thức của họ xả nhân thân kiến được thiên thân kiến,
nó được thiên nhãn rồi liền thấy chư Thiên sáu cõi Trời Dục giới, nó lại
thấy Thiên cung, đồng thời thấy thân người lúc hoại hư, nó lại thấy vườn
rừng trên trời, như hoan hỷ lâm, hoại loạn lâm v.v… nơi ấy có tòa ngồi
cao trùm Thiên-y, nơi nơi có điện đài vi diệu, có đoàn Thiên-nữ đoan

31
chánh, thấy các thứ hoa trời trang nghiêm sanh lòng hoan hỷ, trên tòa nó
thấy Thiên-đồng-tử, Thiên-tử và Ngọc-nữ ấy cùng ngó nhau vui vẻ,
Thiên-đồng-tử ấy sanh rồi, lại thấy Thiên-đồng-nữ sanh, Thiên-đồng-tử
thấy Thiên-đồng-nữ liền sanh lòng dục, sanh lòng dục rồi liền được hoan
hỷ, được hoan hỷ rồi liền được khắp tâm ý hoan hỷ, tâm ý hoan hỷ rồi
liền biến sắc thân, sắc thân ấy như hoa sen.
Lúc người ấy mạng chung, được sự thấy không điên đảo, mũi không
nghẹt, miệng không hôi, tai mắt như hoa sen xanh, thân phần lóng đốt lại
chẳng rã rời, chẳng lưu huyết, thân chẳng hôi thúi, lông tóc chẳng rụng
rớt, móng chẳng xanh, tay không vàng, tay chân bất động cũng không co
duỗi mà mạng chung.
Nầy Đại Dược! Lúc người ấy mạng chung dự có tướng Trời, đó là hiện
tiền thấy kiệu xe, xe nầy có ngàn trụ trang nghiêm treo linh, giăng lưới
vàng âm thanh vi diệu, trên rải đầy những hương hoa vi diệu ngào ngạt
thơm tho, còn có các thứ anh lạc trang sức trên xe, còn có vô lượng
Thiên đồng-tử. Thấy rồi, người ấy sanh lòng rất vui mừng. Rất vui mừng
rồi, sanh hai (2) tướng:
1. – Răng trắng sạch hiện lên như hoa quân-đà.
2. – Hai mắt chẳng quá mở quá nhắm, tiếng nói êm ái, dưới hai chân
ửng màu hoa sen.
Tử thi ấy nơi tim chẳng lạnh chẳng nóng, quyến thuộc chẳng quá bi
luyến. Người ấy muốn y pháp lấy giờ chết lúc mặt nhựt mọc không có
tối tăm, thấy rõ hình sắc các phương. Lại có hơi thơm vi diệu khắp nơi
đến.
Lúc sắp chết, hai mắt người ấy chẳng nhắm, thấy rõ chẳng mê lầm, hoặc
thấy tượng Như-Lai liền được tín tâm, phát ý thanh tịnh, lại thấy quyến
thuộc mà lòng thường vui thương rồi dùng tâm hoan hỷ ôm thân họ, như
người chết rồi sống lại; như người đi xa trở về an ủi quyến thuộc rằng:
“Các người chớ ưu chớ sầu, tất cả pháp có sanh đều có biệt ly như vậy.”
Nầy Đại Dược! Người ấy nếu phước nghiệp mạnh hoặc phát tâm bố thí
luôn miệng ca ngâm tán thán công đức bố thí nhân duyên các thứ công
đức, thốt lời như vậy rồi, ý muốn ngủ nghỉ, thân tâm đều an vui hoàn
toàn yên ổn xả thân mạng. Lúc xả thân mạng, người ấy thấy phương trên
chư Thiên cùng ngồi đồng một giường, thấy Thiên-nữ hai tay nắm đầy
hoa thơm thưa với Thiên tử kia rằng: “Rất lành, rất tốt nguyện có sự cát
lợi, thời kỳ sanh Thiên-đồng đã đến.” Nói xong, Thiên-nữ ấy lựa hoa, lựa
rồi lựa lại. Lúc Thiên-nữ lựa hoa là lúc người ấy mạng chung xả cộng
thức, xả các căn, xả các Đại. Lúc xả các Đại, bốn (4) Ấm không định thể,
không sắc như người muốn cỡi ngựa, hoặc như mặt trời, hoặc như minh
32
châu, hoặc như ngọn lửa, hoặc như thủy nguyệt, hoặc như thân ảo hóa,
phan duyên thiện nghiệp mau lẹ, như hơi trong ống thoát ra dời đi, Thần-
thức ấy muốn sanh Thiên-cung kia nhân nơi hoa ấy mà thấy Thiên-phụ
Thiên-mẫu ở trên giường hòa hiệp, từ trong hoa ấy Thần-thức có hình
sắc xuất hiện, liền có gió vi diệu hòa hiệp với cam lộ vị thổi đến, gió ấy
nổi lên rồi, trong bảy (7) ngày Thần thức ấy đầu đội mũ trời thành Thiên-
đồng.
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Thần thức ấy không có
sắc, thế nào làm nhân duyên mà thành tựu sắc, thế nào làm nhân duyên
mà hiển hiện?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Ví như hai khúc gỗ cọ xát nhau sanh ra lửa. Mà lửa nầy
chẳng thể thấy ở trong gỗ, nó cũng chẳng thể rời gỗ mà có, cũng chẳng
phải một nhân mà có thể sanh ra lửa, cũng chẳng phải không có nhân mà
lửa ấy xuất hiện. Chẳng phải trên gỗ liền được thấy sắc mà do nhân
duyên nên phát ra, phát ra mới thấy sắc, cũng chẳng phải rời lìa gỗ mà
riêng có được sắc. Cũng vậy, [Thần] Thức ấy do cha mẹ hòa hiệp nên
thành tựu thọ thân. Thức ấy chẳng ở trong thân thấy được nó, cũng
chẳng rời lìa thân mà có Thức ấy.
Ví như lửa phát xuất rồi mới thấy sắc, cũng chẳng phải vì nóng mà thấy
có sắc, cũng chẳng phải vì đỏ mà nói là không sắc. Cũng vậy, Thần-thức
ấy do thành tựu thân rồi mà nói có Thức, cũng chẳng do vì thọ mà thấy
được, cũng chẳng do các hành mà thấy được.
Nầy Đại Dược! Ví như mặt nhựt viên mãn chói sáng có oai quang lớn
được thấy, mà các phàm phu chẳng thấy chánh sắc mặt nhựt hoặc nói là
sắc đen, hoặc nói là sắc trắng, hoặc nói là sắc vàng trắng, hoặc nói là sắc
xanh lục. Cũng vậy, chẳng thấy Thần-thức chẳng nên do thân mà nói là
đen là trắng v.v…
Chẳng có thể do nơi hơi nóng mà thấy mặt nhựt, nó có thể được thấy chỉ
có lúc nó mọc lặn. Nên quán sát Thần thức cũng như vậy.
Nầy Đại Dược! Lúc muốn quán sát Thần thức nầy chỉ lấy các tánh của
nó.
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Thức ấy có các tánh
gì?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Những tánh Thọ, tánh Thủ, tánh các Hành, tánh ưu sầu,
tánh tư duy, tánh não, tánh hỷ, tánh bất hỷ v.v… là các Tánh của Thức
vậy.

33
Lại nầy, Thần thức có bổn tánh có thể quán sát được. Đó là thiện tâm,
bất thiện tâm v.v… làm bổn tánh của nó.
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Thần thức ấy từ thân
nầy thoát ra, thế nào nó mau lẹ mà thọ sanh nơi kia, lúc chưa đến thân
kia thọ sanh nó ở chỗ nào, Thần thức ấy nên quán sát nó như thế nào?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Ví như có người cánh tay thon dài, tay chân trên dưới tất
cả ngay thẳng, vững chắc, cỡi tuấn mã vi diệu, nhanh lẹ chạy vào trận,
vào trận rồi bị thương té xuống ngựa, nhưng người ấy rất giỏi chiến trận
lẹ làng nhảy lên lưng ngựa. Như lúc người ấy té ngựa mau lẹ nhảy lên
lưng ngựa. Cũng vậy, Thần thức ấy nên quán sát như vậy.
Muốn sanh cõi trời thì móng niệm duyên cõi trời thấy Thiên-phụ Thiên-
mẫu ở trên một giường, thấy rồi phan duyên mau lẹ liền được thọ sanh.
Nầy Đại Dược! Ông hỏi người phàm lúc Thần-thức mới dời đi mà chưa
đến kia thì nó ở chỗ nào và tánh của nó nên quán sát thế nào?
Nầy Đại Dược! Ví như bóng người trong nước dầu có sắc hiện ra mà
chẳng phải hình sắc chánh của người. Lúc bóng ấy thành tựu trong nước
nó chẳng nghĩ rằng: “Tôi có nhiệt não, tôi có lạnh rét, thân tôi mỏi mệt,”
nó cũng chẳng nghĩ rằng: “Tôi là thân thiệt như khối thịt ở tại thai trước
kia.” Bóng ấy cũng không chỗ nhiễu loạn, lúc nó ở trong nước cũng
không có tiếng phát ra.
Nầy Đại Dược! Thần-thức ấy lúc xả thân mà chưa đến kia thì nó có hình
như vậy có tánh như vậy.
Phàm Thần-thức có phước lúc ban sơ muốn lấy thân trời thì cảm thọ như
trên đã nói.
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu Thần- thức ấy
muốn lấy thân Địa ngục thì sanh cảm thọ thế nào?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Như Thần thức vô phước muốn lấy thân Địa ngục, ông
nên lắng nghe Ta sẽ vì ông mà nói cho.
Nếu có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện do ác nghiệp ấy phan duyên
nhiếp lấy mà chúng sanh ấy ở nơi đây muốn xả thân.
Lúc xả thân [Trung Hữu] nó nghĩ rằng: “Tôi là người ấy xả thân đến Địa
ngục nầy, đây là phụ mẫu của tôi.” Người nầy lúc xả thân thành tựu sắc
thân như nghiệp đã có mà thành tựu không khác, liền thấy thân phần như
thân thể trước.
Lúc ban sơ xả thân [Tử Hữu], người ấy bị ưu sầu bức khổ, liền thấy các
thứ địa ngục. Ban sơ xả thân rồi [Trung Hữu], Thần-thức ấy tại Địa ngục
kia liền thành tựu hữu nghiệp liền thấy Địa ngục kia: Hoặc thấy như tưới
34
máu, lòng họ sanh tướng nhiễm trước. Sanh tướng nhiễm trước rồi liền
thành thân Địa ngục. Ví như đất thấp ẩm ướt nên sanh trùng, như chỗ
khuất hôi thúi rả bấy nên sanh trùng, như trong chất tô-lạc hư thúi có các
thứ trùng dòi sanh, chúng sanh muốn sanh Địa ngục cũng vậy.
Bấy giờ Trưởng giả Hiền hộ chấp tay bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế
Tôn! Ở tại Địa ngục, thân chúng sanh ấy có hình sắc gì? Thọ thân thể thế
nào?”
Đức Phật dạy:
Nầy Hiền hộ! Nếu chúng sanh nhiễm trước chỗ máu thì thân họ có màu
máu. Nếu có chúng sanh nhiễm trước sông Tì-la-ni thì thân họ sanh vân
sắc đen trắng. Nếu có chúng sanh nhiễm trước sông tro thì thân họ sanh
màu lốm đốm. Nhưng thân thể chúng sanh Địa ngục mềm mại như các
vương tử an vui nuôi nấng thân thể họ.
Nầy Hiền hộ! Tại Địa ngục, các chúng sanh thọ thân lớn rộng cao tám
cánh chỏ rưỡi, râu tóc họ rất dài, bàn chân họ đáng sợ, lật hướng phía
sau. Nếu người Diêm Phù Đề [cõi của chúng ta] đến đó thấy chúng sanh
Địa ngục ắt kinh sợ mà chết.
Nầy Hiền hộ! Dầu có được ăn uống nhưng chúng sanh Địa ngục không
được tạm thời vui.
Đại Dược Bồ tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Lúc ăn, chúng sanh
Địa ngục có thức ăn gì?”
Đức Phật dạy:
Nầy Đại Dược! Chúng sanh Địa ngục lúc đi xa thấy màu đỏ, đó là đồng
hay thau nóng chảy thành nước, họ thấy rồi kêu hô nhau cùng tụ lại chỗ
ấy, vì cầu ăn, nên họ hả miệng muốn ăn. Nước đồng nước thau sôi ấy
phát ra tiếng ùng ục vào miệng họ đốt cháy toàn thân họ. Vì ăn mà các
chúng sanh Địa ngục thọ sự đau khổ như vậy.
Nầy Đại Dược! Lúc ấy, Thần-thức của họ chỉ ở tại hài cốt, vì Thần-thức
chẳng rời lìa hài cốt nên thân thể cháy rã mà họ chẳng chết. Dầu vậy mà
chúng sanh ấy vẫn còn đói khổ, nơi Địa ngục cũng không có sự ăn.
Ở Địa ngục ấy có vi diệu vườn rừng, các chúng sanh Địa ngục mắt thấy
các thứ hoa quả cây cối, cũng thấy địa phương rộng lớn xinh đẹp cỏ
xanh mềm mại mọc đầy. Họ thấy vườn rừng địa phương xinh đẹp như
vậy, họ đều vui mừng mỉm cười, đều khởi niệm đến đó, đều kêu gọi nhau
cùng thọ khoái lạc, lại có gió nhẹ mát lạnh. Nghe và thấy như vậy rồi họ
tụ họp lại cùng nhau vào trong vườn rừng ấy. Vào rồi được vui chốc lát,
nhưng tất cả cây cối, nhánh lá bông trái đều biến thành sắt nhọn đâm
cắt nát rã thân thể họ. Các chúng sanh Địa ngục ấy vừa kêu la, vừa kiếm
chỗ chạy. Phía sau họ có các quỷ tốt tay cầm chĩa nhọn, hoặc cầm gậy

35
sắt đuổi theo. Các quỷ tốt ấy trợn mắt đáng sợ, răng nanh nhọn bén, đầu
tóc phát lửa ngọn cao, toàn thân tuôn lửa gọi to rằng: “Chúng bây đứng
lại chớ chạy. Tự nghiệp của chúng bây tạo ra vườn rừng nầy sao chẳng
ở lại thọ nghiệp ấy mà chúng bây lại trốn chạy?”
Chúng sanh ở tại Địa ngục thọ khổ như vậy.
Lại nầy Đại Dược! Quá bảy (7) ngày, chúng sanh Địa ngục thọ đủ những
sự đau khổ, như con ong hút vị hoa làm thành mật. Tại sao? Vì do các
thứ hữu nhân nên thành Thần thức mới thọ lấy khổ Địa ngục. Thần thức
ấy lúc ban sơ xả thân nó chẳng tự do mà bị các sự đau khổ bức ngặt
chẳng vui thoạt đầu thấy tối đen bèn đến chỗ ấy. Như người bị giặc bức
kéo đi không tự chủ được. Trong tâm người ấy nghĩ rằng: “Ôi! Nay tôi
cớ chi bỏ Diêm phù đề xa các thân lữ mến yêu mà hướng đến Địa ngục
để đi. Nay chẳng thấy con đường lên trời.” Lúc bấy giờ, như con tằm đã
bị tơ quấn gấp rút cầu chỗ thọ sanh cho mau lẹ, họ chẳng được tự do mà
bị nghiệp lực kéo dắt không thể dừng lại được.
Nầy Đại Dược! Chúng sanh Địa ngục ấy có nghiệp nhân như vậy và thọ
lấy các sự khổ não như vậy.
Vương Tử Đại Dược và Trưởng giả Hiền hộ nghe nghiệp báo Địa ngục
cả mình rởn ốc chấp tay hướng Phật quy y phát nguyện rằng: “Nhờ nhân
duyên nghe pháp nầy ở trong sanh tử phiền não lưu chuyển, nguyện chớ
sanh ác đạo, chớ thọ khổ Địa ngục.”
Trưởng giả Hiền hộ lại bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi còn
muốn hỏi Đức Thế Tôn về điều nghi trước.”
Đức Phật dạy: “Nầy Hiền hộ! Nếu có nghi điều chi, Ta cho phép ông
hỏi.”
Trưởng giả Hiền hộ lại bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Cái gì gọi là Tụ?
Cái gì gọi là Tích? Cái gì gọi là Ấm? Cái gì gọi là Di?”
Đức Phật dạy:
Nầy Hiền hộ! Phàm có bốn (4) thứ pháp giới thành tựu thân nầy. Những
gì là bốn?
1. Các giới hòa hiệp,
2. Trí huệ kiến ý,
3. Vô minh các cảnh giới,
4. Thức,
Đây là tổng nghĩa mà Ta đã nói.
Nói Tụ là Lục giới, các Nhập cảnh giới. Trong Lục giới thì cái thô có ba:
Một là nhập, còn hai món thủ. Trong ấy có tóc, râu mép, râu càm, lông,
da, thịt, mủ, máu, nước mũi, nước miếng, mỡ, năm tạng, tay, chân, đầu,
mặt, thân phần chi tiết hòa hiệp nên gọi là Tụ vậy. Ví như các hột thóc
36
tích tụ, hoặc hột mè đen, hoặc hột bắp, hột đậu, do nó tích tụ lại mà gọi
là Tích. Cũng vậy, thân nầy có các thân phần chi tiết tụ họp lại nên gọi là
Tích vậy.
Nói Lục giới đó là:
1. Địa giới,
2. Thủy giới,
3. Hỏa giới,
4. Phong giới,
5. Hư không giới, và
6. Thức giới.
Nói Lục nhập đó là: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý.
Nói Lục nhập cảnh giới đó là: Sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
Nói thô Pháp giới bổn thể có ba thứ là:
1 – Tham dục
2 – Sân khuể và
3 – Ngu si.
Chúng nó phát khởi có ba là: Phong; đàm vàng, đàm trắng và nước mũi;
nước miếng.
Nói các Nhập có hai thứ Thủ là Trì giới và Tín. Lại còn có sáu thứ là
Thí, tài, tinh tấn, thiền định, thiện, và bất thiện.
Nói Ấm là: Thọ, tưởng, hành, và thức. Bốn Ấm nầy không có sắc. Nói
Thọ là thọ dụng. Nói Tưởng là biết khổ vui khác. Nói các Hành là thấy
nghe xúc thọ. Đây gọi là Thức Thân làm chủ hay được tự tại tất cả, vì tự
tại trong tất các vật vậy.
Nói Di ấy là khéo thành tựu thanh tịnh giới, thân nghiệp, khẩu nghiệp và
ý nghiệp, lúc thọ căn lấy mạng chung, Thức ấy xả các Ấm chẳng còn thọ
hữu sanh, chẳng còn trở lại nên một bề thọ vui, đây gọi là Di. Rời ngoài
đây thì chẳng gọi là hữu di, như vậy thứ đệ khác đi thì chẳng gọi là Di.
Vương Tử Đại Dược và Trưởng giả Hiền Hộ đảnh lễ chân Phật mà bạch
rằng: “Lành thay, Đức Thế Tôn! Hay vì chúng tôi mà nói nghĩa như vậy,
chơn thiệt nhứt-thiết-trí. Bạch Đức Thế Tôn! Đời vị lai, pháp môn nầy sẽ
làm lợi ích cho các chúng sanh mê hoặc ngu si.”
Đức Phật dạy rằng:
Nầy các thiện nam tử! Đây là Như Lai trí không có hư vọng, nếu chẳng
phải nhứt thiết trí (Sarvajnana) thì cũng chẳng thể biết chơn thiệt thế
nầy. Từ quá khứ, Ta tu hành vô lượng khổ hạnh huân tu trí nầy, như chỗ
được nói ra ngày nay không khác. Đây là pháp môn trí quang minh lưu
bố mọi nơi công đức danh văn hải tạng Nhứt thiết trí, vì giáo hóa các
chúng sanh mà tuyên nói. Chỗ nói kinh nầy và kinh nầy ở chỗ nào thì

37
chỗ ấy được chư quỷ thần chỗ ấy hộ trì, và chư Thiên, Long, Dạ xoa,
Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Nhân cùng Phi Nhân đều đến
hộ trì nơi ấy, khiến không bị khủng bố, quan quân không làm tổn, giặc
cướp không làm hại.
Đức Phật bảo chư Tỳ kheo:
Nầy chư Tỳ kheo! Pháp môn nầy, các ông chớ có nói với kẻ không tín
tâm, cũng chẳng nên nói với người cầu tìm lỗi lầm của kẻ khác, với
hàng ngoại đạo Ni hiền tử v.v… cùng hàng Ni kiền đà, Thanh Văn
cũng chẳng nên nói, với người ở A Lan Nhã không nhàn cùng người
chẳng chí tâm thỉnh cầu cũng chẳng nên nói. Tại sao? Vì sợ họ tìm
cầu lỗi lầm.Đức Như Lai thiệt không có lỗi lầm. Nếu có Tỳ kheo xuất
gia hoặc có tục nhơn tại gia tín thọ tùy thuận duyên sự nầy, nên biết
các người ấy phát tâm từ bi đồng với đức Như Lai, phải nghĩ rằng các
người ấy trì Như Lai Tạng của chư Phật vậy.
Đức Thế Tôn nói kệ kết thúc rằng:
Vì phát tâm xuất gia
Nên phải hành Phật pháp
Hàng phục chúng quân ma
Như voi phá nhà tre
Nếu hành được pháp nầy
Cẩn thận sự phóng dật
Dứt sanh tử phiền não
Sẽ hết tất cả khổ.
***
Xin nhắc lại một lần nữa, phần kinh trên là Đức Đại bi Thế Tôn Thích
Ca Mâu Ni thuyết minh về A lại da thức cũng gọi là Như Lai Tạng Thức.
A lại da thức rất vi tế, rất khó nhận, rất khó hiểu, rất khó tin, và rất khó
vào. Nó là bề mặt của Chân Như hiển hiện ra vạn hữu làm chủ chín pháp
giới, đến khi đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì Như Lai Tạng
Thức kia trở về với Vô cấu thức, cũng còn gọi là Như Lai xuất triền.
Giống như yên gió thì toàn sóng quy về với nước, sóng kia tuy sanh diệt,
nhưng chưa từng rời nước (nước: Vô Sanh, vì là bản thể của sóng, dụ
cho Chân Như), phàm phu u mê, điên đảo, chẳng biết hiện tượng giới
của vòng sanh tử luân hồi chính là Niết bàn tịch tịnh vậy.
Hãy chuyển tám thức thành Ngũ trí thì sẽ thấy cảnh giới bất nhị vi diệu
kia. Lý nầy thậm thâm, ngôn ngữ khó vào. Cho nên, luận Đại Thừa
Khởi Tín của Ngài Mã Minh thuyết minh về hai môn:
1 – Sanh Diệt,
2 – Vô Sanh,
38
cũng không ngoài cái Lý nầy.
Hai bộ Đại Mạn Đà La của Thai Tạng và Kim Cang Giới, cùng tất cả
các kinh văn của Mật tông cũng không ra ngoài cái Lý nầy.
Ngàn kinh của Hiển giáo cũng không thể ra ngoài cái Lý nầy. Muôn luận
của chư Bồ tát vì chúng sanh mà tạo, cùng các thuyết của thế tục, cũng
như của các tôn giáo khác, nếu đem cái Lý nầy ra để nghiên cứu thì biết
đâu là Chơn, đâu là Ngụy, đâu là Đại, đâu là Tiểu… cũng không ngoài
cái Lý nầy.
Bọn ngoại đạo, dù có trá hình làm Sa môn, trong Pháp của Phật, lập ra
vô vàn tà thuyết thì các bậc thiện nam tử, thiện nữ nhân chỉ cần dùng
gươm huệ nầy một lần vung lên thì sẽ chặt đứt tất cả “dây mơ rễ má tà
hạnh”, dùng một mồi nhỏ của lửa tuệ nầy đốt, dù là mồi cực nhỏ, thì
cũng sẽ thiêu cháy “củi khô tà kiến như núi chúa” không còn sót thừa.
Rời ngoài lý nầy mà muốn dung thông các đạo giáo thì chỉ e làm trò
cười cho thiên hạ. Nhưng cũng lạ thay, ngày nay người ta lại thích làm
cái chuyện đem Quân vương sánh cùng thứ quan! Đem Thiên chúa giáo,
Khổng giáo, Lão giáo ra so sánh với Phật giáo! Làm như ta đây là bậc
thông kim bát cổ. Cho nên, muốn làm chuyện dung thông tự tại mà có
ngờ đâu họ đem giọt nước chân trâu sánh cùng biển cả, đem hạt cát nơi
cồn đảo sánh cùng biển cát nơi sa mạc mênh mông, đem ánh sáng đôm
đốm sánh cùng ánh sáng Thái Dương lúc trưa hè!
Bậc trí giả không cần phải làm những việc như thế, mà chỉ dùng mắt kim
cang chuyển hóa Tám thức thành Ngũ trí cho chúng sanh khiến chúng
mở Tâm nhãn thấy Thật tướng, dùng tay kim cang mà tạo tác bất tư nghì
sự nghiệp lợi ích cho chúng sanh khiến chúng an trụ Như Lai Địa, mà
chẳng thấy mình làm vậy, dạo chơi trong sanh tử như dạo chơi vườn nhà,
qua lại nơi Chín Pháp giới như dấu chim bay, như điển chớp lưng trời,
như mây trôi không gốc rễ, thủ xả như giấc mộng đêm qua… nào ai hay,
ai biết.
Rời Lý nầy mà cầu Phật đạo cũng như nấu cát muốn thành cơm, mài
gạch mong có gương sáng, chỉ thêm luống uổng tháng năm mà chẳng
thành đạo cả.
Bậc thượng thượng nhơn, bậc trung thượng nhơn, và bậc hạ thượng nhơn
là những vị an trụ và thấy được thật tướng của Vô cấu thức trong giai
đoạn Tử hữu, và giai đoạn đầu của Trung Hữu. Kỳ dư, tất cả chúng sanh
phải chịu sự dẫn dắt của A lại la thức mà qua lại trong ba cõi (Dục, Sắc,
Vô sắc), Sáu đường (địa ngục… đến chư Thiên). Một khi mất thân
người, nẻo dị loại mang lông đội sừng không biết đến bao giờ mới ra
khỏi!

39
Có ba cách có thể đạt được sự giác ngộ khi thọ Thân Trung Ấm đương
lúc chết, tùy theo căn cơ thượng, trung, hay hạ của hành giả. Trong mỗi
căn lại chia ra thượng, trung và hạ. Nói chung có chín căn, nếu lại chia
chẻ ra nữa thì có rất nhiều.
Thân Trung Ấm
ĐƯƠNG LÚC CHẾT
(Tử Hữu)
***
Thượng Căn
Nếu là bậc Thượng căn, khi tu tập Thiền quán hành giả sẽ nhận ra cả hai
sự Sống và Chết chẳng qua là do tâm tạo ra. Nếu nhận ra chúng chỉ là
huyễn hóa, Sanh tử và Niết bàn như giấc mộng đêm qua (cảnh giới vô
nhị) thì hành giả sẽ chứng nhập bản chất của tự tâm.
Tâm tự nó vốn không (sunyata/shunyata).
Quán chiếu Không kia của tự tâm cũng là Không thì mới thật là Chân
Không. Chấp Không, bỏ hữu là thiên chấp. Rời ngoài, có không, thường
đoạn, thì gọi là Phật tử. Thế mới biết, lý Chân Không Diệu Hữu thật là
thậm thâm vi diệu biết dường bao.
Bậc Thượng căn, sau khi giác ngộ lý Chân Không Diệu Hữu của bản
tâm, sẽ đi đến kết luận rằng vui sướng hay buồn khổ, sống hay chết, tốt
hay xấu, tất cả mọi hiện tượng từ hữu hình cho đến vô hình, từ địa ngục
cho đến chư Phật, tất cả chỉ là do tự tâm tạo ra. Nếu không thể nhận ra
điều nầy thì hành giả dù có tử công phu đến vô lượng kiếp cũng không
thể đạt được sự giác ngộ.
Giáo Lý Bí Mật về Thân Trung Ấm ở đây thuộc về Bí mật thừa. Nó
được sử dụng để tiếp độ các bậc Du già hành giả trong lúc lâm
chung để đạt được Phật quả trong đời hiện tại như Mật tông đã chủ
trương.
Nói cách khác, Mật tông có khả năng thăng hoa Ngũ uẩn, Cửu thức
thành Ngũ trí và được thể hiện bằng Ngũ Như Lai làm chủ Ngũ Bộ Du
Già [có nơi gọi là năm vị thiền Phật (Dhyana Buddhas) hoặc Phật tối sơ
(Adi Buddhas). Đây là đứng trên phương diện Cưỡng Thuyết Môn mà
nói vậy].
BIỂU ĐỒ THỨ 1
THỨC VIJNANA TRÍ JNANA NHƯ LAI
TATHAGATA
Amala Dharmadhatusvabhava Mahavairocana
Pháp Giới Thể Tánh Đại Nhựt
40
(THỨC UẨN)
Alaya Adarsa Aksobhya
Đại Viên Kính Bất Động
(SẮC UẨN)
Manas Samata Ratnasambhava
Bình Đẳng Tánh Bảo Sanh
(THỌ UẨN)
Mono Pratyaveksana Amitabha
(Ý) Diệu Quán Sát Vô Lượng Quang
(TƯỞNG UẨN)
5 thức đầu Krtyanusthana Amoghasiddhi
Thành Sở Tác Bất Không Thành Tựu
(HÀNH UẨN)

Khi cái chết đến chỉ có Nghiệp thức (còn gọi là Thần thức, như đã trình
bày ở phần trên) kinh nghiệm được những Nghiệp đã tạo tác trong lúc
sanh thời.
Khi sống thân nầy tùy thuộc vào Lục đại (đất, nước, gió, lửa, không và
thức). Theo như Y học của Đông phương thì chỉ cần một sự thay đổi nhỏ
(mất quân bình) của một trong Lục đại cũng đủ khiến cho chúng ta bị
bệnh và khó chịu trong người.
Căn cứ vào nội điển, nhứt là kinh Viên Giác, kinh Duy Ma
Cật, kinh Thủ Lăng Nghiêm, và kinh Đại Nhựt thì thân thể vật chất
nầy tùy thuộc vào Lục đại; Lục đại của thân và Lục đại của Pháp giới
vốn tương tức tương nhập. Chúng ta sống là nhờ sự tương tức tương
nhập đó mà ra. Thí dụ chúng ta hít thở thì rõ ràng là mượn Phong đại của
Pháp giới để nuôi dưỡng bộ máy “thân", khi chúng ta thở ra hoàn trả
Phong đại của thân về với Phong đại của Pháp giới; sự trao trả của Địa
đại (ăn - đại tiện), Thủy đại (uống - tiểu tiện) v.v… cũng như luật tắc
trên mà Pháp giới vẫn không đầy, không thiếu, không tăng, không giảm,
không sạch, không dơ…
Đến khi chết, Đất, Nước, Gió, Lửa và Hư Không của thân lần lượt hòa
tan/tan biến vào với nhau theo thứ lớp, để khỏi phải hoảng sợ về điều
nầy chúng ta cần phải biết tình trạng hòa tan của các Đại (theo kinh Đại
Nhựt)
Mỗi lần một Đại hòa tan thì hành giả có thể nhận ra một phương diện
của sự Giác ngộ được đại diện bằng một trong năm vị Phật Mẫu.
Theo Mật tông, thì hình tướng nữ nhơn là tượng trưng cho trí tuệ và Tam
muội. Kinh Kim Cang Đảnh, 20 Pháp Hội chủ trương, thì đó là các vị
41
nữ Bồ tát Ba la mật, kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đà Ra Ni, lấy 3500
Mạn trà la làm quyến thuộc, cũng đồng một ý nầy. Đứng trên mặt lý tánh
thì cả hai Đại Mạn Trà la (Thai Tạng và Kim Cang Giới) đều dung thông
vô ngại, nên ở đây khi đề cập đến một vị Phật của Kim Cang Giới, Mạt
nhân cũng có đề cập đến vị Phật tương ứng với Thai Tạng Giới cho quí
Ngài dễ nhớ.
A/ - Buddhalocani-buddhamatri (Phật nhãn có nơi để Hư không
nhãn, gọi tắt là Buddhalocana) Boddhisattva: (Phật Giáo Tây Tạng
cho rằng đó là Âkâsadhâtvisvari hoặc Yingchogma) trong suốt tượng
trưng cho tự tánh của Hư không và trong thân thể của chúng ta là các lỗ
hổng của cửu khiếu v.v… Vị Phật tượng trưng cho Hư không là đức Đại
Nhựt Như Lai (Mahavairocana), Ngài đồng thời tượng trưng cho Vô cấu
thức.
Bồ tát Phật Nhãn chính là Hóa thân của Đức Đại Nhựt Như Lai. Ngài thị
hiện trong hình tướng nữ nhơn để biểu hiện cảnh giới tự chứng Thánh trí
(Sarvajnana: Nhứt thiết trí). Ngài là Phật nhãn vì có thể thông đạt sự
đồng nhứt của Chân Không và Diệu Hữu của chư Pháp và của Thai Tạng
và Kim Cang Giới Đại mạn trà la vương. Vì Phật là Chân như (Tathata),
cũng chính là Không (sunyata), cho nên, Ngài cũng là Hư không nhãn.
Sở dĩ gọi ngài là vị Phật Mẫu vì ngài sanh ra trí tuệ của chư Như Lai,
Hóa thân của sự Giác ngộ, và là Chủ mẫu của Phật Bộ (Buddha-Kula).
Hai tay của Phật Mẫu kiết Pháp giới Thiền ấn (dharmadhatu – dhyana –
mudra). Điểm đặc thù của ngài Thai Tạng Giới là:
1. Ở Biến Tri Viện: Ngài là hóa thân của đức Đại Nhựt Như Lai.
2. Ở Thích Ca Viện: Ngài là hình ảnh của đức Thích Ca Mưu Ni
(Sakyamuni).
3. Ngài cũng chính là Đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva).
Pháp giới Thiền ấn chứng tỏ rằng Phật Mẫu đang nhập định với Phật
Nhãn chuyên chú nơi Trung đạo, thật tướng của các Pháp, và chư Phật,
Bồ tát, do đó mà lưu xuất nên gọi là Phật Mẫu, chớ không phải Phật có
cha, mẹ, vợ, con v.v… CHƯ PHẬT VỐN VÔ SANH, xin chớ đem vọng
tâm ra phân biệt so đo, ắt chiêu lỗi lớn.
B/ Vajraparamita (Kim Cang Ba La Mật) Bodhisattva: Trong suốt
tượng trưng cho tự tánh của nước, và trong thân thể của chúng ta là các
chất lỏng như nước rãi (tân dịch), nước mắt, mủ, huyết (máu), mồ hôi,
nước bọt, nước nhờn, đàm, gỉ mắt, tinh, khí, nước mắt v.v… Vị Phật
tượng trưng cho nước là đức Bất Động Như Lai (Aksobhya. Vị nữ Bồ tát
theo ngài Bất Động Như Lai là Vajraparamita, Phật giáo Tây Tạng cho

42
rằng vị ấy là Tathagatalocana hoặc Mamaki), ngài Bất Động cũng tượng
trưng cho A lại da thức.
Đứng trên bình diện của Thai Tạng Giới thì vị Phật tượng trưng cho
nước là đức Khai Phu Hoa Vương (Samkusumita-raja, và Ngài cũng
chính là đức Bất Không Thành Tựu (Amogha-siddhi). Nữ Bồ tát theo
ngài Bất Không Thành Tựu là Samayatara. Ngài Bất Không Thành Tựu
Như Lai cũng tượng trưng cho năm (5) thức đầu.
Bồ tát Kim Cang Ba La Mật chính là Hóa thân của đức Đại Nhựt Như
Lai. Ngài thị hiện trong hình tướng nữ nhơn để biểu thị rằng Ngài là vị
Phật Mẫu sanh ra trí tuệ của đức Bất Động Như Lai, hóa thân của Bồ đề
tâm (Bodhicitta) kiên cố như kim cang, không thể phá hủy, và là Chủ
mẫu của Kim Cang Bộ (Vajra-Kula). Tay trái của Phật Mẫu kiết Kim
Cang quyền ấn để tượng trưng cho sự an trụ hoàn toàn trong Bát
nhã Ba La Mật (Prajna-paramita). Tay phải của Phật Mẫu kiết Xúc địa ấn
(bhumisparsa-mudra). Ấn nầy chính là ấn của đức Bất Động Như Lai
(Aksobhya-Tathagata).
C/ Ratnaparamita (Bảo Ba La mật) Bodhisattva: Trong suốt tượng
trưng cho tự tánh của đất, và trong thân thể của chúng ta là chất đặc như
lông, tóc, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, óc và các sắc nhơ nhớp
khác. Vị Phật tượng trưng cho Địa đại là đức Bảo Sanh Như Lai
(Ratnasambhava. Nữ Bồ tát theo Ngài Bảo Sanh là Ratnaparamita. Phật
giáo Tây Tạng cho rằng vị ấy là Mamaki), ngài Bảo Sanh cũng tượng
trưng cho thức Mạt na.
Đứng trên bình diện của Thai Tạng Giới thì vị Phật tượng trưng cho đất
là đức Bảo Tràng (Ratnaketu).
Bồ tát Bảo Ba la mật chính là hóa thân của đức Đại Nhựt Như Lai. Ngài
thị hiện trong hình tướng nữ nhơn để biểu thị rằng Ngài là vị Phật Mẫu
sanh ra Trí tuệ của đức Bảo Sanh Như Lai, hóa thân của sự Tu Tập/Hành
Động, và là Chủ Mẫu của Bảo Bộ (Ratna-Kula). Tay trái của Phật Mẫu
cầm một liên hoa nở để lộ ra một hình cầu (có nơi vẽ quyển kinh) để
tượng trưng cho sự tu tập viên mãn. Tay phải của Phật Mẫu cầm Như Ý
Bảo Châu để tượng trưng cho sự tu tập “Mười ngàn pháp môn” mà chiêu
cảm được tâm tự tại như ngọc báu Như Ý Bảo Châu.
D/ Dharmaparamita (Pháp Ba la mật) Bodhisattva: Trong suốt tượng
trưng cho tự tánh của lửa, và trong thân thể của chúng ta là hơi ấm, khí
nóng.Vị Phật tượng trưng cho lửa là đức Vô Lượng Thọ Như Lai
(Amitayus. Vị nữ Bồ tát theo ngài Vô Lượng Thọ Như Lai là
Dharmaparamita) và cũng chính là đức Vô Lượng Quang (Amitabha.
Theo Phật giáo Tây Tạng thì vị nữ Bồ tát đi theo ngài Vô Lượng Quang

43
là Pândara hoặc Go Karmo) Như Lai của Kim Cang giới. Ngài Vô
Lượng Quang Như Lai cũng tượng trưng cho Ý thức.
Bồ tát Pháp Ba la mật chính là Hóa thân của Đức Đại Nhựt Như Lai.
Ngài thị hiện trong hình tướng nữ nhơn để biểu thị rằng Ngài là vị Phật
mẫu sanh ra Trí tuệ của đức Vô Lượng Quang Như Lai, hóa thân của sự
Giác Ngộ, rồi dùng tâm giác ngộ mà chuyển Chánh Pháp Luân để cứu độ
chúng sanh, và là Chủ mẫu của Liên Hoa Bộ (Padma-Kula) cũng chính
là Pháp Bộ (Dharma-Kula). Trí tuệ nầy thuộc Liên Hoa Bộ vì nó giống
như đóa hoa sen ở trong bùn mà chẳng bị nhiễm phải bùn. Hai tay của
Phật mẫu kiết ấn Tam Muội (dhyana-mudra), ở trên có một đóa hoa sen
nở vươn lên ngang đỉnh đầu, trên bông sen có kinh Bát Nhã Ba la mật
(Prajnaparamita).
E/ Karmaparamita (Yết ma Ba la mật) Bodhisattva: Trong suốt tượng
trưng cho tự tánh của gió và trong thân thể của chúng ta là các chất động
chuyển. Vị Phật tượng trưng cho gió là đức Bất Không Thành Tựu Như
Lai (Amogha-siddhi. Theo Phật giáo Tây Tạng thì vị nữ Bồ tát theo ngài
Bất Không Thành Tựu là Samayatara hoặc Damtsik Drolmatrong), Ngài
cũng tượng trưng cho năm (5) Thức đầu.
Đứng trên bình diện của Thai Tạng Giới thì vị Phật tượng trưng cho gió
là đức Thiên Cổ Lôi Âm (Divyadundubhi-meghanirghosa) và cũng chính
là đức Bất Động (Aksobhya. Căn cứ vào các kinh văn Mật tông của Phật
giáo Tây Tạng thì vị nữ Bồ tát đi theo ngài Bất Động Như Lai là Locana
hoặc Mamaki) của Kim Cang Giới. Ngài Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai
cũng đồng thời tượng trưng cho A lại da thức.
Bồ tát Yết ma Ba la mật chính là Hóa thân của đức Đại Nhựt Như Lai.
Ngài thị hiện trong hình tướng nữ nhơn để biểu thị rằng Ngài là vị Phật
mẫu sanh ra Trí tuệ của đức Bất Không Thành Tựu Như Lai, hóa thân
của sự hành động cứu độ chúng sanh bằng những phương tiện thiện xảo,
và là Chủ mẫu của Yết Ma Bộ (Karma-Kula). Trí tuệ của Phật mẫu dùng
để chặt đứt tất cả gốc rễ của phiền não. Tay phải của Phật mẫu cầm chày
kim cang ngũ cổ hình chữ thập (karma-vajra), tượng trưng cho Trí giác
thành tựu tất cả sự nghiệp khắp cả 10 phương của đức Bất Không Thành
Tựu Như Lai. Tay trái cầm đóa bông sen có Như Ý Bảo Châu ở trên, lại
có nơi nói là kinh Bát Nhã Ba la mật (Prajna-paramita).
Một khi chứng được địa vị của Phật Mẫu là chứng được Pháp thân
bình đẳng của chư Phật Như Lai.
Đứng trên bình diện của cả hai giới – Thai Tạng và Kim Cang thì đức
Đại Nhựt Như Lai đều ở giữa trung tâm đàn. Đây là trường hợp
thuyết các kinh thuộc Phật Bộ.
44
Có vài trường phái Mật tông, nhứt là của Phật giáo Tây tạng thường
hoán chuyển địa vị của đức Bất Động Như Lai và Đại Nhựt Như Lai
khi tuyên thuyết các kinh thuộc Kim Cang Bộ. Khi hoán chuyển như
vậy có khi lại không hoán chuyển vị Phật Mẫu sanh ra Bộ tộc của vị
Phật kia, thành ra có khi làm cho nhiều người thắc mắc. Theo Ngũ bộ
Du già thì năm vị Phật có thể hoán chuyển, mỗi bộ có vô số vô lượng
chủng loại Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác và chư Thần linh làm quyến
thuộc. Điều tối quan trọng là cả hai Giới Thai Tạng và Kim Cang vốn
vô nhị. Người tu theo đạo Phật phải đem tâm vô nhị ra làm đầu.
Nếu trong đời, hành giả trải qua kinh nghiệm của cả hai giai đoạn
Tam mật Du già Hữu tướng (Phát khởi) và Tam mật Du già Vô tướng
(thành tựu) khi thiền quán về các bậc thần linh, chủng tử v.v… với sự
chứng ngộ bản tâm vốn là Không (sunyata), mà cái không ấy cũng là
không, thì khi ở Thân Trung Ấm đương lúc chết (Tửu hữu), có thể
nhận ra những giai đoạn tan biến/hòa tan và các giọt trắng đỏ giao
lưu thì cơ hội giải thoát mình ra khỏi mọi khổ đau, triền phược và đạt
thành bậc Chánh Đẳng Chánh giác sẽ không ngoài tầm tay.
CÓ THỂ HIỆP NHỨT VỚI PHÁP THÂN HAY KHÔNG, ĐÓ LÀ DO
TỬ HỮU CÓ THỂ ĐẠT ĐƯỢC SỰ GIẢI THOÁT Ở MỘT TRONG
HAI GIAI ĐOẠN SAU HAY KHÔNG.
HAI (2) GIAI ĐOẠN NẦY XẢY RA NHANH THÌ MỘT (1) SÁT NA,
VÀ LÂU NHỨT LÀ MỘT (1) NGÀY.
HÀNG CỤ PHƯỢC PHÀM PHU THƯỜNG CÓ CẢM GIÁC RẤT
ĐAU KHỔ, HOẶC HOẢNG SỢ, HOẶC KINH HOÀNG KHI CÁC
ĐẠI BẮT ĐẦU HÒA TAN VÀO NHAU… THẾ NÊN NGƯỜI CÓ TRÍ
CÓ THỂ CĂN CỨ VÀO NHỮNG TƯỚNG TRẠNG MÀ HỌ KINH
NGHIỆM TRONG THỜI GIAN HẤP HỐI, VÀ LÚC LÂM CHUNG
(TỬ HỮU) THÌ SẼ BIẾT HỌ SANH VỀ ĐÂU. ĐIỀU NẦY RẤT HỮU
ÍCH, VÌ NẾU HỌ PHẠM PHẢI CÁC TƯỚNG SAU ĐÂY THÌ NÊN
ÂN CẦN DẠY BẢO KHIẾN HỌ CÓ THỂ XOAY CHUYỂN THẦN
THỨC MÀ SANH VỀ CÕI LÀNH.
DỰA VÀO CÁC TƯỚNG KHI CHẾT
SẼ BIẾT ĐƯỢC VONG LINH
SANH VỀ ĐƯỜNG NÀO
TRONG TAM GIỚI
Vì có rất nhiều người tà kiến dẫy đầy, trí huệ lu mờ, vô minh phiền não
hẫy hừng, khiến cho không tin một khi chết có thể sanh vào địa ngục,
ngạ quỷ v.v… cùng lúc vì muốn chuyển tà kiến, và ác hạnh của vua A
Xà Thế, đức Đại Bi Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni mở bày môn phương tiện

45
chỉ nói các tướng của người lúc lâm chung (Tử Hữu), và thị hiện uy thần
lực gia trì (adhisthana) khiến vua A Xà Thế hướng vào địa ngục, thấy
cảnh hành hình mà chuyển tâm quy Phật, Pháp, Tăng, trở thành một
người cư sĩ tại gia thuần thành. Căn cứ vào kinh Địa Tạng thì người nào
muốn vào địa ngục phải có một trong ba điều kiện sau:
1. Bản nghiệp của kẻ làm ác chín mùi, quả xấu chiêu cảm.
2. Chư Phật, Bồ tát dùng thần lực gia trì,
3. Bồ tát vì hạnh nguyện cứu độ chúng sanh mà tự vào.
Ngoài ra, không có cách nào thấy biết, hoặc hướng vào địa ngục được.
Việc nầy, không có ngoại lệ.
Căn cứ vào kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đà La Ni, do Y chỉ sư Thông
Đức, pháp hiệu Đồng Hạnh dịch, trang 295-298, thì đức Phật đã dùng uy
thần lực để gia trì (adhisthana) vua A Xà Thế khiến vua mở mắt chưa
từng có mà hồi tâm chuyển ý. Đại khái sự việc xảy ra như sau:
Lúc ấy, đức Thích Ca Như Lai nói lời ấy rồi, vua A Xà Thế nước Ma
Kiệt Đà lại bạch Phật rằng:
Thế Tôn, như chỗ Phật nói, chúng sanh ác vào nơi địa ngục, làm sao biết
được, ai đã từng thấy? Làm sao biết được đọa vào Ngạ quỷ và Súc sanh?
Ai thấy đương sanh Trời, Người?
Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo vua A Xà Thế rằng:
Đại vương phải biết, nhứt tâm lắng nghe, Ta vì vua nói, khiến vua được
thấy biết hiện tiền. Đại vương phải biết, người sắp lâm chung có mười
lăm (15) tướng phải đọa vào Địa ngục, có tám (8) tướng trạng phải đọa
vào Ngạ quỷ, đọa vào Súc sanh có năm (5) tướng; sanh vào Trời và
Người mỗi cảnh giới riêng có mười (10) tướng.
Đại vương, mười lăm (15) tướng phải đọa vào Địa ngục đó như thế nào?
1. Người ấy có cặp mắt hung ác nhìn vợ, chồng, nam nữ quyến thuộc.
2. Hai tay người ấy rờ mò trong hư không.
3. Thiện tri thức dạy bảo không tùy thuận.
4. Buồn tủi, khóc lóc, kêu la, ứa lệ.
5. Lúc tiểu và đại tiện không hay, không biết.
6. Nhắm mắt không mở được.
7. Thường che khuất đầu mặt.
8. Ăn uống nằm nghiêng.
9. Thân và miệng hôi thối.
10. Đầu gối không cử động.
11. Sống mũi nghiêng một bên.
12. Mắt trái máy động.
13. Hai mắt đỏ ngầu.
46
14. Nằm úp mặt.
15. Thân hình co quắp, nằm nghiêng hông phía trái dưới đất.
Đại vương phải biết, nếu có chúng sanh lúc lâm chung đủ mười lăm (15)
tướng như vậy, quyết định phải sanh vào Địa ngục A tỳ. [còn bị ít hơn 15
tướng trên thì phải chịu đọa vào trong 16 Đại Địa ngục].
Đại vương nên biết, người lúc lâm chung có tám (8) tướng quyết định
phải sanh cảnh giới Diêm ma la trong đường Ngạ quỷ. Tám tướng đó
như thế nào?
1. Thích liếm môi.
2. Thân nóng như lửa.
3. Thường hay đói khát, ưa nói về ăn uống.
4. Miệng há không ngậm.
5. Hai mắt khô cằn như chim Khổng tước (chim công).
6. Không thể tiểu, đại tiện được.
7. Đầu gối chân mặt lạnh trước.
8. Tám là tay mặt thường nắm lại, vì cớ sao? Tâm người đó bỏn xẻn, cho
đến nước cũng không bố thí cho người.
Đại vương nên biết, đủ tám (8) tướng nầy, lúc lâm chung quyết định
sanh trong Ngạ quỷ.
Đại vương nên biết, nếu lại có người lúc lâm chung có năm (5) tướng
hiện ra, người ấy quyết định phải đọa vào Súc sanh. Năm (5) tướng đó
như thế nào?
1. Ái nhiễm vợ/chồng con, thích thấy không xả được.
2. Tay chân co quắp lại.
3. Thân ra mồ hôi một phía.
4. Phát ra tiếng nói khô rít.
5. Trong miệng thường có đàm.
Đại vương, nếu có đầy đủ năm (5) tướng nầy, lúc lâm chung quyết định
đọa vào Súc sanh.
Đại vương phải biết, lúc lâm chung có đủ mười (10) tướng hiện ra, người
ấy quyết định sanh lại làm người. Mười (10) tướng ấy như thế nào?
1. Sanh thiện niệm, tâm nhu nhuyến, tâm phước đức, tâm vi tế, tâm hoan
hỷ, tâm phát khởi, tâm không phiền muộn.
2. Thân không khổ đau.
3. Ít nói lời nhảm nhí, tâm thường nhớ cha mẹ.
4. Nơi vợ/chồng con, nam nữ khởi tâm thương xót, xem ngó như thường,
không ái, không sân, tai ưa nghe danh tánh của anh em, chị em thân
thuộc.
5. Điều thiện, điều ác tâm không tán loạn.

47
6. Tâm chánh trực, không siểm khúc.
7. Biết Cha Mẹ, thân hữu, quyến thuộc đem tâm thiện hộ niệm cho ta.
8. Thấy chỗ chân lý tâm sanh khen và vui.
9. Di chúc gia sự, chỉ rõ nơi chứa cất tài bảo.
10. Khởi tâm thanh tịnh, thỉnh Phật, Pháp, Tăng đối trước mặt tín tâm
quy kính xưng: “Nam Mô Phật Đà, Nam mô Đạt Ma, Nam mô Tăng Già,
con nay quy y.” Nếu không có đạo Phật trong đời, thời quy ngũ thông
Tiên Đạo.
Đại vương, người lúc lâm chung đủ mười (10) tướng nầy, quyết định
được sanh làm Người.
Đại vương phải biết, nếu lại có người đến lúc lâm chung có đủ mười (10)
tướng trạng hiện ra, người ấy quyết định sanh vào các cõi Trời. Mười
(10) tướng ấy như thế nào?
1. Khởi tâm lân mẫn.
2. Phát khởi thiện tâm.
3. Khởi tâm hoan hỷ.
4. Chánh niệm hiện tiền.
5. Không có các mùi hôi tanh.
6. Sống mũi không xiên vẹo.
7. Tâm không phẫn nộ.
8. Trong gia đình, đối với vợ/chồng con, tài bảo, quyến thuộc, tâm không
luyến ái.
9. Mắt hiện sắc thanh tịnh.
10. Ngửa mặt mà cười, tưởng nhớ cung Trời phải đến rước ta.
Nếu lúc lâm chung đủ mười (10) tướng nầy, quyết định sanh vào các cõi
Trời.
Đại vương, người lúc lâm chung, tướng thiện, tướng ác như vậy, Ngài
phải nên biết.
Lúc ấy, vua A Xà Thế nghe Phật nói rồi, thẩm xét, suy tư lời nói của đức
Như Lai đây, đó là chân thực hay hư dối? Đức Thế Tôn biện tài đầy đủ
quyền thuyết lý nầy.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết chỗ nghi trong thâm tâm của vua A Xà Thế,
liền dùng thần lực (adhisthana) khiến vua A Xà Thế thấy được tướng ác,
bỗng nhiên có địa ngục và khí cụ hành khổ đầy khắp. Có các ngục tốt,
tay cầm binh khí, vô lượng chúng sanh do điên đảo đọa vào địa ngục
nhanh như giọt mưa. Lúc ấy, ngục tốt nhìn với đôi mắt sân si, oai mãnh,
tay chỉ A Xà Thế mà nói rằng: “Đây là người nghịch ác giết Cha, mau
đem hắn nhốt trong Địa ngục A Tỳ mà khổ trị đó.”

