You are on page 1of 101

CHẠY TRỐN

CHẠY TRỐN

 267 câu chuyện để suy niệm 

            Lm. Lê Công Đức dịch từ

                       TAKING FLIGHT

          của  Anthony de Mello, S.J.

          do  nhà Image Books – Doubleday xuất bản, 1990. 

 http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailbook&id=282&ib=352

lời tựa

Ngày ‘xưa’, có một bậc thầy linh đạo tên là Tony de Mello, dòng Tên. Vị linh mục
này đánh động tâm hồn người ta qua các lục địa, vì Cha dạt dào mến yêu cuộc sống – sống
thực, sống mãnh liệt, sống vui tuơi. Với những câu chuyện kể đầy lôi cuốn, với tính cách hài
hước và thân tình, với những cảm thức thâm trầm về hạnh phúc, với sự khám phá về bản ngã
đích thực, Cha đã đem lại niềm phấn khích lớn lao cho bất cứ thính giả nào lắng nghe Cha. Cha
không ngừng đi đây đi đó để giúp giải phóng những con tim, để rút nghĩa lý ra từ cái vô nghĩa, và
để trao ý nghĩa cho bất cứ nẻo đường tâm linh nào in dấu chân con người.

Một tinh thần luôn luôn hiện lộ rõ nơi con người này - đó là khi hướng dẫn, Cha không
qui hướng về Cha, nhưng là qui hướng về mỗi người trong chúng ta, những kẻ lắng nghe Cha:

để kéo ‘ông thầy’ ra từ trong chính mình,

để múa điệu múa riêng của mình,

để hát ca khúc của mình.

Tony de Mello nhấn mạnh:

Bạn phải là ánh sáng cho chính bạn!

Khi Cha Tony chết vào ngày 2 tháng sáu, 1987, tôi cảm nhận một nỗi mất mát lớn lao
phủ trùm trên các bạn hữu và những người ái mộ Cha tại đất nước này và trên thế giới. Nhưng
điều khiến tôi đặc biệt ngạc nhiên chính là nỗi buồn tiếc rất ‘riêng tư’ trong lòng không chỉ của
những người biết Cha mà cả của vô số người vốn từ lâu hằng ước mong được gặp và được
nghe Cha nói.

Tôi an ủi họ rằng Cha Tony có để lại cho họ một di sản phong phú qua sách vở – trong
đó món quà cuối cùng của Cha chính là bản thảo hoàn chỉnh của tập sách mà bạn sắp đọc
đây[1], để suy ngẫm và rút tỉa các tinh túy của nó. Trong một lá thư viết cho một thân hữu – mà
Cha Tony đã qua đời khi chưa kịp gửi – Cha đã cho biết mình phải vất vả rất nhiều để hoàn
thành bản thảo trước khi đi Mỹ: “Tôi muốn viết trước khi rời Ấn Độ, nhưng tôi không thể tìm ra
được một khoảnh khắc nào cho công việc này. Tôi đã và đang cặm cụi làm việc liên tục với bản
thảo để có thể giao nó cho nhà xuất bản.” Đó quả là một nỗ lực nhọc nhằn của tình yêu.
Cũng là một nỗ lực nhọc nhằn của tình yêu, việc viết lời tựa cho tác phẩm cuối cùng này
của Cha Tony. Bạn hãy tưởng tượng mình cầm trên tay một bản thảo được viết bởi người bạn
thân nhất của mình, một người cộng tác, một cố vấn tinh thần, một bạn đồng hành của mình ...
sau khi anh ta đã qua đời – và bạn còn biết rằng bản thảo ấy được trao riêng cho bạn! Trong tâm
trạng đó, tôi đã lật qua những trang đầu tiên. Câu chuyện thứ nhất - “Lời Cầu Nguyện của con
Eãnh Ương” – là một câu chuyện tôi chưa từng được nghe bao giờ. Độc đáo biết bao, linh đạo
của con người kỳ diệu này! Một linh đạo mở toang với cuộc sống, nhạy cảm với cái tốt, cái đẹp
nơi mọi sự vật, ngay cả nơi tiếng kêu ôộp ôộp của một con ễnh ương! Tôi sống trong ký túc xá
đại học với các sinh viên, nơi mà nhiều lúc tiếng ồn làm tôi bực bội. Tôi tự hứa từ đây mình sẽ
ghi khắc trong lòng lời đề nghị nghịch lý này của Cha Tony: “Đừng quấy rầy tiếng ồn!” Thật là kỳ
diệu của các kỳ diệu.

Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, Cha Tony chưa bao giờ dạy tôi một điều gì theo nghĩa rằng
Cha cố nhét vào trong tôi một triết lý linh đạo nào đó hay một lối sống nào đó. Tất cả những gì
Cha làm là khích lệ tôi tự khám phá ra những gì là thực, đúng và đẹp trong đời sống. Còn hình
thức giáo dục nào tốt hơn không? Còn linh đạo nào tinh ròng hơn không? Cha khẳng định: “Bạn
không thể hạnh phúc, bạn không thể có linh đạo thực sự, không thể nhận hiểu đích thực, trừ phi
bạn tự do. Và ngược lại, bạn không thể có tự do đích thực, trừ phi bạn nhận hiểu.” Đối với Cha,
việc khám phá chân lý và việc nhận hiểu bản ngã thực của mình, hai đàng chỉ là một. 

Đó là lý do tại sao các bài nói chuyện của Cha, các câu chuyện Cha kể, những tiếng
cười Cha khơi lên ... trở thành một lực gài vào bên trong ngục tù sợ hãi của bạn - sẵn sàng nổ
tung bất cứ lúc nào để đập tan tành bao xích xiềng quá khứ hay bao lo lắng tương lai nơi mình,
nếu bạn xả đủ lỏng để tháo ngòi cho nó nổ tung.

Một Tony de Mello như thế không thể nào chết được!

J. FRANCIS STROUD, S.J.

Trung Tâm Linh Đạo De Mello

Đại Học Fordham,

Bronx, New York.

------------------------------------------------------------------

đôi dòng về tác giả:

Cha Anthony de Mello, S.J. là giám đốc Viện Tư Vấn Mục Vụ Sadhana ở Poona, Ấn Độ. Là một
tu sĩ Dòng Tên thuộc tỉnh dòng Bombay, ngài được biết đến rộng rãi tại các nước nói tiếng Anh
và tiếng Tây Ban Nha nhờ những khóa tĩnh tâm, những khóa hội thảo về cầu nguyện và các hoạt
động tâm lý trị liệu của ngài. Đó là  những hoạt động mà ngài đã bền bĩ dấn thân trong hơn 18
năm trên khắp thế giới. Mặc dù ngài chết đột ngột năm 1987, Cha Anthony de Mello cũng kịp để
lại một di sản phong phú về linh đạo qua các sách vở và các băng ghi âm những bài nói chuyện
của cha.

Tác giả Lê Công Đức, Lm.

Cảnh Giác!
           Thật lạ. Dù lòng người ta khát khao Chân Lý, dù họ nghĩ rằng chỉ chân lý mới đem lại cho
họ sự giải phóng và niềm vui, nhưng phản ứng đầu tiên của người ta đối với Chân Lý lại thường
là một thái độ thù địch và sợ hãi.

Vì thế, các bậc thầy tu đức của loài người, như Đức Phật và Chúa Giêsu, đã tạo ra một
khí cụ để hóa giải sự dị ứng của thính giả khi nghe các ngài: khí cụ đó là các câu chuyện kể. Các
ngài biết rằng những từ ‘dễ lọt tai’ nhất trong mọi ngôn ngữ là “Ngày xửa ngày xưa, có một ....”
Bởi vì người ta thường dễ phản kháng một sự thật nhưng không ai đề kháng một câu chuyện!
Vyasa, tác giả của Mahabharata, nói rằng nếu bạn chăm chú lắng nghe một câu chuyện, câu
chuyện đó chắc chắn sẽ làm bạn thay đổi – ít hay nhiều. Thật vậy, câu chuyện ấy sẽ lắng đọng
vào tâm khảm bạn và sẽ phá đổ các rào cản giữa bạn với thế giới thần linh. Ngay cả dù bạn chỉ
đọc những câu chuyện trong sách này ‘cho vui’ thôi, thì vẫn không có gì bảo đảm rằng các lô cốt
phòng vệ của bạn sẽ không bất chợt ‘bị’ một câu chuyện nào đó xuyên thủng qua và phát nổ vào
một lúc bạn không ngờ. Tôi xin cảnh giác bạn trước về điều đó.

Nếu bạn thấy mình quá u mê không thể chụp bắt ngay được sự giác ngộ, thì tôi đề nghị bạn như
sau:

+Hãy ôn đi ôn lại một câu chuyện nào đó trong tâm trí, để bạn có thể
ngấm nó dần dần trong những khi rảnh rỗi. Như vậy bạn sẽ có cơ hội làm việc với tiềm
thức của mình và vén mở những ý nghĩa ẩn tàng của nó. Bấy giờ bạn sẽ ngạc nhiên
nhận ra rằng mình nhớ lại câu chuyện ấy một cách hết sức tình cờ - đúng khi mình cần
nó soi sáng cho một hoàn cảnh hay biến cố - để giúp mình nhận hiểu và đem lại sự chữa
lành trong lòng mình. Và bạn chợt nhận ra rằng việc mình đọc những câu chuyện ấy
chẳng khác nào mình đã tham dự một khóa KHAI TRÍ, một khóa đào tạo trong đó chẳng
cần ‘ông thầy’ nào hướng dẫn ngoại trừ chính bạn.
+ Vì mỗi câu chuyện trong sách này đều là một mạc khải về Chân Lý – Chân
Lý viết hoa – nghĩa là chân lý về chính bạn, nên hãy bảo đảm sao cho mỗi lần đọc một
câu chuyện, bạn hoàn toàn chú tâm tìm hiểu hơn về bản thân mình. Hãy đọc như kiểu
người ta tra cứu một cuốn sách chữa bệnh chứ không phải một cuốn sách tâm lý – 
nghĩa là bạn tự hỏi xem mình có triệu chứng nào không, chứ không lan man nghĩ đến
anh này chị kia và tự hỏi họ thuộc loại người nào... Để mình bị cám dỗ soi mói anh này
chị kia khi đọc những câu chuyện này, điều đó sẽ chỉ tác hại chứ không ích lợi gì cho
bạn.

(Mullah Nasruddin yêu mến sự thật đến nỗi ông ngược xuôi góc biển chân trời để tìm kiếm
các học giả Kinh Co-ran. Ông không ngại thảo luận với những kẻ vô đạo ngoài chợ về những sự
thật thuộc đức tin của ông.

Bữa nọ vợ ông phàn nàn rằng ông cư xử với bà quá bất công – và đây là loại Sự Thật
mà ông chưa từng có một chút quan tâm nào cả!

Dĩ nhiên, đó là loại Sự Thật duy nhất quan trọng. Thật vậy, nếu những nhà học giả và những
chuyên gia thuyết lý của chúng ta, dù đạo hay đời, đều có mối đam mê tìm hiểu chính mình
không kém chi so với nỗi đam mê nghiên cứu các lý thuyết và giáo điều, thì thế giới của chúng ta
sẽ đổi khác đi nhiều lắm.

( “Bài giảng của Cha tuyệt cú mèo!” - một nữ tín đồ vừa trầm trồ vừa nắm lấy tay vị giảng
thuyết - “Mọi điều cha giảng hôm nay đều áp dụng đúng phóc cho nhiều người mà con biết.”

 
chỉ dẫn:

Tốt nhất bạn nên đọc những câu chuyện này theo như thứ tự được sắp xếp trong sách. Mỗi lần,
bạn đọc một hay hai mẩu chuyện thôi – nếu như bạn không muốn đọc với mục đích thuần túy
giải trí!

ghi chú:

Những câu chuyện trong sách này có nguồn gốc từ nhiều quốc gia, nhiều nền văn hóa và tôn
giáo khác nhau. Chúng được rút ra từ di sản tinh thần và kho trào phúng bình dân của toàn nhân
loại.

CẦU NGUYỆN

1( Tối hôm ấy, khi thầy Bruno đang cầu nguyện, thầy bị chia trí bởi tiếng kêu ôộp ôộp của
một con ễnh ương. Thầy cố hết sức để không nghĩ đến mớ âm thanh quấy rầy đó, nhưng bất
lực. Vì thế, thầy thò đầu ra cửa sổ và quát: “Này, chúng bay câm mồm đi! Tao đang cầu nguyện
đây.”

Thầy Bruno là một bậc thánh, vì thế lệnh của thầy có hiệu lực ngay tức khắc. Tất cả các
sinh vật trong khu vực lân cận đó đều im thin thít. Bầu khí bỗng nhiên vắng lặng – tha hồ mà cầu
nguyện ...

Nhưng liền tức thì, một âm thanh khác nổi lên quấy rầy tâm tình thờ phượng của Bruno –
một âm thanh phát ra từ trong lòng thầy: “Ồ, biết đâu tiếng kêu của con ễnh ương kia cũng làm
vui lòng Chúa không kém chi các bài Thánh Vịnh của mình đấy chứ?” “Mà này, làm sao tiếng kêu
của con ễnh ương có thể làm vui tai Chúa được nhỉ?” Thầy tự hỏi rồi tự trả lời. Và tiếng nói trong
lòng thầy vẫn tiếp tục mè nheo: “Nhưng Chúa tạo ra thứ âm thanh ấy chắc hẳn phải có một mục
đích?”

Bruno quyết định khám phá xem đó là mục đích gì. Thầy lại thò đầu ra cửa sổ và ra lệnh:
“Hãy hát lên đi!” con ễnh ương bắt đầu kêu inh ỏi, và tất cả đám ễnh ương trong khu vực đó
cùng xôn xao phụ họa. Thật lạ, khi thầy Bruno chăm chú lắng nghe bầu âm thanh ấy, nó không
còn quấy rầy nữa. Thầy nhận ra rằng nếu thầy không phản kháng chúng, quả thực chúng làm
cho cái yên tĩnh của đêm tối nên phong phú đến không ngờ.

Khám phá được điều đó, lòng thầy Bruno bỗng hoà nhập với vũ trụ. Chưa bao giờ thầy
thấu hiểu ý nghĩa của cầu nguyện bằng tối nay.

2( Những người Do Thái tại một thị trấn nhỏ ở Nga đang nóng lòng chờ đợi một Rabbi đến
với họ. Đây là một biến cố hiếm hoi, vì thế họ dành nhiều thời gian chuẩn bị trước các câu hỏi để
trình bày với bậc thầy thánh thiện ấy.

Cuối cùng vị Rabbi đến và họ đón tiếp ông tại thị sảnh. Ông cảm nhận được sự căng
thẳng trong bầu khí khi tất cả mọi người chăm chú đón nghe lời phát biểu của ông.
Thế nhưng, ông chẳng nói gì cả. Ông chỉ nhìn chằm chằm vào mắt họ, và e hèm qua
mũi. Mọi người bắt đầu e hèm theo ông. Rồi ông cất tiếng hát. Họ cất tiếng hát theo ông. Ông lắc
lư nhảy múa... Chẳng mấy chốc mọi người đều nhảy múa. Họ nhảy múa nhiệt tình đến nỗi như
quên hết mọi sự trên đời;  tất cả họ hoàn toàn nên một, và họ không còn bị phân rã bên trong
nữa. Chính sự phân rã này kìm hãm không cho người ta tiếp cận Chân Lý.

Gần một tiếng đồng hồ trôi qua. Vũ khúc của họ chậm dần lại và ngừng hẳn. Sự căng thẳng bên
trong đã hoàn toàn tan biến, mọi người ngồi xuống với bầu khí an tĩnh tràn ngập căn phòng. Bấy
giờ, vị Rabbi mới lên tiếng. Và ông chỉ nói vỏn vẹn có một câu: “Tôi tin rằng tôi đã trả lời tất cả
các vấn đề của quí vị.”

-Một tu sĩ Hồi giáo được hỏi tại sao ông tôn thờ Thiên Chúa bằng cách nhảy múa. Ông trả lời:
“Bởi vì tôn thờ Thiên Chúa nghĩa là chết đi chính mình; việc nhảy múa giết chết bản ngã người
ta. Khi bản ngã chết, mọi vấn đề sẽ cùng chết với nó. Ở đâu không có cái tôi, ở đó có Thiên
Chúa, có Tình Yêu.”

-Thầy ngồi với các đệ tử trong khán phòng. Thầy nói: “Các anh đã nghe nhiều lời cầu nguyện và
cũng đã đọc nhiều lời cầâu nguyện. Tối nay, Thầy muốn các anh nhìn thấy một lời cầu nguyện.”

Lúc ấy, màn được kéo lên và vở ba-lê bắt đầu.

3( Một Sufi lên đường đi hành hương thánh địa Mecca. Khi đến ngoại ô thành phố Mecca,
ông nằm xuống bên đường, kiệt sức vì cuộc hành trình. Chưa kịp ngủ, ông bị kéo giật dậy bởi
một khách hành hương trông tướng rất quạu quọ. “Giờ này tất cả các tín đồ trên thế giới đều
đang cúi đầu về phía Mecca. Còn ông, ông lại đang duỗi đôi bàn chân của ông về Đền Thờ. Ông
là loại tín đồ nào vậy?

Vị Sufi vẫn nằm im, chỉ mở mắt nhìn và nói: “Này người anh em, xin làm ơn giúp tôi hướng đôi
bàn chân về một phía nào đó không có Chúa!”

-Lời nguyện của một tín đồ với Thần Vishnu:

“Kính lạy Thần, con xin ngài tha thứ cho con vì ba tội trọng: thứ nhất, con đã đi hành
hương tới nhiều đền đài thánh thất, con quên mất rằng ngài hiện diện khắp mọi nơi; thứ
hai, con thường kêu xin ngài giúp đỡ, con quên mất rằng ngài quan tâm đến những điều
tốt lành cho con hơn cả con quan tâm đến bản thân mình; và cuối cùng, con đang van
xin ngài tha thứ cho con, dù con biết rằng ngài tha tội cho con trước cả khi con phạm tội.”

4( Sau nhiều năm cần mẫn làm việc, một nhà phát minh khám phá được cách tạo ra lửa.
Ông mang các dụng cụ của ông đến những vùng miền bắc đầy băng giá và giới thiệu cho một bộ
lạc ở đó cách tạo ra lửa - đồng thời ông giải thích cho họ những tiện ích của lửa. Người ta thích
thú quan tâm tới phát minh mới mẻ này đến nỗi không ai nhớ cám ơn ông. Rồi một hôm, ông
lặng lẽ rời họ ra đi. Là một con người cao thượng, ông không mơ ước được người ta tưởng nhớ
hay tôn sùng mình. Ông chỉ tha thiết một điều, đó là người ta tận dụng được phát minh của ông.

Dân chúng ở bộ lạc thứ hai cũng sốt sắng nghe ông chỉ dạy. Nhưng các giới chức tôn
giáo ghen tị với ảnh hưởng của ông và họ đã thủ tiêu ông. Để lấp liếm tội ác của mình, họ đã cho
làm một bức chân dung của Nhà Phát Minh Vĩ Đại và đặt nó lên bàn thờ chính của Đền Thờ. Họ
lập ra một phụng vụ để tưởng nhớ Nhà Phát Minh và tôn sùng danh của ông. Người ta chú ý
từng li từng tí đến nỗi không một chấm hay phẩy nào trong phụng vụ có thể bị thay đổi hay bỏ
sót. Khí cụ làm ra lửa được cung kính cất giữ trong một chiếc hòm – và người ta nói rằng nó sẽ
chữa lành bất cứ ai đau yếu mà đặt tay lên nó trong niềm tin.

Chính vị Thượng Tế đảm nhận công việc biên soạn một Tiểu Sử Của Nhà Phát Minh. Nó
trở thành Sách Thánh, trong đó tấm lòng nhân ái của Nhà Phát Minh được đưa ra như một ví dụ
cho mọi người phấn đấu bắt chước, những việc làm của ông được ca ngợi, tính cách siêu phàm
của ông được ấn định thành một tín điều. Quyển Sách được truyền cho các thế hệ tương lai, và
các vị tăng lữõ có thẩm quyền giải thích ý nghĩa những lời Nhà Phát Minh nói và ý nghĩa của
cuộc sống thánh thiện cũng như cái chết của ông. Họ kiên quyết xử tử hay tuyệt thông bất cứ ai
đi trệch ra khỏi giáo lý của họ.

Vì quá bận rộn với những công việc đầy ý nghĩa ‘tôn giáo’ như thế, họ hoàn toàn quên
mất cách ... làm ra lửa!

Tu viện trưởng Lot đến gặp Tu viện trưởng Joseph và nói: “Thưa Cha, theo khả năng của con,
con giữ những luật nho nhỏ, chay tịnh thì cũng chút chút thôi, con cầu nguyện, suy tư và chiêm
niệm trong thinh lặng, và trong khả năng mình, con giải phóng được tâm hồn mình khỏi những ý
tưởng xấu. Giờ đây, thưa Cha, con phải làm gì nữa?” Vị tu sĩ cao niên đứng lên để trả lời. Ông
đưa hai tay lên trời và các ngón tay của ông trở nên giống như mười ngọn lửa. Ông nói: “Hãy
chuyển tất cả thành lửa.”

5( Một anh thợ đóng giày đến với Rabbi Isaac và nói:

“Thưa ngài, tôi gặp khó khăn với việc cầu nguyện buổi sáng. Các khách hàng của tôi là
những người nghèo và họ chỉ có một đôi giày. Họ đưa giày đến cho tôi vào chiều tối, tôi nhận và
phải làm hầu như suốt đêm. Đến sáng sớm, tôi vẫn còn phải làm quần quật vì khách hàng cần
giày để đi làm. Vậy tôi xin hỏi: “Làm sao tôi có thể đọc kinh sáng được?”

“Thế cho tới nay việc cầu nguyện ban sáng của anh  thế nào?” Vị Rabbi hỏi.

“Đôi khi tôi cầu nguyện ‘hỏa tốc’, rồi vội vã quay trở lại làm việc. Và tôi cảm thấy áy náy
về điều đó. Nhiều bữa khác, tôi bỏ luôn, không thực hiện giờ cầu nguyện của mình. Dĩ nhiên là
trong những ngày đó tôi càng cảm thấy trống rỗng hơn. Tay tôi loay hoay với những chiếc giày
nhưng lòng tôi thì trĩu nặng một nỗi dằn vặt và xấu hổ. Ôi, thật tệ hại, một kẻ không cầu nguyện
buổi sáng!”

Vị Rabbi trả lời: “Nếu tôi là Thiên Chúa, tôi sẽ đánh giá nỗi xấu hổ của bạn cao hơn nhiều
so với các kinh nguyện.”

 
6( Chiều muộn, một anh nông dân nghèo trên đường từ chợ phiên về nhà chợt nhận ra
rằng mình không đem theo sách kinh nguyện. Chiếc xe kéo của anh đang lăn bánh giữa một khu
rừng và anh lo âu rằng ngày hôm nay của mình sẽ trôi qua mà chẳng có kinh nguyện nào cả.

Vì thế, anh thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, con đã làm một điều thật tệ hại. Sáng nay con
ra khỏi nhà mà không nhớ mang theo sách kinh nguyện, trí nhớ con lại tồi đến nỗi con chẳng có
thể đọc suông một kinh nào nếu không có sách. Vậy, con chỉ còn có cách này: Con sẽ đọc chậm
rãi bảng chữ cái ABC... năm lần, và vì Chúa biết rõ hết mọi kinh, xin Chúa tự xếp các chữ ấy
thành những kinh mà con không thể nhớ. Vậy nhé!”

Và Chúa nói với các thiên thần của Ngài: “Trong số tất cả những kinh nguyện mà Ta
nghe hôm nay, rõ ràng đây là lời cầu nguyện tuyệt vời nhất, bởi vì nó đến từ một tấm lòng đơn
sơ chân thành.”

7( Người Công Giáo thường đến thú tội của mình với một linh mục; linh mục sẽ xá giải cho
đương sự như dấu chỉ sự tha thứ của Thiên Chúa. Cũng rất thường có mối nguy là các hối nhân
sử dụng sự xá giải này như một thứ ‘giấy chứng nhận” bảo đảm cho mình khỏi bị Chúa trừng
phạt; vì thế họ tin tưởng vào sự xá giải của một linh mục hơn là vào lòng thương xót của Thiên
Chúa.

Đây là câu chuyện kể về khoảnh khắc hấp hối của Perugin, một họa sĩ người Ý thời
Trung Cổ. Ông quyết định rằng ông sẽ không đi xưng tội nếu chỉ vì sợ bị Chúa phạt. Ông cho
việc xưng tội như vậy là một sự báng bổ xúc phạm đến chính Thiên Chúa.

Không hề biết những gì ông đang nghĩ trong lòng, vợ ông nhắc nhở: “Bộ anh không sợ
chết mà chưa kịp xưng tội sao?” Perugin trả lời: “Hãy nghĩ đi, em yêu. Nghề chuyên môn của anh
là vẽ tranh, và anh đã vẽ tranh một cách rất lành nghề. Còn nghề của Thiên Chúa là tha thứ; nếu
Ngài cũng lành nghề không kém anh, thì anh không thấy có lý do gì để mình phải sợ.”

8( Narada, một nhà hiền triết Ấn Độ, rất sùng ngưỡng Thần Hari. Lòng sùng ngưỡng ấy lớn
đến nỗi bữa nọ ông nghĩ rằng trên cả thế giới này không ai yêu mến Thần Hari hơn ông. 

Hiểu được ý nghĩ của ông, Thần nói: “Này Narada, con hãy đi đến thị trấn trên bờ sông
Hằng, vì có một tín đồ của Ta ở đó. Sống với tín đồ ấy sẽ ích lợi rất nhiều cho con.”

Narada ra đi và cuối cùng tìm gặp một bác nông dân. Mỗi sáng sớm thức dậy, bác nông
dân này kêu tên Thần Hari chỉ một lần, rồi vác cày ra ruộng. Bác làm việc suốt ngày ngoài ruộng.
Tối, trước khi ngủ, bác  kêu tên Thần Hari lần nữa. Narada nghĩ: “Làm sao có thể gọi ông nông
dân quê mùa này là một tín đồ của Thần được nhỉ? Mình thấy ông ta suốt ngày chỉ chìm đắm
trong công việc làm ăn.”

Thần Hari nói với Narada: “Hãy rót sữa vào một tô, đầy đến miệng, và hãy bưng tô sữa
ấy đi một vòng quanh thành phố. Hãy cố sao để khi con trở về đây, không một giọt sữa nào bị
tràn đổ ra ngoài.” Narada làm y lời.

Khi Narada đã đi xong một vòng thành phố và trở về, Thần Hari hỏi: “Trong cả chuyến đi
vừa rồi, con đã nhớ đến Ta mấy lần?”
“Chẳng có lần nào cả, thưa Ngài.” - Narada trả lời - “Làm sao con có thể nhớ đến Ngài
khi con còn phải chú ý đến tô sữa này?” 

Thần nói: “Tô sữa đó chiếm hết sự quan tâm của con đến nỗi con hoàn toàn quên Ta.
Nhưng hãy nhìn người nông dân kia: dù bao nhiêu gánh nặng nuôi sống gia đình đè trên vai, anh
ta vẫn có thể nhớ đến Ta hai lần mỗi ngày!”

9( Cha sở của làng là một con người thánh thiện, vì thế mỗi khi dân làng gặp khó khăn, họ
đều chạy đến với ngài. Ngài sẽ lặng lẽ đi đến một nơi đặc biệt trong rừng và dâng lên Chúa một
lời cầu nguyện cũng rất đặc biệt. Chúa luôn luôn nghe lời cha sở, và dân làng được Chúa cứu
giúp.

Cha sở qua đời. Gặp khó khăn, dân làng lại chạy đến với vị kế nhiệm. Vị này không
thánh thiện, nhưng biết rõ cả nơi chốn đặc biệt kia trong rừng lẫn lời cầu nguyện đặc biệt nọ.
Ngài thưa: “Lạy Chúa, Chúa biết con không thánh thiện gì. Nhưng chắc chắn sẽ không vì thế mà
Chúa đoán phạt dân chúng, phải không? Vậy xin Chúa nghe lời con và cứu giúp họ.” Thế là,
Chúa nghe lời cha sở, và dân làng được cứu giúp.

Rồi ngài qua đời. Dân làng lại chạy đến với cha sở thứ ba khi họ gặp khó khăn. Vị này
biết lời cầu nguyện đặc biệt kia nhưng không biết nơi chốn nọ trong rừng. Vì thế, ngài thưa: “Lạy
Chúa, chỗ nào với Chúa cũng vậy thôi, phải không?” Bất cứ chỗ nào có Chúa hiện diện cũng là
nơi thánh. Vì thế, xin Chúa nghe lời con cầu nguyện và ra tay cứu giúp chúng con.” Một lần nữa,
Chúa nghe lời và cứu giúp dân làng.

Đến đời cha sở thứ tư, dân làng lại gặp khó khăn và chạy đến cầu cứu. Vị này không
biết cả lời nguyện kia lẫn nơi chốn nọ. Vì thế ngài nói với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa không quan
tâm đến những công thức có tính rập khuôn máy móc, nhưng Chúa quan tâm đến tiếng kêu từ
đáy lòng những người khốn khổ. Xin Chúa lắng nghe lời con cầu nguyện và ra tay cứu giúp dân
chúng.” Chúa lại nhận lời và cứu giúp dân làng.

Chuyện tương tự lại xảy ra với cha sở thứ năm. Vị linh mục này quan tâm đến tiền bạc
nhiều hơn chuyện cầu nguyện. Ngài nói: “Lạy Chúa, Chúa là loại Chúa nào vậy? Chúa hoàn toàn
có thể giải quyết những vấn đề mà chính Chúa gây ra, thế tại sao Chúa vẫn ngồi im, không động
đậy một ngón tay, để chờ cho đến khi người ta quị lụy van xin? Nào, Chúa hãy làm cho họ điều
gì Chúa muốn.” Rồi, vị linh mục hối hả quay lại với công việc làm ăn của mình. Một lần nữa,
Chúa nghe lời cầu nguyện ấy và ra tay cứu giúp dân làng.

10( Một phụ nữ đứng tuổi nọ rất chuyên chăm trong công việc làm vườn. Bà tuyên bố bà
không tin một chút gì vào những dự đoán rằng các nhà khoa học trong tương lai sẽ biết cách
kiểm soát được thời tiết. Theo bà, chỉ có một cách để kiểm soát được chuyện nắng mưa thôi, đó
là cầu nguyện.

(Bà nên thay đổi những tin tưởng ngớ ngẩn của bà).

11( Không ích gì nếu lời cầu nguyện của chúng ta được đáp lại không đúng lúc:
Ở Ấn Độ ngày xưa, các nghi lễ Vedic được gán cho một tầm quan trọng rất lớn. Người ta
nói rằng những nghi lễ ấy có tính hiệu năng đến nỗi, chẳng hạn, hễ các hiền nhân cầu khẩn trời
mưa thì nhất định mưa sẽ đổ xuống tràn trề. Một người đàn ông đã cầu nguyện theo nghi lễ ấy,
xin Thần Lakshmi, nữ thần của cải, cho mình được nên giàu có.

Anh cầu xin như thế ròng rã mười năm mà không có kết quả gì. Sau đó anh bất chợt
nhận thấy bản chất phù du của của cải và quyết định bắt đầu sống một đời sống thoát tục trong
dãy Himalayas.

Ngày nọ, anh đang ngồi thiền, bỗng mở mắt ra và trông thấy trước mặt mình là một phụ
nữ cực kỳ xinh đẹp, nàng chói sáng rực rỡ cơ hồ như toàn thể con người nàng được làm bằng
vàng vậy.

“Cô là ai và cô đến đây làm gì?” Anh hỏi.

“Ta là Nữ Thần Lakshmi mà anh đã khẩn nguyện trong 12 năm nay,” - người phụ nữ xinh
đẹp ấy trả lời - “Ta hiện ra đây để thỏa mãn điều anh ao ước.”

“Ồ, thưa Nữ Thần,” - anh thốt lên - ”Tôi đã chuyển sang sống cuộc sống chuyên chăm
thiền định và không còn tơ tưởng gì về của cải nữa. Ngài đến quá muộn. Tại sao ngài lại chậm
chạp như thế nhỉ?”

“Nói thật,” - Nữ Thần trả lời - “Xét vì anh đã thực hành các lễ nghi ấy một cách trung
thành bền bĩ, nên anh đã được ban cho của cải dư dật từ lâu rồi. Nhưng, vì Ta yêu mến anh và
muốn điều tốt đẹp cho anh, Ta đã quyết định giữ chúng lại.”

Nếu bạn có quyền chọn lựa, bạn sẽ chọn điều nào: một là, được ban cho những điều mình xin;
hai là, ơn an bình sâu thẳm bất chấp mình có nhận được những điều mình xin hay không?

12( Ngày kia, Mullah Nasruddin nhìn thấy một ông giáo làng dẫn một nhóm học sinh đi đến
thánh đường.

“Ông đưa bọn trẻ đến đó để làm chi vậy?” Nasruddin hỏi.

“Dạ, thưa ngài, ở miền chúng tôi đang bị hạn hán. Và chúng tôi tin rằng tiếng kêu cầu
của các em thơ vô tội sẽ làm động lòng Đấng Toàn Năng.” Ông giáo làng trả lời.

“Điều quan trọng không phải là tiếng kêu cầu, dù là của người vô tội hay của kẻ xấu xa.”
- Mullah đanh giọng - “Điều quan trọng chính là khôn ngoan và thức tỉnh.”

“Ồ, sao ngài dám tuyên bố một cách báng bổ như vậy ngay trước mặt đám trẻ này!” -
Ông giáo làng kêu lên - “Ngài hãy chứng minh cho điều ngài nói, nếu không ngài đích thị là kẻ rối
đạo.”

“Chứng minh ư? Dễ ợt! Nếu những lời cầu nguyện của trẻ em mà có giá trị như ông nói,
thì chẳng cần bất cứ ông giáo làng nào ở bất cứ đâu; vì không có gì bọn trẻ ghét cho bằng phải
đi học.”
 

13( Một ông cụ mỗi ngày cầu nguyện năm lần trong khi người bạn làm ăn của ông không
bao giờ đặt chân đến nhà thờ. Và giờ đây, ngày sinh nhật lần thứ 80 của mình, ông  cụ cầu
nguyện như sau:

“Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con! Từ hồi còn niên thiếu, con đã chưa bao giờ sống
qua một ngày mà không đi tới nhà thờ vào buổi sáng và con cũng chưa bao giờ bỏ đọc kinh cầu
nguyện năm lần mỗi ngày, vào những lúc nhất định. Con đã không bao giờ đi đâu, quyết định gì
mà trước hết không kêu cầu Danh Ngài. Giờ đây, lạy Chúa, ở tuổi xế chiều của con, con đã tăng
gấp đôi các thực hành đạo đức và kinh nguyện của mình, cả ngày lẫn đêm. Thế mà, Chúa thấy
đó, con vẫn nghèo rớt mồng tơi. Chúa hãy nhìn tay bạn làm ăn của con kia! Hắn là tay tổ nhậu
nhẹt và cờ bạc; ngay cả ở tuổi này, hắn vẫn còn giao du với những phụ nữ rất đáng ngờ, thế
nhưng hắn cứ ngày càng giàu lên. Con nghĩ rằng chắc hẳn chưa bao giờ có một lời cầu nguyện
nào thoát ra từ môi miệng hắn. Vậy, lạy Chúa, không phải con xin Chúa trừng phạt hắn đâu – vì
đó không phải là lối của người có đạo. Chỉ xin Ngài nói cho con biết: Tại sao, tại sao Chúa cho
hắn giàu sang sung túc, và tại sao Chúa đối xử với con như thế này?” 

Chúa trả lời: “Bởi vì ngươi là kẻ chuyên quấy rầy Ta bằng những chuyện lẩn thẩn!”

-Qui luật của một đan viện nọ không phải là “Đừng nói”, nhưng là “Đừng nói cho đến khi bạn có
thể cải thiện được sự thinh lặng.”

Nên chăng việc cầu nguyện cũng áp dụng cùng điều luật như thế?

14( BÀ NỘI:  “Cháu có đọc kinh mỗi tối không?”

CHÁU:  “Dạ, có ạ!”

BÀ NỘI:  “Cháu cũng đọc kinh các buổi sáng chứ?”

CHÁU:  “Ồ, dạ không. Cháu không sợ khi có ánh sáng ban ngày.”

15( Sau chiến tranh, một bà cụ đạo đức nói: “Thiên Chúa rất tốt lành với chúng tôi. Chúng
tôi đã liên tục cầâu nguyện, vì vậy bao nhiêu bom đạn đều rơi ở khu dân cư kế bên, chẳng có
quả nào rơi xuống chỗ chúng tôi!”

16( Cuộc bách hại của Hitler đối với người Do Thái trở nên tàn bạo đến nỗi Samuel và
Joshua, hai thanh niên Do Thái, quyết định ám sát ông ta. Súng ống đầy đủ, họ mai phục tại một
địa điểm mà Hitler sắp sửa đi qua. Thật lâu, vẫn chẳng thấy Hitler tới, một ý tưởng khủng khiếp
xảy đến trong đầu Samuel. “Này Joshua,” anh nói, “Hãy cầu nguyện để đừng có gì bất trắc xảy ra
cho hắn!”

 
17( Năm nào bà dì đạo đức ấy cũng được các cháu mời đi picnic. Năm nay, họ suýt quên.
Khi thư mời đến tay bà vào giờ phút chót, bà tự nhủ: “Trễ mất rồi. Mình đã cầu xin trời mưa!”

18( Linh mục chú ý một phụ nữ đang ngồi một mình trong nhà thờ, úp mặt trên hai tay.

Một giờ, rồi hai giờ trôi qua. Người phụ nữ vẫn còn ngồi đó.

Đoán rằng đó là một linh hồn đang khốn khổ, linh mục chạnh lòng muốn giúp đỡ. Ông
bước đến chỗ người phụ nữ và nói: “Này chị, tôi có thể giúp được gì cho chị không?”

“Ồ không, cám ơn cha” - người phụ nữ trả lời - “Con đã có được tất cả sự trợ giúp mà
con cần.”

Cho tới khi cha làm gián đoạn!

19( Một ông già thường đến ngồi nghiêm trang trong nhà thờ hàng mấy giờ liền. Bữa nọ,
cha sở hỏi ông về những gì Chúa đã nói với ông.

“Chúa không nói gì, thưa cha. Ngài chỉ nghe thôi.” Ông già trả lời.

“Thế à! Vậy ông đã nói gì với Chúa?”

“Con cũng không nói gì, thưa cha. Con cũng chỉ nghe thôi.”

Bốn chặng cầu nguyện:

Tôi nói, người nghe.

Người nói, tôi nghe.