48
Lúc ấy, vua A Xà Thế nghe lời đó rồi rất là sợ sệt, chân lông khắp thân
tuôn mồ hôi dầm dề, vội vàng từ tòa đứng dậy muốn chạy trốn. tâm mê
muội, ngã nhào dưới đất, không hay biết, ví như luồng gió lốc thổi xô
cây đại thọ không rễ, chẳng thể sống lâu. Cho đến dùng mọi phương tiện
cứu sống cũng không thể được. Xướng liên hồi rằng:
Thế Tôn! Thế Tôn! Cứu giúp mạng con! Cứu giúp mạng con! Cứu giúp
mạng con! Con ngày nay, không chỗ nương, không chỗ cậy, từ nay quyết
định quy y Phật, Pháp, Tăng.
Đức Như Lai hoàn nhiếp thần lực (adhisthana), mọi tướng không còn,
hỏi vua A Xà Thế rằng: “Đại vương hướng vào Địa ngục, thấy các việc
khổ đó như thế nào?”
Lúc ấy, vua A Xà Thế trong lòng đau khổ, đáp rằng:
Con nay đã thấy chỗ nói của Đức Thế Tôn, đó chỉ là một phần ít, chỗ
con thấy cái khổ rất nhiều. Như Lai Thế Tôn nói lời chơn ngữ, thực ngữ.
Thế Tôn! Thân con đây tạo nhiều nghiệp ác, nay đối trước Thế Tôn,
chúng đại Bồ tát và chúng Tăng trong đại hội đây, xin phát lồ sám hối,
dứt các điều ác, đoạn tâm tương tục, con từ ngày hôm nay cho đến Bồ đề
(Bodhi), thề giữ năm giới làm Ưu bà tắc. Như chỗ Phật nói, một chữ Đà
La Ni (dharani) hết thảy công năng, đều lấy Bồ đề tâm (bodhicitta) làm
tiên đạo. Từ nay về sau, mỗi ngày ba thời tinh tấn tu tập, đem mọi thiện
căn hồi hướng cho tất cả chúng sanh.
GIAI ĐOẠN THỨ I
Các Đại Lần Lượt Tan Biến Vào Nhau
(có nhiều trường phái chủ trương giai đoạn nầy thuộc giai đoạn của
Trung Hữu!)
ĐỊA ĐẠI ------> THỦY ĐẠI
Tiến trình nầy bắt đầu bằng sự tan biến của Địa đại vào Thủy đại. Khi
mà sự hòa tan nầy xảy ra thì tất cả mọi hiện tượng đều biến thành
màu vàng. Tử Hữu sẽ thấy và kinh nghiệm rằng tất cả mọi vật đều bị
tan rã bởi những cơn lụt và động đất dữ dội. Tử Hữu không thể nào
đứng vững bởi vì sức mạnh trong người bị tan biến một cách nhanh
chóng phi thường. Lúc bấy giờ, Tử Hữu cần phải cố gắng tập trung tư
tưởng và thiền quán về những hiện tượng màu vàng kia đồng với cái tâm
của mình, tất cả mọi hiện tượng màu vàng kia chính là tâm, tâm chính là
hiện tượng mang hình sắc màu vàng không hai không khác. Nói cách
khác, nếu Tử Hữu có thể vượt qua sự đối đãi nhị nguyên của tâm và
sắc (hiện tượng giới) vào lúc nầy thì đồng thời chứng được địa vị của
đức Ratnaparamita Bodhisattva (Pháp thân).
THỦY ĐẠI -----> HỎA ĐẠI
49
Giai đoạn thứ hai, Thủy đại tan biến vào Hỏa đại. Khi mà sự hòa tan
này xảy ra thì tất cả mọi hiện tượng đều biến thành màu trắng. Bên
ngoài thì Tử Hữu sẽ kinh nghiệm rằng toàn thể vũ trụ đều bị nước bao
trùm khắp nơi. Trong khoảng thời gian nầy, những người chung
quanh sẽ thấy mặt và môi của Tử Hữu trở thành khô cằn một cách
nhanh chóng. Bản thân Tửu Hữu cảm thấy rằng mình rất khát
nước. Lúc bấy giờ, Tử Hữu cần phải cố gắng tập trung tư tưởng và thiền
quán về những hiện tượng màu trắng kia đồng với cái tâm của mình, tất
cả mọi hiện tượng màu trắng chính là tâm, tâm chính là hiện tượng mang
hình sắc màu trắng không hai không khác. Nói cách khác, nếu Tử Hữu
có thể vượt qua sự đối đãi nhị nguyên của tâm và sắc vào lúc nầy thì
đồng thời chứng được địa vị của đức Vajraparamita Bodhisattva
(Pháp thân).
HỎA ĐẠI -----> PHONG ĐẠI
Giai đoạn thứ ba là Hỏa đại tan biến vào Phong đại. Khi mà sự hòa tan
nầy xảy ra thì tất cả mọi hiện tượng đều biến thành màu đỏ. Bên ngoài
thì Tử Hữu sẽ kinh nghiệm rằng toàn thể vũ trụ đều bị cháy đỏ khắp
nơi. Trong khoảng thời gian nầy, hơi ấm trong người của Tử Hữu sẽ
biến mất. Lúc bấy giờ, Tử Hữu cần phải cố gắng tập trung tư tưởng nhứt
tâm quán sát những kinh nghiệm nội tại và những kinh nghiệm ngoại tại
tất cả chỉ do tâm hiện và không có gì có thể xuất hiện ngoài tâm của
mình. Nếu Tử Hữu chứng được lý Duy Tâm Sở Hiện vào lúc nầy thì
đồng thời chứng được địa vị của đức Dharmaparamita Bodhisattva
(Pháp thân).
PHONG ĐẠI ----- > HƯ KHÔNG ĐẠI
Giai đoạn thứ tư, tuy nhiên, nếu hành giả vẫn chưa thành tựu được ở giai
đoạn nầy thì Phong đại sẽ tan biến vào Hư không đại. Khi mà sự hòa tan
nầy xảy ra thì tất cả mọi hiện tượng đều biến thành màu xanh lá cây.
Bên ngoài thì Tử Hữu sẽ kinh nghiệm rằng toàn thể vũ trụ đều bị
những luồng gió khủng khiếp thổi tan biến không còn gì cả. Bên trong
thì Tử Hữu sẽ nghe tiếng gầm thét như trăm ngàn tiếng sấm nổ. Lúc
bấy giờ, Tử Hữu cần phải cố gắng tập trung tư tưởng nhứt tâm quán sát
tất cả ánh sáng, âm thanh và màu sắc mà mình đang trải qua thật ra chỉ
do tâm hiện và không có gì có thể xuất hiện ngoài tâm của mình. Bếu Tử
Hữu chứng được lý Duy Tâm Sở Hiện vào lúc nầy thì đồng thời
chứng được địa vị của đức Karmaparamita Bodhisattva (Pháp
thân).
HƯ KHÔNG ĐẠI ----- > THỨC ĐẠI
50
Giai đoạn sau cùng, nếu hành giả vẫn chưa thành tựu được đạo quả
thì Hư không đại sẽ tan biến vào với Thức đại. Nói cách khác, tất cả
những luồng gió nghiệp sẽ hòa tan vào ống dẫn trung tâm. Người
thường cho rằng đó là “giai đoạn mất tri giác.” Lúc bấy giờ, Tử Hữu
nhập vào cảnh giới tối tăm mù mịt, và mất đi tất cả mọi cảm giác và tri
giác. Hãy tập trung tư tưởng trong thể nhứt tâm bất loạn và hãy nhận ra
rằng tâm mình chính là tự tánh của Pháp giới, chính là quang minh. Nếu
Tử Hữu có thể chứng được bản tâm và quang minh vốn là một, không sai
khác thì đồng thời chứng được địa vị của đức Buddhalocana Bodhisattva
(Pháp thân).
Lúc bấy giờ tất cả Ngũ đại đều bị hòa tan và Tử Hữu sẽ không thể
nào di chuyển được bất cứ chi phần nào của thân thể cả.
GIAI ĐOẠN THỨ II
Giọt Trắng và Giọt Đỏ Của Bồ Đề Tâm Xuất Hiện
Ở giai đoạn nầy, Tam Mật của chúng sanh sẽ chuyển hóa, và hợp
nhứt với Tam Mật của đức Như Lai.
GIỌT TRẮNG ĐI XUỐNG
(Biểu tượng của phương tiện thiện xảo)
Đầu tiên, hơi thở sẽ dứt bặt, Tử Hữu đi vào cảnh giới tối tăm do Hư
không đại hòa tan vào Thức đại (từ một sát na đến trọn cả bữa ăn). Ngay
sau đó, Tử Hữu sẽ thấy một điểm sáng [hoặc một giọt trắng mà người
Tây Tạng gọi là bindu điểm sáng ấy là hiện tướng của Bồ đề tâm
[Bodhicitta: Bồ đề tâm ở đây, chính là tự tánh của tâm thanh tịnh hiển
tướng, chớ không phải là Bi tâm được tạo ra do sự nguyện ước cứu độ
chúng sanh mà có nhiều nơi cho rằng cả hai giống nhau!] nó xuất hiện tại
giữa hai lông mày trước trán rồi lần lần đi xuống; đây là loại Bồ đề tâm
tích cực (male energy), biểu tượng của phương tiện thiện xảo (upaya).
Khi mà điểm trắng đi xuống thì Tử Hữu sẽ thấy tất cả mọi hiện tượng
đều mang một màu trắng. Lúc bấy giờ, trong một sát na, tất cả 33 loại
sân hận sẽ hoàn toàn biến mất, đến như mối hận bất cộng đái thiên với
bất cứ ai đi nữa cũng tan biến không sót thừa.
Cùng lúc đó, Tử Hữu trải kinh nghiệm của Trí lạc, đó là bản chất của
Ứng thân (Nirma-nakaya). Thân bất tịnh nầy sẽ được chuyển hóa thành
Ứng thân thanh tịnh. Đây là thánh thể ứng hiện nơi thế gian và cũng
chính là thân trong cảnh giới tâm linh siêu việt của các bậc Đại Đạo sư
và chư Bồ tát khi thị hiện nơi nhân thế.
Ứng thân thể hiện bằng Trí lạc vượt qua sự chấp trước của thế giới nhị
nguyên. Nếu trải qua kinh nghiệm nầy và nhận ra Trí lạc kia thì Tử Hữu
sẽ chứng được địa vị của Đức Bất Động (Aksobhya) Như Lai (có nơi nói
51
là Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), điều nầy cũng không có gì sai trái cả
vì đức Vajrasattva chính là hóa thân của đức Bất Động Như Lai vậy. Bất
Động Như Lai chính là bản thể của Thân bí mật của chư Phật.
GIỌT ĐỎ ĐI LÊN
(Biểu tượng của Trí Tuệ)

Sau đó, Tử Hữu sẽ thấy một điểm sáng màu đỏ từ dưới đan điền đi lên
từ từ. Đây là thứ Bồ đề tâm tiêu cực (female energy), biểu tượng của trí
tuệ. Khi mà điểm sáng đỏ đi lên, Tử Hữu sẽ thấy tất cả hiện tượng đều
trở thành màu đỏ. Trong khoảng thời gian nầy, 40 loại tham dục đều bị
tan biến, ngay cả gặp hình ảnh rất đáng yêu của các Thiên nữ hay các
Thiên nam, Tử Hữu cũng sẽ không có tâm tham ái nổi lên.
Cùng lúc đó, Tử Hữu trải qua kinh nghiệm của Trí lạc tối thượng, đây là
bản chất của Báo thân (Sambhogakaya). Ngữ/ Khẩu bất tịnh của chúng
sanh sẽ được chuyển hóa thành Báo thân thanh tịnh.
Báo thân thể hiện bằng Trí Lạc Tối Thượng, cái Lạc nầy thâm sâu và
trường cửu. Nếu nhận ra được Trí Lạc Tối Thượng nầy thì Tử Hữu sẽ
chứng được địa vị của đức Vô Lượng Quang (Amitabha) Như Lai. Vô
Lượng Quang Như Lai chính là bản thể của Khẩu bí mật của chư Phật.
GIỌT TRẮNG VÀ GIỌT ĐỎ GẶP NHAU
TẠI LUÂN XA TRÁI TIM
Biểu tượng của Đại Ấn (Mahamudra) viên thành
Nếu vẫn chưa đạt được sự giác ngộ, Tử Hữu sẽ thấy điểm (giọt) sáng
trắng và điểm sáng đỏ sẽ gặp nhau ở Luân Xa Trái Tim. Khi mà cả hai
điểm nầy giáp nhau thì Tử Hữu sẽ trải qua kinh nghiệm mờ ảo, như màn
đêm khi trăng non vừa mới xuất hiện, và bảy (7) loại vô minh sẽ tan
biến.
Cùng lúc đó, Tử Hữu sẽ trải qua kinh nghiệm của Trí Tuệ Siêu Lạc và
lập tức chuyển hóa tâm mình làm một với tâm của chư Phật, Tâm Bí Mật
đó chính là đức Đại Nhựt (Mahavairocana) Như Lai vậy.
Tâm nhị nguyên của Tử Hữu sau khi chuyển hóa sẽ trở thành Pháp thân
(Dharma-kaya) của chư Phật Như Lai. Điều nầy là một sự thật không thể
chối cãi được, trong đó tất cả những khái niệm nhị nguyên sẽ trở thành
nhứt thể và vượt ra ngoài những cảm giác thường tình của thế nhân.
Trí Tuệ Siêu Lạc chính là Pháp thân. Nó vượt qua tất cả mọi khái niệm,
thậm thâm và không thể nào phá hủy. Lúc bấy giờ, Tử Hữu không cần
phải dụng công tu tập, nó cũng đến một cách tự nhiên và tự phát. Tử Hữu
nếu có thể nhận ra cảnh giới nầy thì liền đạt được sự giác ngộ viên mãn.
52
Thân bí mật của chư Phật chính là đức Bất Động Như Lai. Khẩu bí
mật của chư Phật chính là đức Vô lượng quang Như Lai. Tâm Bí Mật
của chư Phật chính là đức Đại Nhựt Như Lai, và Đại Nhựt Như Lai
cũng chính là căn nguyên của Phật.
Các thứ Lạc nầy do trí tuệ sanh ra. Chúng không khác nhau mấy trên
hình thức, nhưng khác nhau trên mức độ sâu cạn mà thôi. Vả lại, tất cả
các thứ Lạc mà Thân Trung Ấm kinh nghiệm qua đều là cái Lạc vĩnh
cửu, nó tuy là một nhưng chính là bốn (4) đặc tánh hy hữu của Đại niết
bàn (Thường, Lạc, Ngã – Ba thân là theo Hiển giáo, theo Mật giáo thì có
bốn Thân - Tịnh)
Nếu không đạt được giác ngộ lúc nầy thì Tử Hữu sẽ bị lạc vào Thân
Trung Ấm sau khi chết (Trung Hữu).Ngoài Phật lực, Bồ tát hạnh
nguyện lực, Thần chú/ Chân ngôn/ Đà ra ni lực, Pháp giới lực thì Nghiệp
lực là hạng kế vậy. Một khi bị nghiệp lực chủ trì và lôi kéo thì khó có gì
ngăn cản nổi nó. Ôi một phen mất thân người nẻo dị loại mang lông đội
sừng biết bao giờ mới ra khỏi!
Thế mới biết, đạt được sự giác ngộ hay không là do hai yếu tố quan trọng
của đời nầy:
1. Thật sự tu tập thiền quán và
2. Y pháp hành trì.
Tất cả chúng sanh đồng có chung một kinh nghiệm khi chết, không
ngoại lệ.
Sự khác biệt trong mức độ chứng nhập bản tâm là tùy theo khả năng
nhận ra bản chất chân thật của mỗi giai đoạn mà Thần thức trải qua khi
chết mà mỗi người có kinh nghiệm sai biệt. Nếu được huấn luyện kỹ, và
thật sự có tu tập thì hành giả sẽ nhận ra nó dễ dàng. Lúc nầy, nếu thuở
sanh thời không chịu tu hành thì dù có đọc sách về Thân Trung Ấm, hay
bất cứ kinh sách gì đi nữa thì cũng bằng thừa!
Khi giọt trắng (đại diện bằng chữ ÚM màu trắng như ánh sáng mặt
trời) và giọt đỏ (đại diện bằng chữ A màu đỏ rực rỡ) của Bồ đề tâm
gặp nhau tại Luân Xa Trái Tim. Tử Hữu nào thành tựu được Thiền
quán thậm thâm nơi kiếp nầy, sẽ lập tức nhận ra bản chất chân thật
của tâm (đại diện bằng chữ HÙM) màu xanh da trời, cực kỳ rực rỡ).
Tâm quán chiếu tánh không (sunyata), và tánh không hợp nhứt thì lúc
bấy giờ Tử Hữu không cần phải dụng công mà nó tự phát khởi không
gián đoạn.
Tâm quán chiếu Tánh không (sunyata) trong lúc sanh thời gọi là Con;
tự tánh chân thật của tâm được gọi là Mẹ.

53
Hành giả đã thấu triệt hoàn toàn, và thiền quán thâm sâu sẽ trải qua kinh
nghiệm hợp nhứt của mẹ và con khi ở giai đoạn Tử Hữu.
Trường hợp nầy giống như người mẹ mất đứa con đã lâu ngày, nay mẹ
con trùng phùng. Khi gặp lại đứa con của mình người mẹ lập tức nhận ra
nó ngay, và lòng bà tràn ngập niềm vui không kể xiết. Lúc bấy giờ,
người mẹ trong lòng chỉ biết có con mình, ngoài ra không hề chú ý đến
việc gì khác chỉ có một kinh nghiệm đó là niềm vui vô hạn.
Khi mà hành giả nhận ra tự Tánh không (sunyata) của tâm, và sự nhận ra
kia cũng là không (sunyata), thì lúc bấy giờ hành giả đạt được sự giác
ngộ tối cao, đó chính là chứng nhập Pháp thân (Dharmakaya) Bình đẳng
của chư Phật Như Lai vậy.
Có rất nhiều bậc liễu ngộ Pháp thân đã thị hiện giữ được tư thế ngồi
thiền hai (2) hay ba (3) ngày sau khi chết.
Các vị liễu ngộ cao hơn có thể ngồi như ba (3) đến bảy (7) ngày mà thân
thể vẫn không hôi thúi, không mục rã, lại tỏa ra mùi hương thơm ngạt
ngào, thế gian ít có mùi hương nào có thể sánh bằng. Khi xả thiền, vì các
Ngài đã thực sự đạt đến giác ngộ, thì thân thể của họ sẽ gục ngã. Đây là
dấu hiệu sứ chứng ngộ của các Ngài.
Có hai cách thức để đạt được sự giác ngộ khi chết. Đó là tùy theo hai
cách thức thiền quán:
1. Thiền hữu tướng
2. Thiền vô tướng
Nếu tu tập theo pháp môn thiền hữu tướng thì hành giả sẽ đạt được sự
giác ngộ bằng cách thức sau đây.
Theo truyền thống của Mật tông Tây Tạng, thì hành giả sẽ thấy sự gặp
gỡ của hai giọt trắng và đỏ trong hình thức của các bậc thần linh. Ví dụ,
giọt trắng có thể được thấy như một bậc thần linh với phương diện tích
cực/ động chẳng hạn như Chakrasamvara (thần linh với bóng dáng của
một bậc trượng phu). Tương tự, hành giả sẽ có kinh nghiệm về giọt đỏ
như một bậc nữ thần chẳng hạn như Vajrayogini.
Hành giả sẽ nhận ra nhị vị thần linh kia là những vị thần hộ mệnh của
mình, và hãy chí thành cầu nguyện, thì hành giả sẽ nhận được sức gia trì.
Khi nhận được sự gia trì thì hành giả sẽ thấy hình ảnh của nhị vị tôn sư
một cách rõ ràng, và khi Thần thức của hành giả hòa tan làm một vào
trung tâm của trái tim của vị thần hộ mệnh thì hành giả sẽ đạt được sự
giác ngộ.
Hành giả sẽ nhận được lực gia trì từ bên ngoài, bên trong cũng như sự
gia trì bí mật từ nhị vị thần linh. Bởi vì năng lực của lòng thành của hành
giả và lòng bi nguyện của nhị vị thần linh hộ mệnh mà hành giả quán
54
tưởng, hành giả sẽ đạt được sự giác ngộ. Dĩ nhiên, điều nầy tùy thuộc
vào lòng thành kính và kinh nghiệm thiền quán về các bậc thần linh hộ
mệnh lâu hay chậm mà ra.
Nếu tu tập thiền vô tướng thì hành giả sẽ kinh nghiệm sự giác ngộ
chính là sự gặp gỡ giữa hai giọt trắng và đỏ của Bồ đề tâm. Đây là sự
chứng ngộ của các bậc Đại du già hành giả.
Những người chưa nhận lễ Quán đảnh khi thấy sự gặp gỡ của giọt
trắng và giọt đỏ, trong thời gian thọ Thân Trung Ấm, họ sẽ thấy tia
sáng lờ mờ của sắc tướng mà họ sẽ nhận được khi tái sanh trong Ba
đường Sáu nẻo trong chốn sanh tử luân hồi.
1. Nếu họ sanh trong loài người, súc sanh, hoặc ngạ quỷ, họ sẽ cảm thấy
giọt trắng chính là cha tương lai, và giọt đỏ chính là mẹ tương lai…
2. Nếu họ sanh vào địa ngục thì họ sẽ càng thấy kinh hoàng hơn… so
sánh về pháp môn quán chiếu của bậc Thượng căn nơi pháp môn Giáo
Lý Bí Mật về Thân Trung Ấm với kinh Đại Nhựt thì chúng ta có thể thấy
rằng Giáo lý nầy phát xuất từ Tôn kinh Đại Nhựt cũng như của Kinh
Kim Cang Đảnh v.v… chớ không phải của riêng Phật giáo Tây Tạng như
nhiều người lầm tưởng.
QUÁN CHIẾU VỀ THÂN THỂ HỢP THÀNH VỚI NGŨ ĐẠI
***
Phần nầy trích trong Mật giáo Thậm Thâm Nội Nghĩa,
Nguyễn Pram, trang 197-204, nhà xuất bản Nguồn Sống, 1996.
Kế đó, hành giả nên quán chiếu về “thân thể hợp thành bởi Ngũ đại”,
[Một vài trường phái Mật tông cho rằng cách quán chiếu nầy là “Đại
Nghi Lễ của Tháp Mặt Trời”, chữ “Mặt Trời” ở đây là Đại Biến Chiếu/
Tỳ Lô Giá Na/ Đại Nhựt Như Lai. Với chút ít phần khác biệt trong chi
tiết, cách quán chiếu nầy còn gọi là “quán chiếu về thân thể được trang
nghiêm bởi năm chủng tử”, và còn được biết dưới hình thức “quán chiếu
về thân thể hợp thành bởi năm Luân Xa”. “Quán chiếu về thân thể hợp
thành bởi Ngũ đại” thuộc Thai Tạng giới giống y hệt như “quán chiếu về
thân thể hợp thành bởi năm hình thức” của Kim Cang giới, sẽ được giải
thích ở phần sau. Điều nầy cho thấy không có sự khác biệt giữa Thai
Tạng và Kim Cang Giới. Chứng nhập được Thai Tạng giới ắt chứng
nhập được Kim Cang giới, và ngược lại chứng nhập được Kim Cang giới
tức chứng nhập Thai Tạng giới. Tùy theo sự ưa thích của hành giả mà
chọn lấy pháp môn thuộc một trong hai giới mà tu tập, hoặc có thể kiêm
cả hai, nếu có đủ khả năng và trí tuệ. Trong đó, hành giả tự quán tưởng
thân thể mình với ngũ đại, đó là thân thể được trang nghiêm bằng Ngũ
đại. Cách quán chiếu nầy hợp nhứt với “Ngũ Luân Xa Tháp”, đó là “Bản

55
Thân Pháp” với “Pháp Giới Tháp", đó là Pháp thân của đức Tỳ Lô Giá
Na Như Lai. Kinh Đại Nhựt giải thích nó là “phương hướng phát khởi và
sự tiến triển tức thời”, pháp thức nầy khiến hành giả đạt được Pháp Thân
Viên Mãn / Kim Cang Thân trong một niệm. Khi mà thân thể của hành
giả được trang nghiêm bằng Ngũ đại thì tất cả mọi nghiệp xấu ác đều bị
tan biến không còn sót thừa [như gió thổi mây tan], bởi “phước đức vĩ
đại” đạt được khi chứng pháp thân Viên Mãn, và lúc bấy giờ chư Thiên
và Ma không thể làm hại được thân của hành giả, vì nó chính là Kim
Cang thân vậy.
Tiến trình của sự tu tập là hành giả quán tưởng các chủng tử của Ngũ đại
tại năm vị trí trên thân thể của mình.
[* năm chủng tử “a va ra ha kha” thường được sử dụng, nhưng thỉnh
thoảng điểm Không được thêm vào để trở thành “am vam ram ham
kham” chứng tỏ rằng nó đã được trui rèn và hoàn hảo. Nhưng năm chủng
tử “a vi ra hum kham” cũng được sử dụng khi quán tưởng].
Đầu tiên, hành giả quán tưởng chủng tử của Địa đại a ở phần dưới rún,
bao gồm cả chân [còn gọi là Luân Xa ở bắp vế, nhưng có lẽ không đúng,
người Tây Tạng gọi là chỗ Bí mật, ở dưới rún độ bốn lóng tay.] Rồi biến
chữ “a” thành hình vuông màu vàng, đây là “Kim Cang Địa Luân”. Tiếp
đến, tay kiết ấn và đọc Đà ra ni của Địa luân, xong hiệp nó làm một với
phần dưới của thân thể, đó gọi là “Tòa Du Già Kim Cang Bất Hoại/ yoga
throne of indestructible diamond.”
[hoặc còn được gọi là “đại tòa của Đế Thích/ great throne of Indra” và
“tòa vương Kim Cang Luân”. Tòa Du Già là tòa của hành giả tu tập và
cũng là Như Lai tòa.]
Sau khi gia trì với Địa Luân, hành giả cần phải quán tưởng chày kim
cang ngũ cổ, xuất hiện ở giữa tòa du già, ánh sáng phát ra từ cái chày
nầy rực rỡ chiếu khắp mười phương và soi sáng tất cả chúng hữu tình
trong Pháp giới. Khi thấy được rõ ràng như vậy (quán tưởng thành tựu)
thì hành giả đã đạt được địa vị “Bồ Đề Tâm Kiên Cố Như Kim Cang.”
Ấn được sử dụng trong nghi lễ nầy là “kim cang tòa ấn”, nó giống như
“ngoại ngũ cổ ấn”, [nhưng thỉnh thoảng “nội ngũ cổ ấn” cũng được sử
dụng]. Đà ra ni đi kèm với ấn nầy là “Namah a”, có nghĩa là “Tôi quy
mạng chủng tử “a”.
Kế đến, hành giả quán tưởng chủng tử của Thủy đại, “va”, nơi Luân Xa
ở bụng, ngay rún. Xong, chuyển nó thành vòng tròn màu trắng, “phát ra
ánh sáng như trăng đêm rằm.” Tiếp đến, tay kiết ấn, và đọc Đà ra ni của
Thủy Luân và hiệp làm một với vòng tròn trắng và Luân Xa ở bụng, như

56
thế hành giả hòa hợp nó với Nước Đại Bi. Khi thấy được rõ ràng như vậy
thì hành giả bước vào “Đại Bi Tam Muội.”
[*Đại Bi giống như nước nuôi sống vạn vật. Tương tự như vậy, hành giả
hiệp nhứt sự gia trì với chủng tử “vam”, tại Luân Xa ở trái tim, cho Tâm
Đại Bi an trụ, khiến cho Nước Cam Lồ (Amrita Water), chảy tràn ra từ
tâm Đại Bi, nuôi dưỡng tất cả chúng sanh đang bị nhiệt não của Tham
Sân Si/ ba độc làm tổn hại.]
Ấn được sử dụng trong nghi lễ nầy là “Liên Hoa tòa ấn” nó giống như
“tay liên hoa ấn”. Đà ra ni đi kèm với ấn nầy là “Namah vam”, có nghĩa
là “Tôi quy mạng chủng tử “vam”.
Tiếp theo, hành giả quán tưởng chủng tử của Hỏa đại, “ra”, nơi Luân Xa
ngực, tại trái tim. Xong, chuyển nó thành tam giác màu đỏ, “phát ra ánh
sáng rực rỡ như mặt trời lúc rạng Đông”. Kế đến, tay kiết ấn và đọc Đà
ra ni của Hỏa Luân, và hiệp làm một với tam giác đỏ kia tại ngực, như
thế hành giả hòa hiệp nó với Lửa Tuệ, làm cháy tiêu tất cả những
cấu nhiễm, phiền não của mình.
Ấn được sử dụng trong nghi lễ nầy là “Hỏa luân ấn” nó giống như “biến
hiện của Pháp giới ấn”. Đà ra ni đi kèm với ấn nầy là “Namah ram”, có
nghĩa là “Tôi quy mạng chủng tử “ram.”
Sau đó, hành giả quán tưởng ,chủng tử của Phong đại, “ha”, nơi Luân Xa
ở mặt, tại giữa hai chỗ giao nhau của cặp lông mày. Xong, chuyển nó
thành nửa vầng trăng màu đen. Kế đến, tay kiết ấn và đọc Đà ra ni của
Phong Luân, và hiệp làm một với nửa mặt trăng đen kia với luân xa ở
mặt. Khi thành tựu trong cách quán tưởng nầy, hành giả đạt được “Lực
giải thoát”, nó làm tiêu trừ tất cả những ảnh hưởng của ma quỷ, và những
thế lực bất chánh.
Ấn được sử dụng trong nghi lễ nầy là “Chuyển Pháp Luân ấn” {ấn nầy
rất khó thực hành, có thể sử dụng những hình thức của “ấn Chuyển Pháp
Luân” khác, có nhiều loại}. Đà ra ni đi kèm với ấn nầy là “Namah ham”,
có nghĩa là “Tôi quy mạng chủng tử “ham”.
Sau cùng, hành giả quán tưởng chủng tử của Không Đại [Không Đại tức
là Hư không Đại chớ không phải Tánh không], “kha”, nơi Luân Xa ở
đầu, tại đảnh đầu. Xong, chuyển nó thành bảo châu nhiều màu. Kế đến,
tay kiết ấn và đọc Đà ra ni của Không Luân, và hiệp nó làm một với
Luân Xa nơi đảnh đầu. Khi thành tựu trong cách quán tưởng nầy,
hành giả đạt được “Đại Không” [một trong 18 Không của Đại Trí Độ
Luận], và nhờ vào thế lực của sự gia trì nầy hành giả hiệp làm một với
Pháp Giới.

57
Ấn được sử dụng trong nghi lễ nầy là “Đại Trí Tuệ Đạo ấn” [có cả thảy 3
hình thức khác nhau]. Đà ra ni đi kèm với ấn nầy là “Namah kham”, có
nghĩa là “Tôi quy mạng chủng tử “kham”.
Khi hành giả thành lập được Ngũ Đại trong thân thể của mình như
phương cách nầy thì Pháp Thân Bổn Nguyên trong thân thể phàm
phu được hiển lộ.
Nên nhớ, Lục Đại là nguồn gốc của Pháp Giới, ở trong thể Tịnh nó là vô
tướng, ở thể động nó là vạn hữu. Không pháp nào trong vũ trụ ra ngoài
Lục đại. Làm chủ được Lục đại tức là làm chủ được Pháp giới. Thể nhập
Lục đại với tự thân thì chứng được Vũ trụ, Thể tánh, Thân, của Mật giáo,
cái mà hầu hết những nhà chú giải Việt Nam, Trung Quốc, và Nhựt Bản
hình như quên nó đi, cũng có thể họ nhập Vũ trụ, Thể tánh, Thân, vào
chung với Pháp thân cũng không chừng. Nói chung, Vũ trụ, Thể tánh,
Thân, và Pháp thân không phải hai, cũng chẳng phải khác, tùy theo góc
độ của người giải thích mà thành lập.
*****
CHÚ THÍCH
*****
Theo Taizounji-shidai thì năm chủng tử được quán tưởng tại ngực, mà
chẳng phải tại năm chỗ khác nhau. Bởi vì thức tâm và thân thể hoán
chuyển lẫn nhau, và sắc với tâm chẳng phải hai (bất nhị). Cả hai nghi
thức nầy trên căn bản là một.
Cách thức quán tưởng nầy rất phổ thông trong Kim Cang Giới, chẳng
hạn như kinh Chuẩn Đề, 100 chữ Thần chú của ngài Kim Cang Tát
Đỏa Bồ tát Ma Ha Tát, A Mi Ta Nhứt Tự Tâm Chú, v.v…
Đây là cảnh giới sở chứng của các bậc Thượng nhân, các bậc Du già
hành giả, còn hàng cụ phược phàm phu ở đây quyết không có phần.
TRUNG CĂN
Phần này dành riêng cho người đi trợ giúp (hộ niệm). Phương pháp
hoán chuyển Thần thức được sử dụng bằng hai cấp độ.
Phương pháp thứ I được giới thiệu ở đây thuộc truyền thống Mật tông
của Việt Nam, còn phương pháp thứ II là pháp môn Phowa của Mật
tông Tây Tạng sẽ được tìm thấy ở phần cuối của sách (Phụ Lục) với
những cảnh cáo cần phải am tường và nhớ nằm lòng. Chư sư Mật
tông Tây Tạng rất tự hào về pháp môn nầy, và cho rằng không cần
thiền quán cũng có thể đạt được sự giải thoát.
Xét kỹ ra, trên bản chất của pháp môn nầy, nếu không tu tập thiền
quán thì quyết không thể nào đạt được sự giải thoát.

58
Trường hợp gặp được chư Lạt Ma có bản lãnh như Tôn sư Tilopa,
Naropa, Marpa, Mila v.v… thì điều nầy có thể nói là đúng hoàn toàn.
Nhưng, rải cát tìm vàng thì may ra cũng có thể được, còn việc gặp
được chư Đạo sư như thế ở đời mạt pháp nầy e rằng rất khó! Khó
không có nghĩa là không có, tuy vậy, phàm phu trí cạn làm sao biết
được ai thật ai giả giữa lúc vàng thau lẫn lộn, thánh phàm khó phân
nầy!
Xin nhớ cho kỹ!
Xin nhớ cho kỹ!
Xin nhớ cho kỹ, kẻo sau ân hận!
Các dã thú tuy độc, tuy ác nhưng chúng chỉ có thể giết chết thân nầy.
Lỡ giao đời sống tâm linh lầm cho kẻ tà ngụy, giặc cướp trong Phật
pháp thì mối họa kia thật khó lường! Một phen mang lông đội sừng,
hoặc đọa vào địa ngục thì trách được ai!
Tự hối cũng không xong, trách người cũng không được!
Muốn sống sống không an, muốn chết chết không được!
Lúc bấy giờ biết lấy ai để làm chỗ nương tựa!
Thần thức một phen bị u mê, khó mà trỗi dậy…
PHƯƠNG PHÁP THỨ I
HOÁN CHUYỂN THẦN THỨC
BẰNG PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO
CỦA MẬT TÔNG
Nên nhớ, trước khi bắt đầu việc hoán chuyển Thần thức điều cần nhứt
là hành giả biết chắc rằng người nhận chịu sự trợ giúp của mình sẽ
chết.
Trái lại, chính là sát nhân, còn người nhận chịu sự trợ giúp sẽ trở
thành kẻ tự tử. Cả hai sẽ phải trả một giá rất đắt của việc mình làm
nơi Địa ngục. Đây không phải là một việc đùa giỡn, cũng không phải là
chỗ thí trường cho những người không am tường về Y lý và Phật lý đua
tranh.
Làm thế nào biết được người ta sắp chết?
Đây là một vấn đề rất vi tế. Đứng trên phương diện Y lý mà nói thì
người đột nhiên tắt thở vẫn chưa bị coi như là đã chết. Hơi thở ra mà
không có vào có thể do nhiều nguyên nhân, phải hô hấp nhân tạo trước.
1. Đầu tiên, đặt nạn nhân nằm ngửa, hai tay hai chân xuôi theo chân.
2. Bắt mạch ở cổ (bằng ngón trỏ và ngón giữa, các ngón khác không
được đụng vào cổ nạn nhân) xem coi còn sinh khí hay không. Nếu không
thì phải tiếp hơi lập tức:

59
a. Bịt mũi nạn nhân, rồi dùng miệng của mình áp dính với miệng nạn
nhân (hoặc dùng ống bơm) mà thổi không khí vào. Xem ngực của nạn
nhân có phồng lên, xẹp xuống hay không, nếu không thì tiếp tục bịt mũi
nạn nhân rồi thổi tiếp.
b. Làm như vậy ba lần, nếu không có kết quả thì lập tức để hai tay của
mình tréo vào nhau, đặt tay vào giữa ngực của nạn nhân, hai tay phải đặt
ở trên chấn thủy, rồi dùng sức nhấn đúng 14 lần. Nếu không có động tịnh
thì làm ba lần như vậy, đồng thời, kêu người dựt tóc mai của nạn nhân.
c. Nếu vẫn không có động tịnh gì thì lập tức điểm vào hai bộ Thốn của
nạn nhân xem coi động tịnh ra sao, nếu không có mạch cũng chưa phải là
tuyệt vọng… Hãy chẩn mạch ở hai mắt cá của nạn nhân xem sao (bên
trong chớ không phải bên ngoài). Nếu không có động tịnh gì thì có thể đi
đến kết luận là nạn nhân đã trút hơi thở cuối cùng. Không có nghĩa là
Thần thức của nạn nhân đã thoát ra.
3. Thời gian mà hơi thở cuối cùng đi ra và thời gian mà tất cả các cơ
quan bên trong thân thể con người ngừng hoạt động có thể trải qua vài
phút cho đến nhiều giờ, cũng lắm khi trọn cả ngày. Đó là do nghiệp lực
chủ trì mà có mau chậm, hoặc do bệnh tật, hoặc còn muốn trăn trối, do tu
hành v.v… mà cố gắng duy trì nơi thân.
Đối với những người đã nhận được vài lễ Quán đảnh và thực hành thiền
quán thì thân thể của họ có thể là ở của những bậc thần linh của Mật
tông. Thực hành phương pháp nầy, hoặc phương pháp Phowa trước khi
lâm chung chính là hành động tự sát, và sẽ cắt đứt dây liên lạc với những
bậc thần linh.
Căn cứ vào sự khẩu truyền của bậc A Xà Lê, và chư Thượng nhân tại
Việt Nam cũng như Tây Tạng thuộc Mật tông, thì Thần thức có thể rời
khỏi xác thân nhờ vào một trong chín cửa mà lúc nào cũng mở ra.
Con đường mà Thần thức đi qua sẽ ảnh hưởng đến việc thọ thân trong
tương lai.
1. Nếu thoát ra từ hậu môn thì người chết sẽ về Địa ngục giới;
2. Nếu thoát ra từ dương vật/âm hộ thì sanh về Súc sanh giới;
3. Nếu thoát ra từ miệng thì sanh về Ngạ quỷ giới;
4. Nếu thoát ra từ mũi thì sanh về Nhơn giới hoặc về cảnh giới ngang với
người;
5. Nếu thoát ra từ rún sẽ sanh về Dục giới;
6. Nếu thoát ra từ lỗ tai thì sanh về A tu la giới;
7. Nếu thoát ra từ mắt kể cả hai chân mày thì sanh về Sắc giới;
8. Nếu thoát ra từ đỉnh đầu kể từ chân tóc về sau bốn (4) lóng tay thì
sanh về Vô sắc giới;
60
9. Nếu thoát ra từ đỉnh đầu gần xoáy tóc (Cửa Thanh Tịnh hoặc còn gọi
là Cửa Mở Phạm Thiên) thì sanh về Cực Lạc quốc độ của Phật Vô
Lượng Quang (Amitabha), hoặc tùy nguyện vãng sanh chư Tịnh độ….
Duy Thức Tông chủ trương rằng:
1. Thần thức ra từ đảnh là về cảnh giới Thánh,
2. Thần thức ra từ mắt là về cảnh giới Trời,
3. Thần thức ra từ ngực là về cảnh giới Người,
4. Thần thức ra từ dưới rún bốn lóng tay (đan điền) là về cảnh giới Thú,
5. Thần thức ra từ đầu gối là về cảnh giới Ngạ quỷ,
6. Thần thức ra từ chân là về cảnh giới Địa ngục.
(The Ultimate Theory of the Universe/ Lý thuyết tối cao của Vũ
Trụ, Nguyễn Pram, trang 286-287).
Không có gì sai cả, tùy theo sự phân chia cơ thể mà thành lập. Nói chung
theo Duy thức thì phải bít năm (5) cửa lại chỉ trừ đảnh môn. Nhưng Duy
thức tông không có dạy cách thức đóng các cửa lại như của Mật tông!
Theo ngu ý thì nên quán các chủng tử A hoặc HRIH màu đỏ rực rỡ nơi
năm (5) cửa kia để giúp Thần thức ra bằng đảnh môn. Phương pháp sẽ
được hướng dẫn ở phần dưới.
Theo Mật tông, tất cả tám (8) cửa kia phải bị đóng lại, trừ cửa ở đỉnh
môn.
Nghiệp tích chứa trong lúc sanh tiền quyết định Thần thức thoát ra nhanh
hay chậm. Nếu trong lúc sanh tiền làm những việc ác thì Thần thức sẽ
lập tức thoát ra khỏi thân sau khi hơi thở ngưng hô hấp. Một khi Thần
thức rời khỏi xác thân thì rất khó mà kêu nó lại. Các bậc đại Du già
hành giả như Mi-la-rơ-pa v.v… có thể kêu gọi Thần thức trở lại nhập vào
xác, nhưng ngày nay không có mấy ai làm nổi.
Khi mà vị tu sĩ Mật tông được báo tin về cái chết của một người nào mà
Ngài muốn trợ niệm thì Ngài sẽ lập tức quán chiếu về đức Quán Thế Âm
Bồ tát (có nơi chủ trương đức Vô Lượng Quang Như Lai) và nhập làm
một với đức Bồ tát đồng thời, quán tưởng ở giữa ngực của mình có một
bông sen, một mặt trăng, và một chủng tử HRIH màu đỏ. Chủng tử
HRIH từ tâm của vị tu sĩ Mật tông phát ra tám tia sáng, mỗi tia sáng
đều có chủng tử HRIH nhỏ hơn chiếu đến tám (8) cửa của vong nhân
để bít lối khiến cho Thần thức không thể nào chui ra từ các ngõ
đó. Chỉ có các vị hành giả đạt được trình độ quán chiếu cao mới có thể
thực hành theo cách thức nầy từ xa.
Theo như truyền thống của Thai Tạng giới, nhứt là của tôn kinh Đại
Nhựt thì chủng tử A hoặc AM màu đỏ được sử dụng để bít các cửa. Khi

61
sử dụng chủng tử A/AM thì phải quán Đức Đại Nhựt Như Lai thay vì
đức Quán Thế Âm Bồ tát.
Rồi giảng cho Thần thức của vong nhân nghe giáo lý về Thân Trung Ấm
đương lúc chết (Tử Hữu).
Nếu người sắp chết muốn ngủ hay hai mắt nặng trĩu thì nên giúp họ
tỉnh thức (vì ngủ/ hôn trầm là tướng ngu si ắt sẽ đi vào đường súc
sanh) bằng cách cùng một lúc mà chận nhịp đập của cả hai mạch lớn nơi
hầu/cổ (jugular veins) để buộc các luồng sinh khí (người Âu Mỹ dùng
chữ “wind”) đi vào ống dẫn trung tâm và không thể nào đi ngược trở lại,
nhờ vậy Thần thức sẽ dễ dàng thoát ra từ trên đỉnh môn.
Nhưng phương pháp nầy không phải dễ làm, nếu vội vàng, hoặc bất
cẩn thì sẽ trợ giúp người hấp hối chóng chết mà thôi. Xin hãy cẩn
thận cho lắm.
Nếu sử dụng phương pháp nầy thì nên khẽ bảo nhỏ nơi tai người sắp chết
(nhớ đừng chạm xúc người sắp chết vào lúc nầy, Thần thức có thể theo
ra mà đi vào A tu la giới):
Nầy Thiện nam tử/ Thiện nữ nhơn (tên là… pháp danh…) Bây giờ là
giây phút quan trọng của đời mình, hãy tìm cách trở về với chơn tâm
của chính mình. Hơi thở ra sắp chấm dứt, người đang trở về với chơn
tâm sáng suốt và rộng lớn như hư không, nó không có trung tâm
điểm, cũng không có ranh giới. Vào lúc nầy hãy nhận ra chơn tâm của
mình, và hãy an trụ trong kinh nghiệm kia. Tôi sẽ giải thích về nó nữa
cho đến khi nào người được thông suốt mới thôi. Đừng nghĩ gì khác!
(lập lại cho đến khi hơi thở ngưng bặt)
Khi hơi thở dứt bặt (bắt đầu bước vào Thân Trung Ấm của giai đoạn đầu
của đời sống sau cái chết tức là Trung Hữu), việc đầu tiên là phải đặt
người sắp chết theo tư thế nằm ngủ của đức Thích Ca (thế sư tử nằm),
chận nhịp đập của cả hai mạch lớn hầu/cổ (jugular veins) để buộc các
luồng sinh khí (người Âu Mỹ dùng chữ “wind”) đi vào ống dẫn trung
tâm và không thể nào đi ngược trở lại, nhờ vậy Thần thức sẽ dễ dàng
thoát ra từ trên đỉnh môn. Nhưng, phương pháp nầy không phải dễ
làm, nếu vội vàng, hoặc bất cẩn, thì sẽ trợ giúp cho người hấp hối
chóng chết mà thôi. Xin hãy cẩn thận cho lắm. Cho nên, ở đây cần
phải nhấn mạnh một lần nữa.
Trong trường hợp người hộ niệm trên đường đi đến chỗ vong nhân thì vị
ấy phải quán chiếu liên tục về đức Quán Thế Âm Bồ tát và đồng thời gởi
các chủng tử HRIH (hoặc chữ A) đến vong nhân để ngăn chận Thần thức
thoát ra. Nếu Thần thức không được giữ trong thân thể theo cách
thức nầy, nó sẽ bị lạc vào vòng sanh tử luân hồi (Samsara).
62
Khi đến nơi người quá cố, người hộ niệm sẽ quán chiếu thân thể của
vong nhân chính là thân của vị thần hộ mệnh của Ngài hoặc bậc thần linh
Ngài đang thờ phụng. Rồi lập tức, Ngài nhập sâu vào thiền định và bắt
đầu giảng dạy giáo lý về Thân Trung Ấm đương lúc chết (Tử Hữu) cho
Thần thức của vong nhân. Nếu sử dụng phương pháp nầy thì khẽ bảo
nhỏ nơi tai người sắp chết (nhớ đừng chạm xúc người sắp chết vào lúc
nầy, Thần thức có thể theo ra mà đi vào A tu la giới):
Nầy thiện nam tử/ thiện nữ nhơn (tên là… pháp danh…) Bây giờ là
giây phút quan trọng của đời mình, hãy tìm cách trở về với chơn tâm
của chính mình. Hơi thở ra sắp chấm dứt, người đang trở về với chơn
tâm sáng suốt và rộng lớn như hư không, nó không có trung tâm
điểm, cũng không có ranh giới. Vào lúc nầy, hãy nhận ra chơn tâm
của mình, và hãy an trụ trong cảnh giới không chướng ngại kia. Tôi
sẽ giải thích về nó nữa cho đến khi nào người được thông suốt mới
thôi. Đừng nghĩ gì khác!
(lập lại cho đến khi hơi thở ngưng bặt)
Sau đó, bằng vào uy lực của Thần chú, đại nguyện, hoặc vận chưởng,
hoặc pháp môn Phowa, Ngài sẽ cố gắng khiến cho vong linh tỉnh táo lại
và đẩy Thần thức của vong nhân lên đỉnh môn khiến cho vong nhân
được đi vào cảnh giới giải thoát của chư Thánh.
Lúc bấy giờ, Thần thức của vong nhân sẽ thông minh hơn, sáng suốt hơn
và chính xác hơn gấp 10 lần lúc sanh tiền. Bởi vì cảnh giới tâm linh cao
hơn cho nên những gì được nghe vong nhân sẽ nhớ sâu và rõ hơn rất
nhiều so với lúc còn sống.
Thần thức của vong nhân trong giai đoạn Tử Hữu còn biết được cả
những ý tưởng của những người xung quanh, và hiểu được ngôn ngữ của
những người dự đám dù rằng lúc sanh thời người đó chưa từng được học
qua.
Thần thức lúc ở vào giai đoạn Thân Trung Ấm sau khi chết (Tử Hữu) có
thể hiểu được rất nhiều điều vượt qua khỏi trí thông minh của thế nhân.
PHƯƠNG PHÁP KHIẾN CHO THẦN THỨC
CỦA VONG NHÂN ĐI LÊN
CỬA THANH TỊNH MÀ THOÁT RA
1. Phải xét xem chỗ nào trong thân của vong nhân còn ấm trước, nên
nhớ chớ có chạm mạnh vào người chết. Nếu có máy đo thân nhiệt thì hay
nhứt. Nếu có chỗ đương ấm chẳng hạn như ở vùng ngực, còn các chỗ
khác đều lạnh thì phải biết rằng Thần thức của kẻ ấy vẫn còn.
2. Khi ấy phải y theo pháp môn mà vong nhân tu tập lúc lâm thời mà to
tiếng niệm, hoặc cùng nhau niệm Phật, tụng Thần chú, tiếng chuông

63
không ngớt, và nên dùng phương pháp vận chưởng để giúp đỡ cho Thần
thức của vong nhân theo đó đi dần lên đến đỉnh môn mà thoát ra.
Phương pháp vận chưởng là đưa hai tay ngang nhau vần chuyển
thuận theo chiều kim đồng hồ mà đi lên, và phải úp hở trên chỗ ấm,
không nên cho động đến thân, phải cách thân độ nửa tấc. Pháp môn
nầy chỉ có thể thành tựu nếu và chỉ nếu người sử dụng vận chưởng
biết dùng “lửa tam muội” để đẩy Thần thức lên đỉnh môn.
Hai mắt phải chăm chú nơi hai tay và thầm tưởng tượng Thần thức
của vong nhân phải theo tay mình mà đi trở lên đến đỉnh môn.
Miệng thì thầm khấn rằng:
Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật, (hoặc Bất Động Như Lai, hoặc
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, hoặc Nguyệt Trí Như Lai v.v…)
Xin Ngài tiếp dẫn cho vong linh tên… Pháp danh… sẽ từ trên đỉnh
môn mà ra, và sanh về thế giới Cực Lạc phương Tây của Ngài.
(hoặc thế giới Diệu Hỷ/ Tịnh Lưu Ly nơi phương Đông, hoặc Quang
Minh Cảnh v.v… ) Quyết định vãng sanh!
(nạt hơi lớn để cảnh tỉnh)
Như vậy, tinh thần chăm chú, tay vần, miệng niệm, cả ba nghiệp đều thi
hành, nếu mỏi thì đổi người khác luân phiên nhau tiếp. Hoặc nửa ngày
hoặc một ngày, không nên nửa chừng mà thôi nghỉ. Phải làm cho đến khi
khắp các chỗ trong thân đều lạnh hết, chỉ còn lưu lại một chút hơi ấm
trên đỉnh môn mới thôi.
Thần thức của vong nhân đã được hồng danh của Phật (hoặc Thần chú)
và tiếng chuông cảnh tỉnh không thôi; lại được vận chưởng tâm thần
chăm chú trợ niệm không nghỉ, thì hoặc chậm hoặc mau, chắc chắn sẽ
phải xoay trở lên trên đỉnh môn mà ra và được thấy Phật Vô Lượng
Quang, vãng sanh Cực Lạc quốc…
Phải nhờ người có lòng từ bi và biết phương pháp cứu độ Thân
Trung Ấm, chớ không phải bạ đâu nhờ đó, khiến cho vong nhân tủi
hờn thì không hay. Bà con, quyến thuộc không ai được khóc lóc, kể
lể, than van, cũng không được ăn thịt, uống rượu, phải hết lòng trợ
giúp người quá cố vãng sanh Cực Lạc, hoặc bất kỳ quốc độ nào mà
vong nhân ưa thích.
Nếu phương pháp nầy (cũng như Phowa) thành tựu thì có những dấu
hiệu xuất hiện ở trên đỉnh đầu của vong nhân sẽ xuất hiện. Những dấu
hiệu đó là một giọt máu hoặc đỉnh đầu sẽ nhô lên. Cho đến khi những
dấu hiệu này xuất hiện, vị tu sĩ Mật tông vẫn tiếp tục giảng dạy giáo lý
về Thân Trung Ấm đương khi chết (Tử Hữu).
Pháp môn trên dành cho những hành giả Du già của Mật giáo.
64
Những người tu tập theo các pháp môn khác, như Tịnh độ tông, hoặc
vong nhân là kẻ phá giới, làm những điều ác, hủy phạm bậc Đạo sư thì
những dấu hiệu tốt lành có thể không xuất hiện gì cả. Trong trường hợp
đó, vị tu sĩ Mật tông phải tiếp tục dùng Bi tâm mà giảng dạy giáo lý cứu
độ Thân Trung Ấm cho vong nhân.
HẠ CĂN
Bậc hạ căn nơi đây hiếm khi có phần!
Sau đó vong nhân sẽ bị bất tỉnh trong vòng ba ngày rưỡi, rồi thì Thần
thức của họ sẽ gá vào Thân Trung Ấm sau khi chết (Trung Hữu), nơi đó
họ thật sự biết rằng mình đã chết.
Thân Trung Ấm
SAU KHI CHẾT
(Trung Hữu)
***
Chúng ta đã nghiên cứu về hai trong ba cấp bậc của khả năng giải thoát
tiềm ẩn. Sở dĩ chia ra làm ba là để phân tích chớ không nhất định chỉ có
ba căn, vì có nhiều người suốt đời làm ác mà chết được điềm lành đó là
do túc nghiệp của họ thành thục mà chiêu cảm lấy quả tốt; trái lại, rất
nhiều người cả đời làm lành mà chết lại hiện ra điềm dữ, ấy cũng do túc
nghiệp hiện báo mà ra.
Cấp bậc thứ nhất là các bậc thượng thượng nhơn, bậc đạt được sự giải
thoát nhờ vào khả năng quán chiếu của chính mình thu thập được từ Mật
giáo, hoặc đắc được các môn Tam muội nên khi xả thân vẫn giữ được
chánh niệm, không cần phải nhờ cậy tha nhân, người như vậy sẽ được
giác ngộ viên mãn ở giai đoạn Thân Trung Ấm đương lúc chết (Tử Hữu).
Cấp bậc thứ hai là các bậc thượng trung nhơn, bậc đạt được sự giải thoát
nhờ tự biết thực hành theo Mật pháp, hoặc được nhứt tâm bất loạn khi
niệm hồng danh Phật, hoặc thực hành thành tựu pháp môn Phowa (hoặc
Pho-ba, tiếng Phạn gọi là Samkranti), hoặc được sự trợ giúp của các bậc
Kim cang thiện tri thức bằng phương pháp vận chưởng, hoặc nhờ các bậc
Đạo sư dùng pháp môn Phowa trợ giúp đương lúc chết (Tử Hữu) mà
được vãng sanh về cõi Tịnh độ. Nói chung, là các bậc thượng trung nhơn
nầy vẫn giữ được chánh niệm, nhưng không mạnh bằng các bậc trên.
Cấp bậc thứ ba là các bậc thượng hạ nhơn, bậc có thể thành tựu được sự
giải thoát trong khoảng bảy (7) ngày đầu sau khi thọ Thân Trung Ấm sau
khi chết (Trung Hữu), hoặc chỉ trông vào các bậc Kim cang thiện tri thức
hướng dẫn Thần thức theo pháp môn Thân Trung Ấm sau khi chết
(Trung Hữu).

65
Ở vào giai đoạn Trung Hữu, cũng có thể chia ra làm ba căn. Bậc thượng
trung (tức là thượng hạ của bậc trên), đạt được giải thoát là nhờ có tu tập
thực sự nên sau đó lập tức nhận ra các quang minh cực kỳ vi diệu của Vô
cấu thức được thể hiện qua Ngũ Như Lai.
Bậc trung trung thì cần có người luôn luôn sách tấn bên tai. Người sách
tấn cần phải biết Trung Hữu hiện đang đối đầu với cảnh giới nào thì
mới mong có kết quả chắc thực như kinh thuyết. nếu không thì khó
mà được giải thoát, nhứt là khi các bậc Thần linh mang hình tướng
phẫn nộ và hung mãnh hiện ra thì khó mà tránh thoát khỏi cảnh
“bạt vía kinh hồn!” Rồi bị lạc vào Ba cõi, Sáu đường của vòng sanh
tử luân hồi.
Bậc trung hạ căn thì ở giai đoạn nầy vẫn chưa có phần!
THƯỢNG TRUNG
Sau khi chết ba ngày rưỡi, trong tình trạng vô thức, thì vong nhân
tự tỉnh, đây là giai đoạn Thân Trung Ấm sau khi chết, cũng còn
được gọi là Trung Hữu. Giai đoạn Tử Hữu không còn nữa.
Lúc bấy giờ, Trung Hữu tự hỏi chuyện gì đã xảy ra. Đồng thời,
Trung Hữu trải qua một kinh nghiệm rất kinh lạ mà nó chưa từng
nếm qua bao giờ.
Trung Hữu thấy rõ ràng gia quyến, thân bằng của mình kẻ khóc, người
mếu và nhìn thây của Trung Hữu mà hỏi là tại sao vội sớm ra đi. Trung
Hữu cố gắng giải thích với họ rằng mình vẫn còn sống, vẫn hiện hữu,
nhưng không ai có thể nghe thấy, bởi vì Trung Hữu chỉ có thân tâm linh,
mặc dù Trung Hữu tin tưởng rằng nó chính là thân thể vật chất. Đến khi
thấy người ta vui vẻ chia “của cải” mà mình suốt đời tích lũy được thì
Trung Hữu cảm thấy rất là tức giận và ganh ghét những kẻ kia.
Theo truyền thống của đạo Phật thì lúc bấy giờ gia quyến của vong nhân
đang làm lễ tuần thất thứ nhứt (1), [cả thảy là 7 thất, cộng chung là 49
ngày]. Người hành lễ, thường là chư Tăng\Ni, nếu không phải là bậc
tu hành chân chánh, đạo hạnh nghiêm mật, mà chỉ biết tụng kinh,
đọc chú cho hết câu, hết chữ, cúng vái cho qua loa thì Trung Hữu sẽ
thấy biết rõ ràng và sẽ mất lòng tin với chư Tăng\Ni và chánh Pháp.
Bấy giờ Trung Hữu lập tức sẽ bị đọa lạc!
Nếu gặp phải thứ Sa môn như vậy thì thà là đừng mời họ đến còn
hơn. Đừng nói rằng người tụng và những người đi hộ niệm được sáu
(6) phần công đức, gia quyến được ba (3) phần, người chết được một
(1). Chỉ là tuồng trả giá, lời đầu môn chót lưỡi của bọn người trá
hình sa môn đi kiếm ăn mà thôi.

66
Do đó, đây là thời điểm rất trọng yếu, chư Tăng\Ni phải hết lòng với
đàn na tín thí, hầu đền đáp ơn cung cấp, hầu hạ của vong nhân khi
còn sanh thời. Nếu biết mình Đạo hạnh còn khiếm khuyết thì nên
nhờ các bậc Trưởng lão thay thế, đừng vì lợi dưỡng mà chiêu lỗi lớn
cho đời sau.
Trung Hữu sẽ không thấy bóng của mình, khi đi ra khỏi nhà, dưới ánh
sáng của mặt trời; khi nhìn vào kiếng hoặc nước trong thì nó sẽ không
thấy hình mình phản chiếu lại. Lúc bấy giờ, Trung Hữu biết chắc rằng
mình đã chết cho nên rất sầu khổ và lo sợ vô cùng.
Trung Hữu còn nhận biết một cách rõ ràng là mình sẽ không thể nào đem
theo được bất cứ cái gì mà suốt cuộc đời lao tâm nhọc trí, quần quật để
thủ đắc, kể cả vợ con, thân bằng quyến thuộc và ngay cả bản thân (thây
ma) mà nó gìn giữ lo lắng bấy lâu nay.
Bởi vì nghiệp người vẫn còn chấp trì nên Trung Hữu cứ di động lòng
vòng xung quanh cái thây ma của chính nó hầu mong nhập trở
lại. Tùy theo nghiệp mà nó vướng vít lâu mau, có khi thì nhiều tuần, có
lắm khi thì nhiều năm cũng không biết chừng. Cho nên, phải chôn cất là
lý do nầy vậy.
Tuy nhiên, cái thây mà nó muốn nhập vào, bây giờ dưới nhãn quang
của Trung Hữu, thây kia đã biến thành cái thân tướng của con vật
tượng trưng cho năm tuổi của vong nhân (thí dụ tuổi trâu thì thấy
thân trâu, tuổi chó thì thấy thân chó, tuổi rồng thì thấy thân rồng,
v.v…) Trung Hữu cảm thấy có thể chiếm hữu cái thân nầy để nhập
trở vào, nhưng cố gắng cách mấy cũng không thể nào vào được!
Ghi chú quan trọng!
Xin lập lại, cái thân đã chết nghĩa là Ngũ đại tan rã, các cơ quan
trong thân thể không còn hoạt động nữa, Thần thức không còn chủ
trì cái thây ma nầy nữa. Sau ba ngày rưỡi, (có nơi nói bốn ngày), thì
cái thây ma kia được đem đi hoặc chôn cất, hoặc thiêu đốt, hoặc
thủy táng, hoặc điểu táng, hoặc đem cho các bệnh viện để các sinh
viên Y khoa thí nghiệm v.v… Lúc bấy giờ, Trung Hữu biết rằng thân
cũ không còn, nên nó đi tìm kiếm một thân khác để dung thân. Đôi khi,
có những vong linh mạnh vì uất ức, v.v… mà nhập vào bà con thân
bằng quyến thuộc (trong trường hợp họ mắc bệnh nặng, hoặc bị chụp
thuốc mê, hoặc bị người đập bất tỉnh v.v…) Nếu Trung Hữu của người
khác nhập vào, thế thường gọi là “ma nhập” thì mình nên quán tự thân
thành một vị Trì Minh Vương hình tướng đáng sợ, tụng đọc Thần chú,
khiến cho nó hoảng mà chạy trốn, nhưng nên khởi Đại Bi Tâm mà giảng
dạy cho Trung Hữu, không làm cho nó bị tổn hại và đau khổ hơn, hoặc

67
dạy người bị “ma nhập” quán Tánh không, hoặc quán RA tự môn, khiến
cho Trung Hữu không còn có chỗ dung thân. Kiết Kim cang quyền ấn
mà điểm nhẹ vào trên trán tại giữa hai lông mày, hoặc tại nhân trung,
miệng thì đọc HÙM HÙM HÙM liên tiếp. Rồi nạt lớn “xuất mau!” Nên
nhớ,trước khi làm như vậy phải trì chú hộ thân : BHRUM, và kiết Kim
Cang quyền ấn mà ấn vào năm chỗ trên thân (trán, vai phải, vai trái, giữa
ngực, cổ, rồi xả ấn trên đảnh đầu. Nếu không phải là một hành giả Mật
tông thì đừng làm ẩu mà e chuốc lấy họa to). Quỷ thần còn phải xuất
huống là Trung Hữu.
Trung Hữu khó mà nhập vào được một người đã nhận được lễ Quán
đảnh.
--- # ---
Một khi mà Thần thức xuất ra khỏi thân thì nó có thể đi khắp nơi và
có thể xuyên qua bất cứ vật gì chỉ trừ hai nơi:
1. Tháp thờ Phật ở Bồ Đề Đạo tràng, bởi vì mảnh đất ấy trở thành rắn
chắc như kim cương, đó là do thần lực của Phật an lập nên.
2. Tử cung, vì một khi nó nhập vào tử cung thì Thần thức đã đi đầu thai.
Thần thức thủ đắc đại lực khi thọ Thân Trung Ấm. Nếu nghĩ đến cõi
Cực Lạc thì lập tức tâm sẽ thanh tịnh và được giải thoát.
Tuy nhiên, vì nghiệp lực nặng nề nên hầu hết con người khi chết chỉ biết
hoảng hốt, lo sợ, đau sầu chớ không có tâm trí đâu mà nghĩ đến những
cảnh giới cao thượng kia. Giống như nhà nghèo lại đông con thì vất vả
quanh năm suốt tháng, mưa gió chẳng quản, thức khuya dậy sớm chẳng
sờn, chỉ biết lo đồng tiền bát gạo cho qua ngày, đâu có thời giờ nhàn rỗi
để đi du lịch, chơi banh, chơi cờ. Đây là khoảng thời gian mà nghiệp
lành nghiệp dữ tranh dành cùng nhau. Vong nhân phải lệ thuộc vào
những hành vi thiện ác trong đời của mình. Làm ác thì phải bị quả
xấu, dù muốn bỏ nó cũng không được!
SAU ĐÓ…
Thần thức khi nhận ra mình đang ở trong tình trạng của Thân Trung Ấm
sau khi chết (Trung Hữu) … Hiện tại, dòng sanh tử luân hồi đang đình
chỉ, cảnh giới phàm phu bị ẩn mất.
Cảnh giới thanh tịnh của tự tâm (Vô cấu thức) sẽ một lần nữa hiển
bày, nơi đó tất cả mọi hiện tượng sẽ là quang minh và ánh sáng cùng
chư Thần linh sẽ lần lượt xuất hiện.
ĐỨC ĐẠI NHỰT NHƯ LAI XUẤT HIỆN
(Khoảng giữa ngày thứ nhứt và ngày thứ hai)

68
MÀU
XANH MÀ
U TRẮNG ĐỤC
Đột nhiên, tất cả mọi hiện tượng trở thành màu xanh như màu xanh
da trời. Trung Hữu sẽ thấy một bảo tòa được tám (8) con Sư tử
mang trên vai xuất hiện nơi không trung. Trên bảo tòa Trung Hữu
sẽ thấy đức Đại Nhựt Như Lai (Mahavairocana) màu trắng xuất
hiện cùng với nữ Bồ tát Tathagatalocana (Phật Mẫu Hư Không
Nhãn) \Akasha Dhatvishvari trong tư thế ôm nhau (Phật giáo Tây
Tạng chủ trương gọi là yab-yum: Cha Mẹ). Đức Đại Nhựt Như Lai
từ thế giới Ghanavyuha đến để gia hộ cho Trung Hữu. Trong khi
đang nhìn thấy như vậy, đột nhiên Trung Hữu thấy một luồng quang
minh màu xanh cực sáng từ giữa ngực đức Như Lai lưu xuất ra. Luồng
quang minh xanh cực kỳ rực rỡ kia là hiển tướng của Pháp giới Thể
Tánh Trí.
[Quang Minh nầy sáng hơn ánh sáng mặt trời giữa trưa, sáng hơn
tia sáng phát ra khi người ta hàn các ống sắt, ống thép… nhưng nó
không chói mắt như các thứ ánh sáng nói trên của thế gian. Quang
minh của Vô cấu thức xuất hiện thường làm cho ta cảm thấy an lạc
và thoải mái, người nào đạt được vi trần tam muội, Bạch lũ tam
muội, … hoặc vào cửa Không tam muội ắt sẽ chứng biết.]
Đồng thời, có một luồng ánh sáng yếu kém màu trắng đục giống như
ánh sáng của chư Thiên chiếu rọi xuống Trung Hữu. Luồng sáng yếu
kém màu trắng này là do phước lành của Trung Hữu đã tạo trong kiếp
vừa qua huân tập nơi A lại da thức huyễn hiện ra, chớ không phải do chư
Thiên làm.
Khoảng giữa ngày thứ nhứt và đầu ngày thứ hai, bởi vô minh, nghiệp
lực và những ý tưởng mâu thuẫn đã khiến Trung Hữu hoảng sợ, và
cố gắng trốn chạy khỏi quang minh màu xanh cực sáng của đức Đại
Nhựt Như Lai,và có khuynh hướng đi theo ánh sáng trắng đục. Đó
chẳng qua là biến tướng của nghiệp lành đời trước tạo ra.
Nếu Trung Hữu đi theo ánh sáng trắng thì sẽ sanh về một trong
những cõi Trời. Mặc dầu điều nầy nghe qua dường như rất hay,
nhưng xét kỹ ra thì mình vẫn còn phiêu lưu trong nẻo luân hồi và sẽ
kinh nghiệm sự khổ đau gần như vô bờ bến.
NẦY TRUNG HỮU! HÃY CỐ GẮNG ĐI THEO QUANG MINH
MÀU XANH CỰC KỲ RỰC RỠ KIA.

69
HÃY BIẾT ƠN ĐỨC ĐẠI NHỰT NHƯ LAI, VÌ ĐẠI BI MÀ NGÀI
HIỆN THÂN RA TIẾP RƯỚC KHIẾN CHO MÌNH ĐƯỢC GIẢI
THOÁT.
NẾU CỐ GẮNG NGHĨ NHƯ VẬY, VÀ KHẨN CẦU SỰ GIA HỘ
NƠI ĐỨC ĐẠI NHỰT NHƯ LAI THÌ TỰ TÂM VÀ QUANG MINH
XANH CỰC KỲ RỰC RỠ CỦA ĐỨC NHƯ LAI SẼ HỢP LÀM
MỘT. SỰ HỢP NHỨT NẦY SẼ KHIẾN CHO MÌNH ĐẠT ĐƯỢC
ĐỊA VỊ CỦA BÁO THÂN PHẬT (SAMBHOGAKAYA).
ÔI! CÒN GÌ SUNG SƯỚNG CHO BẰNG.
Nếu vẫn còn chưa giác ngộ, và cũng còn phân vân, thì do năng lực của
thiện nghiệp lôi kéo Trung Hữu sẽ đi vào một cảnh giới khác.
ĐỨC BẤT ĐỘNG NHƯ LAI XUẤT HIỆN
(Ngày thứ hai)
CỰC
TRẮNG XÁ
M NHƯ KHÓI
Tiếp theo, từ nơi Thế giới Diệu Hỷ (Abhirati) ở phương Đông, đức Bất
Động Như Lai [Aksobhya, có nơi nói là Kim Cang Tát Đỏa
(Vajrasattva)] hiện thân ra trước Trung Hữu. Thân đức Bất Động Như
Lai màu xanh biếc, tay phải cầm chày kim cang, tay trái cầm một cái
chuông. Ngài ngự trên một bảo tòa được một con voi mang đi. Ngài xuất
hiện cùng một nữ Bồ tát Vajraparamita (Phật Mẫu Kim Cang Ba La
Mật)\ Sangye Chenma. Tả hữu của Ngài có nhị vị Đại Bồ tát theo hầu là
đức Di Lặc Vô Năng Thắng (Maitreya) và đức Địa Tạng (Ksitigarbha).
Đồng thời, có nhị vị nữ Bồ tát tháp tùng đó là Lhasena và Pupuma (Phật
giáo Tây Tạng chủ trương). Như thế, tổng cộng có sáu vị thần linh cả
thảy. Từ nơi giữa ngực của đức Bất Động Như Lai và Phật Mẫu Kim
Cang Ba la mật lưu xuất luồng quang minh cực trắng chiếu đến thân của
Trung Hữu. Quang minh cực trắng là hiển tướng của Đại Viên Cảnh
Trí.
Cùng lúc đó, có một luồng sáng yếu kém màu xám như khói chiếu rọi
đến Trung Hữu. Luồng sáng ấy phát ra donghiệp sân hận của Trung
Hữu lúc sanh thời tạo nên. Luồng sáng đó giống như ánh sáng từ nơi địa
ngục chiếu ra. Do nghiệp bất thiện lôi kéo khiến cho Trung Hữu muốn
thoát khỏi vùng ảnh hưởng của luồng quang minh cực trắng, và muốn
chạy theo luồng sáng màu xám như khói.
HÃY CẦU NGUYỆN LÊN ĐỨC BẤT ĐỘNG NHƯ LAI VÀ CHƯ
THÁNH CHÚNG, XIN CHƯ PHẬT BỒ TÁT GIA HỘ KHIẾN CHO

70
TRUNG HỮU THOÁT KHỎI NHỮNG KHỦNG BỐ CỦA THÂN
TRUNG ẤM.
TRUNG HỮU PHẢI NHỚ RẰNG QUANG MINH CỰC TRẮNG KIA
LÀ TRÍ QUANG HỢP CÙNG VỚI TÂM ĐẠI BI, PHẢI HỢP NHỨT
CÙNG VỚI LUỒNG QUANG MINH CỰC TRẮNG NẦY.
HÃY CỐ GẮNG NHẬN RA RẰNG QUANG MINH CỰC TRẮNG
LƯU XUẤT TỪ CHƯ PHẬT BỒ TÁT CÙNG BẢN TÂM CỦA
TRUNG HỮU Y HỆT NHƯ NHAU TRÊN BẢN CHẤT; KHÔNG CÓ
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA BẢN TÂM VÀ QUANG MINH.
Trong ngày thứ hai nầy nếu có đức tin vững chắc vào đức Bất Động Như
Lai và chư vị Bồ tát thì Bi Trí của Ngài sẽ kết hợp làm một với chân tâm
của Trung Hữu. Chỉ có cách nầy, Trung Hữu sẽ đạt được địa vị của Báo
Thân nơi thế giới Diệu Hỷ ở phương Đông.
Nếu vẫn chưa giác ngộ, và cũng còn phân vân, thì do năng lực của sân
tâm lôi kéo Trung Hữu sẽ đi vào một cảnh giới khác.
ĐỨC PHẬT BẢO SANH XUẤT HIỆN
MÀU VÀNG RÒNG MÀU
XANH LỢT
Đức Phật Bảo Sanh (Ratnasambhava) từ nơi thế giới Shrimat ở phương
Nam bỗng nhiên xuất hiện. Ngài cầm ngọc như ý bảo châu (cintamani)
và ngồi tòa đặt trên lưng ngựa, cùng với vị nữ Bồ tát Ratnaparamita (Bảo
Ba la mật) \Mamaki (Phật Nhãn). Tả hữu của Ngài có nhị vị Đại Bồ tát
theo hầu là đức Hư Không Tạng (Akashagarbha) và đức Phổ Hiền
(Samantabhara). Đồng thời, có nhị vị nữ Bồ tát tháp tùng đó là Malema\
Mala (Thiên Hoa) và Dhupema\ Dhupa (Thiên Hương) (Phật giáo Tây
Tạng chủ trương). Phật và chư vị Bồ tát xuất hiện trong ánh quang minh
màu cầu vồng. Từ nơi ngực của chư vị có luồng quang minh màu vàng
ròng cực kỳ rực rỡ chiếu rọi đến ngực của Trung Hữu. Quang
minh nầy là hiển tướng của Bình Đẳng Tánh Trí. Vùng ảnh hưởng
của quang minh màu vàng ròng cực kỳ rực rỡ và trong suốt với
những hình cầu vồng có hình dạng khác nhau xen lẫn.
Cùng lúc đó, có một luồng ánh sáng yếu kém màu xanh chiếu rọi đến
Trung Hữu. Nó cũng chính là bản chất cao ngạo, là nguồn gốc của ái dục
và sự điên đảo. Luồng sáng đó giống như ánh sáng từ nơi cõi người
chiếu ra. Bởi vì năng lực của ngạo mạn đã làm cho Trung Hữu khiếp sợ
trước quang minh màu vàng ròng cực kỳ rực rỡ kia và cảm thấy luồng
ánh sáng yếu kém màu xanh đầy quyến rũ hơn. Nếu Trung Hữu đi theo
luồng ánh sáng yếu kém màu xanh kia thì Trung Hữu sẽ đầu thai trở lại
cõi người và chịu sự thống khổ mà hầu hết chúng ta đã và đang trải qua.

71
BẰNG VÀO SỰ THÀNH KÍNH VÀ NHỨT TÂM BẤT LOẠN
HƯỚNG VỀ ĐỨC BẢO SANH NHƯ LAI VÀ CHƯ VỊ BỒ TÁT,
TRUNG HỮU SẼ HIỆP NHỨT BẢN TÂM VỚI QUANG MINH MÀU
VÀNG RÒNG CỰC KỲ RỰC RỠ VÀ HÃY ĐỂ NÓ AN NGHỈ
TRONG TÌNH TRẠNG TỰ NHIÊN.
HÃY CỐ GẮNG NHẬN RA RẰNG QUANG MINH MÀU VÀNG
RÒNG CỰC KỲ RỰC RỠ LƯU XUẤT TỪ CHƯ PHẬT BỒ TÁT
CÙNG BẢN TÂM CỦA TRUNG HỮU Y HỆT NHƯ NHAU TRÊN
BẢN CHẤT; KHÔNG CÓ SỰ KHÁC BIỆT GIỮA BẢN TÂM VÀ
QUANG MINH.
Nếu đạt được sự giải thoát trong ngày thứ ba nầy thì Trung Hữu sẽ đạt
được địa vị của Báo Thân nơi thế giới Shrimat của đức Bảo Sanh Như
Lai nơi phương Nam.
Nếu vẫn chưa giác ngộ, và cũng còn phân vân thì Trung Hữu sẽ đi vào
một cảnh giới khác.
ĐỨC PHẬT VÔ LƯỢNG QUANG XUẤT HIỆN
(Ngày thứ tư)
MÀU
ĐỎ MÀ
U VÀNG LỢT
Đức Phật Vô Lượng Quang (Amitabha) từ nơi Tây phương Cực Lạc
(Sukhavati/Sumati) bỗng nhiên xuất hiện. Thân Ngài màu đỏ, Ngài cầm
bông liên hoa, và ngồi tòa đặt trên lưng Khổng Tước (công), cùng với vị
nữ Bồ tát Padmaparamita (Liên Hoa Ba la mật)\ Go Karmo hoặc
Pandaravasini (Bạch Xứ Tôn). Tả hữu của Ngài có nhị vị Đại Bồ tát theo
hầu là đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara) và đức Mạn Thù Sư Lợi
(Manjusri). Đồng thời, có nhị vị nữ Bồ tát tháp tùng đó là Girtima\ Gita
và Alokema\ Aloka (Phật giáo Tây Tạng chủ trương). Phật và chư vị Bồ
tát xuất hiện trong ánh quang minh cầu vồng rực rỡ. Từ nơi ngực của chư
vị có luồng quang minh màu đỏ cực kỳ rực rỡ chiếu rọi đến ngực của
Trung Hữu. Quang minh nầy là hiển tướng của Phân Biệt Trí.
Cùng lúc đó, có một luồng sáng yếu kém màu vàng chiếu rọi đến
Trung Hữu. Luồng sáng ấy phát ra do nghiệp tham ái của Trung Hữu lúc
sanh thời tạo nên. Luồng ánh sáng đó giống như ánh sáng từ nơi cõi ngạ
quỷ chiếu ra. Bởi vì năng lực của ác nghiệp, nhứt là bỏn xẻn đã làm cho
Trung Hữu khiếp sợ trước quang minh màu đỏ cực kỳ rực rỡ kia và cảm
thấy luồng ánh sáng yếu kém màu vàng đầy quyến rũ hơn. Nếu Trung
Hữu đi theo luồng ánh sáng yếu kém màu vàng kia thì Trung Hữu sẽ
đầu thai làm ngạ quỷ và chịu sự thống khổ khó mà diễn tả.
72
BẰNG VÀO SỰ THÀNH KÍNH VÀ NHỨT TÂM BẤT LOẠN
HƯỚNG VỀ ĐỨC VÔ LƯỢNG QUANG NHƯ LAI VÀ CHƯ VỊ BỒ
TÁT, TRUNG HỮU SẼ HIỆP NHỨT BẢN TÂM VỚI QUANG MINH
MÀU ĐỎ CỰC KỲ RỰC RỠ.
HÃY CỐ GẮNG NHẬN RA RẰNG QUANG MINH MÀU ĐỎ CỰC
KỲ RỰC RỠ LƯU XUẤT TỪ CHƯ PHẬT BỒ TÁT CÙNG BẢN
TÂM CỦA TRUNG HỮU Y HỆT NHAU NHƯ TRÊN BẢN CHẤT;
KHÔNG CÓ SỰ KHÁC BIỆT GIỮA BẢN TÂM VÀ QUANG MINH.
Nếu đạt được sự giải thoát trong ngày thứ tư nầy thì Trung Hữu sẽ đạt
được địa vị của Báo thân nơi thế giới Cực Lạc của đức Vô Lượng Quang
Như Lai ở phương Tây.
Nếu vẫn chưa giác ngộ, và cũng còn phân vân, thì Trung Hữu sẽ đi vào
một cảnh giới khác.
ĐỨC BẤT KHÔNG THÀNH TỰU
NHƯ LAI XUẤT HIỆN
(Ngày thứ Năm)
MÀU XANH LÁ CÂY
MÀU ĐỎ NHẠT
Đức Phật Bất Không Thành Tựu (Amoghasiddhi) từ nơi thế giới Prakuta
nơi phương Bắc bỗng nhiên xuất hiện. Thân Ngài màu xanh lá cây. Ngài
cầm chày kim cang ngũ cổ chéo nhau hình chữ thập (ngũ cổ: Năm chấu
trên và năm chấu dưới), [truyền thống Mật tông Việt Nam chủ trương
không cầm chày] và ngồi tòa đặt trên lưng Kim Súy Điểu, cùng với vị nữ
Bồ tát Karmaparamita (Nghiệp Ba la mật)\ Samayatara. Tả hữu của Ngài
có nhị vị Đại Bồ tát theo hầu là đức Kim Cang Thủ (Vajrapani) và Trừ
Cái Chướng (Sarva-nivarana-viskambhin). Đồng thời, có nhị vị nữ Bồ tát
tháp tùng đó là Gandha và Naivedya (Phật giáo Tây Tạng chủ trương).
Phật và chư vị Bồ tát xuất hiện trong ánh quang minh cầu vồng rực rỡ.
Từ nơi ngực của chư vị có luồng ánh sáng quang minh màu xanh lá cây
cực kỳ rực rỡ chiếu rọi đến ngực của Trung Hữu. Quang minh nầy là
hiển tướng của Thành Sở Tác Trí.
Cùng lúc đó, có một luồng sáng yếu kém màu đỏ chiếu rọi đến Trung
Hữu. Luồng ánh sáng ấy phát ra do nghiệp ganh tị của Trung Hữu lúc
sanh thời tạo nên. Luồng ánh sáng đó giống như ánh sáng từ nơi cõi A tu
la chiếu ra. Bởi vì năng lực của ác nghiệp, nhứt là ganh tị đã làm cho
Trung Hữu khiếp sợ trước quang minh màu xanh lá cây cực kỳ rực rỡ kia
và cảm thấy luồng ánh sáng yếu kém màu đỏ đầy quyến rũ hơn. Nếu đi
theo luồng ánh sáng yếu kém màu đỏ kia thì Trung Hữu sẽ đầu thai

73
thành A tu la và chịu sự thống khổ mặc dù đỡ hơn của loài người nhưng
so với chư Thiên thì kém hơn nhiều.
BẰNG VÀO SỰ THÀNH KÍNH VÀ NHỨT TÂM BẤT LOẠN, HÃY
HƯỚNG VỀ ĐỨC BẤT KHÔNG THÀNH TỰU NHƯ LAI VÀ CHƯ
VỊ BỒ TÁT, THÌ TRUNG HỮU SẼ HIỆP NHỨT BẢN TÂM VỚI
QUANG MINH MÀU XANH LÁ CÂY CỰC KỲ RỰC RỠ KIA.
HÃY CỐ GẮNG NHẬN RA RẰNG QUANG MINH MÀU XANH LÁ
CÂY CỰC KỲ RỰC RỠ LƯU XUẤT TỪ CHƯ PHẬT BỒ TÁT CÙNG
BẢN TÂM CỦA TRUNG HỮU Y HỆT NHƯ NHAU TRÊN BẢN
CHẤT; KHÔNG CÓ SỰ KHÁC BIỆT GIỮA BẢN TÂM VÀ QUANG
MINH.
Nếu đạt được sự giải thoát trong ngày thứ năm nầy thì Trung Hữu sẽ đạt
được địa vị của Báo thân nơi thế giới phương Bắc của đức Bất Không
Thành Tựu Như Lai.
Nếu vẫn chưa giác ngộ, và cũng còn phân vân, thì Trung Hữu sẽ đi vào
một cảnh giới khác tức là ngày thứ Sáu (6).
Do sự tổng hợp của Ngũ Độc (Tham, Sân, Si, Mạn và Ganh tị) mà ngày
nầy Ngũ Như Lai đồng thời xuất hiện cùng một lúc. Một lần nữa Trung
Hữu có cơ hội để đạt được sự giải thoát bằng cách nhận ra quang minh
và hợp nhứt tâm mình với trí quang kia. Cùng lúc đó, sáu t hứ ánh
sáng của Lục đạo cũng hiển hiện. Trong giai đoạn nầy, năm thứ quang
minh của Ngũ đại (Đất, Nước, Gió, Lửa và Hư Không) cũng đồng thời
xuất hiện. Mỗi Đại lưu xuất ra quang minh rực rỡ. Chư Phật và các vị
Phật mẫu xuất hiện theo hình tướng của Kim Cang giới Mạn đà la.
KIM CANG GIỚI (VAJRADHATU)
MẠN ĐÀ LA
(Ngày thứ Sáu)
Đức Đại Nhựt (Maha-vairocana) Như Lai, thân màu trắng, trụ ở trung
tâm đàn; đức Bất Động (Aksobhya) Như Lai/ Kim Cang Tát Đỏa
(Vajrasattva), thân màu xanh da trời, trụ ở phía Đông; Bảo Sanh
(Ratnasambhava) Như Lai, thân màu vàng ròng, trụ ở phương Nam; đức
Vô Lượng Thọ (Amitabha) Như Lai, thân màu đỏ, trụ ở phương Bắc; và
Bất Không Thành Tựu (Amoghasiddhi) Như Lai, thân màu xanh lá cây,
trụ ở phương Bắc. Ngoài ra, còn có các vị thần Phụng giáo/Hộ pháp
(parivaras) nam cũng như nữ xuất hiện nhập vào làm quyến thuộc cho
Ngũ Bộ (Phật, Liên Hoa, Kim Cang, Bảo và Yết Ma). Đồng thời, sáu vị
Phật chủ trì Lục đạo cũng xuất hiện để trợ giúp Ngũ Như Lai cứu độ
Trung Hữu.

74
Bốn vị thần giữ cửa Mạn đà la hiện thân tướng đáng sợ, đều có danh vị
riêng biệt:
1 – Đông phương có vị thần Chiến Thắng (Vijaya);
2 – Nam phương có vị Thần Tử Thù của Diêm Vương (Yamantaka: Hóa
thân của đức Đại Nhựt Như Lai).
3 – Tây phương có vị Thần Hà da yết lật phạ (Hayagriva: Đầu ngựa, Hóa
thân của Quán Thế Âm Bồ tát.
4 - Bắc phương có vị Thần Cuộn Cam Lồ / Cam Lồ Quân Trà Lợi
(Amrtakundali).
Bốn vị nữ thần giữ cửa Mạn đà la, đều có danh vị riêng biệt (Phật giáo
Tây Tạng chủ trương):
1 – Đông phương có vị nữ thần cầm Móc câu (Ankusa).
2 – Nam phương có vị nữ Thần cầm Dây trói (Pasha).
3 – Tây phương có vị nữ Thần cầm Xích xiềng (Sphota).
4 - Bắc phương có vị nữ Thần cầm Chuông (Ghanta).
Sáu vị Phật chủ trì Lục đạo là:
1. Trời: Indra Shatakratu
2. A tu la: Cường Giáp Trụ (Vemachitra Tathagata)
3. Người: Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni Tathagata)
4. Súc sanh: Sư Tử Vương Kiên Định (Dhru-va Simharaja Tathagata)
5. Ngạ quỷ: Hỏa Khấu (Jvalamukha Tathagata)
6. Địa ngục: Pháp Vương (Dharmaraja Tathagata)
Đức Phổ Hiền (Samantabhara) Như Lai và Phật Mẫu Samantabhadri
cũng xuất hiện trong quanh minh rực rỡ. (Theo truyền thống Mật tông
của Tây Tạng thì nhị vị chính là Thiền Phật, hoặc các đức Phật nguyên
thỉ. Điều nầy, Mạt nhân chưa từng nghe các vị A xà lê nói tới trong Mật
tạng ở quê nhà, nhưng không có nghĩa là không có.)
Bên cạnh đó, 42 vị Thiện thần cũng đồng thời xuất hiện trong Mạn đà la.
Tất cả chư Phật, Bồ tát, chư Phụng giáo/ Hộ pháp, tám vị thủ môn
thần tọa thủ bốn cửa và 42 vị Thiện thần không phải là ai xa lạ mà
chính là từ Vô cấu thức huyễn hiện trước mắt Trung Hữu.
TRUNG HỮU HÃY CỐ GẮNG NHẬN RA RẰNG CHƯ PHẬT TỪ
CÁC PHẬT ĐỘ XUẤT HIỆN ĐỂ TIẾP ĐỘ TRUNG HỮU.
TRONG THỰC TẾ, TOÀN BỘ MẠN ĐÀ LA TỪ BỐN PHÍA
NHẬP VÀO TRÁI TIM CỦA TRUNG HỮU, NHƯ BÔNG SEN CÓ
BỐN CÁNH, VÀ CHÍNH GIỮA HOA SEN TỨC LÀ TRÁI TIM
THÌ CÓ TRUNG TÂM ĐÀN NHẬP VÀO.
QUANG MINH CỦA CHƯ PHẬT HIỆN RA TỪ VÔ CẤU THỨC
CỦA TRUNG HỮU. MẶC DẦU, CHƯ VỊ TỪ TỰ TÂM HUYỄN

75
HIỆN, NHƯNG ĐIỀU TRỌNG YẾU NHỨT LÀ TRUNG HỮU
PHẢI NHẬN RA ĐIỀU NẦY.
ĐỒNG THỜI, TRUNG HỮU CẦN PHẢI BIẾT RẰNG CHƯ VỊ LÀ
BẢN THỂ CỦA VỊ THẦN HỘ MỆNH CỦA TRUNG HỮU, ĐẤNG
MÀ TRUNG HỮU CỐ GẮNG HIỆP NHỨT TRONG SUỐT
QUÃNG ĐỜI TU TẬP TRONG THỜI GIAN CÒN SỐNG.
Một lần nữa, bốn trí quang của bốn đức Phật của bốn phương đồng lúc
ấy đều chiếu đến trung tâm trái tim của Trung Hữu. Bốn trí quang đó là:
1 – Pháp Giới Thể Tánh Trí
2 – Đại Viên Cảnh Trí
3 – Bình Đẳng Tánh Trí
4 – Phân Biệt Trí
TRUNG HỮU CẦN PHẢI BIẾT RẰNG NHỮNG QUANG MINH
NẦY ĐỀU PHÁT XUẤT TỪ VÔ CẤU THỨC CỦA TRUNG HỮU.
HÃY HIỆP NHỨT CÙNG CÁC LUỒNG QUANG MINH LẬP TỨC
CHỚ CÓ CHẦN CHỜ!
NẾU TRUNG HỮU CÓ THỂ HIỆP NHỨT TÂM MÌNH VỚI TỨ TRÍ
THÌ TỰ TÁNH CHÂN THẬT CỦA TÁNH KHÔNG (SUNYATA) SẼ
CHIẾU RỌI TRUNG HỮU, VÀ TRUNG HỮU SẼ ĐẠT ĐƯỢC SỰ
GIẢI THOÁT.
Tại thời điểm nầy, Trí Bất Không Thành Tựu khó mà hiển phát vì Trung
Hữu vẫn chưa hiểu thấu suốt bản chất của Tánh không.
Tất cả những giáo lý đã được học trong quãng thời gian tại thế cần phải
nhớ rõ, đây là điều tối quan trọng. Lúc trước chúng ta có đề cập đến liên
hệ giữa mẹ và con. Giống như vậy, sự tu tập quán chiếu cả đời, và những
giáo lý đã được học hỏi qua trong giai đoạn Tam Mật Gia Trì (Giai đoạn
phát khởi) và Tam Mật Du Già (Giai đoạn thành tựu) được ví như là một
đứa con; còn tình trạng tự phát của Vô cấu thức được ví như là người
mẹ. Nếu Trung Ấm đã và đang trụ trong cảnh quán chiếu lúc nầy thì
cũng giống như cảnh người mẹ gặp lại đứa con bị thất lạc từ lâu. Lúc
nầy, sự tu tập của Trung Hữu khi còn sống đã có kết quả và Trung Hữu
chỉ trong một sát na sẽ trụ trong Tam Muội (samadhi) và đạt thành quả
vị Bất Thối Chuyển (Bất Động Địa hoặc Đệ Bát Địa Đại Bồ tát vị)
Lúc bấy giờ, trí quang của bốn (4) đức Như Lai và sáu (6) thứ ánh sáng
từ Lục đạo đồng thời hiển phát. Sáu thứ ánh sáng từ Lục đạo là:
1 – Trắng đục từ các cõi Trời lưu xuất
2 – Đỏ dịu từ các cõi A tu la lưu xuất
3 – Xanh mét từ cõi Người lưu xuất
4 – Xanh lá cây nhạt từ các cõi Súc sanh lưu xuất
76
5 –Vàng lợt từ các cõi Ngạ quỷ lưu xuất
6 – Đen như khói từ các cõi Địa ngục.
Mặc dầu chấp trước rất sâu nặng vào các thứ ánh sáng nầy, Trung
Hữu cần phải từ bỏ chúng mà không cần phải đắn đo suy nghĩ, và
hãy an trụ trong sự tĩnh lặng!
Trung Hữu cần phải nhứt tâm cầu nguyện lên Ngũ Như Lai:
Than ôi! Từ lâu con bị Ngũ độc khống chế
Lưu chuyển trong vòng sanh tử luân hồi
Nguyện Ngũ bộ Như Lai gia trì và hướng dẫn
Cho con trên đường Quang minh của Tứ trí
Nguyện Ngũ Phật mẫu gia hộ cho con
Thoát vòng ảnh hưởng của sáu thứ ánh sáng bất tịnh
Vượt qua tất cả mọi chướng ngại của Thân Trung Ấm!
Nguyện con được sanh về chư Tịnh độ của Ngũ Như Lai.
Bài nguyện trên giúp cho Trung Hữu giữ chánh niệm, bởi vì chỉ cần một
niệm tham luyến các thứ ánh sáng của Lục đạo khởi lên cũng đủ để
cho mình bị tái sanh trong vòng sanh tử luân hồi (Samsara). Nếu
điều nầy xảy ra, việc Trung Hữu thọ thân người và được giác ngộ rất là
hiếm có.
Tuy nhiên, trong lúc nầy, vẫn còn có ba (3) cơ hội để đạt được sự
giải thoát.
1. Nhận ra trí quang rồi hiệp nhứt với nó,
2. Hãy để cho mình hòa cùng quang minh của Ngũ bộ,
3. Dùng năng lực mạnh mẽ của lòng tin kết hợp với Đại bi của chư
Như Lai.
Trung Hữu sẽ được giải thoát chỉ cần an trụ trong sự nhứt tâm bất
loạn; Đại Bi của chư Phật cũng từ bản tâm ta lưu xuất mà hiển hiện,
vì vậy, cả hai có thể hiệp nhứt không có gì trở ngại.
Lòng tin, sự tu tập và những lời cầu nguyện chí thành trong thuở sanh
thời đóng một vai trò vô cùng quan trọng khi thọ Thân Trung Ấm sau
khi chết (Trung Hữu). Người chân chánh tu hành một phen phát tâm
Vô Thượng Bồ Đề (đại cương thì trên cầu Phật đạo, dưới cứu độ
chúng sanh, chúng sanh ở đây bao gồm cả phàm Tăng,00000 phàm
Ni, bọn người tà kiến và ngoại đạo) không phải để cầu danh, để được
bọn cụ phược phàm phu khen ngợi, mà phải quyết đạt được giác ngộ
trong đời nầy, đây là chỗ đặc thù của Phật giáo vậy.
Cho nên, khi tu không cần phải nói nhiều mà phải hành trì cho tinh
chuyên, dùng trí huệ để chỉ đạo, chớ dùng tà kiến và mê tín dị đoan!
Việc nầy giống như việc của binh gia. Phàm việc dụng binh của một

77
viên thần tướng là sĩ tốt không cần đông, không cần nhiều mà ô họp,
mà cần phải lấy sự thông minh, cơ xảo và quyền biến làm sự chỉ đạo
tối thượng, binh cần phải tinh chuyên và khổ luyện, chiến đấu cần
phải thiện chiến, chớ không phải chỉ đấu bằng võ mồm vậy, nhứt
nhứt phải trù mưu lập kế, thắng giặc từ ngàn dặm xa xôi, chớ không
cần phải chờ khi giáp trận mới phân thắng bại. Ra binh là vì cứu
nguy sơn hà xã tắc, định yên trăm họ, chớ không vì danh, vì tiếng,
cũng không vì lợi mà làm. Trái lại, viên tướng phàm phu khi ra
binh, chỉ biết xô đẩy sĩ tốt vào chỗ chết, đem thây người lót đường
vinh quang cho bản thân. Sau đó thân mới được thiên hạ biết danh,
biết tiếng.
Quang minh của Ngũ Như Lai bình đẳng vô phân biệt chiếu soi tất cả
chúng sanh không sót thừa, kể cả bọn ngoại đạo, tà kiến, hủy báng
Tam Bảo, điều nầy xảy ra vì có ba nguyên nhân chánh:
1. Chúng sanh cũng do Ngũ ấm giả hợp mà thành. Bản thể của Ngũ
ấm (sunyata) vốn không khác với bản thể của Ngũ Như Lai
(sunyata). Nhìn thấy chư Phật chính là một cách khác để nhìn Ngũ
ấm.
2. Đại Bi Tâm (vì “Ta là Phật đã thành, còn các ngươi là Phật sẽ
thành”).
3. Tâm Bình Đẳng Vô Phân Biệt (vì “tất cả chúng sanh đều có Phật
tánh”).
Ngoài ra thân thể của chúng sanh được dệt nên bằng Ngũ đại (ở thể
động), vì vậy Ngũ Phật Mẫu (đại diện cho Ngũ đại ở thể Tịnh) nên quý
Ngài cũng quyết đến để cứu độ vong nhân.
Cũng vậy, quang minh của chư Phật Mẫu bình đẳng vô phân chiếu soi
khắp tất cả chúng sanh không sót thừa, nhưng có rất ít người có khả
năng nhận ra.
Không phải chỉ có lúc chết mới thấy quang minh ảnh hiện, sự thật, quang
minh bất tư nghì, quang minh vô biên tế của chư Như Lai, Phật Mẫu, và
chư Phật tử (các vị Đăng địa Bồ tát mới được dùng danh vị nầy, chớ
không phải ai cũng có thể khoác hai chữ Phật tử lên trong khi mình vẫn
còn là kẻ phàm phu ngu muội), không lúc nào tạm dừng (dù là một
khoảng thời gian cực nhỏ như một phần trăm tỉ của một sát na) chiếu soi
khắp giáp cả Pháp giới (vì thể của các quang minh cực kỳ vi diệu
nầy là THƯỜNG TRỤ) nhưng vì màn vô minh, tà kiến quá dầy đặc
nên chúng sanh không nhận ra vậy. Đây không phải là lỗi của chư
vị, mà do chúng ta quá ngu muội mà ra! Nếu chúng ta trong đời nầy
thấy được dù chỉ là trong một thoáng nhanh chóng thì ắt sẽ được giải
78
thoát; nếu Trung Hữu thấy được và nhận ra trí quang của chư Như
Lai, Phật Mẫu, và chư Phật tử cũng chính là quang minh thanh tịnh
của bản tâm thì lập tức sẽ thành bậc Đại giác.
Khi đọc đến đây, Mạt nhân nguyện đối trước chư độc giả, năm vóc sát
đất mà khẩn cầu quí Ngài ban cho một đặc ân đó là: “Xin chớ cô phụ Bi
Tâm và phương tiện của chư Phật, Bồ tát! Hãy y pháp phụng hành
ngay tức khắc!”
Nếu vẫn chưa nhận ra Tâm Bổn Nguyên Thanh Tịnh của mình vào lúc
nầy (thường là như vậy!) thì Trung Hữu sẽ tiếp tục dấn thân phiêu lưu
trên bước đường đầy chông gai phía trước.
GHI CHÚ QUAN TRỌNG CỦA SOẠN GIẢ
Hầu hết những hành giả chân chánh của Mật tông sẽ đạt được sự giải
thoát viên mãn bắt đầu từ giây phút mà họ hấp hối [thọ Thân Trung Ấm
đương lúc chết [Tử Hữu]] cho đến hết ngày thứ sáu chớ hiếm khi lọt qua
đến ngày thứ bảy.
Vì lý do nầy, Mạt nhân nhận được sự chỉ dạy sơ lược ở ngày thứ bảy về
sau từ chư Hòa Thượng thuộc dòng Pháp Hoa và Tịnh độ, chớ không từ
bậc A xà lê.
Cho nên, để độc giả có cái nhìn bao quát bắt đầu từ phần này về sau, Mạt
nhân căn cứ ngay vào các kinh văn của Lạt Ma Giáo bên xứ Tây Tạng
mà chú giải, vì nó được giải thích cặn kẽ hơn, chớ không phải soạn giả
do ý riêng mà ức đoán.
Nếu xét kỹ ra thì ngày thứ bảy các vị Trì Minh Vương phẫn nộ của Phật
giáo Tây Tạng đâu có khác gì chư vị Trì Minh Vương của Thai Tạng
Giới là bao. Nhưng Mật tông ở các nước viễn Đông và Đông Nam Á,
trên hình thức có phương pháp tu khác với Lạt Ma Giáo, nhưng trên bản
chất thì vốn đồng nhau.
Các học giả Âu Mỹ khi dịch sách Cứu Độ Thân Trung Ấm của Tây Tạng
ra tiếng Anh Cát Lợi ráng gán ép giai đoạn nầy bằng cách kêu gọi hãy
quán tưởng các hung thần! Chẳng hạn như trang XX của lời giới thiệu,
hoặc: “In Christianity there are the cherubim and seraphim, which
you can invoke on these days” trích trong quyển The Tibetan book of
The Dead: Liberation through understanding in between, dịch giả Robert
A.F. Thurman, trang 149.
Nên nhớ, các giáo phái của ngoại đạo có các vị thần của họ, những vị
hung thần nầy chưa ra khỏi Tam giới, bản thân họ còn bị trói buộc trong
vòng sanh tử luân hồi thì làm sao cứu rỗi được ai! Đến như vị chúa trời
Indra còn phải chịu cảnh khổ đau của chiến chinh với A tu la, huống là

79
các vị thần kia! Vả lại, các vị thần lệ thuộc trong Tam giới đó vốn không
có liên quan gì đến chư vị Trì Minh Vương cả.
PHẬT GIÁO TÂY TẠNG CHỦ TRƯƠNG
Hình của cuốn sách The Tibetan Book of the Death do Francesca
Fremantle and Chogyam Trungpa

Chú giải sơ lược Mạn đà la phía trên:


Tại trung tâm của bức Mạn đà la là nhị vị Phổ Hiền Như Lai
(Samantabhadra và Samantabhari). Ngay phía dưới là đức Đại Nhựt Như
Lai và Vajradhatvisvari. Dưới đức Đại Nhựt Như Lai là đức Kim Cang
Tát Đỏa Bất Động Như Lai (Vajrasattva-Aksobhya) và Phật Mẫu Hư
Không Nhãn (Locana), chung quanh có bốn vị Đại Bồ tát hộ vệ lần lượt
là Lasya, Địa Tạng (Ksitigarbha), Puspa và Từ Thị Vô Năng Thắng Di
Lặc (Maitreya). Bên trái nhị vị Phổ Hiền Như Lai là đức Bảo Sanh Như
Lai (Ratnasambhava) và Phật Mẫu Phật Nhãn (Mamaki), chung quanh
có bốn vị Đại Bồ tát hộ vệ lần lượt là Mala, Phổ Hiền (Samantabhara),
Dhupa và Hư Không Tạng (Akasagarbha). Phía trên nhị vị Phổ Hiền
Như Lai là đức Vô Lượng Quang Như Lai (Amitabha) và Phật Mẫu
Bạch Y Tôn (Pandaravasini), chung quanh có bốn vị đại Bồ tát hộ vệ lần
lượt là Gita, Quán Thế Âm (Avalokitesvara), Aloka và Mạn Thù Sư Lợi
(Manjusri). Bên phải nhị vị Phổ Hiền Như Lai là Bất Không Thành Tựu
Như Lai (Amoghasiddhi) và Đa La Thệ (SamayaTara), chung quanh có
bốn vị Đại Bồ tát hộ vệ lần lượt là Hương (Gandha), Trừ Cái Chướng
(Sarva-nivarana-viskambhin), Naivedya và Kim Cang Thủ (Vajrapani).
Tám vị thủ môn nam nữ của Mạn đà la lần lượt là: Phía dưới bên trái có
nhị vị Vijaya và Ankusa, phía trên bên trái có nhị vị Yamantaka và Pasa,
phía trên bên phải có nhị vị Hayagriva và Srnkhla, và phía dưới bên phải
có nhị vị Amrtakundali và Ghanta. Sáu hình đứng là sáu vị Phật chủ trì
Lục đạo: Bên trên phía trái là Sakyamuni, bên trên phía phải là
Dhruvasimha, phía dưới bên trái là Vemacitra, Indra, Dharmaraja, và
Jvalamukha.
CHƯ TRÌ MINH VƯƠNG (VIDYADHARAS)
XUẤT HIỆN
(Ngày thứ bảy)
Vidyadharas chỉ cho các vị nam thần hung mãnh, thường xuất hiện có:
Ba mắt trợn trừng, sáu tay cầm các loại khí cụ, trong các khí cụ kia thì
chày kim cang ngũ cổ và chuông là hai biểu tượng thống nhứt của quí
Ngài, giống in hệt của đức Kim Cang Tát Đỏa, tóc dựng đứng, có ba đầu,
đầu trang sức bằng các đầu lâu trắng hếu, mình mảy thì lửa dữ phun ra
80
theo hình tròn, lưng có cánh như cánh của chim ưng, dùng da beo, da
cọp làm y phục và trang sức với các đầu người còn tươi, hai chân mỗi
chân đạp trên thây nam hoặc nữ trần truồng màu trắng, hoặc xám tro,
đứng trên tòa sen.
Các vị Trì Minh Phi thì cũng hung mãnh, nhưng chỉ có hai tay, hai chân
như người bình thường. Chư vị Trì Minh Vương và Trì Minh Phi không
phải là các bậc Thiện thần cũng không phải là các bậc Hung thần, do đó
chư vị không thuộc 42 vị Thiện thần, cũng không thuộc số 52 Hung thần.
Trung Hữu bước sang ngày thứ bảy, chư Trì Minh Vương bắt đầu xuất
hiện, các luồng quang minh nhiều màu sắc khác nhau từ trung tâm của
cổ lưu xuất ra chiếu rọi khắp nơi, đây là bản chất của Ngữ Bí Mật của
chư Như Lai.
Các quang minh nhiều màu sắc kia biểu tượng cho phương diện thanh
tịnh của Ngũ Trí, đó là năm thứ đối trị Ngũ Độc. Các vị Trì Minh Vương
hình tướng phẫn nộ có sự liên hệ với trung tâm thần kinh ở não bộ, và
các vị Thần linh hình tướng hiền lành có sự liên hệ với trung tâm ở trái
tim. Ngôn ngữ là sự hỗ tương mật thiết giữa hai trung tâm thần kinh nầy
mà đại diện là chư vị Trì Minh Vương. Trì Minh nghĩa là nắm giữ trí huệ
[của chư Phật Bồ tát]; các vị nầy không hẳn là tuyệt đối hung mãnh hoặc
tuyệt đối hiền lành, nhưng giữ mực trung dung của hai đối cực kia; các vị
thủ đắc vô biên pháp thuật nhiệm mầu.
Nên nhớ, năm (5) vị Trì Minh Vương và năm (5) vị Trì Minh Phi
(Vidyadhari) là Hóa thân của của Ngũ Như Lai và Ngũ Phật Mẫu
cùng chư Bồ tát quyến thuộc , chớ không phải thứ quỷ thần tầm
thường của Tam giới. Năm vị Trì Minh Vương là những biểu tượng của
Pháp thân (Dharmakaya). Nhưng vì nghiệp lực xấu ác khiến cho Trung
Hữu khiếp sợ trước quí Ngài. Tuy nhiên, đây là cơ hội rất lớn để nhận ra
và hiệp nhứt cùng với các Trí quang kia để thoát mình ra khỏi sự trói
buộc của vòng sanh tử luân hồi.
Liền sau đó, bỗng có một vừng hào quang cầu vòng cực kỳ rực rỡ, rộng
lớn như hư không xuất hiện trước Trung Hữu.
Ngay chính giữa vùng quang minh kia Trung Hữu sẽ thấy vị Trì Minh
Liên Hoa Vũ Vương (Pema Karkyi Wangchuk) và Trì Minh Phi màu
xanh đậm (Phật giáo Tây Tạng gọi là Dakini). Nhị vị Trì Minh nầy đứng
trong tư thế nhảy múa, và ôm nhau trong tư thế của các bậc thánh thần.
Nơi phương Đông có vị Trì Minh Vương Sala Nepai Rigdzin và Trì
Minh Phi màu trắng.
Nơi phương Nam có vị Trì Minh Vương Tsela Wang Wai Rigdzin và vị
Trì Minh Phi màu vàng.