Tôi và người không nói, cả hai đều nghe.

Tôi và người không nói, cũng không nghe: Thinh lặng.

20( Sufi Bayazid Bistami mô tả sự tiến bộ trong nghệ thuật cầu nguyện của ông như sau:
“Lần thứ nhất tôi viếng thăm Đền Thánh ở Mecca, tôi đã gặp Đền Thánh. Lần thứ nhì, tôi gặp vị
Thần của Đền Thánh. Lần thứ ba, tôi chẳng gặp Đền Thánh, cũng chẳng gặp Thần của Đền
Thánh.

 
21( Akbar, Hoàng Đế Moghul, ngày kia đi săn trong rừng. Khi đến giờ cầu nguyện buổi
chiều, ông xuống ngựa, trải chiếu trên đất, quì cầu nguyện theo cách thức của mọi tín đồ Hồi
giáo sùng đạo.

Lúc ấy, có một phụ nữ quê vội vã đi ngang qua. Chị đang hoang mang lo lắng, vì chồng
chị ra khỏi nhà từ sáng sớm mà giờ này chưa về. Quá bận tâm nghĩ đến chồng, chị không chú ý
gì đến vị Hoàng Đế đang quì kia – và chị vấp ngã vào ông ta. Đứng dậy, không một lời xin lỗi, chị
thoắt chạy nhanh vào sâu trong rừng.

Akbar rất khó chịu về chuyện vừa xảy ra, nhưng vì là một tín đồ Hồi giáo ngoan đạo, ông
giữ luật thinh lặng trong suốt thời gian cầu nguyện.

Vừa khi ông cầu nguyện xong, người phụ nữ khi nãy lại xuất hiện, hớn hở đi bên chồng.
Chị ngạc nhiên và sợ hãi khi nhìn thấy Hoàng Đế và đoàn tùy tùng của ông ở đó. Akbar trút cơn
giận của ông lên người phụ nữ, ông quát: “Nhà ngươi hãy giải thích sự vô phép của nhà ngươi
khi nãy, nếu không, sẽ bị trừng phạt đích đáng.” 

Người phụ nữ bỗng trở nên bình tĩnh lạ thường, chị nhìn thẳng vào mắt Hoàng Đế và
nói: “Tâu bệ hạ, vì tôi quá lo nghĩ đến chồng tôi, nên tôi đã không nhìn thấy bệ hạ, thậm chí tôi đã
không hề biết rằng mình đã vấp té vào bệ hạ. Mà thật lạ! Lúc ấy bệ hạ đang cầu nguyện, nghĩa là
đang chìm đắm trong Đấng cao quí ngàn trùng hơn chồng tôi, thế tại sao bệ hạ lại nhận biết
chuyện tôi vấp té kia nhỉ?”

Hoàng Đế xấu hổ không nói lời nào. Về sau, ông thú nhận với các thân hữu của ông
rằng đúng là một phụ nữ nhà quê – chứ không phải một học giả hay một đạo sư – đã dạy cho
ông về ý nghĩa của cầu nguyện.

22( Lần kia, Thầy đang cầu nguyện. Các đệ tử đến thưa với Thầy: “Thưa Thầy, xin dạy
chúng con cách cầu nguyện.” Và Thầy đã dạy họ như sau ...

Hai người đàn ông đi bộ băng qua một cánh đồng. Bất chợt họ gặp một con trâu điên.
Ngay lập tức, họ chạy tới chỗ hàng rào gần nhất để tránh con trâu điên đang lồng lộn lao tới họ.
Nhưng rất tiếc là không còn kịp nữa rồi! Một trong hai người nói với bạn mình: “Chết rồi, bọn
mình tận số rồi! Ông hãy cầu nguyện đi, mau lên!”

Người kia trợn mắt: “Cả đời tui, tui chưa bao giờ cầu nguyện. Tui không biết đọc kinh
nào trong tình huống này.”

“Ồ, kinh nào cũng được cả. Con trâu điên đuổi tới sát đít bọn mình rồi kìa. Ông đọc đại
một kinh nào đó đi.”

“À, nếu vậy thì tui sẽ đọc lời kinh mà bố tui vốn thường đọc trước các bữa ăn: ‘Lạy Chúa,
xin cho chúng con biết chân thành tri ân Chúa về tất cả những gì chúng con sắp nhận lãnh ...”

Không có gì cao cả hơn sự thánh thiện của những người biết chấp nhận mọi sự đúng như sự
thực của chúng.

Trong ván bài cuộc đời, người ta phải chơi tay bài của mình một cách tốt nhất.
Nhiều người cứ đòi cho được những lá bài tốt hơn những lá tay bài trên tay của mình. Đó là
những kẻ thua ván bài cuộc đời.

Chúng ta không được phép chọn lựa sẽ chơi hay không chơi ván bài này. Chơi là chuyện bắt
buộc – chứ không  tùy ý ta. Chúng ta chỉ có thể chọn chơi cách nào mà thôi.

23( Rabbi hỏi một em học sinh xem điều gì đang làm em buồn.

“Cái nghèo của con,” - em học sinh trả lời -  “Hoàn cảnh con bất hạnh đến nỗi con không
thể học hành hay cầu nguyện gì được.”

“Này con, ở tuổi này của con, lời cầu nguyện đẹp nhất và việc học tập tốt nhất chính là:
chấp nhận cuộc sống đúng như thực tế của nó.”

24( Vào một ngày giá rét, một Rabbi và các môn đệ của ông đang xúm chụm quanh đống
lửa.

Một môn đệ lầm thầm ôn lại các giáo huấn của thầy: “Vào một ngày giá rét như hôm nay,
tôi biết tôi phải làm gì.”

“Làm gì?” Các bạn anh ta hỏi.

“Phải giữ cho ấm! Và nếu không thể làm được điều đó, tôi cũng biết tôi phải làm gì.”

“Làm gì nào?”

“Lạnh.”

Thực tại không thể bị từ chối cũng không thể được chấp nhận. Chạy trốn thực tại, đó chẳng khác
chi chạy trốn đôi bàn chân của mình. Chấp nhận thực tại, đó cũng giống như hôn đôi môi của
chính mình. Tất cả những gì bạn cần làm là nhìn, hiểu, và ... thoải mái.

25( Anh chàng nọ đến gặp một bác sĩ tâm thần và kể lể rằng đêm nào anh cũng gặp thấy
một con rồng ba đầu mười hai chân. Anh bị căng thẳng dữ dội, không thể ngủ được chút nào,
gần như hoàn toàn suy sụp. Thậm chí anh nghĩ đến chuyện tự tử.

“Tôi nghĩ rằng tôi có thể giúp anh” - bác sĩ tâm thần nói - “Nhưng tôi phải nói trước rằng quá trình
điều trị sẽ mất một hay hai năm, và anh sẽ phải chi trả ba ngàn đô la.”

“Ba ngàn đô la ư?” – anh chàng la lên - “Thôi, thôi! Để tôi về và cố kết thân với nó vậy.”

 
26( Farid, nhà thần bí Hồi giáo, được dân chúng địa phương yêu cầu đi đến triều đình ở
Delhi để nhận một ân huệ do Hoàng Đế Akbar ban cho dân làng. Farid ra đi, và ông đến triều
đình gặp đúng lúc Hoàng Đế đang cầu nguyện.

Khi Hoàng Đế cầu nguyện xong, Farid hỏi: “Bệ hạ đã cầu nguyện gì thế?”

“Ta cầu xin Đấng Từ Bi ban cho Ta được thành công, sung túc và sống lâu.”

Farid quay phắt bỏ đi, miệng lẩm bẩm: “Mình tìm một Hoàng Đế, nhưng lại gặp một kẻ
ăn mày không khác với bất cứ tên ăn mày nào trên trần đời này!”

27( Người phụ nữ ấy rất ngoan đạo, sốt sắng, đầy lòng yêu Chúa. Sáng nào chị cũng đi
nhà thờ. Trên đường đi, có những trẻ em kêu chị, có những người hành khất van xin chị bố thí.
Nhưng chị quá đắm chìm trong tâm tình đạo đức nên thậm chí chị không trông thấy bất cứ ai.

Bữa kia, chị cũng cặm cụi bước xuôi theo con phố như thói quen thường ngày của mình
– và chị đến nhà thờ vừa kịp giờ thánh lễ. Chị đẩy cửa, nhưng cửa không mở. Chị đẩy lần nữa,
và nhận ra rằng cửa đã bị khóa chặt.

Bối rối vì sợ rằng mình sẽ hụt mất thánh lễ lần đầu tiên trong nhiều năm nay, và lúng
túng không biết phải làm gì, chị ngẩng nhìn lên phía trên cửa. Kìa, ngay trước mặt chị có đính
một mảnh giấy, với dòng chữ: “Ta ở ngoài kia!”

28( Có câu chuyện xưa kể rằng một vị thánh nọ mỗi khi ra khỏi nhà để đến nhà thờ cầu
kinh hay dâng lễ, ông đều nói: “Tạm biệt nhé, lạy Chúa! Con phải đi nhà thờ đây.”

29( Một thầy dòng đang đi bách bộ trong sân tu viện, bỗng nghe tiếng chim hót.

Thầy lắng nghe, hoàn toàn say mê với tiếng chim. Thầy cảm thấy như chưa bao giờ
mình nghe – thực sự nghe – một tiếng chim hót.

Khi tiếng hót ấy ngừng, thầy trở vào và hoảng hốt khám phá rằng mình là một kẻ hoàn
toàn xa lạ đối với các tu sĩ trong tu viện. Chính thầy cũng không nhận ra ai trong họ.

Dần dần, mọi người mới khám phá rằng thì ra thầy đã trở về từ nhiều thế kỷ! Thầy quá
đắm chìm trong tiếng chim hót đến nỗi thời gian ngừng lại và thầy trôi vào vĩnh cửu.

Việc cầu nguyện sẽ hoàn hảo khi mà bạn hoàn toàn mất ý niệm về thời gian.

Bạn sẽ mất ý niệm về thời gian xuyên qua sự nhận thức minh bạch.

Nhận thức của bạn sẽ minh bạch khi nó không bị dính bén những định kiến, những quan tâm về
chuyện được mất của bản thân mình.
Bấy giờ phép lạ sẽ xảy ra và tâm hồn bạn sẽ đắm chìm trong mầu nhiệm.

30( Thầy mời ông tỉnh trưởng thực hành thiền. Ông tỉnh trưởng từ chối, với lý do rằng ông
quá bận rộn. Thầy trả lời: “Ngài làm tôi nghĩ đến một người phải bước đi giữa rừng trong tình
trạng bị bịt mắt – và người ấy quá bận rộn không thể lột tấm khăn bịt mắt mình ra.”

Ông tỉnh trưởng than phiền rằng ông thiếu thời giờ. Thầy đáp: “Không thể thực hành
thiền vì thiếu thời giờ! Đó là một ý nghĩ thật sai lầm. Đúng hơn phải nói rằng: Không thể thực
hành thiền vì tâm hồn thiếu an tĩnh.”

31( Một chuyên viên về hiệu năng nọ đang trình bày bản báo cáo với Henry Ford.

“Như ngài sẽ thấy, bản báo cáo này rất tích cực – ngoại trừ trường hợp của anh chàng
ngồi trong văn phòng phía cuối dãy kia. Lần nào đi qua tôi cũng thấy anh ta ngồi dựa ngửa, vắt
chân lên bàn. Anh ta đang phung phí tiền của ông đó.”

Ford trả lời: “Anh chàng ấy đã có lần đưa ra một sáng kiến làm lợi cho công ty một số
tiền khổng lồ đấy. Tôi tin rằng lúc mà anh ta nghĩ ra sáng kiến đó, đôi bàn chân của anh ta cũng
ở đúng vào chỗ của chúng bây giờ.”

Người thợ cưa gỗ nọ hì hục cưa một khúc gỗ đến vã mồ hôi với lưỡi cưa cùn của mình – bởi vì,
anh cho biết, anh không có thời giờ để ngừng lại và dũa cho lưỡi cưa được sắc bén hơn.

32( Ngày xưa, có một khu rừng. Ban ngày chim chóc hót líu lo, ban đêm côn trùng kêu rộn
rã. Cây cối tươi tốt, nở hoa muôn sắc màu. Tất cả các loài vật đều thoải mái dạo chơi vui vẻ.

Và bất cứ ai vào khu rừng đó đều được dẫn đến NGÔI NHÀ CÔ TỊCH, nơi ở của Thiên
Chúa, Đấng ngự trong sự tĩnh lặng và trong vẻ đẹp của thiên nhiên.

Nhưng rồi, khi thời đại Vô Ý Thức đến, người ta bắt đầu có thể xây những tòa nhà cao
chọc trời, họ có thể tàn phá những núi, rừng, sông, suối một cách thật nhanh chóng. Nhiều nhà
thờ mọc lên – bằng gỗ lấy từ cây rừng và bằng đá lấy từ dưới nền đất rừng. Bao nhiêu đỉnh tháp
đền đài thánh thất chĩa tua tủa lên trời; không gian vang rền tiếng chuông ngân, tiếng cầu kinh,
tiếng hát thánh ca, tiếng thuyết giảng ...

Và bỗng dưng, Thiên Chúa trở thành một ... kẻ không nhà!

Thiên Chúa giấu ẩn mọi sự bằng cách đặt chúng trước mắt chúng ta!

Nào, bạn hãy lắng nghe tiếng chim hót, tiếng gió lùa qua tàng cây, tiếng sóng biển rì rào. Bạn
hãy nhìn một khóm cây, một chiếc lá nghiêng rơi, một bông hoa hé nở ... bằng cái nhìn tinh khôi
như chưa bao giờ.
Biết đâu đó, bạn bất chợt tiếp xúc được với Thực Tại, với Thiên Đàng mà chúng ta đã đánh mất
từ tuổi thơ – Thiên Đàng mà chúng ta đã đánh mất do những kiến thức của mình.

Nhà thần bí Ấn Độ Sahara nói: “Bạn hãy cảm nếm hương vị của THỰC TẠI – hương vị đó chính
là SỰ VẮNG MẶT CỦA CÁI BIẾT.”

THỨC TỈNH

33 ( Một cuộc bắt đạo rầm rộ bùng nổ trong vùng. Ba trụ cột của tôn giáo – Thánh Kinh,
Phụng Tự và Bác Aùi – đến trước mặt Chúa để trình bày nỗi lo sợ rằng một khi tôn giáo bị quét
sạch, thì cả ba cũng chẳng còn.

“Đừng lo” - Chúa nói - “Ta đã có kế hoạch gửi một Đấng xuống trần gian. Đấng ấy vĩ đại
hơn cả ba nhà ngươi.” 

“Đấng ấy tên là gì vậy, lạy Chúa”

“BIẾT MÌNH” - Chúa trả lời - “Đấng ấy sẽ làm nhiều việc lớn lao hơn bất cứ gì cả ba nhà
ngươi đã làm.”

34( Ba nhà thông thái trẩy đi trong một cuộc hành trình. Dù được ngưỡng mộ là các bậc
thông thái ở quê hương xứ sở mình, họ vẫn rất khiêm tốn hy vọng rằng đi một ngày đàng mình
sẽ học được một sàng khôn.

Vừa mới đặt chân sang một nước láng giềng, họ trông thấy một tòa nhà chọc trời ở xa
xa. Cái vật thể to kềnh ấy là gì vậy nhỉ? Họ tự hỏi. Tốt nhất là cứ tiến tới và khám phá. Nhưng
không, như vậy sẽ rất nguy hiểm. Biết đâu đó là một vật sẽ phát nổ khi người ta tới gần? Vậy thì,
trước hết nên phỏng đoán xem nó là gì, rồi hãy trực tiếp khám phá nó. Rất nhiều giả thuyết được
đặt ra, được khảo sát và được bác bỏ dựa trên nền tảng kinh nghiệm quá khứ của họ. Cuối
cùng, cũng dựa vào kinh nghiệm quá khứ rất phong phú của mình, họ kết luận rằng dù vật thể ấy
là gì đi nữa, chắc chắn chỉ có những người khổng lồ mới có thể đặt nó ở đó.

Điều này dẫn họ tới quyết định rằng tốt nhất là đừng bước tiếp vào xứ sở ấy. Vì thế họ
quay trở về, bổ sung thêm một cái gì đó vào kho kinh nghiệm của họ.

Giả đoán khiến người ta quan sát. Quan sát đem lại xác tín. Xác tín sinh ra kinh nghiệm. Kinh
nghiệm làm nên thái độ. Thái độ, đến lượt nó, lại củng cố giả đoán.

35( Giả đoán:

Hai nhà đi săn thuê một máy bay đưa họ đến một vùng rừng rậm. Hai tuần sau, viên phi
công bay đến đón họ về. Ông liếc nhìn các con vật họ đã bắn được và nói: “Chiếc máy bay này
không thể chở nhiều hơn một con bò rừng. Các anh phải bỏ con kia lại thôi.”
“Nhưng anh phi công năm ngoái đã cho phép chúng tôi chở hai con bò rừng trên một
chiếc máy bay cũng bằng cỡ này.” Những người đi săn khiếu nại.

Viên phi công hơi lường lự, rồi nói: ”Thôi được, nếu năm ngoái các anh chở được, thì
năm nay có lẽ chúng ta cũng có thể chở được.”

Thế  là máy bay cất cánh với ba người đàn ông và hai con bò rừng. Nhưng máy bay
không thể lên cao; nó tròng trành rồi rơi xuống ngọn đồi bên cạnh. Viên phi công và những người
đi săn leo xuống khỏi máy bay, nhìn quanh. Một trong hai người đi săn hỏi bạn mình: “Ông nghĩ
chúng ta đang ở đâu đây?” Người kia dáo dác nhìn quanh lần nữa, rồi nói: “Tôi nghĩ chúng ta
đang ở cách hai dặm phía bên trái chỗ chúng ta rơi hồi năm ngoái.”

36( Một đôi vợ chồng vừa hoàn tất đám tang cậu George của họ. Cậu George vốn sống với
họ trong hai chục năm qua và vốn là một mối phiền phức lớn cho vợ chồng họ.

“Em yêu, anh có điều này muốn nói với em” - người chồng lên tiếng - “Nếu anh không vì
yêu em, thì anh đã không thể chịu nổi cậu George của em dù chỉ một ngày.”

“ Cậu George của em ư?” - cô vợ ngạc nhiên kêu lên - “Vậy mà lâu nay em cứ tưởng
cậu George của anh chứ!”

37( Mùa hè 1946, có tiếng đồn về một nạn đói ở một quốc gia Nam Mỹ. Thật ra, mùa màng
đang phát triển tốt, và thời tiết rất hoàn hảo, hứa hẹn một mùa gặt dồi dào. Nhưng do ảnh hưởng
của tiếng đồn, 20.000 chủ nông trại nhỏ đã bỏ ruộng vườn của họ và chạy lên các thành phố.
Chính do hành động đó của họ mà mùa màng bị thất thu. Hàng ngàn người chết đói.

Thế là cuối cùng tiếng đồn kia hóa thành sự thật.

38( Ngày xửa ngày xưa, tận thời Trung Cổ, giáo hoàng được các vị cố vấn của ngài yêu
cầu trục xuất người Do Thái khỏi Rôma.

Họ nói rằng người Do thái khó mà sống chung hòa bình ngay giữa trung tâm của đạo
Công Giáo. Một sắc lệnh trục xuất được ban hành, gây hoang mang rất nhiều cho người Do Thái
– là những người vốn biết rằng dù họ đi bất cứ đâu, họ cũng sẽ phải nhận sự đối xử tệ hại hơn ở
Rôma. Vì thế, họ khẩn nài giáo hoàng cứu xét lại sắc lệnh ấy. Giáo hoàng, một con người công
bằng vô tư, đề nghị với họ một cuộc so tài để phân định thắng thua: Phía Do Thái sẽ đề cử một
người ‘thi đấu’ với giáo hoàng trong một cuộc tranh luận không lời. Nếu người đại diện của họ
thắng, họ sẽ không phải ra đi.

Người Do Thái họp nhau bàn luận về đề nghị đó. Bác bỏ đề nghị ấy sẽ có nghĩa là bị trục
xuất khỏi Rôma. Chấp nhận đề nghị ấy thì có nghĩa là tự chuốc lấy thất bại, vì ai có thể thắng
trong một cuộc tranh luận mà giáo hoàng vừa là người dự thi vừa là giám khảo? Tuy nhiên,
không có cách nào khác hơn là chấp nhận cuộc tranh luận này. Có điều, thật khó tìm cho ra một
người tự nguyện đảm nhận nhiệm vụ tranh luận với giáo hoàng. Gánh trên vai số phận của toàn
thể người Do Thái, đó sẽ là một gánh nặng mà không ai đủ sức đảm nhận.
Khi ông Từ hội đừơng nghe biết về câu chuyện, ông đến trước mặt Rabbi niên trưởng và
đề nghị cho phép mình đại diện đồng bào để tranh luận với giáo hoàng. “Ông Từ à? Không thể
được.” Các Rabbi phản đối.

“Xem nào” - Rabbi niên trưởng lên tiếng - “Không ai trong chúng ta sẵn lòng đảm nhận
công việc. Vậy hoặc là giao công việc này cho ông Từ, hoặc bỏ cuộc tranh luận.” Thế là, do
không có ai khác, ông Từ được chỉ định đứng ra tranh luận với giáo hòang.

Đến ngày hệ trọng ấy, giáo hoàng ngồi trên ngai tại Quảng Trường Thánh Phêrô, vây
quanh là các hồng y, trước mặt ngài là đông đảo các giám mục, linh mục và quần chúng tín hữu.
Đoàn đại biểu Do Thái chỉ có dăm ba người trong áo choàng đen và những bộ râu rậm rạp. Họ
ngồi quanh ông Từ của họ.

Giáo hoàng quay sang nhìn ông Từ và cuộc tranh luận bắt đầu. Giáo hoàng trịnh trọng
đưa một ngón tay và chỉ lên trời. Ông Từ lập tức đưa tay chỉ xuống đất. Giáo hoàng thu ngón tay
về. Rồi, một cách trịnh trọng hơn, giáo hoàng lại đưa một ngón tay lên và giữ yên ngay trước mặt
ông Từ. Ông Từ cũng đưa bàn tay, xòe ra ba ngón và giữ yên trước mặt giáo hoàng. Giáo hoàng
tỏ vẻ ngạc nhiên thú vị. Rồi, giáo hoàng cho tay vào túi áo choàng, rút ra một quả táo. Để đáp lại,
ông Từ thò tay vào chiếc cặp của mình, rút ra một miếng matzo (bánh thánh không men). Tới
đây, giáo hoàng cất tiếng tuyên bố: “Người đại diện của cộng đồng Do Thái đã thắng cuộc tranh
luận. Kể từ giờ phút này, sắc lệnh trục xuất người Do Thái được thu hồi.”

Những thủ lãnh Do Thái xúm lại vây quanh ông Từ của họ và đưa ông ta đi. Các hồng y
xúm chụm lại chung quanh giáo hoàng, xôn xao hỏi: “Điều gì đã xảy ra vậy, thưa Đức Thánh
Cha? Cuộc tranh luận diễn tiến quá nhanh, chúng con đã không theo dõi kịp.”

Giáo hoàng lau mồ hôi trán và nói: “Đó đúng là một nhà thần học cự phách, một bậc thầy
trong tranh luận. Ta đã bắt đầu bằng cách chỉ tay lên trời để nói rằng toàn thể vũ trụ thuộc về
Chúa. Ông ấy đã trả lời bằng cách đưa tay chỉ xuống đất để nhắc ta nhớ rằng có một nơi gọi là
Hỏa ngục, ở đó quỉ vương làm bá chủ. Rồi ta đưa một ngón tay ám chỉ rằng Thiên Chúa độc
nhất. Ta hết sức bất ngờ khi ông ấy xòe ba ngón tay ra – ngụ ý rằng Đấng Thiên Chúa độc nhất
ấy tự biểu lộ Ngài qua ba ngôi vị bằng nhau, hoàn toàn tương hợp với giáo huấn về Thiên Chúa
Ba Ngôi của chúng ta! Sau đó, biết rằng trước mặt mình là một nhà thần học siêu quần và mình
khó có thể đánh bại, ta đã chuyển cuộc tranh luận sang một chủ đề khác bằng cách lấy ra một
quả táo – nhằm nói rằng theo một số ý kiến hiện đại thì quả đất hình tròn. Ông ấy lập tức lôi ra
một miếng bánh dẹp để nhắc ta nhớ rằng theo Thánh Kinh thì trái đất này phẳng chứ không tròn.
Đến mức này thì ta còn có thể làm gì hơn nữa ngoài việc tuyên bố ông ấy thắng cuộc?”

Cũng trong lúc đó, những người Do Thái tập trung tại hội đường. “Điều gì đã xảy ra thế?”
Họ chộn rộn hỏi ông Từ.  

Ông Từ ra vẻ rất khó chịu. “Ôi, toàn là chuyện ruồi bu!” - ông nói - “Các ngài biết không,
đầu tiên giáo hoàng huơ tay lên, có ý muốn nói rằng mọi người Do Thái phải rời khỏi Rôma. Vì
thế tôi chỉ tay xuống, nhằm tuyên bố rằng chúng ta sẽ cứ ở đây chứ không đi đâu cả. Rồi giáo
hoàng lại chỉ một ngón tay vào mặt tôi, như muốn dọa: “Đừng có lộn xộn với ta!”. Tôi trả lời bằng
cách xòe ba ngón tay để nói rằng giáo hoàng gây lộn xộn cho chúng ta gấp ba lần khi ông
nghiêm khắc ra lệnh trục xuất chúng ta khỏi Rôma. Tiếp theo đó, tôi thấy giáo hoàng lấy bữa ăn
trưa của ông ra; vì thế tôi cũng lôi bữa ăn trưa của mình ra.”

39( Thực tại, thường đó không phải là thực tại, nhưng là cái mà chúng ta nghĩ là thực tại.
Một bà cụ nhỏ thó người Do Thái ngồi bên cạnh một người đàn ông Thụy Điển to bự trên
máy bay. Bà chăm chăm nhìn ông. Cuối cùng, bà nghiêng qua phía ông, hỏi nhỏ: “Này, hình như
ông là người Do Thái phải không?”

Người đàn ông trả lời: “Ồ, không.”

Ít phút sau, bà lại nghiêng qua và nói: “Thôi, đừng giấu giếm chi. Ông là người Do Thái,
phải không?”

“Ồ không, không phải, thưa bà!” Người đàn ông đáp.

Bà lại tiếp tục chăm chăm nhìn ông. Được ít phút, bà lại nói: “Tôi dám chắc ông là người
Do Thái.”

Lúc này, người đàn ông rất bực mình; ông nói xẵng: “Ừ ừ. Tôi là người Do Thái đấy,
thưa bà.”

Bà lại nhìn ông, lắc đầu: “Vậy mà nãy giờ ông cứ chối quanh!”

Chúng ta thường đưa ra kết luận trước, rồi tìm mọi cách để đi tới kết luận của mình.

40( Trong gian hàng rau quả của một siêu thị, một phụ nữ đang cúi xuống để nhặt vài quả
cà chua. Đột nhiên, chị cảm thấy đau nhói ở lưng; chị kêu thét lên và không thể nhúc nhích gì
được nữa.

Một nhân viên siêu thị đứng gần đó quay qua nhìn chị và nói: “Ồ, nếu chị không hài lòng với cà
chua này, chị có thể xem bảng giá các loại cá thử coi!”

Bạn đang đáp ứng lại cái gì, thực tại hay là giả đoán của bạn về thực tại?

41( Một người đàn ông bước lên xe buýt. Một lát sau ông nhận ra rằng mình đang ngồi bên
cạnh một anh chàng hippie: Chàng thanh niên chỉ mang có một chiếc giày!

“Này, chắc hẳn cậu mới đánh mất một chiếc giày?”

“Ồ không. Tôi mới nhặt được một chiếc, thưa ông.”

Tôi thấy rõ như vậy, đó là một chuyện; còn sự thực có thể là một chuyện hoàn toàn khác!

 
42( Một tay cao bồi cưỡi ngựa băng qua sa mạc. Thình lình anh gặp một người da đỏ nằm
sóng soãi trên đường, đầu trẹo nghiêng, úp một tai xuống đất.

“Làm chi đó, sếp?” Chàng cao bồi hỏi.

“Da trắng, to cao, tóc hung, lái một chiếc Mercedes-Benz, trên xe có một con chó bẹc-giê
Đức, bảng số SDT965, chạy về hướng tây.”

“Hử, chỉ úp tai xuống đất mà sếp nghe được tất cả những thông tin đó à?”

“Tui có nghe gì dưới đất đâu! Tên chó đẻ ấy đã cán tui.”

43( Một con trai nhìn thấy một viên ngọc bong ra, rơi vào khe nứt của một tảng đá dưới
đáy biển. Sau nhiều cố gắng, nó lấy lại được viên ngọc và đem đặt trên một chiếc lá bên cạnh
nó. Nó biết rằng có nhiều người chuyên lùng sục tìm ngọc dưới đại dương, vì thế nó nghĩ: “Viên
ngọc này sẽ thu hút sự chú ý của họ, họ sẽ lấy viên ngọc, và họ sẽ không tóm cổ mình.”

Thế nhưng, khi một thợ lặn mò ngọc trai lù lù xuất hiện, đôi mắt anh ta chỉ đảo ngang
đảo dọc kiếm tìm những con trai chứ không chú ý gì đến những viên ngọc nằm yên trên các
phiến lá.

Anh thợ lặn tóm lấy con trai, một con trai không có viên ngọc bên trong nó. Còn viên
ngọc thì rơi trở lại vào khe đá ...

Bạn biết rõ phải tìm ở đâu. Đó là lý do tại sao bạn không gặp thấy Thiên Chúa.

44( Một phụ nữ bước vào nhà băng để xin đổi tiền mặt từ một tấm séc.

Viện dẫn qui định của nhà băng, anh nhân viên ở quầy yêu cầu người phụ nữ xuất trình
thẻ căn cước.

Người phụ nữ há hốc miệng, kinh ngạc. Cuối cùng, chị cũng thốt ra được mấy tiếng:
“Nhưng, Jonathan, má là má của con mà!”

Nếu bạn nghĩ câu chuyện ấy thật buồn cười, tại sao chính bạn không nhận ra được Đấng Cứu
Độ?

45( Một người đàn ông dẫn con chó săn mới của mình đi săn một chuyến thử nghiệm.
Chẳng mấy chốc, ông bắn được một con vịt nước. Con vịt rơi xuống hồ. Con chó săn bước đi
trên mặt nước, ngoạm lấy con vịt và mang trở lại cho chủ.
Người đàn ông vô cùng kinh ngạc. Ông bắn một con vịt khác. Một lần nữa, ông lại trợn
mắt nhìn và cơ hồ không thể tin vào mắt mình: Con chó lại bước đi thoải mái trên mặt nước và
đem con mồi về cho ông.

Không thể tin được những gì mình đã tận mắt chứng kiến, ngày hôm sau, ông rủ một
người hàng xóm cùng đi săn với ông. Sự việc vẫn diễn ra như hôm trước: Mỗi lần họ bắn rơi một
con chim, con chó săn của ông lại bước đi trên mặt nước, tha con chim về cho họ. Người đàn
ông cố nín thinh, không nói gì. Ông hàng xóm cũng im thin thít. Cuối cùng, không nín được nữa,
ông bật miệng thốt lên: “Chứ bộ anh không chú ý thấy điều gì lạ nơi con chó sao?”

Người hàng xóm đưa tay vuốt cằm, trầm ngâm, rồi lên tiếng trả lời: “À, à ... có chứ. Mấy
con chó loại xoàng ấy thì không bơi được.”

Đời sống chứa đầy những điều kỳ diệu. Chính đời sống cũng vốn là điều kỳ diệu. Bất cứ ai
ngừng xem thường nó, sẽ nhận thấy cái kỳ diệu của nó.

46( “Ồ, cậu có một con chó khôn thật!” Một người đàn ông trầm trồ khi nhìn thấy anh bạn
mình đang chơi đánh bài với con chó của anh ta.

“Ơ, trông vậy nhưng không khôn lắm đâu” - người bạn trả lời - “Cậu biết không, mỗi lần
nó được những lá bài tốt, nó đều vẫy vẫy cái đuôi.”

47( Ông nội và bà nội cãi nhau. Bà nội giận quá, quyết không nói chuyện với ông nội nữa.

Ngày hôm sau, ông nội quên tuốt hết mọi điều về cuộc cãi vã ấy. Nhưng bà nội vẫn tiếp
tục làm mặt lạnh với ông nội. Ông nội cố mọi cách làm hòa, nhưng đều vô hiệu. Bà không hé
răng nói một lời nào với ông.

Cuối cùng, ông bắt đầu lục lọi trong tủ chén và các ngăn kéo. Ông lục lọi như thế được
một lúc, bà nội không chịu nổi, quát lên: “Ông kiếm cái quỉ gì vậy?”

“Tạ ơn Chúa, tôi tìm được rồi.” Ông nội vừa trả lời vừa tủm tỉm cười.

Nếu bạn muốn tìm gặp Chúa, bạn hãy tìm một chỗ nào đó khác.

48( Khi quỉ trông thấy một người bước vào nhà Thầy, nó quyết làm mọi chuyện trong khả
năng nó để ngăn cản không cho người ấy tìm thấy Sự Thật.

Vì thế, quỉ đẩy kẻ tội nghiệp ấy vào đủ thứ cám dỗ: tiền của, dục vọng, danh tiếng, quyền
lực, uy tín ... Nhưng kẻ tầm sư vốn rất dày dạn kinh nghiệm tu đức. Anh ta thắng vượt các cơn
cám dỗ ấy một cách dễ dàng. Anh nhiệt tình khao khát linh đạo.
Khi anh đến trước mặt Thầy, anh bỗng giật mình nhận thấy Thầy đang ngồi trên một ghế
bành bọc nệm và các đệ tử đang quây quần dưới chân Thầy. Anh tự nhủ: “Con người này chắc
hẳn thiếu đức khiêm nhường, một nhân đức căn bản của các thánh.”

Thế rồi anh quan sát thêm những thứ khác nơi Thầy mà anh không thích: Thứ nhất,
Thầy có vẻ không chú ý mấy đến anh; anh nghĩ: “Chắc bởi vì mình không tỏ ra tâng bốc ông ta
như đám đệ tử kia của ông.” Thứ hai, anh không thích lối ăn mặc và kiểu cách ăn nói có vẻ trịch
thượng của ông Thầy. Cuối cùng, anh kết luận rằng mình đã gõ nhầm cửa và mình cần phải tìm
đến một vị Thầy khác.

Thầy nãy giờ quan sát thấy con quỉ ngồi nép trong góc phòng. Khi anh lui bước quay đi,
Thầy nói: “Hỡi tên cám dỗ! Ngươi cứ yên tâm. Ngươi biết rõ là anh chàng ấy đã thuộc về ngươi
ngay từ đầu.”

Đó là tình trạng của những người sẵn sàng vứt bỏ tất cả để kiếm tìm Thiên Chúa, nhưng chỉ có
một điều họ không vứt bỏ: chính ý niệm của họ về Thiên Chúa!

Người ta sẽ không bao giờ phạm tội nếu họ ý thức rằng mỗi lần họ phạm tội là họ đang hủy hoại
chính mình. Chỉ cần một chút xíu ý thức về những gì mình đang gây ra cho bản thân mình, phần
đông người ta đều thở dài, tiếc rẻ: “Hỡi ôi!”

49( Anh chàng say xỉn nọ đang bước đi trên đường phố, với các vết bỏng ở cả hai bên
vành tai. Một người bạn gặp anh, hỏi tại sao anh bị bỏng như vậy.

“Bà xã tui không tắt điện bàn ủi. Điện thoại reo – và tui nhấc lộn cái bàn ủi.”

“Vậy à? Thế còn cái tai bên kia thì sao?”

“Thằng khùng ấy lại gọi lần nữa!”

50( Nhà phẫu thuật nổi tiếng nọ ở Vienne nói với học trò mình rằng một bác sĩ giải phẫu
cần có hai khả năng đặc biệt: một là không nôn mửa, hai là có tài quan sát.

Liền lúc đó, ông nhúng ngón tay vào một thứ chất lỏng có mùi gây nôn mửa, rồi thè lưỡi
liếm lấy ngón tay. Ông yêu cầu các sinh viên của mình làm theo y như mình. Họ bặm môi cố
gắng làm theo; và họ cũng làm được ngon lành.

Bấy giờ, nhà phẫu thuật mỉm cười: “Này các bạn, tôi chúc mừng các bạn đã thực hiện
bài trắc nghiệm thứ nhất một cách thành công. Nhưng rất tiếc, các bạn không thành công trong
bài trắc nghiệm thứ hai – vì không một ai trong các bạn quan sát thấy ngón tay tôi liếm không
phải là ngón tay mà tôi nhúng vào chất lỏng kia.”

51( Đó là một giáo xứ nề nếp. Lâu nay cha sở nhờ những người phụ trách xếp chỗ trong
nhà thờ chào hỏi các giáo dân sau các buổi lễ Chúa Nhật. Bây giờ vợ ngài đưa ý kiến rằng ngài
nên đích thân đảm nhận công việc đó. Bà nói: ”Anh nghĩ coi, sẽ thật là tệ hại nếu sau vài năm
làm cha sở ở đây mà anh không biết các giáo dân trong giáo xứ của mình.”

Chúa Nhật kế tiếp đó, sau buổi lễ, cha sở đứng bên cửa nhà thờ để đón chào các tín
hữu bước ra. Người đầu tiên ông chào là một phụ nữ vận thường phục, rõ ràng đây là một người
mới đến giáo xứ.

“Chào bà! Tôi rất vui mừng được có bà đến đây với chúng tôi.” Cha sở vừa nói vừa lịch
sự đưa tay ra bắt tay người phụ nữ.

“Cám ơn cha!” Người phụ nữ nói, trông chị có vẻ rất lúng túng.

“Tôi hy vọng cộng đoàn chúng tôi sẽ thường xuyên gặp bà tại các buổi lễ. Bà biết đó,
chúng tôi luôn luôn vui mừng được tiếp đón những khuôn mặt mới.”

“Vâng ạ, thưa cha.”

“Bà sống trong giáo xứ này phải không?”

Người phụ nữ như chết trân, không biết phải nói gì.

“Nếu bà cho tôi địa chỉ, tôi và nhà tôi sẽ ghé thăm bà vào một buổi chiều nào đó.”

“Ngài không phải đi xa đâu, thưa ngài. Con là đầu bếp của ngài đây!”

52( Một người ăn mày đứng trước cửa văn phòng của ông trọc phú nọ để xin của bố thí.