81
Nơi phương Tây có vị Trì Minh Vương Chag Gya Chenpo Rigdzin, và
Trì Minh Phi màu xanh lá cây.
Chung quanh năm cặp Trì Minh Vương nầy là chư Mẫu Kiết Ni
(Dakini), xa xa thì có các vị thần phụng giáo/ Hộ pháp (Dharmapalas).
Chư Thần linh xuất hiện rợp cả trời để giúp những Trung Hữu nào giữ
trọn thệ nguyện. Chư vị cũng đồng thời đến để trừng phạt những kẻ
không giữ gìn những lời thệ nguyện, hoặc hủy báng các bậc A xà lê/ Đạo
Sư.
Cũng như các phần trước, bất cứ những hành vi nào dù là thuận theo
hay phản kháng khởi lên đối với chư vị Thần linh và các quang minh
màu sắc khác nhau thì Trung Hữu cần phải biết rằng chúng chỉ là do
tự tâm của Trung Hữu huyễn hiện.
Những luồng quang minh cực kỳ mạnh mẽ phát xuất từ năm vị Trì Minh
Vương kia sẽ chiếu thấu vào tim của Trung Hữu. Đồng lúc ấy cũng có
một thứ ánh sáng màu xanh nhạt chiếu rọi trước Trung Hữu. Ánh
sáng màu xanh nhạt nầy từ cõi Súc Sanh biến hiện. Do nghiệp lực chiêu
cảm Trung Hữu cảm thấy bị sức quyến rũ của loại ánh sáng màu xanh
nhạt nầy và khiếp sợ trước trí quang của chư Trì Minh Vương nên cố
gắng trốn chạy khỏi vòng ảnh hưởng của các luồng quang minh cực kỳ
rực rỡ kia.
LÚC NẦY CHÍNH LÀ LÚC MÀ TRUNG HỮU PHẢI TẬP TRUNG
TƯ TƯỞNG ĐỂ QUÁN CHIẾU VỀ CÁC TRÍ QUANG VÀ CẦU
NGUYỆN SỰ GIA HỘ CỦA CHƯ PHẬT BỒ TÁT, NHỨT LÀ CÁC
VỊ TRÌ MINH VƯƠNG THÌ TRUNG HỮU SẼ ĐƯỢC GIẢI THOÁT.
Hỡi chư Trì Minh Vương! Xin hãy thương xót con
Hướng dẫn con về Tịnh độ Dakpacachod của quí Ngài
Bởi vô minh che lấp từ vô thỉ cho đến nay
Mãi lang thang trong vòng sanh tử luân hồi
Con không biết đường lối tu tập chân chánh
Nguyện chư Trì Minh Vương gia hộ cho con
Khiến con đắc được Tứ Trí và quang minh thanh tịnh
Vượt qua tất cả mọi chướng ngại của Thân Trung Ấm
Nguyện con chóng viên thành quả vị Phật.
Nếu lúc còn sống thật sự có tu tập, đem hết lòng chí thành để
cầu nguyện và thiền quán thì bây giờ chính là lúc Trung Hữu hiệp
nhứt thân tâm mình với trí quang. Một khi việc nầy thành tựu thì
Trung Hữu lập tức sẽ được sanh về cõi Tịnh Độ Dakpacachod.
Những hành giả nào tu tập Thiền quán hữu tướng theo phương
pháp của Lạt Ma Giáo/ Kim Cang Thừa sẽ sanh về cõi Tịnh Độ nầy
82
trong vòng bảy (7) ngày sau khi chết. Một lần nữa, xin lập lại là trong
giai đoạn nầy của Trung Hữu tất cả chư vị Thần linh và quang minh sẽ
biến hóa từ nơi trung tâm cổ của Trung Hữu.
Nếu bây giờ vẫn chưa thành tựu được sự giác ngộ thì Trung Hữu sẽ tiến
tới giai đoạn kế đầy sự hãi hùng hơn.Trong ngày thứ tám trở đi, Trung
Hữu sẽ thấy các vị Phật mà người Tây Tạng thường gọi là Heruka (tiếng
Phạn, chớ không phải tiếng Tây Tạng, chỉ cho đấng Đại trượng phu. Nếu
dùng riêng thì chỉ cho đức Cakrasambhava, vị nầy có liên hệ đến chuyển
tham ái thành trí tuệ Bát Nhã] để chỉ cho các hóa thân của Ngũ Như Lai
cũng ở trong hình tướng trượng phu uy nghiêm rất đáng sợ. Tổng cộng là
52 vị Thần linh thân tướng hung mãnh và dễ sợ, kể cả năm (5) Herukas ở
trên. Năm mươi hai (52) vị nầy đại diện cho 52 cấp bậc của Bồ tát từ
Phật quả viên mãn xuống đến thập tín. Thứ tự đi từ lớn xuống nhỏ, vì
Trung Hữu càng ngày càng xa cách cảnh giới vi diệu của chư Phật, Bồ
tát, v.v… và có khuynh hướng sa đọa vào vòng sanh tử luân hồi.
Ngày thứ tám
***
Trong ngày thứ tám, đức Đại Nhựt Như Lai hiện thân phẫn nộ thành vị
Phật Đại Trượng Phu (Buddha Heruka) xuất hiện trước Trung Hữu. Vị
Phật Đại Trượng Phu thuộc Phật Bộ. Thân thể Ngài màu nâu đậm, ba
đầu, sáu tay, bốn chân duỗi thẳng ra, mặt chính giữa màu nâu đậm, mặt
bên phải màu trắng, mặt bên trái màu đỏ, cả thân hình phát ra ánh lửa rực
rỡ, chín con mắt mở to nhìn chăm chú một cách đáng khiếp sợ, lông mày
rung động như ánh chớp, răng lòi ra như đồng mới sáng ngời, miệng rú
lên những tiếng rất hãi hùng “a la la” và “ha ha ha”, với những tiếng rít
như “xu-u” hoặc “Hùm\Hùng!” “Phạt!” to lớn như tiếng sấm chớp. Tóc
màu cam sáng ngời dựng đứng, được trang nghiêm bằng những đầu lâu
trắng hếu và những biểu tượng của nhựt nguyệt. Thân Ngài được trang
sức bằng những con rắn đen và những thủ cấp mới vừa bị chặt tạo thành
những chuỗi dài. Tay bên phải thứ nhứt cầm bánh xe, tay thứ hai cầm
rìu, tay thứ ba cầm kiếm; tay bên trái thứ nhứt cầm chuông, tay thứ hai
cầm một mảng da đầu người, tay thứ ba cầm cái ly bằng sọ người.
Phật Mẫu Krodhishvari ôm Ngài, tay phải choàng sau cổ Ngài, tay trái
dâng cho Ngài một hớp máu từ cái ly bằng sọ Người. Phật Mẫu rít lên
những tiếng “Hùm\ Hùng” “Phạt!” như sấm nổ. Các lỗ chân lông kim
cang của hai vị phát ra những tia lửa trí rực rỡ. Nhị vị đứng trên tòa Liên
Hoa do Kim Súy Điểu (garudas) mang đội, trong tư thế chiến đấu.
Trên thực tế, vị Phật Đại Trượng Phu nầy phát xuất từ trung tâm não
bộ của Trung Hữu! Nếu Trung Hữu nhận ra điều nầy và quán tưởng

83
Ngài là vị Thần hộ mệnh của mình và hiệp nhứt cùng Ngài thì tâm
của Trung Hữu và Ngài sẽ không bao giờ tách rời nhau nữa. Kết quả
của sự giác ngộ nầy là Trung Hữu sẽ đạt được cảnh giới của Báo thân
(Sambhogakaya) Phật.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu phải trải qua ngày
thứ chín.
Ngày thứ chín
***
Trong ngày thứ chín, đức Bất Động Như Lai hiện thân phẫn nộ thành
Kim Cang Đại Trượng Phu (Vajra Heruka) xuất hiện trước Trung Hữu.
Ngài thuộc Kim Cang Bộ. Thân thể Ngài màu xanh dương đậm, các chi
phần khác cũng giống như đức Buddha Heruka. Ngài có ba đầu, sáu tay,
bốn chân duỗi thẳng ra, mặt chính giữa màu xanh đậm, mặt bên phải
màu trắng, mặt bên trái màu đỏ, cả thân hình phát ra ánh lửa rực rỡ, chín
con mắt mở to nhìn chăm chú một cách đáng khiếp sợ, lông mày rung
động như ánh chớp, răng lòi ra như đồng mới sáng ngời, miệng rú lên
những tiếng rất hãi hùng “a la la” và “ha ha ha”, với những tiếng rít như
“xu-u” hoặc “Hùm \Hùng!” “Phạt!” to lớn như tiếng sấm chớp. Tóc màu
cam sáng ngời dựng đứng, đầu được trang nghiêm bằng những đầu lâu
trắng hếu và những biểu tượng của nhựt nguyệt. Thân Ngài được trang
sức bằng những con rắn đen và những thủ cấp mới vừa bị chặt tạo thành
những chuỗi dài. Tay bên phải thứ nhứt cầm chày kim cang, tay thứ hai
cầm ly bằng sọ người, tay thứ ba cầm rìu; tay bên trái thứ nhứt cầm
chuông, tay thứ hai cầm một ly bằng sọ người, tay thứ ba cầm mảng da
đầu người.
Phật Mẫu Krodhishvari ôm Ngài, tay phải choàng sau cổ Ngài, tay trái
dâng cho Ngài một hớp máu từ cái ly bằng sọ Người. Phật Mẫu rít lên
những tiếng “Hùm\ Hùng” “Phạt!” như sấm nổ. Các lỗ chân lông kim
cang của hai vị phát ra những tia lửa trí rực rỡ.
Trên thực tế, vị Phật Đại Trượng Phu nầy phát xuất từ phía Đông não
bộ của Trung Hữu! Đừng sợ hãi tướng mạo hung dữ của họ! Đừng vị
sự phẫn nộ của họ mà kinh hoàng! Chớ thù ghét họ! Nếu Trung Hữu
nhận ra rằng Ngài chỉ là huyễn hiện của tự tâm. Ngài chính là vị
Thần hộ mệnh của mình và hiệp nhứt cùng Ngài thì Trung Hữu sẽ đạt
được cảnh giới của Báo thân(Sambhogakaya) Phật.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu phải trải qua ngày
thứ mười.
Ngày thứ mười
***
84
Trong ngày thứ mười, đức Bảo Sanh Như Lai hiện thân phẫn nộ thành
Bảo Đại Trượng Phu ( Ratna Heruka) xuất hiện trước Trung Hữu. Ngài
thuộc Bảo Bộ. Thân thể Ngài màu vàng đậm, các chi phần khác cũng
giống như đức Buddha Heruka và Vajra Heruka. Ngài có ba đầu, sáu tay,
bốn chân duỗi thẳng ra, mặt chính màu vàng đậm, mặt bên phải màu
trắng, mặt bên trái màu đỏ, cả thân hình phát ra ánh lửa rực rỡ, chín con
mắt mở to nhìn chăm chú một cách đáng khiếp sợ, lông mày rung động
như ánh chớp, răng lòi ra như đồng mới sáng ngời. Miệng rú lên những
tiếng rất hãi hùng “a la la” và “ha ha ha”, với những tiếng rít như “xu-u”
hoặc “Hùm\ Hùng!” “Phạt!” to lớn như tiếng sấm chớp. Tóc màu cam
sáng ngời dựng đứng, được trang nghiêm bằng những đầu lâu trắng hếu
và những biểu tượng của nhựt nguyệt. Thân Ngài được trang sức bằng
những con rắn đen và những thủ cấp mới vừa bị chặt tạo thành những
chuỗi dài. Tay bên phải thứ nhứt cầm bảo châu, tay thứ hai cầm cây gậy
phép (khatvanga), tay thứ ba cầm chùy; tay bên trái thứ nhứt cầm
chuông, tay thứ hai cầm một cái ly bằng sọ người, tay thứ ba cầm đinh
ba.
Phật Mẫu Ratna Krodhishvari ôm Ngài, tay phải choàng sau cổ Ngài, tay
trái dâng cho Ngài một hớp máu từ cái ly bằng sọ Người. Phật Mẫu rít
lên những tiếng “Hùm\ Hùng” “Phạt!” như sấm nổ. Các lỗ chân lông kim
cang của hai vị phát ra những tia lửa trí rực rỡ.
Trên thực tế, Bảo Đại Trượng Phu phát xuất từ phía nam não bộ của
Trung Hữu! Đừng sợ hãi tướng mạo hung dữ của họ! Đừng vị sự
phẫn nộ của họ mà kinh hoàng! Chớ thù ghét họ! Nếu Trung Hữu
nhận ra rằng Ngài chỉ là huyễn hiện của tự tâm. Ngài chính là vị
Thần hộ mệnh của mình và hiệp nhứt cùng Ngài thì Trung Hữu sẽ đạt
được cảnh giới của Báo thân (Sambhogakaya) Phật.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu phải trải qua ngày
thứ mười một.
Ngày Thứ Mười Một
***
Trong ngày thứ mười một, Đức Vô Lượng Quang Như Lai hiện thân
phẫn nộ thành Liên Hoa Đại Trượng Phu (Padma Heruka) xuất hiện
trước Trung Hữu. Ngài thuộc Liên Hoa Bộ. Thân thể Ngài màu đỏ đậm,
các chi phần khác cũng giống như đức Buddha Vajra và Ratna Heruka.
Ngài có ba đầu, sáu tay, bốn chân duỗi thẳng ra, mặt chính giữa màu đỏ
đậm, mặt bên phải màu trắng, mặt bên trái màu đỏ, cả thân hình phát ra
ánh lửa rực rỡ, chín con mắt mở to nhìn chăm chú một cách đáng khiếp
sợ, lông mày rung động như ánh chớp, răng lòi ra như đồng mới sáng

85
ngời. Miệng rú lên những tiếng rất hãi hùng “a la la” và “ha ha ha”, với
những tiếng rít như “xu-u” hoặc “Hùm\ Hùng!” “Phạt!” to lớn như tiếng
sấm chớp. Tóc màu cam sáng ngời dựng đứng, được trang nghiêm bằng
những đầu lâu trắng hếu và những biểu tượng của nhựt nguyệt. Thân
Ngài được trang sức bằng những con rắn đen và những thủ cấp mới vừa
bị chặt tạo thành những chuỗi dài. Tay bên phải thứ nhứt cầm hoa sen,
tay thứ hai cầm gậy phép, tay thứ ba cầm roi; tay bên trái thứ nhứt cầm
chuông, tay thứ hai cầm một cái ly bằng sọ người đựng đầy máu, tay thứ
ba cầm một cái trống nhỏ.
Phật Mẫu Padma Krodhishvari ôm Ngài, tay phải choàng sau cổ Ngài,
tay trái dâng cho Ngài một hớp máu từ cái ly bằng sọ Người. Phật Mẫu
rít lên những tiếng “Hùm\ Hùng” “Phạt!” như sấm nổ. Các lỗ chân lông
kim cang của hai vị phát ra những tia lửa trí rực rỡ.
Trên thực tế, Liên Hoa Đại Trượng Phu phát xuất từ phía Tây não bộ
của Trung Hữu! Đừng sợ hãi tướng mạo hung dữ của họ! Đừng vì sự
phẫn nộ của họ mà kinh hoàng! Chớ thù ghét họ! Nếu Trung Hữu
nhận ra rằng Ngài chỉ là huyễn hiện của tự tâm. Ngài chính là vị
Thần hộ mệnh của mình và hiệp nhứt cùng Ngài thì Trung Hữu sẽ đạt
cảnh giới của Báo thân (Sambhogakaya) Phật.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu phải trải qua ngày
thứ mười hai.
Ngày Thứ Mười Hai
***
Trong ngày thứ mười hai, đức Bất Không Thành Tựu Như Lai hiện thân
phẫn nộ thành Yết Ma Đại Trượng Phu (Karma Heruka) xuất hiện trước
Trung Hữu. Ngài thuộc Yết Ma Bộ. Thân thể Ngài màu xanh lá cây đậm,
các chi phần khác cũng giống như đức Buddha Vajra, Ratna và Padma
Heruka. Ngài có ba đầu, sáu tay, bốn chân duỗi thẳng ra, mặt chính màu
xanh lá cây đậm, mặt bên phải màu trắng, mặt bên trái màu đỏ, cả thân
hình phát ra ánh lửa rực rỡ, chín con mắt mở to nhìn chăm chú một cách
đáng khiếp sợ, lông mày rung động như ánh chớp, răng lòi ra như đồng
mới sáng ngời. Miệng rú lên những tiếng rất hãi hùng “a la la” và “ha ha
ha”, với những tiếng rít như “xu-u” hoặc “Hùm\ Hùng!” “Phạt!” to lớn
như tiếng sấm chớp. Tóc màu cam sáng ngời dựng đứng, được trang
nghiêm bằng những đầu lâu trắng hếu và những biểu tượng của nhựt
nguyệt. Thân Ngài được trang sức bằng những con rắn đen và những thủ
cấp mới vừa bị chặt tạo thành những chuỗi dài. Tay bên phải thứ nhứt
cầm kiếm, tay thứ hai cầm gậy phép, tay thứ ba cầm roi; tay bên trái thứ

86
nhứt cầm chuông, tay thứ hai cầm một cái ly bằng sọ người đựng đầy
máu, tay thứ ba cầm một mảng da đầu.
Phật Mẫu Karma Krodhishvari ôm Ngài, tay phải choàng sau cổ Ngài,
tay trái dâng cho Ngài một hớp máu từ cái ly bằng sọ Người. Phật Mẫu
rít lên những tiếng “Hùm\ Hùng” “Phạt!” như sấm nổ. Các lỗ chân lông
kim cang của hai vị phát ra những tia lửa trí rực rỡ.
Trên thực tế, Liên Hoa Đại Trượng Phu phát xuất từ phía Bắc não bộ
của Trung Hữu! Đừng sợ hãi tướng mạo hung dữ của họ! Đừng vì sự
phẫn nộ của họ mà kinh hoàng! Chớ thù ghét họ! Nếu Trung Hữu
nhận ra rằng Ngài chỉ là huyễn hiện của tự tâm, Ngài chính là vị
Thần hộ mệnh của mình và hiệp nhứt cùng Ngài thì Trung Hữu sẽ đạt
được cảnh giới của Báo thân (Sambhogakaya) Phật.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giác ngộ lúc nầy thì Trung Hữu sẽ phải đương
đầu với các quỷ thần khác của ngày thứ mười ba.
Ngày Thứ Mười Ba
***
Tám (8) vị nữ Gauri sẽ xuất hiện,
thân thể sáng rực rỡ
Tám (8) vị Gauri sẽ xuất hiện từ nơi não bộ của Trung Hữu. Gauri có
đầu và mặt giống như của người nhưng có thêm mắt thứ ba dựng đứng
tại giữa hai chân mày, cũng có hai tay và hai chân, nhưng rất đáng sợ.
Chúng Gauri là những quỷ thần sống nơi các thánh địa, để hộ vệ nơi ấy.
Chớ nên vì đó mà sợ hãi họ!
Phương Đông của não bộ, có vị nữ hung thần Gauri thân thể sắc trắng.
Tay phải cầm một thây người làm chùy, tay trái cầm một ly bằng sọ
người đựng đầy máu. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân
phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng.
Phương Nam của não bộ, có vị nữ hung thầnChauri thân thể sắc vàng.
Tay cầm cung và tên, sẵn sàng để bắn. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc
dù thị hiện thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô
lượng.
Phương Tây của não bộ, có vị nữ hung thần Pramoha thân thể sắc đỏ.
Tay cầm một con sấu. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân
phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng.
Phương Bắc của não bộ, có vị nữ hung thần Vetali thân thể sắc đen. Tay
phải cầm chày kim cang, tay trái cầm một ly bằng sọ người đựng đầy
máu. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung
mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng.

87
Phương Đông Nam của não bộ, có vị nữ hung thần Pukkhasi thân thể sắc
đỏ cam. Tay phải cầm ruột người, tay trái đưa ruột vào miệng. Trung
Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung mãnh,
nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Phương Tây Nam của não bộ, có vị nữ hung thần Ghasmari thân thể sắc
xanh lá cây đậm. Tay phải cầm chày kim cang, tay trái cầm một ly bằng
sọ người đựng đầy máu. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện
thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Phương Tây Bắc của não bộ, có vị nữ hung thần Chandali thân thể sắc
vàng nhạt. Thân mang một thây người trên vai. Tay phải cầm một thây
người, tay trái đưa vào miệng để ăn. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù
thị hiện thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô
lượng!
Phương Đông Bắc của não bộ, có vị nữ hung thần Shmashani thân thể
sắc xanh đậm. Hai tay cầm một thây người không đầu đưa vào miệng để
ăn. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung mãnh,
nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Trên thực tế, tám (8) Gauris nầy phát xuất từ tám hướng của não bộ
của Trung Hữu! Xuất hiện trước mặt Trung Hữu bên cạnh Ngũ Bộ
Heruka. Đừng sợ hãi tướng mạo hung dữ của các nàng! Đừng vì sự
phẫn nộ của họ mà kinh hoàng! Chớ thù ghét họ! Nếu nhận ra rằng
tám (8) nàng đây chỉ là tự tâm huyễn hiện thì Trung Hữu sẽ đạt được
sự giải thoát.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu phải đương đầu
với…
Tám (8) vị nữ Tỳ-xá-già (Pisacinis)
Thân thể sáng rực rỡ sẽ xuất hiện
Các vị Tỳ xá già hình người đầu thú, sẽ từ nơi não bộ của Trung Hữu mà
lưu xuất.
Phương Đông của não bộ, có vị nữ hung thần tên là Tỳ xá già Đầu sư tử
(Simhasya) thân thể sắc nâu đậm đỏ. Hai tay Ngài tréo nhau ngang ngực,
miệng ngậm một thây người, và lúc lắc bộ lông bờm. Trung Hữu! Chớ
sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm
nàng từ bi vô lượng!
Phương Nam của não bộ, có vị nữ hung thần tên là Tỳ xá già Đầu cọp
(Vyaghrasya) thân thể sắc màu đỏ. Hai tay Ngài tréo nhau hướng xuống,
miệng nhếch ra, mắt trừng trừng nhìn và nghiến các răng nanh, trông rất
giận dữ đối với Trung Hữu. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện
thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
88
Phương Tây của não bộ, có vị nữ hung thần tên là Tỳ xá già Đầu Chó
rừng (Shrgalasya) thân thể sắc đen. Tay phải ngài cầm dao cạo, tay trái
cầm ruột người bỏ vào miệng để ăn và liếm máu. Trung Hữu! Chớ sợ
hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng
từ bi vô lượng!
Phương Bắc của não bộ, có vị nữ hung thần tên là Tỳ xá già Đầu chó sói
(Shvanasya) thân thể sắc xanh đậm. Hai tay Ngài cầm một thây người để
trước miệng, mắt nhìn trừng trừng như muốn ăn tươi nuốt sống Trung
Hữu. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung
mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Phương Đông Nam của não bộ, có vị nữ hung thần tên là Tỳ xá già Đầu
kên kên (Grdhrasya) thân thể sắc vàng lợt. Ngài vác một thây người trên
vai; hai tay cầm một bộ xương người. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù
thị hiện thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô
lượng!
Phương Tây Nam của não bộ, có vị nữ hung thần tên là Tỳ xá già Đầu
diều hâu (Kankhasya) thân thể sắc đỏ đậm. Ngài vác một thây người trên
vai. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung
mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Phương Tây Bắc của não bộ, có vị nữ hung thần tên là Tỳ xá già Đầu quạ
khoang (Kakasya) thân thể sắc đen. Tay phải cầm kiếm; tay trái cầm tim
và phổi để ăn. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ
và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Phương Đông Bắc của não bộ, có vị nữ hung thần tên là Tỳ xá già Đầu
Chim cú (Ulukasya) thân thể sắc xanh đậm. Tay phải cầm chày kim
cang, tay trái cầm thịt người để ăn. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù
thị hiện thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô
lượng!
Trên thực tế, tám (8) Tỳ xá gia nầy phát xuất từ tám hướng của não bộ
của Trung Hữu! Xuất hiện trước mặt Trung Hữu bên cạnh Ngũ Bộ
Heruka. Đừng sợ hãi tướng mạo hung dữ của họ! Đừng vì sự phẫn nộ
của họ mà kinh hoàng! Chớ thù ghét họ! Nếu nhận ra rằng tám (8)
nàng đây chỉ là tự tâm huyễn hiện thì Trung Hữu sẽ đạt được sự giải
thoát.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu phải đương đầu với
ngày thứ mười bốn…
Ngày Thứ Mười Bốn
***
Bốn (4) vị Nội Thủ Môn Thần Nữ

89
Thân thể sáng rực rỡ, sẽ xuất hiện.
Các vị Thần nữ nầy cũng sẽ từ nơi não bộ của Trung Hữu mà lưu xuất.
Phương Đông của não bộ, có vị Nội Thủ Môn Thần Nữ đầu ngựa
Ankusha thân thể sắc trắng; tay phải cầm một khúc câu, tay trái cầm một
ly bằng sọ người đựng đầy máu. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị
hiện thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Phương Nam của não bộ, có vị Nội Thủ Môn Thần Nữ đầu heo Pasha
thân thể sắc màu vàng; tay cầm dây thòng lọng. Trung Hữu! Chớ sợ
hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng
từ bi vô lượng!
Phương Tây của não bộ, có vị Nội Thủ Môn Thần Nữ đầu sư tử
Shernkhala thân thể sắc đỏ; tay cầm xích sắt. Trung Hữu! Chớ sợ hãi!
Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi
vô lượng!
Phương Bắc của não bộ, có vị Nội Thủ Môn Thần Nữ đầu rắn Ghanta
thân thể sắc lá cây; tay cầm chuông. Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù
thị hiện thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô
lượng!
Trên thực tế, bốn (4)Nội Thủ Môn Thần nữ nầy phát xuất từ bốn
hướng của não bộ của Trung Hữu! Các nàng đồng thời xuất hiện
trước mặt Trung Hữu bên cạnh Ngũ Bộ Heruka. Đừng sợ hãi tướng
mạo hung dữ của họ! Đừng vì sự phẫn nộ của họ mà kinh hoàng!
Chớ thù ghét họ! Nếu nhận ra rằng bốn (4) nàng đây chỉ là tự tâm
huyễn hiện thì Trung Hữu sẽ đạt được sự giải thoát.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu phải đương đầu
với…
Hai mươi bốn (24) vị Thần nữ (Jshvari)
Thân thể sáng rực rỡ, sẽ xuất hiện
Phương Đông của não bộ có sáu Thần Nữ, còn gọi là nữ Du già.
1. Đầu tiên là vị Đầu trâu (nơi Tuyết Sơn, chớ không phải thứ trâu của
xứ Việt Nam chúng ta) Rakshasi thân thể sắc nâu sậm; tay cầm chày kim
cang.
2. Lại có thần nữ đầu rắn Brahmi thân thể sắc cam đỏ; tay cầm hoa sen.
3. Rồi đến, thần nữ đầu Báo gấm Maheshvari thân thể màu xanh lá cây
đậm; tay cầm đinh ba.
4. Kế đó, thần nữ đầu Khỉ Lobha thân thể màu xanh, tay cầm bánh xe.
5. Tiếp theo, thần nữ đầu Lừa Kumari thân thể màu đỏ, tay cầm đoản
kiếm.

90
6. Sau rốt, thần nữ đầu Gấu Indrani thân thể màu trắng, tay cầm một cái
thòng lọng bằng ruột người.
Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung
mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Phương Nam của não bộ có sáu (6) vị nữ Du già.
1. Đầu tiên là vị đầu Dơi Vajra thân thể sắc vàng; tay cầm dao cạo.
2. Lại có thần nữ đầu Sấu Shanti thân thể sắc đỏ; tay cầm bình đựng hài
cốt.
3. Rồi đến, thần nữ đầu Bồ cạp Amrita thân thể sắc đỏ; tay cầm hoa sen.
4. Kế đó, thần nữ đầu Diều hâu Chandra thân thể màu trắng; tay cầm
chày kim cang.
5. Tiếp theo, thần nữ đầu Chó rừng Gada thân thể màu xanh lá cây đậm;
tay cầm chùy.
6. Sau rốt, thần nữ đầu Cọp Rahshasi thân thể màu vàng đậm; tay cầm
một cái đầu lâu máu.
Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung
mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Phương Tây của não bộ có sáu (6) vị nữ Du già.
1. Đầu tiên là vị đầu Kên kên Bhakshasi thân thể màu xanh lá cây đậm;
tay cầm chùy.
2. Lại có thần nữ đầu Ngựa Rati thân thể sắc đỏ, tay cầm một thây người
to lớn.
3. Rồi đến, thần nữ đầu Kim súy điểu Mahabali thân thể sắc trắng; tay
cầm chùy.
4. Kế đó, thần nữ đầu Chó Rakshasi thân thể màu đỏ; tay cầm chày kim
cang.
5. Tiếp theo, thần nữ đầu Chim Kama thân thể màu đỏ; tay cung lên chực
bắn.
6. Sau rốt, thần nữ đầu Nai Vasuraksha thân thể màu xanh lá cây đỏ sậm;
tay cầm một cái bình đựng hài cốt.
Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung
mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Phương Bắc của não bộ có sáu (6) vị nữ Du già.
1. Đầu tiên là vị đầu Chó sói Vayavi thân thể sắc xanh; tay cầm cây tràng
phướng.
2. Lại có thần nữ đầu Hạc Narini thân thể sắc đỏ; tay cầm ngọn giáo bén
nhọn trong tư thế đe dọa.
3. Rồi đến thần nữ đầu Heo rừng Varahi thân thể sắc đen; tay cầm thòng
lọng bằng răng nanh heo rừng.

91
4. Kế đó, thần nữ đầu Quạ Rati thân thể màu đỏ, tay cầm da của một đứa
bé.
5. Tiếp theo, thần nữ đầu Voi Mahasani thân thể màu xanh lá cây đậm;
tay cầm thây người và uống máu từ một cái ly bằng sọ người.
6. Sau rốt, thần nữ đầu Rắn Varuni thân thể màu xanh; tay cầm một cái
thòng lọng bằng rắn.
Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung
mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Bốn (4) vị Ngoại Thủ môn Thần nữ
Thân thể sáng rực rỡ ,sẽ xuất hiện
Các vị Thần nữ nầy cũng sẽ từ nơi não bộ của Trung Hữu mà lưu xuất.
Phương Đông của não bộ, có vị Thủ môn Thần nữ đầu Chim Cu Vajra
thân thể sắc trắng; tay cầm một khúc câu bằng sắt. Trung Hữu! Đừng
sợ nàng, dù mang thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ
bi vô lượng!
Phương Nam của não bộ, có vị Thủ môn Thần nữ đầu Dê Vajra thân thể
sắc màu vàng; tay cầm dây thòng lọng.Trung Hữu! Đừng sợ nàng, dù
mang thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Phương Tây của não bộ có vị Thủ môn Thần nữ đầu Sư Tử Vajra thân
thể sắc đỏ; tay cầm xích sắt. Trung Hữu! Đừng sợ nàng, dù mang thân
phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Phương Bắc của não bộ có vị Thủ môn Thần nữ đầu Rắn Vajra thân thể
sắc lá cây. Tay cầm chuông. Trung Hữu! Đừng sợ nàng, dù mang
thân phẫn nộ và hung mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Trên thực tế, bốn (4) Ngoại Thủ môn Thần nữ nầy phát xuất từ tám
hướng của não bộ của Trung Hữu! Xuất hiện trước mặt Trung Hữu
bên cạnh Ngũ bộ Heruka. Đừng sợ hãi tướng mạo hung dữ của họ!
Đừng vì sự phẫn nộ của họ mà kinh hoàng! Chớ thù ghét họ! Nếu
Trung Hữu nhận ra rằng bốn (4) vị đây chỉ là huyễn hiện của tự tâm
thì Trung Hữu sẽ đạt được sự giải thoát.
Nầy Trung Hữu! Từ phương diện Tịnh của Tánh không (sunyata) lưu
xuất ra thành 48 vị Thiện thần! Hãy nhận ra điều nầy!
Từ phương diện Động của Tánh không (sunyata) lưu xuất ra thành 52 vị
Hung thần! Hãy nhận ra điều nầy! Chư Hung thần từ não bộ lưu xuất ra,
và hiện rõ ràng trước mắt Trung Hữu, thân bằng quyến thuộc của Trung
Hữu sẽ không thể thấy được chư vị, chỉ có Trung Hữu một mình kinh
nghiệm mà thôi. Nếu Trung Hữu biết rằng tất cả những hình ảnh kia từ
bản tâm lưu xuất, và không sợ hãi trước các Ngài thì Trung Hữu sẽ lập

92
tức hiệp nhứt với thân Đại Trượng Phu (Heruka-kaya) và đạt được địa vị
của một đấng Phật Đà!
Nầy Trung Hữu! Nếu vẫn chưa nhận ra được bản tâm của mình thì ngươi
sẽ phiêu lưu vào thế giới đầy huyền ảo, khổ đau, sợ hãi, kinh hoàng, và
giận dữ với chính mình và chư vị Thần linh kia. Một lần nữa sự khổ đau
không thể nghĩ bàn sẽ đổ ập đến thân ngươi. Vì không phương tiện và bị
nghiệp lực lôi kéo ngươi sẽ thấy chư Thần linh kia là Diêm La Vương và
chư Quỷ thần nơi ác đạo. Ngươi sẽ thù ghét họ! Ngươi sẽ bị kinh hoàng
trước họ! Chính tưởng tướng của ngươi biến thành những hình ảnh ma
quái kia chớ không có gì ngoài tâm ngươi!
Nầy Trung Hữu! Thân thể của những bậc Đại Thiện thần (Ngũ Như Lai,
Ngũ Phật Mẫu, Chư Bồ tát), chư Trì Minh Vương và chư Trì Minh Phi,
cũng như Đại Hung thần (Đại Trượng Phu của Ngũ Bộ) kia đột nhiên sẽ
lớn ra như hư không, còn thân thể của những vị hầu cận sẽ lớn như núi
chúa Tu Di, các quyến thuộc của quí Ngài sẽ lớn hơn thân ngươi ít nhứt
là đến 18 lần.
Nhưng, nầy Trung Hữu! Đừng sợ hãi! Đừng quá đỗi kinh hoàng!
Tất cả những hình ảnh thấy được sẽ trở thành quang minh và chư
Thần linh kia chẳng qua là do Tâm lực của ngươi huyễn hiện! Hãy
đem hết nghị lực quán chiếu về Tánh không, hoặc tụng Thần chú,
hoặc niệm hồng danh của chư Phật Bồ tát, rồi nhập vào các quang
minh và chư Thần linh kia, chớ nên do dự, chỉ trong một cái khảy
móng tay nhà ngươi sẽ thành Phật lập tức!
Nầy Trung Hữu! Cho dù những cảnh giới hiện ra kia rất là khủng
khiếp, phải nhận ra chúng nó chính là các tưởng tướng riêng của
riêng ngươi! Nếu ngươi nhận ra chúng chính là biến tướng của tự
tâm, và không còn nghi ngờ gì cả ngươi sẽ trở thành một vị Phật lập
tức! Điều mà Mật tông chủ trương “TỨC THÂN THÀNH PHẬT” ngươi
đã và đang kinh nghiệm, hãy nhận ra nó ngay vì cảnh giới nầy sẽ đi qua
rất nhanh chóng. Hãy nhớ kỹ điều nầy!
Nầy Trung Hữu! Nếu lúc nầy ngươi vẫn chưa nhận ra Tâm quang minh
của mình, mà chạy theo những sự kinh hoàng khủng khiếp thì tất cả
những vị Thiện thần sẽ biến thành các vị Thần thủ hộ Mahakala màu
đen! Còn những vị hung thần sẽ biến thành các vị Dạ Ma Pháp Vương
(Diêm Ma Vương)! Các tưởng tướng riêng của ngươi sẽ trở thành những
ảo giác, rồi ngươi sẽ bị nhận chìm trong vòng sanh tử luân hồi!
Nầy Trung Hữu! Nếu vẫn chưa nhận ra những hiện tượng kia chính
là từ tự tâm huyễn hiện, thì cho dù nhà ngươi có thông suốt tất cả
kinh văn của Hiển giáo, các giáo lý của Mật tông, và cho dù nhà

93
ngươi có tu tập cả một kiếp đi nữa, ngươi cũng sẽ không thành Phật
được!
Trái lại, nếu ngươi có thể nhận ra các hiện tượng kia từ tâm ngươi
lưu xuất thì chỉ cần một lời, một chữ trong lúc nầy ngươi cũng đắc
thành Phật quả!
Nếu các tưởng tướng của riêng ngươi mà ngươi không nhận ra được
chúng thì ngay khi mà ngươi chết, những hình tướng kia sẽ trở thành các
vị Diêm Ma Vương!
Tất cả chư Diêm Ma Vương sẽ xuất hiện đầy rợp cả trời, không có kẽ hở,
lớn có nhỏ có, nhưng không vị nào nhỏ hơn núi chúa Tu Di cả. Họ sẽ
đến trong hình tướng hết sức phẫn nộ. Vị thì nghiến răng, vị thì bặm môi,
mắt họ sáng như thủy tinh dưới ánh mặt trời, tóc thắt gút dựng đứng lên,
bụng to, cổ nhỏ, họ đều cầm bản ghi chép tội trạng và đồng thời hét lên:
“Đánh nó!”, “Giết nó!” Họ sẽ liếm đầu ngươi, óc ngươi sẽ văng ra, họ sẽ
bức đầu ngươi, xé xác ngươi ra, rút tim và các cơ tạng trong thân thể
ngươi ra từng phần một.
Bọn chúng đến như thế, số kia đến vô lượng, khắp giáp cả vũ trụ, đồng
thời xuất hiện!
Nầy Trung Hữu! Khi những hình ảnhkia xuất hiện, ngươi chớ nên
quá kinh sợ! Chớ nên khiếp đảm. Nhà ngươi bây giờ không có thân
thể bằng vật chất, thân mà ngươi đang có chỉ là thân tâm linh (giống
như thân trong mộng); cho nên, nếu thân nầy bị hủy diệt, hoặc xé ra
thành từng mảnh, nó vẫn không chết! Thân ngươi hiện nay chính là
hiện tướng của Tánh không (sunyata) nên không gì có thể làm tổn
thương nó được. Chính ngay bản thân của các vị Diêm Ma Vương,
các vị Thiện và Hung thần kia cũng chỉ là những tưởng tướng của
ngươi, chúng vốn không có một tự tánh chân thật. Chúng chỉ
là huyễn hóa. Huyễn nhơn không thể hại được huyễn nhơn! Lửa dữ
trong mộng không thể đốt cháy thân thể đang ngủ. Tánh không không
thể làm tổn thương Tánh không được! Hãy nhận ra điều nầy thì tất cả
mọi sự sợ hãi, kinh hoàng tự nó sẽ tiêu tan. Chớ có nghi ngờ! Hãy
hiệp nhứt với chơn tâm thì ngươi sẽ lập tức thành Phật! Hãy vận dụng
hết nỗ lực và tin tưởng rằng:
Những hình ảnh kia thật ra chính là vị Bổn Tôn \ Thần hộ mệnh của
ta!
Chư vị đến để hướng dẫn ta vượt ra khỏi tình trạng của Thân Trung
Ấm sau khi chết! Ta nay quy y chư vị!
Hãy nhớ tưởng đến Tam Bảo! Hãy nhớ đến vị bổn Tôn\ Thần hộ mệnh
của mình! Hãy kêu gọi tên Ngài! Cầu nguyện lên Ngài.
94
Con nay lang thang trong Thân Trung Ấm
Ôi Bổn Tôn! Xin Ngài hãy nhớ nghĩ đến con,
Thùy từ gia hộ và cứu vớt con!
Gia hộ cho con khiến con được giải thoát!
Hãy cầu nguyện lên Đạo sư của ngươi:
Con nay lang thang trong Thân Trung Ấm
Ôi! Đạo sư! Xin Ngài hãy nhớ nghĩ đến con.
Vì lòng từ bi xin Ngài thùy từ gia hộ!
Đừng để con bị trôi lăn nơi vòng sanh tử luân hồi!”
Hãy tin tưởng vào Ngũ Đại Trượng Phu (Heruka) của Ngũ bộ và chư
Thần linh quyến thuộc của quí Ngài, và cầu nguyện lên chư vị:
Con cùng tất cả chúng sanh trong Pháp giới
Từ vô thỉ trôi lăn theo vòng sanh tử
Cũng vì tham, sân si, mạn và tà kiến
Không phân lành dữ, tạo ra vô lượng tội
Để nay, theo ảo tưởng buộc ràng
Chịu lắm nỗi lo âu, khiếp sợ, kinh hoàng
Con nay vì hết thảy chúng sanh và tự thân mình
Đối trước chư Phật Bồ tát, Trì Minh Vương
Chư Đại trượng phu (Heruka) và chư Thần hung mãnh
Xin hết lòng sám hối, những tội đã làm nguyện trừ diệt
Ác nghiệp đời sau không dám tái phạm

Nguyện chư Phật Bồ tát, Trì Minh Vương


Chư Đại trượng phu và chư Thần hung mãnh
Hướng dẫn con cùng tất cả chúng sanh
Thoát khỏi mọi hiểm nguy của Thân Trung Ấm
Chúng con y pháp tu hành chóng thành Phật đạo
Hiện nay con lang thang cô độc một mình
Bỏ lại thân bằng, quyến thuộc và những người thân yêu
Con nay biết tất cả ảo tướng trên bản chất đều là Không
Cầu xin chư Phật vì lòng Đại bi
Cứu con khỏi lo âu, khiếp sợ, kinh hoàng
Khiến con thoát khỏi hiểm nguy của Thân Trung Ấm
Khi Ngũ trí quang bừng lên thì đồng lúc ấy
Con nhận ra chúng, đạt được sự vô úy, và can đảm
Khi chư Phật, Bồ tát, Trì Minh Vương
Chư Đại trượng phu, và chư Thần hung mãnh xuất hiện
Tâm con bất động, và nhận ra Thân Trung Ấm

95
Hiện nay con chịu khổ đau là do ác nghiệp chiêu cảm
Nguyện chư Phật Bồ tát, Trì Minh Vương
Chư Đại trượng phu và chư Thần hung mãnh
Giúp con hàng phục và xóa tan mọi khổ đau!
Như trăm ngàn tiếng sấm nổ, khi thực tại bị phát hiện
Nguyện âm thanh kia (*) biến thành Lục Đại thần chú
OM MANI PADME HUM!
Nguyện mong đức Đại Bi Thế tôn
Cứu con vượt khỏi trăm ngàn khổ đau
Nguyện mong Quang minh Tam muội chiếu rọi
Khiến Ngũ đại khởi lên không nghịch lại với con
Nguyện con cùng tất cả chúng sanh
Đồng thời diện kiến chư Tịnh độ của Ngũ bộ Như Lai
(đọc 3 đến 7 lần)
Như vậy, Trung Hữu phải chí thành sám hối và cầu nguyện lên chư vị.
Điều nầy cực kỳ quan trọng, vì nhờ nó mà sự lo âu, sợ hãi, và kinh hoàng
sẽ tiêu tan và Trung Hữu sẽ đạt được cảnh giới của Báo thân. Chớ có
chần chờ!
Căn cứ vào truyền thống Mật tông của Ấn Độ và Tây Tạng thì ngay khi
nhận ra sắc tướng của sự đầu thai, Thân Trung Ấm sẽ thấy sự xuất hiện
của các vị Hiền thần cũng như các vị Hung thần. Lúc bấy giờ, nếu có thể
nhận ra những vị thần nầy, và không rời các vị thì Trung Hữu sẽ đạt
được sự giác ngộ. Tất cả hoàn toàn tùy thuộc vào sự quán chiếu, và việc
thực hành theo Chánh pháp của chính chúng ta thuở sanh thời.
(*) Những âm thanh mà Trung Hữu nghe từ 58 vị Hung thần thường là
“HUNG! PHẠT!” chúng rền vang như tiếng sấm nổ.
Nếu lúc sanh thời có tu tập và kinh nghiệm về các vị Hung thần, Trì
Minh Vương v.v… chẳng hạn như chư Thế tôn Uế Tích Kim Cang
(Ucchusma), Chấp Kim Cang (Vajradhara), Kim Cang Thủ (Vajrapani),
Kim Cang Tạng (Vajragarbha), Bất Động Tôn (Acala), Hàng Tam
Thế (Trilokyavijaya), Đại Luân (Mahacakra), Cakrasambhava,
Guhysamaya, Kalacakra, Hevajra, Mahakala, v.v… thì lúc nầy Trung
Hữu quyết định nhận ra được những âm thanh nầy và vị Bổn Tôn của
mình, Trung Hữu sẽ không còn sợ hãi trước quí Ngài. Trung Hữu sẽ
nhận ra bản chất (huyễn hóa, không có tự tánh) của các bậc Thần linh và
thành tựu sự giải thoát.
Nếu không có những kinh nghiệm như trên về các đấng Thần linh mang
hình tướng phẫn nộ thì Trung Hữu cần phải lắng nghe giáo lý bí mật về
Thân Trung Ấm, rồi đem hết năng lực ra quán chiếu các bậc Thần linh
96
như sách dạy, nhờ vậy mà Trung Hữu có thể nhận ra quí Ngài dễ dàng
hơn.
Nếu nhận ra được quí Ngài chính là đức Bổn Tôn/ Thần hộ mệnh của
mình thì hãy thành tâm quy y, sám hối, phát nguyện và hãy khởi Đại bi
tâm đến chư chúng sanh, như vậy Trung Hữu quyết định sẽ được vãng
sanh về thế giới Diệu Hỷ và sẽ thành Phật ở cõi đó.
Tùy theo sự liên hệ giữa Trung Hữu và chư Thần linh trong khi sanh thời
mà Trung Hữu có thể đạt được sự giải thoát trong khi thọ Thân Trung
Ấm.Nếu chưa đạt được sự giải thoát này thì Trung Hữu sẽ phải phiêu lưu
sang giai đoạn Sanh Hữu.
Như chúng ta đã biết vòng sanh tử luân hồi được tạo ra bởi Ngũ ấm, mỗi
Ấm có một đặc tánh riêng.
Đặc tánh của Ấm thứ nhứt, tức Sắc ấm là tan hoại và đổ bể. Tham dục
chính là đặc tánh của Ấm thứ hai tức Thọ ấm. Sự hiểu biết liên tục từ sát
na đến sát na khác khiến cho tâm phải rõi theo với khách trần chính là
đặc tánh của Ấm thứ ba tức Tưởng ấm. Sự chú ý và phân biện các khách
trần khi hành động chính là đặc tánh của Ấm thứ tư tức Hành ấm. Tri
giác và khả năng sáng tạo của khách trần chính là đặc tánh của Ấm thứ
năm tức Thức ấm.
Chính năm (5) Ấm nầy dưới sự chỉ đạo của tham dục đã tạo ra vô vàn
hành động trong ba cõi. Kết quả của những hành động nầy là chúng sanh
phải chịu trăm khổ ngàn đau nơi chốn sanh tử luân hồi không biết đến
bao giờ mới ra khỏi! Đây là đứng trên phương diện động, phương diện
bất tịnh mà nói. Nhưng khi một chúng sanh thanh tịnh hóa tri giác\ kiến
giải thì Ngũ Uẩn biến thành Ngũ Như Lai, mỗi Uẩn tượng trưng bằng
một đức Như Lai. Đến đây là hết phần của bậc Trung Trung Căn!
Nếu sau 14 ngày mà vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu sẽ
phải đương đầu với cái “chết” [cứ bảy (7) ngày thì bị chết một lần, nó
rất vi tế, nhưng dễ nhận ra đó là Thân Trung Ấm bị rơi vào tình trạng
“vô thức”]
Sau đó không lâu, Thần thức sẽ phải thọ lấy Thân Trung Ấm đi tìm thân
sau để đầu thai trong vòng sanh tử luân hồi (Sanh Hữu)! Việc nầy mau
hay chậm là tùy nghiệp của mỗi một chúng sanh, không có gì là nhứt
định cả.
Chú giải sơ lược Mạn Đà La phía trên:
Ngay tại giữa trung tâm Mạn đà la là vị Quảng đại trượng phu (Maha
Heruka) và Maha Krodhisvari.
Phía dưới là đức Phật Đại Trượng Phu (Buddha Heruka) và Buddha
Krodhisvari.

97
Phía bên trái ở dưới cùng là đức Kim Cang Đại trượng phu (Vajra
Heruka) và Vajra Krodhisvari.
Bên trái phía trên cùng là đức Bảo Đại trượng phu (Ratna Heruka) và
Ratna Krodhisvari.
Phía trên cùng bên phải là đức Liên Hoa Đại trượng phu (Padma Heruka)
và Padma Krodhisvari.
Bên phải phía dưới cùng là đức Yết Ma Đại trượng phu (Karma Heruka)
và Karma Krodhisvari.
Bốn vị Gauris đầu tiên xuất hiện ở bên trái đức Maha Heruka, bốn vị sau
cùng xuất hiện ở bên phải.
Ở trên bốn vị Gauris bên phía trái của đức Maha Heruka và dưới đức
Ratna Heruka là bốn vị Tỳ xá gia nữ (Pisacis) đầu tiên.
Ở trên bốn vị Gauris bên phía phải của đức Maha Heruka và dưới đức
Padma Heruka là bốn vị Tỳ xá gia nữ (Pisacis) sau cùng.
Bốn vị Nội thủ môn thần nữ ở bốn hướng, thân thể trong vòng hào
quang: Ankusa bên trái phía dưới, Pasa bên trái phía trên, Srankhala bên
phải phía trên, và Ghanta bên phải phía dưới cùng.
Sáu vị Du già nữ của Phương Đông được trình bày trong nửa vòng tròn,
dưới đức Vajra Heruka.
Sáu vị Du già nữ của Phương Nam được trình bày trong nửa vòng tròn,
dưới đức Ratna Heruka.
Sáu vị Du già nữ của Phương Tây được trình bày trong nửa vòng tròn,
dưới đức Padma Heruka.
Sáu vị Du già nữ của Phương Bắc được trình bày trong nửa vòng tròn,
dưới đức Karma Heruka.
Bốn vị ngoại Thủ môn Thần nữ được trình bày nơi bốn gốc bên cạnh bốn
vị Nội thủ môn Thần nữ.
(Hình ảnh chư Thế Tôn trên đây có thể tìm thấy ở rất nhiều sách vở viết
bằng các thứ tiếng Anh Cát Lợi, Pháp, Tây Ban Nha, Ý Đại Lợi, cũng
như các thư viện trên thế giới, và nhứt là nhờ sự lưu vong của chư Lạt
Ma, A xà lê người Tây Tạng nên Phật giáo Tây Tạng có cơ hội bành
trướng nơi các xứ Âu Mỹ, chúng ta có thể diện kiến chư Thế tôn một
cách dễ dàng. Nhưng tiếc thay! Ít ai chịu khó tu tập theo chư Tôn! Để rồi
khi cái chết nó đến thì kinh hoàng, hoảng sợ. Thật là đảo điên vô cùng!)
Thân Trung Ấm
ĐI TÌM THÂN SAU ĐỂ ĐẦU THAI
TRONG VÒNG SANH TỬ LUÂN HỒI
(Sanh Hữu)

98
Sau khi “sống” lại, trong khoảng thời gian lưu lạc trong tình trạng Sanh
hữu, Thần thức của vong nhân sẽ sở đắc được nhiều khả năng siêu phàm,
nhưng không có nghĩa là Sanh hữu đã được nhập vào Thánh vị. Những
khả năng đó có được không phải là do Sanh hữu đắc được Định hay nhập
vào Tam muội mà chính là do nghiệp quá khứ tạo nên, chẳng hạn như
Sanh hữu có thể đi từ địa cầu đến cõi Cực Lạc hoặc cõi Diệu Hỷ hoặc
mười phương Tịnh độ chỉ trong khoảnh khắc, hoặc có thể tự tại xuyên
qua tất cả mọi vật. Không có gì có thể cản trở Sanh hữu được, trừ tháp
thờ Phật và tử cung. Đó chỉ là nói sơ qua thôi, có thể nói cho dễ hiểu hơn
là Thần thức lúc bấy giờ sở hữu những quyền năng như một vị trời,
nhưng khả năng và giới hạn thì rộng lớn hơn nhiều. Nó có đầy đủ tứ thần
thông: Thiên nhãn, Thiên nhĩ, tha tâm thông, thần túc thông, nhưng
không có túc mạng thông.
Sanh hữu có hai (2) thứ hình: Một là dung sắc xinh đẹp, hai là dung mạo
xấu xí. Sanh hữu của hữu tình hoặc có hai tay hai chân, hoặc bốn chân,
hoặc nhiều chân, hoặc không chân, tùy theo nghiệp ngày trước đáng phải
thác sanh chỗ nào thì cảm Sanh hữu như thân hình ấy.
Ghi chú: Trong thời gian nầy, Trí Quang sẽ không xuất hiện
nữa, nhưng ánh sáng của Lục Đạo lại một lần nữa tiếp tục chiếu soi
để dẫn dắt Sanh hữu đi đầu thai.
Lúc bấy giờ, Sanh hữu sẽ trải qua bốn (4) thứ kinh nghiệm mà trong lúc
bình sanh mình chưa từng biết đến.
1. Sanh hữu sẽ bị lôi cuốn vào giữa một trận mưa bão hãi hùng.
2. Sanh hữu sẽ bị một luồng gió mạnh khủng khiếp thổi vào thân.
3. Sanh hữu sẽ bị rơi vào một chỗ mù mịt tối tăm như đêm ba mươi
không trăng, không sao.
4. Sanh hữu sẽ nghe những tiếng động kinh hồn bạt vía như trăm ngàn
tiếng sấm sét nổ.
Hàng cụ phược phàm phu, ngu si, chấp càn, chấp bậy cho là do
Phạm Thiên làm, hoặc Thượng Đế làm, hoặc đấng Tạo Hóa
làm. Thật ra, bốn (4) kinh nghiệm kia cũng chính là những hiện
tượng do tự tâm huyễn hiện, nó khởi lên là do các vọng nghiệp mà
thuở sanh thời vong nhân đã tạo tác ra, chớ không có đấng nào làm ra
cả.
1. Kinh nghiệm về mưa bão phản ảnh lại lòng tham dục của vong nhân.
2. Kinh nghiệm về gió ác phản ảnh lại lòng sân hận của vong nhân.
3. Kinh nghiệm về sự tối tăm phản ảnh lại sự vô minh, của vong nhân.

99
4. Kinh nghiệm về các tiếng động kinh hồn bạt vía phản ảnh lại tâm điên
đảo mê loạn của vong nhân trong thời gian thọ Thân Trung Ấm đương
lúc chết (Tử Hữu) và Thân Trung Ấm sau khi chết (Trung Hữu).
Vì kinh hoàng, hoảng sợ trước những hiện tượng nầy, khiến cho Sanh
hữu bị trở ngại trong việc đầu thai nơi các cõi thanh tịnh hoặc những cõi
lành. Chính điều nầy sẽ khiến cho Sanh hữu mất đi cái cơ hội thành tựu
sự giác ngộ.
Lại nữa, ở giai đoạn nầy thì Sanh hữu sẽ trải qua ba (3) kinh nghiệm lớn,
mỗi kinh nghiệm lớn được chia làm ba (3) nữa, hợp lại có chín (9) kinh
nghiệm cả thảy. Tùy theo bản nghiệp mà Sanh hữu sẽ chiêu cảm một
trong ba thứ kinh nghiệm lớn kia.
1. Nếu làm những nghiệp lành thì Sanh hữu sẽ kinh nghiệm tự thân
hiện ra nơi cảnh giới vui đẹp của chư Thiên, hoặc ngồi trên một tòa rất
cao trong một cung điện nguy nga.
2. Nếu không tạo những nghiệp lành lớn, cũng không làm những
nghiệp dữ nhiều thì Sanh hữu sẽ kinh nghiệm tự thân hiện ra trong một
căn nhà lợp bằng tranh, hoặc nhà lợp lá, hoặc trong những bó lúa.
3. Nếu tạo nghiệp ác dữ nhiều, thiện nghiệp kém ít thì Sanh hữu sẽ
kinh nghiệm tự thân hiện ra trong những cây cỏ to lớn hoặc chui vào
những lỗ nhỏ nơi tường vách, hoặc chạy vào khu rừng già.
Tùy theo hành nghiệp lành dữ của mỗi một hữu tình mà Sanh hữu chịu
một trong bốn thứ sanh nơi Ba cõi, Sáu đường nơi chốn sanh tử luân hồi.
1. Thai sanh: Thường là người, lục súc và các dã thú.
2. Noãn (trứng sanh): Hầu hết các thú vật như chim muông, ruồi muỗi,
3. Thấp sanh: (sanh từ nơi ẩm thấp và hơi ấm): Các sinh vật hạ đẳng,
4. Hóa sanh: chư Thiên, quỷ thần và chúng sanh cõi địa ngục.
Hoa Nghiêm Nguyên Nhân Luận, do Hòa thượng Thích Khánh Anh
dịch, Phật Học Viện Quốc tế tái bản năm 1986, nơi trang 192-194, có
đoạn:
Giữa hai loài Thai sanh và Noãn sanh thì Sanh hữu (chánh văn đề Trung
Hữu Thân, Trung Hữu đã qua sau ngày thứ 14, đây là giai đoạn tìm sự
tái sanh nên Mạt nhân không đồng ý với luận chủ, từ đây về sau dùng
Sanh hữu chớ không dùng Trung Hữu Thân, nhưng xét trên tổng quát thì
thấy vẫn không có gì trái với ý của tôn kinh Đại Bảo Tích)do nghiệp lực
của nó, dù ở cách xa, hễ thấy chúng sanh có duyên làm Cha Mẹ đương
giao hội (dâm hành), ánh sáng của lửa dục nháng nháng lên, thì nó tới
liền, còn mau hơn sức điện. Bấy giờ, đối với Mẹ, nếu Sanh hữu là trai,
thì nó nổi cái lòng ái nhiều hơn để thương yêu; mà dấy sân tâm căm hờn
đối với Cha, vì nó muốn thấy chỉ mình nó được trọn hưởng hạnh phúc ái
100
tình ấy chứ không muốn thấy có một giống đực khác chia cướp đi! Còn
như phản lại với nghĩa trên bằng cách: Ghét Mẹ, thương Cha là, nếu
Sanh hữu là gái thì nó dấy lòng điên đảo cũng như thế. Vì bởi cố lấy điều
vui sướng đó mà phải si mê! Vì si mê nên Sanh hữu mới thụ sanh bằng
cách thô tục trọng trược! Nên nói “đến cảnh Dục bằng cái tâm điên
đảo”.
Rằng: “Thấp, Hóa nhiễm chỗ hương” nghĩa là Sanh hữu của loài Thấp
Sanh nó đi thụ thai bằng cách đắm mùi hương: Nếu khi mà nó gặp đủ
duyên để thụ sanh thì chẳng luận xa hay gần nó đều nghe được cái mùi
hương khí của Cha Mẹ dâm dục, nó dấy cái lòng tham nhiễm thì liền đã
thụ sanh rồi nhưng tùy theo nơi bổn nghiệp hơn hay kém mà hương khí
phân ra có tốt có xấu, nên nói là “đắm nhiễm mùi hương”. Còn như
Sanh hữu của loài Hóa Sanh thì đối với chỗ đắm nhiễm để thụ sanh ấy,
nếu gặp đủ duyên chịu sanh, cũng bất luận xa gần, hễ thấy được chỗ sẽ
đến đầu thai, là liền nức lòng ái nhiễm, nó chịu sanh rồi, nhưng tùy ở bổn
nghiệp thiện hay ác mà phải chịu chỗ sanh tịnh hay uế.
Vâng chịu khí chất, khí thì liền đủ Tứ đại dần dần thành ra các căn; Tâm
[Thần thức\ A lại da thức\ Tàng thức] thì sẵn đủ bốn Uẩn, lần hồi chuyển
thành các Thức [bảy (7) thức trước]. Đầy đủ 10 tháng đẻ ra gọi là người;
chính thật là thân tâm của chúng ta ngày nay đây.
Cho nên, Mạt nhân nói rằng sự đau khổ hay an vui của chúng hữu tình
khi sanh ra hoàn toàn tùy thuộc vào nghiệp lành dữ của nó chiêu cảm. Ví
dụ, tuy đồng thọ sanh làm người, nhưng ít khi có hai người hoàn toàn
giống nhau, sự thọ hưởng ngũ dục cũng vậy; chư Thiên cũng có cao thấp
chớ không phải sanh về Trời thì ai cũng như ai, các đường khác trong
vòng sanh tử luân hồi cũng như vậy. Trời đất có thể thay đổi, nhựt-
nguyệt có thể ngưng chuyển động, ánh sáng của nó có thể tắt mất, chân
lý của đám đông có thể thay đổi, biển cả có thể biến thành núi non, núi
non có thể thành đồng bằng, nhưng luật nhân quả báo ứng không bao
giờ thay đổi, không bao giờ sai chạy cả, gieo nhân nào ắt sẽ hưởng
quả đó.
Khi thời gian đi đầu thai đã đến thì Sanh hữu sẽ trải qua một kinh
nghiệm thích thú đó là sự quyến rũ rất hấp dẫn của luồng ánh sáng
mà nghiệp lực của nó bám víu vào.
1. Nếu sanh vào cõi Trời thì Sanh hữu sẽ đi theo ánh sáng màu trắng
đục, và có cảm giác rằng mình đang đi vào Thiên cung rộng lớn trang
nghiêm cực kỳ nguy nga, tráng lệ. Sanh hữu cõi Trời Dục giới có màu
hoàng kim, cõi trời Sắc giới có màu sắc trắng láng. Trời Vô sắc không có

101
Thân Trung Ấm vì không có sắc thân bằng vật chất vậy. Sanh hữu đi đầu
thai ở các từng trời thì đầu hướng lên trên.
2. Nếu sanh vào cõi A tu la (Quỷ thần) thì Sanh hữu sẽ đi theo ánh
sáng màu đỏ, và có cảm giác rằng mình đang đi vào một khu vườn đẹp
đẽ hoặc vào một nơi rất đẹp đẽ, cái đẹp siêu phàm. Sanh hữu của A tu la
màu đỏ, khi đi đầu thai cũng giống như chư Thiên cõi Dục.
3. Nếu sanh vào cõi Người thì Sanh hữu sẽ đi theo ánh sáng màu xanh
dương. Sanh hữu cõi người có màu hoàng kim,. Sanh hữu đi đầu thai ở
cõi Người thì đi ngang.
Sanh trong loài Người có thể xảy ra ở một trong bốn Châu (xem Lý
Thuyết tối cao về Vũ Trụ, Nguyễn Pram). Châu mà chúng ta đang ở gọi
là Nam thiệm bộ châu (toàn trái đất, chớ không phải một trong năm
châu: Á, Âu, Mỹ, Phi, và Úc). Mỗi Châu có cảnh giới riêng của nó, do
cộng nghiệp, và biệt nghiệp của chúng sanh cõi đó tạo nên, chớ không
phải do Thượng Đế, hoặc đấng Tạo Hóa nào làm ra cả.
a. Đông thắng thần châu: Nếu sanh vào cõi nầy thì Sanh hữu sẽ thấy
những trang nam tử và những thiếu nữ tuyệt đẹp đứng vây quanh một cái
hồ. Người sanh vào cõi nầy đều được giàu có, sống lâu, nhưng đối với
người đã tu tập theo đạo Vô thượng Bồ đề thì chớ nên cầu mong sanh
vào chốn nầy vì nó có một (1) điều chướng đạo rất lớn đó làkhông có
Phật pháp! Do đó không có cơ hội giác ngộ.
b. Tây ngưu hóa châu Nếu sanh vào cõi nầy thì Sanh hữu sẽ thấy những
bầy ngựa đực có, cái có đứng vây quanh một cái hồ. Người sanh vào cõi
nầy cũng đều được giàu có, nhưng đối với người đã tu tập theo đạo Vô
thượng Bồ đề thì chớ nên cầu mong sanh vào chốn nầy vì nó có một (1)
điều chướng đạo rất lớn đó là không có Phật pháp! Do đó không có cơ
hội giác ngộ.
c. Bắc cu lô châu Nếu sanh vào cõi nầy thì Sanh hữu sẽ thấy những cây
đẹp và vườn bông chung quanh một cái hồ. Người sanh vào cõi nầy cũng
đều được giàu có sống lâu nhưng đối với người đã tu tập theo đạo Vô
thượng Bồ đề thì chớ nên cầu mong sanh vào chốn nầy vì nó có một (1)
điều chướng đạo rất lớn đó là không có Phật pháp! Do đó không có cơ
hội giác ngộ.
d. Nam thiệm bộ châu: Hãy cố gắng vào thai bào để được tái sanh vào
cõi nầy vì đây là một Châu duy nhứt trong bốn (4) Châu có Phật Pháp
để tu tập.
Nếu sanh vào cõi nầy thì Sanh hữu sẽ thấy nhiều nhà cửa xinh đẹp,
và sẽ thấy Cha Mẹ tương lai của mình đang hành dâm, do lửa dục
phát sanh khiến cho giọt đỏ của Mẹ (tinh huyết) và giọt trắng của
102
Cha (tinh khí) phát ra tia sáng, Sanh hữu lập tức nhìn thấy, không
cần biết nó ở xa đến đâu đi nữa, do nghiệp lực nó vẫn có thể thấy rõ
ràng, và hiện thân gần đó để chờ cơ hội mà nhập vào tử cung. Nếu
cả Cha lẫn Mẹ đều có nhiễm tâm cùng làm dâm ái, bụng Mẹ sạch sẽ,
nguyệt kỳ điều hòa đến thời kỳ và Sanh hữu hiện tiền, như vậy thì
nhập thai Mẹ.
Nói nguyệt kỳ đến thời kỳ là nói thời kỳ nạp thai.
Hoặc có nữ nhơn trải qua ba ngày, hoặc năm ngày, nửa tháng, một tháng,
hoặc có chờ duyên trải qua lâu nguyệt kỳ mới đến. Nếu có nữ nhơn thân
không oai thế, thọ nhiều tân khổ, hình dung tiều tụy, xấu xí, ăn không
ngon, uống không được, nguyệt kỳ dầu đến nhưng mau dứt; dường như
đất khô khi rưới nước ắt dễ khô ráo. Nếu có nữ nhơn thân có oai thế
thường thọ an lạc nghi dung đoan chánh, ăn biết ngon, uống biết ngọt, có
nguyệt kỳ đến chẳng mau dứt, dường như đất nhuần khi rưới nước thì
khó khô ráo.
Thế nào là chẳng nhập thai Mẹ?
Lúc Cha xuất tinh thì Mẹ chẳng xuất, lúc Mẹ xuất thì Cha không xuất,
hoặc đều chẳng xuất, đều chẳng thọ thai.
Nếu Mẹ bất tịnh mà Cha tịnh, hoặc Cha bất tịnh mà Mẹ tịnh, hoặc cả hai
đều bất tịnh cũng đều chẳng thọ thai.
Nếu chỗ âm của Mẹ có bịnh phong, bịnh hoàng, bịnh đàm [huyết trắng,
huyết xanh, huyết đỏ, huyết vàng cứ rỉ ra mãi sau khi nguyệt kinh đã hết,
đó là do khí huyết đều hư] hoặc bị uống thuốc, hoặc sản môn như miệng
lạc đà, hoặc như mỏ quạ, hoặc trong ấy như cây nhiều rễ, như đầu cày,
như càng xe, như dây leo, như lá cây, như tua lúa mạch, hoặc bụng dưới
sâu, hoặc trên sâu, hoặc chẳng phải đồ thọ thai, hoặc máu thường xuất
[làm băng], hoặc thường chảy nước nhờn [gan nóng], hoặc mở mà chẳng
hiệp, hoặc trên dưới bốn bên rộng hẹp chẳng đồng, hoặc cao hạ lõm lồi,
hoặc bên trong có trùng ăn thúi hư, bất tịnh [giang mai, hoa liễu]… Nếu
người Mẹ có những lỗi ấy thì chẳng thọ thai.
Hoặc Cha Mẹ tôn quí mà Sanh hữu thọ nghiệp ti tiện, hoặc Sanh hữu tôn
quí mà Cha Mẹ ti tiện cũng chẳng thành thai.
Nếu Cha Mẹ và Sanh hữu đều tôn quí mà nghiệp chẳng hòa hiệp cũng
chẳng thành thai.
Nếu ở nơi cảnh trước [chúng sanh hành dâm] mà Sanh hữu không có
nam nữ hai thứ ái niệm cũng chẳng thọ thai.
Thế nào là Sanh hữu vào thai Mẹ?

103
Nếu bụng Mẹ tịnh, Sanh hữu hiện tiền thấy làm việc dục, không có
những lỗi như trên, Cha Mẹ và con có nghiệp tương cảm mới nhập vào
thai Mẹ.
Lại lúc Trung Hữu sắp nhập thai tâm liền điên đảo. Nếu là nam thì với
Mẹ sanh yêu với Cha sanh ghét. Ngược lại, nếu là nữ thì với Cha
sanh yêu với Mẹ sanh ghét. Đây là do đời quá khứ đã tạo ra các
nghiệp mà sanh vọng tưởng có tâm niệm hiểu sai lầm.
Sanh hữu ấy lúc muốn nhập thai còn có hai thứ: Một là không
phước đức, hai là có phước đức lớn.
Sanh hữu không phước đức, tâm giác quán khởi lên thấy cảnh giới liền
nghĩ rằng:
Nay tôi gặp gió lạnh mưa tối, người đông ồn ào, nhiều oai dữ đến
bức hại, do đó nên sợ hãi liền chạy vào nhà cỏ, nhà lá, hoặc ẩn trốn
nơi chân tường, hoặc chạy vào núi, chằm, rừng rậm, hang động, lại
còn phát sanh nhiều thứ thấy khác nữa. Tùy theo chỗ nghĩ thấy bèn
nhập vào thai Mẹ.
Sanh hữu có phước đức lớn, tâm giác quán khởi lên thấy cảnh giới liền
nghĩ rằng:
Nay tôi gặp gió lạnh mưa tối, người đông ồn ào, nhiều oai dữ đến
bức hại, do đó nên sợ hãi liền chạy lên lầu cao, lên gác cao, vào điện
đường, lên ghế, lên giường, lại còn phát sanh nhiều thứ thấy khác
nữa. Tùy theo chỗ nghĩ thấy bèn nhập vào thai Mẹ.
Lúc Sanh hữu niệm tưởng như vậy liền nhập thai Mẹ. Ngay khi mà
Sanh hữu khởi lên niệm yêu ghét nó lập tức nhập vào tử cung của
người Mẹ, và được sanh ra thành một chúng sanh tầm thường.
Luận Du Già chép:
Bấy giờ, lòng tham ái của Cha Mẹ nó bốc lên cực điểm, rốt sau đều bắn
ra những điểm tinh huyết rất nồng hậu, hòa lẫn nhau ở trong bào thai của
Mẹ, cái điểm hòa lẫn ấy, nó hình như sữa chín, trong đó có cái thức A lại
da nó lẫn nương theo để trụ trì mới thành thai dựng được. Bấy giờ, kêu
cái bào thai ấy tên là “yết la lam” [tức là “sữa chín” theo tiếng Việt.]
Nói cách khác, lúc tối sơ thọ sanh gọi là “yết la lam”, là tinh Cha huyết
Mẹ chớ chẳng phải vật khác. Do tinh huyết của Cha Mẹ hòa hiệp làm
chỗ sở duyên của Thần thức nương ở vào đó. Phải biết Cha Mẹ tinh
huyết bất tịnh và “thân yết la lam” cũng như vậy…
Một khi nhập vào tử cung, Sanh hữu sẽ trải qua các giai đoạn mà
kinh Phật Thuyết Nhơn Xử Thai, và Nhập Thai Tạng, trong bộ Đại
Bảo Tích, quyển thứ IV, do Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch, chùa Pháp
Hoa tại Tucson, Arizona ấn hành năm 1994, đây không tiện nói hết.
104
Ghi chú: Căn cứ vào các kinh văn của Mật tông thì giọt trắng
trụ ở đảnh đầu, còn giọt đỏ thì trụ ở bốn lóng tay phía dưới rốn, Thần
thức sẽ nhập vào sau cùng tại trái tim của thai nhi (cũng còn gọi là
giọt bất hoại).
Ở đây, đức Đại Bi Thế tôn chỉ dạy đại khái rằng có hai (2) cách để tránh
khỏi tình trạng cấu uế nầy:
* Cách thứ nhứt: Sanh hữu hãy quán chiếu rằng các nhà cửa xinh
đẹp kia và luồng sáng màu xanh dương kia chẳng qua cũng chỉ là
phóng ảnh của tự tâm huyễn hiện mà thôi, trên bản chất nó không
có một tự tánh riêng biệt nào cả.
Nếu có thể làm được như vậy thì Sanh hữu lập tức đạt được sự giải thoát.
* Cách thứ hai: Sanh hữu phải quán chiếu rằng luồng ánh sáng màu
xanh kia và cái thấy cả hai vốn là rỗng không (sunyata), không có
một thực thể nào cả; tự tánh của chúng vốn là rỗng không.
Nếu có thể làm được như vậy thì Sanh hữu lập tức sẽ nhập vào thế giới
bất nhị và trong khoảng một khảy móng tay có thể hiện chứng cảnh giới
của bậc Bất Động Địa Đại Bồ tát (Acala bhumi Mahabodhisattva).
Thần thức lang thang phiêu bạt trong tình trạng Thân Trung Ấm, nói
chung, thường được dùng một thanh sắt nóng đỏ để làm biểu tượng.
Sự uyển chuyển của thanh sắt nóng đỏ có thể so sánh với tình trạng
của sự tách rời giữa thân bằng vật chất và tâm. Một khi thanh sắt trở
nên nguội dần, thì hình tướng lỏng kia của nó biến thàn hình tướng
cứng chắc hơn, và trở thành hình thể nhứt định. Giống như vậy, do
gió nghiệp thổi mà Sanh hữu khởi lên những ý tưởng làm khuôn mẫu
tâm linh trong tương lai.
Trong thời gian giữa lúc Tử Hữu và trước khi Sanh hữu đi đầu thai
thì chỉ cần một (1) niệm khởi lên phù hợp với Chánh Pháp của Như
Lai thì chính cái niệm đó cũng đủ đảm bảo sự giác ngộ cho bản thân;
trái lại, chỉ cần một (1) niệm khởi lên đi trệch ra khỏi Chánh pháp, tức
tà kiến, thì cũng đủ khiến cho nó lôi kéo tâm chúng sanh vào chỗ đau
khổ triền miên rộng lớn như biển cả, và chúng sanh đó khó mà có cơ
hội vượt qua bể khổ kia.
Thế nên, ai là người trí phải nên khéo điều phục cái tâm của mình,
phải luôn quán sát Tánh Không (sunyata) và Diệu Hữu của bản tâm
và vạn pháp. Không ai có thể cứu chúng ta ra khỏi cảnh giới khổ đau,
phiền não, nếu chính bản thân chúng ta cứ mãi bo bo ôm ấp, nâng
niu, chìu chuộng, cái vỏ Ngã pháp được tô điểm bởi Tham, Sân, Si,
Mạn, Nghi, Tà Kiến và Đố kỵ.

105
4. Nếu sanh vào cõi Súc sanh thì Sanh hữu sẽ đi theo ánh sáng màu
xanh lá cây nhạt, và có cảm giác rằng mình đang đi vào một hang động.
Sanh hữu cõi súc sanh có màu như khói. Sanh hữu đi đầu thai thì đi
ngang.
5. Nếu sanh vào cõi Ngạ quỷ thì Sanh hữu sẽ đi theo ánh sáng màu
vàng lợt, và có cảm giác rằng mình đang đi vào một đống gỗ cháy. Sanh
hữu cõi ngạ quỷ có màu như nước. Sanh hữu đi đầu thai thì đi ngang.
6. Nếu sanh vào cõi Địa ngục thì Sanh hữu sẽ đi theo ánh sáng màu đen
như khói, và có cảm giác rằng mình đang đi vào một căn nhà màu đen
pha đỏ và sẽ nghe tiếng nhạc du dương khó mà chống lại sự quyến rũ của
nó. Sanh hữu cõi Địa ngục có màu như cây gỗ cháy trụi. Sanh hữu đi đầu
thai thì đầu trút xuống.
Tuy nhiên, ngay khi các luồng ánh sáng và những hiện tượng kia xuất
hiện, Sanh hữu hãy sử dụng năng lực phi thường của mình mà nhứt
tâm quán tưởng rằng những hình ảnh và ánh sáng kia chính là biến
tướng của đức Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát. Đây cũng là một trong
những ý nghĩa nhiệm mầu của Lục Tự Đại Minh vậy[chớ không phải
cái nghĩa ấu trĩ như “trên hoa sen có viên ngọc quí!” do những kẻ phàm
phu chuyên làm việc tầm chương, trích cú giải thích Thần chú của chư
Thế Tôn]. Nhờ vào sự chí thành khi quán tưởng, Sanh hữu sẽ nhập
làm một với quang minh Đại Bi của đức Bồ tát và lập tức sẽ được giải
thoát. Xét cho cùng, nói thiệt ra thì ngoài tâm hẳn không có pháp gì
riêng, tất cả chỉ là cảnh sở biến của tâm hoặc tự tâm huyễn hiện mà
thôi. Không có gì phải nghi ngờ cả!
Trong thời gian trụ thân Sanh hữu có bốn hạng chúng sanh nhập thai Mẹ
(Pháp Hội Phật Thuyết Nhập Thai Tạng thuộc kinh Đại Bảo Tích, trang
65 về sau):
1. Hữu tình nhập trụ xuất thai đều chánh niệm. Chỉ cho các loài hữu
tình tánh ưa trì giới, luôn tập hạnh lành, thích làm thắng sự, tạo phước,
rất giỏi giữ gìn, chất trực, chẳng buông lung, có trí tuệ lớn, lúc lâm
chung không có gì phải ăn năn liền thọ sanh. Đây là bậc Dự Lưu bảy đời,
hoặc bậc Gia Gia sáu đời đến hai đời, hoặc bậc Nhứt Lai, hoặc là bậc
Nhứt Gian Bất Hoàn Hướng. Người ấy do trước tu hạnh lành, lúc lâm
chung dầu có khổ não mà tâm chẳng tán loạn, chánh niệm mà chết, lại
còn chánh niệm nhập vào thai Mẹ biết rõ các pháp. Phàm đã do nghiệp
thọ sanh, đều từ các nhân duyên mà được sanh khởi, thường ở cùng chỗ
với Ma. Nói chung, hạng người nầy là các bậc Thanh văn phải trở lại
trần gian để tu tập trước khi thành bậc A la hán. Đây là các bậc lợi căn.

106
2. Hữu tình nhập và trụ chánh niệm, xuất thai chẳng chánh
niệm. Chỉ cho các loài hữu tình ưa trì giới, luôn tập hạnh lành, thích làm
thắng sự, tạo phước, tâm họ chất trực, chẳng phóng dật, có ít trí tuệ, lúc
lâm chung không hối tiếc. Đây là bậc Dự Lưu bảy đời, hoặc bậc Gia Gia
sáu đời đến hai đời, hoặc bậc Nhứt Lai, hoặc là bậc Nhứt Gian Bất Hoàn
Hướng. Người ấy do trước tu hạnh lành, lúc lâm chung dầu có khổ não
mà tâm chẳng tán loạn, chánh niệm mà chết, lại còn chánh niệm nhập
vào thai Mẹ biết rõ các pháp. Do nghiệp sanh ra thì đều từ các nhân
duyên mà được sanh khởi, ở bụng Mẹ và lúc ra ngoài đều chịu nhiều đau
khổ, do trung lợi căn nên nhập thai và trụ thai có chánh niệm mà lúc xuất
thai thì không. Ai là người trí lại thích nhập thai Mẹ. Nói chung, hạng
người nầy là các bậc Thanh văn phải trở lại trần gian để tu tập trước
thành bâc A la hán. Đây là các bậc Trung Lợi Căn.
3. Hữu tình nhập thai chánh niệm, trụ xuất chẳng chánh niệm. Chỉ
cho các loài hữu tình tánh ưa trì giới, luôn tập hạnh lành, thích làm thắng
sự, tạo phước, có ít trí tuệ, lúc lâm chung không hối tiếc. Đây là bậc
Dự Lưu bảy đời, hoặc bậc Gia Gia sáu đời đến hai đời, hoặc bậc Nhứt
Lai, hoặc là bậc Nhứt Gian Bất Hoàn Hướng. Người ấy do trước tu hạnh
làm, lúc lâm chung dầu có khổ não mà tâm chẳng tán loạn, chánh niệm
mà chết, lại còn chánh niệm nhập vào thai Mẹ, vì là bậc hạ lợi căn nên
lúc ở thai và lúc xuất thai không chánh niệm. Ai là người trí lại thích vào
thai Mẹ. Nói chung, hạng người nầy là các bậc Thanh văn phải trở lại
trần gian để tu tập trước khi thành bậc A la hán. Đây là các bậc hạ căn.
4. Hữu tình nhập trụ và xuất thai đều chẳng chánh niệm. Chỉ cho các
hữu tình ưa phá giới, chẳng tu thiện phẩm, thường làm việc ác tạo nghiệp
ác, tâm chẳng chất trực nhiều buông lung, không trí huệ, tham của, bỏn
xẻn, tay luôn co rút chẳng thể mở giăng để ban bố cho người, luôn hy
vọng, lòng chẳng điều thuận, kiến và hành điên đảo, lúc lâm chung hối
hận, các nghiệp bất thiện hiện ra, đương lúc chết rất khổ sở bức thiết,
làm họ tán loạn, chẳng tự nhớ biết tôi là ai từ đâu đến nay đi chỗ nào,
đây gọi là ba thời kỳ nhập thai trụ và xuất thai đều không chánh niệm.
Đây cũng là cảnh giới của hạng người cụ phược phàm phu.
Cổ nhân có nói: “Thanh văn cách Ấm còn muội” là ám chỉ loại sanh
thứ hai và thứ ba vậy, huống chi chúng ta là bọn cụ phược phàm phu, trí
tuệ mòn mỏi, phước đức tiêu hao! Chả trách sao, hâu hết chúng ta chẳng
nhớ được tiền kiếp, chẳng biết việc mình đang làm và hậu quả của nó,
cũng chẳng rõ nẻo tương lai! Ôi! Sao chúng ta ngu muội đến thế? Chúng
ta chỉ biết bỏ khổ tìm khổ, chỉ là khổ sanh, chỉ là khổ diệt, các hành nối
nhau phát khởi đến vô cùng!

107
Thường nghe, cái cất tay động chân của bậc Tinh tấn tâm bậc tín tâm Bồ
tát (thuộc hàng Thập tín, cửa ban sơ của Đại thừa Tâm) còn không biết,
huống là cảnh giới của chư Bồ tát bậc Thượng địa, hoặc của các bậc
Pháp thân Bồ tát! Mạt nhân chỉ là hạng phàm phu dung tục, tội lỗi dẫy
đầy, trí tuệ lu mờ như ngọn đèn sắp tắt, phước đức kém mỏng, nên
không dám đem tâm phàm ra suy lường cảnh Thánh vi diệu, e mắc phải
tội vọng ngữ tăng thượng mạn, nên muốn chấm dứt ở đây, nhưng nghĩ
thương cho những người kém phước hơn mình, lại sống phải đời Mạt
pháp đầy dẫy tà kiến, dị luận, nên Mạt nhân bất đắc dĩ phải dùng Cưỡng
Thuyết Môn xin đem chút lửa tuệ lu mờ gần như sắp tắt của mình để mồi
đuốc tuệ bổn nguyện vĩ đại nhưng chưa bừng cháy trong tâm của quí
Ngài, khiến cho nó tỏa sáng khắp nơi. Mong quí Ngài hãy cùng Mạt
nhân gia tâm suy xét.
CHƯ BỒ TÁT THỊ HIỆN TÁI SANH
TRONG CÕI NGƯỜI
Bồ tát có hai hạng:
1. Một là, Bồ tát nhập Địa. Địa lại có hai, đó là Tương tợ vị chỉ cho 40
hạng Quyền thừa Bồ tát (từ Thập tín đến Thập hồi hướng Địa) và Chánh
vị (các bậc Pháp thân Đại Sĩ từ Hoan hỷ đến Pháp vân Địa). Chư Bồ tát
Nhứt Sanh Bổ Xứ không được liệt vào hạng nầy vì quí Ngài đã được an
lập nơi Như Lai Địa, cảnh giới vô cùng bí mật, xin miễn bàn.
2. Hai là, Bồ tát mới phát tâm, còn phải chuẩn bị tư lương và tu tập.
Trong hai hạng trên mỗi hạng lại có hai loại:
a. Loại thứ nhứt là Xuất gia.
b. Loại thứ hai là Tục gia.
Chữ Gia đây là nhà Tam Giới, chớ không phải là nhà ở của người
thường.
Bồ tát mới phát tâm nhờ vào phước lực tạo ra được trong thuở sanh thời
có thể tái sanh trong loài người. Thế mới biết loài người tuy bất tịnh,
nhưng thường được gặp chư Bồ tát. Tuy nhiên, vì mới phát tâm nên chư
Bồ tát nầy vẫn bị gió nghiệp ảnh hưởng, chưa có phương tiện thiện xảo,
chưa thể tự tại cứu độ chúng sanh.
Nếu không khéo điều phục tự tâm chư Bồ tát mới phát tâm vẫn còn bị
các ác nghiệp lôi kéo xuống Ba đường Dữ. Những bậc Bồ tát nầy do
nhân duyên vẫn có thể nhớ được một vài tiền kiếp, hoặc những xảo thuật
đã thu thập được từ nhiều kiếp trước mà nay không cần phải học mà vẫn
biết. Đặc biệt, chỉ có Phật giáo Tây Tạng gọi quí Ngài là “Tulku.”
Năm mươi hạng Bồ tát, xuất gia cũng như tại gia, phân thân rải thể ra
khắp cùng Chín Pháp giới (Địa ngục đến cảnh giới Thanh văn, Duyên
108
giác, và Bồ tát) để làm Phật sự, cứu độ chúng sanh. Hành vi của quí Ngài
rất bí mật, thần biến lớn, trí tuệ lớn, khó mà suy lường nổi, phương tiện
thiện xảo, hành vi thuận nghịch khó nghĩ bàn.
Các bậc Bồ tát nầy trụ thế tùy theo cộng nghiệp của chúng sanh mà có
lâu có mau, không phải hoàn toàn tùy thuộc theo bản nghiệp mà thọ sanh
như hạng Bồ tát trên, qua lại trong Sáu đường (Địa ngục đến chư Thiên)
như dạo chơi trong vườn nhà, nơi Tam giới không khởi niệm thủ xả,
nhìn chúng sanh với cặp mắt bình đẳng, thương xót chúng hữu tình như
con đỏ, cần khổ trong vô lượng vô biên kiếp cầu đạo cũng vì chúng sanh,
không quản nhảy vào dầu sôi, lửa bỏng để độ quần sanh, không cần
chúng sanh mang ơn, không cần chúng sanh mời mà tự đến, không để
chúng sanh đuổi mà tự đi, dọc ngang trong Pháp giới như con thần long
khi ẩn khi hiện, tự tại vô ngại, tâm luôn trụ nơi Không (sunyata), Đại từ,
Đại bi, Đại hỷ, Đại xả.
Chư vị làm tất cả mọi việc mà không thấy mình làm, không thấy có
chúng sanh thọ nhận ân điển, cũng không thấy có phương tiện độ sanh,
cả ba đều là Không (sunyata). Thân tâm rộng lớn như hư không, khắp
giáp cả Pháp giới rộng lớn. Ôi! Rộng lớn thay phương tiện của Bồ tát!
Phật giáo Tây Tạng cũng gọi quí Ngài là “Tulku.”
Cho nên, khi nghe người ta xưng tụng một vị nào là Tulku thì phải biết
đến cả hai nghĩa, thế gian và xuất thế gian, chớ có chấp càn chấp bậy.
Do ít bị nghiệp lực trói buộc nên quí Ngài có thể tự tại thị hiện để làm lợi
ích cho chúng sanh trong một giai đoạn nào đó. Trong khoảng thời gian
thọ thân Tử Hữu, Trung Hữu và Sanh hữu quí Ngài vẫn có thể cứu độ
chúng sanh và tự tại chọn thân cho đời sau.
Chư vị có thể về bất cứ Tịnh độ nào mà mình muốn, hoặc có thể chọn sự
tái sanh sau khi nhập Không Tam muội khoảng ba đến bốn ngày sau khi
chết. Ngoài ra, có rất nhiều cách khác nhau.
Nói chung, khi một vị Bồ tát chọn cách thức tái sanh vào cõi người qua
một người Mẹ thì Ngài không có khởi niệm yêu ghét như bọn cụ phược
phàm phu điên đảo như chúng ta. Sau đây là phần trình bày đại lược cách
thức quán chiếu và nhập thai của các bậc tulku theo truyền thống của Lạt
ma giáo:
1.Khi vị tulku ở vào giai đoạn Sanh hữu thì Ngài nhập làm một với đức
Bổn Tôn\ Thần hộ mệnh (yidam), lúc nầy đức Bổn Tôn xuất hiện trong
hình thức của một cặp vợ chồng.
2. Tiếp đến, Sanh hữu phải quán chiếu về chủng tử HRIH (màu đỏ) ngay
tại ngực của đức Bổn Tôn.

109
3. Kế đến, Sanh hữu quán chiếu, chư Phật Bồ tát, các bậc Trì Minh
Vương, Đại Trượng Phu v.v… phát ra các luồng hào quang vi diệu (các
luồng hào quang kia chính là bản thể của chư vị.)
4. Sanh hữu sẽ tiếp tục quán tất cả các luồng hào quang kia đều biến
thành một giọt trắng nhập vào đảnh đầu của mình rồi chạy xuống Ống
Dẫn Trung Tâm, nó chạy song song với trung tâm của thân thể, thấu
xuống tạng bí mật (Mật tông gọi là “vajra”) vào chỗ nở bí mật (Mật tông
gọi là “padma”) của vị phối ngẫu của đức Bổn Tôn.
5. Sau đó, Sanh hữu tách mình ra khỏi đức bổn Tôn và vị phối ngẫu kia.
THÂN BÍ MẬT (Mahavairocana)
6. Nếu muốn lợi ích chúng sanh bằng thân của mình thì Sanh hữu phải
lập tức quán chủng tử AUM (OM), chính là tự tánh của Thần thức. Từ
chủng tử AUM nầy lưu xuất ra năm loại quang minh, quang minh trắng
trội hơn bốn quang minh khác, chiếu rọi đến thập phương chư Phật, Bồ
tát thâu hút chư vị nhập vào chủng tử AUM.
7. Lúc bấy giờ, nhờ thần nhãn mà Sanh hữu có thể biết được những dấu
hiệu riêng của một nữ Du già (Mật tông gọi “trí tuệ” là nữ, “phương
tiện” là nam), vị nữ Du già nầy sẽ là người Mẹ tương lai của Sanh hữu,
rồi Sanh hữu nhập thai.
8. Khi sanh hạ thì vị tulku sẽ có những dấu hiệu kiết tường đi kèm theo
và Ngài có một thân thể thủ đắc được các tướng quí của 32 tướng tốt của
một bậc Đại nhân. Hình ảnh đầu tiên của ngày là vui vẻ và an lành. Chỉ
cần thấy Ngài, hoặc gọi tên Ngài cũng có thể làm cho những người có
lòng tin chí thành được giải thoát khỏi mọi phiền não. Ngài sẽ biểu lộ sở
đắc một ít thần thông để cứu độ chúng sanh.
KHẨU BÍ MẬT (Amitabha)
9. Nếu muốn lợi ích chúng sanh bằng ngôn ngữ và giáo pháp thì Sanh
hữu phải lập tức quán chủng tử AH, chính là tự tánh của Thần thức. Từ
chủng tử AH nầy lưu xuất ra năm loại quang minh, quang minh màu đỏ
trội hơn bốn quang minh khác, chiếu rọi đến thập phương chư Phật, Bồ
tát thâu hút chư vị nhập vào chủng tử AH.
10. Lúc bấy giờ, nhờ thần nhãn mà Sanh hữu có thể biết được những dấu
hiệu riêng của một nữ Du già, vị nữ Du già nầy sẽ là người mẹ tương lai
của Sanh hữu, rồi Sanh hữu nhập thai.
11. Khi sanh hạ thì vị tulku sẽ có những dấu hiệu kiết tường đi kèm theo,
và Ngài có một giọng nói rất du dương, ai cũng thích nghe. Ngài có được
đại trí huệ có thể giảng rộng những kinh văn của Hiển giáo và Mật giáo.
Mục đích duy nhứt của sự tái sanh nầy là rộng truyền giáo pháp của đức
Như Lai, khiến cho nó cửu trụ ở đời, chúng sanh có thể nhờ đó, y pháp
110
phụng hành mà được ngộ nhập Phật tri kiến. Vị nầy không lộ ra ngoài sự
thành tựu về sự quán chiếu của Ngài, cũng không thi triển bất cứ sự thần
biến nào cả, trừ phi trước khi nhập diệt.
Ý BÍ MẬT (Vajrasattva-aksobhya)
12. Nếu muốn lợi ích chúng sanh bằng tâm lực thì Sanh hữu phải lập tức
quán chủng tử HÙM (HUNG hoặc HỒNG), chính là tự tánh của Thần
thức. Từ chủng tử HÙM nầy lưu xuất ra năm loại quang minh, quang
minh màu xanh dương trội hơn bốn quang minh khác, chiếu rọi đến thập
phương chư Phật, Bồ tát thâu hút chư vị nhập vào chủng tử HÙM.
13. Lúc bấy giờ, nhờ thần nhãn mà Sanh hữu có thể biết được những dấu
hiệu riêng của một nữ Du già, vị nữ Du già nầy sẽ là người Mẹ tương lai
của Sanh hữu, rồi Sanh hữu nhập thai.
14. Khi sanh hạ thì vị tulku sẽ có những dấu hiệu kiết tường đi kèm theo,
và Ngài có thể đem lại sự an lạc cho tất cả chúng sanh nhờ những hoạt
động của Tâm Đại từ bi của Ngài. Mặc dù Ngài có tâm Đại từ bi, nhưng
Ngài vẫn có thể hành động rất hung ác để hàng phục chúng hữu tình nếu
thấy cần. Vị nầy sẽ là một bậc Đại thành tựu (Mahasiddhi) sở đắc các
pháp thần thông, biến hóa, được tha tâm thông, túc mạng thông.
PHẨM CÁCH CỦA CHƯ PHẬT
(Ratnasambhava)
15. Nếu muốn lợi ích chúng sanh bằng những phẩm cách cáo quí của chư
Phật thì Sanh hữu phải lập tức quán chủng tử SVA (SO), chính là tự
tánh của Thần thức. Từ chủng tử SVA nầy lưu xuất ra năm loại quang
minh chiếu rọi đến thập phương chư Phật, Bồ tát thâu hút chư vị nhập
vào chủng tử SVA.
16. Lúc bấy giờ, nhờ thần nhãn mà Sanh hữu có thể biết được những dấu
hiệu riêng của một vị nữ Du già, vị nữ Du già nầy sẽ là người Mẹ tương
lai của Sanh hữu, rồi Sanh hữu nhập thai.
17. Khi sanh hạ thì vị tulka sẽ có những dấu hiệu kiết tường đi kèm theo,
và Ngài có thể đem lại sự an lạc cho tất cả chúng sanh nhờ những hoạt
động của năm học thuật (Ngũ Minh):
1. Khoa học kỹ thuật chân chính nhằm nâng đời sống vật chất của chúng
sanh lên cao hơn.
2. Y dược để cứu nguy nhân loại trước các hiểm họa diệt vong.
3. Dựa vào Chánh pháp viết lách để hướng dẫn chúng sanh chuyển tà
kiến thành chánh kiến.
4. Dùng âm nhạc để cải thiện lòng người hung ác.
5. Sử dụng phương tiện của Tiểu thừa, Đại thừa và Kim cang thừa để
hướng dẫn chúng sanh về với Phật đạo.

111
Vị nầy nếu ở tại gia hoặc xuất gia cũng sẽ có một đời sống sung túc,
trường thọ, và có rất nhiều đệ tử.
PHÁP THUẬT NHIỆM MẦU
(Amoghasidhi)
18. Nếu muốn lợi ích chúng sanh bằng những pháp thuật nhiệm mầu thì
Sanh hữu phải lập tức quán chủng tử HA, chính là tự tánh của Thần
thức. Từ chủng tử HA nầy lưu xuất ra năm loại quang minh chiếu rọi đến
thập phương chư Phật,Bồ tát thâu hút chư vị nhập vào chủng tử HA.
19. Lúc bấy giờ, nhờ thần nhãn mà Sanh hữu có thể biết được những
dấu hiệu riêng của một nữ Du già, vị nữ Du già nầy sẽ là người Mẹ
tương lai của Sanh hữu, rồi Sanh hữu nhập thai.
20. Khi sanh hạ thì vị tulku sẽ có những dấu hiệu kiết tường đi kèm theo,
và Ngài có thể đem lại sự an lạc cho tất cả chúng sanh nhờ sự quán
chiếu, và tu tập theo Mật tông, Ngài sẽ thủ đắc các pháp thuật nhiệm
mầu của các kinh văn Mật tông tuyên thuyết. Khi Ngài phát âm thì
những chủng tử của Thần chú sẽ có hiệu quả rất mạnh, nhờ vậy mà Ngài
có thể trị lành vạn bệnh, trừ tà, khiển quỷ, không gì mà chẳng thành tựu,
cất tay động chân thành mật ấn, lời nói phát ra chính là Chơn ngôn diệt
tội. Phần trên là cách thức tái sanh của bậc Pháp vân Địa. Ngài có thể thị
hiện cả năm Ứng thân như trên cùng một lúc. Vì sao? Xin thưa rằng, vì
Ngài đã đạt được Pháp thân gần viên mãn, chỉ còn một chút vô minh vi
tế.
Nhưng, ít khi nào trong thời Mạt pháp lại có một bậc Pháp thân Bồ tát ở
hàng Thượng địa hóa thân xuống cõi nầy. Để minh chứng cho điều nầy,
hãy xem khi đức Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế Chí, Địa Tạng, Hư Không
Tạng, Nhựt Nghiêm (cư sĩ Duy Ma Cật), Mạn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền
v.v… (nếu căn cứ theo kinh) khi quí Ngài đến chốn nầy thì cả Tam thiên
Đại thiên thế giới Ta Bà đều bị rúng động, cung điện của chư ma phải
nghiêng ngả, xụp đổ, nhựt nguyệt lu mờ [trước quang minh của quí
Ngài]. Chỉ xuất hiện nơi thời Chánh pháp. Đến như Long Thọ Bồ tát, Trí
Giả Đại sư, Thế Thân Bồ tát v.v… cũng chỉ nhận là mình ở vào hàng Hạ
địa Bồ tát. Đó là những bậc sanh và sống trong thời Tượng pháp mà còn
khiêm nhường như vậy. Huống chi nay là thời Mạt pháp, việc ma rất
thịnh, nếu có ai tự xưng mình là Phật nầy, Bồ tát nọ, hoặc đệ từ
người đó nói thầy tôi là Hóa thân của đức Phật nầy, Bồ tát nọ thì
phải nên hết sức cẩn thận với đám thầy trò đó. Cảnh giới sở chứng
của một bậc Đại Bồ tát đâu dễ gì một chúng sanh tầm thường có thể
biết.

112
Các bậc Bồ tát ở Hạ địa, hoặc ở hạng Quyền thừa, có thể sử dụng một
trên năm phương thức trên mà tái sanh, hoặc chọn những phương pháp
đơn giản khác để tái sanh, nhưng có chung một điểm là họ không quán
chiếu vị Bổn Tôn xuất hiện trong hình tướng “phụ mẫu.” Đại khái, Sanh
hữu quán vị Bổn Tôn biến thành quang minh, và tan biến vào Pháp giới,
Tánh không. Từ Pháp giới vắng lặng kia, đột nhiên vị Bổn Tôn sẽ xuất
hiện lần nữa bằng chủng tử của mình, chẳng hạn như chủng tử AUM là
chỉ cho đức Đại Nhật Như Lai,chủng tử CAlà chỉ cho Đại-Luân Bồ tát,
chủng tử LE là chỉ cho đức Bất động tôn, cũng chính là đức Kim cang tát
đỏa, chủng tử BHRUm là chỉ cho đức Thích Ca Mâu Ni Phật v.v…
Chủng tử nầy sẽ bắn ra nhanh, và mạnh như một mũi tên, Sanh hữu hiệp
cùng chủng tử của đức Bổn Tôn thì trong tức khắc sẽ sanh về cõi Tịnh
độ và đạt được sự giác ngộ.
Cho nên, muốn thành tựu sự tái sanh kiểu xuất thế gian thì Sanh hữu
bắt buộc phải sanh về Tịnh độ trước, thành tựu Bất Động Địa xong,
sau đó mới hóa thân trở lại Ta bà cứu độ chúng sanh. Nếu chưa về
Tịnh độ mà muốn hóa độ chúng sanh thì khác nào đem muối liệng xuống
biển, đem cục băng nhỏ liệng vào dòng sông nóng chảy xiết, chưa kịp độ
người thì đã bị tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến nhận chìm trong Ba
đường rồi!
Một điểm nữa là khi một bậc Đại Bồ tát tái sanh để cứu độ chúng sanh
thường thì Ngài chọn dòng Vua chẳng hạn như các ngài Naropa, Thiện
Vô Úy, Bồ Đề Đạt Ma v.v… hoặc trong dòng Tất Địa Thành Tựu Giả,
hoặc sanh vào trong nhà kẻ phàm phu, mặc dù không phải là kẻ cao
sang, nhưng phải là một nhà có phúc đức lớn.
Nhưng cũng có các bậc đại Bồ tát có sức Đại từ bi, có phương tiện lớn
sẵn sàng sanh vào nhà của bọn đại gian, đại ác để chuyến hóa chúng.
Ngày xưa nơi xứ Việt Nam chúng ta cũng có các vị Hoàng tử, các vị
Công chúa, các vị Công tử, Tiểu thơ của những nhà gian ác, tội lỗi tu
hành để chuyển hóa cha ông.
Cái lạ của đạo Phật là càng bị áp bức, càng bị đau khổ chừng nào thì
càng khiến cho Bồ tát và quyến thuộc của Ngài (những bậc cùng chí
hướng, mới phát tâm, được Ngài hướng dẫn, chớ không phải thứ bà
con ruột thịt tầm thường) mau xuất hiện chừng nấy. Ngày nay, ở
Việt Nam cũng không thiếu gì Bồ tát dùng tâm Đại bi và sức Phương
Tiện mà sanh vào nhà của những người Cộng sản quyền cao, chức
trọng để chuyển hóa lần lần kiến chấp tà vạy của Cha Ông, khiến
Cha Ông chúng theo về với Chánh pháp. Đây chỉ là do cộng nghiệp
cùng nhân duyên mà thôi. Khi nào thời cơ chín mùi thì sẽ có các

113
trang nam tử, các hạng nữ nhơn từ trong xứ Cộng sản đứng lên quật
lại bọn Cộng sản ngoan cố để cứu độ sanh linh đồ thán. Nói cách
khác, nếu Cộng sản diệt Phật giáo đồ chính là tự diệt con cháu mình
luôn! Không cần phải dụng binh mà tự thành là nghĩa nầy vậy.
Nhưng đây là việc về sau của thế kỷ XXI…
Cũng có khi các vị đại Bồ tát sanh trong nhà của quỷ thần để hàng phục
những quỷ thần có tâm hung ác… Phương tiện độ sanh của chư Bồ tát
thật là vô lượng vô biên, đây không thể nói hết, bút mực không thể diễn
tả nổi.
Những người tu hành theo Lạt ma giáo, nhưng chưa đạt được sự thành
tựu cao thì khi ở giai đoạn Sanh hữu sẽ thấy Cha Mẹ tương lai của mình
chính là những vị Thần hộ mệnh, rồi từ nhị vị mà phát Bồ đề tâm
(Bodhicitta), phát thệ nguyện sâu rộng để cứu độ chúng sanh, và nhận
được phép Quán Đảnh Bí Mật (Guhyabhisheka). Sau đó, Sanh hữu sẽ
quán tử cung của người Mẹ tương lai của mình thành Mạn đà la,
quán giọt trắng của Cha là mặt trời và giọt đỏ của Mẹ là mặt trăng.
(Đây là theo truyền thống của Guhysamaya chánh thống). Tùy theo
nguyện hóa độ chúng sanh của mình, Sanh hữu sẽ quán tưởng chủng tử
và từ chủng tử đó một bậc thần linh sẽ xuất hiện và Sanh hữu sẽ hiệp
cùng Ngài làm một.
Ví dụ, nếu muốn dùng lòng Đại Từ Bi để cứu độ chúng sanh thì Sanh
hữu sẽ quán chủng tử HRIH màu trắng đứng trên tòa nhựt nguyệt nói
trên. Quang minh phát ra từ chủng tử HRIH sẽ chiếu rọi thập phương
chư Phật, Bồ tát, chư Phật Bồ tát sẽ gia hộ Thân, Khẩu và Ý của Sanh
hữu.
Nếu muốn dùng Giáo pháp để cứu độ chúng sanh thì Sanh hữu phải quán
đức Thích Ca Mâu Ni.
Nếu muốn dùng Trí tuệ để cứu độ chúng sanh thì Sanh hữu phải quán
đức Mạn Thù Sư Lợi.
Nếu muốn dùng Đại bi để cứu độ chúng sanh thì Sanh hữu phải quán đức
Quán Thế Âm.
Nếu muốn dùng Đại lực để hàng phục chúng sanh thì Sanh hữu phải
quán đức Kim Cang Thủ…
Khi những vị nầy sanh ra thì sẽ không bị đau khổ như các trẻ thơ tầm
thường khác. Khi ở trong bào thai thì trẻ kia sẽ ngồi xếp bằng theo tư thế
thiền định, không cảm thấy đau đớn, hoặc chật hẹp. Người Mẹ thì rất
thoải mái, và vui vẻ, ngủ thì có hảo mộng, chẳng hạn như thấy chày kim
cang chui vào ngay ngực, hoặc thấy vỏ ốc rất lớn, hoặc một pháp luân
bằng vàng. Lại có những điềm triệu rất là kiết tường, chẳng hạn như
114
nghe âm thanh của Lục Tự Đại Minh, hoặc âm thanh của các thần chú
khác. Những đứa trẻ như vậy, khi sanh ra thường ở trong tư thế thiền
định; hoặc có khi vừa mới sanh hạ đã đọc được các câu thần chú, hoặc có
thể chào hỏi Cha Mẹ. Nếu một trong những điềm nầy không xuất hiện
là do trong thân thể của người Mẹ có chỗ bất tịnh đã làm cản trở sự
sáng suốt kia đi. “Bồ tát xuất thai còn mê” là nghĩa nầy vậy. Trong
vài trường hợp đặc biệt, Bồ tát có thể nhớ lại những kinh nghiệm
trong đời quá khứ, hoặc lập tức hiểu giáo pháp của Như Lai chỉ cần
một lần nghe qua tai, không cần phải có thầy giảng dạy, nhưng vẫn
phương tiện nói: “Ta nhận lãnh sự giáo huấn từ vị Thầy nầy, hoặc vị
Lạt ma nọ, hoặc A xà lê kia” khiến chúng sanh được giáo hóa không
phải hoang mang, hoặc phân vân nghi ngờ. Khi tu tập, nhiều vị Bồ
tát thành tựu Tất địa một cách rất dễ dàng, không cần phải dụng
công nhiều như người thường. Nếu vẫn chưa nhận ra lý như huyễn của
tự tâm thì Sanh hữu cần phải biết cách ĐÓNG CỬA TỬ CUNG!
ĐÓNG CỬA TỬ CUNG
Nói nghe thì rất dễ, nhưng thực hành lại là một việc khác. Tại sao? Xin
thưa rằng trong thời Mạt pháp nầy rất ít có người có khả năng tiếp xúc
được với Sanh hữu. Thế nên, lúc bình thường không lo tu tập kịp đến
khi nhắm mắt xuôi tay lúc đó dù có hối cũng không còn kịp! Cho dù
đó là bậc đa văn, làu thông tam tạng kinh điển, nói lý ít ai bằng, còn việc
tu tập thì cứ hẹn lần hẹn hồi. Hạng người như vậy, thời Mạt pháp rất
đông, rất nhiều! Việc “nói lý” cũng như người biết đọc thuộc lòng các
công thức luyện kim, mà chưa từng đốt lò, đến khi cần kim loại để dùng
thì chỉ biết đứng ngẩn người ra nhìn đống sắt vẫn còn trong quặng! Cũng
như người biết công thức của các loại thuốc, nhưng chưa từng pha trộn
bất cứ chất hóa học, hoặc các cây thuốc với nhau! Đến khi bệnh thì
không biết mặt thuốc để dùng! Đến khi bệnh thì không biết mặt thuốc để
dùng! Cũng như người biết đào giếng lấy nước giữa đồng hoang, nhưng
chưa từng cầm dụng cụ ra đào xới, chợt cơn khát đến, lúc đó chỉ biết
than thở, trách móc chớ không còn hơi sức đâu để làm việc. Trong đạo
Phật, ngưùi không tu cũng sẽ nhận lãnh hậu quả như trên, không có
ngoại lệ!
Thông thường, Sanh hữu bắt đầu từ ngày thứ 18 sau khi chết (có người
nhanh hơn chẳng hạn như chết bất đắc do tai nạn gây ra). Có bao nhiêu
đám tang ngày nay được người nhà hoặc nhà chùa duy trì cho đến hết 49
ngày? Giỏi lắm thì cứ mỗi tuần bà con, thân bằng quyến thuộc đến chùa
tụng cho một thời kinh A Di Đà, Dược Sư rồi mạnh ai nấy đi. Đây gọi là
“hộ niệm! Đây gọi là báo ơn cho người khuất mặt!