Ông trọc phú gọi người thư ký của mình và nói: “Cậu có thấy người đàn ông tội nghiệp
đứng đàng kia không? Nhìn kìa, mấy ngón chân của ông ta thòi ra khỏi giày, quần ông ta xơ xác,
áo rách bươm. Tôi dám chắc ông ta không có dao cạo râu, không có nước tắm rửa – và chắc
khá lâu rồi ông ta không có được bữa ăn nào ra hồn. Tôi thật đau lòng khi phải nhìn một tình
cảnh khốn khổ như thế. Vậy, nào, anh hãy đưa anh ta đi khuất mắt tôi. Mau!”

-Một người đàn ông cụt hai tay hai chân đang ăn xin bên vệ đường. Lần đầu tiên gặp anh ta, tôi
quá động lòng – và tôi đã bố thí cho anh một ít tiền. Lần thứ hai, tôi cũng cho tiền, nhưng ít hơn.
Lần thứ ba, tôi lạnh lùng giải anh ta tới cảnh sát vì anh ta ăn xin nơi công cộng và gây phiền toái
cho người ta.

53( Vị Guru  đang thiền định trong một hang núi Hymalayas. Mở mắt ra, ông trông thấy
trước mặt mình là một người khách không mời. Đó là tu viện trưởng của một tu viện nổi tiếng.

“Ông cần gì vậy?” Guru  hỏi.

Vị tu viện trưởng bắt đầu kể lể. Số là trước đây tu viện của ông rất nổi tiếng ở khắp Tây
Phương. Tất cả cơ sở tu viện đều đầy ắp những ứng viên trẻ đến xin dự tu. Thánh đường của tu
viện luôn luôn rộn rã tiếng đàn hát thánh ca của các tu sĩ. Nhưng rồi, tu viện gặp phải một giai
đoạn khó khăn. Người ta không còn ùn ùn tuốn đến xin bồi dưỡng đời sống thiêng liêng của họ
nữa. Các ứng viên trẻ dần dần biến sạch. Thánh đường vắng lặng, trống trơn. Chỉ còn một nhúm
thầy dòng sót lại, tiếp tục các bổn phận của họ trong uể oải, nặng nề.

Kể lể sự tình xong, tu viện trưởng hỏi: “Có phải đấy bởi vì một tội nào đó của chúng tôi
đã làm cho tu viện bị suy thoái thê thảm đến mức này?”

“Đúng vậy” - Guru  trả lời - “Đấy bởi vì tội thờ ơ của các ông.”

“Thờ ơ về điều gì, thưa ngài?”

“Một người trong các ông là Đấng Mêsia giả dạng. Và các ông chẳng hề hay biết điều
đó.” Nói xong, Guru  nhắm mắt lại, tiếp tục thiền định.

Suốt cả con đường trở về tu viện, trống ngực vị tu viện trưởng cứ đánh thình thình mỗi
khi ông nghĩ rằng Đấng Mêsia – chính Đấng Mêsia – đã xuống thế trở lại và đang ở ngay trong tu
viện của mình. Vậy sao lâu nay mình không nhận ra nhỉ? Và đó là ai vậy cà? Thầy Cook? Thầy
Sacristan? Thầy Treasurer? Thầy Prior? Ồ không, không thể là anh ta; anh ta có quá nhiều
khuyết điểm. Mà này, Guru nói rằng Đấng Mêsia giả dạng. Có thể những khuyết điểm kia cũng là
một cách giả dạng lắm chứ? Xem nào, mọi người trong tu viện đều có khuyết điểm. Và một
người trong đó là Đấng Mêsia!

Về đến nhà, tu viện trưởng triệu tập tất cả các thầy lại và nói cho họ biết sự khám phá
của mình. Tất cả các thầy đưa mắt nhìn nhau, ngờ ngợ. Mesia à? Ở ngay đây? Thật không thể
nào tin được! Nhưng đó là một Đấng Mêsia giả dạng. Vậy rất có thể là chuyện thực lắm chứ.
Nhưng đó là ai? Thầy này? Thầy kia? Hay thầy nọ? ...

Có một điều chắc chắn. Nếu Đấng Mêsia giả dạng thì khó mà nhận ra Ngài. Thế là tất cả
các thầy trong tu viện bắt đầu cư xử với nhau một cách đầy quan tâm và kính trọng. Mỗi người
trong họ đều tự nhủ: “Biết đâu đó, có thể Mêsia là người này ...”

Kết quả là bầu khí trong tu viện trở nên ngày càng sinh động và vui tươi hơn. Các ứng
viên trẻ lại ùn ùn tuốn đến xin gia nhập dòng. Thánh đường lại rộn rã các khúc ca. Tu viện lại đầy
ắp tình yêu.

Có đôi mắt nhưng trái tim bị mù thì ích gì?

54( Một tù nhân nọ bị biệt giam trong nhiều năm. Anh không gặp ai, cũng chẳng nói chuyện với
ai. Các bữa ăn của anh được chuyển vào xà lim cho anh qua một lỗ nhỏ khoét xuyên tường.

Bữa nọ, một con kiến bò vào xà lim. Anh chiêm ngắm con kiến một cách thích thú khi nó
bò khắp quanh buồng. Anh đặt con kiến trên tay để có thể quan sát nó rõ hơn. Anh tặng nó một
hai hạt cơm. Buổi tối, anh úp chiếc ly thiếc để giữ con kiến.

Rồi một hôm, anh bất chợt nhận ra rằng mình đã phải mất đến mười năm sống một mình
mới có thể nhận thấy được cái đáng yêu của một con kiến.

Khi một người bạn ghé thăm Họa sĩ Tây Ban Nha tại nhà vào một chiều xuân ấm áp. Anh ta nhìn
thấy họa sĩ đang ngồi trong phòng, che màn kín mít.
“Này người anh em, bước ra ngoài thưởng ngoạn chút ánh nắng mặt trời chứ.”

“Ồ, bây giờ thì không được.” El Greco trả lời, “Làm thế sẽ ảnh hưởng đến ánh sáng đang chiếu
rọi trong lòng tôi.”

55( Vị Rabbi già bị mù, không thể đọc sách vở gì được, cũng chẳng nhận ra được khuôn
mặt của những người đến gặp ông.

Một người chữa bệnh bằng đức tin nói với Rabbi: “Nếu Thầy chấp nhận để tôi săn sóc,
tôi sẽ chữa lành chứng mù cho thầy.”

“Không cần thế đâu” - Rabbi trả lời - “Tôi vẫn có thể trông thấy mọi thứ mà tôi cần thấy.” 

Không phải ai nhắm mắt cũng ngủ. Và không phải ai mở mắt cũng thấy.

TÔN GIÁO

56( NGƯỜI DU KHÁCH MỆT MỎI:  “Kỳ cục thật, tại sao người ta xây dựng nhà ga xe lửa
cách làng đến ba cây số lận?”

ANH PHU BỐC VÁC: “Chắc hẳn họ nghĩ rằng cần phải xây nhà ga gần với đường sắt, thưa
ông.” 

Một nhà ga hiện đại cách xa đường sắt 3 cây số thì cũng vô lý không kém một đền thờ người ta
hay lui tới nhưng lại cách xa cuộc sống của họ đến 3 centimet!

57( Tượng Phật Kamakura được đặt trong một đền thờ cho đến một hôm có cơn bão lớn
xô sập đền thờ. Thế là trải qua nhiều năm, pho tượng đồ sộ ấy đứng trơ mình cho nắng táp mưa
sa ...

Khi một vị tư tế chuẩn bị mở cuộc quyên góp để xây dựng lại đền thờ, pho tượng hiện ra
với ông trong một giấc mơ và nói: “Đền thờ ấy là một ngục tù, không phải một mái nhà. Nguơi
hãy cứ để ta phơi mình trong phong sương cuộc đời. Đấy mới chính là chỗ của ta.”

58( Dov Ber là một con người rất không bình thường. Những ai đến gặp ông đều run cầm
cập. Ông là một học giả Thánh Kinh có tiếng tăm, cứng cỏi không chút khoan nhượng trong lập
trường của mình. Không ai trông thấy ông cười bao giờ. Ông tin tưởng mãnh liệt vào những khổ
chế tự nguyện. Ông thường giữ chay liên tục nhiều ngày. Sự khổ hạnh của Dov Ber cuối cùng đã
có tác dụng trên ông. Ông ngã trọng bệnh và các bác sĩ đành bó tay không thể chữa chạy được.
Cuối cùng, có người đề nghị: “Tại sao không cầu cứu đến Baal Shem Tov?”

Dov Ber đồng ý, dù ban đầu ông phản kháng ý kiến đó – bởi vì ông rất dị ứng với Baal
Shem, người mà ông cho là một kẻ dị giáo. Thật vậy, trong khi Dov Ber tin rằng đời sống chỉ có ý
nghĩa xuyên qua các nỗi thống khổ, thì Baal Shem lại tìm cách xoa dịu các nỗi đau và công khai
giảng dạy rằng chính tinh thần vui tươi phấn khởi mới đem lại ý nghĩa cho cuộc đời.
Baal đến vào lúc đã quá nửa đêm. Ông vận áo khoác len và đội một chiếc mũ lông thú
rất đẹp. Bước vào phòng người bệnh, ông chìa ra một quyển sách. Dov Ber cầm lấy, mở sách và
bắt đầu đọc lớn tiếng.

Dov Ber đọc được chừng một phút, Baal Shem nói cắt ngang: “Thiếu một cái gì đó rồi.
Thiếu một cái gì đó trong đức tin của ông.”

“Cái gì?” Dov Ber hỏi.

“Linh hồn.” Baal Shem trả lời.

59( Đó là một tối mùa đông lạnh buốt xương. Một thầy khổ tu lỡ đường hỏi xin trú nhờ
trong một đền thờ.

Vị tư tế đền thờ thấy con người tội nghiệp ấy đứng run rẩy trong gió tuyết, ông hơi lưỡng
lự, song cuối cùng ông nói: “Được, thầy có thể trú lại đây, nhưng chỉ qua đêm thôi đấy nhé. Thầy
biết đó, đây là một đền thờ, không phải một nhà tế bần. Sáng mai xin thầy vui lòng ra đi.” ...

Trong bầu khí tĩnh mịch của đêm tối, vị tư tế nghe những âm thanh răng rắc rất lạ. Ông
bật dậy, chạy sang đền thờ và không thể tin vào mắt mình: Người khách lạ đang ngồi sưởi ấm
bên đống lửa mà ông ta tự nhóm lên giữa đền thờ. Một pho tượng Phật bằng gỗ đã biến mất. Vị
tư tế hỏi: “Pho tượng đâu rồi?”

Người khách đưa tay chỉ vào đống lửa, rồi nói: “Tôi nghĩ cái lạnh khủng khiếp này có thể
làm tôi chết cóng.”

Vị tư tế la lên: “Ông điên rồi sao? Ông có biết ông đã làm gì không? Đó là Đức Phật. Ông
đã đốt cháy mất Đức Phật rồi!”

Ngọn lửa hạ từ từ hạ xuống. Người khách đăm đăm nhìn đống lửa, rồi bắt đầu cời nó với
chiếc gậy của mình.

“Ông lại làm gì đó vậy?” Vị tư tế hét lên.

“Tôi đang tìm kiếm xương của Đức Phật mà ngài bảo rằng tôi vừa mới thiêu.” 

Sau đó, vị tư tế kể lại câu chuyện cho một thiền sư. Thiền sư nhận định: “Ông là một tư tế tệ hại,
bởi vì ông quí một Đức Phật chết hơn là một con người sống.”  

60( Tetsugen, một môn sinh của Thiền, quyết tâm thực hiện một công việc vĩ đại: in bảy
nghìn bản kinh Phật để phổ biến – số là cho tới thời bấy giờ, ở xứ sở của ông chỉ có những bản
kinh Phật bằng chữ Hán.

Ông đi ngược đi xuôi khắp nước Nhật để quyên góp, chuẩn bị ngân sách cho dự án này.
Một số người giàu có đã tặng ông hàng trăm đồng vàng; nhưng phần lớn số tiền ông nhận được
là những đồng cắc của các nông dân nghèo. Tetsugen bày tỏ lòng biết ơn như nhau đối với mọi
nhà hảo tâm; ông không phân biệt số lượng tiền người ta trao cho mình ít hay nhiều.

Sau mười năm cố công quyên góp, cuối cùng ông tích lũy được số tiền cần thiết để thực
hiện công việc của mình. Đúng lúc đó, sông Uji tràn bờ, gây ngập lụt khủng khiếp. Hàng ngàn
người lâm cảnh màn trời chiếu đất, không có cơm ăn nước uống. Tetsugen sử dụng tất cả số
tiền mà mình vừa quyên góp được để giúp đỡ những nạn nhân đáng thương kia.

Rồi, ông lại bắt đầu quyên góp cho dự án chưa thành của mình. Ông lại phải mất mấy
năm mới có được số tiền mình cần. Đột nhiên, một cơn dịch bệnh lan tràn trên khắp nước; thế là
Tetsugen lại chi tất cả số tiền đó cho việc cứu trợ.

Một lần nữa, ông cất bước lên đường đi quyên góp ... Sau hai mươi năm, giấc mơ của
ông về những bản kinh bằng tiếng Nhật mới được thực hiện.

Bản khắc để in những quyển kinh đầu tiên này hiện còn trưng bày tại Tu viện Obaku ở
Kyoto. Và các bậc phụ huynh Nhật Bản nói với con em họ rằng Tetsugen đã làm tất cả ba bản
kinh, hai bản đầu là hai bản vô hình – nhưng giá trị vượt xa một trời một vực so với bản thứ ba.

61(  Ngày xửa ngày xưa, hai anh em nọ cùng sống và làm việc chung trên một cánh đồng
và một cối xay. Mỗi tối về, hai anh em chia đều hoa lợi mà họ thu hoạch được trong ngày. Người
em sống độc thân; còn người anh có vợ và nhiều con cái. Bất chợt một hôm, người em sực nghĩ:
“Thật không công bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Mình chỉ có một mình. Còn anh ấy phải
nuôi cả vợ con nữa.” Thế rồi, mỗi đêm khuya, người em âm thầm lấy bớt số thóc lúa của mình
đem đổ vào kho của người anh.

Gần như cũng đồng thời, người anh sực nghĩ: “Thật không công bằng  chút nào việc
chia đều hoa lợi. Vì mình có con cái cấp dưỡng cho mình trong tuổi già. Còn chú ấy sống một
mình, sẽ chẳng có ai cấp dưỡng. Chú ấy cần dự phòng cho tuổi già sau này.” Thế rồi, mỗi đêm
khuya, người anh âm thầm lấy bớt số thóc lúa của mình đem đổ vào kho của người em.

Kết quả là, mỗi buổi sáng thức dậy, cả hai người đều ngạc nhiên nhận thấy phần thóc
lúa của mình đã được bổ sung trở lại, không hề bị hao hụt đi. Song họ không hiểu tại sao.

Đến một tối, hai người bắt gặp nhau giữa đường, khi đang mang thóc đổ vào kho của
nhau. Cả hai lập tức hiểu ra sự việc. Và họ cảm động ôm chầm lấy nhau.

Nhiều năm sau khi họ qua đời, câu chuyện ấy dần lan rộng ra. Vì thế, khi dân chúng
muốn xây dựng một thánh đường cho thị trấn, họ đã chọn đúng chỗ mà hai anh em gặp nhau tối
ngày xưa ấy để đặt móng cho thánh đường – bởi họ nghĩ rằng không thể có chỗ nào khác trong
thị trấn linh thánh hơn chỗ này.

Về mặt tín ngưỡng, nét phân biệt quan trọng không phải là giữa người lễ bái và người không lễ
bái – nhưng là giữa người yêu thương và người không yêu thương.

62( Bữa kia, người điền chủ giàu có nọ hớt hải chạy về nhà, ông la toáng lên: “Em ơi,
Rebecca ơi! Có chuyện nghiêm trọng cho thị trấn chúng ta rồi. Mêsia đang có mặt ở đây!”
“Vậy thì càng tốt chứ có chi phải lo đâu? Sao anh cuống lên vậy?” Vợ người điền chủ trả
lời.

“Sao lại không lo cơ chứ! Ngần ấy năm vất vả ky cóp, cuối cùng chúng ta có được một
cơ ngơi kha khá: Một ngàn con bò béo tốt, một kho thóc khổng lồ, cả vườn cây ăn trái bắt đầu
trĩu quả... Giờ đây chúng ta sắp sửa phải bỏ hết để theo ông ta!”

“Bình tĩnh đi nào, anh yêu!” - Người vợ an ủi - “Đức Chúa của chúng ta là Đấng tốt lành.
Ngài biết rõ ngần ấy nỗi thống khổ mà đồng bào Do Thái chúng ta đã phải chịu đựng. Một
Pharaon này, một Haman này, rồi một Hitler này ... Tai họa nào cũng gắn liền với một cái tên nào
đó. Nhưng Chúa nhân lành đã luôn luôn có cách thanh toán những kẻ ác ôn ấy, phải không? Cứ
tin tưởng đi, anh yêu. Rồi Chúa cũng sẽ có cách thanh toán Mêsia này cho chúng ta thôi.”

63( Cụ Goldstein, 92 tuổi, đã sống qua các cuộc tàn sát người Do Thái ở Ba-lan, các trại
tập trung của Đức Quốc Xã, và hàng lố những cuộc bách hại khác nhắm vào người Do Thái.

“Lạy Chúa!” - ông nói - “Có thật chúng tôi là dân được Ngài tuyển chọn không?”

Một tiếng nói từ trời trả lời: “Đúng vậy, Goldstein à, dân Do Thái là dân được Ta tuyển
chọn.”

“Thế thì lạy Chúa, Chúa không nghĩ là đã đến lúc Chúa nên chọn một dân khác sao?”

64( Một anh chàng vô thần trượt té khỏi vách núi đá. Khi rơi xuống, anh chụp được một
nhánh cây nhỏ. Anh treo lơ lửng ở đó. Sâu hun hút phía dưới là những tảng đá lởm chởm, đen
ngòm. Nhánh cây kêu răng rắc, sắp gãy.

Bỗng anh nảy ra một ý. “Chúa ơi!” Anh gào lên.

Lặng thinh. Không có ai trả lời.

“Chúa ơi!” - Anh lại kêu lên - “Nếu thật có Chúa, xin Chúa hãy cứu tôi. Tôi sẽ tin vào
Chúa và sẽ dạy người khác tin vào Chúa nữa.”

Vẫn yên lặng! Nhưng rồi, anh vô cùng hoảng hốt khi nghe một tiếng nói uy nghi vang rền
trong thung lũng: “Gặp lúc khó khăn, tất cả các người đều nói với Ta như thế.”

“Không, không, Chúa ơi!” - Anh lại thét lên, với giọng đầy hy vọng - “Tôi không giống
những người khác đâu. Tôi đã bắt đầu tin rồi đó; tôi đã nghe được lời Ngài rồi đó, Chúa thấy
không? Ngài hãy cứu tôi, và tôi sẽ rao giảng Danh Ngài đến cùng trời cuối đất.”

“Tốt lắm” - tiếng nói uy nghi kia trả lời - “Ta sẽ cứu ngươi. Nào, ngươi hãy buông tay khỏi
nhánh cây kia đi.”

“Buông tay?” - người đàn ông trợn mắt - “Bộ Ngài tưởng tôi điên rồi sao?”

 
Người ta nói rằng khi Mô-sê vung gậy xuống Biển Đỏ, phép lạ đã không xảy ra. Chỉ khi người
đầu tiên nhảy ùm xuống biển, sóng biển mới lùi lại và nước mới dựng lên như hai bức thành,
chừa lối cho con cái It-ra-en đi qua.

65( Nhà của Mullah Nasruddin bị hỏa hoạn, ông trèo lên mái nhà để kiếm đường thoát.
Thấy ông bám chênh vênh trên mái nhà, các bạn ông tập trung phía dưới, họ căng một tấm chăn
và gọi ông: “Nhảy xuống đi, Mullah, nhảy xuống đi!”

“Ồ không, tôi không nhảy đâu” - Mullah trả lời -  “Tôi biết các anh lắm rồi. Tôi mà nhảy
xuống, các anh sẽ rút tấm chăn đi. Thế là tôi bị lừa.”

“Đừng lẩn thẩn, Mullah. Ai mà đùa với ông vào lúc này? Mau lên, ông nhảy đi.”

“Không” - Nasruddin trả lời - “Tôi không tin các anh. Các anh đặt tấm chăn xuống đất đi,
rồi tôi sẽ nhảy.”

66( Ông già keo kiệt nọ cầu nguyện. Tình cờ có người nghe lóm được như sau:

“Lạy Chúa Toàn Năng, chúc tụng Thánh Danh Chúa muôn đời, Chúa hãy cho con một trăm ngàn
đô la, con xin hứa sẽ tặng lại mười ngàn cho kẻ khó. Và lạy Chúa Toàn Năng vinh hiển muôn
đời, nếu Chúa không tin con, Chúa hãy khấu trừ trước mười ngàn đô, và hãy gửi cho con chín
mươi ngàn thôi vậy.”

67( Giữa chuyến bay, viên phi công thông báo với hành khách: “Kính thưa quí bà quí ông,
tôi rất tiếc phải báo cho mọi người biết rằng phi cơ chúng ta lúc này đang bị một sự cố nghiêm
trọng. Chỉ có Chúa mới có thể cứu được chúng ta thôi.”

Một hành khách xoay qua hỏi một linh mục ngồi bên mình về nội dung lời thông báo vừa rồi của
viên phi công. Linh mục đáp: “Ông ta nói rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng!”

68( Một Sufi thánh thiện trẩy đi hành hương Mecca. Đến thánh địa, ông vui mừng nhận
thấy rằng có rất ít khách hành hương ở đó – nghĩa là ông có thể thoải mái làm các việc đạo đức
của mình mà không bị cảnh chen chúc xô đẩy.

Sau khi làm xong các công việc đạo đức theo qui định, ông quì phủ phục dưới đất và nói:
“Lạy Đức Allah! Con chỉ có một ước mơ trong đời con – đó là xin Ngài ban cho con ơn không bao
giờ xúc phạm đến Ngài nữa.”

Khi Đấng Vô Cùng Thương Xót nghe lời ấy, Ngài cười và nói: “Tất cả các người đều xin
như thế. Nhưng nếu Ta ban ơn đó cho các người, thì thử hỏi rồi Ta sẽ tha thứ cho ai?”

 
Một tội nhân bước đi một cách rất hiên ngang vào trong đền thờ, được hỏi tại sao anh không tỏ
ra chút gì khúm núm, anh trả lời: “Đầu ai cũng được trời che chở, chân ai cũng được đất đỡ
nâng; vậy Thiên Chúa há không phải là trời và đất của mọi người sao?”

69( Linh mục nọ truyền cho thầy phó tế của mình huy động 10 người đến cầu kinh xin ơn
hồi phục cho một bệnh nhân.

Khi tất cả đã đến, có người rỉ tai nói thầm với linh mục: “Trong số những người này, có
vài tên trộm rất tai tiếng đó, thưa cha.”

“Càng tốt” - linh mục trả lời - “Nếu các cánh cổng ơn Chúa bị đóng lại, thì họ sẽ là chuyên
viên mở chúng ra.”

70( Đang bước đi trên đường, khách bộ hành nọ gặp một người đàn ông cưỡi ngựa
phóng vù qua. Đôi mắt của người cưỡi ngựa có vẻ không lương thiện; hai bàn tay của gã dính
đầy vết máu.

Ít phút sau, cả chục người phóng ngựa tới. Họ hỏi người khách bộ hành: “Anh có trông
thấy một người với đôi bàn tay dính đầy máu vừa phóng ngựa qua đây không? Chúng tôi đang
gấp rút đuổi theo người ấy.” 

“Đó là ai vậy?” Người khách bộ hành hỏi.

“Một kẻ xấu.” Người dẫn đầu trong nhóm họ trả lời.

“Các ngài đuổi theo để đưa người ấy ra trước công lý phải không?”

“Không. Chúng tôi đuổi theo để chỉ đường cho anh ta đi.”

Chỉ có Hòa Giải – chứ không phải Công Lý – mới cứu được thế giới. Công Lý thường chỉ là tên
gọi khác của Trả Thù. 

71( Một tối nọ, thi sĩ Awhadi ngồi ngoài hiên nhà, ông cúi gập đầu trên một cái chậu nhỏ.
Sufi Shams-e Tabrizi tình cờ đi ngang qua, hỏi: “Ông đang làm gì vậy?”

“Tôi chiêm ngắm mặt trăng trong chậu nước.” Awhadi trả lời.

“Cổ của ông bị gãy cụp rồi ư? Sao ông không ngẩng lên để trực tiếp nhìn vầng trăng trên
bầu trời?”

Ngôn từ là những phản ảnh rất què quặt của thực tại. Một người nọ nghĩ rằng mình biết Taj
Mahal vì anh ta đã được trông thấy một phiến đá cẩm thạch – và giải thích rằng Taj Mahal là một
tập hợp những phiến đá cẩm thạch như thế. Một người khác, vì đã trông thấy một xô nước lấy từ
Thác Niagara, nên chắc mẩm rằng mình biết rõ Thác Niagara như thế nào.

72( “Ồ! Cháu bé của chị thật kháu khỉnh.”

“Xí! Chị chưa biết đó. Tấm hình chụp của thằng bé còn trông còn kháu khỉnh hơn nhiều!”

Ngôn từ và ý niệm là những biểu thị, không phải những phản ảnh, của thực tại. Nhưng, như một
nhà thần bí Đông Phương nhận định, “Khi nhà hiền triết chỉ mặt trăng, thì kẻ phàm phu chỉ trông
thấy có ... ngón tay!”

73( Một gã say rượu đi ngang qua cầu vào buổi tối nọ. Tình cờ, gã gặp một người bạn. Cả
hai đứng vịn thành cầu, tán dóc.

“Cái gì phía dưới kia thế nhỉ?” Gã say rượu hỏi.

“Đó là mặt trăng.” Người bạn trả lời.

Gã say rượu trố mắt nhìn, lắc đầu, lẩm bẩm: “Phải rồi, mặt trăng. Nhưng mình đã đi con
đường nào mà lên được tận trên cao nầy vậy cà?

Dường  như chúng ta không bao giờ thấy được thực tại. Cái mà chúng ta thấy chỉ là một phản
ảnh của thực tại dưới dạng ngôn từ hay ý niệm – mà chúng ta vẫn thường tưởng là chính thực
tại. Thế giới mà chúng ta đang sống chủ yếu là một viện tâm thần. Người ta sống bằng những
ngôn từ, nuôi dưỡng mình bằng những ngôn từ. Không có ngôn từ, người ta không chịu nổi!

74( Một người ăn mày níu lấy tay áo của một khách qua đường để xin tiền mua một tách
cà phê. Đây là câu chuyện của anh ta: “Thưa ngài, trước đây tôi là một thương gia giàu có giống
như ngài vậy. Tôi chăm chỉ làm việc suốt ngày. Trên bàn giấy của tôi có một câu khẩu hiệu: SUY
NGHĨ THẬT SÁNG TẠO, HÀNH ĐỘNG THẬT DỨT KHOÁT, SỐNG THẬT BẠO DẠN. Đó là
châm ngôn dẫn dắt lối sống của tôi – và tiền bạc tuôn vào như nước. Thế rồi ... thế rồi ... “ - anh
chàng ăn mày bệu bạo như muốn bật khóc - “Thế rồi chị bồi phòng đã vô ý vứt câu châm ngôn
của tôi vào giỏ rác!”

Khi bạn quét dọn sân nhà thờ, đừng dừng lại để đọc những mẩu giấy báo cũ. Khi bạn quét dọn
tâm hồn mình, đừng dừng lại để vờn với mớ ngôn từ.

 
75( Có câu chuyện kể về một người đàn ông nọ rất ngốc nghếch. Mỗi sáng thức dậy, ông
phải rất vất vả mới tìm ra được áo quần của mình. Vì mỗi lần thức dậy đều gặp rắc rối nên thậm
chí ông sợ không dám đi ngủ!

Một buổi tối, ông lấy bút và giấy, ông vừa thay y phục vừa ghi rõ ràng tên từng món và vị
trí chính xác mà ông cất chúng. Sáng hôm sau, ông lôi tờ giấy ra, đọc to: “Quần dài!” – quần dài
kia rồi. Ông bước lại lấy quần dài. “Aùo sơ mi!” – đây, áo sơ mi ở đằng này. Ông lấy áo sơ mi
khoác lên người. “Mũ!” – à, mũ ở kia. Ông cầm lấy mũ, chụp lên đầu.

Ông rất thích thú với cách làm này của mình ... cho đến khi một ý tưởng khủng khiếp vụt
hiện lên trong đầu ông: “Còn tôi! – tôi đâu rồi?” Ông đã quên không ghi rõ món này cùng chỗ để
của nó. Vì thế, ông loay hoay tìm mãi, tìm mãi, nhưng không thể tìm thấy. Ông không tìm được
chính ông!

Nhiều người nói: “Tôi đọc quyển sách này để khám phá con người tôi.” Bạn nghĩ gì?

76( Một trong những nhà hiền triết danh tiếng nhất của Ấn Độ ngày xưa là Svetaketu. Đây
là con đường qua đó ông đã tiếp cận sự khôn ngoan của mình:

Hồi còn bé, chỉ mới bảy tuổi, cậu được cha gửi đi học Vedas. Nhờ ở khả năng tiếp thu và
trí thông minh đặc biệt của mình, cậu sớm tỏ ra trỗi vượt hẳn trên các bạn đồng môn. Vừa bước
vào tuổi trưởng thành, chàng thanh niên Svetaketu đã được nhìn nhận là một chuyên gia vĩ đại
nhất về Kinh Điển.

Khi Svetaketu trở về nhà, cha anh muốn kiểm tra khả năng của con mình. Ông đặt cho
con trai câu hỏi: “Có phải con đã học được đúng cái mà không cần phải học gì khác? Có phải
con đã khám phá được cái mà nhờ đó mọi nỗi đau khổ sẽ không còn? Có phải con đã nắm hiểu
được điều mà không ai có thể dạy cũng chẳng ai có thể học được?

“Thưa cha, không.” Svetaketu trả lời.

“Vậy thì tất cả những gì con đã học được suốt ngần ấy năm đều vô nghĩa, con à.”

Sự thật hàm chứa trong những lời nói của người cha đã tác động mãnh liệt nơi
Svetaketu. Chàng bắt đầu cuộc khám phá trong thinh lặng sự khôn ngoan mà không ai có thể
diễn đạt thành lời.

Khi ao cạn khô và cá nằm trên mặt đất nứt nẻ, bạn đừng hà hơi cho cá có chút ẩm hoặc phun
miếng nước bọt để thấm ướt cho nó. Bạn hãy trả cá về hồ. Cũng vậy, bạn đừng nuôi người ta
bằng những thuyết lý. Hãy trả người ta về thực tại. Vì bí quyết sống phải được tìm trong chính
cuộc sống – chứ không phải trong những thuyết lý về cuộc sống.

77( Một người nọ hỏi Sufi Jaal ad-Din ar-Rumi phải chăng Kinh Koran là một quyển sách
tốt và đáng đọc.
Ông trả lời: “Tốt hơn bạn nên tự hỏi rằng bạn có đang ở trong tình trạng phù hợp để rút
tỉa lợi ích được từ nó không.”

Một nhà thần bí Kitô giáo nói về Thánh Kinh: “Một thực đơn, dù có hữu ích mấy đi nữa, cũng
không phải là cái để cho người ta ăn.”

78( Một đứa trẻ trong giờ lớp địa lý: “Kinh tuyến và vĩ tuyến rất ích lợi – vì khi chúng ta bị
chết đuối, chúng ta có thể nói rõ mình đang ở kinh tuyến và vĩ tuyến nào để người ta đến cứu
mình.”

Người ta nói đi nói lại hai tiếng ‘khôn ngoan’, và tưởng rằng mình khôn ngoan – cơ hồ như hễ ai
hiểu từ ngữ ‘thiên văn học’ là gì thì đều trở thành nhà thiên văn vậy!

Bạn phồng má thổi cái nhiệt kế, vạch chỉ nhiệt độ sẽ lên cao. Nhưng điều đó không hề có nghĩa
rằng bạn đã làm cho căn phòng ấm lên

79( Ngày nào cũng vậy, trong góc một thư viện ở Nhật Bản, người ta trông thấy một thầy
tu già ngồi yên lặng thiền định.

“Tôi chẳng bao giờ thấy thầy đọc sách kinh.” Người phụ trách thư viện nói.

“Tôi chưa bao giờ học đọc.” Vị thầy tu trả lời.

“Sao lại thế được? Một tu sĩ như thầy phải biết đọc chứ. Hay là để tôi dạy thầy nhé!”

“À, à.” Thầy tu vừa chỉ vào mình vừa nói, “Nhưng trước hết hãy nói cho tôi biết ý nghĩa
của chữ* (character)[1] này là gì?”

Tại sao phải đốt đuốc khi mặt trời đang chiếu ánh sáng chói chang? Tại sao phải tưới cây khi
mưa đang trút xối xả?

80( Guru hứa sẽ giúp một học giả hiểu ra một điều còn vĩ đại hơn bất cứ gì được chứa
đựng trong Kinh Điển.

Vị học giả nôn nóng muốn biết đó là điều gì. Guru nói: “Ông hãy đi ra ngoài giữa cơn
mưa, ngẩng đầu và đưa hai tay lên trời. Rồi ông sẽ nhận được mạc khải đệ nhất.”
Hôm sau, vị học giả trở lại gặp Guru: “Thưa ngài, tôi đã làm theo y lời ngài – và người tôi
ướt như chuột lột. Tôi thấy mình như một thằng khùng vậy.”

“Tốt” - Guru nói - “Ngay ngày đầu tiên, ông đã nhận được một mạc khải quí giá đấy chứ,
phải không?”

Nhà thơ Kabir nói:

Ích gì cho ngài, thưa ngài học giả, việc chúi đầu vào chữ và nghĩa mà trái tim ngài không sôi sục
tình yêu?

Ích gì cho ngài, thưa ngài khổ tu, việc ngài khoác lên người chiếc áo cà sa tươi màu vàng nghệ,
còn bên trong thì nhợt nhạt, eo sèo?

Ích gì cho bạn, việc bạn tẩn mẩn nắn nót hành vi cử chỉ của mình cho tới khi nó phát sáng lên,
còn bên trong thì trơn lu, trống rỗng?

81( MÔN ĐỆ:   Thưa Thầy, đâu là sự khác nhau giữa kiến thức và giác ngộ?

THẦY:    Khi con có kiến thức, con dùng một bó đuốc để soi đường. Còn khi con giác ngộ, chính
con sẽ trở thành bó đuốc.

82( Một anh lính nhảy dù nhảy ra khỏi máy bay gặp bữa có gió lớn. Anh bị thổi tạt đi xa
đến hàng trăm dặm. Rồi, chiếc dù vướng vào một tàng cây. Bị treo lửng lơ ở đó trong mấy giờ
liền, anh cố sức kêu cứu.

Cuối cùng, có người đi ngang qua, ngước nhìn lên, hỏi anh: “Làm sao anh lại leo lên đó
được vậy?”

Anh lính nhảy dù kể lại cho người kia nghe sự việc. Rồi anh hỏi: “Tôi đang ở đâu đây?”

“Trên một ngọn cây.” Người kia trả lời.

“Chà, chắc ông là một giáo sĩ, phải không?”

Người đứng dưới đất giật bắn mình. “Vâng, tôi là giáo sĩ. Nhưng làm sao anh biết?”

“Vì điều ông nói hoàn toàn đúng nhưng cũng hoàn toàn vô dụng.”

83( Một nhóm người đang thưởng thức nhạc tại một nhà hàng Tàu. Đột nhiên, tay sô-lô
chuyển sang một giai điệu rất quen thuộc. Mọi người đều nhận ra giai điệu ấy, nhưng không ai
nhớ nổi tên của tác phẩm. Vì thế, họ vẫy anh bồi và hỏi anh xem nhạc công đang chơi gì thế.
Anh bồi ngúng nguẩy đi qua bên kia dãy bàn, rồi trở lại với bộ tịch rất đắc ý. Anh nói nhỏ, nhưng
đủ cho cả nhóm cùng nghe: “Viôlông!”
 

Đó là sự đóng góp của học giả cho linh đạo!

84( Vở kịch đang diễn tại nhà hát địa phương thì bất chợt màn được hạ xuống và ông bầu
bước ra nói với khán giả:

“Kính thưa quí vị, tôi thật rất tiếc xin thông báo với quí vị rằng nam diễn viên chính, cũng
chính là ngài thị trưởng thân yêu của chúng ta, vừa mới bị một cơn đau tim chí tử trong phòng
thay trang phục. Vì thế, chúng tôi phải ngừng vở kịch tại đây.”

Nghe xong lời thông báo trên, một phụ nữ trung niên ở dãy ghế trước đứng lên thét lớn:
“Mau! Hãy đem cho ông ấy một chén cháo gà!”

“Thưa bà” - ông bầu giải thích - “Đó là cơn đau tim chí tử. Ông ấy đã chết.”

“Vậy thì đưa ngay cháo gà cho ông ấy.”

Ông bầu lắc đầu, phân trần: “Cháo gà giúp ích gì cho một người chết, thưa bà?”

“Vậy chứ nó có làm hại gì không?” Người phụ nữ hét lên.

Cháo gà dành cho người chết cũng giống như tôn giáo đối với người không ý thức – số người
này, hỡi ôi, rất đông.

85( Thầy ngạc nhiên nghe thấy tiếng la lối và cãi vã trong sân nhà mình. Khi ông được báo
cho biết rằng một trong những đệ tử của mình đang ở trong cuộc cãi vã đó, ông cho gọi đệ tử ấy
vào và hỏi lý do của chuyện ầm ĩ.

“Thầy ạ, có một nhóm học giả đến thăm thầy. Con bảo với họ rằng thầy không có thời
giờ để tiếp những người mà đầu óc chỉ ngập đầy những sách vở và tư tưởng nhưng thiếu sự
khôn ngoan. Họ chính là những người, do lòng tự phụ, đã tạo ra các giáo điều và bao sự chia rẽ
cho người ta ở khắp nơi đó, thưa thầy.”

Thầy mỉm cười, nhận xét: “Đúng lắm, đúng lắm. Nhưng hãy nói cho ta về phần của con.
Không phải do lòng tự phụ muốn tỏ ra mình khác với các học giả ấy mà con đã gây ra sự xung
đột và sự chia rẽ này sao?”

86( Một nhà hiền triết Aán giáo đang nhờ người đọc quyển Cuộc Đời Chúa Giêsu cho ông
nghe.

Khi ông nghe thấy rằng Chúa Giêsu bị tẩy chay bởi dân chúng ở Na-da-rét, ông thốt lên:
“Một Rabbi mà cộng đoàn của vị ấy không muốn tống cổ vị ấy ra khỏi thị xã của họ thì không phải
là một Rabbi.”
Và khi nhà hiền triết nghe thấy rằng chính các tư tế đã đẩy Chúa Giêsu vào chỗ chết,
ông thở dài: “Không dễ gì Satan lung lạc được cả thế giới, vì thế nó bổ nhiệm những chức sắc
tôn giáo vị vọng ở khắp mọi nơi trên trái đất này.”