115
Có hai phương pháp chánh để đóng cửa tử cung:
1. Không để Thần thức của Sanh hữu nhập vào tử cung
2. Bít cửa tử cung.
Nầy Sanh hữu! Ngươi tên họ là… Pháp danh… Hiện nay ngươi đang
sở đắc những khả năng siêu phàm, nếu ngươi nghĩ gì, tưởng gì thì
lập tức hình sắc kia sẽ lập tức hiện ra trước mắt nhà ngươi, và nếu
ngươi muốn đi lập tức sẽ đến vì ngươi có thần túc nên đi rất mau
chóng.
Nầy Sanh hữu! Vào lúc nầy nếu ngươi thấy nam nữ hành dâm thì
ngươi hãy tránh xa bọn chúng! Chớ khởi hai niệm điên đảo yêu
ghét! Nếu làm được như thế thì ngươi sẽ không bị nhập vào thai chịu
lắm phiền não. Ai là người trí lại thích nhập thai Mẹ!
Nầy Sanh hữu! Hãy nhứt tâm quán chiếu về đức Bổn Tôn của
ngươi! Khi xuất hiện trước ngươi, thật ra, Ngài chỉ là huyễn tướng
của tự tâm lưu xuất, vốn không có tự thể. Hãy quên tất cả! Chỉ cần
nhứt tâm quán Tánh không (sunyata) thì nhà ngươi sẽ không đi vào
tử cung mà chịu sự sanh bất tịnh. Bằng cách quán tưởng nầy chỉ
trong khoảng duỗi cánh tay nhà ngươi sẽ được giải thoát!
Nầy Sanh hữu! Nhà ngươi không có duyên lành chọn một vị Phật,
Bồ tát, Trì Minh Vương, Đại trượng phu, v.v… làm đức Bổn Tôn thì
hãy quán tưởng và cầu nguyện đức Quán Thế Âm Bồ tát, vì Ngài là
bậc Đại Từ Bi. Khi ngươi xướng hồng danh của Ngài thì Ngài sẽ nhớ
đến bổn nguyện mà đến cứu độ ngươi!
Nầy Sanh hữu! Nếu ngươi có đi chùa ít ra ngươi cũng đã từng nghe
hồng danh đức Phật A Di Đà (Vô lượng quang) và phước đức thâu
hoạch được nhờ chí thành niệm danh hiệu Ngài. Hãy chí thành
niệm hồng danh của Ngài lập tức! Hãy nguyện sanh về cõi Ngài tức
khắc. Hãy nhứt tâm hướng về Tây phương Cực lạc (hoặc xướng các
Tịnh độ khác mà thuở sanh tiền vong nhân ưa thích) Phật A Di Đà
xưa có phát nguyện rằng:
Chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu Ta rồi chí tâm tin
muốn, nguyện sanh về cõi nước của Ta nhẫn đến mười niệm, nếu
chúng sanh ấy không được sanh, thời Ta không ở ngôi Chánh giác.
Nầy Sanh hữu! Hãy chí tâm lập theo Phổ Hiền Thập Hạnh Nguyện
Vương làm chỗ quy hướng (xem kinh Hoa Nghiêm, do Hòa thượng
Thích Trí Tịnh dịch, quyển 40, hoặc xem kinh Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Vương, do Nguyễn Pram và Nguyễn Văn Tề, Bồ tát giới tử
Phước Huệ đồng dịch).

116
Đến đây, hy vọng Sanh hữu đã được giải thoát hoặc ít nhứt cũng
được sanh về Tịnh độ. Nếu không được như vậy thì ắt Sanh hữu tội
chướng quá sâu nặng, tà kiến quá dẫy đầy cho nên không được siêu
thoát…
Samaya!
---Hết---
CHƯ KINH, LUẬN CẦN PHẢI
(ĐÃ ĐƯỢC DỊCH SANG VIỆT NGŨ)
***
KINH:
1. Kinh Viên Giác
2. Kinh Tâm Địa Quán
3. Kinh Dược Sư
4. Kinh Đại Bổn A Di Đà
5. Kinh Đại Bảo Tích (quyển VI)
6. Phổ Hiền Hạnh Nguyện Vương
7. Kinh Thủ Lăng Nghiêm
8. Kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ
LUẬN
1. Đại Thừa Khởi Tín
2. Đại Trí Độ Luận (trọn bộ 10 quyển)
3. Hoa Nghiêm Nguyên Nhân
4. Trung Luận
5. Liễu Sanh Thoát Tử
6. Mật Giáo Thậm Thâm Nội Nghĩa
SÁCH ĐƯỢC DỊCH SANG TIẾNG
ANH CÁT LỢI
1. Paths and Grounds of Guhyasamaya According to Arya Nagarjuna,
dịch giả Yangchen Gawai Lodoe.
2. Bardo Teachings: The Way of Death and Rebirth, tác giả Lama
Lodo.
3. The Tibetan Book of The Dead: Liberation Through Understanding
in the Between, dịch giả by Robert A.F. Thurman.
4. The Tibetan Book of The Dead: The Great Liberation Through
Hearing in The Bardo, dịch giả Francesca Fremantle và Chogyam
Trungpa.
5. The Tibetan Book of The Dead, dịch giả Kazi Dawa Samdup và
W.H.Y. Evans-Wentz.

117
6. Tibetan Yoga and Secret Doctrines, (7 quyển) dịch giả W.Y.
Evans-Wentz.
KINH ĐIỂN VIẾT BẰNG
CHỮ CỔ PHẠN
1. Sarvatathagata-tattva-sangraha-nama-mahayana-sutra.
2. Guhyasamaja-tantra
3. A Ninth Century Scroll of The Vajradhatu Mandala
4. Comparative Iconography of The Vajradhatu-Mandala and The
Tattva Sangraha
PHỤ LỤC
Nếu chưa nhận được pháp môn Phowa, khi ở giai đoạn Thân Trung Ấm
đương lúc chết (Tử Hữu), Thần thức có thể được hoán chuyển nhờ một
vị tu sĩ Mật tông giúp đỡ. Tốt hơn hết là vị đó phải ở bên người chết,
nhưng nếu ở xa vị tu sĩ vẫn có thể thực hành pháp môn kia giúp người
quá cố cũng không ngại.
Người nhà của vong nhân phải chắc chắn rằng người đó sẽ chết trước khi
báo cho vị tu sĩ Mật tông biết. Thời gian tốt nhứt để thực hành pháp
môn hoán chuyển hoặc Phowa là lúc người chết bên ngoài vừa tắt
thở, bên trong hơi thở cũng ngừng bặt. Việc thỉnh cầu một vị tu sĩ Mật
tông là điều rất cần thiết vì Ngài có thể ngăn cản Thần thức rời khỏi xác
thân, bởi vì một khi Thần thức ra khỏi xác thân thì phương pháp
Phowa sẽ không có hiệu quả gì cả.
PHƯƠNG PHÁP THỨ II
CỨU ĐỘ THÂN TRUNG ẤM
HƯỚNG DẪN THẦN THỨC CỦA VONG LINH
VÃNG SANH VỀ THẾ GIỚI CỰC LẠC
CỦA PHẬT VÔ LƯỢNG QUANG/A MI TA/ A DI ĐÀ
Bậc trung căn có thể đạt được sự giác ngộ nhờ vào việc hoán chuyển
Thần thức; phương pháp nầy người Tây Tạng gọi là Phowa, nó là giáo lý
rất thậm thâm. Ngay đến như những người không tu tập sâu về thiền
quán cũng có thể được giải thoát nhờ pháp môn nầy khi mà một bậc cao
Tăng sử dụng để cứu độ Thần thức của Thân Trung Ấm đương lúc chết.
Tilopa, một bậc Đại du già hành giả tiếng tăm lẫy lừng khắp Ấn Độ và
các nước lân cận đã từng tuyên bố rằng: “Phowa là pháp môn duy nhứt
có thể cứu độ Thần thức của các hành nhơn giải đãi trong bước đường tu
tập.” Ngài còn nói rằng: “Đối với người tu tập thuần thành thì cái chết
thực sự không phải là chết mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ.”
Pháp môn Phowa chỉ có thể truyền cho người đệ tử nếu bậc Đạo sư
thấy nó hội đủ những điều kiện cần thiết chẳng hạn như lễ bái
118
100,000 lạy, Trì tụng Thần chú, dâng Mạn đà la, cầu nguyện lên
đấng Đạo Sư, nhằm thanh tịnh hóa thân, khẩu và ý của người đệ tử
để nhận lãnh Đại Ấn (Mahamudra); hoặc thiền quán hai ngày mỗi
tháng nhằm lúc trăng tròn. Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm
Bồ tát là vị Bồ tát chánh khi quán tưởng. Thọ Bát Quan Trai giới
mỗi ngày và tu tập theo nghi quỹ Quán Thế Âm ngày ba thời, thực
hành theo pháp nầy hành giả sẽ không bị sanh nơi ba đường ác.
Hoặc tu tập theo kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội
Trang Nghiêm Thành Phật v.v…
Nếu nhận lãnh được lời chỉ bảo về phương pháp Phowa và tu tập
theo một cách chí thành, thì hành giả có thể đạt được sự giác ngộ mà
không cần phải có một vị Lạt Ma (Cao Tăng) chỉ dẫn.
LỜI GIỚI THIỆU
Truyền thống Drikung Kagyu là một trong những truyền thống của Phật
giáo Tây Tạng. Vị sáng lập ra truyền thống nầy là ngài Kyobpa Jigten
Sumgon, sanh vào năm 1143 và viên tịch năm 1217, Phật tử Tây Tạng
tôn sùng Ngài như một vị Phật thứ hai (sau khi đức Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni thị hiện nhập Niết bàn). Kyobpa Jegten Sumgon là đệ tử truyền
thừa của đức Phagmo Drupa. Ngài Drupa là đại đệ tử của đức Gampopa.
Truyền thống Drikung Kagyu nắm giữ những giáo lý rất quí báu của tất
cả các “thừa/ những giáo lý rất quí báu của tất cả các “thừa/ yanas” mà
đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên thuyết vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
Lại nữa, truyền thống nầy sở hữu toàn bộ sự truyền thừa về Năm/ Ngũ
Đạo Thậm Thâm của Pháp Môn Đại Ấn (Five-Profound Paths of the
Mahamudra) và Sáu Du Già của Naropa.
Truyền thống Drikung Kagyu được nổi tiếng là nhờ vào khả năng truyền
bá hoàn toàn thành công trong việc sử dụng năng lực thiền định của
Phowa để giúp đỡ những Phật tử thụ pháp thực hành pháp môn quí báu
nầy. Như thế, pháp môn Phowa được các Lạt ma trao truyền được gọi là
“Drikung Phowa Ch’en-mo” / Đại Drikung Phowa. Drikung Phowa có
sức mạnh vô song đến nỗi nó trở thành một truyền thống riêng ở Tây
Tạng. Cứ 12 năm một lần người ta cử hành lễ Đại Phowa tại Dro-ngor
Sum-dho thuộc vùng Drikung ở trung tâm Tây Tạng. Danh tiếng của
Phowa đưục tiếp nối và lan rộng cả ngàn lần mà người thụ pháp có thể
cảm nhận được những dấu hiệu của Phowa trong thời gian “sự ân điển
được ban truyền” bởi vị Lạt Ma chủ đàn của Drikung Kagyu.
Nhờ vào sự truyền thừa liên tục và ân điển của giáo lý nầy mà vị Lạt Ma
có thể chuyển hóa trực tiếp những ân điển kia đến những đệ tử thành tâm
và thanh tịnh. Những người đó có thể kinh nghiệm được những dấu hiệu

119
kiết tường rất nhanh chóng. Khi mà nhận được bất cứ dấu hiệu kiết
tường nào của Pháp môn Phowa thì hành giả được coi như là đã chuẩn bị
để bước vào thế giới của đức Phật Vô Lượng Quang (Amitabha) lúc lâm
chung. Điều nầy dạy rằng một khi hành giả gia nhập vào thế giới của
Phật Vô Lượng Quang thì sẽ không bị trở lại chốn luân hồi nữa, và có
thể thành tựu sự giác ngộ nhanh chóng.
Bởi những lý lễ nầy, nói riêng thì Drikung Phowa đang trở nên phù
hợp với thời đại hiện nay. Xã hội hiện đại của chúng ta không những
không cho phép con người thời giờ cũng như điều kiện để bước vào
con đường tu tập Phật giáo như những thế hệ trước chúng ta trong
thời quá khứ. Chúng ta rất cần một pháp môn đơn giản, phù hợp, và
trực tiếp có khả năng giúp chúng ta chuyển hóa những căng thẳng và
quay cuồng của đời sống hiện đại, nhờ đó mà chúng ta có thể cắt đứt
những bám víu vào vật chất và hiện tượng giới, và đánh thức trực giác
bản tánh Bồ đề của chúng ta.
Drikung Phowa không những đơn giản mà rất mạnh mẽ. Chúng ta cũng
có đồng cơ hội như hàng vạn người bên Tây Tạng tu tập thuần thục
pháp môn nầy, nhằm chuyển hóa kinh nghiệm khi chết để vãng sanh về
thế giới Cực Lạc của Phật A Mi Ta.
Hôm nay chúng ta rất hân hạnh được diện kiến nhị vị Đại sư quí báu
Chetsang và Chungtsang của truyền thống Drikung Kyabgon.
Đại sư Chetsang được xem như là hóa thân của đức Quán Tự Tại Bồ tát,
đại diện cho lòng từ bi, và Đại sư Chungtsang được xem như là Hóa thân
của đức Mạn Thù Sư Lợ, Saraha và Liên Hoa Sanh (Padmasambhava).
Nhị vị Đại sư là những bậc kế thừa của đức Jigten Sumgon, và đầy đủ
phương tiện thiện xảo để ban truyền Phật Pháp và giáo lý Phowa. Ngoài
nhị vị Đại sư ra, ở đây còn có rất nhiều vị Lạt ma khác có đầy đủ tư cách
để truyền dạy giáo lý Phowa.
Quyển sách Drikung Phowa nầy được dịch ra Anh ngữ từ chánh bản
tiếng Tây Tạng dưới sự dìu dắt và chỉ dẫn của Phương Trượng quí báu
Konchog Gyaltshen tại Trung tâm Thiền Định của Drikung Kagyu ở Hoa
Thịnh Đốn.
Hoa Kỳ, tháng 9, 1982
Tái bản lần thứ IV – 1986
GHI CHÚ
Pháp môn nầy đến tay tôi là do Tiến sĩ Lê Mậu Đáo, Pháp danh Nguyên
Thiện ở Miami, Florida, USA, trao tặng, tuy nhiên có hai trang (125 và
126) bị mất dùng để làm lời nguyện cầu ngắn dâng lên các đấng Đạo sư
thuộc dòng truyền thừa, nhưng rất may là lời nguyện cầu dài vẫn còn (kể
120
từ trang 19-30). Nhận thấy nó có ích cho phần đông người Việt Nam của
chúng ta nơi xứ lạ quê người, nên Mạt nhân vội quên chỗ tri kiến vụng
về mà làm việc tiên phuông, dịch ra quốc ngữ để lưu truyền pháp môn
quí báu của Phật gia. Ít dòng giới thiệu và minh chứng rằng pháp môn
nầy không phải do Mạt nhân đem tâm phàm phu ra tự lập vậy.
DUYÊN KHỞI
Hỡi tất cả những người mẹ của tất cả chúng sanh, đặc biệt là những
người thù ghét tôi, những người thường làm trở ngại tôi, và những ai tạo
nên các chướng ngại cho tôi trên bước đường tu tập Đạo giải thoát và
Chánh biến tri, nguyện cho họ đều được an lạc và hạnh phúc, rời xa
những khổ đau và tôi sẽ an lập họ nơi cảnh giới hoàn toàn và quí báu
của Phật địa.
(đọc 3 lần)
Như thế, tôi sẽ thực hành trọn vẹn ba nghiệp lành nơi thân, khẩu và ý,
cho đến khi nào tôi đạt được sự giác ngộ.
Trong khoảng thời gian còn tại thế, tôi sẽ thực hành trọn vẹn ba nghiệp
lành nơi thân, khẩu và ý cho đến khi lâm chung.
Kể từ hôm nay, nhẫn đến tận thuở vị lai, tôi sẽ thực hành trọn vẹn ba
nghiệp lành nơi thân, khẩu và ý.
QUY Y TAM BẢO NGẮN GỌN:
Kể từ ngày hôm nay nhẫn đi cho đến khi thành đạo vô thượng Bồ đề, xin
nguyện quy y Phật, Pháp, và Tăng.
Nhờ vào những hạnh nghiệp lành, nguyện tôi được thành Phật độ khắp
chúng sanh.
(Đọc 3 lần)
TU TỨ VÔ LƯỢNG TÂM:
Xin nguyện cho những bà mẹ của tất cả chúng sanh cùng khắp pháp giới,
có những niềmvui và những nguyên nhân tạo ra các niềm vui.
Xin nguyện cho mọi người đều được giải thoát khỏi mọi khổ đau, và
những nguyên nhân gây ra các sự khổ.
Xin nguyện cho họ không bao giờ tách rời khỏi hạnh phúc, những hạnh
phúc nầy không vướng phải những nỗi buồn đau. Xin nguyện cho họ
được an nghỉ trong cảnh tịch diệt, thoát khỏi mọi ràng buộc và nhàm
chán. (đọc 3 lần)
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức nầy, hồi hướng khắp hết thảy, đệ tử và chúng
sanh đồng chứng Vô thượng đạo.

121
Lại nay, con đem chỗ tu lễ bái, sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỉ, phát
nguyện, hồi hướng thiện hết thảy thí chúng sanh vĩnh dứt khổ Tam đồ
đồng đến Đại Bồ Đề pháp giới chơn như hải.
KINH CANG TÁT ĐỎA (VAJRASATTVA)
THIỀN QUÁN VÀ TRÌ TỤNG
ĐỂ ĐƯỢC THANH TỊNH
Phẩm thứ hai của
Drikung Kagyu Ngondro
***
Hành giả nên quán tưởng một bông sen trắng, trên có một mặt trăng trụ
trên đỉnh môn. Chánh giữa mặt trăng có chủng tử HÙM/HÙNG. Phạn
ngữ: ) Chữ HÙM biến thành chày Kim cang với chủng tử HÙM ở nơi
chánh giữa chày.
Từ chữ HÙM nầy lưu xuất ra quang minh, làm thanh tịnh tất cả mọi
chướng ngại của chúng hữu tình. Quang minh nầy được dâng hiến lên
chư Phật và Bồ tát. Quang minh quay trở lại và tan biến vào chủng
tử HÙM.
Chủng tử HÙM biến thành Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) Bồ tát Ma
ha tát, trên bản chất thì Ngài chính là vị Bổn sư của hành giả. Thân thể
của Ngài màu trắng và tay trái cầm chuông tay phải cầm chày kim cang,
ngồi trong tư thế bán già, với y phục bằng lụa và trang sức bằng những
thứ báu.
CẦU NGUYỆN:
Hỡi đấng Kim Cang Tát Đỏa, bậc Đại Bồ tát, bậc Đại Tâm. Ngài là Hóa
thân của chư Phật, của đức Pháp thân Phổ Hiền. Con nay cung kính đảnh
lễ Chấp Kim Cang Bồ tát Ma ha tát.
Tại ngực của ngài Kim Cang Tát Đỏa có một chày kim cang, chày ấy trụ
ở trên một vầng trăng tròn sáng. Tại giữa chày kim cang là chủng tử
HÙM bao quanh bởi 100 chủng tử khác. Quang minh phát ra từ vòng
chữ Thần chú làm thanh tịnh hoàn toàn tất cả mọi chướng ngại của tất cả
các chúng sanh, và tất cả chúng sanh đều trở thành Kim Cang Tát Đỏa.
Quang minh trở lại nhập vào chủng tử HÙM của thần chú. Từ những
chủng tử phát xuất ra dòng cam lộ chảy suốt ngón cái chân phải của ngài
Kim Cang Tát Đỏa. Dòng cam lộ chảy rót trên đảnh đầu xuyên qua các
lỗ chân lông và hai chỗ nở phía dưới của thân thể tôi khiến cho tất cả
những cấu nhiễm, bệnh tật, và chướng ngại đều được thanh tịnh. Những
chướng ngại xuất khỏi thân tôi trong hình tướng của một chất lỏng màu
khói đen. Tiếp theo đó, thân thể tôi được cam lộ làm thấm nhuần và hoàn
toàn thanh tịnh và trong suốt như thủy tinh.
122
THẦN CHÚ CỦA NGÀI KIM CANG TÁT ĐỎA
(100 chủng tử):
OM BAZRA SATTWA SAMAYA / MANU PALAYA / BAZRA
SATTWA TENOPA TISHTHA / DRIDO ME BHAWA / SUTO
KHYOME BHAWA / SUPO KHYOME BHAWA / ANU RAKTO ME
BHAWA / SARWA SIDDHIM-ME PRA-YATSHA / SARWA
KARMA SUTSA-ME TSIT-TAN SHRIYA KURU HUNG / HAHA
HAHA HO / BHAGAWAN SARWA TATHAGATA / BAZRA-MAME
MUNTSA / BAZRI BHAWA / MAHA SAMAYA SATTWA AH /
Đọc 21 lần mỗi ngày
(*xem ở chú giải sơ lược về câu Thần chú ở cuối phần nầy)
Đệ tử và tất cả chúng sanh bởi vô minh che đậy, đã vi phạm những lời
thệ nguyện. Ô! Bậc Đại sư Kim Cang Tát Đỏa, đấng Bảo Vệ, Chấp Kim
Cang Bồ tát Ma ha tát, Chúa tể của tất cả chúng sanh, xin hãy rủ lòng
thương xót mà bảo vệ cho đệ tử.
Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Tát Đỏa Bồ tát Ma ha tát rất vừa lòng với
lời cầu xin của hành giả nên Ngài nói rằng:“Bây giờ, màn vô minh của
con đã được tan biến, và con đã được thanh tịnh.”
Tiếp theo đó Ngài biến thành Quang minh và nhập vào đảnh đầu của
hành giả. Bây giờ hành giả trở thành Kim Cang Tát Đỏa. Hãy quán chiếu
về sự hợp nhứt của sự xuất hiện đó và Tánh không!
Nguyện cho tôi đạt được sự thành tựu như ngài Kim Cang Tát Đỏa, nhờ
vào phước đức của việc quán chiếu nầy tạo ra, rồi tôi sẽ cứu độ tất cả
chúng sanh không bỏ sót một ai.
[(*) (tạm dịch phỏng theo Tu Tập Mật Giáo Theo Truyền Thống
Nying-ma do Khetsun Sangpo Rinpochay soạn,phần nầy không có
chú giải trong chánh văn Phowa]
Om! Kim Cang Tát Đỏa, xin hãy nhớ lấy bổn nguyện. Hỡi đấng Kim
Cang Tát Đỏa! Xin Ngài gia hộ cho đệ tử. Khiến đệ tử được sự quyết
định. Khiến nguyện vọng của đệ tử được thỏa mãn tất cả. Xin hãy
thỏa mãn lời cầu xin của đệ tử. Xin hãy khiến cho đệ tử có Bi Tâm.
Xin hãy ban cho đệ tử tất cả sự thành tựu. Lại nữa, xin hãy khiến
cho đệ tử an trụ nơi pháp lành. Hùm ha ha ha ha hoh. Hỡi chư Phật!
Xin đừng bỏ đệ tử, hợp nhứt cùng đệ tử. Hỡi đấng nắm giữ Đại
Nguyện! Ah.
Om. Xuất hiện trong hình thức của chữ viết là Kim Cang Bất Hoại Thân
của chư Thế Tôn. Đó là biểu tượng của ý chí và may mắn của hành giả.
Vajra: Bản chất trí tuệ của Tánh không (sunyata), không thể phá hoại
bởi bất cứ nguyên nhân nào.

123
Sattva: Phương tiện, đại bi.
Vajrasattva: Đại lạc, nơi đó Tánh không và Từ bi đồng đẳng, hiệp làm
một, không thể phân chia. Trong tình trạng phiền não, nhiễm ô nó chính
là vòng sanh tử luân hồi; trong tình trạng tẩy trừ những phiền não, nhiễm
ô thì nó chính là Đạo, và trong tình trạng tách rời hẳn phiền não, nhiễm
ô, nó chính là Phật quả viên mãn. Như thế, Kim Cang Tát Đỏa chính là
sự biến hiện của những điều kiện trên và hiện thành một cá thể, kêu gọi
tên Ngài ắt sẽ được Ngài ban cho ân điển.
Samayam: Những lời thệ nguyện, chư Tôn sẽ không bao giờ bỏ lời thề
của mình.
Anupalaya: Hộ trì, nghĩa là gìn giữ bổn nguyện, nhìn ngó đến người trì
tụng.
Tvena: Hỡi đức Kim Cang Tát Đỏa.
Upatisntha: Ngự tại, đức Kim Cang Tát Đỏa được mời đến để nhập vào/
an ngự trong cùng thân thể của người trì tụng.
Drdho: Quyết định, ám chỉ sự an ngự của đức Kim Cang Tát Đỏa nơi
hành giả.
Me: Chính là hành giả. Mặc dù, Kim Cang Tát Đỏa là một phương thức
hỗ trợ của vạn hữu, nó thẩm thấu và an trụ trong mọi hình thái từ lúc bắt
đầu của ta và tha nhân, của vòng sanh tử luân hồi và Niết Bàn, nơi tịnh
và nơi động Kim Cang Tát Đỏa được yêu cầu an trụ nơi tâm hành giả để
rồi cuối cùng mình chính là Kim Cang Tát Đỏa. Kim Cang Tát Đỏa
chính là Bồ đề tâm vậy.
Bhava: Khiến cho.
Sutosnyo: Rất thỏa mãn, rất thỏa mãn.
Me: Chính là hành giả.
Bhava: Khiến cho. Hành giả khẩn cầu đức Kim Cang Tát Đỏa ban cho
mình sự thỏa mãn nhờ hưởng được niềm hoan lạc của giải thoát từ
những khái niệm tuyệt diệu và đại lạc.
Suposnyo: Tăng trưởng mạnh. Với chữ me bhava như trước, có nghĩa là
“tăng trưởng trí tuệ bất nhị của an lạc và Tánh không trong tôi.”
Anurakto: Xin hãy. Với me bhava như trước, có nghĩa là ‘khiến cho tôi
trở nên từ bi,’ trong cùng một ý nghĩa của “hãy làm cho tôi yêu thương
thông qua tâm Đại Từ Bi của tình trạng hiệp nhứt làm một, mà trong đó
sự ô nhiễm của tâm chấp trước không hiện hữu.”
Sarva: Tất cả.
Siddhim: Sự nghiệp.
Me: Chính là hành giả.

124
Prayachchha: Ban cho, thí cho “thí cho đệ tử tất cả những sự nghiệp,”
lớn hoặc nhỏ, siêu quần hoặc tầm thường.
Sarva: Tất cả.
Karmasu: Tất cả những hành động.
Cha: Vả, lại nữa.
Me: Chính là hành giả.
Chittam: Tâm
Shriyam: Phước lành.
Kuru: Khiến cho. “Khiến cho tôi an trụ nơi pháp lành.” Nên nhớ rằng tất
cả những hành động khởi ra từ tâm, nếu tâm lành thì hành động lành, ở
đây hành giả khẩn khoản yêu cầu Kim Cang Tát Đỏa giúp cho mình an
trụ nơi pháp lành. Hành giả khẩn cầu đức Kim Cang Tát Đỏa ban cho
mình sự giác ngộ cảnh giới tối bí mật của vạn pháp xuất hiện nơi Pháp
giới hoàn toàn chỉ là những ảnh hiện của tự Tâm.
Hum: Chủng tử của đức Kim Cang Tát Đỏa, biểu tượng của Ngũ Bộ,
cũng là bản chất thanh tịnh của ngũ uẩn, v.v…
Ha ha ha ha: Bản chất thanh tịnh của 4 thứ An Lạc.
Hoh: Bản chất thanh tịnh của khách thể và chủ thể, của hiện tượng giới
và tâm linh giới.
Bhagavan: Thế Tôn, sở dĩ gọi thế là vì Ngài chiến thắng được bốn Ma
(Tử ma, Ngũ ấm xí thạnh ma, Thiên ma và Phiền não ma).
Sarva: Tất cả.
Tathagata: Đấng đã vượt đến những giới hạn của Chơn Như thực tế.
Vajra: Trí tuệ bất nhị. Trong câu chú nầy nó còn có nghĩa là yêu cầu
chư Phật xót thương gia trì, hộ niệm cho hành giả.
Ma: Không phải.
Me: Chính là hành giả
Muncha: Bỏ rơi. “Đừng bỏ rơi tôi” nghĩa là, “đừng để trí tuệ trực nhận
ra Chơn Như rời bỏ tôi,” hoặc “đại bi tâm thường không rời bỏ tôi.”
Vajri: Nắm giữ kim cang. Với chữ bhava, “khiến tôi trở thành kim
cang.” Nó chứng tỏ rằng đó là cách thức xử sự “không bao giờ rời bỏ
chúng sanh” của đức Kim Cang Tát Đỏa.
Maha: Là đại, nhưng không phải cái đại so với cái tiểu, mà là cái đại
tuyệt đối, vô giới hạn, trùm khắp cả. Không phải chữ “great” của tiếng
Anh Cát Lợi. Tiếng Anh Cát Lợi nói riêng, tiếng của các nước Âu Mỹ
nói chung, vốn không có chữ nào để so sánh cùng với Maha!
Samaya: Lời thề.
Sattva: Nhân vật, anh hùng.

125
Ah: Chữ bất khả hoại, nó chính là biểu tượng căn bản của Kim Cang ngữ
nơi chư Phật. Hành giả khẩn cầu đức Kim Cang Tát Đỏa, an lập cho
mình ở trong toàn thể đại trí bình đẳng với chư Phật.
GIÁO LÝ PHOWA
(HOÁN CHUYỂN THẦN THỨC)
JAGTSUG-MA
HÀNH GIẢ CÓ THỂ ĐẠT ĐƯỢC SỰ GIÁC NGỘ MÀ KHÔNG
CẦN PHẢI TU TẬP THIỀN ĐỊNH
Dịch giả: Phương Trượng Khenpo Konchog Gyalsen Rinpoche, hoàn tất
vào tháng Giêng năm 1994.
***
Ghi chú tổng quát: Phowa (‘pho-ba) có nghĩa nôm na là “đổi chỗ.” Đây
là một trong Sáu Du Già của Naropa, giáo lý nầy đến Tây Tạng vào
khoảng thế kỷ XI do công của Đại Dịch giả Marpa. Trên nguyên tắc thì
sự tu tập Phowa liên hệ đặc biệt đến việc hành giả cố gắng hoán chuyển
Thần thức của mình đương lúc chết (hấp hối) về Tịnh độ, chẳng hạn như
cõi Cực Lạc. Sự tu tập nầy cần phải thông qua việc tụng đọc các
Thần chú và thiền quán về các chủng tử của Thần chú cũng như vị
Phật hay Bồ tát chấp trì Thần chú y như nghi quỹ (sadhana). Ở Âu
Châu cũng như Mỹ Châu pháp môn Phowa được các vị Lạt ma thuộc
truyền thống Drigung Kagyu truyền bá.
Lời Giới Thiệu Pháp Môn Phowa
Rất khó khăn mới có thể được thân người, thân người rất quí, đã được nó
rồi thì cần phải biết sử dụng nó để đạt Phật quả nhờ Văn, Tư, Tu đúng
với Chánh Pháp.
Sanh tử là việc lớn, cái chết có thể đến với chúng ta bất cứ lúc nào
chẳng cần phải thông báo trước. Bởi vì lười biếng trong việc tu tập,
hành giả có thể chết mà chẳng nhận ra nó, đời sống thật quá ngắn ngủi,
còn Tử ma rượt bắt chúng ta như ngựa phi nước đại. Khi cái chết đến
chúng ta không thể nào tránh khỏi, của cải vật chất, những người thân
yêu v.v… không có gì có thể giúp đỡ cho quí vị được, ngoại trừ giáo lý
quí báu của đức Phật. Vì thế, chúng ta cần phải chấp nhận cái chết và
tiếp tục cuộc sống mới.

Trong Chánh Pháp của đức Thích Ca Mâu Ni Phật sở dĩ có (3) Thừa
cũng vì căn cơ của chúng sanh mà giả lập ra. Đại thừa bao gồm
Nhân thừa (Hetuvana) và Quả thừa (Phalavana).

126
Nhân hoặc Hiển giáo bao gồm tất cả những sự tu tập mà chẳng cần các
nghi lễ Quán Đảnh của Mật tông. Quả hoặc Mật giáo có rất nhiều
phương tiện (upaya/means/paths) để đạt đến sự giác ngộ nhờ vào hai giai
đoạn Phát Khởi và Thành Tựu, nhưng phải hết sức kiên nhẫn tu tập một
thời gian dài trước khi hành giả có thể nhận ra Phật tánh của mình.
Trong Mật tông, Phowa là một pháp môn trực tiếp và nhanh chóng
để đạt được sự giác ngộ. Có thể nói rằng ngay cả những người có tội lỗi
nặng nề nhứt cũng có thể được giác ngộ nhờ sự tu tập pháp môn Phowa
nầy. Tổ sư Marpa, bậc Đại dịch giả, và cũng là cha đẻ ra phái kagyu
Lineage, đã từng có lời dạy rằng: “Có rất nhiều giáo lý được giảng dạy
để hành giả trở thành giác ngộ, nhưng ta có một giáo lý có thể thành
tựu sự giác ngộ mà chẳng cần phải thiền định gì cả.”
Truyền thống “Jakshukma” Phowa là một trong những phương pháp tu
tập quí báu của Phowa. Trong thế kỷ thứ VIII, vị Vua theo Đạo Phật ở
Tây Tạng là Chogyal Thri-song Deu-Tsen đã mời Đại Đạo sư Mật tông
người Ấn Độ là ngài Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) đến Tây Tạng, và
đức Vua đã xây dựng tu viện Samye. Đạo Đạo Sư Liên Hoa Sanh đã
giảng dạy rất nhiều giáo lý Mật tông cho nhà Vua và quần thần văn võ.
Trong khoảng thời gian nầy, ngài Liên Hoa Sanh cư trú tại hang động
Ch’im-phu tiếp cận vùng Samye, khi bấy giờ nhà của Đại thần Nyima có
chuyện buồn xảy ra.
Số là Đại thần Nyima có hai tòa lâu đài, và người đang sửa soạn di
chuyển từ lâu đài nầy sang lâu đài khác, trong khi gói ghém các vật tế
nhuyễn với một ngọn đèn dầu, chẳng may một tia lửa bắn ra làm cháy
tiêu tòa lâu đài trong khoảnh khắc, cùng với 13 người trong đó có cả Cha
và mẹ của Nyima. Tất cả ngựa, lừa, trâu bò và những loài thú vật khác
đều biến thành tro bụi! Đại thần Nyima nghĩ rằng có lẽ mình đã làm nên
tội lỗi nặng nề gì nên mới gây ra thảm họa để đến nỗi khiến cho Cha Mẹ
và những người khác phải chết vì mình.
Nhà vua quyết định giúp đại thần Nyima vơi đi lòng phiền muộn bằng
cách tìm đến hang động Ch’im-phu thỉnh cầu ngài Liên Hoa Sanh trợ
giúp. Đại Đạo sư Liên Hoa Sanh liền dùng thần lực đi đến cõi Cự Lạc
diện kiến đức Phật Vô Lượng Quang (Amitabha). Ngài trình bày lên đức
Phật Vô Lượng Quang về những nỗi khổ đau của Đại thần Nyima và tất
cả chúng sanh cầu mong đức Phật Vô Lượng Quang từ bi chỉ cho
phương pháp đặc biệt để giải thoát tất cả khỏi mọi khổ đau. Đức Vô
Lượng Quang Như Lai dạy giáo lý Phowa cho ngài Liên Hoa Sanh, và
căn dặn rằng giáo lý nầy chỉ được truyền cho Đại thần Nyima lúc
bấy giờ thôi. Ngài Liên Hoa Sanh thu thần lực trở về động Ch’im-phu

127
và giảng dạy giáo lý nầy cho đại thần Nyima. Sau khi thụ pháp, Đại thần
Nyima từ bỏ tất cả mọi việc trần gian và dấn thân vào việc tu tập Phowa,
và cuối cùng được thành tựu đạo quả. Nhờ vào pháp môn Phowa, tâm
thức của đại thần Nyima đạt được đến cảnh giới Tịnh độ, và khi chết
hiện ra rất nhiều dấu hiệu kiết tường như nhiều cầu vồng xuất hiện ở trên
trời, và khi hỏa thiêu thâu được nhiều xá lợi.
Quyển sách nầy bị giấu kín nơi Hồ Mạn Đà La Đen (Black Mandala
lake), nó nằm ở phía sau ngọn đồi Dhaglhagampo. Vua Rồng Tsurana-
Ratna được yêu cầu làm vị Hộ pháp gìn giữ sách và được ngài Liên Hoa
Sanh căn dặn rằng thuở vị lai khi mà đại thần Nyima tái sanh làm Nyida
Sang-gye thì hãy giao sách lại cho người.
Ngài Liên Hoa Sanh sau khi căn dặn vua Rồng liền bỏ hang Ch’im-phu
mà đến đất của chúng La Sát (Rahshas) làm Vua ở đỏ. Hơn 350 năm sau,
Đại thần Nyima tái sanh làm con trai tại gia đình của người chăn cừu.
Khi Nyida Sang-gye trưởng thành, Ngài cảm thấy rất thương xót chúng
sanh, khi thấy súc vật, người đã rơi lệ. Để làm dịu đi sự đau khổ của
Ngài, đức Phật Vô Lượng Quang đã xuất hiện và dạy cho giáo lý Phowa
vì lợi ích cho tất cả chúng sanh. Sau khi thụ pháp với Phật Vô Lượng
Quang, Ngài truyền lại cho những súc vật đã chết và thường có rất nhiều
dấu hiệu kiết tường khác nhau xuất hiện.
Vua Rồng Tsurana-Ratna tìm đến chỗ của Nyida Sang-gye và kể lại cho
Ngài nghe về quyển sách được giấu kín (Ter-ma/Hidden Text), nhờ vậy
Ngài lấy được quyển sách quí kia từ Hồ Mạn đà la Đen và đồng thời
giảng dạy giáo lý nầy cho loài Rồng. Nhờ vào giáo lý nầy rất nhiều Rồng
được sanh về những thế giới cao hơn.
Sau đó, Nyida Sang-gye dạy giáo lý nầy cho loài người, nhờ thế mà rất
nhiều người đạt được sự giải thoát.
Đây là sự truyền thừa nối tiếp pháp môn Phowa của dòng Drikung
Kagyudpa. Hành giả có lòng tin vào vị Lạt ma và giáo lý thì có thể kinh
nghiệm được dấu hiệu của Phowa khi nhận được ân điển truyền thụ
[tiếng Tây Tạng gọi là “Lung”/Blessing Transmission]. Rất nhiều người
trên thế giới đã tiếp nhận được kinh nghiệm quí báu nầy.
QUY Y VÀ PHÁT BỒ ĐỀ TÂM:
Quán Tưởng:
Trước mắt hành giả xuất hiện một bảo tòa làm bằng tám con công, trên
bảo tòa có đức Bổn Sư (người truyền pháp Phowa) an trụ dưới hình thức
của Phật Vô Lượng Quang, Ngài là bản thể của ba đời chư Phật. Đức
Phật Vô Lượng Quang mặc pháp y (choàng luôn cả hai vai) và được
trang nghiêm bởi 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp tùy hình của chư Phật. Hai
128
tay của Ngài ở trong tư thế bắt ấn Tam Muội, trên hai tay là một bình
báu đựng đầy nước cam lộ. Ngài ngồi trong tư thế Kim cang (chân phải
đặt lên chân trái, cũng gọi là tư thế Hàng Ma), quang minh từ thân Ngài
phóng ra rất rực rỡ, chư Sư thuộc dòng truyền thừa vây quanh Ngài. Hãy
nhứt tâm quy y:
Đệ tử và tất cả chúng sanh từ nay kể đi xin được quy y đức Bổn Sư, Ngài
là hiện thân của đức Phật Vô Lượng Quang, xin Ngài hãy làm Đạo Sư
cho chúng con, bảo vệ chúng con; con nguyện lấy pháp môn Phowa làm
chánh tu để đạt đến sự giác ngộ; chúng con xin nương tựa nơi các bậc
Đạo sư thuộc dòng truyền thừa trên bước đường tu tập. Xin Tôn sư rũ
lòng thương xót đến chúng con.
Phát Bồ Đề Tâm:
Đệ tử sẽ tu tập theo pháp môn Phowa để làm lợi ích cho hết thảy chúng
sanh, nguyện hết thảy chúng sanh đều được chóng thành Phật đạo.
PHOWA CHEN-MO
CỦA TRUYỀN THỐNG DRIKUNG
Quán Tưởng:
Hành giả cần phải ngồi kiểu hoa sen (kiết già) và quán rằng toàn thể
chính là Không (sunyata). Từ tự Tánh không hành giả khởi lên ý tưởng
rằng mình chính là nữ Bồ tát Vajrayogini với thân thể màu đỏ và có hai
khuôn mặt. Khuôn mặt chánh của nàng có ba mặt và nhìn xuống với vẻ
dịu dàng, tóc được búi lên trên đảnh và được trang sức bằng năm (5) đầu
lâu. Khuôn mặt thứ hai của nàng màu đen, ra vẻ hầm hầm. Vajrayogini
có hai tay, tay phải nàng cầm một cái dao có móc câu hướng lên trời, tay
trái cầm một cái ly làm bằng đầu lâu đựng đầy máu tại trước ngực. Trên
vai nàng có mang một cây Khatvanga (gậy phép). Nàng đứng trong tư
thế nhảy múa, chân trái hơi cong lại, và chân phải thẳng ra, đạp lên trên
một thây ma màu vàng. Trên cổ nàng có dây chuyền làm bằng 50 đầu
người còn tươi, dùng xương làm đồ trang sức, và mặc y phục bằng lụa đỏ
nàng ta hiện ra có thể thấy rõ ràng nhưng không bằng vật chất. Trong
thân thể của nàng có một Ống Dẫn Trung Tâm, trống rỗng và thẳng như
cây trúc, màu xanh bên ngoài và màu đỏ phía trong, và trong suốt như
thủy tinh màu; nở ra ở trên tại đỉnh môn và nở ra ở phía dưới chỗ bí mật
[dưới rún bốn lóng tay]. Tại trung tâm trái tim có một hoa sen bốn cánh
màu đỏ, tại chánh giữa bông sen là bản chất tâm linh của hành giả (cũng
có nơi gọi là giọt bất hoại) hình dáng giống như trái banh đỏ, kích thước
bằng hạt đậu. Bản chất tâm linh nầy rất nhẹ và động chuyển. Quán như
thế cho thật rõ ràng.

129
Phần nở rộng phía trên đỉnh môn của hành giả có Phật Vô Lượng Quang
(như trên đã diễn tả). Ngài ngồi trong tư thế như của ngài Từ Thị Di Lặc
Bồ tát Ma ha tát, hai ngón cái của Ngài đặt ở tại chỗ nở rộng trên đảnh
đầu của hành giả (lúc bây giờ hành giả không còn mang hình tướng
phàm phu nữa mà chính là Vajrayogini). Chư Sư thuộc dòng truyền thừa
của pháp môn Phowa bao quanh Ngài. Khi đọc tên của các vị Sư hãy
nghĩ như thế nầy:
Con cầu nguyện lên Đạo sư, xin Ngài ban ân điển cho con để con có thể
tiếp tục sự nghiệp Phowa cho đến thành công. Khi lâm mạng chung thời
con lập tức được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Phật Vô Lượng
Quang (A mi ta/ A Di Đà).
Nguyện cầu lòng từ bi của Đạo sư:
Hỡi Đạo sư của con, xin Ngài thương xót con!
Vinh diệu thay Đạo sư, Ngài là Vua của Tứ Thân
Đảnh đầu của Dagpo Kagyu, Thượng thủ của chúng sanh
Bậc Đạo sư diễn Chánh pháp, Hóa thân của lòng từ bi
Sứ giả của Như Lai, đấng vinh quang vô tỉ
Bậc Đạo sư xuất chúng; xin Ngài thương xót đến con!
Bậc Đại Drikung-Vajradhara, con cầu nguyện lên Ngài
Xin Ngài ban cho con ân điển, cùng hai sự thành tựu,
Ban cho con Đạo quả, lợi mình và lợi người.
Con cầu nguyện Đạo sư Liên Hoa Sanh của xứ Orgyen
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận.
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con.
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa,
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc,
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang,
Con cầu nguyện lên đức Nyida Sang-gye,
Đấng đã tìm thấy báu vật chôn giấu từ lâu (kinh văn),
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận,
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa,
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc,
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang,
Con cầu nguyện lên đức Nam Kha Gyalshen,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận,
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con
130
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa,
Kịp đến lúc lâm chung, đệ tử và chúng sanh
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực lạc
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang.
Con cầu nguyện lên đức Sang Ga Bhadra,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận.
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con.
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang,
Con cầu nguyện lên đức Pha-goe Drimey Lodoe,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận,
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa,
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang.
Con cầu nguyện lên Pháp Vương Sang-gye Gyaltshen,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang.
Con cầu nguyện lên đấng vô tỉ Mati’I Jjshen-chen
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa,
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang.
Con cầu nguyện lên đức Phu-tshog Namgyal,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa,
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang,

131
Con cầu nguyện lên đức Nam-jom Phun-Jshog,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa.
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên Thánh Konchog Ratna,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa.
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức Vidyadhara Dharma Kirti,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức Konchog Trin-Ley Namgyal
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức Konchog Trin-Ley Sang-po
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức TrinleyDon-drub Choe-gyal,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
132
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức Konchog Tenzin Dro-dul,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức Choe-kyi Gyaltshen,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức Jen-zin Ch’oe-kyi Nyima.
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức Vajradhara Pemai Gyaltshen,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên Thánh Dharma Dwaza,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức Gharchen Changchub Wangpo

133
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức VajraRegent Lodroe Gyalshen,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức Rinchen Jenpai Zegyen,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức Konchog Thug-jei Nyima.
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức Lhotrul Choe-wang Lodroe,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức O’gyen Nue-den Dorje
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
134
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên thánh Konchog Choe-kyab,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức Jenzin Choe-kyi Lodroe,
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Con cúi đầu đảnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
Con cầu nguyện lên đức Bổn Sư
Xin Ngài ban cho con ân điển để trực nhận
Pháp môn thâm diệu Phowa, giúp đỡ cho chúng con,
Đạt đến cảnh Cực Lạc, nhanh chóng nhờ pháp Phowa
Kịp đến khi lâm chung, đệ tử và chúng sanh,
Lập tức vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Hòa Tan Sự Quán Tưởng:
Tất cả những Đạo sư truyền thừa của pháp môn Phowa tan biến vào đức
Phật Vô Lượng Quang, đức Phật biến thành quang minh và nhập vào
thân hành giả. Lúc đó, hành giả chính là Phật Vô Lượng Quang.
Hãy đọc Thần chú sau:
Phật Vô Lượng Quang là bậc Đạo sư hướng dẫn chúng ta trên đường
giác ngộ, đấng bảo vệ chúng ta khỏi cái chết vô hạn định, đấng vệ hộ
chúng ta khỏi mối tuyệt vọng và đau khổ, hỡi đức Phật Vô Lượng
Quang, con nay cầu nguyện lên Ngài:
OM NAMO BHAGA-WATE AH-PA-RI-MITA ARYUR-JANA SUVI-
NISH-TSITTA TEZO-RAZAVA TA-THA-GATA-YA AR-
HATE SAM-YAK SAM BUDDHA-YA.
TA-YA-THA OM PUNYE MAHA-PUNYE AH-PA-RI MITA PUYE
AH-PA-RI MITA PUNYA JANA SAMBHARO-PA TSITT OM
SARVA SAM-SKARA PARI SHUDDHA DHARMA-TE GA-GA-NA
SA-MUNG-GA-TE SVABHA-WA VI-SHUDDHA MAHA NAYA
PARIWA-RE SOHA OM AH-MA-RA-NI-ZI WANTE-YE SOHA.