Lời than thở của một giám mục: “Bất cứ nơi nào Đức Giêsu tới, cũng có một cuộc cách mạng;
còn bất cứ nơi nào tôi tới, người ta đều mời tôi uống trà!”

Khi một triệu người đi theo bạn, bạn hãy tự hỏi mình đã sai lạc ở chỗ nào.

87( Một tác giả Do Thái giải thích rằng người Do Thái không phải là những người lôi cuốn
người ta vào đạo của mình. Các Rabbi được yêu cầu thực hiện ba cố gắng khác nhau để làm
nhụt chí những người có ý muốn vào đạo!

Linh đạo là cái dành cho người ưu tú. Nó không chịu nhân nhượng để cho thiên hạ dễ
chấp nhận, vì thế nó không tương hợp với đám đông thiên hạ vốn chỉ thích uống si-rô chứ không
thích uống thuốc đắng. Có lần, khi thấy đoàn lũ đám đông đi theo mình, Đức Giêsu nói với họ:

“Ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước hết không ngồi xuống ước lượng các chi
phí để xem mình có đủ khả năng hoàn thành hay không? Hoặc có vị vua nào dẫn quân xông trận
chiến đấu với một vua khác mà trước hết không ngồi xuống cân nhắc xem với mười ngàn lính,
mình có thể thắng được hai mươi ngàn lính của đối phương hay không? Nếu thấy mình không
thể thắng, thì khi đối phương còn ở đàng xa, vị vua sẽ phải sai sứ giả ra cầu hòa. Cũng vậy,
không một ai trong các ngươi có thể trở thành môn đệ Ta nếu không sẵn sàng từ bỏ tất cả của
cải của mình.”

Người ta không muốn sự thật. Họ chỉ muốn sự yên tâm thôi.

88( Một nhà giảng đạo nói với bạn mình: “Giáo Hội địa phương chúng tôi vừa mới có được
một cuộc phục hưng lớn nhất trong nhiều năm nay.”

“Các anh có được bao nhiêu thành viên mới gia nhập?”

“Không thêm thành viên mới nào. Chỉ bớt năm trăm.”

Rất có thể Đức Giêsu vỗ tay tán thưởng.

 
Kinh nghiệm cho thấy rằng mối liên quan giữa những niềm xác tín tôn giáo của chúng ta và sự
thánh thiện của con người mình cũng giống như mối liên quan giữa chiếc áo jacket của anh
chàng nọ tại bàn ăn tối với hệ tiêu hóa của anh ta vậy.

89( Một triết gia cổ, đã chết cách đây nhiều thế kỷ, nghe biết rằng các lời dạy của mình
đang bị các môn đồ hậu sinh diễn dịch sai bét. Vốn là một người có lòng quan tâm và yêu mến
sự thật, ông đã cố gắng vận động, và cuối cùng được phép trở lại trần gian trong một thời gian
ngắn.

Ông phải mất mấy ngày để thuyết phục những kẻ theo ông nhận ra căn tính thật của
ông. Liền khi họ nhận ra như vậy, họ hoàn toàn mất hết thích thú đối với những gì ông nói. Và họ
nài nỉ ông cho biết nhờ bí quyết nào ông đã có thể sống lại từ cõi chết.

Ông lại phải vất vả nhiều mới thuyết phục được họ tin rằng ông không có cách nào để
trao cho họ bí quyết ấy. Ông bảo họ rằng nếu họ trả lại sự tinh ròng nguyên thủy cho những gì
ông giảng dạy, thì nhân loại sẽ được ích lợi hơn nhiều, rất nhiều.

Thật viển vông! Đây là câu trả lời của họ: “Ông không thấy rằng điều quan trọng không
phải là những gì ông đã giảng dạy, mà chính là những giải thích của chúng tôi về những gì ông
đã giảng dạy đó sao? Nói cho cùng, ông chỉ là một cánh chim bay qua; còn chúng tôi, chúng tôi
sống ở đây lâu dài.”

Đức Phật chết, các trường phái được sinh ra.

90( Tất cả các triết gia, các nhà thần học, các tiến sĩ luật được triệu tập tại một phiên tòa
xử tội Mullah Nasruddin. Ông bị tố cáo về một tội rất nghiêm trọng: ông đã đi từ thành phố này
sang thành phố khác và rêu rao: “Kính thưa quí vị, những kẻ mang danh nghĩa là những vị lãnh
đạo tôn giáo của quí vị thật ngu dốt và trơ trẽn.” Vì thế, ông bị kết tội là dị giáo; hình phạt cho tội
này sẽ là tử hình.

“Ông có quyền phát biểu trước.” Vị Caliph nói.

Nasruddin điềm tĩnh, đứng lên và nói: “Xin các ngài cho đem giấy và bút ra đây, trao cho
mười vị khôn ngoan nhất trong hội đồng này.”

Nasruddin suýt bụm miệng cười khi chứng kiến một cuộc cãi vã ầm ĩ xảy ra giữa các
nhân vật thánh thiện về chuyện ai trong họ là những người khôn ngoan nhất. Cuối cùng, cuộc cãi
vã cũng được dàn xếp, và họ trao giấy và bút cho mười người được chọn. Nasruddin nói: “Xin
các vị khôn ngoan hãy ghi câu trả lời cho câu hỏi sau đây: Vật chất được làm bằng gì?”

Các câu trả lời được viết ra và được trao cho Caliph. Caliph đọc lớn tiếng để mọi người
cùng nghe. Một người nói: “Vật chất không làm bằng gì cả.” Một người khác nói: “Vật chất được
làm bằng những phân tử.” Người khác nữa nói: “Năng lượng.” Những người khác thì nói: “Aùnh
sáng”, “Tôi không biết”, “Hữu thể siêu việt”, vv...

Nasruddin nói với Caliph: “Khi nào họ nhất trí được với nhau về vật chất là gì, lúc ấy họ
sẽ có thẩm quyền để phán xét các vấn đề về tinh thần. Đằng này, họ không thể đồng ý với nhau
về một cái gì đó thuộc chính con người họ, thế mà họ lại có thể nhất trí trong lời tố cáo rằng tôi là
một kẻ dị giáo. Ngài không thấy dị hợm sao?”

Điều gây tai hại không phải ở chỗ chúng ta có nhiều giáo điều mà là ở chỗ chúng ta có tinh thần
nặng giáo điều. Vì thế, nếu mỗi chúng ta làm những điều mà chúng ta khư khư tin là ý Chúa, kết
quả sẽ là: mọi sự đều hỗn độn.

Quyết chắc là đầu mối mọi sự dữ. Con người tâm linh hiểu được sự bất quyết – một tình trạng
tâm trí mà những kẻ cuồng tín không thể nào hiểu được.

91( Buổi tối hôm ấy, một người dân chài nọ đột nhập vào trong trang viên của một nhà
giàu và quăng lưới xuống hồ cá. Chủ nhân nghe tiếng động, sai gia nhân ra tìm bắt kẻ gian.

Khi người chài lưới trông thấy các gia nhân rầm rập cầm đuốc chạy đi tìm mình, anh vội
vàng bết tro lên người và chui vào ngồi dưới một gốc cây – như kiểu mà người ta thường thấy
các bậc thánh thiện Ấn Độ ngồi thiền vậy.

Chủ nhân và đám gia nhân lùng sục khắp nơi, nhưng không tìm ra kẻ gian. Họ chỉ gặp
thấy một bậc thánh thiện, mình phủ đầy tro, đang ngồi dưới một thân cây, đăm chiêu thiền định.

Ngày hôm sau, tin đồn lan ra khắp nơi rằng một bậc đại hiền triết đã hạ cố đến cư ngụ
trong khu trang viên của ông nhà giàu. Người ta lũ lượt mang hoa quả, thức ăn và thậm chí cả
tiền bạc nữa tới dâng cúng – vì truyền thống đạo đức của họ cho rằng những món quà dâng
cúng cho các bậc thánh nhân sẽ đem lại phúc lộc cho chính người dâng cúng.

Anh chàng chài lưới hóa thành nhà hiền triết nọ hết sức kinh ngạc về vận may của mình.
Anh tự nhủ: “Dựa vào đức tin của những con người này để kiếm ăn thật dễ hơn nhiều so với việc
kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động của mình.” Vì thế, anh tiếp tục ngồi thiền và không bao giờ
quay trở lại làm việc nữa.

92( Ông vua nọ nằm mơ trông thấy một ông vua trên thiên đàng và một linh mục dưới hỏa
ngục. Ông ngạc nhiên chẳng hiểu vì sao. Bỗng ông nghe tiếng Chúa nói với ông rằng: “Vị vua ấy
lên thiên đàng bởi vì ông ta kính trọng các linh mục. Còn vị linh mục ấy xuống hỏa ngục bởi vì
ông ta nhượng bộ các ông vua.”

93( Ma xơ hỏi các em trong lớp học: “Sau này lớn lên, các em sẽ làm gì?”

Các em nhao nhao đưa ra những câu trả lời – Tommy muốn làm phi công, Elsie muốn
làm bác sĩ, Bobby đặc biệt gây ngạc nhiên thú vị cho ma xơ khi cho biết nó sẽ trở thành linh mục.
Rồi, Mary đứng lên, con bé tuyên bố sau này nó sẽ làm một ‘prostitute’.[1] 

“Gì hở, Mary, em muốn làm gì?”

Mary trả lời, với giọng rất dứt khoát:


“Dạ, khi em lớn lên, em sẽ làm một ‘prostitute’.”

Ma xơ ngẩn ngơ, không biết phải nói gì! Lập tức, Mary được tách riêng ra khỏi lớp và
được đưa tới gặp cha xứ.

Cha xứ đã được nghe kể sơ lược câu chuyện, nhưng ông muốn kiểm tra cho chắc chắn:
“Mary, con hãy nói cho cha biết đầu đuôi câu chuyện này.”

Mary lộ vẻ sửng sốt vì em không hiểu tại sao sự việc lại thành to chuyện như thế này,
em nói: “Dạ, thưa cha, ma xơ hỏi con muốn làm gì khi lớn lên; và con trả lời rằng sau này lớn lên
con sẽ trở thành một ‘prostitute’ ạ.”

“Con nói con sẽ làm một ‘prostitute’, phải không?”

“Vâng ạ.”

“Ôi, tạ ơn Chúa. Vậy mà mọi người cứ tưởng rằng con muốn trở thành một
‘Protestant’[1]. Thật hú hồn!”  

94( Suốt cả đời, Rabbi Abraham sống một cuộc sống mẫu mực. Khi ông qua đời, ông để
lại cho thế giới rất nhiều ân phúc qua cộng đoàn của ông. Người ta sùng ngưỡng ông như một vị
thánh và như máng chuyển mọi phúc lành mà họ nhận được từ Thiên Chúa.

Ở cửa thiên đàng cũng vậy, các thiên thần niềm nở đón tiếp ông với những lời khen
ngợi. Nhưng, thật lạ, Rabbi vẫn dường như rầu rầu, không vui. Ông ôm lấy đầu, từ chối mọi lời
an ủi. Cuối cùng, ông được dẫn tới trước vị Thẩm Phán – ở đây ông cảm thấy một Tấm Lòng
Nhân Hậu vô hạn bao phủ lấy mình và một tiếng nói dịu hiền vô hạn rót vào tai mình: “Điều gì
làm con buồn thế, hỡi con?”

“Lạy Thiên Chúa chí thánh” - Rabbi trả lời - “Con không xứng đáng với những vinh dự
mà Chúa ban cho con ở đây. Dù con được xem như là một gương sáng cho người ta, trong đời
con vẫn có chuyện trục trặc. Chúa biết đó, bất chấp sự dạy bảo và gương sáng của con, thằng
con trai của con đã bỏ đức tin để trở thành một Kitôhữu.”

“Ồ, không có gì phải bối rối, con à. Ta rất hiểu tâm trạng của con, vì chính Ta cũng có
một đứa con trai y hệt như vậy!”  

95( Ở Belfast, Ireland, một linh mục Công Giáo, một mục sư Tin Lành và một Rabbi Do
Thái dính vào một cuộc tranh cãi thần học rất ồn ào. Bất thình lình, một thiên thần hiện ra đứng
giữa họ và nói: “Thiên Chúa muốn chúc lành cho các người. Hãy nêu lên một ước mơ Hòa Bình
– và ước mơ của các người sẽ được Đấng Toàn Năng biến thành hiện thực.”

Vị mục sư lên tiếng: “Xin cho tất cả bọn Công Giáo biến khỏi hòn đảo thân yêu này của
chúng tôi. Và như vậy sẽ có hòa bình.”

Vị linh mục nói: “Xin cho không còn một người Tin Lành nào trên mảnh đất Ireland yêu
quí này. Và hòa bình sẽ vãn hồi trên hòn đảo.”
“Còn ngài thì sao, hỡi Rabbi.” Thiên thần hỏi, “Người không ước điều gì à?”

“Không” - Rabbi trả lời - “Chỉ cần Chúa đáp ứng hai điều ước của hai quí ông này, tôi sẽ
có ngay được hòa bình.”

Cậu bé: “Đằng ấy thuộc phái Trưởng Lão, phải không?”

Cô bé:  “Không. Tớ thuộc một thứ kinh tởm khác.”

96( Một người đi săn ra hiệu cho con chó của mình rượt theo một con vật nào đó cựa quậy
phía sau lùm cây. Con chó phát hiện ra một con cáo. Nó dồn con cáo ra chỗ trống cho người đi
săn có thể nhắm bắn.

Con cáo rơi vào tình thế ngặt nghèo, nó nói với con chó săn: “Bộ mày chưa bao giờ nghe
nói rằng loài cáo là anh em của loài chó sao?”

“Dĩ nhiên là tao có nghe như thế” - Con chó trả lời - “Nhưng chỉ những kẻ mơ mộng và
bọn ngu xuẩn mới nghĩ như vậy. Còn đối với những đầu óc thực tiễn thì tình huynh đệ chỉ có khi
người ta chia sẻ với nhau cùng một mối lợi.” 

Tín đồ Kitô giáo nói với tín đồ Phật giáo: “Thật vậy, chúng ta có thể là anh em. Nhưng điều đó để
dành cho những kẻ mơ mộng và bọn ngu xuẩn. Còn đối với những đầu óc thực tiễn thì tình
huynh đệ nằm ở chỗ cùng chia sẻ một niềm tin giống nhau.” 

Thật đáng tiếc, phần đông người ta chỉ có đủ lòng tín ngưỡng để đố kỵ chứ không có đủ để yêu
thương.”

97( Trong quyển Tự Thuật của mình, Mahatma Gandhi có kể về thời sinh viên của ông ở
Nam Phi. Đó là thời gian mà ông rất say mê thích thú Thánh Kinh, nhất là với Bài Giảng Trên
Núi. Ông xác tín rằng Kitô giáo là câu trả lời cho hệ thống đẳng cấp vốn đã thao túng và làm
nhiễm độc xã hội Ấn Độ hàng bao thế kỷ. Và ông nghiêm túc nghĩ đến chuyện cải giáo để trở
thành Kitôhữu.

Ngày kia, ông bước vào một nhà thờ để dự Thánh Lễ và đồng thời để tìm hiểu thêm.
Ông bị chặn lại chỗ lối vào. Người ta dịu dàng nói với ông rằng nếu ông muốn tham dự Thánh Lễ
thì ông nên đến một nhà thờ dành riêng cho người da đen, ở đó ông sẽ được nồng nhiệt đón
tiếp. Gandhi đã quay lưng bỏ đi, và ông không bao giờ trở lại.

98( Một tội nhân công khai bị tuyệt thông. Anh bị cấm không được bén gót vào nhà thờ.
Anh than thở nỗi buồn của mình với Chúa: “Lạy Chúa, người ta không cho con vào, vì con là một
tội nhân.”

“Đừng phàn nàn, con à” - Chúa trả lời - “Họ cũng đâu có cho Ta vào!”
 

99( Một nhà thờ hay một hội đường thường cần phải quyên góp tiền để trang trải các chi
phí sinh hoạt. Tại một hội đường Do Thái nọ, người ta không chuyền tay nhau chiếc giỏ quyên
tiền như vẫn thường thấy trong các nhà thờ Kitô giáo. Cách quyên tiền của họ là bán vé vào cửa
cho những dịp Lễ Trọng – bởi vào những dịp ấy, rất đông tín đồ đến hội đường và đó cũng là
những dịp người ta tỏ ra rất hào phóng.

Đúng vào một dịp lễ như vậy, một cậu bé chạy đến hội đường để kiếm cha của cậu –
nhưng người gác cửa không cho cậu bé vào, vì cậu không có vé.

“Thưa bác, đây là chuyện rất quan trọng.” Cậu bé giải thích với người gác cửa.

“Những kẻ không mua vé như chú mày thì luôn luôn phịa lý do quan trọng để vào hội
đường.” 

Cậu bé cố năn nỉ: “Xin bác làm ơn cho cháu vào. Có chuyện khẩn trương lắm bác ạ.
Cháu sẽ vào một phút rồi ra ngay thôi.”

Người gác cửa cảm thấy hơi động lòng. Ông nói: “Được, nếu vậy thì chú mày vào đi.
Nhưng nếu tao thấy chú mày cầu nguyện trong đó thì đừng có trách!”

Tôn giáo cơ chế có những giới hạn của nó!

100( Nhà thuyết pháp ấy có tài giảng thuyết hùng hồn, gây cảm kích cho người nghe. Ai
nghe ông giảng cũng sụt sùi sa lệ. Ồ không, không phải ai cũng vậy. Vì có một tôn ông nọ, ngồi
hàng ghế đầu, ngay trước mặt vị thuyết pháp, nhưng xem ra hoàn toàn không cảm động gì với
bài giảng.

Cuối buổi lễ, có người hỏi tôn ông kia: “Ngài có nghe bài giảng không, thưa ngài?”

“Đương nhiên là tôi có nghe chứ” - ông ta lạnh lùng  trả lời - “Tôi đâu có điếc!”

“Ông nghĩ gì về bài giảng?”

“Tôi cho rằng bài giảng thật cảm kích. Suýt chút nữa tôi đã khóc.”

“Vậy chứ tại sao ngài không khóc?”

“Bởi vì tôi không thuộc giáo xứ này.” Tôn ông trả lời.

101( Có câu chuyện kể rằng khi Thiên Chúa đã sáng tạo thế giới và hài lòng về sự tốt đẹp
của nó, Satan cũng chia sẻ niềm sung sướng – song dĩ nhiên là theo cách của nó. Satan chiêm
ngưỡng hết điều kỳ diệu này đến điều kỳ diệu khác, nó trầm trồ: “Thật tốt đẹp biết bao! Ta hãy tổ
chức tất cả lại!”
 

“Và Ta sẽ tha hồ mà ôm bụng cười!”

Bạn có bao giờ cố gắng tổ chức một cái gì đó như là hòa bình không? Ngay lúc mà bạn làm thế,
bạn sẽ có những xung đột về quyền lực và những cuộc chiến tranh giữa các nhóm ngay trong
một tổ chức. Phương cách duy nhất để có hòa bình là cứ để cho hòa bình tự triển nở theo con
đường tự nhiên của nó. 

102( Một giám mục đang kiểm tra một nhóm dự tòng để quyết định xem họ có phù hợp cho
việc lãnh nhận Phép Rửa Tội.

“Bằng dấu hiệu nào mà người ta nhận ra anh chị em là người Công Giáo?”

Không có ai trả lời. Rõ ràng câu hỏi này làm mọi người bị bất ngờ. Giám mục nhắc lại
câu hỏi. Vẫn lặng thinh. Ngài nhắc lại câu hỏi một lần nữa, lần này ngài vẽ một hình Thánh Giá
để gợi ý cho những người dự tòng biết câu trả lời.

Thình lình, một người trong họ lên tiếng: “Thưa Đức Cha, dấu hiệu đó là tình yêu!”

Giám mục giật bắn mình. Suýt chút nữa ngài đã nói “Sai!” theo phản xạ tự nhiên, nhưng
rất may là ngay lập tức ngài nín được, không bật ra tiếng ...

103( Có người yêu cầu phải có imprimatur[1] của giám mục cho một quyển sách thiếu nhi
sắp xuất bản – trong sách chỉ có những dụ ngôn của Chúa Giêsu, vài minh họa đơn sơ, và vài
câu Tin Mừng. Ngoài ra, sách không có một chữ nào khác.  

Imprimatur được cung cấp, với công thức tuyên bố phủ nhận thường tình:

“IMPRIMATUR Ở ĐÂY KHÔNG NHẤT THIẾT HÀM Ý RẰNG GIÁM MỤC NHẤT TRÍ VỚI
CÁC QUAN ĐIỂM ĐƯỢC TRÌNH BÀY TRONG SÁCH NÀY.”

Thêm những cạm bẫy khác nữa của tính cơ chế!

104( Những tổ chức linh đạo phát triển như thế nào?

Guru nhận thấy một môn đệ mình đã tiến bộ rất xa về linh đạo, ông quyết định rằng anh
ta không cần bất cứ sự hướng dẫn nào thêm nữa. Ông cho phép anh ta sống một mình trong
một túp chòi nhỏ bên bờ sông.

Mỗi sáng thức dậy, sau khi thực hành xong các nghi tiết thanh tẩy, người môn đệ ấy
mang chiếc khố của mình ra phơi. Đó là tài sản duy nhất của anh ta!
Một hôm, anh giật mình nhận thấy chiếc khố bị rách bươm vì chuột cắn. Vì thế, anh phải
xin người làng ở đấy cho anh một chiếc khố khác. Đến lượt chiếc khố thứ hai này cũng bị chuột
cắn, anh quyết định kiếm một con mèo. Thế là lũ chuột không còn quấy rầy anh nữa; nhưng bây
giờ, ngoài việc xin các bữa ăn cho mình, anh còn phải xin một ít sữa cho con mèo của anh.

“Xin người ta bố thí nhiều thứ cũng thật phiền hà” – anh nghĩ – “vả lại, không nên tạo
gánh nặng quá nhiều cho người ta.” Thế là anh quyết định tự nuôi một con bò sữa. Nhưng, có
được con bò, anh lại phải xin cỏ cho bò ăn! Anh nảy ra ý tưởng canh tác miếng đất xung quanh
túp chòi của mình để có cỏ cho con bò. Thế rồi, anh nhận ra rằng việc cuốc đất tiêu tốn quá
nhiều thời giờ, chẳng còn đủ giờ để thiền định. Anh quyết định thuê mướn nhân công canh tác
miếng đất ấy cho anh. Dần dần, công việc quản lý lao động cũng trở thành quá tải, một mình anh
không làm xuể. Anh cưới một cô vợ để phụ giúp mình. Chẳng mấy chốc, anh trở thành một trong
những người giàu nhất trong vùng.

Nhiều năm sau, tình cờ Guru ghé qua chỗ đó. Guru rất ngạc nhiên khi trông thấy một tòa
nhà nguy nga đúng vào chỗ mà ngày xưa vốn là túp chòi của người môn đệ mình. Ông tự hỏi:
“Đây có phải là chỗ mà môn đệ ấy của mình vẫn sống trước đây không nhỉ?”

Guru đang còn phân vân thì người môn đệ ngày xưa ấy của ông xuất hiện. Ông hỏi:
“Sao lại ra như thế này, hở con?”

“Chuyện khó tin lắm, nhưng đúng là chuyện thực, thưa thầy” - Anh ta trả lời - “Con chỉ cố
giữ tấm khố của con thôi; và tất cả những gì đã xảy ra là ... như thầy thấy đó!”

105( Dải bờ biển ấy toàn đá lởm chởm. Những vụ đắm tàu xảy ra khá thường xuyên trong
vùng biển này, vì thế trên bờ có một trạm cứu hộ nho nhỏ. Thật ra, cái gọi là ‘trạm cứu hộ’ ấy chỉ
là một túp lều rách nát, với duy nhất một chiếc thuyền nhỏ. Dù vậy, nhóm người tình nguyện cứu
hộ ấy làm việc rất tích cực. Họ thay phiên nhau thường xuyên canh phòng vùng biển. Họ sẵn
sàng quên mình, dũng cảm lao ra khơi trong bão tố mỗi khi phát hiện có một chiếc tàu bị nạn. Họ
đã cứu sống rất nhiều người – và trạm cứu hộ của họ trở thành nổi tiếng.

Trạm càng nổi tiếng thì càng có nhiều người ở khu vực lân cận muốn tham gia vào công
việc đầy ý nghĩa ấy. Người ta vui vẻ cống hiến thời giờ và tiền bạc; người ta đăng ký vào danh
sách đội cứu hộ; người ta mua thêm thuyền, đào tạo thêm thủy thủ. Túp lều trước đây được thay
thế bởi một tòa nhà hiện đại, đầy đủ tiện nghi, có thể đáp ứng các nhu cầu của những nạn nhân
sau khi được cứu sống. Và, dĩ nhiên, không phải ngày nào cũng có tai nạn đắm tàu, nên tòa nhà
đó trở thành một nơi tập trung vui chơi giải trí, một loại câu lạc bộ địa phương!

Thời gian trôi qua, dần dần các thành viên quá bận rộn với những công việc khác đến nỗi
không còn quan tâm mấy đến chuyện cứu hộ trên biển – mặc dù họ vẫn mang huy hiệu cứu hộ
trên áo của mình. Điều xảy ra là một số nạn nhân vẫn được vớt và được cứu sống, nhưng các
nạn nhân ấy luôn luôn trở thành một mối phiền toái, bởi vì họ dơ bẩn, đau ốm, làm mất vẻ mỹ
quan của tòa nhà.

Cứ thế, các sinh hoạt khác của câu lạc bộ ngày càng đa dạng hơn, còn các hoạt động
cứu hộ thì ngày càng thưa thớt hơn. Rốt cục, người ta triệu tập một cuộc họp và đưa vấn đề ra
để biểu quyết dứt khoát. Chỉ có một vài thành viên lên tiếng đòi quay trở lại mục đích và hoạt
động nguyên thủy. Kết quả của cuộc biểu quyết cho thấy số thành viên ‘rắc rối’ nói trên chỉ là một
thiểu số nhỏ nhoi. Thế là những người đó được mời rời khỏi câu lạc bộ này để tự mở một câu lạc
bộ khác theo ý họ muốn.
Quả thực, họ mở một trạm cứu hộ khác – một túp lều - hơi xa hơn một chút phía dưới bờ
biển. Họ rất nhiệt tình và dũng cảm trong công việc nên một thời gian sau, trạm của họ trở thành
nổi tiếng. Con số các thành viên lại tăng lên, túp lều của họ lại được thay thế bằng một tòa nhà
lớn, và lý tưởng của họ lại lụi tàn... Ngày nay, nếu bạn có dịp ghé thăm vùng bờ biển ấy, bạn sẽ
gặp rất nhiều các câu lạc bộ đồ sộ chen vai nhau rải dọc bờ biển. Mỗi câu lạc bộ trong số ấy đều
không che giấu niềm tự hào về nguồn gốc và truyền thống của mình. Các vụ đắm tàu vẫn còn
tiếp tục xảy ra trên biển, nhưng chẳng còn ai buồn quan tâm ...

106( Tại một xứ sở sa mạc nọ, cây cối rất thưa thớt, trái cây lại càng hiếm hoi. Người ta kể
rằng Thiên Chúa muốn bảo đảm có đủ thực phẩm cho mọi người, vì thế Ngài hiện ra với một vị
tiên tri và phán: “Đây là giới răn của Ta cho toàn dân, bây giờ và cả các thế hệ tương lai nữa:
không ai được phép ăn hơn một quả mỗi ngày. Hãy ghi giới răn này vào Sách Thánh. Bất cứ ai
vi phạm luật này sẽ bị coi là phạm tội chống lại Thiên Chúa và chống lại loài người.”

Luật ấy được trung thành tuân giữ qua nhiều thế kỷ – cho đến khi các nhà khoa học
khám phá ra cách để biến sa mạc thành đất đai phì nhiêu. Xứ sở ấy trở thành giàu có về ngũ cốc
và súc vật. Các cành cây sà xuống vì trĩu quả. Nhưng giới luật về việc ăn trái cây vẫn tiếp tục có
hiệu lực theo qui định của các giới cầm quyền dân sự và tôn giáo.

Bất cứ ai cho rằng việc để trái cây rụng thối dưới đất là một tội chống lại loài người,
người ấy sẽ bị kết tội là kẻ phạm thượng và là kẻ thù của luân lý. Những người dám chất vấn sự
khôn ngoan của ‘Lời Chúa’ ấy rõ ràng không được hướng dẫn bởi tinh thần đức tin và vâng phục
– là tinh thần duy nhất giúp người ta nhận được Chân Lý.

Trong các nhà thờ, người ta thường xuyên nghe các bài giảng rằng những ai vi phạm
luật về việc ăn trái cây nói trên là những người đã hư hỏng. Chẳng bao giờ người ta đề cập đến
con số đông đảo không kém những kẻ đã hư hỏng dù vẫn trung thành giữ luật ấy, cũng không
thấy nói đến con số đông đảo những kẻ sung túc lên ngay cả dù họ phá vỡ luật ấy.

Không có cách nào thay đổi luật đó bởi vì vị tiên tri nhận luật ấy từ Thiên Chúa đã chết từ
đời nào rồi. Nếu ông ta còn sống, rất có thể ông ta có đủ can đảm và ý  thức để sửa đổi luật ấy
khi tình hình đã đổi khác, bởi vì ông đã lãnh nhận Lời Thiên Chúa không phải như một cái gì để
tôn thờ mà như một cái gì để áp dụng nhằm mưu cầu thiện ích cho con người.

Kết quả là một số người công khai chế giễu giới luật nói trên, chế giễu Thiên Chúa và tôn
giáo. Những người khác thì âm thầm vi phạm luật, luôn luôn kèm với mặc cảm tội lỗi. Đại đa số
người ta thì bám chặt vào luật đó – những người này đi đến chỗ tự cho rằng họ là người thánh
thiện duy chỉ vì họ khư khư cố giữ một thói quen vô nghĩa và lỗi thời – thói quen mà họ đã không
dám vứt bỏ chỉ vì quá sợ hãi.

107( Những con người tín ngưỡng đích thực sẽ giữ luật chứ không bao giờ sợ luật:

“Cậu sinh sống bằng nghề gì?” Một bà mệnh phụ hỏi một chàng thanh niên tại một bữa
tiệc.

“Tôi là một lính nhảy dù.”

“Nhảy dù! Làm nghề đó chắc dễ sợ lắm nhỉ?”


“Vâng, có những lúc thật kinh hoàng.”

“Cậu hãy kể cho tôi kinh nghiệm khủng khiếp nhất của cậu.”

“À, tôi nghĩ đó là lần tôi đáp xuống một bãi cỏ, và nhìn thấy tấm bảng đề: CẤM ĐI TRÊN
CỎ!”

108( Một trung sĩ hỏi một nhóm tân binh tại sao cây óc chó được dùng làm báng súng.

“Bởi vì nó cứng hơn những thứ gỗ khác.” Một người trả lời.

“Sai.” Viên trung sĩ nói.

“Bởi vì nó có tính đàn hồi.”

“Cũng sai.”

“Bởi vì nó bóng hơn các gỗ khác .”

“Các cậu cần phải học hỏi rất nhiều. Cây óc chó được dùng chỉ vì một lý do rất đơn giản:
Nó đã được ghi trong Qui Định!”

109( Không tuyệt đối hóa luật:

Một nhân viên đường sắt tường thuật một vụ giết người trên xe lửa như sau: “Kẻ ám sát
đột nhập vào toa xe từ sân ga, đâm nạn nhân một cách dã man bằng năm nhát dao, nhát nào
cũng thẳng tay, rồi hắn rời khỏi toa xe bằng cửa phía đối diện – như vậy hắn đã vi phạm Qui
Định của Tổng Cục Đường Sắt.” 

Một nhà quí tộc nọ bị chỉ trích vì đã đốt cháy nhà thờ chính tòa. Ông nói ông thực sự lấy làm tiếc
– nhưng ông cho rằng đấy chỉ vì ông được thông tin sai lạc rằng tổng giám mục đang có mặt
trong đó! 

110( Tại một thị trấn nhỏ, một người đàn ông quay số 016 để gọi tổng đài. Một giọng phụ
nữ ở đầu bên kia trả lời: “Xin lỗi, thưa ông, về chuyện đó, ông hãy gọi số 015 để được giải đáp.”

Khi người đàn ông quay số 015, ông nghe giọng trả lời giống hệt người phụ nữ khi nãy.
Ông hỏi: “Hình như cô là người mới trả lời cú gọi của tôi vừa rồi phải không ạ?”

“Dạ, đúng vậy, thưa ông. Hôm nay tôi trực cả hai đường dây.”

111( Cũng không phóng đại luật quá đáng:

Ông Smith giết vợ. Luật sư của ông muốn bào chữa rằng ông đã hành động như thế do
quá nóng giận trong nhứt thời, không làm chủ được được mình. Ông đang đứng trước vành
móng ngựa; luật sư yêu cầu ông tự trình bày về bối cảnh của vụ án.
“Kính thưa quí tòa,” – ông nói – “Tôi là một con người trầm tĩnh, sống có giờ giấc nghiêm
túc, không bao giờ có mâu thuẫn với bất cứ ai. Ngày nào tôi cũng thức dậy lúc 7 giờ, dùng điểm
tâm lúc 7giờ 30, đến sở lúc 9 giờ; buổi chiều, tôi ra về lúc 5 giờ, về tới nhà lúc 6 giờ, cơm tối đã
được dọn sẵn trên bàn, tôi ăn tối, rồi đọc báo, xem truyền hình, sau đó tôi đi ngủ. Cho tới bữa
hôm ấy …”

Nói tới đây, hơi thở ông dồn dập; mặt ông đỏ bừng, đầy vẻ giận dữ.

“Ông hãy kể tiếp đi” - luật sư của ông khuyến khích - “Hãy cho tòa biết điều gì đã xảy ra.”

“Bữa hôm ấy, tôi thức dậy lúc 7 giờ, ăn sáng lúc 7 giờ 30, đến sở lúc 9 giờ, ra về lúc 5
giờ chiều, về tới nhà lúc 6 giờ – và tôi ngạc nhiên nhận thấy rằng bữa ăn tối chưa có sẵn trên
bàn. Cũng không thấy vợ tôi đâu cả! Vì thế, tôi kiếm vợ tôi khắp nơi, cuối cùng bắt gặp cô ấy trên
giường với một người đàn ông lạ. Tôi đã bắn cô ấy.”

“Thân chủ hãy mô tả tâm trạng của thân chủ vào thời điểm mà thân chủ bắn vợ,” - Vị luật
sư đề nghị, rất nóng lòng muốn chứng minh cho luận điểm bào chữa của mình.

“Thưa quí tòa, tôi đã giận điên lên. Tôi không kìm chế được mình” - Ông Smith vừa nói
vừa vung nắm đấm - “Khi tôi về đến nhà lúc 6 giờ, thì cơm tối dứt khoát phải đã có sẵn trên bàn
cho tôi chứ?”

112( Cũng không cố luồn lách luật:

Mullah Nasruddin nhặt được một viên kim cương bên lề đường – nhưng theo Luật,
người bắt gặp của đánh rơi chỉ trở thành chủ sở hữu sau khi đã công bố về sự việc đó giữa chợ
trong ba lần khác nhau.

Nasruddin là người rất sùng ngưỡng nên ông không thể bất chấp Luật; đồng thời ông
quá tham lam nên không đành rứt ra khỏi của bắt được ấy. Vì thế, trong ba đêm liên tiếp, khi đã
nắm chắc rằng mọi người đều đã ngủ say, ông đi ra giữa chợ và thì thào công bố: “Tôi đã nhặt
được một viên kim cương trên đường đi tới thị trấn. Ai biết chủ nhân của nó xin liên lạc ngay với
tôi.”

Dĩ nhiên, không ai phản hồi gì cho lời tuyên bố của Mullah – ngoại trừ một người đàn
ông, ông này tình cờ còn thức và đứng bên cửa sổ nhà mình vào đêm thứ ba, và nghe Mullah thì
thào một điều gì đó. Hôm sau, khi ông gặp lại Nasruddin và hỏi cho rõ hơn về những tiếng thì
thào ấy, Nasruddin trả lời: “Tôi không bị buộc phải kể với anh. Nhưng tất cả những gì anh có thể
biết là: Vì tôi là một người ngoan đạo, nên tôi đã đi ra chợ vào ba buổi tối để nói vài lời nhằm chu
toàn Luật đạo.”

Chỉ cần ma mãnh một chút, bạn không cần phải phạm Luật – trái lại, bạn có thể giữ Luật đúng
sát chữ!

113( Việc người Do Thái giữ ngày Sa-bát, ngày của Chúa, nguyên thủy là một việc để diễn
tả niềm vui.
Nhưng các Rabbi không ngừng đưa ra hết huấn thị này đến huấn thị khác về cách thức
giữ luật này cho chính xác, về những hoạt động được phép hay không được phép ... cho đến khi
một số người không dám nhúc nhích gì trong ngày Sa-bát vì sợ vi phạm khoản này hay khoản nọ
xung quanh luật này.

Baal Shem, con trai của Eliezer, suy nghĩ rất nhiều về vấn đề này. Một tối nọ ông nằm
mơ, trông thấy một thiên thần đưa ông lên thiên đàng và chỉ cho ông hai chiếc ghế được đặt cao
hơn hẳn những chiếc ghế khác.

“Hai chiếc ghế này dành cho ai vậy?” Ông hỏi.

“Cho ngươi một chiếc đấy – nếu ngươi là người biết sử dụng trí khôn của mình; còn
chiếc kia thì dành cho một người mà tên và địa chỉ sẽ được viết ra cho ngươi ngay bây giờ đây.”

Sau đó, Baal Shem được đưa xuống tận đáy hỏa ngục và được chỉ cho thấy hai chiếc
ghế trống. “Hai chiếc ghế này dành cho ai vậy?” Ông lại hỏi.

“Một chiếc dành cho ngươi đấy – nếu ngươi không biết sử dụng trí khôn của mình; còn
chiếc kia dành cho một người mà tên tuổi sẽ được viết ra cho ngươi ngay bây giờ đây.”

Trong giấc mơ, Baal Shem đã ghé thăm người sẽ là bạn đồng hành của mình trên thiên
đàng. Ông bắt gặp người ấy giữa đám dân ngoại, hoàn toàn không biết gì về các tập tục Do
Thái; và vào ngày Sa-bát, người ấy thường tổ chức một bữa đại tiệc, mời các bạn láng giềng dân
ngoại của mình đến dự, nhảy múa và ca hát thỏa thích. Khi Baal Shem hỏi tại sao anh ta tổ chức
tiệc tùng như vậy, anh ta trả lời: “Tôi nhớ hồi tôi còn bé, cha mẹ tôi dạy rằng ngày Sa-bát là ngày
nghỉ và vui chơi; vì thế vào các ngày thứ bảy, mẹ tôi làm những bữa ăn thịnh soạn; chúng tôi ăn
uống, ca hát, khiêu vũ thoải mái. Tôi muốn tiếp tục truyền thống tốt đẹp này.”

Baal Shem muốn chỉ cho anh chàng này biết chuyện đạo nghĩa, vì anh ta sinh ra là
người Do Thái nhưng rõ ràng anh mù tịt về tất cả những huấn thị của các Rabbi. Nhưng rồi Baal
Shem đành phải nín câm không nói gì khi nhận ra rằng niềm vui của anh ta trong ngày Sa-bát có
thể bị tổn hại nếu anh ta ý thức về những khuyết điểm của anh ta.

Vẫn còn trong giấc mơ, Baal Shem viếng thăm nhà người bạn đồng hành của mình dưới
hỏa ngục. Người mà ông gặp là một người giữ luật rất nghiêm ngặt, luôn luôn sợ mình có hành
vi không đúng. Con người tội nghiệp ấy trải qua những ngày Sa-bát đầy căng thẳng – như kẻ
đang ngồi trên đống lửa vậy. Khi Baal Shem cố gắng quở trách và nhắc nhở anh ta về tình trạng
nô lệ cho Luật, lời nói của Baal Shem chỉ như nước đổ đầu vịt, bởi vì  anh chàng này không thể
hình dung rằng mình có thể sai quấy trong khi mình chu toàn triệt để những qui định của đạo.

Nhờ được giấc mơ ấy mạc khải, Baal Shem Tov đã có được một cung cách giữ luật mới,
trong đó Thiên Chúa được tôn thờ với niềm vui tận đáy tâm hồn.

Khi người ta vui, người ta luôn luôn tốt; còn khi người ta tốt, người ta ít khi vui!

114( Cha sở loan báo rằng Chúa Nhật tuần tới đích thân Đức Giê-su Kitô sẽ đến nhà thờ.
Người ta đổ xô kéo đến để xem Chúa. Ai cũng kỳ vọng Ngài sẽ giảng một bài, nhưng Ngài chỉ
mỉm cười khi được giới thiệu và nói: “Chào quí vị!” Người ta – nhất là các linh mục - tranh nhau
mời Chúa về nghỉ đêm tại nhà mình; nhưng Chúa lịch sự từ chối. Ngài cho biết Ngài sẽ trải qua
đêm tại nhà thờ. Phù hợp quá đi chứ!

Sáng sớm hôm sau, Chúa âm thầm biến mất trước khi nhà thờ mở cửa. Và mọi người –
từ linh mục đến giáo dân – ai nấy đều kinh ngạc nhận ra nhà thờ của họ đã bị phá phách một
cách dã man! Khắp trên tường và khắp mọi nơi, chỗ nào cũng có hai chữ “Ý THỨC!” viết vội
vàng, nguệch ngoạc. Không có chỗ nào được chừa ra: trên cửa chính và cửa sổ, trên các cột
nhà, trên bục giảng, bàn thờ, thậm chí cả trên quyển Thánh Kinh nơi giá sách ... Tất cả đều tràn
ngập hai chữ “Ý THỨC!”, cỡ to và cỡ nhỏ, bằng vết đinh cào và bằng bút chì, bút mực, bằng sơn
màu xanh, màu đỏ, màu vàng ... Nhìn bất cứ đâu người ta cũng thấy “Ý THỨC! Ý THỨC! Ý
THỨC! Ý THỨC! Ý THỨC! Ý THỨC! ...”

Sửng sốt. Bực bội. Bối rối. Ngẩn ngơ. Sợ hãi. Ai cũng tự hỏi: “Ý thức cái gì nhỉ?” Chẳng
thấy câu trả lời. Đâu đâu cũng chỉ thấy “Ý THỨC!” thôi. Ý nghĩ đầu tiên của mọi người là tẩy rửa
tất cả những vết bôi bẩn có tính phạm thánh này. Nhưng họ chần chừ không dám làm vì nghĩ
rằng chính Đức Giêsu đã bôi bẩn như thế.

Thế là cuối cùng họ để y nguyên vậy. Hai tiếng “Ý THỨC!” bí ẩn ấy dần dần thấm nhập
vào tâm trí họ mỗi lần họ bước vào nhà thờ. Họ bắt đầu ý thức về Thánh Kinh, họ có thể rút tỉa
được ích lợi từ Thánh Kinh mà không rơi vào chỗ mù quáng. Họ bắt đầu ý thức về các bí tích,
nhờ đó họ được thánh hóa mà không trở thành mê tín. Linh mục bắt đầu ý thức về quyền bính
của mình trên dân chúng, nhờ đó ông có thể giúp người ta mà không ép chế người ta. Và mọi
người bắt đầu ý thức về tôn giáo, nhờ đó tôn giáo dẫn họ đi từ tình trạng sai lầm tới chỗ đúng
đắn. Người ta tôn trọng Luật, song cũng biết thông cảm với những người yếu đuối. Người ta ý
thức về việc cầu nguyện, vì thế việc cầu nguyện không còn gây cản trở tinh thần tự lực của họ
nữa. Thậm chí người ta bắt đầu ý thức về những ý niệm của họ về Thiên Chúa, nhờ đó họ có thể
nhận ra Ngài bên ngoài phạm vi chật hẹp của nhà thờ.

Bây giờ, họ đã cho trương hai tiếng gây sốc đó trên cổng nhà thờ. Nếu bạn lái xe qua
cổng vào ban đêm, bạn có thể thấy nó lấp lánh trong những ngọn đèn neon rực rỡ sắc màu. 

ÂN SỦNG

115( Linh mục nọ đang ngồi bên bàn giấy, soạn bài giảng về chủ đề ‘Chúa quan phòng’.
Bỗng dưng ông nghe một tiếng động – như thể một tiếng nổ. Ngay sau đó, ông thấy thiên hạ
chạy xôn xao ngoài đừơng, ai nấy đều hoảng hốt. Thì ra, con đê vừa bị vỡ, dòng sông đang tràn
nước vô làng, và người ta đang chạy trốn lụt.

Kìa, nước bắt đầu dâng lên, ngập cả con đừơng phía dưới kia. Linh mục chột dạ, nhưng
rồi tự nhủ: “Mình đang soạn bài giảng về Chúa quan phòng; vậy đây là dịp để mình thực hành
điều mình giảng. Mình sẽ không chạy tránh lụt như những người kia. Mình sẽ cứ ở lại tại chỗ và
tin tưởng Chúa quan phòng sẽ cứu mình.”

Nước dâng lên tới cửa sổ. Một chiếc thuyền chở đầy người cập vào. “Mau mau lên
thuyền, thưa cha!” Họ giục giã. Nhưng linh mục vẫn ung dung trả lời: “Ồ không, cám ơn. Chúa
quan phòng sẽ cứu tôi.”

Dù vậy, linh mục bắt đầu leo lên mái nhà. Mực nước cũng dâng lên nhanh, sắp mấp mé
mái nhà. Một chiếc thuyền khác ghé qua, gọi cha sở lên thuyền, song cha sở của họ vẫn nhất
mực từ chối.
Lần này, linh mục leo lên tận đỉnh tháp chuông. Khi nước lên đến đầu gối của ông, một
chiếc ca nô lao tới để vớt ông, nhưng ông vẫn điềm tĩnh mỉm cười: “Xin cám ơn, xin cám ơn.
Nhưng ông biết đó, tôi tin tưởng vào Chúa. Chúa sẽ không bao giờ để tôi sẩy chân xuống nước
đâu.”

Cuối cùng, nước tiếp tục dâng lên, cuốn linh mục theo dòng lũ…

Lên thiên đàng, vừa gặp Chúa, ông phàn nàn: “Con tin tưởng vào Chúa. Tại sao Chúa
đã chẳng làm gì cả để cứu con?”

“À,” Chúa trả lời, “Ta đã chẳng gửi đến cho con ba chiếc thuyền đó sao?”

116( Hai tu sĩ cùng sóng bước trong một chuyến hành trình. Một trong hai người đang
thực hành linh đạo tích lũy, người kia thì theo linh đạo từ bỏ. Suốt cả ngày, họ tranh luận với
nhau về linh đạo của họ. Khi trời sập tối, họ vừa đến một bờ sông.

Người tu sĩ từ bỏ không có một xu dính túi. Anh ta nói: “Chúng ta không có tiền để đi đò
qua sông. Nhưng nói cho cùng, thân xác con người nào có quan trọng gì! Chúng ta sẽ trải qua
đêm nay ở đây, đọc kinh cầu nguyện ca tụng Chúa, và sáng mai chắc chắn sẽ có một nhà hảo
tâm nào đó giúp trả tiền cho chúng ta qua sông.”

Người tu sĩ kia nói: “Chẳng có làng mạc nào bên bờ sông này cả. Không một mái nhà,
cũng chẳng có một túp lều. Chúng ta nếu không làm mồi cho thú dữ, rắn rết, thì cũng sẽ chết vì
cóng. Qua bờ bên kia, chúng ta sẽ được ngủ đêm vừa an toàn vừa dễ chịu. Tôi có tiền để trả tiền
đò đây.”

Khi cả hai đã sang tới bờ bên kia, người tu sĩ tích lũy nói với bạn mình: “Anh có thấy giá
trị của việc giữ tiền chưa? Nhờ giữ tiền, tôi đã cứu được mạng sống của cả tôi lẫn anh đấy. Điều
gì xảy ra nếu tôi cũng là một người từ bỏ như anh?”

Người kia trả lời: “Ồ, chính sự từ bỏ của anh đã đưa chúng ta qua đây an toàn, anh đã
từ bỏ tiền của anh để trả cho người lái đò đấy, phải không? Hơn nữa, tôi không có tiền trong túi
tôi, nhưng tiền trong túi của anh đã trở thành của tôi. Tôi cảm thấy mình không bao giờ phải khổ
sở; bao giờ cũng có một người nào đó lo cho tôi.”

117( Tại một bữa tiệc ở Nhật Bản, một vị khách được giới thiệu một thứ rượu địa phuơng
rất nổi tiếng. Sau khi nhấp một ngụm, vị khách nhận thấy đồ đạc trong phòng bỗng dưng quay vù
vù.

“Rượu này thật mạnh.” Ông nói với chủ nhà.

“Không phải hoàn toàn như ông tưởng đâu” - chủ nhà trả lời - “Mới xảy ra một cơn động
đất đó.”

118( Một con voi bứt ra khỏi bầy và đâm sầm vào một cầu nhỏ bắc ngang con suối.
Cây cầu rúng động, kêu răng rắc, súyt chút nữa gãy sụm dưới sức nặng của con voi.

Khi con voi qua được bên kia cầu an toàn, một con bọ chét nãy giờ bám trong lỗ tai voi
thốt lên đầy tự mãn: “Này, đằng ấy! Lúc nãy chúng ta đã làm rúng chuyển cây cầu đấy, phải
không?”

119( Một bà lão quan sát trong một thời gian lâu – với sự chính xác của khoa học – và
nhận thấy mỗi sáng, cứ hễ con gà trống của mình cất tiếng gáy thì một chốc sau mặt trời mọc
lên. Vì thế bà kết luận rằng chính tiếng gáy của con gà đã làm cho mặt trời mọc lên.

Đột nhiên con gà của bà chết. Bà vội vã kiếm một con gà khác thay thế, sợ rằng mặt trời
sẽ không mọc vào sáng hôm sau.

Rồi ngày nọ, bà lão có chuyện cãi vã với hàng xóm. Bà quyết định bỏ làng, chuyển tới
sống với con gái mình cách đó vài dặm.

Sáng hôm sau bữa bà dời chỗ ở, con gà trống của bà cất tiếng gáy – và một lúc sau, mặt
trời mọc lên phía chân trời. Bà càng tin chắc điều mà lâu nay bà vẫn tin: Mặt trời đã chuyển tới
mọc ở đây, nghĩa là làng cũ của bà đang bị chìm trong bóng tối. Ừ, càng tốt! Họ sẽ tới van xin bà
cho mà coi!

Nhưng bà rất ngạc nhiên vì đợi mãi vẫn chẳng thấy những người láng giềng cũ đến van
xin mình trở về với họ. Bà tự nhủ: “Bọn đó vừa ngu lại vừa bướng!”

120( Hai hành khách trên máy bay:

“Nè, hình như đây là lần đầu tiên ông đi máy bay?”

“Vâng, vâng, Nói thật với ông, tôi không dám đặt cả sức nặng của mình lên chỗ ngồi.”

121( Một đệ tử cưỡi lạc đà đến thăm Thầy. Anh ta nhảy xuống khỏi lạc đà, đi thẳng vào
trong lều, cúi chào: “Thưa Thầy, con rất tin tưởng vào Thiên Chúa – đến nỗi con bỏ lạc đà ngoài
kia mà không buộc dây. Con tin rằng Thiên Chúa sẽ bảo vệ của cải cho những người yêu mến
Ngài.”

“Đồ ngu!” - Thầy trả lời - “Anh mau đi ra cột lạc đà lại. Thiên Chúa không làm thay cho
anh bất cứ điều gì mà anh hoàn toàn có thể tự làm cho mình.”

122( Khu vườn của Goldberg là khu vườn đẹp nhất trong thị trấn. Mỗi lần đi ngang qua,
Rabbi đều trầm trồ:

“Này ông Goldberg, khu vườn của ông thật xinh. Chúa và ông cùng cộng tác.”

“Cám ơn Thầy.” Goldberg cúi chào. 


Hết ngày này qua ngày khác, rồi tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác, mỗi
ngày Rabbi đi qua chỗ đó ít nhất hai lần, trên đường từ nhà đến hội đường và từ hội đường trở
về nhà. Và lần nào Rabbi cũng nói: “Chúa và ông cùng cộng tác!” ... cho đến khi Goldberg bắt
đầu thắc mắc không biết lời khen ấy của Rabbi có nghĩa gì.

Vì thế, lần sau đó, khi Rabbi nói: “Chúa và ông cùng cộng tác!”, Goldberg trả lời: “Có lẽ
đúng vậy. Nhưng giá mà Thầy đã trông thấy khu vườn này trước đây, khi chỉ có một mình Chúa
phụ trách.”

123( Trong quyển Tường Trình Về Các Thánh, Attar kể câu chuyện về Sufi Habib Ajami vĩ
đại như sau:

Ngày nọ, Habib đi tắm sông. Ông thoải mái vứt áo choàng của mình trên bờ sông, chẳng
cần ai trông coi. Tình cờ Hasan đi ngang qua đấy, thấy chiếc áo, nghĩ rằng đây hẳn là do sự bất
cẩn của chủ nhân, nên ông quyết định đứng đó canh chiếc áo cho đến khi chủ nhân của nó xuất
hiện.

Khi Habib từ dưới sông bước lên, tìm áo, Hasan nói: “Ông gửi áo cho ai canh chừng
trước khi đi tắm vậy? Ông không nghĩ rằng nó có thể bị đánh cắùp à?”

Habib trả lời: “Tôi gửi cho Đấng đã trao cho ông bổn phận đứng đây canh nó nãy giờ.”

124( Một người có lần bị lạc trong sa mạc. Sau này, khi kể lại nỗi kinh hoàng đó cho các
bạn của mình, anh ta nói rằng anh ta đã quì mọp xuống kêu xin Chúa giúp đỡ.

“Thế Chúa có đáp lại lời cầu xin của anh không?” Các bạn anh hỏi.

“Ô, không! Chúa chưa kịp giúp thì một nhà thám hiểm đã xuất hiện và chỉ đường cho tôi.”

125( Một nhóm đàn ông ngồi trong phòng chờ ở bệnh viện phụ sản, ai nấy đều sốt ruột.
Cô y tá từ trong bước ra, gọi tên một người, và nói: “Xin chúc mừng ông, ông có một con trai!”

Người đàn ông ngồi bên cạnh vứt mạnh tờ báo xuống, đứng phắt dậy, quát: “Mấy người
làm ăn sao kỳ cục vậy hở? Tôi tới đây trước ông kia đến hai tiếng đồng hồ!”

Có nhiều thứ không chịu sự tổ chức!

126( Vị chủ tịch của tập đoàn ngân hàng lớn nhất thế giới ngã bệnh, phải vào bệnh viện.
Một trong các phó chủ tịch đến thăm ông và đưa tin: “Tôi mang đến cho ông những ước mơ tốt
đẹp của Hội Đồng Quản Trị đây. Hội Đồng mong muốn ông qua khỏi cơn bệnh này và sống đến
một trăm tuổi. Đó là biểu quyết chính thức được thông qua với đa số phiếu mười lăm trên sáu
(15 phiếu thuận, 6 phiếu chống), có hai phiếu trắng.
 

Chúng ta có bao giờ biết ngừng cố gắng làm cháy lửa, làm ướt nước không?

127( Gia đình nhập cư nọ - nhất là Mary, đứa con gái sáu tuổi - rất khoái chí với những cái
tuyệt vời của xứ sở Hoa Kỳ, Cô bé nghĩ rằng mọi thứ ở Mỹ không chỉ tốt nhất mà còn hoàn hảo
không thể chê vào đâu được.

Một hôm, một phụ nữ hàng xóm nói với Mary rằng chị sắp sinh một cháu bé. Thế là Mary
chạy về nhà, hỏi mẹ rằng tại sao em không thể sinh một đứa bé nho nhỏ. Mẹ em tìm cách giải
thích khái quát cho em về sự sống, và nhấn mạnh rằng cần phải có một thời gian chín tháng để
một em bé chào đời.

“Phải chín tháng lận?” - Mary nói tỉnh bơ - “Nhưng mẹ không nhớ ở đây là nước Mỹ hở
mẹ?”

128( “Mẹ ơi, con muốn có một em bé trai.”

“Nhưng con vừa mới có một em trai đấy!”

“Con muốn một em nữa.”

“Ơ, con không thể có ngay được. Cần phải có thời gian mới có thể cho ra một em bé.”

“Sao mẹ không bắt chước bố ở nhà máy?”

“Bắt chước gì hở con?”

“Bổ sung thêm người để làm công việc cho nhanh.”

129( Một phụ nữ nằm mơ, thấy mình đang bước vào một cửa hàng mới khai trương. Chị
rất ngạc nhiên nhìn thấy Thiên Chúa ngồi đằng sau quầy.

“Chúa bán gì ở đây vậy?” Chị hỏi.

“Mọi thứ mà lòng người ao ước.” Chúa trả lời.

Thú vị quá, người phụ nữ quyết định hỏi mua những thứ tốt nhất mà con người có thể
ước mơ: “Con muốn mua sự bình an trong tâm hồn, hạnh phúc, khôn ngoan, và sự tự do khỏi
mọi nỗi sợ hãi. Không chỉ cho con, mà cho hết mọi người.”

Chúa mỉm cười: “Chắc con chưa hiểu rõ rồi, con yêu. Ta không bán hoa quả. Ta chỉ bán
hạt giống thôi.”

 
130( Người đàn ông ngoan đạo nọ rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Ông cầu nguyện: “Lạy
Chúa, xin hãy nhớ lại bao năm qua con đã phục vụ Chúa hết khả năng mình mà con không hề
xin xỏ điều gì cả. Nay con bắt đầu luống tuổi, lại sạt nghiệp; đây là lần đầu tiên trong đời con xin
Chúa một ân huệ, mong Chúa đừng từ chối con. Chúa ơi, hãy cho con trúng xổ số.”

Nhiều ngày, rồi nhiều tuần, nhiều tháng trôi qua ... Chẳng có gì xảy ra cả. Cuối cùng, gần
như tuyệt vọng, bữa tối nọ người đàn ông la lên: “Tại sao Chúa không cho con một cơ hội?”

Bất thần, ông nghe tiếng Chúa trả lời: “Chính con phải cho ta một cơ hội chứ! Sao con
chẳng chịu mua một tấm vé số?”

131( Một nhà soạn nhạc trẻ lần kia đến gặp Mozart để xin chỉ dẫn cách phát triển năng
khiếu của mình.

Mozart nói: “Tôi muốn khuyên anh hãy bắt đầu với những cái rất đơn giản thôi, chẳng
hạn – các ca khúc.”

“Nhưng ông đã soạn các bản giao hưởng ngay từ hồi ông còn bé!” Chàng thanh niên
chống chế.

“Đúng vậy. Nhưng lúc ấy tôi đã không phải đi đến với bất cứ ai để xin lời khuyên về việc
phát triển năng khiếu của tôi.”

132( Một ông cụ 80 tuổi được hỏi về bí quyết cho sức khỏe dẻo dai đáng nể của ông.

“À” - ông trả lời - “Tôi không uống rượu, không hút thuốc. Và ngày nào tôi cũng bơi một
dặm.”

“Nhưng bác tôi cũng làm y như vậy, thế mà bác ấy đã chết ở tuổi 60!”

“À, vấn đề ở chỗ bác của anh đã không thực hành cho đủ lâu.”

133( Sáng Chúa Nhật hôm ấy, sau giờ lễ, Chúa và Thánh Phê-rô đi chơi đánh gôn. Chúa
đánh quả banh. Ngài đánh vừa mạnh vừa xoáy. Quả banh vút đi, rơi xuống chỗ gò đất bên cạnh
đường lăn bóng. Quả banh vừa chạm mặt đất, một con thỏ nhảy ra khỏi bụi cây gần đó, ngoạm
lấy quả banh và cắm cổ chạy dọc theo đường lăn bóng. Thình lình, một con diều hâu sà xuống,
vồ lấy con thỏ trong đôi móng vuốt của nó và bay băng qua thảm cỏ xanh. Một người đàn ông
chĩa mũi súng trường về hướng con diều hâu, nhấn cò. Con bồ câu buông con thỏ. Thỏ rơi
xuống trên thảm cỏ, quả banh rơi khỏi miệng thỏ và lăn vào lỗ!

Thánh Phê-rô bực bội quay sang Chúa và nói: “Nè, Chúa muốn chơi gôn nghiêm túc hay
là Chúa muốn đùa bỡn đây?”

Còn bạn? Bạn có muốn hiểu và chơi cuộc chơi kiếp người hay là bạn chỉ muốn đùa
bỡn?
 

134( Rất nhiều thứ, nếu cứ để tự nhiên, sẽ tốt nhất:

Một thanh niên nhiệt thành nọ mới tốt nghiệp khóa đào tạo sửa ống nước. Anh ta được
đưa tới xem Thác Niagara. Sau khi trầm ngâm nghiên cứu cái thác này hồi lâu, anh ta nói:

“Tôi nghĩ tôi có thể sửa cái thác này.”

CÁC ‘THÁNH’

135( Một số người bẩm sinh thánh thiện, một số người khác cố đạt được sự thánh thiện,
nhưng cũng có một số khác nữa thì bị ép nhận sự thánh thiện.

Giếng dầu nọ bốc cháy. Công ty huy động các chuyên gia giúp dập tắt đám cháy. Nhưng
biển lửa dữ dằn đến nỗi những người lính chữa cháy không thể tiếp cận vào phạm vi 300 mét
cách giàn khoan. Trong tình thế tuyệt vọng, ban lãnh đạo công ty kêu gọi cả những nhân viên
tình nguyện của sở cứu hỏa địa phương làm bất cứ điều gì trong khả năng của họ để hỗ trợ.
Nửa giờ sau, một xe cứu hỏa cũ xì chạy như điên trên đừơng và thắng r..í..t chỉ cách ngọn lửa
cuồn cuộn có 15 mét. Các nhân viên tình nguyện nhảy xuống khỏi xe, xịt nước cho nhau, lao vào
vật lộn với biển lửa. Cuối cùng, đám cháy được dập tắt.

Để tỏ lòng biết ơn, vài ngày sau đó, ban lãnh đạo công ty tổ chức một buổi lễ tuyên
dương lòng can đảm và tinh thần trách nhiệm của các nhân viên cứu hỏa địa phương. Một tấm
séc với số tiền khổng lồ được trao cho viên chỉ huy sở cứu hỏa. Khi được các phóng viên hỏi ông
dự định sẽ sử dụng số tiền đó như thế nào, viên chỉ huy trả lời: “À, công việc trước hết sẽ là đưa
chiếc xe cứu hỏa vào gara để sửa chữa bộ thắng chết tiệt của nó!”

136( Đối với một số người khác, thánh thiện chỉ là một nghi tiết không hơn không kém.

Ông bạn lịch lãm của mệnh phụ Pumphamton tới uống trà, vì thế mệnh phụ gọi cô giúp việc và
căn dặn một điều quan trọng: “Này, khi nghe ta thét lên kêu cứu, thì em có thể đi nghỉ ngày hôm
nay. Nhớ nhé!”

137( Một người nọ sống đạo đức đến nỗi thậm chí các thiên thần phải nhảy mừng khi
trông thấy anh. Nhưng bất chấp sự thánh thiện của mình, anh chẳng bao giờ nghĩ rằng mình
thánh thiện. Anh chỉ vô tư làm các công việc bình thường hằng ngày, toả hương đạo đức cách tự
nhiên như hoa toả hương, như đèn chiếu sáng.

Đây là căn bản của sự thánh thiện của anh: Anh quên hết quá khứ của người ta và nhìn
người ta như sự thực của họ trong hiện tại. Anh nhìn vượt quá vẻ bên ngoài của người ta để
thấy tận thâm sâu hữu thể của họ – trong chỗ thâm sâu ấy, người ta đơn sơ, hồn nhiên và quá
chất phác không biết gì về điều họ đang làm. Vì thế, anh yêu thương và tha thứ mọi người anh
gặp – và anh chẳng thấy chi là phi thường trong chuyện này cả, đấy chỉ là cách mà anh nhìn con
người – thế thôi!
Ngày nọ, một thiên thần nói với anh: “Tôi được Thiên Chúa sai đến với anh. Anh hãy xin
bất cứ gì anh muốn và anh sẽ được mãn nguyện. Anh có muốn được ơn chữa bệnh không?”

“Không” - anh ta trả lời - “Việc ấy Thiên Chúa tự làm lấy thì hay hơn.”

“Hay là anh muốn được ơn đưa các tội nhân trở về đường ngay chính?”

“Không” - anh trả lời - “Đánh động trái tim con người không phải là việc của tôi. Đó là việc
của các thiên thần.”

“Có phải anh muốn trở thành một tấm gương nhân đức để mọi người có thể bắt chước
anh?”

“Không” - anh đáp - “Làm thế tôi sẽ trở thành tiêu điểm chú ý của người ta mất!”

“Vậy anh muốn gì?” Thiên thần hỏi.

“Tôi muốn ân sủng của Thiên Chúa. Có ân sủng, tôi sẽ có tất cả.”

“Không được. Anh phải xin một phép lạ nào đó cơ. Nếu anh không xin, anh sẽ bị ép phải
nhận đấy.”

“Ôi, vậy thì tôi sẽ xin điều này: Xin cho những điều tốt lành được thực hiện qua tôi sao
cho tôi không hề biết về những điều ấy.”

Thế là Thiên Chúa quyết định rằng chiếc bóng của con người thánh thiện này sẽ có năng
lực chữa bệnh bất cứ khi nào nó đổ phía sau lưng anh. Từ đó, bất cứ nơi nào bóng anh đổ
xuống, miễn là lưng anh quay về phía đó, thì những bệnh nhân được chữa lành, đất trở nên màu
mỡ, các dòng suối làm nảy sinh sự sống, và vẻ sinh động trở về với những nét mặt vốn rầu rĩ do
những gánh nặng cuộc đời.

Nhưng con người thánh thiện ấy không hề biết gì về điều này, bởi vì người ta quá tập
trung chú ý đến chiếc bóng của anh đến nỗi họ không chú ý gì đến anh.

Thế là ước mơ của anh đã hoàn toàn trở thành hiện thực: những điều tốt lành được làm
qua anh, còn chính anh thì được lãng quên!

138( Sự thánh thiện – cũng như sự cao thượng – không được chính người trong cuộc ý
thức.

Trong ba mươi năm trường, Paul Cézanne sống ẩn dật, làm nên những kiệt tác mà ông
đem tặng không cho những người láng giềng mộc mạc chất phát của ông. Tình yêu của ông đối
với các tác phẩm mà ông thực hiện lớn lao đến nỗi ông không bao giờ tưởng nghĩ đến việc được
truy nhận, ông cũng không bao giờ có ý nghĩ rằng một ngày nào đó ông sẽ được tuyên dương
như người khai sinh ra hội hoạ hiện đại.

Sở dĩ ông trở thành có danh tiếng là do một nhà buôn ở Paris tình cờ tìm thấy một số
bức hoạ của ông, tập hợp một số các bức hoạ ấy lại với nhau, và giới thiệu cho thế giới hội hoạ
cuộc triển lãm đầu tiên các tác phẩm của Cézanne. Cả thế giới sửng sốt khám phá ra sự hiện
diện của một bậc thầy.
Chính ‘bậc thầy’ này cũng sửng sốt không kém. Ông được con trai dắt đến phòng triển
lãm; và ông hết sức ngạc nhiên khi nhìn thấy những bức hoạ của mình được trưng bày. Ông
nghiêng qua con trai, nói nhỏ: “Xem kìa, người ta đóng khung chúng nữa đấy!”

139( Subhuti, môn đệ của Đức Phật, bất chợt khám phá ra sự phong phú của Không Tính.
Ông nhận ra rằng mọi sự đều vô thường, bất túc và vô ngã. Trong trạng thái Không Không này,
ông ngồi dưới một gốc cây, dạt dào phấn khích; bỗng dưng muôn ngàn bông hoa bắt đầu phủ
đầy xung quanh ông.

Và chư thần thì thầm vào tai ông: “Chúng tôi rất thú vị với những giáo huấn tuyệt vời của
ông về Không Tính.”

Subhuti trả lời: “Nhưng tôi chưa hề nói một lời nào về Không Tính cả.”

“Đúng vậy” - chư thần đáp - “Ông chưa hề phát biểu điều gì về Không Tính, chúng tôi chưa hề
nghe về Không Tính. Đấy mới là Không Tính đích thực.”

Và muôn ngàn cánh hoa tiếp tục mưa xuống.

Nếu tôi nói về Không Tính hay dù chỉ ý thức về Không Tính, liệu đó có còn là Không Tính nữa
không?

Cần phải có những lỗ trống trên chiếc sáo mới có âm nhạc, cần phải có những chỗ trắng trên
trang giấy mới có được bức thư, cần phải có chỗ trống nào đó – chẳng hạn, một cửa sổ – mới có
được ánh sáng, cần phải mất đi bản ngã, mới có được sự thánh thiện.

140( Một Rabbi già nằm trên giường bệnh. Các môn đệ đang xầm xì với nhau bên giường
ông. Họ trầm trồ về các nhân đức siêu quần của ông.

“Từ thời Salomon đến giờ, chưa từng có ai khôn ngoan như thầy”, một người trong họ
nói.

“Và cả đức tin của thầy nữa, nó mạnh mẽ không kém đức tin của tổ phụ chúng ta là
Abraham”, một người nữa nói.

“Chắc chắn là sự kiên nhẫn của thầy cũng không thua gì ông Gióp”, người thứ ba nói.

“Chỉ ông Môsê mới có thể sánh với thầy về mức độ hoán cải sâu xa với Chúa như vậy” -
người thứ tư tiếp lời.

Vị Rabbi có vẻ trằn trọc. Khi những môn đệ đi rồi, vợ ông hỏi: “Anh có nghe họ ca tụng
anh không?”

“Có” - Rabbi trả lời.

“Vậy sao anh trông có vẻ khó chịu thế?” - người vợ thắc mắc.
“Tính khiêm nhường của anh!” - người chồng phàn nàn - “Chẳng ai trong họ đề cập đến
tính khiêm nhường của anh cả”

Một vị thánh nọ nói: “Tôi chỉ là bốn bức tường trơ trọi – chẳng có gì ở bên trong.”Đúng là một vị
thánh! Không ai có thể sung mãn hơn.

141( Một linh mục 92 tuổi được mọi người trong thị xã tôn kính. Khi ông xuất hiện trên
đường phố, người ta kính cẩn cúi chào ông. Bởi vì ai cũng biết tiếng thánh thiện của ông. Ông
cũng là thành viên của câu lạc bộ Rotary. Mỗi lần câu lạc bộ có cuộc họp, ông đều có mặt, luôn
luôn đúng giờ, và luôn luôn ngồi sát trong góc phòng – chỗ mà ông ưa thích.

Một hôm, vị linh mục này biến mất. Dường như ông tàng hình vậy. Người ta cố tìm ông
khắp nơi, nhưng chẳng thấy dấu vết của ông ở đâu cả. Tuy nhiên, đến tháng sau, khi câu lạc bộ
Rotary họp, ông lại có mặt như thường lệ, vẫn ngồi vào trong góc quen thuộc.

“Kìa, thưa cha, lâu nay cha đi đâu vậy?” Mọi người xôn xao hỏi.

“Đi ở tù” vị linh mục điềm nhiên trả lời.

“Ở tù? Lạy Chúa tôi! Cha hiền như bụt thế kia, sao lại có chuyện đó? Điều gì đã xảy ra
vậy?”

“Đây là cả một câu chuyện dài” - vị linh mục trả lời - “Nhưng có thể tóm lại là: Tôi mua
một vé tàu lửa đi thành phố; và khi tôi đang đợi tàu ở sân ga, một cô gái xinh đẹp xuất hiện cùng
với một anh cảnh sát. Cô gái nhìn chăm chăm vào tôi, rồi quay sang nói với anh cảnh sát: Chính
lão này!’ Và, tôi xin thú thật với mọi người: Vì muốn làm vui lòng cô gái xinh đẹp ấy, tôi đã nhận
tội”.

142( Bốn vị thầy tu quyết định đi tịnh khẩu một tháng. Họ bắt đầu khá suôn sẻ. Nhưng sau
ngày thứ nhất, một người trong họ nói: “ Chà, không biết tôi đã khoá cửa phòng ở tu viện trước
khi ra  đi chưa nhỉ?”

Một người khác lên tiếng: “Ông có điên không đấy? Chúng ta quyết định giữ thinh lặng trong một
tháng mà bây giờ ông đã phá luật rồi!”

Người thứ ba: “Còn ông thì sao? Ông cũng phá luật luôn.”

Người cuối cùng: “May quá, tôi là người duy nhất chưa nói gì.”

143( Một người đàn ông bước vào phòng mạch bác sĩ: “Thưa bác sĩ, tôi bị nhức đầu khủng
khiếp và bị liên tục. Bác sĩ có thuốc gì không?”

“Có chứ” - bác sĩ trả lời - “nhưng trước hết tôi cần kiểm tra vài điều. Xin ông cho biết ông
có uống rượu nhiều không?”
“Rượu à?” - người đàn ông ngơ ngác - “Tôi không bao giờ đụng tới một giọt!”

“Còn thuốc lá?”

“Tôi ghê tởm thuốc lá. Cả đời tôi, tôi chưa bao giờ rờ tới một điếu thuốc”

“Điều này hơi tế nhị, nhưng ông biết đó, nó không phải là không phổ biến nơi nhiều
người đàn ông: Ông có hay đi chơi đêm không?”

“Ồ, không bao giờ! Bác sĩ nghĩ tôi là loại người nào đây nhỉ? Tôi luôn luôn đi ngủ trước
muời giờ.”

“Chà, cơn đau đầu của ông là một cơn đau dữ dội và và rất nhói, phải không?”

“ Vâng, đúng vậy. Nó rất nhói.”

“Ồ, thật đơn giản, ông bạn thân mến ơi! Vấn đề của ông nằm ở chỗ cái hào quang của
ông siết quá chặt. Tất cả những gì ông cần  làm là buông lỏng nó ra hơn một chút”

Điều rắc rối với các lý tưởng của bạn là: Nếu bạn sống triệt để chúng bạn sẽ trở thành một người
mà không ai có thể sống chung được.

144( Một chính trị gia người Anh có nhiều ảnh hưởng cố nài nỉ thủ tướng Disraeli trao cho
ông ta chức  nam tước. Không thể thoả mãn yêu cầu của ông ta, nhưng thủ tướng có cách để từ
chối ông mà không làm tổn thương cảm nghĩ của ông. Thủ tướng nói: “Tôi rất tiếc không thể trao
chức nam tước cho ông được, nhưng tôi có thể cho ông một điều tốt hơn thế. Ông được phép
nói với các bạn hữu rằng tôi đã đề nghị trao chức ấy cho ông nhưng chính ông từ chối.”

145( Ngày nọ, một giám mục quỳ trước bàn thờ, và trong một khoảnh khắc cảm động
mãnh liệt, giám mục bắt đầu đấm ngực và kêu lên: “Con là một kẻ tội lỗi, xin thương xót con! Con
là một kẻ tội lỗi, xin thương xót con!”

Vị linh mục của nhà thờ ấy, cảm kích trước tấm gương khiêm nhường này của vị giám
mục, cũng quỳ mọp xuống bên cạnh giám mục, vừa đấm ngực vừa kêu lên: “Con là một kẻ tội
lỗi, xin thương xót con! Con là một kẻ tội lỗi, xin thương xót con!”

Ông từ tình cờ có mặt trong nhà thờ vào lúc ấy, rất cảm động nên cũng quỳ mọp xuống,
đấm ngực và kêu lên: “Con là một kẻ tội lỗi, xin thương xót con!”

Lúc ấy, giám mục thúc khuỷu tay linh mục, chỉ về phía ông từ, vừa bĩu môi vừa nói: “Hãy
nhìn cái con người tự cho mình là tội nhân kìa!”

146( Một thầy tu khổ hạnh nọ sống đời sống độc thân và tâm niệm rằng sứ mạng của đời
mình là đấu tranh chống lại tình dục nơi bản thân mình và nơi người khác.
Cuối cùng, thầy chết. Môn đệ của thầy, vì quá tiếc thương thầy, cũng chết theo thầy ít
lâu sau đó. Khi người môn đệ sang thế giới bên kia, anh ta không thể tin vào mắt mình: Vị sư
phụ đáng kính của anh đang ngồi kia, với một người đàn bà cực kỳ xinh đẹp ngồi trong lòng thầy!

Khi cơn choáng váng lắng xuống dần, người môn đệ bắt đầu nghĩ rằng chắc hẳn thầy
đang được ân thưởng nhờ sự tiết dục của thầy khi còn sống trên trần gian. Anh bước đến chỗ
thầy và nói: “Thưa thầy kính mến, giờ đây con biết rằng Thiên Chúa thật công bình, Ngài đang bù
lại cho thầy về những sự khắc khổ của thầy trong cuộc sống dương thế.”