135
Nhờ sự tu tập nầy nguyện con chóng đạt được sự giác ngộ của đức Phật
Vô Lượng Quang, rồi con sẽ trở lại cứu độ tất cả chúng sanh không chừa
một ai.
Hồi Hướng:
Nguyện đem công đức nầy tiêu trừ tất cả những tội nghiệp và thành tựu
Chánh biến tri. Nguyện hết thảy chúng sanh đang bị sóng nghiệp làm
khổ đau nhận chìm trong sanh, lão, bệnh, tử đều được giải thoát khỏi
biển sanh tử luân hồi. Bồ đề tâm là bảo vật quí nhất của tâm. Nó chẳng
sanh, nguyện nó khởi lên; nơi nào nó khởi lên nguyện nó chẳng chìm
mất, mà càng phát mạnh hơn. Nguyện ân sư luôn luôn khỏe mạnh và
sống lâu nơi đời, nguyện giáo pháp của Ngài được truyền lan rộng ra, và
con nguyện không bao giờ rời xa Ngài.
Như Mạn Thù Sư Lợi (Manjusri) và Phổ Hiền (Samantabhara) Bồ tát Ma
ha tát giác ngộ được Phật tánh – con nguyện tu học theo nhị vị Đại Bồ tát
và san sẻ tất cả phước đức cho hết thảy chúng sanh. Nhờ ân điển của
Phật, Pháp và Tăng, nguyện sự hồi hướng của con có kết quả.
Hỡi các vị Tổ sư Dorje Chang, Tilopa, Marpa, Milarepa, Pháp vương
Gampopa, Phagmodrupa và Chiến Thắng Vương Drikungpa hiện nay xin
hãy ban cho con các giáo lý. Hỡi đấng Pháp vương, bậc Chánh biến tri,
Đại Drikungpa, nguyện cho các giáo lý của Ratna-Shri lưu truyền không
dứt.
LỜI CẦU NGUYỆN NGẮN ĐỂ SANH VỀ THẾ GIỚI CỰC LẠC
Eh-Ma-Ho! Đức Phật Vô Lượng Quang ngự tại chánh giữa, bên
phải là vị chúa tể của lòng từ bi Đức Quán Thế Âm Bồ tát Ma ha tát,
bên phải là đức Vajrapani (Kim Cang Thủ) vị chúa tể của Đại
phương tiện Thiện Xảo, cũng còn gọi là đức Đắc Đại Thế Chí Bồ tát
Ma ha tát. Chung quanh Tam Thánh là các vị Phật, Bồ tát số kia
không thể tính lường, các sự vui mầu nhiệm không thể nghĩ bàn, đó
là cảnh giới Cực Lạc vậy. Nguyện khi lâm mạng chung thời, con và
hết thảy chúng sanh lập tức vãng sanh về thế giới của Phật Vô
Lượng Quang, chẳng phải trải qua bất cứ hình thức thọ sanh nào
của chốn sanh tử luân hồi, và nguyện cho con được diện kiến Phật
Vô Lượng Quang ngay khi sanh về cõi ấy. Nguyện nhờ thần lực và
ân điển của chư Phật, Bồ tát mười phương khiến cho con đạt được ý
nguyện nầy, chẳng bị bất cứ chướng ngại nào làm ngăn trở.
Quyển sách nói về Tâm chú của đức Vajrasattva và Phowa được Đại
sư người Tây Tạng Khenpo Konchog Gyalshen vói sự trợ giúp của
Ane Tsering Ch’odron. Do sự cố gắng của chúng tôi (nhị vị nói trên)
nguyện cho yếu chỉ của pháp môn nầy trụ thế dài lâu và nguyện cho
136
hết thảy chúng sanh hoàn toàn thoát khỏi vô minh và đạt được Trí
thân.
PHỤ LỤC II
TANG CHẾ
***
Tang chế không thể làm cẩu thả mà phải chuẩn bị trước, lúc sanh thời.
Không cần làm linh đình, mà cần phải giản dị chừng nào hay chừng nấy.
Mặc người ta đàm tiếu. Kẻ ngu thường cười người trí. Đây là việc
thường của bọn ngu phu ngu phu.
Hòa thượng Thích Thắng Hoan có viết quyển Thờ cúng và Lễ Bái rất
hay, do nhà xuất bản Nguồn Sống ấn hành, năm 1994, nên tham khảo
thêm mà viết lại phần cốt yếu cho phù hợp với truyền thống gia đình
mình.
Đối với những người sống ở hải ngoại thì phải hết sức cẩn thận chớ để
bọn nhà quàng (funeral home) làm nhục thi thể của thân nhân. Những
cảnh hiếp dâm thây người chết, cũng như lấy các cơ phận đem bán tuy
không phải ở đâu cũng có, nhưng không phải là không có! Tốt hơn hết là
phải theo sát họ, chớ để họ mạnh tay mạnh chân với thân nhân mình…
Lời ít ý nhiều, xin hãy thận trọng.
Những ai là Phật tử thuần thành thì tang lễ có thể, trên căn bản, được tiến
hành như sau:
1. Chính tay mình viết một, hai hoặc các Thần chú để đắp lên người khi
lâm trọng bệnh, hoặc khi mình đang hấp hối.
Có thể viết cho con cháu mình cũng được, nếu chúng còn nhỏ dại, không
thể tự làm.
Nên dùng vải màu vàng hoặc trắng, chữ viết màu đỏ, hoặc xanh, hoặc
đen.
Đừng bao giờ mua những Thần chú do người khác viết, hoặc in ra để
bán, vì nó không có lực gia trì.
Nên nhớ: Viết tất cả đều bằng Phạn ngữ, chớ không phải chữ Quốc ngữ.
Xem phần cuối. Hai bản Thần chú sau đều được viết bằng chữ cổ Phạn.
Điều cần nhứt là phải hết sức tin tưởng thì mới mong thành tựu, đừng sợ
viết xấu, hoặc nét không sắc xảo.
TỲ-LÔ-GIÁ-NA PHẬT ĐẠI QUÁN ĐẢNH QUANG CHƠN NGÔN
ÚM A MỘ GIÀ VĨ LÔ TẢ NẴNG MA HẠ, MẪU NẠI RA MA NĨ
BÁT NẠP NHẬP PHẠ RA, BÁT RA MẠT ĐA DÃ HỒNG.
(thành tâm đọc 27 lần trước khi viết, trong khi viết, chữ chữ nên đem
tất cả thân tâm chăm chú, miệng niệm TỲ-LÔ-GIÁ-NA ÚM-A-HÙM
cho đến khi hết mới thôi).

137
ĐẠI BẢO QUẢNG BÁT LẦU CÁT THIỆN TRỤ BÍ MẬT
NẴNG MỒ TÁT PHẠ ĐÁT THA, NGHIỆT ĐA NẪM, ÚM VĨ BỔ
LÃ NGHIỆT BỆ, MA NĨ BÁT RA BỆ, ĐÁT THA ĐA NỄ NẠI XÃ
NĨNH, MA NĨ MA NĨ, TÔ BÁT RA BỆ, VĨ MẠ LÊ, TA NGHIỆT
RA, NGHIỄM TỶ LỆ, HỒNG HỒNG NHẬP PHẠ LÃ, NHẬP PHẠ
LÃ, MỘT ĐÀ VĨ LÔ CHỈ ĐẾ, HỦNG HẾ DẠ ĐỊA SẮC SỈ, ĐA
NGHIỆT BỆ, TA PHẠ HA.
ÚM MA NĨ PHẠ NHỰT RA HỒNG
ÚM MA NĨ ĐÀ LỊ HỒNG PHẤN TRA.
(thành tâm đọc 15 lần trước khi viết, trong khi viết, chữ chữ nên đem
tất cả thân tâm chăm chú, miệng niệm TỲ-LÔ-GIÁ-NA ÚM-A-HÙM
cho đến khi hết mới thôi).
2. Tự mình ra bờ sông lớn, hoặc bãi biển, hoặc núi, hoặc cồn, đảo, tìm
cho được cát hoặc đất vàng mịn, rửa thật sạch, nhiều ít tùy mình, nhưng
tốt nhứt là một tô đầy hoặc nhiều hơn càng tốt.
Mỗi buổi sáng mai, dùng TỲ-LÔ-GIÁ-NA PHẬT ĐẠI QUÁN ĐẢNH
QUANG ở trên mà đọc vào cát đó 108 lần (tốn khoảng 15 phút đến 20
phút là tối đa), ngày ngày như vậy cho đến khi chết, chớ để quên sót
ngày nào cả thì quyết sẽ được vãng sanh về Tây phương Cực Lạc Thế
Giới. Chớ có nghi ngờ mà chiêu lỗi lớn với chư Phật, Bồ tát và chư
Thiên, Thần!
Mục đích của việc làm nầy là:
1- Khiến cho tâm mình có điểm hòa hợp cùng tâm chư Phật, Bồ tát, khi
chết sẽ được sức gia trì của Pháp giới và của chư Phật, Bồ tát mà tùy
nguyện vãng sanh.
2. Để cát đã có gia trì nầy lại cho thân bằng quyến thuốc đem rải lên thây
của mình khi liệm, hoặc trước khi hỏa táng, hoặc điểu táng, hoặc thủy
táng. Nhờ uy lực của thần chú mà vong nhân có thể sanh về Tịnh độ
hoặc các cõi lành.Nếu lỡ con cháu mình có chết khi còn nhỏ dại thì
dùng cho nó cũng không ngại.
3. Lúc còn khỏe mạnh, nên viết di chúc, dặn dò con cháu, cách thức
phân chia của cải, hoặc trả nợ nần, những người mình không thích cũng
nên ghi chú cho người nhà biết, những việc mình đang làm dở dang cũng
nên viết thêm, rồi ký tên phía dưới, chớ ngại việc di chúc bị sửa đổi
v.v… Đừng chờ đến tuổi đã già rồi mới chịu viết, bởi vì mạng người vô
thường mau hơn nước dốc, ngày nay tuy còn, nhưng ai bảo đảm được
ngày mai, thậm chí hơi thở ra mà quên vào thì sẽ ra sao?
4. Trên bàn thờ nên để chín (9) món sau:
a/ Một tấm ảnh của vong linh, có dù, hoặc tàng lọng che.
138
b/ Một cái đèn sáng.
c/ Một tấm gương soi mặt, hoặc một tô nước lạnh.
d/ Năm thứ trái cây có mùi thơm, và năm thứ bánh có mùi thơm (không
được dùng nhân thịt).
e/ Một bình đựng năm thứ bông thơm,
f/ Một vỏ ốc.
g/ Một chung trà, một chén cơm trắng, và các thức ăn chay như mắm,
kiễm, canh, v.v… (cúng rồi đem thí cho chúng sanh như chim, cá v.v…)
h/ Vài bộ quần áo mà thuở sanh thời, vong linh yêu thích. Sau khi đã hạ
huyệt, nên đem đi cúng hoặc thí, rồi hồi hướng công đức cho vong linh.
j/ Cứ nửa tiếng thì đốt ba cây nhang, không nên đốt quá nhiều, cũng
không nên không đốt. Ngoại đạo ngu si không biết được cảnh giới sau
khi chết, nên cấm đốt nhang. Khi đốt phải khấn:
Ngươi (tên, họ…)
Hiện nay đã bị chết
Không còn thân xác phàm
Đang thọ Thân Trung Ấm
Lấy hương làm thức ăn
Trước, hiến dâng chư Thánh
Khi ăn, nhớ chúng sanh
Chớ khởi tâm bỏn xẻn
Nguyện được cùng ăn chung
Công đức cúng dường nầy
Nguyện ngươi và hết thảy
Chúng sanh, bỏ Báo thân
Vãng sanh Cực Lạc Quốc.
5 - Cả nhà, ai nấy đều phải nhất tề gìn giữ trai giới, dù có khách
khứa cũng không được thiết đãi rượu thịt, xướng ca, cờ bạc, hoặc
tán ngẫu.
Nếu thây có mùi hôi thì tất cả mọi người phải ngậm chút rượi vào miệng
khi đến thăm, rồi nhả rượu ra khi ra ngoài, để tránh bị bệnh hôi miệng,
không có thuốc chữa! Rượu kia phải đốt lập tức. Những người thân thể
bị hôi thúi thì nên tẩn liệm cho sớm.
6- Tất cả những mùi hôi thúi và các thứ ô uế, cũng như chó, mèo
v.v… chớ nên để gần người chết. Vì khi chết, Thân Trung Ấm chỉ
ngửi mùi để sống, chớ không thọ được thức ăn nào khác!
7 - Cấm ngặt không cho bất cứ ai khóc lóc, kể lể gần thây của người
chết, trong khoảng thời gian đang hấp hối cho đến khi hạ huyệt.

139
8 - Chớ nhận quà lễ của người! Vì người chết không thọ hưởng được.
Nếu người ta có lòng tốt giúp cho thì nên vì người chết mà cảm ơn.
9 - Nếu có thỉnh sư Tăng hoặc Ni thì phải xem thuở sanh thời vong
nhân có thích vị đó không. Nếu không thì đừng thỉnh, vì nếu Sa môn
kia không giữ giới, tịnh hạnh khiếm khuyết, cử chỉ ngã mạn, lời nói
hoặc tâm nghĩ ngông cuồng, thì do Thân Trung Ấm sở đắc thần
thông nên nhìn ra ngay. Khi mà Thân Trung Ấm biết mình bị lừa
gạt thì họ sẽ đâm ra tức tối và thất vọng, khiến phải bị đọa lạc vào ác
đạo thì không hay.
Cho nên, trước khi thỉnh bất cứ vị Sa môn nào đến để trợ giúp vong
nhân, người nhà phải thành tâm nói như thế nầy bên tai người đang hấp
hối, hoặc vong linh 7 lần:
Phật có Nhứt Thiết Trí
Biết ai là chân tu
Ai là người lừa gạt
Đó là tội của họ!
Ngươi (nếu là Cha hoặc Mẹ thì thế chữ “ngươi” bằng “Cha/Mẹ thân yêu
của con”, nếu là vợ thì kêu “hiền thê” hoặc “nầy em yêu của ta,” nếu là
con cháu thì kêu “con yêu quí của ta,” nếu là anh em thì kêu “anh/em
thương yêu của ta,” nếu là bạn bè thân thì kêu “bạn thân mến của ta”
v.v…)
Hãy buông bỏ tất cả
Đây là giờ phút thiêng
Chỉ một niệm sai lầm
Nẻo dị loại mang lông
Đội sừng, khó mà ra!
Chớ sanh tâm giận hờn
Mà phiền não khởi lên!
Hãy khởi tâm trong sạch
Y pháp, bất y nhơn”
Ai mà chẳng lầm lỗi
Người tu cũng như vậy
Ngươi (tên họ…)
Phải nhất tâm quán tưởng
Tự tánh là Chơn Không (sunyata)!
Tất cả pháp như huyễn
Như dợn nước dưới nắng
Như mộng, như ảo ảnh
Như thành Càn thát bà
140
Như tiếng vang, bóng nước
Như trăng nơi đáy nước
Như hoa đốm hư không
Như vòng tròn lửa quay
Ngươi (tên họ…)
Phải nhất tâm nghe nhận
Tất cả: DUY TÂM HIỆN
Tất cả: DUY TÂM HIỆN
Tất cả: DUY TÂM HIỆN
Hãy cho người cơ hội
Tụng chư Kinh, và Chú
Phục vụ cho chính mình
Và cho toàn gia mình.
10 – Hãy đem hết sở hữu của vong nhân mà bố thí hoặc cúng
dường. Trước nên nói bên tai người đang hấp hối, hoặc vong linh bảy
(7) lần:
Đây là của cải do ngươi (tên họ, v.v…) tích lũy trong khi còn sống. Nay
ngươi đã chết, không thể mang theo. Ta vì ngươi sẽ đem nó làm việc bố
thí, cúng dường, nguyện nhờ phước lực nầy mà ngươi và hết thảy chúng
sanh đồng được sanh về cõi lành, gần gũi chư Phật, Bồ tát, và chư
Thượng Thiện Nhơn, không còn phải bị cảnh bôn ba vất vả, tranh đấu
với đời để lo miếng cơm manh áo.
11. Việc đốt giấy vàng mã, cũng như mướn người khóc theo đám
tang phải tuyệt đối cấm kỵ. Kèn, địch, sáo, thiều có thổi cũng không
ngại, nhưng chớ quá sầu thảm, sẽ khiến cho vong linh mê theo âm điệu
mà đi vào chốn Địa ngục! Tốt hơn hết là mướn họ hòa tấu để cúng
dường Tam Bảo.
12. Phải chuẩn bị phẩm vật để cúng dường chư Tăng, Ni: Tốt nhứt là
do người chết để lại, hoặc chọn các thứ như: Những vật thường dùng của
nhà tu theo hạnh đầu đà, thuốc thang, tọa cụ, cà sa, giày, tích trượng,
gậy, mão, bình bát, kinh, luận, sà-bông, khăn tắm, đối với chư Ni thì nên
thêm băng vệ sinh, quần nâu, hoặc tiền bạc v.v…) Tùy theo giàu nghèo
mà chi lớn nhỏ, rộng hẹp, chớ có câu nệ hoặc e ngại. Đừng vì người
khen mà làm.
13 - Những người đến hộ niệm: ….. Nên vì người chết mà cúng dường.
Nếu người không nhận thì nên vì người chết lễ tạ ba lạy.
14 - Những người giúp cho việc tống táng: (Thân nhân) Cũng nên vì
người chết mà chiêu đãi tử tế, và giúp cho tiền bạc, cùng phẩm vật mà

141
hội “Đạo Tỳ” yêu cầu chẳng hạn như xà-bông, khăn tắm, lược chải, dây,
đòn gánh, v.v…
TỲ LÔ GIÁ NA
PHẬT ĐẠI QUÁN ĐẢNH QUANG
ĐẠI BẢO QUẢNG BÁT LẦU CÁT
THIỆN TRỤ BÍ MẬT

NGHI QUỸ TỔNG QUÁT


***
Thân Trung Ấm
ĐƯƠNG LÚC CHẾT
(Tử Hữu)
***
Thượng căn
Giáo Lý Bí Mật về Thân Trung Ấm ở đây thuộc về Bí Mật Thừa. Nó
được sử dụng để tiếp độ các bậc Du già hành giả trong lúc lâm chung để
đạt được Phật quả trong đời hiện tại như Mật tông đã chủ trương.
CÓ THỂ HIỆP NHỨT VỚI PHÁP THÂN HAY KHÔNG, ĐÓ LÀ DO
TỬ HỮU CÓ THỂ ĐẠT ĐƯỢC SỰ GIẢI THOÁT Ở MỘT TRONG
HAI GIAI ĐOẠN SAU HAY KHÔNG.
HAI (2) GIAI ĐOẠN NẦY XẢY RA NHANH THÌ MỘT (1) SÁT NA,
VÀ LÂU NHỨT LÀ MỘT (1) NGÀY.
GIAI ĐOẠN THỨ I
Các Đại Lần Lượt Tan Biến Vào Nhau
(có nhiều trường phài chủ trương giai đoạn nầy thuộc giai đoạn của
Trung Hữu!)
ĐỊA ĐẠI --à THỦY ĐẠI
Tiền trình nầy bắt đầu bằng sự tan biến của Địa đại vào Thủy đại. Khi
mà sự hòa tan nầy xảy ra thì tất cả mọi hiện tượng đều biến thành
màu vàng. Tử Hữu sẽ thấy và kinh nghiệm rằng tất cả mọi vật đều bị
tan rã bởi những cơn lụt và động đất dữ dội. Tử Hữu không thể nào
đứng vững bởi vì sức mạnh trong người bị tan biến một cách nhanh
chóng phi thường. Lúc bấy giờ, Tử Hữu cần phải cố gắng tập trung tư
tưởng và thiền quán về những hiện tượng màu vàng kia đồng với cái tâm
của mình, tất cả mọi hiện tượng màu vàng kia chính là tâm, tâm chính là
hiện tượng mang hình sắc màu vàng không hai không khác. Nói cách
khác, nếu Tử Hữu có thể vượt qua sự đối đãi nhị nguyên của tâm và

142
sắc (hiện tượng giới) vào lúc nầy thì đồng thời chứng được địa vị của
đức Ratnaparamita Bodhisattva (Pháp thân).
THỦY ĐẠI à HỎA ĐẠI
Giai đoạn thứ hai, Thủy đại tan biến vào Hỏa đại. Khi mà sự hòa tan
nầy xảy ra thì tất cả mọi hiện tượng đều biến thành màu trắng. Bên
ngoài thì Tử Hữu sẽ kinh nghiệm rằng toàn thể vũ trụ đều bị nước bao
trùm khắp nơi. Trong khoảng thời gian nầy, những người chung
quanh sẽ thấy mặt và môi của Tử Hữu trở thành khô cằn một cách
nhanh chóng. Bản thân Tử Hữu cảm thấy rằng mình rất khát
nước. Lúc bấy giờ, Tử Hữu cần phải cố gắng tập trung tư tưởng và thiền
quán về những hiện tượng màu trắng kia đồng với cái tâm của mình, tất
cả mọi hiện tượng màu trắng chính là tâm, tâm chính là hiện tượng mang
hình sắc màu trắng không hai không khác. Nói cách khác, nếu Tử Hữu
có thể vượt qua sự đối đãi nhị nguyên của tâm và sắc vào lúc nầy thì
đồng thời chứng được địa vị của đức Vajraparamita Bodhisattva
(Pháp thân).
HỎA ĐẠI --à PHONG ĐẠI
Giai đoạn thứ ba là Hỏa đại tan biến vào Phong đại. Khi mà sự hòa tan
nầy xảy ra thì tất cả mọi hiện tượng đều biến thành màu đỏ. Bên ngoài
thì Tử Hữu sẽ kinh nghiệm rằng toàn thể vũ trụ đều bị cháy đỏ
khắp nơi. Trong khoảng thời gian nầy, hơi ấm trong người của Tử
Hữu sẽ biến mất. Lúc bấy giờ, Tử Hữu cần phải cố gắng tập trung tư
tưởng nhứt tâm quán sát những kinh nghiệm nội tại và những kinh
nghiệm ngoại tại tất cả chỉ do tâm hiện và không có gì có thể xuất hiện
ngoài tâm của mình. Nếu Tử Hữu chứng được lý Duy Tâm Sở Hiện
vào lúc nầy thì đồng thời chứng được địa vị của đức
Dharmaparamita Bodhisattva (Pháp thân).
PHONG ĐẠI -à HƯ KHÔNG ĐẠI
Giai đoạn thứ tư, tuy nhiên, nếu hành giả vẫn chưa thành tựu được ở giai
đoạn nầy thì Phong đại sẽ tan biến vào Hư không đại. Khi mà sự hòa tan
nầy xảy ra thì tất cả mọi hiện tượng đều biến thành màu xanh lá cây.
Bên ngoài thì Tử Hữu sẽ kinh nghiệm rằng toàn thể vũ trụ đều bị
những luồng gió khủng khiếp thổi tan biến không còn gì cả. Bên trong
thì Tử Hữu sẽ nghe tiếng gầm thét như trăm ngàn tiếng sấm nổ. Lúc
bấy giờ, Tử Hữu cần phải cố gắng tập trung tư tưởng nhứt tâm quán sát
tất cả ánh sáng, âm thanh và màu sắc mà mình đang trải qua thật ra chỉ
do tâm hiện và không có gì có thể xuất hiện ngoài tâm của mình. Nếu
Tử Hữu chứng được lý Duy Tâm Sở Hiện vào lúc nầy thì đồng thời

143
chứng được địa vị của đức Karmaparamita Bodhisattva (Pháp
thân).
HƯ KHÔNG ĐẠI -à THỨC ĐẠI
Giai đoạn sau cùng, nếu hành giả vẫn chưa thành tựu được đạo quả
thì Hư không đại sẽ tan biến vào với Thức đại. Nói cách khác, tất cả
những luồng gió nghiệp sẽ hòa tan vào ống dẫn trung tâm. Người
thường cho rằng đó là “giai đoạn mất tri giác.” Lúc bấy giờ, Tử Hữu
nhập vào cảnh giới tối tăm mù mịt, và mất đi tất cả mọi cảm giác và tri
giác. Hãy tập trung tư tưởng trong thể nhứt tâm bất loạn và hãy nhận ra
rằng tâm mình chính là tự tánh của Pháp giới, chính là quang minh. Nếu
Tử Hữu có thể chứng được bản tâm và quang minh vốn là một, không sai
khác thì đồng thời chứng được địa vị của đức Buddhalocana Bodhisattva
(Pháp thân).
Lúc bấy giờ tất cả Ngũ đại đều bị hòa tan và Tử Hữu sẽ không thể
nào di chuyển được bất cứ chi phần nào của thân thể cả.
GIAI ĐOẠN THỨ II
Giọt Trắng và Giọt Đỏ Của Bồ Đề Tâm Xuất Hiện
GIỌT TRẮNG ĐI XUỐNG
(Biểu tượng của phương tiện thiện xảo)
Đầu tiên, hơi thở sẽ dứt bặt, Tử Hữu đi vào cảnh giới tối tăm do Hư
không đại hòa tan vào Thức đại (từ một sát na đến trọn cả bữa ăn.)
Ngay sau đó, Tử Hữu sẽ thấy một điểm sáng [hoặc một giọt trắng mà
người Tây Tạng gọi là bindu điểm sáng ấy là hiện tướng của Bồ đề
tâm (Bodhicitta: Bồ đề tâm ở đây, chính là tự tánh của tâm thanh tịnh
hiển tướng, chớ không phải là Bi tâm được tạo ra do sự nguyện ước cứu
độ chúng sanh mà có nhiều nơi cho rằng cả hai giống nhau!]nó xuất
hiện tại giữa hai lông mày trước trán rồi lần lần đi xuống; đây là loại
Bồ đề tâm tích cực (male-energy), biểu tượng của phương tiện thiện
xảo (upaya).
Khi mà điểm trắng đi xuống thì Tử Hữu sẽ thấy tất cả hiện tượng
đều mang một màu trắng. Lúc bấy giờ, trong một sát na, tất cả 33 loại
sân hận sẽ hoàn toàn biến mất, đến như mối hận bất cộng đái thiên với
bất cứ ai đi nữa cũng tan biến không sót thừa.
Cùng lúc đó, Tử Hữu trải kinh nghiệm của Trí lạc, đó là bản chất của
Ứng thân (Nirma-nakaya). Thân bất tịnh nầy sẽ được chuyển hóa
thành Ứng thân thanh tịnh. Đây là thánh thể ứng hiện nơi thế gian và
cũng chính là thân trong cảnh giới tâm linh siêu việt của các bậc Đại Đạo
Sư và chư Bồ tát khi thị hiện nơi nhân thế.
144
Ứng thân thể hiện bằng Trí Lạc vượt qua sự chấp trước của thế giới nhị
nguyên. Nếu trải qua kinh nghiệm nầy và nhận ra Trí lạc kia thì Tử
Hữu sẽ chứng được địa vị của đức Bất Động (Aksobhya) Như Lai (có
nơi nói là Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), bản chất của Phật thân,
điều nầy cũng không có gì sai trái cả vì đức Vajrasattva chính là hóa
thân của đức Bất Động Như Lai vậy.
GIỌT ĐỎ ĐI LÊN
(Biểu tượng của Trí Tuệ)
Sau đó, Tử Hữu sẽ thấy một điểm sáng màu đỏ từ dưới đan điền đi lên từ
từ. Đây là thứ Bồ đề tâm tiêu cực (female energy), biểu tượng của trí tuệ.
Khi mà điểm sáng đỏ đi lên, Tử Hữu sẽ thấy tất cả hiện tượng đều trở
thành màu đỏ. Trong khoảng thời gian nầy, 40 loại tham dục đều bị tan
biến, ngay cả gặp hình ảnh rất đáng yêu của các Thiên nữ hay các Thiên
nam, Tử Hữu cũng sẽ không có tâm tham ái nổi lên.
Cùng lúc đó, Tử Hữu trải qua kinh nghiệm của Trí lạc tối thượng, đây là
bản chất của Báo thân (Sambhogakaya).Ngữ/ Khẩu bất tịnh của chúng
sanh sẽ được chuyển hóa thành Báo thân thanh tịnh.
Báo thân thể hiện bằng Trí lạc Tối Thượng, cái Lạc nầy thâm sâu và
trường cửu. Nếu nhận ra được Trí Lạc Tối Thượng nầy thì Tử Hữu
sẽ chứng được địa vị của đức Vô Lượng Quang (Amitabha) Như Lai.
Vô Lượng Quang Như Lai chính là bản thể của Khẩu bí mật của
chư Phật.
GIỌT TRẮNG VÀ GIỌT ĐỎ GẶP NHAU TẠI LUÂN XA TRÁI
TIM
Biểu tượng của Đại Ấn (Mahamudra) viên thành
Nếu vẫn chưa đạt được sự giác ngộ, Tử Hữu sẽ thấy điểm (giọt) sáng
trắng và điểm sáng đỏ sẽ gặp nhau ở Luân Xa Trái Tim. Khi mà cả hai
điểm nầy giáp nhau thì Tử Hữu sẽ trải qua kinh nghiệm mờ ảo, như màn
đêm khi trăng non vừa mới xuất hiện, và bảy (7) loại vô minh sẽ tan
biến.
Cùng lúc đó, Tử Hữu sẽ trải qua kinh nghiệm của Trí Tuệ Siêu Lạc và
lập tức chuyển hóa tâm mình làm một với tâm của chư Phật, Tâm Bí
Mật đó chính là đức Đại Nhựt (Mahavairocana) Như Lai vậy.
Tâm nhị nguyên của Tử Hữu sau khi chuyển hóa sẽ trở thành Pháp
thân (Dharma-kaya) của chư Phật Như Lai.
Trí Tuệ Siêu Lạc chính là Pháp thân. Nó vượt qua tất cả mọi khái niệm,
thậm thâm và không thể nào phá hủy. Lúc bấy giờ, Tử Hữu không cần
phải dụng công tu tập, nó cũng đến một cách tự nhiên và tự phát. Tử

145
Hữu nếu có thể nhận ra cảnh giới nầy thì liền đạt được sự giác ngộ
viên mãn.
Thân Bí Mật của chư Phật chính là đức Bất Động Như Lai, Khẩu Bí
Mật của chư Phật chính là đức Vô Lượng Quang Như Lai. Tâm Bí
Mật của chư Phật chính là đức Đại Nhựt Như Lai, và Đại Nhựt Như
Lai cũng chính là căn nguyên của chư Phật.
Nếu không đạt được giác ngộ lúc nầy thì Tử Hữu sẽ bị lạc vào Thân
Trung Ấm sau khi chết (Trung Hữu).Ngoài Phật lực, Bồ tát Hạnh
nguyện lực, Thần chú/ Chân ngôn/ Đà ra ni lực, Pháp giới lực thì
Nghiệp lực là hạng kế vậy. Một khi bị Nghiệp lực chủ trì và lôi kéo
thì khó có gì ngăn cản nó nổi. Ôi! Một phen mất thân người nẻo dị
loại mang lông đội sừng biết đến bao giờ mới ra khỏi!
Khi giọt trắng và giọt đỏ của Bồ đề tâm gặp nhau tại Luân Xa Trái
Tim, Tử Hữu nào thành tựu được thiền quán thậm thâm nơi
kiếp nầy sẽ lập tức nhận ra bản chất chân thật của tâm. Tâm quán
chiếu Tánh Không và Tánh Không hợp nhứt thì Tử Hữu không cần
phải dụng công mà nó tự phát khởi không gián đoạn.
Tâm quán chiếu Tánh Không (sunyata) trong lúc sanh thời gọi là
con; tự tánh chân thật của tâm được gọi là Mẹ.
Khi mà hành giả nhận ra tự Tánh Không của tâm, và sự nhận ra kia
cũng không thì lúc bấy giờ hành giả đạt được sự giác ngộ tối cao, đó
chính là nhận ra Pháp thân (Dharmakaya) Bình đẳng của chư Phật
Như Lai vậy.
TRUNG CĂN
Phần nầy dành riêng cho người đi trợ giúp (hộ niệm). Phương pháp
hoán chuyển Thần thức được sử dụng bằng hai cấp độ.
PHƯƠNG PHÁP THỨ I
HOÁN CHUYỂN THẦN THỨC BẰNG PHƯƠNG TIỆN THIỆN
XẢO CỦA MẬT TÔNG
***
Nên nhớ, trước khi bắt đầu việc hoán chuyển Thần thức điều cần
nhứt là hành giả biết chắc rằng người nhận chịu sự trợ giúp của
mình sẽ chết. Trái lại, chính là sát nhân, còn người nhận chịu sự trợ
giúp trở thành kẻ tự tử. Cả hai sẽ phải trả một giá rất đắt của việc
mình làm nơi Địa ngục. Đây không phải là một việc đùa giỡn, cũng
không phải là chỗ thí trường cho những người không am tường về Y lý
và Phật lý.
Đối với những người đã nhận được vài lễ quán đảnh và thực hành thiền
quán thì thân thể của họ có thể là chỗ ở của những bậc thần linh của Mật
146
tông. Thực hành phương pháp nầy, hoặc phương pháp Phowa trước
khi lâm chung chính là hành động tự sát, và sẽ cắt đứt dây liên lạc
với những bậc Thần linh.
Căn cứ vào sự khẩu truyền của bậc A xà lê và chư Thượng nhân tại
Việt Nam cũng như Tây Tạng, thuộc Mật tông, thì Thần thức có thể
rời khỏi xác thân nhờ vào một trong chín cửa mà lúc nào cũng mở
ra. Con đường mà Thần thức đi qua sẽ ảnh hưởng đến việc thọ thân
trong tương lai.
1. Nếu thoát ra từ hậu môn thì người chết sẽ về Địa ngục giới;
2. Nếu thoát ra từ dương vật/ âm hộ thì sanh về Súc sanh giới;
3. Nếu thoát ra từ miệng thì sanh về Ngạ quỷ giới;
4. Nếu thoát ra từ mũi thì sanh về Nhơn giới hoặc về cảnh giới ngang
với người;
5. Nếu thoát ra từ rún sẽ sanh về Dục giới;
6. Nếu thoát ra từ lỗ tai thì sanh về A tu la giới;
7. Nếu thoát ra từ mắt kể cả giữa hai chân mày thì sanh về Sắc giới;
8. Nếu thoát ra từ đảnh đầu kể từ chân tóc về sau bốn (4) lóng tay thì
sanh về Vô sắc giới;
9. Nếu thoát ra từ đảnh đầu gần xoáy tóc Cửa Thanh Tịnh hoặc còn gọi
là Cửa Mở Phạm Thiên thì sanh về Cực Lạc quốc độ của Phật Vô Lượng
Quang (Amitabha), hoặc tùy nguyện vãng sanh chư Tịnh độ…
Duy thức tông chủ trương rằng:
1. Thần thức ra từ đảnh là về cảnh giới Thánh,
2. Thần thức ra từ mắt là về cảnh giới Trời,
3. Thần thức ra từ ngực là về cảnh giới Người
4. Thần thức ra từ dưới rún bốn lóng tay (đan điền) là về cảnh giới Thú,
5. Thần thức ra từ đầu gối là về cảnh giới Ngạ quỷ
6. Thần thức ra từ chân là về cảnh giới Địa ngục.
Không có gì sai cả, tùy theo sự phân chia cơ thể mà thành lập. Nói chung
theo Duy thức thì phải bít năm (5) cửa lại chỉ trừ đảnh môn. Nhưng Duy
thức tông không có dạy cách thức đóng các cửa lại như của Mật tông!
Theo ngu ý thì nên quán các chủng tử A hoặc HRIH màu đỏ rực rỡ nơi
năm (5) cửa kia để giúp Thần thức ra bằng đảnh môn. Phương pháp sẽ
được hướng dẫn ở phần dưới.
Theo Mật tông, tất cả tám (8) cửa kia phải bị đóng lại, trừ cửa ở
đảnh môn.
Nghiệp tích chứa trong lúc sanh tiền quyết định Thần thức thoát ra nhanh
hay chậm. Nếu trong lúc sanh tiền làm những việc ác thì Thần thức sẽ
lập tức thoát ra khỏi thân sau khi hơi thở ngưng hô hấp. Một khi Thần

147
thức rời khỏi xác thân thì rất khó mà kêu nó lại. Các bậc đại Du già
hành giả như Mi-la-rơ-pa v.v… có thể kêu gọi Thần thức trở lại nhập vào
xác, nhưng ngày nay không có mấy ai làm nổi.
Khi mà vị tu sĩ Mật tông được báo tin về cái chết của một người nào mà
Ngài muốn trợ niệm thì Ngài sẽ lập tức quán chiếu về đức Quán Thế
Âm Bồ tát (có nơi chủ trương đức Vô Lượng Quang Như Lai) và nhập
làm một với đức Bồ tát, đồng thời, quán tưởng ở giữa ngực của mình có
một bông sen, một mặt trăng và một chủng tử HRIH màu đỏ. Chủng tử
HRIH từ tâm của vị tu sĩ Mật tông phát ra tám tia sáng, mỗi tia sáng
đều có chủng tử HRIH nhỏ hơn chiếu đến tám (8) cửa của vong nhân
để bít lối khiến cho Thần thức không thể nào chui ra từ các ngõ
đó. Chỉ có những vị hành giả đạt được trình độ quán chiếu cao mới
có thể thực hành theo cách thức nầy từ xa.
Theo như truyền thống của Thai Tạng Giới nhứt là của tôn kinh Đại
Nhựt thì chủng tử A hoặc AM màu đỏ được sử dụng để bít các cửa.
Khi sử dụng chủng tử A/AM thì phải quán đức Đại Nhựt Như Lai
thay vì đức Quán Thế Âm Bồ tát.
Rồi giảng cho Thần thức của vong nhân nghe giáo lý về Thân Trung
Ấm đương lúc chết (Tử Hữu).
Nếu người sắp chết muốn ngủ hay hai mắt nặng trĩu thì nên giúp họ
tỉnh thức (vì ngủ/hôn trầm là tướng ngu si ắt sẽ đi vào đường Súc
sanh) bằng cách cùng một lúc mà chận nhịp đập của cả hai mạch lớn
nơi hầu/ cổ (jugular veins) để buộc các luồng sinh khí (người Âu Mỹ
dùng chữ “wind”) đi vào ống dẫn trung tâm và không thể nào đi
ngược trở lại, nhờ vậy Thần thức sẽ dễ dàng thoát ra từ trên đảnh
môn.
Nhưng phương pháp nầy không phải dễ làm, nếu vội vàng, hoặc bất
cẩn thì sẽ trợ giúp cho người hấp hối chóng chết mà thôi. Xin hãy
cẩn thận cho lắm.
Nếu sử dụng phương pháp nầy thì nên khẽ bảo nhỏ nơi tai người sắp chết
(nhớ đừng chạm xúc người sắp chết vào lúc nầy, Thần thức có thể theo
ra mà đi vào A tu la giới):
Nầy thiện nam tử/ thiện nữ nhơn (tên là… pháp danh…) Bây giờ là
giây phút quan trọng của đời mình, hãy tìm cách trở về với chân
tâm của chính mình. Hơi thở ra sắp chấm dứt, người đang trở về với
chân tâm sáng suốt và rộng lớn như hư không, nó không có trung
tâm điểm, cũng không có ranh giới. Vào lúc nầy, hãy nhận ra chân
tâm của mình, và hãy an trụ trong kinh nghiệm kia. Tôi sẽ giải thích

148
về nó nữa cho đến khi nào người được thông suốt mới thôi. Đừng
nghĩ gì khác!
(lập lại cho đến khi hơi thở ngưng bặt)
Khi hơi thở dứt bặt (bắt đầu bước vào Thân Trung Ấm của giai đoạn
đầu của đời sống sau cái chết tức là Tử Hữu), việc đầu tiên là phải đặt
người sắp chết theo tư thế nằm ngủ của đức Thích Ca (thế sư tử nằm),
chận nhịp đập của cả hai mạch lớn nơi hầu/ cổ (jugular veins) để buộc
các luồng sinh khí đi vào ống dẫn trung tâm và không thể nào đi ngược
trở lại, nhờ vậy Thần thức sẽ dễ dàng thoát ra từ trên đảnh môn. Nhưng,
phương pháp nầy không phải dễ làm, nếu vội vàng, hoặc bất cẩn thì sẽ
trợ giúp cho người hấp hối chóng chết mà thôi. Xin hãy cẩn thận cho
lắm. Cho nên, ở đây cần phải nhấn mạnh một lần nữa.
Trong trường hợp người hộ niệm trên đường đi đến chỗ vong nhân thì vị
ấy phải quán chiếu liên tục về đức Quán Thế Âm Bồ tát và đồng thời gởi
các chủng tử HRIH (hoặc chữ A) đến vong nhân để ngăn chặn Thần thức
thoát ra. Nếu Thần thức không được giữ trong thân thể theo

cách thức nầy, nó sẽ bị lạc vào vòng sanh tử luân hồi (Samsara).
Khi đến nơi người quá cố, người hộ niệm sẽ quán chiếu thân thể của
vong nhân chính là thân của vị Thần hộ mệnh của Ngài hoặc bậc Thần
linh Ngài đang thờ phụng. Rồi lập tức, Ngài nhập sâu vào thiền định và
bắt đầu giảng dạy giáo lý về Thân Trung Ấm đương lúc chết (Tử
Hữu) cho Thần thức của vong nhân. Nếu sử dụng phương pháp nầy thì
khẽ bảo nhỏ nơi tai người sắp chết (nhớ đừng chạm xúc người sắp chết
vào lúc nầy, Thần thức có thể theo ra mà đi vào A tu la giới):
Nầy thiện nam tử/ thiện nữ nhơn (tên là… pháp danh…) Bây giờ là
giây phút quan trọng của đời mình, hãy tìm cách trở về với chân
tâm của chính mình. Hơi thở ra sắp chấm dứt, người đang trở về với
chân tâm sáng suốt và rộng lớn như hư không, nó không có trung
tâm điểm, cũng không có ranh giới. Vào lúc nầy, hãy nhận ra chân
tâm của mình, và hãy an trụ trong cảnh giới không chướng ngại kia.
Tôi sẽ giải thích về nó nữa cho đến khi nào người được thông suốt
mới thôi. Đừng nghĩ gì khác!
(lập lại cho đến khi hơi thở ngưng bặt)

149
Sau đó, bằng vào uy lực của Thần chú, đại nguyện, vận chưởng, hoặc
pháp môn Phowa, Ngài sẽ cố gắng khiến cho vong linh tỉnh táo lại và
đẩy Thần thức của vong nhân lên đảnh môn khiến cho vong nhân được
đi vào cảnh giới giải thoát của chư Thánh.
PHƯƠNG PHÁP KHIẾN CHO THẦN THỨC CỦA VONG NHÂN
ĐI LÊN CỬA THANH TỊNH MÀ THOÁT RA
1. Phải xét xem chỗ nào trong thân của vong nhân còn ấm trước, nên nhớ
chớ có chạm mạnh vào người chết. Nếu có máy đo thân nhiệt thì hay
nhứt. Nếu có chỗ đương ấm - chẳng hạn như ở vùng ngực, còn các chỗ
khác đều lạnh – thì phải biết rằng Thần thức của kẻ ấy vẫn còn.
2. Khi đó phải y theo pháp môn mà vong nhân tu tập lúc lâm thời mà to
tiếng niệm, hoặc cùng nhau niệm Phật, tụng Thần chú, tiếng chuông
không ngớt, và nên dùng phương pháp vận chưởng để giúp đỡ cho Thần
thức của vong nhân theo đó đi dần lên đến đảnh môn mà thoát ra.
Phương pháp vận chưởng là đưa hai tay ngang nhau vần chuyển
thuận theo chiều kim đồng hồ mà đi lên, và phải úp hở trên chỗ ấm,
không nên cho động đến thân, phải cách thân độ nửa tấc. Pháp môn
nầy chỉ có thể thành tựu nếu và chỉ nếu người sử dụng vận chưởng
biết dùng “lửa Tam muội” để đẩy Thần thức lên đảnh môn.
Hai mắt phải chăm chú nơi hai tay và thầm tưởng tượng Thần thức
của vong nhân phải theo tay mình mà đi trở lên đến đảnh môn.
Miệng thì thầm khấn rằng:
Nam mô Đại từ Đại bi A Di Đà Phật.
(hoặc Bất Động Như Lai , hoặc Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, hoặc
Nguyệt Trí Như Lai, v.v…)
Xin Ngài tiếp dẫn cho vong linh tên… Pháp danh… sẽ từ trên đảnh
môn mà ra, và sanh về Thế giới Cực Lạc phương Tây của Ngài.
(hoặc Thế giới Diệu Hỷ, Tịnh Lưu Ly nơi phương Đông, hoặc Quang
Minh Cảnh v.v…)
Quyết định vãng sanh!
(nạt hơi lớn để cảnh tỉnh)
Như vậy, tinh thần chăm chú, tay vần, miệng niệm, cả ba nghiệp đều thi
hành, nếu mỏi thì đổi người khác luân phiên nhau tiếp. Hoặc nửa ngày
hoặc một ngày, không nên nửa chừng mà thôi nghỉ. Phải làm cho đến khi
khắp các chỗ trong thân đều lạnh hết, chỉ còn lưu lại một chút hơi ấm
trên đảnh môn mới thôi.
Thần thức của vong nhân đã được hồng danh của Phật (hoặc Thần chú)
và tiếng chuông cảnh tỉnh không thôi; lại được vận chưởng, tâm thần
chăm chú trợ niệm không nghỉ, thì hoặc chậm hoặc mau, chắc chắn sẽ
150
phải xoay trở lên trên đảnh môn mà ra, và được thấy Phật Vô Lượng
Quang, vãng sanh Cực Lạc Quốc…
Phải nhờ người có lòng từ bi và biết phương pháp cứu độ Thân
Trung Ấm, chớ không phải bạ đâu nhờ đó, khiến cho vong nhân tủi
hờn thì không hay. Bà con, quyến thuộc không ai được khóc lóc, kể
lể, than van, cũng không được ăn thịt uống rượu, phải hết lòng trợ
giúp người quá cố vãng sanh Cực Lạc, hoặc bất kỳ quốc độ nào mà
vong nhân ưa thích.
Nếu phương pháp nầy (cũng như Phowa) thành tựu thì có những dấu
hiệu ở trên đảnh đầu của vong nhân sẽ xuất hiện. Những dấu hiệu đó là
một giọt máu hoặc đảnh đầu sẽ nhô lên. Cho đến khi những dấu hiệu nầy
xuất hiện, vị tu sĩ Mật tông vẫn tiếp tục giảng dạy giáo lý về Thân Trung
Ấm đương khi chết (Tử Hữu).
Pháp môn trên dành cho những hành giả Du già của Mật giáo.
Những người tu tập theo các pháp môn khác, như Tịnh độ tông, hoặc
vong nhân là kẻ phá giới, làm những điều ác, hủy phạm bậc Đạo sư, thì
những dấu hiệu tốt lành có thể không xuất hiện gì cả. Trong trường hợp
đó, vị tu sĩ Mật tông phải tiếp tục dùng Bi Tâm mà giảng dạy giáo lý cứu
độ Thân Trung Ấm cho vong nhân, hoặc có thể theo cách thức sau:
PHƯƠNG PHÁP THỨ II
CỨU ĐỘ THÂN TRUNG ẤM
HƯỚNG DẪN THẦN THỨC CỦA VONG LINH
VÃNG SANH VỀ THẾ GIỚI CỰC LẠC CỦA
PHẬT VÔ LƯỢNG QUANG/ A MI TA/ A DI ĐÀ
Nếu không có vị thành tựu giả giúp đỡ thì chỉ thành ‘dã tràng xe cát biển
Đông” mà thôi!
Sau đó, vong nhân sẽ bị bất tỉnh trong vòng ba ngày rưỡi, rồi thì
Thần thức của họ sẽ gá vào Thân Trung Ấm sau khi chết (Trung
Hữu), nơi đó họ thật sự biết rằng mình đã chết.
Thân Trung Ấm
SAU KHI CHẾT
(Trung Hữu)
Bậc trung trung thì cần có người luôn luôn sách tấn bên tai. Người sách
tấn cần phải biết Trung Hữu hiện đang đối đầu với cảnh giới nào thì
mới mong có kết quả chắc thực như kinh thuyết, nếu không thì khó mà
được giải thoát, nhứt là khi các bậc Thần linh mang hình tướng phẫn nỗ
và hung mãnh hiện ra thì khó mà tránh khỏi cảnh “bạt vía kinh hồn!” Rồi
bị lạc vào Ba cõi, Sáu đường của vòng sanh tử luân hồi.
TU THEO TỊNH ĐỘ TÔNG

151
(Thượng Trung)
***
Sau khi chết được ba ngày rưỡi, trong tình trạng vô thức, thì vong nhân
tự tỉnh, đây là giai đoạn Thân Trung Ấm sau khi chết, cũng còn được gọi
là Trung Hữu. Giai đoạn Tử Hữu không còn nữa.
Theo truyền thống của đạo Phật thì lúc bấy giờ gia quyến của vong nhân
đang làm lễ tuần thất thứ nhứt (1), [cả thảy là 7 thất, cộng chung là 49
ngày]. Người hành lễ, thường là chư Tăng/ Ni, nếu không phải là bậc tu
hành chân chánh, đạo hạnh nghiêm mật, mà chỉ biết tụng kinh, đọc chú
cho hết câu, hết chữ, cúng vái cho qua loa thì Trung Hữu sẽ thấy biết rõ
ràng và sẽ mất lòng tin với chư vị và Chánh Pháp. Bấy giờ Trung Hữu
lập tức sẽ bị đọa lạc!
Thần thức thủ đắc đại lực khi thọ Thân Trung Ấm. Nếu nghĩ đến cõi
Cực Lạc thì lập tức tâm sẽ thanh tịnh và được giải thoát. Tuy nhiên, vì
nghiệp lực nặng nề nên hầu hết con người khi chết chỉ biết hoảng hốt, lo
sợ, đau sầu chớ không có tâm trí đâu mà nghĩ đến những cảnh giới cao
thượng kia. Đây là khoảng thời gian mà nghiệp lành nghiệp dữ tranh
giành cùng nhau. Vong nhân phải lệ thuộc vào những hành vi thiện ác
trong đời của mình. Làm ác thì phải bị quả xấu, dù muốn bỏ nó cũng
không được!
Người hộ niệm cần phải gia công niệm hồng danh của đức Phật cho
nhiều, giọng ấm, rõ, chớ có kéo lê ê-a. Thỉnh thoảng đọc 48 lời nguyện
của Phật A di Đà, hoặc 12 lời nguyện của đức Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai, hoặc y kinh Hoa Nghiêm đọc phẩm Thọ Lượng, xướng hồng
danh Nguyệt Trí Phật của Quang Minh Cảnh Thế Giới, hoặc đọc các
kinh mà thuở sanh thời vong linh ưa thích tụng đọc. Rồi sách tấn.
Nam mô Đại từ Đại bi A Di Đà Phật.
(hoặc Bất Động Như Lai, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, hoặc Nguyệt
Trí Như Lai v.v…)
Xin Ngài tiếp dẫn cho vong linh tên … Pháp danh… sanh về thế giới
Cực Lạc phương Tây của Ngài.
(hoặc thế giới Diệu Hỷ/ Tịnh Lưu Ly nơi phương Đông, hoặc Quang
Minh Cảnh v.v…)\
Quyết định vãng sanh!
(nạt hơi lớn để cảnh tỉnh)
Cứ như thế mà làm, duy trì được bảy ngày thì càng tốt. Y theo các qui
điều căn bản của “tang chế” mà làm. Ngoài ra, nếu có thể nên in kinh ấn
tống, hoặc mời Pháp sư giảng Kinh, Luận thuộc Tịnh độ tông cho chúng

152
sanh nghe. Rồi, đem công đức đó mà hồi hướng cho vong linh và hết
thảy chúng sanh.
SAU ĐÓ…
Thần thức khi nhận ra mình đang ở trong tình trạng của Thân Trung Ấm
sau khi chết (Trung Hữu)… Hiện tại, dòng sanh tử luân hồi đang đình
chỉ, cảnh giới phàm phu bị ẩn mất. Cảnh giới thanh tịnh của tự tâm (Vô
cấu thức) sẽ một lần nữa hiển bày, nơi đó tất cả mọi hiện tượng sẽ là
quang minh và ánh sáng cùng chư Thần linh sẽ lần lượt xuất hiện.
ĐỨC ĐẠI NHỰT NHƯ LAI XUẤT HIỆN
(Khoảng giữa ngày Thứ Nhứt và ngày Thứ Hai)
Ở NGÀY NẦY, NGƯỜI HỘ NIỆM PHẢI LUÔN LUÔN SÁCH
TẤN NHƯ SAU:
Nầy Trung Hữu! Hãy cố gắng đi theo Quang minh màu xanh cực kỳ
rực rỡ kia.
Hãy biết ơn đức Đại Nhựt Như Lai vì đại bi mà Ngài hiện thân ra tiếp
rước khiến cho mình được giải thoát.
Nếu cố gắng nghĩ như vậy, và khẩn cầu sự gia hộ nơi đức Đại Nhựt
Như Lai thì tự tâm và Quang minh xanh cực kỳ rực rỡ của đức Như
Lai sẽ hợp làm một. Sự hợp nhứt nầy sẽ khiến cho mình đạt được địa
vị của Báo Thân Phật (Sambhogakaya). Ôi! Còn gì sung sướng cho
bằng.
Nếu vẫn chưa giác ngộ, và cũng còn phân vân, thì do năng lực của thiện
nghiệp lôi kéo Trung Hữu sẽ đi vào một cảnh giới khác.
ĐỨC BẤT ĐỘNG NHƯ LAI XUẤT HIỆN
(Ngày Thứ Hai)
Ở NGÀY NẦY, NGƯỜI HỘ NIỆM PHẢI LUÔN LUÔN SÁCH TẤN
NHƯ SAU:
Hãy cầu nguyện lên đức Bất Động Như Lai và chư Thánh Chúng, xin
chư Phật Bồ tát gia hộ khiến cho Trung Hữu thoát khỏi những khủng
bố của Thân Trung Ấm.
Trung Hữu phải nhớ rằng Quang minh cực trắng kia là Trí quang
hợp cùng với Tâm đại bi, phải hợp nhứt cùng với luồng Quang minh
cực trắng nầy.
Hãy cố gắng nhận ra rằng Quang minh cực trắng lưu xuất từ chư
Phật Bồ tát cùng Bản tâm của Trung Hữu y hệt như nhau trên Bản
chất; không có sự khác biệt giữa bản tâm và Quang minh.
Nếu vẫn chưa giác ngộ, và cũng còn phân vân, thì do năng lực của sân
tâm lôi kéo Trung Hữu sẽ đi vào một cảnh giới khác.
ĐỨC PHẬT BẢO SANH XUẤT HIỆN