Thầy trợn mắt, nói: “Anh lầm to rồi! Đây không phải là thiên đàng, và thầy cũng không
đang được thưởng – nhưng là cô ả này đang bị phạt.”

Khi đôi giày vừa vặn, bàn chân được lãng quên; khi dây nịt vừa vặn, cái hông được lãng quên;
khi tất cả hòa điệu, cái ‘tôi’ được lãng quên.

Vậy thì, những sự khổ hạnh của bạn để làm gì vậy?

147( Ông cha sở thường bị bắt gặp đang nói chuyện công khai với một phụ nữ có nhan
sắc nhưng cũng nhiều tai tiếng.

Ông được giám mục gọi đến để quở trách. Khi giám mục đã nhắc  nhở ông xong, ông
nói: “Kính thưa Đức Cha, con luôn luôn cảm thấy rằng nói chuyện với một phụ nữ đẹp trong khi
lòng trí hướng về Chúa thì vẫn tốt hơn là nói chuyện với Chúa mà lòng trí lại đang hướng về một
phụ nữ đẹp.”

Khi nhà tu bước vào quán rượu, quán rượu trở thành nơi cầu nguyện. Khi tay bợm rượu bước
vào nơi cầu nguyện, nơi cầu nguyện sẽ trở thành chỗ nhậu nhẹt.

148( Thị trấn bị rúng chuyển vì một trận động đất. Thầy rất hài lòng khi thấy các đệ tử lộ rõ
niềm thán phục về thái độ điềm tĩnh, không chút hãi sợ của mình.

Vài ngày sau, khi được hỏi về ý nghĩa của việc vượt thắng nỗi sợ, thầy nhắc lại tấm
gương của chính mình: “Các con có thấy thái độ của ta không? Trong khi mọi người hốt hoảng
chạy quýnh lên, ta vẫn bình chân như vại, thong thả nhắp một ngụm nước! Khi ta đưa ly lên
miệng, có ai trông thấy bàn tay của ta run lên chút nào không?”

“Dạ, không ạ” - một đệ tử trả lời - “Nhưng đó không phải là nước, mà là xốt đậu nành ạ!”

149( Nisterus Cả, một trong những tổ phụ thánh thiện của các nhà ẩn tu sa mạc Ai Cập,
ngày kia đang đi trong sa mạc cùng với rất nhiều môn đệ vốn ngưỡng mộ ông như một con
người của Thiên Chúa.
Bất chợt, một con rồng xuất hiện trước mặt họ - và tất cả đều chạy tán loạn.

Nhiều năm sau biến cố nói trên, khi Nisterus gần chết, một trong các môn đệ nói với ông:
“Thưa Cha, hồi đó, khi chúng ta gặp con rồng trên đường đi, cha cũng hoảng sợ à?”

“Không!” Người hấp hối trả lời.

“Vậy tại sao cha cũng bỏ chạy như tất cả chúng con?”

“Ta nghĩ rằng tốt nhất là chạy tránh con rồng, để sau đó khỏi phải chạy tránh lòng tự phụ
trong chính mình.”

150( Thời đó, các sa mạc Ai Cập là nơi cư ngụ của các tu sĩ thánh thiện mà chúng ta gọi là
các giáo phụ sa mạc. Một phụ nữ bị ung thư vú bươn bả đi tìm một tu sĩ có tên là Longinus – vì
tu sĩ này được tiếng là rất thánh thiện và có năng lực chữa bệnh.

Khi chị bước đi dọc theo mé biển, chị gặp chính Longinus lúc ấy đang lượm củi, chị hỏi:
“Thưa cha, xin cha làm ơn chỉ cho con biết chỗ ở của cha Longinus ạ!”

Longinus đáp: “Chị kiếm tay ba trợn ấy để làm gì? Thôi, quên y đi! Con người ấy chẳng
được tích sự gì đâu. Chị đang có chuyện khó khăn gì đó, phải không?”

Người phụ nữ kể lể tình cảnh của mình. Bấy giờ, Longinus chúc lành cho chị và bảo:
“Chị quay về đi. Chúa sẽ ban ơn cho chị. Longinus chẳng có tài cán gì để giúp chị đâu.”

Thế là người phụ nữ ấy quay về, tin tưởng mình sẽ khỏi bệnh. Và quả thật, chưa đầy
một tháng sau, chị hoàn toàn bình phục. Nhiều năm sau đó, chị qua đời, hoàn toàn không biết
rằng người chữa lành bệnh cho mình chính là ... Longinus!

151( Lần kia, có người đến gặp một môn đệ của Bahaudin Naqshband, một nhà thần bí Hồi
giáo, và nói: “Xin cho biết tại sao thầy của ông che giấu các phép lạ của mình. Tôi đã tự mình thu
thập các dữ kiện và biết chắc rằng thầy đã từng hiện diện ở nhiều nơi chốn khác nhau trong
cùng một lúc; thầy đã chữa bệnh cho người ta bằng lời cầu nguyện của thầy, song thầy luôn bảo
họ rằng họ lành bệnh là nhờ tự nhiên; thầy cứu giúp người ta qua những cơn hoạn nạn, rồi thầy
giải thích rằng đó là nhờ sự may mắn của họ. Tại sao thầy có thái độ như vậy?”

“Những điều ghi nhận ấy của bạn là hoàn toàn chính xác” - người môn đệ trả lời - “Vì tôi
đã đích thân chứng kiến những sự kiện đó. Và tôi nghĩ đây là câu trả lời cho thắc mắc của bạn:
Thứ nhất, thầy không muốn thu hút sự chú ý của người ta. Và thứ hai, thầy nghĩ rằng một khi
người ta quá quan tâm đến những chuyện kỳ lạ, họ sẽ không còn tha thiết học hỏi bất cứ gì có
giá trị linh đạo thực sự.”

152( Laila và Rama là đôi tình nhân, nhưng họ nghèo quá chưa thể cưới nhau được. Họ
sống ở hai làng cách nhau một con sông rộng nổi tiếng có nhiều cá sấu.
Ngày kia, Laila nghe tin Rama bị bệnh nặng mà không có ai săn sóc. Cô bươn bả đi ra
bờ sông và năn nỉ ông lái đò đưa cô sang bên kia, dù cô không có một xu để trả tiền đò.

Nhưng ông lái đò quỉ quyệt ấy nhất định không chịu giúp cô, trừ phi cô đồng ý ngủ với
ông ta qua đêm ấy. Cô gái thống thiết van xin, nhưng mọi cố gắng của cô đều vô ích. Cuối cùng,
cô đành phải chấp nhận thoả mãn điều kiện mà ông lái đò đưa ra.

Đến được nhà Rama, cô thấy anh thoi thóp gần chết. Cô gắng hết sức mình săn sóc cho
anh, và sau một tháng được cô ở lại săn sóc, Rama khoẻ lại bình thường. Một hôm. Rama hỏi cô
đã qua sông bằng cách nào. Không thể giấu giếm người yêu, Laila kể lại tất cả sự thật.

Khi Rama nghe xong câu chuyện, anh đùng đùng nổi giận. Anh đuổi cô ra khỏi nhà và
nhất định không bao giờ gặp lại cô nữa.

153( Gessen là một tu sĩ Phật giáo. Ông cũng là một họa sĩ thiên tài. Có điều đáng ghi nhận
là khi vẽ bất cứ bức tranh nào ông cũng luôn luôn yêu cầu trả tiền trước. Giá tiền công của ông
rất ‘cắt cổ’. Vì thế, người ta gọi ông là Thầy Tu Tham Lam.

Lần nọ, một vũ nữ mời ông đến để nhờ ông vẽ một bức tranh. Gessen hỏi: “Cô sẽ trả
cho tôi bao nhiêu?” Tình cờ hôm ấy ông bầu của cô vũ nữ cũng đang có mặt ở đó. Cô trả lời
Gessen: “Giá nào tôi cũng trả. Nhưng bức tranh phải được thực hiện ngay bây giờ, trước mắt
tôi.”

Gessen lập tức bắt tay vào việc, và khi đã hoàn thành bức tranh, ông đòi một giá cao
nhất. Cô vũ nữ vừa trao tiền cho Gessen vừa quay sang nói với ông bầu: “Ông họa sĩ này là một
thầy tu, nhưng tất cả những gì ông quan tâm là tiền. Tài năng của ông thì không ai chê được,
nhưng đầu óc của ông thì quá tanh hôi mùi tiền. Chúng ta không thể nào trưng bày tranh của một
kẻ hám tiền như ông ta. Tranh của ông ta chỉ xứng đáng sánh với đồ lót của tôi thôi!”

Cô gái vừa nói vừa liệng cho Gessen một chiếc váy lót và bảo ông vẽ lên đó một bức
tranh. Như thông lệ, Gessen hỏi trước khi bắt tay vào việc: “Cô sẽ trả cho tôi bao nhiêu?”

“Bao nhiêu tôi cũng trả” - cô gái trả lời. Gessen ra giá, rồi bắt đầu vẽ. Vẽ xong, ông thản
nhiên bỏ tiền vô túi và bước ra cửa.

Nhiều năm sau, hoàn toàn tình cờ, có người phát hiện ra lý do tại sao Gessen tham tiền
đến thế. Số là ở quê ông thường xảy ra những nạn đói khủng khiếp. Những người giàu có chẳng
mảy may quan tâm gì đến các đồng bào nghèo xung quanh họ. Vì thế, Gessen cho xây dựng
một kho lương thực bí mật tại địa phương, và ông cố gắng thu mua thóc gạo đổ đầy kho để cứu
giúp người nghèo trong trường hợp khẩn cấp. Không ai biết lương thực cứu trợ ấy được lấy từ
đâu, cũng chẳng ai biết vị ân nhân cung cấp lương thực cho mình ấy là người nào!

Con đường từ làng ông ra thành phố cũng là một lý do khác nữa giải thích vì sao Gessen
cần tiền. Con đường dài mấy chục dặm ấy tệ hại đến nỗi các xe bò không thể di chuyển được.
Những người già cả và đau yếu thật vô cùng khổ sở khi cần ra thành phố. Gessen muốn tu bổ lại
con đường này.

Lý do thứ ba: Sư phụ của Gessen vốn ao ước xây dựng một thiền viện, nhưng ngài chưa
bao giờ có đủ khả năng để thực hiện ước mơ của mình. Gessen cố gắng thực hiện công trình
này như một cách bày tỏ lòng biết ơn đối với vị thầy đáng kính của mình.
Sau khi Thầy Tu Tham Lam đã xây dựng con đường, thiền viện và kho lương thực, ông
vứt bỏ sơn, cọ và giá vẽ, đi lên núi sống đời ẩn dật chiêm niệm. Người ta không bao giờ thấy ông
vẽ một bức tranh nào nữa.

Ý nghĩa hành vi của một người thường được những kẻ quan sát tưởng tượng ra!

154( Hai công nhân người Ai-len đang làm việc trên đường, ngay phía trước một nhà thổ.

Bỗng họ nhìn thấy ông mục sư Tin Lành của nhà thờ gần đó xuất hiện trước nhà thổ, kéo
vành mũ xuống che mặt, rồi đi thẳng vào bên trong. Pat nói với Mike: “Nè, cậu có thấy gì không?
Ông ấy là một người Tin Lành đấy chứ, phải không?”

Một lát sau, một Rabbi xuất hiện. Ông kéo cổ áo lên và cũng bước vào trong. Pat nói:
“Thật là một gương xấu khủng khiếp! Một vị lãnh đạo tôn giáo mà đi vào nhà thổ.”

Cuối cùng, thêm một người nữa xuất hiện. Đó là một linh mục Công Giáo. Ông kéo áo
dòng lên trùm đầu, rồi thoắt biến mất vào trong nhà. Pat nói: “Này, Mike! Chắc chắn là một cô gái
trong đó bị ốm nặng, phải không?”

155( Một người đàn ông đang câu cá trong vùng núi phía Bắc. Một hôm, người hướng dẫn
viên bắt đầu kể cho ông những mẩu chuyện về vị giám mục mà mùa hè năm ngoái cũng được
chính anh ta hướng dẫn.

“Vâng” - hướng dẫn viên bắt đầu kể - ”Ông ấy là một người tuyệt vời, ngoại trừ ngôn ngữ
của ông ta.”

“Anh có ý nói vị giám mục đó văng tục à?” Người đàn ông hỏi.

“Ồ đúng vậy thưa ông” - hướng dẫn viên nói - “Lần nọ,  ông ta câu được một con cá hồi.
Vừa khi ông ta kéo nó lên, con cá vẫy mạnh và sẩy ra khỏi lưỡi câu.

Lúc đó tôi thốt lên: “Chết mẹ! Sẩy rồi.” Và vị giám mục nhìn thẳng vào mắt tôi, nói: “Vâng,
đúng thế.” Nhưng đó là lần duy nhất mà tôi nghe ông ta sử dụng thứ ngôn ngữ ấy.”

156( Trong thời đại Meiji có hai vị thầy nổi tiếng sống ở Tokyo. Hai ông này ghét cay ghét
đắng nhau. Một trong hai ông, tên là Unsho, là một người trung thành tuân giữ các lời dạy của
Đức Phật. Mỗi sáng, ông thức dậy trước khi mặt trời mọc; buổi tối thì ông đi ngủ sớm; ông không
ăn gì sau khi mặt trời đã đi qua thiên đỉnh; và ông không bao giờ uống các thức có men. Vị kia,
tên là Tanzan, là một giáo sư triết. Ông ta không tuân giữ một lời dạy nào cả; ông ăn, ngủ bất cứ
khi nào ông thích.

Một hôm, Unsho ghé thăm Tanzan và bắt gặp ông này đang uống rượu. Đây là một xì
căng đan khủng khiếp, vì một Phật tử không được phép uống rượu dù chỉ một giọt.
“Xin chào ông bạn” - Tanzan lên tiếng - “Mời ông bạn vào và uống một ly cho vui.”

Unsho hết sức phẫn nộ. Nhưng ông cố kìm mình, nói: “Cám ơn, tôi không bao giờ uống
rượu.”

“Làm người mà không uống rượu thì không phải là người.” Tanzan nói tỉnh queo.

Lần này Unsho hoàn toàn mất bình tĩnh: “Gì hử? Ông muốn nói tôi không phải là người
vì tôi không đụng tới thứ mà Đức Phật nghiêm cấm rõ ràng, phải không? Tôi không phải là
người, vậy ông bảo tôi là gì?”

“Một ông Phật!” - Tanzan nói, không giấu vẻ đắc ý.

Tanzan về sau đã chết một cách tự nhiên y như lối sống của ông vậy. Vào ngày cuối
cùng của đời ông, ông viết sáu mươi tấm bưu thiếp, mỗi tấm mang những dòng chữ sau đây:

“Tôi đang từ giã thế giới này.

Đây là tuyên bố cuối cùng của tôi.

Tanzan

27 tháng 7, 1892”

            Ông nhờ một người bạn gửi các bưu thiếp này đi, rồi lặng lẽ nhắm mắt lìa đời.

Sufi Junaid của Baghdad nói: “Một kẻ phàm phu có bản chất tốt thì hay hơn là một vị thánh dở
hơi.”

157( Một gia đình nọ, có năm người, đang nghỉ mát trên bãi biển. Lũ trẻ tắm dưới nước và
chơi trò xây những lâu đài cát. Đàng xa, xuất hiện một bà lão lụm khụm. Mái tóc bạc phơ của bà
xoã bay trong gió; áo quần bà lếch thếch, tả tơi. Bà nói thầm thì gì đó trong miệng, và vừa đi vừa
cúi nhặt các thứ trên bãi biển, bỏ chúng vào trong một chiếc giỏ.

Bố mẹ lũ trẻ gọi chúng lại và căn dặn chúng tránh xa bà lão kia. Bà đi tới gần, vẫn thỉnh
thoảng khom người nhặt các thứ trên bãi biển; bà mỉm cười chào gia đình họ. Nhưng lời chào
của bà bị họ phớt lờ.

Nhiều tuần lễ sau, họ mới biết rằng từ mấy chục năm nay, ngày nào bà lão ấy cũng đi
rảo khắp bãi biển, nhặt những mảnh thủy tinh – để cho các em bé khỏi giẫm phải.

158( Ở Ấn Độ, các nhà tu khổ hạnh đi lang thang là một hình ảnh rất quen thuộc. Một bà
mẹ nhà quê nọ đã cấm con trai mình không được liên hệ gì với những nhà tu này, bởi vì người ta
đồn rằng một số nhà tu ấy thật sự thánh thiện, nhưng cũng có một số chỉ đội lốt nhà tu để lợi
dụng.
Một hôm, một người mẹ nhìn ra cửa sổ và thấy một nhà tu khổ hạnh – vây quanh ông là đám trẻ
trong làng. Bà rất ngạc nhiên nhận ra rằng nhà tu ấy – hoàn toàn không câu nệ gì đến vị thế của
mình –  đã hoà nhập và đùa giỡn hết sức thoải mái với lũ trẻ. Cảm kích vì hình ảnh ấy, bà gọi
đứa con trai nhỏ của mình và bảo: “Này con, vị này là một chân tu. Con có thể đi ra chơi với ông
ta.”

159( Có câu chuyện kể về một linh mục nọ thánh thiện đến nỗi ông không bao giờ nghĩ
xấu về bất cứ ai.

Một hôm, ông ngồi uống cà phê trong một nhà hàng; ông chỉ uống cà phê thôi, vì hôm ấy
là ngày ăn chay và kiêng thịt. Bất ngờ, ông nhìn qua và trông thấy một chàng thanh niên – là con
chiên thuộc giáo xứ của ông – đang xơi một đĩa thịt bò thật lớn ở bàn bên kia.

“Con hy vọng rằng con không đang gây sốc cho cha.” Chàng thanh niên cười.

“A, tôi đoán rằng anh đã quên hôm nay là ngày ăn chay và kiêng thịt.” Vị linh mục nói.

“Ồ không, không. Con có nhớ chứ”

“Vậy thì chắc anh bị bệnh. Và bác sĩ không cho phép anh ăn chay, phải không?”

“Ồ, cùng không phải vậy. Con đang khoẻ như voi đây mà. Có đau ốm gì đâu!”

Tới đây, vị linh mục ngước mắt lên trời và nói: “Lạy Chúa,  chàng thanh niên này đang
dạy cho con một bài học  quý giá biết bao! Chúa thấy không, anh ta thà nhận tội của mình chứ
nhất định không chịu nói một lời dối trá.”

160( Người ta kể rằng Thiền Sư Rinzai tối nào cũng làm một việc cuối cùng trước khi đi
ngủ là dốc bụng cười một tràng thật to, vang động khắp các hành lang, và người ta ở khắp nơi
trong tu viện đều nghe rõ tiếng cười ấy.

Việc đầu tiên ông làm khi thức dậy vào buổi sáng cũng là cười một tràng sang sảng đến
độ làm cho tất cả các tu sĩ khác – dù đang ngủ say đến mấy – cũng phải thức giấc.

Các môn đệ ông luôn cố xin ông giải thích lý do của những tiếng cười đó; nhưng ông
chẳng bao giờ chịu giải thích. Và khi ông chết, ông mang luôn cả bí mật về tiếng cười ấy theo với
ông xuống mồ.

161( Thầy hôm nay bỗng tỏ ra vui vẻ đặc biệt hơn mọi ngày; vì thế các đệ tử mạnh dạn xin
thầy kể lại những chặng đường mà thầy đã trải qua trong cuộc hành trình tâm linh của thầy.

Thầy nói: “Đầu tiên, Thiên Chúa nắm tay dẫn ta đi vào MẢNH ĐẤT HÀNH ĐỘNG, và ta ở
lại đó bảy năm. Rồi Chúa trở lại và dẫn ta tới MẢNH ĐẤT SẦU THƯƠNG, ta đã sống ở đó cho
tới khi trái tim ta được thanh luyện khỏi mọi sự ràng buộc quá đáng. Đó là lúc ta thấy mình bước
vào MẢNH ĐẤT TÌNH YÊU, ngọn lửa của mảnh đất này thiêu rụi tất cả những gì còn tồn đọng
trong bản ngã của ta. Và ta đi vào MẢNH ĐẤT YÊN LẶNG, ở đây, các mầu nhiệm của sống và
chết được phơi bày rõ ràng ra trước đôi mắt đầy sửng sốt của ta.”

“Có phải đó là chặng cuối cùng không, thưa Thầy?” Họ hỏi.

“Không” - thầy trả lời - “Rồi một ngày, Chúa nói: ‘Hôm nay Ta sẽ đưa ngươi đi vào tận
trong cung thánh Đền Thờ, tới tận cung lòng của Thiên Chúa.’ Và ta được dẫn tới MẢNH ĐẤT
TIẾNG CƯỜI.”   

162( Này anh phạm nhân kia. Anh bị tố cáo về tội xách động người ta vi phạm Lề Luật, chà
đạp các truyền thống và tập tục của đạo thánh. Anh tự bào chữa thế nào đây? - Vị thẩm phán
Tòa Điều Tra hỏi.

-Thưa ngài, tôi có tội.

-Anh thường xuyên la cà với bọn ngoại giáo, đĩ điếm, bọn tội lỗi công khai, bọn thu thuế
và bọn ngoại xâm – nói tóm lại, anh giao du với những người bị tuyệt thông. Anh tự bào chữa thế
nào đây?

-Thưa ngài, tôi có tội.

-Còn nữa, anh bị tố cáo về tội chất vấn và sửa đổi những nguyên lý cơ bản và thánh
thiêng của giáo lý đức tin. Anh tự bào chữa thế nào đây?

-Thưa ngài, tôi có tội.

-À, mà này, tên anh là gì?

-Dạ, Giêsu Kitô. Thưa ngài.

Một số người hoảng sợ khi thấy đạo của họ được  thực  hành không kém chi khi nghe nó bị hồ
nghi.

CÁI TÔI

163( Một người đàn ông đứng tuổi nọ làm chủ một cửa hàng đồ cổ trong một thành phố
lớn. Có lần, một du khách ghé vào cửa hàng, ngắm nghía các món hàng trưng bày, và nói
chuyện với ông chủ.

“Ông cho món nào trong số những món ở đây là độc đáo và kỳ diệu nhất?” Du khách hỏi.

Người đàn ông lướt mắt qua khắp các món hàng trong cửa hàng mình: hàng trăm món
đồ cổ quí hiếm, những con thú độn, những chiếc đầu khô, vô số chim cá bày trên các giá, những
cổ vật khai quật từ lòng đất, những chiếc đầu nai ... Cuối cùng, ông quay lại nhìn vị du khách, hơi
trầm ngâm một chút, rồi nói:

“Món độc đáo nhất trong cửa hàng này chắc chắn chính là ... tôi!”

 
164( Cô giáo đang giảng bài về các phát minh hiện đại.

“Các em hãy kể ra một cái gì đó rất quan trọng mà cách đây 50 năm nó chưa hề có!”

Một cậu bé ngồi ở dãy bàn đầu mau mắn giơ tay, nói:

“Thưa cô, Em!”

165( Tu sĩ nọ trong sa mạc Ai Cập bị những cơn cám dỗ dày vò đến nỗi ông không thể chịu
đựng được nữa. Ông quyết định bỏ chỗ ở cũ của mình và chuyển tới một chỗ khác.

Khi xỏ giày để chuẩn bị ra đi, ông bỗng nhìn thấy một tu sĩ khác cũng đang xỏ giày bên
cạnh mình.

“Anh là ai?” Ông hỏi người lạ mặt.

“Tôi là cái ngã của ông” - người lạ mặt trả lời - “Tôi thấy ông dường như muốn rời bỏ chỗ
này? Xin ông đừng quên rằng dù ông đi bất cứ đâu, tôi cũng sẽ theo ông.”

Một thân chủ thất vọng than thở với vị bác sĩ tâm thần: “Bất cứ nơi nào tôi đi, tôi cũng phải mang
cái tôi của mình theo – và đó là nguyên do của mọi chuyện lộn xộn.”

Cả điều bạn chạy trốn lẫn điều bạn khát khao đều ở bên trong bạn.”

166( Chàng thanh niên ấy muốn tầm sư học đạo, đến gặp một Guru có tiếng đồn là rất
thánh thiện nhưng cũng là một tay ma mãnh. Dĩ nhiên chàng thanh niên không hề biết điều này.

“Trước khi tôi nhận anh làm môn đệ,” Guru nói, “Tôi muốn kiểm tra khả năng vâng lời
của anh. Con sông chảy qua gần đây có rất nhiều cá sấu; tôi muốn anh lội qua con sông ấy.”

Chàng thanh niên tin tưởng vào vị Guru đến nỗi anh thực hiện ngay mệnh lệnh ấy, không
chút ngần ngừ. Ra giữa dòng sông, anh hét vang: “Sức mạnh của Guru thật cao cả!” Tới bờ bên
kia, anh lại lội trở về bờ bên này một cách an toàn. Vị Guru không thể giấu vẻ sửng sốt.

Sự việc đó làm cho Guru nghĩ rằng chắc hẳn mình thánh thiện hơn mình vốn tưởng
nhiều. Vì thế, ông quyết định biểu diễn cho tất cả các môn đệ thấy sức mạnh của mình – nhằm
củng cố thêm danh tiếng thánh thiện của ông. Ông bắt đầu bước xuống sông và hô to: “Sức
mạnh của ta thật cao cả! Sức mạnh của ta thật cao cả!”

Ngay lập tức, lũ cá sấu vồ lấy ông và xé xác ông ra tơi tả.

 
167( Quỉ cải dạng thành một thiên thần sáng láng rực rỡ, hiện ra với một vị ẩn tu sa mạc
và nói: “Ta là Thiên Thần Gabrien. Ta được Đấng Toàn Năng sai đến với nguơi.”

Vị tu sĩ đáp: “Ngài nghĩ lại đi. Chắc ngài được sai đến với một ai khác chứ không phải tôi
đâu. Tôi có làm gì xứng đáng để một thiên thần viếng thăm đâu nhỉ!”

Ngay lúc ấy, quỉ biến mất và không bao giờ dám bén mảng đến gần vị tu sĩ này nữa.”

168( Ghé qua các bãi chơi gôn ở Nhật Bản, một du khách khám phá thấy rằng đa số những
người phục vụ nhặt bóng giỏi đều là phụ nữ.

Một hôm, ông đến trễ giờ và phải nhận một cậu bé 10 tuổi làm người nhặt bóng cho
mình. Đó là một cậu bé mảnh khảnh, hầu như không biết gì về môn chơi này; cậu bé chỉ nói
được có ba từ tiếng Anh.

Tuy nhiên, nhờ ba từ đó, cậu bé đã được vị du khách tiếp tục chọn làm người nhặt bóng
suốt thời gian còn lại trong chuyến du lịch Nhật Bản ấy. Sau mỗi cú đánh của ông, bất kể quả
banh văng đi đâu, cậu bé cũng nhảy cẩng lên và la to đầy sung sướng: “Damned good shot!”
(nghĩa là: ‘Cú đánh hết sức tuyệt vời!’)

169( Một phụ nữ rất buồn về cung cách của đứa con trai 15 tuổi của chị. Mỗi lần hai mẹ
con đi với nhau ngoài đường, cậu ta luôn luôn đi trước mẹ vài bước. Một hôm, chị hỏi con trai:
“Có phải con xấu hổ vì mẹ?”

“Ồ, thưa mẹ, không phải đâu” - Cậu con trai lúng túng trả lời - “Tại mẹ trông quá trẻ, làm
con sợ mấy đứa bạn nghi rằng con có bạn gái mới.”   

Sự khó chịu của người mẹ biến mất tức thì - như một phép lạ!

170( Một người đàn ông đứng tuổi đang ngấp nghé ngoài cánh cửa, với một miếng bánh
ngọt trên tay.

“Vợ tôi hôm nay tròn tám mươi sáu tuổi” - ông nói - “và bà ấy muốn gửi biếu chút bánh
sinh nhật.” Chủ nhà nhận miếng bánh một cách rất vui vẻ và cảm động, nhất là vì ông già này đã
phải đi hơn một cây số để đến đây.

Một tiếng đồng hồ sau, ông già lại xuất hiện trước cửa.

“Có chuyện gì vậy hở bác?” Chủ nhà hỏi.

“ỜØ” - ông già trả lời, hơi ngượng ngùng - “nhà tôi bảo tôi đến để nói lại rằng, một cách
chính xác,  bà ấy chỉ mới tám mươi lăm thôi.”

171( Một con gà trống đang xớ rớ chạy quanh trong chuồng ngựa.
Con ngựa có vẻ nổi cáu và cũng bắt đầu đi tới đi lui. Gà trống nhìn lên, nói: “Này người
anh em, cả hai chúng ta đều phải cẩn thận kẻo giẫm lên chân của nhau đấy nhé!”

Con kiến nhắc nhở con voi khi Ông Nôe cho tất cả các động vật xếp hàng đi lên tàu: “Này, từ từ,
đừng có xô đẩy nữa!”

172( Một con bọ chét quyết định chuyển cả gia đình mình tới ở trong lỗ tai của một con
voi. Vì thế, nó nói với con voi: “Ông voi à, gia đình tôi và tôi có ý định dọn tới ở trong lỗ tai ông.
Tôi thấy nên báo cho ông trước một tuần, để nếu ông không đồng ý thì xin cứ cho tôi biết.”  

Con voi, thậm chí không biết rằng có một con bọ chét đang hiện diện trong lỗ tai mình,
vẫn điềm nhiên như không.

Về phần con bọ chét, sau một tuần chủ ý đợi chờ, thấy con voi không phản đối gì, liền
dọn cả gia đình của nó đến.

Một tháng sau, vợ bọ chét đưa ý kiến rằng chỗ ở này không tốt lắm cho sức khỏe và đề
nghị chồng dọn nhà đi. Anh chồng cố thuyết phục vợ mình ở nán lại thêm ít nhất một tháng nữa
để khỏi làm thương tổn cảm nghĩ của con voi.

Cuối cùng, nó lựa lời nói với voi: “Ông voi à, chúng tôi có ý định dọn đi nơi khác. Hoàn
toàn không phải vì chúng tôi chê chỗ ở này, vì quả thật lỗ tai của ông rất rộng rãi và ấm cúng.
Nhưng vì vợ tôi muốn sống gần gũi các bạn của bà ấy ở dưới chân bác trâu. Dù sao, nếu ông
không đồng ý việc chúng tôi dời đi, xin ông cứ cho biết nội trong tuần tới nhé!”

Con voi chẳng nói chẳng rằng, thế là bọ chét dọn đi với một lương tâm hoàn toàn thanh
thản.

Bạn cứ thoải mái. Vũ trụ này không ý thức gì về sự hiện diện của bạn đâu!

173( Ban hợp xướng đang tổng đợt lần cuối. Sân khấu hết sức ồn ào, vì các nhân viên
đang ráo riết lắp đặt các thiết bị.

Một anh chàng nhân viên bắt đầu gõ búa liên hồi. Tiếng gõ búa của anh gây ồn không
thể chịu nổi, vì thế nhạc trưởng cho dừng bài hát lại và quay sang nhìn anh với ánh mắt như năn
nỉ.

“Cứ tiếp tục cho hát đi, nhạc trưởng ạ” - Anh nhân viên nói - “Tiếâng hát không gây cản
trở gì cho công việc của tôi đâu.”

 
174( Một phụ nữ bước ra khỏi buồng tắm, chưa khoác một tấm vải nào lên người. Chị
đang với tay lấy chiếc khăn tắm thì giật thót mình vì trông thấy một người đàn ông đứng trên giàn
giáo. Người đàn ông vừa cọ rửa cửa sổ nhà chị vừa tròn xoe mắt nhìn chị.

Quá hoảng hốt trước sự xuất hiện bất ngờ này, chị đứng chết trân như pho tượng, há
hốc nhìn người đàn ông.

“Có chuyện gì vậy, thưa cô?” Người đàn ông ôn tồn hỏi. “Cô chưa bao nhìn thấy một
người chùi rửa cửa sổ trước đây à?”

175( Một nhà khoa học nọ khám phá ra cách nhân bản chính mình hoàn hảo đến nỗi không
thể phân biệt được đâu là ông ta và đâu là phiên bản của ông ta. Một hôm, biết rằng Thần Chết
đang kiếm mình, ông làm ra một loạt mười hai phiên bản của chính ông. Thần Chết đến – và
hoàn toàn mù tịt không biết nhà khoa học là người nào trong số muời ba con người hoàn toàn
giống nhau kia. Cuối cùng, Thần Chết đành bỏ đi.

Nhưng vì rất am hiểu bản tính con người, nên sau đó không lâu, Thần Chết trở lại với
một ‘khí cụ đặc biệt’. Thần Chết nói: “Này nhà khoa học, ông thật là một thiên tài khi đã thành
công trong việc làm ra những phiên bản giống hệt chính mình như thế. Tuy nhiên, ta đã khám
phá ra một sơ suất trong công trình của ông, dù chỉ là một sơ suất nhỏ thôi.”

Nhà khoa học lập tức nhảy chồm lên, sừng sộ: “Gì, sơ suất gì hử? Thử chỉ ra xem!”

“Ngay đây này, thưa ông!” Thần Chết vừa nói vừa tóm lấy nhà khoa học ra khỏi các
phiên bản kia – và mang ông ta đi.

176( Một quan tòa Ả-rập kia rất nổi tiếng khôn ngoan. Bữa nọ, một chủ hiệu buôn đến
khiếu nại rằng cửa hàng của mình bị mất trộm rất nhiều hàng hóa nhưng kẻ trộm đã chạy thoát
được.

Quan tòa truyền gỡ cánh cửa của hiệu buôn ra khỏi bản lề và mang ra giữa chợ; tại đây,
cánh cửa bị quất 50 roi vì tội không hoàn thành nhiệm vụ ngăn cản kẻ trộm.

Người ta xúm lại rất đông để xem bản án lạ lùng này được thi hành. Khi cánh cửa đã
lãnh đủ 50 roi, quan tòa cúi xuống bảo nó cho biết kẻ trộm là ai. Rồi quan tòa áp tai sát vào cánh
cửa để đón nghe nó trả lời.

Rồi, ông đứng lên, tuyên bố: “Cánh cửa cho biết kẻ trộm là một người đàn ông có dính
một sợi mạng nhện trên khăn quấn đầu.” Ngay tức thì, trong đám đông có người đưa tay lên sờ
soạng tấm khăn đầu. Nhà của anh ta được lục soát – và người ta đã tìm thấy những món đồ mà
hiệu buôn bị mất trộm.

Chỉ cần một lời nói nịnh hót hoặc chỉ trích, người ta có thể lột trần cái tôi của bạn ra!

 
177( Bà già nọ chết và được các thiên thần đem tới Tòa Phán Xét. Khi xem xét quá trình
cuộc sống của bà, vị Thẩm Phán không thể tìm thấy một hành vi bác ái nào ngoại trừ một lần duy
nhất bà đã trao một củ cà rốt cho một người ăn xin đang đói lả.

Nhưng chỉ một nghĩa cử ấy thôi cũng đủ để Thẩm Phán quyết định cho bà lên thiên
đàng. Một cách cụ thể: bà sẽ được đưa lên thiên đàng bằng chính củ cà rốt ấy. Thế là củ cà rốt
được đem ra giữa phiên tòa và trao cho bà già. Vừa lúc bà nắm lấy nó, nó bắt đầu vút lên – như
thể được kéo bởi một sợi dây vô hình – và bà già cũng được kéo lên theo củ cà rốt.

Một người ăn xin xuất hiện. Anh ta níu lấy gấu áo bà và cũng được kéo lên theo. Rồi một
người thứ ba kịp chụp được bàn chân của người ăn xin, cũng được kéo theo nốt. Cứ thế, sau
một chốc lát, đã có cả một dây người dài ngoằng được củ cà rốt kéo lên trời. Nhưng thật lạ, bà
già không hề cảm thấy rằng có một trọng lượng rất lớn đang bám vào mình. Nãy giờ bà chỉ nhìn
lên trời, nên chẳng thấy những người ấy.

Khi lên gần tới cửa thiên đàng, bà già cúi xuống để nhìn trần gian lần cuối cùng. Và lúc
này bà mới nhận ra cả một ‘dây’ người bám theo mình.

Bà tức điên lên! Bà vung tay thật mạnh và quát: “Buông ra, mọi người buông ra ngay! Củ
cà rốt này là của tôi!”

Với cú vung tay ấy, bà tụt khỏi củ cà rốt – và rơi xuống cùng với tất cả những người kia.

“Cái này là của tôi!” – Đó là nguyên nhân của mọi sự dữ trên đời.

178( Anh thợ điêu khắc tên Ching vừa mới làm xong một cái giá treo chuông. Ai nhìn công
trình ấy của anh cũng phải trầm trồ – như thể là tác phẩm của thần thánh vậy! Khi Công tước xứ
Lu trông thấy cái giá treo chuông ấy, ông hỏi: “Làm sao anh có tài đến có thể làm ra một tác
phẩm như thế nhỉ?”

Anh chàng điêu khắc trả lời: “Thưa ngài, tôi chỉ là một người thợ bình thường thôi. Tôi
không phải là thiên tài. Chỉ có điều, khi sắp sửa làm một cái giá treo chuông, tôi nguyện ngắm ba
ngày để yên định tâm hồn mình. Khi tôi nguyện ngắm ba ngày, tôi không còn nghĩ gì đến những
sự tưởng thưởng hay những món thù lao nữa. Khi tôi nguyện ngắm năm ngày, tôi không còn
nghĩ đến lời khen tiếng chê của thiên hạ nữa. Khi tôi nguyện ngắm bảy ngày, tôi quên cả chân
tay, thân thể mình; ồ không, phải nói là tôi quên cả cái tôi của mình. Tôi không còn ý thức gì về
mọi sự xung quanh mình nữa. Chỉ có một điều còn lại: đó là tay nghề của tôi.

“Rồi, trong tình trạng đó, tôi đi vào rừng và nghiên cứu từng thân cây cho đến khi tôi lựa
được một cây hoàn hảo nhất để làm chiếc giá treo chuông. Rồi, đôi bàn tay của tôi bắt đầu công
việc. Bản ngã của tôi bị gạt qua một bên, chỉ còn có tự nhiên gặp gỡ tự nhiên nơi công việc được
thựïc hiện qua tôi. Chắc chắn đó là lý do vì sao người ta nói rằng tác phẩm được hoàn thành là
một công trình của thần thánh.”

Một nhạc công viôlông nổi tiếng thế giới nói về sự thành công của mình trong việc biểu diễn bản
Công-xéc-tô cho Viôlông của Beethoven: “Tôi có bản nhạc tuyệt vời, một cây đàn viôlông tuyệt
vời, và một cây cung kéo đàn tuyệt vời. Tất cả điều tôi cần làm chỉ là phối hợp chúng lại với nhau
và quên mình đi.”

179(  Một môn đệ đến gặp Maruf Karkhi, đạo sư Hồi Giáo, và nói: “Con đã có những dịp nói
chuyện với người ta về thầy. Người Do Thái bảo rằng thầy là một người của họ. Các Kitô hữu coi
thầy như một trong những vị thánh của họ. Còn các tín đồ Hồi Giáo thì tôn dương thầy là vinh
quang của đạo Hồi.”

Maruf trả lời: “Ở Baghdad này thì người ta nói thế đấy. Hồi ta sống ở Giêrusalem, người
Do Thái bảo ta là một tên Kitô giáo, người Kitô giáo bảo ta là một tên Hồi giáo, còn người Hồi
giáo thì bảo ta là một tên Do thái giáo.”

“Vậy, thưa thầy, phải nghĩ thầy là ai mới đúng ạ?”

“Hãy nghĩ ta là một kẻ tự nói về mình rằng: Ai sùng kính ta là những người không hiểu
ta. Ai rủa sả ta cũng là những người không hiểu ta.”

Nếu bạn nghĩ bạn là con người như các bạn hữu và các kẻ thù bạn hiểu, thì rõ ràng bạn không
hiểu chính bạn!

180( Một phụ nữ nằm trên giường bệnh, rơi vào một cơn hôn mê rất sâu. Chị cảm thấy
mình được đưa lên trời và đứng trước tòa phán xét.

“Ngươi là ai?” Một giọng nói hỏi chị.

“Dạ, con là vợ của một thị trưởng,” Chị trả lời.

“Ta không hỏi ngươi là vợ của ai. Ta chỉ hỏi ngươi là ai!”

“Dạ, con là mẹ của bốn đứa con ạ.”

“Ta không hỏi ngươi là mẹ của ai. Ta chỉ hỏi ngươi là ai.”

“Dạ, con là một giáo viên.”

“Ta không hỏi nghề nghiệp của ngươi là gì. Ta chỉ hỏi ngươi là ai.”

Và cứ thế … Câu trả lời nào của chị cũng xem ra không đáp ứng thỏa mãn được cho
câu hỏi ‘Ngươi là ai?’

“Dạ, con là một Kitô hữu.”

“Ta không hỏi ngươi thuộc tôn giáo nào. Ta chỉ hỏi ngươi là ai.”

“Dạ, con là người đi nhà thờ hằng ngày và luôn luôn giúp đỡ người nghèo và những
người túng thiếu.”
“Ta không hỏi ngươi đã làm gì. Ta chỉ hỏi ngươi là ai.”

Rõ ràng người phụ nữ này không vượt qua được câu hỏi ấy, chị được trả về lại trần
gian. Khi chị hồi phục từ cơn bệnh ấy, chị quyết tâm khám phá mình là ai. Và quyết tâm ấy đã là
nguyên do của mọi sự thay đổi.

181( Một chàng thanh niên bứơc vào văn phòng của bác sĩ tâm thần, anh ta hút một ống
tẩu, mang xâu chuỗi to, mặc quần ống loe sờn lỗ chỗ, và một mái tóc dài chấm vai.

Bác sĩ tâm thần nói: “Anh bảo anh không phải là một hippie. Vậy anh giải thích thế nào
về quần áo, tóc tai và phong cách của anh?”

“Đó chính là điều tôi muốn đến đây để khám phá, thưa bác sĩ.”

Biết các sự vật là thông thái.Biết người ta là khôn ngoan. Biết chính mình là giác ngộ.

182( Một sinh viên bước vào phòng lab ngôn ngữ và nói: “Xin làm ơn cho tôi một cuộn
băng trắng.”

“Cậu đang học ngôn ngữ nào?” Nhân viên phụ trách hỏi.

“Tiếng Pháp.” Chàng sinh viên trả lời.

“Rất tiếc, chúng tôi không có băng trắng bằng tiếng Pháp.”

“Ồ! Vậy cô có cuộn băng trắng nào bằng tiếng Anh không?”

“Tiếng Anh thì có.”

“Được. Xin cho tôi một cái.”

Gán đặc tính ‘tiếng Anh’ hay ‘tiếng Pháp’ cho một cuộn băng trắng thì cũng giống như gọi một
người là người Anh hay người Pháp. Anh hay Pháp là tình trạng điều kiện hóa của bạn, không
phải là chính bạn!

Một em bé sinh bởi cha mẹ Mỹ, được nuôi bởi cha mẹ Nga, không hề biết rằng mình là một con
nuôi, lớn lên trở thành một nhà yêu nước và một nhà thơ vĩ đại. Nhà thơ này thể hiện trong thi ca
mình cái vô thức tập thể về hồn dân tộc Nga và những cảm hứng dạt dào về Mẹ Nga yêu dấu.
Vậy đó là người Nga? Hay người Mỹ? Hay không phải Nga cũng chẳng phải Mỹ?

Bạn hãy khám phá xem bạn là ai (hay là gì).


 

183( “Ông ôm cái cửa đó đến đây làm gì thế?”

“Nó là cửa trước của nhà tôi. Tôi đánh mất chìa khóa, nên phải mang nó ra đây để nhờ
làm một chìa khóa mới.”

“Vậy ông phải cẩn thận đấy nhé, nếu ông mà đánh mất cả nó nữa thì ông sẽ không thể
vào nhà được đâu.”

“Không sao. Tôi có để một cửa sổ mở, phòng xảy ra trường hợp đó.”

184( Người ta kể rằng Thiền Sư Bankei không lập ra một trường phái nào. Ông như một
con chim không để lại dấu vết đường bay của nó qua bầu trời.

Người ta nói về ông như sau: “Khi ông đi vào rừng, không một cọng cỏ nào xôn xao. Khi
ông bước xuống nước, mặt nước không lăn tăn một gợn sóng.”

Ông không làm cho cõi đời này nên lộn xộn hơn. Không một kỳ công nào, không một sự
chinh phục nào, không một trình độ tu đức nào có thể so sánh được với điều này: đó là, không
làm cho cõi đời này nên lộn xộn hơn!

Một người đến gặp Đức Phật, ôm một mớ hoa trên tay. Đức Phật nhìn anh ta và nói:
“Quăng nó đi!”

Anh ta sửng sốt, không hiểu tại sao Đức Phật bảo mình quăng các bông hoa đi. Nhưng
rồi anh ta đoán rằng chắc hẳn Đức Phật yêu cầu mình quăng các bông hoa trong tay trái đi – vì
đưa cho ai một cái gì đó bằng tay trái là điều được xem như không lịch sự lắm. Thế là anh vứt
những bông hoa trên tay trái mình xuống đất.

Đức Phật vẫn nói: “Quăng nó đi!”

Lần này, anh ta ném tất cả các bông hoa và đứng với hai bàn tay trơ trọi trước mặt Đức
Phật. Một lần nữa, Đức Phật lại mỉm cười và nói: “Quăng nó đi!”

Hết sức lúng túng, anh ta hỏi: “Con phải quăng cái gì, thưa ngài?”

“Không phải hoa, con ạ, nhưng là chính cái người cầm hoa.” Đức Phật trả lời.

185( Có một Guru  được mọi người ngưỡng mộ như là Khôn Ngoan Nhập Thể. Ngày nào
ông cũng diễn thuyết về các khía cạnh khác nhau của đời sống tâm linh. Và mọi người đều công
nhận rằng chưa bao giờ có ai vuợt qua con người này về tính đa dạng, về chiều sâu, chiều rộng
của giáo huấn của ông.
Các môn đệ ông thường hỏi về nguồn gốc của kho tàng khôn ngoan hầu như vô tận mà
ông nhận được. Ông nói với họ rằng: Tất cả đều được viết ra trong một quyển sách mà họ sẽ
thừa hưởng sau khi ông qua đời.

Ngày hôm sau khi ông qua đời, các môn đệ tìm thấy quyển sách đúng ở chỗ mà ông đã
chỉ cho họ. Quyển sách ấy chỉ có một trang, và trang sách ấy chỉ có một câu:

“Hãy hiểu sự khác biệt giữa vật chứa và cái được chứa – và nguồn mạch khôn ngoan sẽ
tuôn đổ tràn trào trên bạn.”

186( Một câu chuyện trích từ Kinh Upanishads:

Hiền nhân Uddalaka dạy con trai mình là Svetaketu cách nhìn Nhất Tính đàng sau dạng
vẻ của đa tính. Ông làm điều này bằng cách sử dụng một số dụ ngôn như dụ ngôn sau đây:

Một hôm ông nói với con trai: “Con hãy cho muối này vào trong nước và hãy trở lại gặp
cha vào buổi sáng.”

Cậu con trai làm y lời. Ngày hôm sau người cha nói: “Con hãy đem cho cha số muối mà
con đã cho vào trong nước ngày hôm qua.”

“Con không thể tìm ra.” Cậu con trai trả lời, “Nó đã tan hết rồi.”

“Con hãy nếm nước ở phía này của cái đĩa.” Uddalaka bảo. “Nó có vị gì?”

“Muối.”

“Hãy nếm ở giữa đĩa. Nó có vị gì?”

“Muối.”

“Hãy nếm ở phía bên kia đĩa. Nó có vị gì?”

“Muối.”

“Đổ nó đi!” Người cha bảo.

Cậu con trai làm y lời. Và cậu nhận thấy rằng sau khi nước đã bốc hơi, thì muối lại hiện
ra. Bấy giờ, Uddalaka nói: “Con à, con không cảm nhận được Thượng đế ở đây. Nhưng quả
thực, ngài đang ở đây.”

Những kẻ kiếm tìm sự giác ngộ sẽ không tìm thấy, vì họ không hiểu rằng đối tượng của cuộc tìm
kiếm ấy chính là người tìm kiếm. Thiên Chúa, cũng như vẻ đẹp, ở trong cái tôi chủ thể của người
nhìn ngắm.

TÌNH YÊU
187( “Anh bạn tôi đã không trở về sau trận chiến đấu, thưa ngài. Hãy cho phép tôi ra và
kiếm anh ta.

“ Không được,” viên sĩ quan trả lời, “Tôi không muốn anh bỏ mạng vì một người có lẽ đã chết
rồi.”

Thế nhưng người lính ấy vẫn ra đi. Một giờ sau, anh trở về, bị thương nặng, nhưng vẫn
mang về được thi hài của bạn anh.

Viên sĩ quan đùng đùng nổi giận: “Tôi đã bảo anh ta chết rồi. Bây giờ, tôi sắp mất cả anh
nữa. Anh thấy có đáng phải đi ra ngoài đó để lôi một xác chết về đây không?”

Người lính đang hấp hối trả lời: “Ồ, đáng chứ, thưa ngài. Lúc tôi tìm thấy anh ấy, anh ấy
vẫn còn sống. Và anh ấy nói với tôi: ‘Jack, mình biết chắc thế nào cậu cũng tới.’”

188( Một bé gái đang hấp hối vì cùng một cơn bệnh mà trước đó ít lâu đứa anh trai tám
tuổi của nó đã hồi phục được.

Bác sĩ nói với cậu bé: “Chỉ có thể cứu sống được em gái cháu bằng cách truyền máu của cháu
cho em. Cháu có sẵn sàng hiến máu không?”

Cậu bé trố mắt sợ hãi. Cậu ngần ngừ một lát, rồi cuối cùng gật đầu: “Được, thưa bác sĩ.
Cháu sẽ hiến máu.”

Một giờ sau, việc truyền máu được hoàn tất. Cậu bé bồn chồn hỏi: “Bác sĩ ơi, khi nào thì
cháu chết?” Bấy giờ bác sĩ mới hiểu cái khoảnh khắc sợ hãi đã xâm chiếm cậu bé khi nãy: Cậu
bé nghĩ rằng nếu cậu hiến máu cho em, thì cậu sẽ chết thay cho em.”

189( Một môn đệ rất muốn từ bỏ mọi sự, nhưng anh ta nói rằng gia đình anh quá yêu
thương anh nên không thể cho anh ra đi được.

“Yêu thương à?” Vị Guru  của anh ta nói, “Đó không phải là yêu thương chút nào cả đâu.”

Rồi vị Guru  tiết lộ một bí quyết yoga trong đó người môn đệ này có thể đóng vai một
người chết. Ngày hôm sau, anh ta chết như thật, gia đình anh than khóc thảm thiết.

Vị Guru  xuất hiện và nói với mọi người rằng ông có khả năng cứu người xấu số này
sống lại nếu có ai đó chết thay vào chỗ của anh. Có ai tình nguyện không?

Thật là khá bất ngờ cho ‘người chết’: mọi người trong gia đình bắt đầu viện dẫn các lý do
giải thích tại sao họ cần phải sống tiếp. Vợ anh ta đúc kết cảm nghĩ của mọi người như sau:
“Thưa ngài, thực sự không cần phải có ai thay vào chỗ anh ấy. Chúng tôi có thể sống mà không
có anh ấy.”

190( Ba người lớn đang uống cà phê sáng trong bếp trong khi lũ trẻ chơi trên nền nhà.
Cuộc chuyện gẫu lái sang chủ đề: Mỗi người trong họ sẽ làm gì nếu có mối nguy hiểm lớn đe
dọa. Mỗi người trong họ đều trả lời rằng trong trường hợp ấy, việc họ làm trước nhất sẽ là cứu lũ
trẻ.

Bất thình lình, chiếc van an toàn của nồi áp suất bung ra, gây một tiếng nổ bốc đầy hơi trong
phòng. Nhanh như chớp, mọi người phóng ào ra khỏi bếp - ngoại trừ lũ trẻ vẫn còn chơi trên sàn
nhà.

191( Tại đám tang của một ông trọc phú, người ta thấy một người lạ mặt khóc lóc nức nở
như bao thân nhân khác.

Vị linh mục chủ sự nghi lễ bước tới chỗ người ấy và hỏi: “Anh là một người bà con của
người quá cố, phải không?”

“Không ạ.”

“Vậy tại sao anh khóc?”

“Sao lại không thể khóc được?”

Mọi nỗi xót xa – dù trong trường hợp nào – chung quy cũng chỉ là xót xa cho chính mình.

192( Một nhà máy đang bị hoả hoạn. Ông chủ (tuổi khá cao) đứng khóc sướt mướt vì tiếc
của.

“Bố à, sao bố khóc?” - Người con trai của ông hỏi - “Bố không nhớ là mình đã bán nhà
máy này cách đây bốn ngày rồi sao?”

Ngay lập tức, người cha nín khóc.

193( Một nữ nhân viên bán hàng bán một chiếc quần tây màu sắc sặc sỡ cho một chàng
trai trẻ. Anh ta trông có vẻ rất tâm đắc  với món hàng mình mua.

Ngày hôm sau, chàng trai trở lại. Anh nói rằng anh muốn trả lại chiếc quần. Lý do: “Cô bạn gái
của tôi không thích nó.”

Một tuần sau, chàng trai trở lại lần nữa. Anh sung sướng hỏi mua lại cái quần ấy.

“Cô bạn gái của anh đã đổi ý phải không?” Người bán hàng hỏi.

“Ồ không” - Chàng trai trả lời - “Tôi mới đổi bạn gái.”

 
194( MẸ:   “Bạn gái của con thích điều gì nơi con?”

CON TRAI:   “Cô ấy nghĩ con đẹp trai, có tài năng, thông minh và khiêu vũ tuyệt vời.”

MẸ:   “Còn con, con thích điều gì nơi bạn gái của con?”

CON TRAI:   “Cô ấy nghĩ con đẹp trai, có tài năng, thông minh và khiêu vũ tuyệt vời.”

195( Hai người phụ nữ gặp nhau sau nhiều năm.

“Này, chuyện gì đã xảy ra với con trai của chị vậy?” Một người hỏi.

“Ôi, chẳng ra làm sao cả!” - Người phụ nữ kia thở dài - “Nó gặp một cuộc hôn nhân thật
đáng buồn. Vợ nó chẳng làm một công việc gì trong nhà: không nấu nướng, không may vá,
không giặt giũ áo quần, không lau chùi nhà cửa...! Cô ta chỉ nằm đọc báo, ngủ, và đi chơi rong
thôi. Chị biết không, thậm chí chồng phải mang bữa điểm tâm đến tận giường cho vợ nữa đó!”

“Thật tệ nhỉ! Còn con gái của chị thì sao?”

“Ơ, con bé tốt số hơn thằng anh trai của nó nhiều lắm. Con bé gặp một anh chồng hiền
như thiên thần vậy đó. Chồng nó không cho nó làm bất cứ chuyện gì trong nhà. Mọi công việc
đều có gia nhân lo tất: nấu nướng, may vá, giặt giũ, lau chùi... Và, chị biết không, sáng nào thằng
chồng của nó cũng mang bữa điểm tâm tới tận giường cho nó đấy! Con bé muốn ngủ bao lâu tùy
thích, thời gian còn lại trong ngày thì con bé nằm đọc sách báo hoặc thư giãn.”  

196( “Anh có nghĩ rằng anh có thể trao cho con gái tôi những gì nó muốn không?” Ông bố
cô gái hỏi chàng trai cầu hôn.

“Dạ, chắc chắn là tôi có thể, thưa ông. Vì cô ấy nói rằng tất cả những gì cô ấy cần chính là tôi!”

Nếu cô ta chỉ cần tiền, bạn sẽ không nghĩ đó là tình yêu.

Vậy, nếu cô ta chỉ cần bạn, sao bạn lại bảo đó là tình yêu? 

197( Robert, một cậu trai 14 tuổi, phải lòng một cô gái cùng tuổi ở hàng xóm. Cậu bán hết
mọi thứ mình có và thậm chí nhận làm những công việc vất vả để kiếm đủ tiền mua cho người
yêu chiếc đồng hồ đắt tiền mà cô ấy thích. Bố mẹ của Robert rất ngạc nhiên, nhưng họ quyết
định sẽ không nói gì.

Cuối cùng, Robert ôm tiền đi mua đồng hồ.

Robert trở về từ chuyến đi mua hàng, nhưng tiền trong túi vẫn còn nguyên! Cậu giải
thích với bạn bè: “Mình đưa cô ấy đến cửa hàng. Cô ấy bảo cô ấy không thích chiếc đồng hồ đó
nữa. Cô ấy thích những món khác cơ – một cái lắc, một sợi dây chuyền, một nhẫn vàng…
“Trong khi cô ấy đi loanh quanh, ngắm nghía các món hàng trưng bày để lựa chọn, mình
nhớ lại lời cô giáo chúng ta dạy rằng trước khi mua một món gì ta phải tự hỏi mình mua nó để
làm gì. Lập tức mình nhận ra rằng mình không thực sự muốn cô ấy. Thế là mình bước ra khỏi
cửa hàng và bỏ đi một mạch.”

198( Một cậu bé buồn tê tái khi nhận ra con rùa yêu quí của mình nằm ngửa chổng chân
lên trời bên cạnh bể nước, hoàn toàn bất động.

Ông bố cố an ủi con trai: “Con đừng khóc! Chúng ta sẽ tổ chức một đám tang tuyệt vời cho bạn
rùa của con. Chúng ta sẽ làm một cỗ quan tài nho nhỏ, viền những đừơng chỉ bạc óng ánh.
Chúng ta sẽ cho làm một tấm bia mộ có khắc tên bạn rùa trên đó. Rồi chúng ta sẽ đem hoa tới
đặt bên mộ mỗi ngày. Chúng ta cũng sẽ dựng một hàng rào xinh xinh quanh mộ nữa.”

Cậu bé chợt nín khóc và thú vị lao vào dự án mới này. Khi mọi thứ đã sẵn sàng, đoàn
rước đám tang được sắp xếp: bố, mẹ, chị giúp việc, cuối cùng là cậu bé – chủ tang. Đoàn rước
bắt đầu trịnh trọng tiến về phía bể nươc để đưa xác con rùa đi chôn. Nhưng xác rùa đã biến mất!

Bất ngờ, họ phát hiện ra bạn rùa đang trồi lên từ đáy nước, bơi lội rất vui vẻ. Cậu bé nhìn
mọi người, vô cùng thất vọng, rồi nói: “Chúng ta hãy giết chết nó!”

Tôi thực sự không quan tâm tới bạn. Tôi chỉ quan tâm tới niềm sung sướng mà tôi nhận được từ
việc yêu thương bạn.

199( Để tìm kiếm giác ngộ, ni cô nọ làm một tượng Phật bằng gỗ mạ vàng lấp lánh. Tượng
Phật trông rất dễ thương, đi đâu ni cô cũng mang theo với mình.

Nhiều năm trôi qua, vẫn mang bức tượng theo, ni cô định cư trong một ngôi chùa nhỏ – nơi có
rất nhiều tượng Phật khác, mỗi tượng đều có bàn thờ riêng.

Ni cô bắt đầu thắp nhang trước tượng Phật vàng của mình – nhưng đột nhiên nhận ra
rằng một số khói nhang của mình cũng bay lảng vảng sang các tượng kia nữa.

Thế là ni cô làm một cái phễu bằng giấy để gom khói nhang cho Đức Phật của mình mà
thôi. Kết quả là: Khói chui qua phễu, dồn lên mũi tượng Phật vàng, ám lại đó, làm cho tượng
Phật thành đen thui, trông phát khiếp!

200( Friedrich Wilhelm cai trị nước Phổ vào đầu thế kỷ 18. Ông có tính khí rất nóng nảy và
không thích lễ nghi rườm rà. Ông thường đi bộ một mình loanh quanh Berlin, và nếu có ai tình cờ
gây bực bội cho ông – dĩ nhiên điều này rất hiếm khi xảy ra – ông sẽ không ngần ngại vung gậy
đập lên đầu kẻ không may đó.

Vì thế, khi trông thấy bóng ông từ đằng xa, người ta lặng lẽ tự động tìm chỗ tránh đi. Một hôm,
Friedrich đang đi dọc một đừơng phố Berlin, anh chàng nọ trông thấy bóng ông – nhưng đã quá
trễ, anh chưa kịp chạy tránh vào ngôi nhà gần đó thì đã nghe Friedrich hỏi sang sảng:
“Tên kia! Ngươi chạy đi đâu vậy?”

Anh ta run lập cập, nói: “Chạy vào trong nhà này, thưa ngài.”

“Nhà của ngươi đấy à?”

“Dạ không, thưa ngài.”

“Nhà của bạn ngươi?”

“Dạ không, thưa ngài.”

“Vậy tại sao ngươi chạy vào đó?”

Người đàn ông bắt đầu lo sợ rằng mình sẽ bị qui tội trộm cắp. Vì thế, anh đánh liều, nói
toạc sự thật: “Dạ, để tránh ngài, thưa ngài.”

“Tại sao ngươi muốn tránh ta?”

“Dạ, vì  con sợ ngài, thưa ngài.”

Tới đây, Friedrich phừng phừng nổi giận. Ông túm đôi vai anh chàng tội nghiệp ấy, ghì
lấy một cách dữ dằn, quát: “Tại sao ngươi dám sợ ta, hử? Ta là vua cai trị ngươi. Ngươi phải yêu
mến ta. Phải yêu mến ta. Ngươi hiểu chưa?”

201( Một phụ nữ béo phì sấn vào văn phòng hộ tịch, đóng sập cửa lại phía sau bà.

“Có phải ông đã cấp giấy này cho tôi cưới Jacob Jacobson không?” Bà vừa quát vừa quăng tờ
giấy hôn thú xuống bàn.

Nhân viên hộ tịch cầm tờ hôn thú lên, dí sát mắt vào đọc, rồi nói: “Vâng, thưa bà. Chính
tôi đã cấp giấy này. Nhưng có chuyện gì vậy ạ?”

“Ông ấy chuồn mất rồi” - Người phụ nữ phân bua - “Bây giờ ông tính sao đây?”

202(Sau một cuộc cãi vả dữ dội với vợ mình, anh chàng nọ nói: “Tại sao chúng ta không
thể sống thuận hoà nhỉ? Như hai con chó trong nhà này, chúng có bao giờ cấu xé nhau đâu!”

“Đúng là chúng nó không bao giờ cắn nhau” - Người vợ nói - “Nhưng ông hãy cột chúng lại với
nhau rồi xem điều gì sẽ xảy ra!”

203(Một công chúa Ả Rập quyết định cưới một trong những nô lệ của cô làm chồng. Nhà
vua nói và làm đủ cách để khuyên can con gái, nhưng không thành công. Không một cố vấn nào
của nhà vua có thể nghĩ ra cách nào để giúp ông.
Cuối cùng, một quan tể tướng nổi tiếng khôn ngoan xuất hiện tại triều đình. Sau khi nghe câu
chuyện của nhà vua, viên quan này nói: “Bệ hạ đã được cố vấn một cách sai lầm rồi. Vì nếu bệ
hạ cấm công chúa điều đó, công chúa sẽ oán trách bệ hạ và càng gắn bó hơn với anh chàng nô
lệ kia.”

“Vậy nhà ngươi hãy cho biết ta phải làm gì!”

Quan tể tướng đề xuất một kế hoạch hành động. Nhà vua không tin tưởng lắm vào kế
hoạch này, nhưng cũng quyết định thử xem sao. Ông cho gọi con gái đến và nói: “Ta sẽ kiểm tra
tình yêu của con đối với anh chàng kia. Con sẽ bị giam trong một căn phòng nhỏ với anh ta trong
ba mươi ngày đêm. Nếu sau đó, con vẫn muốn cưới anh ta, ta sẽ hoàn toàn chấp thuận.”

Công chúa vui mừng ôm chầm lấy thân phụ mình và chấp nhận bài kiểm tra nói trên.

Mọi sự đều trôi chảy tốt đẹp trong vài ngày đầu. Nhưng chẳng bao lâu, tất cả trở nên
chán chường. Chỉ sau một tuần, cô trở nên dị ứng với mọi hành vi, cử chỉ, lời nói của chàng – và
ước gì mình có một sự bầu bạn khác. Sau hai tuần, cô chán anh ta đến nỗi cô thường xuyên la
thét và đập vào cánh cửa. Khi cuối cùng được giải phóng khỏi căn phòng, công chúa ôm chầm
lấy nhà vua, rối rít cám ơn cha mình đã cứu mình khỏi người đàn ông mà bây giờ cô không muốn
gặp nữa.

Sống xa nhau, điều đó sẽ làm cho việc sống với nhau dễ dàng hơn. Cần phải có một khoảng
cách, người ta mới có thể quan hệ với nhau.

204(Một cô giáo nhận xét thấy một cậu bé trong lớp mình có vẻ rất căng thẳng và trầm
mặc.

“Em lo lắng chuyện gì vậy?” Cô giáo hỏi.

“Bố mẹ em” - Cậu bé trả lời - “Bố em làm việc suốt ngày để lo cơm ăn áo mặc cho em,
và để có điều kiện cho em đi học tại trường tốt nhất thị xã. Bố em còn phải làm thêm việc ngoài
giờ để có tiền cho em tiếp tục học đại học sau này. Mẹ em thì suốt ngày lo nấu nướng, quét dọn,
giặt ủi, đi chợ … để em khỏi phải lo lắng gì.”

“Thế tại sao em lo?”

“Em sợ rồi bố mẹ có thể bỏ em.”

205(Một giảng viên giáo lý nói với đám trẻ rằng cô sẽ viết tên các em lên bảng đen. Sau tên
của mỗi em, cô sẽ viết cái mà em đó biết ơn nhiều nhất.

Một cậu bé suy nghĩ rất lung khi thấy tên của mình được viết trên bảng. Khi được hỏi em
muốn viết gì đằng sau tên mình, em trả lời: “Mẹ.”

Cô giáo viết “Mẹ” sau tên cậu bé, rồi tiếp tục ghi tên một em khác. Bỗng dưng, cậu bé khi
nãy giơ tay lên một cách dứt khoát, xin có ý kiến. 
“Gì thế?” Cô giáo hỏi.

“Xin cô xóa chữ ‘Mẹ’, và thay bằng chữ ‘Chó’ ạ!”

Tại sao không?

206(Người cha nọ hứa sẽ cho đứa con gái 12 tuổi của mình một số tiền nếu cô bé xén
sạch đám cỏ trước nhà.

Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra, bắt đầu làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã được cắt xén gọn
gàng. Vâng, cả đám cỏ – ngoại trừ một mảng nhỏ còn sót trong góc.

Ông bố nói rằng ông không thể trả số tiền đã thỏa thuận – bởi vì đám cỏ chưa được cắt
xong trọn vẹn. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô nhất định không cắt nốt
mảng cỏ còn sót kia.

Hết sức tò mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ miếng cỏ bị chừa lại. Thì ra, ở
giữa chòm cỏ ấy, một con cóc đang ung dung ngồi! Cô bé quá thương con cóc, đã không đành
đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ ấy.

Ở đâu có tình yêu, ở đó có tình trạng mất trật tự. Trật tự hoàn hảo sẽ biến thế giới này thành một
nghĩa địa.

207(Một đám người xúm chụm xung quanh nhà diễn thuyết ở một góc đừơng.

“Cách mạng thành công,” nhà diễn thuyết nói, “mọi người sẽ lái những chiếc xe limousine bóng
lộn chạy khắp nơi. Cách mạng thành công, ai cũng có một điện thoại trong nhà bếp. Cách mạng
thành công, ai cũng làm chủ một miếng đất của riêng mình.”

Một giọng nói phản kháng nổi lên từ đám thính giả: “Tôi không cần sở hữu một chiếc
limousine bóng lộn hay một miếng đất hay một máy điện thoại trong nhà bếp.”

“Cách mạng thành công” - diễn giả đáp - “ông được bảo sao thì sẽ nên y như vậy cho
ông.” 

Nếu bạn muốn có một thế giới hoàn hảo, bạn phải thanh toán hết con người.

208(Một hôm, Abraham mời một người ăn xin đến lều mình dùng bữa. Sau nghi thức cầu
nguyện trước bữa ăn, người ăn xin bắt đầu nguyền rủa Thiên Chúa thậm tệ; anh ta tuyên bố
rằng thậm chí anh ta không thể chịu nổi khi nghe nhắc đến Danh Chúa.
Quá tức giận, Abraham tống cổ kẻ phạm thượng ấy đi.

Đến tối, khi Abraham đang cầu nguyện, Thiên Chúa nói với ông: “Anh chàng ấy đã
nguyền rủa và sỉ vả Ta suốt 50 năm nay, nhưng ngày nào Ta cũng ban cho anh ta lương thực để
ăn. Tại sao ngươi không thể chịu đựng nổi anh ta trong chỉ một bữa mà thôi?”

209(Có dư luận rằng Chúa thường hiện ra với một bà già trong làng nọ. Vị linh mục địa
phương đòi hỏi chứng cứ về việc đó.

“Khi Chúa hiện ra với bà lần tới” - linh mục bảo - “bà hãy yêu cầu Ngài kể ra các tội lỗi của tôi – vì
chuyện ấy chỉ có Ngài mới biết.”

Một tháng sau, bà già trở lại. Linh mục hỏi bà có còn được Thiên Chúa hiện ra nữa
không. Bà nói vẫn còn.

“Bà có hỏi Ngài câu hỏi kia không?”

“Dạ có, thưa cha.”

“Chúa trả lời thế nào?”

“Dạ, Chúa bảo: ‘Con hãy nói với cha sở rằng Ta đã quên hết mọi tội lỗi của ông ấy.’” 

Người ta quên hết mọi điều tệ hại mà bạn đã làm, chỉ có bạn là còn nhớ chúng. Rất có thể như
thế không?

210(Lần kia, một số bô lão có mặt ở Scete cùng với tu viện trưởng John Lùn.

Khi họ đang ăn tối, một linh mục niên trưởng đứng lên và bắt đầu phục vụ họ. Không ai trong họ
dám nhận sự phục vụ của ngài, ngoại trừ John Lùn.

Những người kia rất ngạc nhiên về điều đó, về sau họ hỏi chính John Lùn: “Cha tự nghĩ
về cha thế nào mà cha có thể cho mình xứng đáng nhận sự phục vụ của con người thánh thiện
ấy.”   

Cha John Lùn trả lời: “À, khi tôi mời ai một ly nước, tôi rất vui mừng nếu họ nhận ly nước
ấy. Quí vị muốn tôi làm buồn lòng ngài bằng cách tước khỏi ngài niềm vui của việc trao ban cho
tôi một cái gì đó sao?”

211(Một bé gái 8 tuổi dùng số tiền quà của em để mua cho mẹ một món quà. Mẹ em rất vui
và cảm động – vì một người mẹ và  nội trợ thường phải làm rất nhiều công việc nhưng công lao
của họ rất ít được truy nhận.
Dường như bé gái hiểu được điều này, nó nói với mẹ: “Con mua quà cho mẹ, vì mẹ làm việc rất
vất vả, và vì không ai quan tâm tới sự vất vả của mẹ.”

“Bố con cũng làm việc vất vả đấy chứ, con yêu!”

“Vâng,” Bé gái nói, “Nhưng bố không làm to chuyện ấy ra.”

212(Một khách hành hương cao niên đang đi về phía dãy núi Hymalayas giữa tiết trời đông
lạnh buốt xương. Mưa bắt đầu rơi.

Một chủ quán trọ nói với người lữ khách: “Làm sao bác có thể đến được đó trong thời tiết như
thế này, hở bác?”

Khách hành hương trảlời: “Trái tim của tôi đến đó trước, vì thế không khó khăn lắm để
phần còn lại của tôi bước theo sau.”

213(Giêrêmia yêu một phụ nữ cao hơn anh rất nhiều. Tối nào anh cũng đưa người yêu
mình từ sở về nhà – và tối nào anh cũng rạo rực muốn hôn người yêu, nhưng lại rụt rè không
dám xin.

Một lần, anh vận dụng hết can đảm, nói: “Em cho phép anh hôn em nhé!” Cô gái không phản đối.
Nhưng vì Giêrêmia quá thấp bé, nên hai người nhìn quanh tìm một cái gì đó kê cho anh đứng đủ
cao. Họ phát hiện gần đó có một xưởng thợ rèn, có một chiếc đe vừa vặn cho Giêrêmia đứng
lên…

Sau khi đi được thêm khoảng nửa dặm, Giêrêmia nói: “Cho anh hôn một cái nữa nhé,
em yêu!”

“Không được.“ Cô gái trả lời, “Em đã cho anh hôn khi nãy rồi. Tối nay như vậy là quá đủ.”

Giêrêmia nói: “Thế tại sao anh vác theo chiếc đe nặng trịch này mà em vẫn im lặng
không nói gì?”

Tình yêu vác một gánh nặng và không cảm thấy đó là một gánh nặng.

214(Al-Mamun, một Caliph ở Baghdad, có một con ngựa Ả-rập rất xinh. Một người bộ tộc
tên là Omah rất muốn mua con ngựa ấy. Ông ta đề nghị đổi nhiều lạc đà để lấy chỉ một con ngựa
ấy thôi; nhưng Al-Mamun vẫn từ chối, vì ông không muốn mất con vật yêu quí của mình. Omah
tức giận và quyết định dùng mánh lới để chiếm lấy con ngựa.

Biết Al-Mamun sắp sửa cuỡi ngựa đi qua một con đừơng, Omah nằm bên vệ đừơng, giả trang
thành một người ăn mày đang ốm nặng. Là một người tốt bụng, Al-Mamun động lòng thương
người ăn mày, ông xuống ngựa, đề nghị đưa người ăn mày đến một quán trọ.
“Ôi!” người ăn mày kêu lên, “Mấy ngày nay tôi chưa có gì lót bụng, tôi không đủ sức để
leo lên ngựa, thưa ngài.” Thế là Al-Mamun cúi xuống bế xốc anh ta, đặt lên lưng ngựa. Al-
Mamun chưa kịp  leo lên thì, thật bất ngờ cho ông, kẻ ăn mày giả trang ấy đã phóng ngựa vù đi.
Al-Mamun chạy theo, la ơi ới trong vô vọng … Sau khi Omah chạy được một khoảng cách đủ an
toàn, hắn dừng ngựa và quay nhìn lại.

“Ông đã ăn cắp ngựa của tôi.” Al-Mamun la lớn, “Tôi muốn xin ông chỉ một điều.”

“Điều gì?” Omah hỏi.

“Ông đừng kể cho ai biết bằng cách nào ông đã có được con ngựa ấy.”

“Tại sao?”

“Vì một ngày nào đó, một người thực sự kiệt sức nằm bên vệ đừơng sẽ có thể bị mọi
người lạnh lùng bỏ đi qua chỉ vì người ta đã nghe kể về trò lừa này của ông.”

215(Sắp sửa có mưa đầu mùa, một bà lão đang cặm cụi đào những cái hố trong vườn
mình.

“Bà cụ làm gì thế?” Người láng giềng hỏi.

“Tôi đang trồng những cây xoài.” Bà lão trả lời.

“Bà có hy vọng ăn được những trái xoài từ các cây này không?”

“Không. Tôi sẽ không sống được tới lúc chúng cho quả đâu. Nhưng những người khác
sẽ được ăn quả của chúng. Cả đời mình, tôi đã thưởng thức nhiều quả xoài ngon do kẻ khác
trồng. Đây là một cách để tôi tỏ lòng tri ân họ.”

216(Ngày kia, Diogenes đứng ở một góc đường, cười khanh khách như một người điên.

“Ông cười gì thế?” Một người đi qua hỏi.

“Bạn có thấy cục đá ở giữa đường kia không? Từ lúc tôi đến đây sáng nay, đã có mười
người vấp phải hòn đá ấy – và tất cả họ đều chửi thề. Nhưng không một ai trong họ chịu liệng
cục đá đi cho người khác khỏi vấp.”

217(Vị Guru  hỏi các học trò của mình: “Làm thế nào chúng ta xác định  chính xác khoảnh
khắc đầu tiên của bình minh – khoảnh khắc mà đêm chấm dứt và ngày bắt đầu?” 

Một học trò trả lời: “Đó là khi mà từ một quãng cách xa, ta có thể phân biệt được giữa
một con cừu và một con chó.”

“Không đúng.” -  thầy nói.


“Đó là khi mà ta có thể phân biệt được giữa một cây đào và một vây vả.” – một học trò
khác thưa.

“Cũng không đúng.”- thầy lắc đầu. 

“Vậy đó là khi nào, thưa thầy?” – các học trò nhao nhao hỏi.

Thầy trả lời:

“Đó là khi mà bạn nhìn lên khuôn mặt của bất cứ ai, bạn cũng nhận thấy rõ người đó là
anh em của mình. Bao lâu bạn chưa nhìn thấy được như vậy, bấy lâu bạn vẫn còn chìm trong
bóng đêm.”

218(Một người bạn đến gặp nhà viết tiểu luận lừng danh Charles Lamb và nói: “Tôi muốn
giới thiệu ông So-So cho ông.”

“Không, cám ơn. Tôi không thích con người ấy.” Lamb trả lời.

“Nhưng ông chưa hề biết ông ấy mà!”

“Đúng thế. Đó là lý do tại sao tôi không thích ông ta.”

“Về người ta, thì tôi biết những ai tôi thích.”

“Nghĩa là bạn thích những gì bạn biết à?”