153
(Ngày Thứ Ba)
Ở NGÀY NẦY, NGƯỜI HỘ NIỆM PHẢI LUÔN LUÔN SÁCH TẤN
NHƯ SAU:
Bằng vào sự thành kính và nhứt tâm bất loạn hướng về đức Bảo Sanh
Như Lai và chư vị Bồ tát, Trung Hữu sẽ hiệp nhứt Bản tâm với Quang
minh màu vàng ròng cực kỳ rực rỡ và hãy để nó an nghỉ trong tình
trạng tự nhiên.
Hãy cố gắng nhận ra rằng Quang minh màu vàng ròng cực kỳ rực rỡ
lưu xuất từ chư Phật Bồ tát cùng Bản tâm của Trung Hữu y hệt như
nhau trên Bản chất; không có sự khác biệt giữa Bản tâm và Quang
minh.
Nếu vẫn chưa giác ngộ, và cũng còn phân vân thì Trung Hữu sẽ đi vào
một cảnh giới khác.
ĐỨC PHẬT VÔ LƯỢNG QUANG XUẤT HIỆN
(Ngày Thứ Tư)
Ở NGÀY NẦY, NGƯỜI HỘ NIỆM PHẢI LUÔN LUÔN SÁCH
TẤN NHƯ SAU:
Bằng vào sự thành kính và nhứt tâm bất loạn hướng về đức Vô Lượng
Quang Như Lai và chư vị Bồ tát Trung Hữu sẽ hiệp nhứt Bản tâm với
Quang minh màu đỏ cực kỳ rực rỡ.
Hãy cố gắng nhận ra rằng Quang minh màu đỏ cực kỳ rực rỡ lưu xuất
từ chư Phật Bồ tát cùng Bản tâm của Trung Hữu y hệt nhau như trên
Bản Chất; không có sự khác biệt giữa Bản tâm và Quang minh.
Nếu vẫn chưa giác ngộ, và cũng còn phân vân thì Trung Hữu sẽ đi vào
một cảnh giới khác.
ĐỨC BẤT KHÔNG THÀNH TỰU NHƯ LAI XUẤT HIỆN
(Ngày Thứ Năm)
Ở NGÀY NẦY, NGƯỜI HỘ NIỆM PHẢI LUÔN LUÔN SÁCH
TẤN NHƯ SAU:
Bằng vào sự thành kính và nhứt tâm bất loạn hãy hướng về đức Bất
Không Thành Tựu Như Lai và chư vị Bồ tát thì Trung Hữu sẽ hiệp
nhứt Bản tâm với Quang minh màu xanh lá cây cực kỳ rực rỡ kia.
Hãy cố gắng nhận ra rằng Quang minh màu xanh lá cây cực kỳ rực rỡ
lưu xuất từ chư Phật Bồ tát cùng Bản tâm của Trung Hữu y hệt như
nhau trên Bản chất; không có sự khác biệt giữa Bản tâm và Quang
minh.
Nếu vẫn chưa giác ngộ, và cũng còn phân vân thì Trung Hữu sẽ đi vào
một cảnh giới khác tức là ngày thứ sáu (6).
(Ngày Thứ Sáu)
154
Ở NGÀY NẦY, NGƯỜI HỘ NIỆM PHẢI LUÔN LUÔN SÁCH
TẤN NHƯ SAU:
Tất cả chư Phật, Bồ tát, chư Phụng Giáo/ Hộ Pháp, 8 vị thủ môn thần tọa
thủ bốn cửa và 42 vị Thiện thần không phải là ai xa lạ mà chính là từ Vô
cấu thức huyễn hiện trước mắt Trung Hữu.
Trung Hữu hãy cố gắng nhận ra rằng chư Phật từ các Phật độ xuất
hiện để tiếp độ Trung Hữu.
Trong thực tế, toàn bộ Mạn đà la từ bốn phía nhập vào trái tim của
Trung Hữu như bông sen có bốn cánh và ở chánh giữa hoa sen tức là
trái tim thì có trung tâm đàn nhập vào.
Quang minh của chư Phật hiện ra từ Vô cấu thức của Trung Hữu.
Mặc dầu, chư vị từ tự tâm huyễn hiện, nhưng điều trọng yếu nhứt là
Trung Hữu phải nhận ra điều nầy.
Đồng thời, Trung Hữu cần phải biết rằng chư vị là Bản Thể của vị
Thần hộ mệnh của Trung Hữu, đấng mà Trung Hữu cố gắng hiệp
nhứt trong suốt quãng đời tu tập trong thời gian còn sống.
Một lần nữa, bốn Trí quang của bốn đức Phật của bốn phương đồng lúc
ấy đều chiếu đến trung tâm trái tim của Trung Hữu.
Trung Hữu cần phải biết rằng những Quang minh nầy đều phát xuất
từ Vô cấu thức của Trung Hữu. Hãy hiệp nhứt cùng các luồng Quang
minh nầy lập tức chớ có chần chờ!
Nếu Trung Hữu có thể hiệp nhứt tâm mình với tứ trí thì tự tánh chân
thật của tánh không (sunyata) sẽ chiếu rọi Trung Hữu, và Trung Hữu
sẽ đạt được sự giải thoát.
Mặc dầu chấp trước rất sâu nặng vào các thứ ánh sáng nầy, Trung Hữu
cần phải từ bỏ chúng mà không cần phải đắn đo suy nghĩ, và hãy an trụ
trong sự tĩnh lặng!
Trung Hữu cần phải nhứt tâm cầu nguyện lên Ngũ Như Lai:
Than ôi! Từ lâu con bị Ngũ độc khống chế
Lưu chuyển trong vòng sanh tử luân hồi
Nguyện Ngũ Bộ Như Lai gia trì và hướng dẫn
Cho con trên đường Quang minh của Tứ trí
Nguyện Ngũ Phật mẫu gia hộ cho con
Thoát vòng ảnh hưởng của sáu thứ ánh sáng bất tịnh
Vượt qua tất cả mọi chướng ngại của Thân Trung Ấm!
Nguyện con được sanh về chư Tịnh độ của Ngũ Như Lai.
Bài nguyện trên giúp cho Trung Hữu giữ chánh niệm, bởi vì chỉ cần một
niệm tham luyến các thứ ánh sáng của Lục đạo khởi lên cũng đủ để cho

155
mình bị tái sanh trong vòng Sanh tử Luân hồi (Samsara). Nếu điều nầy
xảy ra, việc Trung Hữu thọ thân người và được giác ngộ rất là hiếm có.
Tuy nhiên, trong lúc nầy, vẫn còn có ba (3) cơ hội có thể đạt được sự giải
thoát.
1. Nhận ra Trí quang rồi hiệp nhứt với nó.
2. Hãy để cho mình hòa cùng Quang minh của Ngũ Bộ.
3. Dùng năng lực mạnh mẽ của lòng tin kết hợp với đại bi của chư
Như Lai.
Trung Hữu sẽ được giải thoát chỉ cần an trụ trong sự nhứt tâm bất
loạn, Đại bi của chư Phật cũng từ Bản tâm ta lưu xuất mà hiển hiện,
vì vậy, cả hai có thể hiệp nhứt không có gì trở ngại.
Lòng tin, sự tu tập và những lời cầu nguyện chí thành trong thuở sanh
thời đóng một vai trò vô cùng quan trọng khi thọ Thân Trung Ấm sau
khi chết (Trung Hữu). Người chân chánh tu hành, một phen phát tâm
Vô thượng Bồ đề không phải để cầu danh, để được bọn cụ phược
phàm phu khen ngợi, mà phải quyết đạt được Giác ngộ trong đời nầy,
đây là chỗ đặc thù của Phật giáo vậy.
Quang minh của Ngũ Như Lai bình đẳng vô phân biệt chiếu soi tất cả
chúng sanh không sót thừa, kể cả bọn ngoại đạo, tà kiến, hủy báng
Tam Bảo, điều nầy xảy ra vì có ba nguyên nhân chánh:
1. Chúng sanh cũng do Ngũ Ấm giả hợp mà thành. Bản thể của Ngũ
Ấm (sunyata) vốn không khác với bản thể của Ngũ Như Lai (sunyata).
Nhìn thấy chư Phật chính là một cách khác để nhìn Ngũ Ấm.
2. Đại bi tâm (vì “Ta là Phật đã thành còn các ngươi là Phật sẽ
thành”).
3. Tâm bình đẳng vô phân biệt (vì “tất cả chúng sanh đều có Phật
Tánh”).
Ngoài ra thân thể của chúng sanh được dệt nên bằng Ngũ Đại (ở thể
Động), vì vậy Ngũ Phật Mẫu (đại diện cho Ngũ Đại ở thể Tịnh) nên quí
Ngài cũng quyết đến để cứu độ vong nhân.
Cũng vậy, Quang minh của chư Phật Mẫu bình đẳng vô phân biệt
chiếu soi khắp tất cả chúng sanh không sót thừa, nhưng có rất ít
người có khả năng nhận ra.
Nếu vẫn chưa nhận ra Tâm Bổn Nguyên thanh tịnh của mình vào lúc nầy
(thường là như vậy!) thì Trung Hữu sẽ tiếp tục dấn thân phiêu lưu trên
bước đường đầy chông gai phía trước…
CHƯ TRÌ MINH VƯƠNG (VIDYADHARAS) XUẤT HIỆN
(Ngày Thứ Bảy)

156
Trung Hữu bước sang ngày thứ bảy, chư Trì Minh Vương bắt đầu xuất
hiện, các luồng Quang minh nhiều màu sắc khác nhau từ trung tâm của
cổ lưu xuất ra chiếu rọi khắp nơi, đây là bản chất của Ngữ Bí Mật của
chư Như Lai.
Nên nhớ, năm (5) vị Trì Minh Vương và năm (5) vị Trì Minh Phi
(Vidyadhari) là Hóa thân của Ngũ Như Lai và Ngũ Phật Mẫu cùng chư
Bồ tát quyến thuộc, chớ không phải thứ quỷ thần tầm thường của Tam
giới. Năm vị Trì Minh Vương là những biểu tượng của Pháp thân
(Dharmakaya). Nhưng vì nghiệp lực xấu ác khiến cho Trung Hữu
khiếp sợ trước quí Ngài.
Cũng như các phần trước, bất cứ những hành vi nào dù là thuận theo
hay phản kháng khởi lên đối với chư vị Thần linh, và các Quang minh
màu sắc khác nhau thì Trung Hữu cần phải biết rằng chúng chỉ là do
tự tâm của Trung Hữu huyễn hiện.
Lúc nầy chính là lúc mà Trung Hữu phải tập trung tư tưởng để quán
chiếu về các Trí quang và cầu nguyện sự gia hộ của chư Phật Bồ tát,
nhứt là các vị Trì Minh Vương thì Trung Hữu sẽ được giải thoát.
Hỡi chư Trì Minh Vương ! Xin hãy thương xót con
Hướng dẫn con về Tịnh độ Dakpacachod của quí Ngài
Bởi vô minh che lấp từ vô thỉ cho đến nay
Mãi lang thang trong vòng sanh tử luân hồi
Con không biết đường lối tu tập chân chánh
Nguyện chư Trì Minh Vương gia hộ cho con
Khiến con đắc được Tứ trí và Quang minh thanh tịnh
Vượt qua tất cả mọi chướng ngại của Thân Trung Ấm!
Nguyện con chóng viên thành quả vị Phật.
(Ngày Thứ Tám)
Trong ngày thứ tám, đức Đại Nhựt Như Lai hiện thân phẫn nộ thành vị
Phật Đại trượng phu (Buddha Heruka) xuất hiện trước Trung Hữu.
Trên thực tế, vị Phật Đại trượng phu nầy phát xuất từ trung tâm
não bộ của Trung Hữu! Nếu Trung Hữu nhận ra điều nầy và quán
tưởng Ngài là vị thần hộ mệnh của mình và hiệp nhứt cùng Ngài thì
tâm của Trung Hữu và Ngài sẽ không bao giờ tách rời nhau nữa.
Kết quả của sự giác ngộ nầy là Trung Hữu sẽ đạt được cảnh giới của
Báo thân (Sambhogakaya) Phật.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu phải trải qua ngày
thứ chín.
(Ngày Thứ Chín)

157
Trong ngày thứ chín, đức Bất Động Như Lai hiện thân phẫn nộ thành
Kim Cang Đại trượng phu (Vajra Heruka) xuất hiện trước Trung Hữu.
Trên thực tế, Kim Cang Đại trượng phu phát xuất từ phía Đông não
bộ của Trung Hữu!
Đừng sợ hãi tướng mạo hung dữ của họ! Đừng vị sự phẫn nộ của họ
mà kinh hoàng! Chớ thù ghét họ! Nếu Trung Hữu nhận ra rằng
Ngài chỉ là huyễn hiện của tự tâm, Ngài chính là vị thần hộ mệnh
của mình và hiệp nhứt cùng Ngài thì Trung Hữu sẽ đạt được cảnh
giới của Báo thân (Sambhogakaya) Phật.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu phải trải qua ngày
thứ mười.
(Ngày Thứ Mười)
Trong ngày thứ mười, đức Bảo Sanh Như Lai hiện thân phẫn nộ thành
Bảo Đại trượng phu (Ratna Heruka) xuất hiện trước Trung Hữu.
Trên thực tế, Bảo Đại trượng phu phát xuất từ phía Nam não bộ của
Trung Hữu! Đừng sợ hãi tướng mạo hung dữ của họ! Đừng vì sự
phẫn nộ của họ mà kinh hoàng! Chớ thù ghét họ! Nếu Trung Hữu
nhận ra rằng Ngài chỉ là huyễn hiện của tự tâm, Ngài chính là vị
thần hộ mệnh của mình và hiệp nhứt cùng Ngài thì Trung Hữu sẽ
đạt được cảnh giới của Báo thân (Sambhogakaya) Phật.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu phải trải qua ngày
thứ mười một.
(Ngày Thứ Mười Một)
Trong ngày thứ mười một, đức Vô Lượng Quang Như Lai hiện thân
phẫn nộ thành Liên Hoa Đại trượng phu (Padma Heruka) xuất hiện trước
Trung Hữu.
Trên thực tế, Liên Hoa Đại trượng phu phát xuất từ phía Tây não bộ
của Trung Hữu! Đừng sợ hãi tướng mạo hung dữ của họ! Đừng vì sự
phẫn nộ của họ mà kinh hoàng! Chớ thù ghét họ! Nếu Trung Hữu
nhận ra rằng ngài chỉ là huyễn hiện của tự tâm, Ngài chính là vị
Thần hộ mệnh của mình và hiệp nhứt cùng Ngài thì Trung Hữu sẽ
đạt được cảnh giới của Báo thân (Sambhogakaya) Phật.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu phải trải qua ngày
thứ mười hai.
(Ngày Thứ Mười Hai)
Trong ngày thứ mười hai, đức Bất Không Thành Tựu Như Lai hiện thân
phẫn nộ thành Yết ma Đại trượng phu (Karma Heruka) xuất hiện trước
Trung Hữu.

158
Trên thực tế, Liên Hoa Đại trượng phu phát xuất từ phía Bắc não bộ
của Trung Hữu! Đừng sợ hãi tướng mạo hung dữ của họ! Đừng vị sự
phẫn nộ của họ mà kinh hoàng! Chớ thù ghét họ! Nếu Trung Hữu
nhận ra rằng Ngài chỉ là huyễn hiện của tự tâm, Ngài chính là vị
Thần hộ mệnh của mình và hiệp nhứt cùng Ngài thì Trung Hữu sẽ
đạt được cảnh giới của Báo thân (Sambhogakaya) Phật.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giác ngộ lúc nầy thì Trung Hữu sẽ phải đương
đầu với các quỷ thần khác của ngày thứ mười ba.
(Ngày Thứ Mười Ba)
Tám (8) vị nữ Gauris sẽ xuất hiện, thân thể sáng rực rỡ
Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung
mãnh, nhưng tâm Nàng từ bi vô lượng!
Trên thực tế, tám (8) Gauris nầy phát xuất từ tám hướng của não bộ
của Trung Hữu! Xuất hiện trước mặt Trung Hữu bên cạnh Ngũ Bộ
Heruka. Đừng sợ hãi tướng mạo hung dữ của các nàng! Đừng vị sự
phẫn nộ của họ mà kinh hoàng! Chớ thù ghét họ! Nếu nhận ra rằng
tám (8) nàng đây chỉ là tự tâm huyễn hiện thì Trung Hữu sẽ đạt
được sự giải thoát.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu sẽ phải đương đầu
với.
Tám (8) vị nữ Tỳ xá già (Pisacinis) thân thể sáng rực rỡ, sẽ xuất hiện
Các vị Tỳ xá già hình người đầu thú sẽ từ nơi não bộ của Trung Hữu mà
lưu xuất.
Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung
mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Trên thực tế, tám (8) Tỳ xá già nầy phát xuất từ tám hướng của não
bộ của Trung Hữu! Xuất hiện trước mặt Trung Hữu bên cạnh Ngũ
Bộ Heruka. Đừng sợ hãi tướng mạo hung dữ của họ! Đừng vì sự
phẫn nộ của họ mà kinh hoàng! Chớ thù ghét họ! Nếu nhận ra rằng
tám (8) nàng đây chỉ là tự tâm huyễn hiện thì Trung Hữu sẽ đạt
được sự giải thoát.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu sẽ phải đương đầu
với ngày thứ mười bốn...
Ngày Thứ Mười Bốn
Bốn (4) vị Nội Thủ môn Thần nữ thân thể sáng rực rợ, sẽ xuất hiện.
Các vị Thần nữ nầy cũng sẽ từ nơi não bộ của Trung Hữu mà lưu xuất.
Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung
mãnh, nhưng tâm nàng từ bi vô lượng.

159
Trên thực tế, bốn (4) nội Thủ môn Thần nữ nầy phát xuất từ bốn
hướng của não bộ của Trung Hữu! Các nàng đồng thời xuất hiện
trước mặt Trung Hữu bên cạnh Ngũ bộ Heruka. Đừng sợ hãi tướng
mạo hung dữ của họ! Đừng vị sự phẫn nộ của họ mà kinh hoàng!
Chớ thù ghét họ! Nếu nhận ra rằng bốn (4) nàng đây chỉ là tự
tâm huyễn hiện thì Trung Hữu sẽ đạt được sự giải thoát.
Nếu vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu sẽ phải đương đầu
với...
Hai mươi bốn (24) vị Thần nữ (Ishvari) thân thể sáng rực rỡ, sẽ xuất
hiện.
Trung Hữu! Chớ sợ hãi! Mặc dù thị hiện thân phẫn nộ và hung
mãnh, nhưng tâm các nàng từ bi vô lượng!
Bốn (4) vị Ngoại Thủ môn Thần nữ thân thể sáng rực rỡ, sẽ xuất hiện.
Trung Hữu! Đừng sợ nàng, dù mang thân phẫn nộ và hung mãnh,
nhưng tâm nàng từ bi vô lượng!
Trên thực tế, bốn (4) Ngoại thủ môn Thần nữ nầy phát xuất từ tám
hướng của não bộ của Trung Hữu! Xuất hiện trước mặt Trung Hữu
bên cạnh Ngũ Bộ Heruka. Đừng sợ hãi tướng mạo hung dữ của họ!
Đừng vì sự phẫn nộ của họ mà kinh hoàng! Chớ thù ghét họ! Nếu
Trung Hữu nhận ra rằng bốn (4) vị đây chỉ là huyễn hiện của tự tâm
thì Trung Hữu sẽ đạt được sự giải thoát.
Nầy Trung Hữu! Từ phương diện Tịnh của Tánh không (sunyata) lưu
xuất ra thành 48 vị Thiện thần! Hãy nhận ra điều nầy! Từ phương
diện động của Tánh không (sunyata) lưu xuất ra thành 52 vị Hung
thần! Hãy nhận ra điều nầy! Chư Hung thần từ não bộ lưu xuất ra, và
hiện rõ ràng trước mắt Trung Hữu, thân bằng quyến thuộc của Trung
Hữu sẽ không thể thấy được chư vị, chỉ có Trung Hữu một mình kinh
nghiệm mà thôi. Nếu Trung Hữu biết rằng tất cả những hình ảnh kia
từ bản tâm lưu xuất, và không sợ hãi trước các Ngài thì Trung Hữu sẽ
lập tức hiệp nhứt với Thân Đại trượng phu (Heruka-kaya) và đạt
được địa vị của một đấng Phật Đà!
Nầy Trung Hữu! Nếu vẫn chưa nhận ra được bản tâm của mình thì ngươi
sẽ phiêu lưu vào thế giới đầy huyễn ảo, khổ đau, sợ hãi, kinh hoàng và
giận dữ với chính mình và chư vị thần linh kia. Một lần nữa sự khổ đau
không thể nghĩ bàn sẽ đổ ập đến thân người. Vì không phương tiện và bị
nghiệp lực lôi kéo ngươi sẽ thấy chư thần linh kia là Diêm la vương và
chư quỷ thần nơi ác đạo. Ngươi sẽ thù ghét họ! Ngươi sẽ bị kinh hoàng
trước họ! Chính tưởng tượng của ngươi biến thành những hình ảnh
ma quái kia chớ không có gì ngoài tâm ngươi!
160
Nầy Trung Hữu! Thân thể của những bậc Đại Thiện thần (Ngũ Như Lai,
Ngũ Phật Mẫu, chư Bồ tát), chư Trì Minh Vương và chư Trì Minh Phi,
cũng như Đại hung thần (Đại trượng phu của Ngũ Bộ) kia đột nhiên sẽ
lớn ra như hư không, còn thân thể của những vị hầu cận sẽ lớn như núi
chúa Tu Di, các quyến thuộc của quí Ngài sẽ lớn hơn thân ngươi ít nhứt
là đến 18 lần.
Nhưng nầy Trung Hữu! Đừng sợ hãi! Đừng quá đỗi kinh hoàng! Tất
cả những hình ảnh thấy được sẽ trở thành Quang minh và chư Thần
linh kia chẳng qua là do Tâm lực của ngươi huyễn hiện! Hãy đem
hết nghị lực quán chiếu về Tánh không, hoặc tụng Thần chú, hoặc
niệm hồng danh của chư Phật Bồ tát, rồi nhập vào các Quang minh
và chư Thần linh kia, chớ nên do dự, chỉ trong một cái khảy móng
tay nhà ngươi sẽ thành Phật lập tức!
Nầy Trung Hữu! Cho dù những cảnh giới hiện ra kia rất là khủng
khiếp, phải nhận ra chúng nó chính là các tưởng tướng riêng của
riêng ngươi! Nếu ngươi nhận ra chúng chính là biến tướng của tự
tâm, và không còn nghi ngờ gì cả ngươi sẽ trở thành một vị Phật lập
tức! Điều mà Mật tông chủ trương “TỨC THÂN THÀNH PHẬT”
ngươi đã, và đang kinh nghiệm, hãy nhận ra nó ngay vì cảnh giới
nầy sẽ đi qua rất nhanh chóng. Hãy nhớ kỹ điều nầy!
Nầy Trung Hữu! Nếu lúc nầy ngươi vẫn chưa nhận ra Tâm Quang minh
của mình, mà chạy theo những sự kinh hoàng khủng khiếp thì tất cả
những vị Thiện thần sẽ biến thành các vị Thần thủ hộ (Mahakala) màu
đen! Còn những vị Hung thần sẽ biến thành các vị Dạ ma Pháp vương
(Diêm ma vương)! Các tưởng tướng riêng của ngươi sẽ trở thành
những ảo giác, rồi ngươi sẽ bị nhận chìm trong vòng sanh tử luân
hồi!
Nầy Trung Hữu! Nếu vẫn chưa nhận ra những hiện tượng kia chính là
từ tự tâm huyễn hiện, thì cho dù nhà ngươi có thông suốt tất cả kinh
văn của Hiển giáo, các giáo lý của Mật giáo, và cho dù nhà ngươi có
tu tập cả một kiếp đi nữa, ngươi cũng sẽ không thành Phật được!
Trái lại, nếu ngươi có thể nhận ra các hiện tượng kia từ tâm ngươi
lưu xuất thì chỉ cần một lời, một chữ trong lúc nầy ngươi cũng đắc
thành Phật quả!
Nếu các tưởng tướng của riêng ngươi mà ngươi không nhận ra được
chúng thì ngay khi mà ngươi chết, những hình tướng kia sẽ trở thành các
vị Diêm ma vương!
Tất cả chư Diêm ma vương sẽ xuất hiện đầy rợp cả trời, không có kẽ hở,
lớn có nhỏ có, nhưng không vị nào nhỏ hơn núi chúa Tu Di cả. Họ sẽ

161
đến trong hình tướng hết sức phẫn nộ. Vị thì nghiến răng, vị thì bặm môi,
mắt họ sáng như thủy tinh dưới ánh mặt trời, tóc thắt gút dựng đứng lên,
bụng to, cổ nhỏ, họ đều cầm bản ghi chép tội trạng và đồng thời hét lên:
“Đánh nó!”, “Giết nó!” Họ sẽ liếm đầu ngươi, óc ngươi sẽ văng ra, họ sẽ
bứt đầu ngươi, xé xác ngươi ra, rút tim và các cơ tạng trong thân thể
ngươi ra từng phần một.
Bọn chúng đến như thế, số kia đến vô lượng, khắp giáp cả vũ trụ, đồng
thời xuất hiện!
Nầy Trung Hữu! Khi những hình ảnh kia xuất hiện, ngươi chớ nên
quá kinh sợ! Chớ nên khiếp đảm! Nhà ngươi bây giờ không có thân
thể bằng vật chất, thân mà có ngươi đang có chỉ là thân tâm linh
(giống như thân trong mộng); cho nên, nếu thân nầy bị hủy diệt, hoặc
xé ra thành từng mảnh, nó vẫn không chết! Thân ngươi hiện nay
chính là hiện tướng của Tánh không(sunyata), nên không gì có thể
làm tổn thương nó được. Chính ngay bản thân của các vị Diêm ma
vương, các vị Thiện và Hung thần kia cũng chỉ là những tưởng tướng
của ngươi, chúng vốn không có một tự tánh chân thật. Chúng chỉ là
huyễn hóa. Huyễn nhân không thể hại được huyễn nhân! Lửa dữ
trong mộng không thể đốt cháy thân thể đang ngủ! Tánh không không
thể làm tổn thương Tánh không được! Hãy nhận ra điều nầy thì tất
cả mọi sự sợ hãi, kinh hoàng tự nó sẽ tiêu tan. Chớ có nghi ngờ! Hãy
hiệp nhứt với Chân Tâm thì ngươi sẽ lập tức thành Phật! Hãy vận
dụng hết nỗ lực và tin tưởng rằng:
Những hình ảnh kia thật ra chính là vị Bổn tôn\ Thần hộ mệnh của
ta!
Chư vị đến để hướng dẫn ta vượt ra khỏi tình trạng của Thân Trung
Ấm sau khi chết! Ta nay quy y chư vị!
Hãy nhớ tưởng đến Tam Bảo! Hãy nhớ đến vị Bổn tôn \Thần hộ mệnh
của mình! Hãy kêu gọi tên Ngài! Cầu nguyện lên Ngài. Con nay lang
thang trong Thân Trung Ấm.
Ôi! Bổn Tôn! Xin Ngài xin hãy nhớ nghĩ đến con.
Thùy từ gia hộ và cứu vớt con!
Gia hộ cho con khiến con được giải thoát!
Hãy cầu nguyện lên Đạo sư của ngươi:
Con nay lang thang trong Thân Trung Ấm,
Ôi! Đạo sư! Xin Ngài xin hãy nhớ nghĩ đến con.
Vì lòng từ bi, xin Ngài thùy từ gia hộ!
Đừng để con bị trôi lăn nơi vòng sanh tử luân hồi!”

162
Hãy tin tưởng vào các Ngũ Đại trượng phu (Heruka) của Ngũ Bộ và chư
Thần linh quyến thuộc của quí Ngài, và cầu nguyện lên chư vị:
Con cùng tất cả chúng sanh trong Pháp giới
Từ vô thỉ trôi lăn theo vòng Sanh tử
Cũng vì tham, sân, si, mạn và tà kiến
Không phân lành dữ, tạo ra vô lượng tội
Để nay, theo ảo tưởng buộc ràng
Chịu lắm nỗi lo âu, khiếp sợ, kinh hoàng
Con nay vì hết thảy chúng sanh và tự thân mình
Đối trước chư Phật, Bồ tát, Trì Minh Vương.
Chư Đại trượng phu (Heruka) và chư Thần hung mãnh
Xin hết lòng sám hối, những tội đã làm nguyện trừ diệt.
Ác nghiệp đời sau không dám tái phạm.
Nguyện chư Phật Bồ tát, Trì Minh Vương
Chư Đại trượng phu, chư Thần hung mãnh
Hướng dẫn con cùng tất cả chúng sanh
Thoát khỏi mọi hiểm nguy của Thân Trung Ấm
Chúng con y pháp tu hành chóng thành Phật đạo
Hiện nay con lang thang cô độc một mình
Bỏ lại thân bằng, quyến thuộc, và những người thân yêu
Con nay biết tất cả ảo tướng trên bản chất đều là Không
Cầu xin chư Phật vì lòng Đại bi
Cứu con khỏi lo âu, khiếp sợ, kinh hoàng
Khiến con thoát khỏi hiểm nguy của Thân Trung Ấm
Khi Ngũ Trí Quang bừng lên thì đồng lúc ấy
Con nhận ra chúng, đạt được sự vô úy, và can đảm
Khi chư Phật Bồ tát, Trì Minh Vương
Chư Đại trượng phu, chư Thần hung mãnh
Xuất hiện, tâm con bất động, và nhận ra Thân Trung Ấm
Hiện nay con chịu khổ đau là do ác nghiệp chiêu cảm
Nguyện chư Phật Bồ tát, Trì Minh Vương
Chư Đại trượng phu, chư Thần hung mãnh
Giúp con hàng phục và xóa tan mọi khổ đau!
Như trăm ngàn tiếng sấm nổ, khi thực tại bị phát hiện.
Nguyện âm thanh (*) kia biến thành Lục Đại thần chú
Om Mani Padme Hum!
Nguyện mong đức Đại Bi Thế Tôn
Cứu con vượt khỏi trăm ngàn khổ đau
Nguyện mong Quang minh Tam muội chiếu rọi

163
Khiến Ngũ Đại khởi lên không nghịch lại với con
Nguyện con cùng tất cả chúng sanh
Đồng thời diện kiến chư Tịnh độ của Ngũ Bộ Như Lai!
(đọc 3 đến 7 lần)
Như vậy, Trung Hữu phải chí thành sám hối và cầu nguyện lên chư vị.
Điều nầy cực kỳ quan trọng, vì nhờ nó mà sự lo âu, sợ hãi, và kinh
hoàng sẽ tiêu tan và Trung Hữu sẽ đạt được cảnh giới của Báo thân. Chớ
có chần chờ!
(*) Những âm thanh mà Trung Hữu nghe từ 58 vị hung thần thường là
“HUNG! PHAT!” chúng rền vang như trăm ngàn tiếng sấm nổ.
Nếu lúc sanh thời có tu tập và kinh nghiệm về các vị Hung thần, Trì
Minh Vương, v.v…chẳng hạn như chư Thế Tôn Uế Tích Kim Cang
(Ucchusma), Chấp Kim Cang (Vajradhara), King Cam Thủ (Vajrapani),
Kim Cang Tạng (Vajragarbha), Bất Động Tôn (Acala), Hàng Tam Thế
(Trilokyavijaya), Đại Luân, (Mahacakra), Cakrasambhava, Guhysamaya,
Kalacakra, Hevajra, Mahakala, v.v… thì lúc nầy Trung Hữu quyết định
nhận ra được những âm thanh nầy và vị Bổn Tôn của mình, Trung Hữu
sẽ không còn sợ hãi trước quí Ngài. Trung Hữu sẽ nhận ra bản chất
(huyễn hóa, không có tự tánh) của các bậc thần linh và thành tựu sự giải
thoát.
Nếu không có những kinh nghiệm như trên về các đấng thần linh mang
hình tướng phẫn nộ thì Trung Hữu cần phải lắng nghe giáo lý bí mật về
Thân Trung Ấm, rồi đem hết năng lực ra quán chiếu các bậc thần linh
như sách dạy, nhờ vậy mà Trung Hữu có thể nhận ra quí Ngài dễ dàng
hơn.
Nếu nhận ra được quí Ngài chính là đức Bổn Tôn/ Thần hộ mệnh của
mình thì hãy thành tâm quy y, sám hối, phát nguyện, và hãy khởi Đại bi
tâm đến chư chúng sanh, như vậy Trung Hữu quyết định sẽ được vãng
sanh về thế giới Diệu Hỷ và sẽ thành Phật ở cõi đó.
Tùy theo sự liên hệ giữa Trung Hữu và chư Thần linh trong khi sanh thời
mà Trung Hữu có thể đạt được sự giải thoat trong khi thọ Thân Trung
Ấm. Nếu chưa đạt được sự giải thoát ở giai đoạn nầy thì Trung Hữu sẽ
phải phiêu lưu sang giai đoạn Sanh hữu.
Chính năm (5) Ấm nầy dưới sự chỉ đạo của tham dục đã tạo ra vô vàn
hành động trong Ba Cõi. Kết quả của những hành động nầy là chúng
sanh phải chịu trăm khổ ngàn đau nơi chốn Sanh từ Luân hồi không biết
đến bao giờ mới ra khỏi! Đây là đứng trên phương diện động, phương
diện bất tịnh mà nói. Nhưng khi một chúng sanh thanh tịnh hóa tri giác\
kiến giải thì Ngũ Uẩn biến thành Ngũ Như Lai, mỗi Uẩn tượng trưng
164
bằng một đức Như Lai. Đến đây là hết phần của bậc Trung Trung
Căn!
Nếu sau 14 ngày mà vẫn chưa đạt được sự giải thoát thì Trung Hữu sẽ
phải đương đầu với cái “chết!” [cứ bảy (7) ngày thì bị chết một lần, nó
rất vi tế, nhưng dễ nhận ra đó là Thân Trung Ấm bị rơi vào tình trạng
“vô thức”].
Sau đó không lâu, Thần thức sẽ phải thọ lấy Thân Trung Ấm đi tìm thân
sau để đầu thai trong vòng Sanh tử Luân Hồi (Sanh hữu)! Việc nầy mau
hay chậm là tùy nghiệp của mỗi một chúng sanh, không có gì là nhứt
định cả.
THÂN TRUNG ẤM ĐI TÌM THÂN SAU ĐỂ ĐẦU THAI TRONG
VÒNG SANH TỬ LUÂN HỒI
(Sanh Hữu)
Sau khi “sống” lại, trong khoảng thời gian lưu lạc trong tình trạng Sanh
hữu, Thần thức của vong nhân sẽ sở đắc được nhiều khả năng siêu phàm,
nhưng không có nghĩa là Sanh hữu đã được nhập vào Thánh vị. Những
khả năng đó có được không phải là do Sanh hữu đắc được Định hay nhập
vào Tam muội mà chính là do nghiệp quá khứ tạo nên, chẳng hạn như
Sanh hữu có thể đi từ Địa cầu đến cõi Cực Lạc hoặc cõi Diệu Hỷ hoặc
mười phương Tịnh độ chỉ trong khoảnh khắc, lại có thể tự tại xuyên qua
tất cả mọi vật. Không có gì có thể cản trở Sanh hữu được, trừ tháp thờ
Phật và tử cung. Đó chỉ là nói sơ qua thôi, có thể nói cho dễ hiểu hơn là
Thần thức lúc bấy giờ sở hữu những quyền năng như một vị Trời, nhưng
khả năng và giới hạn thì rộng lớn hơn nhiều. Nó có đầy đủ tứ thần thông:
Thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm thông, thần túc thông, nhưng không có túc
mạng thông.
Ghi chú: Trong thời gian nầy, Trí quang sẽ không xuất hiện nữa,
nhưng ánh sáng của Lục đạo lại một lần nữa tiếp tục chiếu soi để
dẫn dắt Sanh hữu đi đầu thai.
Lúc bấy giờ, Sanh hữu sẽ trải qua bốn (4) thứ kinh nghiệm mà trong lúc
bình sanh mình chưa từng biết đến.
1. Sanh hữu sẽ bị lôi cuốn vào giữa một trận mưa bão hãi hùng,
2. Sanh hữu sẽ bị một luồng gió mạnh khủng khiếp thổi vào thân,
3. Sanh hữu sẽ bị rơi vào một chỗ mù mịt tối tăm như đêm ba mươi
không trăng, không sao,
4. Sanh hữu sẽ nghe những tiếng động kinh hồn bạt vía như trăm ngàn
tiếng sấm sét nổ.
Hàng cụ phược phàm phu, ngu si, chấp càn, chấp bậy cho là do
Phạm thiên làm, hoặc Thượng đế làm, hoặc đấng Tạo hóa làm. Thật

165
ra, bốn (4) kinh nghiệm kia cũng chính là những hiện tượng do tự tâm
huyễn hiện, nó khởi lên là do các vọng nghiệp mà thuở sanh thời vong
nhân đã tạo tác ra, chớ không có đấng nào làm ra cả.
1. Kinh nghiệm về mưa bão phản ảnh lại lòng tham dục của vong nhân.
2. Kinh nghiệm về gió ác phản ảnh lại lòng sân hận của vong nhân.
3. Kinh nghiệm về sự tối tăm phản ảnh lại sự vô minh của vong nhân.
4. Kinh nghiệm về các tiếng động kinh hồn bạt vía phản ảnh lại tâm điên
đảo mê loạn của vong nhân trong thời gian thọ Thân Trung Ấm đương
lúc chết (Tử Hữu) và Thân Trung Ấm sau khi chết (Trung Hữu).
Vì kinh hoàng, hoảng sợ trước những hiện tượng nầy, khiến cho Sanh
hữu bị trở ngại trong việc đi đầu thai nơi các cõi thanh tịnh hoặc những
cõi lành. Chính điều nầy sẽ khiến cho Sanh hữu mất đi cái cơ hội thành
tựu sự giác ngộ.
Lại nữa, ở giai đoạn nầy thì Sanh hữu sẽ trải qua ba (3) kinh nghiệm lớn,
mỗi kinh nghiệm lớn được chia làm ba (3) nữa, hợp lại có chín (9) kinh
nghiệm cả thảy. Tùy theo bản nghiệp mà Sanh hữu sẽ chiêu cảm một
trong ba thứ kinh nghiệm lớn kia.
1. Nếu làm những nghiệp lành thì Sanh hữu sẽ kinh nghiệm tự thân
hiện ra nơi cảnh giới vui đẹp của chư Thiên, hoặc ngồi trên một tòa rất
cao trong một cung điện nguy nga.
2. Nếu không tạo những nghiệp lành lớn, cũng không làm những
nghiệp dữ nhiều thì Sanh hữu sẽ kinh nghiệm tự thân hiện ra trong một
căn nhà lợp bằng tranh, hoặc nhà lợp lá, hoặc trong những bó lúa.
3. Nếu tạo nghiệp ác dữ nhiều, thiện nghiệp kém ít thì Sanh hữu sẽ
kinh nghiệm tự thân hiện ra trong những cây cỏ to lớn hoặc chui vào
những lỗ nhỏ nơi tường vách, hoặc chạy vào khu rừng già.
Khi thời gian đi đầu thai đã đến thì Sanh hữu sẽ trải qua một kinh
nghiệm thích thú đó là sự quyến rũ rất hấp dẫn của luồng ánh sáng
mà nghiệp lực của nó bám víu vào.
1. Nếu sanh vào cõi Trời thì Sanh hữu sẽ đi theo ánh sáng màu trắng
đục, và có cảm giác rằng mình đang đi vào Thiên cung rộng lớn trang
nghiêm cực kỳ nguy nga, tráng lệ. Sanh hữu cõi Trời dục giới có màu
hoàng kim, cõi Trời sắc giới có màu sắc trắng láng. Trời vô sắc không có
Thân Trung Ấm vì không có sắc thân bằng vật chất vậy. Sanh hữu đi đầu
thai ở các Từng trời thì đầu hướng lên trên.
2. Nếu sanh vào cõi A tu la (Quỷ thần) thì Sanh hữu sẽ đi theo ánh
sáng màu đỏ, và có cảm giác rằng mình đang đi vào một khu vườn đẹp
đẽ hoặc vào một nơi rất đẹp đẽ, cái đẹp siêu phàm. Sanh hữu của A tu la
màu đỏ, khi đi đầu thai cũng giống như chư Thiên cõi Dục.
166
3. Nếu sanh vào cõi Người thì Sanh hữu sẽ đi theo ánh sáng màu xanh
dương. Sanh hữu cõi Người có màu hoàng kim. Sanh hữu đi đầu thai ở
cõi Người thì đi ngang.
Sanh trong loài người có thể xảy ra ở một trong Bốn châu. Châu mà
chúng ta đang ở gọi là Nam Thiệm Bộ Châu (toàn trái Đất, chớ không
phải một trong năm Châu: Á, Âu, Mỹ, Phi và Úc). Mỗi Châu có cảnh
giới riêng của nó, do cộng nghiệp, và biệt nghiệp của chúng sanh cõi đó
tạo nên, chớ không phải do Thượng đế, hoặc đấng Tạo hóa nào làm ra
cả.
a. Đông Thắng thần châu: Nếu sanh vào cõi nầy thì Sanh hữu sẽ thấy
những trang nam tử và những thiếu nữ tuyệt đẹp đứng vây quanh một cái
hồ. Người sanh vào cõi nầy đều được giàu có, sống lâu, nhưng đối với
người đã tu tập theo đạo Vô thượng Bồ đề thì chớ nên cầu mong sanh
vào chốn nầy vì nó có một (1) điều chướng Đạo rất lớn đó làkhông
có Phật pháp! Do đó không có cơ hội giác ngộ.
b. Tây Ngưu hóa châu: Nếu sanh vào cõi nầy thì Sanh hữu sẽ thấy
những bầy ngựa đực có, cái có, đứng vây quanh một cái hồ. Người sanh
vào cõi nầy cũng đều được giàu có, nhưng đối với người đã tu tập theo
đạo Vô thượng Bồ đề thì chớ nên cầu mong sanh vào chốn nầy vì nó có
một (1) điều chướng Đạo rất lớn đó là không có Phật pháp! Do đó
không có cơ hội giác ngộ.
c. Bắc Cu lô châu: Nếu sanh vào cõi nầy thì Sanh hữu sẽ thấy những
cây đẹp và vườn bông chung quanh một cái hồ. Người sanh vào cõi nầy
thì cũng đều được giàu có lớn, sống lâu, nhưng đối với người đã tu tập
theo đạo Vô thượng Bồ đề thì chớ nên cầu mong sanh vào chốn nầy vì
nó có một (1) điều chướng Đạo rất lớn đó là không có Phật pháp! Do
đó không có cơ hội giác ngộ.
d. Nam Thiệm bộ châu: Hãy cố gắng vào thai bào để được tái sanh
vào cõi nầy vì đây là một Châu duy nhứt trong bốn (4) Châu có Phật
Pháp để tu tập.
Nếu sanh vào cõi nầy thì Sanh hữu sẽ thấy nhiều nhà cửa xinh đẹp, và sẽ
thấy Cha Mẹ tương lai của mình đang hành dâm, do lửa dục phát sanh
khiến cho giọt đỏ của Mẹ (tinh huyết) và giọt trắng của Cha (tinh khí)
phát ra tia sáng, Sanh hữu lập tức nhìn thấy, không cần biết nó ở xa đến
đâu đi nữa, do nghiệp lực nó vẫn có thể thấy rõ ràng, và hiện thân gần đó
để chờ cơ hội mà nhập vào tử cung. Nếu cả cha lẫn mẹ đều có nhiễm
tâm cùng làm dâm ái, bụng Mẹ sạch sẽ, nguyệt kỳ điều hòa đến thời
kỳ và Sanh hữu hiện tiền, như vậy thì nhập thai Mẹ.

167
Lại lúc Trung Hữu sắp nhập thai tâm liền điên đảo. Nếu là nam thì với
Mẹ sanh yêu, với Cha sanh ghét. Ngược lại, nếu là nữ thì với Cha
sanh yêu, với Mẹ sanh ghét. Đây là do đời quá khứ đã tạo ra các
nghiệp mà sanh vọng tưởng có tâm niệm hiểu sai lầm.
Sanh hữu ấy lúc muốn nhập thai còn có hai thứ: Một là không
phước đức, hai là có phước đức lớn.
Sanh hữu không phước đức, tâm giác quán khởi lên thấy cảnh giới liền
nghĩ rằng:
Nay tôi gặp gió lạnh mưa tối, người đông ồn ào, nhiều oai dữ đến
bức hại, do đó nên sợ hãi liền chạy vào nhà cỏ, nhà lá, hoặc ẩn trốn
nơi chân tường, hoặc chạy vào núi, chằm, rừng rậm, hang động, lại
còn phát sanh nhiều thứ thấy khác nữa. Tùy theo chỗ nghĩ, thấy bèn
nhập vào thai Mẹ.
Sanh hữu có phước đức lớn, tâm giác quán khởi lên thấy cảnh giới liền
nghĩ rằng:
Nay tôi gặp gió lạnh mưa tối, người đông ồn ào, nhiều oai dữ đến
bức hại, do đó nên sợ hãi liền chạy lên lầu cao, lên gác cao, vào điện
đường, lên ghế, lên giường, lại còn phát sanh nhiều thứ thấy
khác nữa. Tùy theo chỗ nghĩ, thấy bèn nhập vào thai Mẹ.
Lúc Sanh hữu niệm tưởng như vậy liền nhập thai Mẹ. Ngay khi mà
Sanh hữu khởi lên niệm yêu ghét nó lập tức nhập vào Tử cung của
người Mẹ, và được sanh ra thành một chúng sanh tầm thường.
Ở đây, đức Đại Bi Thế Tôn chỉ dạy đại khái rằng có hai (2) cách để
tránh khỏi tình trạng cấu uế nầy.
* Cách thứ nhứt: Sanh hữu hãy quán chiếu rằng các nhà cửa xinh đẹp kia
và luồng sáng màu xanh dương kia chẳng qua cũng chỉ là phóng ảnh của
tự tâm huyễn hiện ra mà thôi, trên bản chất nó không có một tự tánh
riêng biệt nào cả.
Nếu có thể làm được như vậy thì Sanh hữu lập tức đạt được sự giải thoát.
* Cách thứ hai: Sanh hữu phải quán chiếu rằng luồng ánh sáng màu xanh
kia và cái thấy cả hai vốn là rỗng không (sunyata), không có một thực
thể nào cả; tự tánh của chúng vốn là rỗng không.
Nếu có thể làm được như vậy thì Sanh hữu lập tức sẽ nhập vào thế giới
bất nhị và trong khoảng một khảy móng tay có thể hiện chứng cảnh giới
của bậc Bất Động Địa Đại Bồ tát (Acala-bhumi Mahabodhisattva).
Trong thời gian giữa lúc Tử Hữu và trước khi Sanh hữu đi đầu thai thì
chỉ cần một (1) niệm khởi lên phù hợp với Chánh Pháp của chư Như Lai
thì chính cái niệm đó cũng đủ bảo đảm sự giác ngộ cho bản thân; trái lại,
chỉ cần một (1) niệm khởi lên đi trệch ra khỏi Chánh Pháp, tức tà kiến,
168
thì cũng đủ khiến cho nó lôi kéo tâm chúng sanh vào chỗ đau khổ triền
miên rộng lớn như biển cả, và chúng sanh đó khó mà có cơ hội vượt qua
bể khổ kia. Thế nên, ai là người trí phải nên khéo điều phục cái tâm của
mình, phải luôn quán sát Tánh Không (sunyata) và Diệu Hữu của bản
tâm và vạn pháp. Không ai có thể cứu chúng ta ra khỏi cảnh giới khổ
đau, phiền não, nếu chính bản thân chúng ta cứ mải bo bo ôm ấp, nâng
niu chìu chuộng cái vỏ Ngã pháp được tô điểm bởi Tham, Sân, Si, Mạn,
Tà kiến và Đố kỵ.
4. Nếu sanh vào cõi Súc sanh thì Sanh hữu sẽ đi theo ánh sáng màu xanh
lá cây nhạt, và có cảm giác rằng mình đang đi vào một hang động. Sanh
hữu cõi Súc sanh có màu như khói. Sanh hữu đi đầu thai thì đi ngang.
5. Nếu sanh vào cõi Ngạ quỷ thì Sanh hữu sẽ đi theo ánh sáng màu vàng
lợt, và có cảm giác rằng mình đang đi vào một đống gỗ cháy. Sanh hữu
cõi Ngạ quỷ có màu như nước. Sanh hữu đi đầu thai thì đi ngang.
6. Nếu sanh vào cõi Địa ngục thì Sanh hữu sẽ đi theo ánh sáng màu đen
như khói, và có cảm giác rằng mình đang đi vào một căn nhà màu
đen pha đỏ và sẽ nghe tiếng nhạc du dương khó mà chống lại sự quyến
rũ của nó. Sanh hữu cõi Địa ngục có màu như cây gỗ cháy trụi. Sanh hữu
đi đầu thai thì đầu trút xuống.
Tuy nhiên, ngay khi các luồng ánh sáng và những hiện tượng kia
xuất hiện, Sanh hữu hãy sử dụng năng lực phi thường của mình mà
nhứt tâm quán tưởng rằng những hình ảnh và ánh sáng kia chính là
biến tướng của đức Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát. Đây cũng là một
trong những ý nghĩa nhiệm mầu của Lục Tự Đại Minh vậy.Nhờ vào
sự chí thành khi quán tưởng, Sanh hữu sẽ nhập làm một với Quang minh
Đại bi của đức Bồ tát, và lập tức sẽ được giải thoát. Xét cho cùng, nói
thiệt ra thì ngoài TÂM hẳn không có pháp gì riêng, tất cả chỉ là cảnh sở
biến của tâm hoặc tự tâm huyễn hiện mà thôi. Không có gì phải nghi ngờ
cả!
Nếu vẫn chưa nhận ra lý như huyễn của tự tâm thì Sanh hữu cần phải
biết cách ĐÓNG CỬA TỬ CUNG.
ĐÓNG CỬA TỬ CUNG
Thông thường, Sanh hữu bắt đầu từ ngày thứ 18 sau khi chết (có người
nhanh hơn chẳng hạn như chết bất đắc do tai nạn gây ra).
Có hai phương pháp chánh để đóng cửa tử cung:
1. Không để Thần thức của Sanh hữu nhập vào tử cung.
2. Bít cửa tử cung
Nầy Sanh hữu! Ngươi tên họ là… Pháp danh… Hiện nay ngươi đang
sở đắc những khả năng siêu phàm, nếu ngươi nghĩ gì, tưởng gì, thì

169
lập tức hình sắc kia sẽ lập tức hiện ra trước mắt nhà ngươi, và nếu
ngươi muốn đi lập tức sẽ đến, vì ngươi có thần túc nên đi rất mau
chóng.
Nầy Sanh hữu! Vào lúc nầy nếu ngươi thấy nam nữ hành dâm thì
ngươi hãy tránh xa bọn chúng! Chớ khởi hai niệm điên đảo yêu
ghét! Nếu làm được như thế thì ngươi sẽ không bị nhập vào thai chịu
lắm phiền não. Ai là người trí lại thích nhập thai Mẹ!
Nầy Sanh hữu! Hãy nhứt tâm quán chiếu về đức Bổn Tôn của
ngươi! Khi xuất hiện trước ngươi, thật ra, Ngài chỉ là huyễn tướng
của tự Tâm lưu xuất, vốn không có tự thể. Hãy quên tất cả! Chỉ cần
nhứt tâm quán Tánh không (sunyata) thì nhà ngươi sẽ không đi vào
tử cung mà chịu sự sanh bất tịnh. Bằng cách quán tưởng nầy chỉ
trong khoảng duỗi cánh tay nhà ngươi sẽ được giải thoát! Nầy Sanh
hữu! Nhà ngươi không có duyên lành chọn một vị Phật, Bồ tát, Trì
Minh Vương, Đại trượng phu v.v… làm đức Bổn Tôn thì hãy quán
tưởng và cầu nguyện đức Quán Thế Âm Bồ tát, vì Ngài là bậc Đại
Từ Bi. Khi ngươi xướng hồng danh của Ngài thì Ngài sẽ nhớ đến bổn
nguyện mà đến cứu độ ngươi!
Nầy Sanh hữu! Nếu ngươi có đi chùa ít ra ngươi cũng đã từng nghe
hồng danh đức Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang ) và phước đức thâu
hoạch được nhờ chí thành niệm danh hiệu Ngài. Hãy chí thành niệm
hồng danh của Ngài lập tức! Hãy nguyện sanh về cõi Ngài tức khắc.
Hãy nhứt tâm hướng về Tây phương Cực Lạc (hoặc xướng các Tịnh
độ khác mà thuở sanh tiền vong nhân ưa thích!) Phật A Di Đà xưa
có phát nguyện rằng:
Chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu Ta rồi chí tâm tin
muốn, nguyện sanh về cõi nước của Ta nhẫn đến mười niệm, nếu
chúng sanh ấy không được sanh, thời Ta không ở ngôi Chánh giác.
Nầy Sanh hữu! Hãy chí tâm lập theo Phổ Hiền Thập Hạnh Nguyện
Vương làm chỗ quy hướng (xem kinh Hoa Nghiêm, do Hòa thượng
Thích Trí Tịnh dịch, quyển 40, hoặc xem kinh Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Vương, theo Mật tông do Nguyễn Pram, và Nguyễn Văn Tề,
Bồ tát giới tử Phước Huệ đồng dịch).
Đến đây, hy vọng Sanh hữu đã được giải thoát hoặc ít nhứt cũng
được sanh về Tịnh độ. Nếu không được như vậy thì ắt Sanh hữu tội
chướng quá sâu nặng, tà kiến quá dẫy đầy cho nên không được siêu
thoát.
- Phần nghi quỹ nầy đến đây đã kết thúc –
MƯỜI CÔNG ĐỨC ẤN TỐNG KINH, TƯỢNG PHẬT
170
- Một là, những tội lỗi đã tạo từ trước, nhẹ thì được tiêu trừ, nặng thì
chuyển thành nhẹ.
- Hai là, thường được các thiện thần ủng hộ, tránh được tất cả tai ương
hoạn nạn, ôn dịch, nước lửa, trộm cướp, đao binh, ngục tù.
- Ba là, vĩnh viễn tránh khỏi những quả báo phiền khổ, oán cừu oan trái
của đời trước cũng như đời này.
- Bốn là, các vị hộ pháp thiện thần thường gia hộ nên những loài dạ xoa
ác quỷ, rắn độc hùm beo tránh xa không dám hãm hại.
- Năm là, tâm được an vui, ngày không gặp việc nguy khốn, đêm ngủ
không thấy ác mộng. Diện mạo hiền sáng, mạnh khỏe an lành, việc làm
thuận lợi, được kết quả tốt.
- Sáu là, chí thành hộ pháp, tâm không cầu lợi, tự nhiên y phục đầy đủ,
gia đình hòa thuận, phước lộc đời đời.
- Bảy là, lời nói việc làm trời người hoan hỷ, đến đâu cũng được mọi
người kính mến ngợi khen.
- Tám là, ngu chuyển thành trí, bệnh lành mạnh khỏe, khốn nghèo
chuyển thành thịnh đạt. Nhàm chán nữ thân, mệnh chung liền được thành
nam thân.
- Chín là, vĩnh viễn xa lìa đường ác, sanh vào cõi thiện, tướng mạo đoan
nghiêm, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy.
- Mười là, hay vì tất cả chúng sinh trồng các căn lành. Lấy tâm cầu của
chúng sinh làm ruộng phước điền cho mình. Nhờ công đức ấy đạt được
vô lượng phước quả thù thắng. Sanh ra nơi nào cũng thường được thấy
Phật, nghe Pháp, phước huệ rộng lớn, chứng đạt lục thông, sớm thành
Phật quả.
ẤN QUANG TỔ SƯ DẠY: - Ấn tống Kinh, tượng Phật được công đức
thù thắng như vậy, nên gặp khi chúc thọ, thành hôn, cầu phước, thoát
nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tật bệnh, cầu siêu độ hương linh, hãy tinh tấn
phát tâm Bồ đề ấn tống, để trồng cội phước đức cho chính mình và thân
bằng quyến thuộc.
~~~
Đánh máy: Nhuận Giai
Proofread: Giác Viên

171

You might also like