219(Mỗi tuần, Rabbi đều biến mất vào chiều trước ngày Sa-bát – và điều này làm cho cả
cộng đoàn thắc mắc. Họ nghi rằng Rabbi bí mật đi gặp gỡ Đấng Toàn Năng, vì thế họ cử một
thành viên của cộng đoàn theo dõi ông.

Đây là điều mà anh chàng ‘thám tử’ ấy trông thấy: Rabbi giả dạng một nông dân, đến
săn sóc cho một phụ nữ ngoại giáo bị bại liệt. Ông quét dọn và nấu bữa ăn Sa-bát cho người phụ
nữ ấy.

Chàng ‘thám tử’ trở về. Cộng đoàn hỏi: “Rabbi đi đâu vậy? Ông ấy lên trời phải không?”

“Không” - Anh ta đáp - “Ông ấy lên còn cao hơn thế nữa kia.”

220(Khi Bá Tước Mountbatten, viên Toàn Quyền cuối cùng của Anh ở Ấn Độ, tuyên bố
rằng cháu trai của ông, hoàng tử Philip, đính hôn với công chúa Elizabeth, Mahatma Gandhi nói
với ông: “Tôi rất vui mừng được biết cháu họ của ngài sắp sửa kết hôn với nữ hoàng tương lai.
Tôi muốn tặng đôi bạn một món quà cưới, nhưng tôi thật băn khoăn không biết phải tặng gì – vì
tôi chẳng có gì cả!”
“Ông có một cái guồng quay tơ đó.” Bá Tước nói, “Ông có thể dệt cho họ một cái gì đó.”

Nghe theo lời đề nghị ấy, Gandhi dệt một tấm khăn bàn và nhờ Bá Tước Mountbatten
chuyển cho công chúa Elizabeth – kèm với mảnh giấy mang dòng chữ: “Công chúa có thể cất
giữ cái này cùng với những món trang sức dành cho các lễ đại triều.”

...vì tấm khăn bàn ấy được dệt bởi người đã từng nói: “Người Anh phải ra đi như những người
bạn.”

221(Vị Sufi ấy kiếm sống bằng cách bán những thứ lặt vặt đủ mọi loại. Dường như ông ta
không có chút phán xét nào, vì người ta thường trả cho ông những đồng tiền cắc cũ rích, hư
hỏng – ông luôn luôn vui vẻ đón nhận, không một lời phản đối. Đôi khi có người mua ‘quịt’, không
trả tiền cho ông, ông vẫn chẳng một lời thắc mắc.

Đến giờ chết, ông ngước mắt nhìn lên trời và nói: “Lạy Đức Allah! Con đã nhận rất nhiều
đồng cắc tệ hại của người ta, nhưng trong lòng mình, con chưa bao giờ phán xét họ. Con chỉ
nghĩ rằng họ không ý thức điều họ làm. Này đây, bản thân con cũng là một đồng cắc tệ hại. Xin
Ngài đừng phán xét con.”

Ông nghe một tiếng nói trả lời: “Làm sao có thể phán xét một người không bao giờ phán
xét kẻ khác nhỉ?”

Rất nhiều người thực hiện những hành động yêu thương. Rất ít người nghĩ được những ý nghĩ
yêu thương.

222(Cả nhà quây quần quanh bàn cơm tối. Cậu con trai lớn nhất thông báo rằng mình sẽ
kết hôn với cô gái ở bên kia đường.

“Nhưng gia đình cô ta chẳng để lại cho cô ta một xu!” Người cha phản đối.

“Cô ta cũng chẳng dành dụm được xu nào!” Người mẹ phụ họa vào.

“Chị ấy không biết gì về bóng đá!” Đứa em trai nói.

“Con chưa bao giờ thấy cô gái nào có mái tóc tức cười như vậy!” Cô em gái phát biểu.

“Cô ấy chỉ biết có mỗi việc đọc tiểu thuyết!” Người cậu lên tiếng.

“Cô ta ăn mặc chẳng giống ai cả!” Dì nói.

“Nhưng con nhỏ ấy có điểm tốt là không son phấn lòe loẹt!” Bà ngoại nhận xét.

“Đúng vậy.” Cậu con trai lớn bây giờ mới đáp lời mọi người, “Nhưng cô ấy có một ưu
điểm tuyệt vời mà không ai trong chúng ta có thể sánh được.”
“Ưu điểm gì vậy?” Mọi người nhao nhao hỏi.

“Cô ấy không có một gia đình!”

223(Tu viện trưởng Anastasius có một quyển sách bằng giấy da rất đẹp, quyển sách ấy trị
giá 20 đồng. Đó là quyển Thánh Kinh đầy đủ cả Cựu Ước và Tân Ước. Lần nọ, một tu sĩ đến
thăm ngài. Trông thấy quyển sách, anh ta cuỗm đi luôn. Hôm ấy, khi chuẩn bị đọc Thánh Kinh,
Anastasius mới nhận ra rằng quyển sách đã biến mất. Ngài lập tức hiểu rằng kẻ trộm chính là tu
sĩ nọ. Nhưng ngài không truy tìm anh ta gì cả – bởi sợ rằng anh ta có thể phạm thêm tội thề gian.

Anh chàng tu sĩ ấy mang quyển sách lên thành phố để bán. Anh ta đòi giá 18 đồng.
Người mua nói: “Hãy cho tôi xem qua quyển sách để tôi coi nó có đáng giá đó không.”

Thế là người ấy mang quyển sách tới gặp Tu viện trưởng Anastasius và nói: “Thưa cha,
xin cha coi thử quyển sách này có đáng giá 18 đồng không.” Anastasius trả lời: “Ồ, quyển sách
đẹp đấy. Mười tám đồng không mắc đâu!”

Người ấy trở lại gặp tu sĩ kia, trao tiền và nói: “Đây, tôi xin thanh toán tiền sách cho anh.
Tôi đã mang quyển sách tới hỏi ý kiến Cha Anastasius, và ngài bảo rằng quyển sách này đáng
mua 18 đồng.”

Anh chàng tu sĩ choáng váng, hỏi: “Ngài chỉ nói có vậy thôi sao? Ngài có nói gì thêm
không?”

“Không. Ngài chẳng nói gì nữa cả.”

“Thôi, tôi không muốn bán quyển sách này nữa, ông ạ.”

Tu sĩ ấy trở lại gặp Anastasius và khóc lóc van xin ngài nhận lại quyển sách. Nhưng
Anastasius dịu dàng nói: “Ồ không, anh hãy giữ nó đi. Nó là quà tôi tặng anh đó!”

“Nhưng nếu cha không nhận lại quyển sách, lòng con sẽ cắn rứt lắm.”

Kể từ đó, tu sĩ ấy ở lại với Anastasius cho đến suốt đời.

224(Jitoku là một thi sĩ nổi tiếng. Ông quyết định nghiên cứu Thiền. Vì thế ông xin một cái
hẹn với thiền sư Ekkei ở Kyoto. Ông đến gặp thiền sư với đầy ắp kỳ vọng; nhưng vừa khi ông
bước vào nhà, ông lãnh một cú tát nảy lửa. Ông hết sức choáng váng. Trước đây chưa bao giờ
có ai dám đánh ông. Nhưng vì quy định nghiêm ngặt của Thiền là không bao giờ được phép nói
hay làm bất cứ gì nếu không được Thiền Sư yêu cầu, ông đành lặng lẽ bước ra. Ông đến chỗ
của Dokuon, môn đệ ‘ruột’ của Thiền Sư. Ông kể cho Dokuon nghe toàn bộ câu chuyện. Ông
cũng cho biết ý định sẽ thách đấu với Thiền Sư.

“Nhưng thầy rất tử tế với anh kia mà.” Dokuon nói, “Anh hãy tự mình suy ngẫm đi, rồi
anh sẽ hiểu.”
Jitoku đã làm theo lời đề nghị đó. Trong ba ngày và ba đêm, ông đã đạt được một sự khai trí
vượt quá bất cứ gì mà ông có thể tưởng nghĩ. Satori này của ông đã được Thiền Sư Ekkei chuẩn
nhận.

Một lần nữa Jitoku đến gặp Dokuon, cảm ơn môn đệ ấy vì lời khuyên của anh ta: “Nếu
không nhờ anh sáng suốt khuyên nhủ, rất có thể tôi đã không bao giờ có được kinh nghiệm biến
đổi lớn lao này. Còn với thầy, bây giờ tôi mới nhận ra rằng giá chi thầy đã cho tôi một cú tát
mạnh hơn thế.”

225(Muso, một trong những sư phụ danh tiếng nhất thời ấy, đang ở trong một hành trình
cùng với một môn đệ. Họ đi đến một bờ sông và bước lên một chiếc bè. Vừa khi chiếc bè sắp
sửa rời bến, một gã samurai say khướt chạy tới và nhảy lên chiếc bè đã đầy người – suýt làm
chìm cả chiếc bè. Rồi hắn ta đi loạng quạng tứ phía, khiến chiếc bè tròng trành muốn chìm; vì thế
người ta phải năn nỉ hắn ngồi yên.

“Chúng ta  chen chúc ở đây chật chội quá.” Gã samurai nói, sặc mùi rượu. Thình lình,
nhìn thấy Muso, gã la lớn: “Đây rồi! Chúng ta hãy quăng con người thánh thiện này xuống nước!”

“Bình tĩnh đi nào!” Muso nói, “Chúng ta sắp qua tới bờ bên kia rồi.”

“Gì? Ông bảo tôi bình tĩnh hả?” Gã điên tiết la lên, “Này, nếu ông không nhảy xuống, thì
tôi sẽ ném ông xuống ngay bây giờ đây.”

Vẻ điềm tĩnh trên khuôn mặt của thầy trước những lời đe dọa ấy càng làm cho gã
samurai thêm tức tối. Hắn bước tới chỗ Muso và vung tay đấm thẳng vào mặt ông.

Máu chảy ra bê bết. Người môn đệ của Muso – là một người đàn ông lực lưỡng - không
còn nhịn được nữa. Anh ta đứng lên, nói: “Tới nước này, mày không thể sống!”

“Tại sao con quá quan tâm tới một chuyện vặt như vậy?” Muso mỉm cười nói với môn đệ
mình, “Trong những trường hợp như thế này, bản lĩnh của chúng ta được kiểm nghiệm. Con phải
nhớ rằng: Sự nhẫn nhục không chỉ là một ý niệm trừu tượng suông. Rồi Muso ngâm mấy vần thơ
sau:

The beater and the beaten:

mere actors in a play

that is as short-lived as a dream.

226(Bảy người đàn ông khật khùng được mời đến dự lễ hội tại một làng bên cạnh. Vì đã
ngấm hơi men, họ bước khệnh khạng trở về làng mình. Bấy giờ là vào ban đêm và trời bắt đầu
đổ mưa.

Vì thế, họ quyết định trú đêm dưới một bụi tre.

Khi họ thức giấc vào sáng hôm sau, họ than khóc nức nở.
“Có chuyện gì vậy?” Một người đi qua hỏi.

“Tối qua chúng tôi nằm quấn lấy nhau dưới bụi tre này và thiếp ngủ,” một người trong họ
nói, “Sáng nay thức dậy, chúng tôi nhận thấy tay chân chúng tôi đan vào nhau và chúng tôi
không thể biết cái nào là của ai.”

“Thật dễ giải quyết,” người đi đường nói, “Hãy cho tôi một cây kim.”

Cây kim được đâm mạnh vào cái cẳng đầu tiên. Một người trong bọn họ kêu ‘Aù!’
Người khách đi đường nói: “Đây, cái cẳng này là của ông.” Rồi anh ta chích mũi kim vào
một cánh tay; lại một tiếng kêu ‘Á!’ khác. Thế là thêm một cánh tay nhận được chủ. Cứ thế, cuối
cùng tất cả các tay chân được gỡ ra, bảy người đàn ông khật khùng ấy vui vẻ trở về làng –
không thêm một chút kinh nghiệm nào cả!

Khi trái tim bạn hưởng ứng một cách hoàn toàn tự nhiên những niềm vui nỗi buồn của người
khác, đó là lúc bạn đã đánh mất cái tôi của mình và cảm nghiệm được ‘tính nhất thể’với nhân loại
– cuối cùng, tình yêu đã đến.

CHÂN LÝ

227(Chân lý không ở trong khuôn ...

Một người đang ngồi uống trà với bạn mình trong nhà hàng. Anh đăm chiêu nhìn tách trà của
mình, rồi thở dài nói với người bạn: “Ôi, cuộc đời không khác một tách trà.”

Người bạn trầm ngâm một lát, nhìn đăm chiêu tách trà của chính anh ta, rồi lên tiếng hỏi: “Cậu
nói sao? Sao cuộc đời lại giống một tách trà?”

“Biết nói sao đây nhỉ? Tớ đâu phải là một trí thức!”

228(… cũng không bị gói trong các con số …

“Này, anh phạm nhân kia!” - Quan tòa nói -  “Toà xét thấy anh đã phạm tất cả hai mươi ba tội, và
bản án tổng cộng là một trăm bảy mươi lăm năm tù.”

Bị cáo - là một ông già – bật khóc nức nở.

Nét mặt của quan tòa trở nên bớt gay gắt hơn: “Tôi không muốn quá nghiêm khắc. Tôi
biết bản án vừa đưa ra là một bản án rất nặng. Nhưng thực sự anh không phải chịu trọn vẹn bản
án ấy đâu.”

Đôi mắt bị cáo sáng lên tia hy vọng.

“Thật vậy,” quan toà  nói tiếp, “Anh chỉ phải chịu án theo khả năng anh cho phép mà
thôi.”
 

229( Giám mục nọ qui định rằng những người phụ nữ giúp việc nhà cho các linh mục phải
ở tuổi tối thiểu là năm mươi. Trong một chuyến kinh lý địa phận, giám mục sửng sốt khi phát hiện
có một linh mục tự nghĩ rằng ông đang tuân giữ luật đó vì trong nhà ông có hai phụ nữ giúp việc
– mỗi cô 25 tuổi!

230(… chân lý không nằm trong những cái tên …

Đến ngày đặt tên cho đứa con đầu lòng, đôi vợ chồng nọ bắt đầu cãi nhau kịch liệt. Chị muốn đặt
tên đứa bé theo tên ông ngoại của nó. Anh thì muốn đặt theo tên ông nội. Cuối cùng họ phải nhờ
một Rabbi can thiệp để giải quyết sự tranh chấp này.

“Tên của bố anh là gì?” Rabbi hỏi anh chồng.

“Abijah.”

“Còn tên của bố chị?” Rabbi hỏi chị vợ.

“Abijah.”

“Vậy thì có vấn đề gì đâu!” Rabbi ngạc nhiên nói.

“Thưa thầy, thầy biết đó” - người vợ nói - “Bố tôi là một học giả, còn bố anh ấy là một kẻ
ăn cắp ngựa. Làm sao tôi có thể đặt tên con trai mình theo tên của một con người như thế
được?”

Rabbi nhíu trán suy nghĩ – vì đây quả là một vấn đề tế nhị. Ông không muốn dàn xếp kiểu theo
bên này bỏ bên kia. Vì thế cuối cùng, ông nói: “Tôi đề nghị anh chị cứ gọi cháu là Abijah. Rồi chờ
xem thử cháu sẽ trở thành một học giả hay một tên ăn cắp ngựa. Lúc ấy anh chị sẽ biết rõ cái
tên ‘Abijah’ đó là của ông ngoại hay của ông nội.”

231(… chân lý không ở trong các biểu tượng …

“Nghe nói cậu bán chiếc xe đạp rồi à?”

“Ừ.”

“Được bao nhiêu tiền?”

“Ba chục đô.”

“Được giá đấy chứ!”

“Ờ, nhưng nếu tôi biết trước được rằng thằng cha ấy không trả tiền cho tôi, thì tôi đã đòi
giá gấp đôi như thế kia!”
 

232(… hay trong các lý thuyết …

Giám đốc vừa mới trở về từ khoá hội thảo chuyên đề Thúc Đẩy Sản Xuất. Ông gọi một nhân viên
vào văn phòng và nói: “Từ này về sau, anh được phép vạch kế hoạch và kiểm soát công việc của
mình. Tôi tin rằng điều đó sẽ gia tăng sức sản xuất rất đáng kể.”

“Tôi sẽ được trả lương cao hơn chứ, thưa ông?” Người công nhân hỏi.

“Không, không! Tiền bạc không phải là một lực đẩy. Việc lên lương sẽ không đem lại cho
anh sự thoả mãn đâu.”

“Nhưng nếu năng suất gia tăng, tôi sẽ nhận được thù lao nhiều hơn chứ?”

“Ôi!” - giám đốc nói - “Rõ ràng anh không hiểu gì về lý thuyết thúc đẩy. Hãy mang quyển
sách này về nhà và đọc đi. Nó sẽ cho anh biết cái gì mới thực sự là lực thúc đẩy của anh.”

Khi anh nhân viên bước ra cửa, anh ngoái lại và hỏi: “Nếu tôi đọc quyển sách này, tôi sẽ
được chi trả thêm chứ, thưa ông?”

233(Đôi vợ chồng nọ lúng túng không biết phải làm gì với chứng ghen nơi đứa con trai ba
tuổi của họ đối với đứa em bé mới sinh của nó. Rồi họ nhận được tia sáng từ một quyển sách về
tâm lý trẻ em.

Một hôm, thấy thằng bé quạu quọ, người mẹ nói: “Đây là con gấu nhồi bông của con nè. Con
cầm lấy đi và hãy nựng nó như nựng em bé của con vậy!”

Cứ chiếu lý thuyết trong quyển sách thì thằng bé sẽ ôm chầm lấy và nựng con gấu nhồi
bông. Nhưng sự việc xảy ra lại khác hẳn: Thằng bé lấy chân kẹp con gấu, rồi với vẻ mặt đắc chí,
nó đi lại chỗ em bé, vung tay đập con gấu lên đầu em bé!

234(… chân lý không được gói trong ngôn từ …

Người hàng xóm của Mullah Nasruddin nói: “Tôi ao ước được học linh đạo. Xin ngài vui lòng đến
nhà tôi và nói cho tôi nghe về linh đạo.”

Nasruddin không sẵn lòng - vì nhận thấy rằng dù người đàn ông này có trí thông minh
không tệ nhưng ông ta lại ảo tưởng rằng khoa thần bí là một cái gì có thể được truyền đạt bằng
ngôn từ trên môi miệng.

Vài ngày sau, người hàng xóm gọi Nasruddin từ trên mái nhà của ông ta: “Mullah ơi, xin
giúp tôi thổi bếp lửa này. Đống than sắp tắt mất rồi!”

“Ừ, ừ. Được chứ” - Nasruddin nói - “Ông có toàn quyền sử dụng hơi thở của tôi. Hãy
sang nhà tôi và lấy bao nhiêu tuỳ thích.”

 
235(Một nhạc trưởng đang tổng dợt với ban nhạc của mình. Ông nói với nhạc công chơi
trumpet: “Tôi nghĩ chỗ này cần có sắc thái Wagner hơn – nghĩa là, có tính dứt khoát hơn, nói
cách khác, có sự nhấn mạnh hơn, với làn hơi sâu hơn,…”

Người nhạc công trumpet ngắt lời vị nhạc trưởng: “Có phải ông muốn tôi thổi chỗ này lớn
hơn không, thưa ông?”

Người nhạc trưởng ấy không thể trả lời cách nào hơn là: “Đúng, đúng vậy. Đó là điều tôi
muốn nói.”

236(… cũng không ở trong những khẩu hiệu…

Một tổ chức tôn giáo nọ thường sử dụng một khách sạn cho các cuộc hội nghị của họ. Trên các
bức tường ở lobby của khách sạn đó, có câu khẩu hiệu: KHÔNG CÓ VẤN ĐỀ, CHỈ CÓ CƠ HỘI
THÔI.

Một người đàn ông đến bàn tiếp tân của khách sạn và nói: “Xin lỗi, tôi có một vấn đề.”

Người nhân viên tiếp tân mỉm cười đáp: “Chúng ta không có vấn đề, thưa ông. Chỉ có cơ
hội thôi.”

“Cô muốn gọi sao tuỳ cô” - người đàn ông nổi cáu - “Có một phụ nữ trong phòng mà tôi
đã đăng ký.”

237(… chân lý không phải là các nhãn hiệu…

Một anh chàng người Anh nhập cư Hoa Kỳ và trở thành công dân Mỹ.

Khi anh ta trở về Anh trong một chuyến nghỉ hè, một ngưòi bà con nói xách mé về
chuyện anh thay đổi quốc tịch:

“Ông kiếm chác được những gì khi trở thành một công dân Mỹ?”

“Ồ, ít nhất cũng được một chuyện: Tôi chiến thắng trong cuộc Cách Mạng Mỹ.”

238(… chân lý không nằm trong những qui ước …

Khi đừơng biên giới giữa Nga và Phần Lan được xác định lại, một nông dân được cho biết biên
giới sẽ chạy ngang qua ngay giữa khu đất của anh ta. Vì thế anh ta có thể chọn lựa hoặc ở bên
Nga hoặc ở bên Phần Lan. Anh hứa sẽ suy nghĩ nghiêm túc rồi quyết định sau. Vài tuần sau đó,
anh tuyên bố rằng anh muốn sống bên Phần Lan. Một sĩ quan Nga đến gặp anh, giải thích cho
anh những thuận lợi của việc nhập qua nước Nga.

Nghe xong lời giải thích, người nông dân nói: “Tôi hoàn toàn đồng ý với những gì ông
nói. Thật vậy, từ trước tới nay tôi vẫn luôn luôn ao ước được sống bên đất Mẹ Nga yêu dấu.
Nhưng ở tuổi của tôi, tôi sợ mình không thể sống sót qua một mùa đông nữa của nước Nga, ông
ạ.”

239(… hay trong những sự phân tích…

Anh chàng nọ đang làm luận án tiến sĩ triết. Vợ anh ta chỉ nhận ra được việc học tập nghiêm túc
của chồng khi chị hỏi anh: “Tại sao anh yêu em nhiều đến thế?”

Ngay lập tức, anh đáp: “Khi em nói ‘nhiều đến thế’, em nhằm nói đến điều gì: cường độ,
chiều sâu, tần số, chất lượng hay thời lượng?”

Không ai cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của bông hồng bằng cách tách rời từng cánh của nó
ra.

240(Chân lý cũng thường không được phản ảnh bởi các bảng thống kê…

Nasruddin bị bắt và giải ra tòa. Người ta tố cáo rằng ông dồn thịt ngựa vào trong món gà cốt-lét
mà ông dọn trong nhà hàng của ông.

Trước khi tuyên án, quan toà muốn biết Nasruddin đã pha trộn thịt ngựa với thịt gà theo tỉ
lệ nào. Nasruddin đưa tay thề thốt, nói: “Thưa ngài, tỉ lệ pha trộn là 50-50.”

Phiên toà kết thúc, một người bạn hỏi Nasruddin: “Một cách chính xác, tỉ lệ 50-50 nghĩa
là gì?”

Nasruddin trả lời: “Nghĩa là trộn một con ngựa với một con gà.”

241(Một nhóm gồm 100 thợ xẻ gỗ làm việc trong rừng trong sáu tháng. Họ có hai phụ nữ
săn sóc công việc bếp núc và giặt giũ. Hết thời gian sáu tháng, hai người trong họ đã cưới hai
phụ nữ đó. Tờ báo địa phương đưa tin rằng 2% số thợ xẻ gỗ đã cưới 100% số phụ nữ giúp việc.

242(… chân lý không nằm trong luận lý…

Mười giờ đêm. Gã đàn ông to lớn đang sửa soạn rời quán rượu.

“Sao anh về sớm thế?” Người bồi quán rượu hỏi.

“Vì mụ vợ.”

“Anh sợ vợ đến thế ư? Anh là một con người hay một con chuột vậy?”

“Tôi có thể chắc một điều: Tôi không phải là một con chuột. Vì vợ tôi rất sợ chuột.”
 

243(Bữa nọ, một giáo sư triết học ở Paris tự tuyên bố rằng ông là người vĩ đại nhất trên
thế giới. Và ông chứng minh cho điều ông nói:

“Quốc gia nào tuyệt vời nhất trên thế giới?” Ông hỏi các sinh viên.

“Dĩ nhiên là nước Pháp.” Họ đồng thanh trả lời.

“Thành phố nào lớn nhất ở nước Pháp?”

“Dĩ nhiên là Paris.”

“Và trong cả thành phố Paris này, nơi chốn quan trọng nhất là trường đại học của nó,
phải không? Và chắc không ai phủ nhận phân khoa triết học là phân khoa cao quí nhất của bất
cứ đại học nào, phải không? Vậy, các anh chị hãy cho tôi biết: Ai là khoa trưởng của phân khoa
triết học?”

“Chính là thầy!” Họ hồ hởi la to. 

244(BÁC SĨ: “Cơn đau nhức ở chân của ông là do bởi tuổi già.”

BỆNH NHÂN: “Đừng nói nhảm. Cái chân kia cũng già đúng bằng ấy tuổi vậy!”

245(… cũng không ở trong những ý niệm trừu tượng.

Một môn đệ nói với Thiền Sư Hogen: “Thưa thầy, khi con học với vị sư phụ trước đây, con đã có
được một ý niệm về thiền ..”

“Đó là ý niệm gì thế?” Hogen hỏi.

“Khi con hỏi sư phụ ấy Phật là ai (dĩ nhiên, con hiểu Phật là thực tại), sư phụ ấy trả lời:
‘Ping-ting đi kiếm lửa.’”

“Ồ, đó là một câu trả lời rất hay” - Hogen nói - “Nhưng ta sợ rằng con có thể đã hiểu sai.
Hãy cho ta biết con đã hiểu câu ấy như thế nào.” 

“À “ - môn đệ trả lời - “Ping-ting là thần lửa. Nói ‘thần lửa đi kiếm lửa’ là một điều vô lý
cũng không khác chi con đây – vốn bản chất thực sự là Phật – lại hỏi Phật là ai. Làm thế nào một
kẻ thực sự là Phật (dù kẻ ấy không ý thức điều đó) lại đặt ra một câu hỏi về Phật, phải không?”

“A” - Hogen nói - “Quả đúng như điều ta sợ! Con hoàn toàn không nắm được vấn đề.
Bây giờ, con hãy hỏi ta đi!”

“Thưa thầy, Phật là ai?”

“Ping-ting đi kiếm lửa.” Hogen trả lời.


 

246( Gensha lần kia mời một viên chức toà án đến uống trà. Sau những lời chào hỏi thông
thường, viên chức kia nói: “Tôi không muốn lãng phí cơ hội quí báu được uống trà với ngài.
Nhưng tôi có một thắc mắc không thể không nói ra – xin thầy cho biết tại sao người ta nói: ‘Dù ta
vẫn có nó trong cuộc sống hằng ngày, nhưng ta không thấy nó’?”

Gensha trao cho người khách một miếng bánh ngọt. Rồi tiếp tục rót cho ông tách trà. Sau khi ăn
bánh và uống trà, người khách nhắc lại câu hỏi – vì nghĩ rằng có lẽ khi nãy Thầy chia trí và 
không chú ý đến.

“Vâng, đúng vậy.” Thầy nói, “Tôi cũng vừa mới muốân nói với ông như thế: Ta không
thấy nó, dù ta có nó trong cuộc sống hằng ngày.”

Kẻ biết, không nói; người nói, không biết. Vì thế, những người khôn ngoan thường giữ im lặng.
Người linh lợi thì phát biểu, kẻ ngu đần thì cãi vã.

Chân lý có cách làm thay đổi.

247(Một hành khách bị lạc giữa những boong tàu của một chiếc tàu lớn trên Đại Tây
Dương.

Cuối cùng anh ta gặp một nhân viên phục vụ và xin giúp đỡ để tìm ra cabin của mình.

“Cabin của anh số mấy?” Người nhân viên hỏi.

“Ồ, tôi không thể nhớ. Nhưng tôi có thể nhận ra nó ngay lập tức, vì bên ngoài cửa sổ của
nó có một ngọn hải đăng.”

248(QUAN TOÀ:   “Anh bao nhiêu tuổi?”

BỊ CÁO:   “Dạ, hai mươi hai, thưa ngài.”

QUAN TOÀ:   “Suốt mười năm nay, lần nào anh cũng trả lời với chúng tôi như thế!”

BỊ CÁO:   “Đúng vậy, thưa ngài.”

249(NỮ DIỄN VIÊN GIÀ:   “Tôi thật sự không biết tuổi của tôi. Nó thay đổi từng phút.”

250( Chân lý có thể tương đối.

Một du khách Mỹ lần đầu tiên đi du lịch nước ngoài. Vừa đặt chân đến quốc gia thứ nhất, tại phi
trường, ông đứng trước sự chọn lựa giữa hai lối đi - một lối có bảng đề CÔNG DÂN, còn lối kia:
NGOẠI KIỀU.
Ngay lập tức, ông bước vào lối thứ nhất. Sau đó, khi được cho biết lẽ ra ông phải theo lối
kia, ông cãi: “Nhưng tôi không phải là ngoại kiều, tôi là một người Mỹ!”

251(Tối khuya hôm ấy, khi Oscar Wilde, nhà viết kịch người Anh đến câu lạc bộ của mình
sau khi xem buổi trình diễn ra mắt thật tệ hại một tác phẩm của ông, có người hỏi: “Vở kịch của
ông tối nay thế nào, Ông Oscar?”

“Ồ” - Oscar trả lời - “Vở kịch thì rất đạt, nhưng con số người đến xem thì không đạt.”

252(Chân lý rất cụ thể…

Một tu sĩ nói với Fuketsu: “Tôi nhớ có lần ông nói rằng chân lý có thể được truyền đạt mà không
cần lên tiếng, cũng không cần im lặng. Thật tôi không hiểu. Xin ông giải thích rõ hơn.”

Fuketsu trả lời: “Hôi tôi còn là một chàng trai trẻ ở Nam Trung Hoa, ồ! Chim chóc hót ríu
rít giữa muôn sắc hoa nở rộ mùa xuân!”

Vì thế tôi nghĩ rằng tôi không ý thức.

Vào lúc ấy, tôi sống trong thế giới phi thực, trừu tượng của quá khứ hoặc của tương lai. 

253(… tuy nhiên chân lý không thể được đo lường.

Con ếch nọ sống suốt đời trong một cái giếng. Một hôm, nó ngạc nhiên trông thấy một con ếch
khác xuất hiện bên cạnh nó.

“Đằng ấy từ đâu đến vậy?” Nó hỏi.

“Tớ ở biển đến đây.” Con ếch kia đáp.

“Biển như thế nào? Nó to bằng cái giếng này không?”

Con ếch biển cười sặc sụa: “Biển to lớn đến không gì có thể sánh được, bạn ạ!”

Ếch giếng giả vờ thích thú với điều mà vị khách của mình vừa nói. Nhưng trong thâm
tâm nó nghĩ: “Trong tất cả những tên láo khoét mà mình từng biết trên đời, chắc chắn tên này là
tên láo khoét đệ nhất - và trơ trẽn nhất.”

Làm thế nào nói về biển cho một con ếch dưới giếng – hay nói về thực tại cho một kẻ thuyết lý!

254(Chân lý là một cái gì đó bạn làm.


Các môn đệ của Baal Shem một hôm hỏi ông: “Thưa thầy, chúng con nên phụng sự Thiên Chúa
như thế nào?”

Ông kể với họ câu chuyện sau đây:

Một ông vua có hai người bạn bị bắt quả tang đang phạm tội thuộc khung án tử hình. Dù
rất yêu thương họ, nhà vua cũng không dám tha bổng - vì sợ làm thế sẽ gây gương xấu cho dân
chúng. Vì thế, nhà vua phán quyết như sau: Một sợi dây thừng sẽ được mắc ngang qua một
thung lũng sâu, và từng người trong họ sẽ bước đi qua trên đó. Nếu qua được, họ sẽ trắng án;
còn nếu rơi tõm xuống thung lũng, thì đó chính là án tử hình được thi hành cho họ.

Người thứ nhất đi qua trên sợi dây một cách an toàn.

Người thứ hai còn ở đầu dây bên này, kêu ơi ới người thứ nhất đã qua bên kia: “Này,
ông chỉ cho tôi biết làm sao mà ông đi được như thế!” Người thứ nhất nhìn lại, trả lời: “Tôi cũng
chẳng biết làm sao. Chỉ biết rằng hễ tôi thấy mình muốn đổ về bên này thì tôi nghiêng về bên
kia.”

Bạn không thể học cưỡi xe đạp trong một phòng lớp được!

255(Thằng nhóc hỏi ông thợ điện: “Điện là gì hở bác?”

“Bác cũng chẳng biết, cháu ạ. Nhưng bác có thể làm cho nó cung cấp ánh sáng.”

256(Một anh chàng xin Bayazid nhận mình làm môn đệ.

“Nếu anh tìm kiếm Chân Lý,” Bayazid nói, “anh phải đáp ứng những đòi hỏi và chu toàn
những bổn phận.”

“Đó là những gì, thưa ngài?”

“Anh phải gánh nước, chẻ củi, quét nhà, nấu ăn.”

“Tôi đang tìm kiếm Chân Lý, không phải tìm kiếm việc làm.” Anh ta nói và quay lưng bỏ
đi.

257(Ít lâu sau khi Rabbi Mokshe qua đời, Rabbi Mendel hỏi một trong các môn đệ của
Mokshe: “Thầy của anh coi điều gì là quan trọng nhất?”

Người môn đệ suy nghĩ một lát, rồi nói: “Bất cứ điều gì mà Thầy đang làm trong mỗi khoảnh khắc
hiện tại.”

 
258(Chân Lý được diễn tả tốt nhất bằng thinh lặng …

Bodhidharma được coi là Tổ Sư thứ nhất của Thiền. Ông là người đã đưa Phật giáo từ Ấn Độ
vào Trung Hoa hồi thế kỷ thứ sáu. Khi ông quyết định trở về quê, ông tập hợp các môn đệ Trung
Hoa của ông lại để chỉ định một người thay thế mình. Ông trắc nghiệm khả năng cảm nhận của
họ bằng cách đặt cho mỗi người trong họ câu hỏi: “Chân Lý là gì?”

Dofuku nói: “Chân Lý là cái vượt quá khẳng định và phủ định.” Bodhidharma nhận xét:
“Ngươi mới ở ngoài da của ta.”

Soji thưa: “Chân Lý giống như thị kiến Anand nhìn thấy cõi Phật – chỉ một thoáng thôi,
nhưng đó cũng là mãi mãi.” Bodhidharma nói: “Ngươi vào được thịt ta.”

Doiku phát biểu: “Bốn yếu tố hơi, nước, đất, lửa đều trống không. Chân Lý là ‘không’.”
Bodhidharma trả lời: “Ngươi chạm được xương ta.”

Cuối cùng, Thiền Sư nhìn Eka – môn đệ này cúi đầu, mỉm cười, và thinh lặng.
Bodhidharma tuyên bố: “Ngươi tới được tủy của ta.”

259(Hung-jun, tổ sư Thiền đời thứ năm, chọn Hui-neng trong số năm trăm tu sĩ khác để
làm người thay thế mình. Khi được hỏi tại sao, ông trả lời: “Bốn trăm chín mươi chín người kia tỏ
ra nắm vững về Phật pháp. Chỉ một mình Hui-neng không hiểu gì cả. Anh ta là loại người mà
những tiêu chuẩn thông thường không đo lường được. Vì thế, vai trò kế nhiệm sẽ thuộc về anh
ta.”

260(... và để hiểu được Chân Lý, tâm linh con người phải đạt đến mức thành toàn nhất –
con người phải có một tâm hồn rộng mở ...

Khi New Mexico được sát nhập vào Hoa Kỳ và phiên tòa đầu tiên được mở tại tiểu bang mới
này, chánh án của phiên tòa trước kia từng là một tay cao bồi khét tiếng chiến đấu với người Da
Đỏ.

Ông bước vào ghế, và phiên tòa bắt đầu. Một người đàn ông bị truy tố về tội ăn cắp
ngựa. Bản cáo trạng được đọc; nguyên cáo và các nhân chứng lần lượt phát biểu.

Bấy giờ, người trạng sư bào chữa cho bị cáo đứng lên, nói: “Thưa quí tòa, tôi xin thay
mặt cho thân chủ của tôi để trình bày một số ý kiến.”

Ông chánh án xua tay: “Mời ông ngồi xuống đi. Không cần phải có ý kiến gì cả! Như vậy
hội thẩm dễ làm việc hơn.”

Nếu bạn có một cái đồng hồ, bạn biết được giờ. Nếu bạn có hai cái, bạn sẽ không biết!?

261(...  chân lý đòi bạn phải có một tâm hồn không sợ hãi.
Có một tiếng gõ mạnh trong trái tim người tầm đạo.

“Ai đó?” Anh ta ngạc nhiên hỏi.

“Ta đây, ta là Chân Lý”

“Đừng xí gạt. Chân Lý chỉ nói trong thinh lặng mà thôi.”

Thế là tiếng nói ấy im bặt. Anh ta cảm thấy đỡ căng thẳng hơn.

Có một điều anh ta không biết – đó là chính nhịp đập sợ hãi của trái tim anh ta đã gây ra
tiếng gõ kia.

Chân Lý giải phóng chúng ta hầu như luôn luôn là Chân Lý chúng ta không nghe được.

Vì thế khi chúng ta nói rằng một cái gì đó không đúng, thì tựu trung chúng ta chỉ muốn nói rằng:
“Tôi không thích nó.”

262(Sự minh bạch của chân lý nhiều khi bị lễ nghĩa xã giao làm cho mập mờ đi ...

Nhà xuất bản Trung Quốc nọ trả bản thảo cho một tác giả, kèm theo mảnh giấy sau đây:

“Chúng tôi đã đọc kỹ bản thảo của ngài và chúng tôi vô cùng thích thú. Tuy nhiên, chúng
tôi sợ rằng nếu chúng tôi xuất bản kiệt tác này của ngài, thì rồi chúng tôi sẽ không thể xuất bản
một tác phẩm nào khác nữa, bởi khó lòng có được một tác phẩm đạt tiêu chuẩn ngang bằng với
kiệt tác này. Thưa ngài, chúng tôi không thể hình dung sẽ có được một tác phẩm như thế trong
một trăm năm sắp tới. Vì thế, thật rất tiếc, chúng tôi buộc phải gửi trả lại cho ngài công trình tuyệt
vời này. Chúng tôi van xin ngài tha thứ cho sự thiển cận và sự nhút nhát này của chúng tôi.”

263(... những sắc thái văn hóa cũng có thể làm mập mờ chân lý. 

Một cô gái Mỹ theo học khiêu vũ tại một lớp khiêu vũ truyền thống. Cô gái luôn tỏ ra có
khuynh hướng dẫn dắt người đi cặp với mình. Và cô ta luôn bị phản đối: “Này, ai giữ vai trò dẫn
dắt ở đây vậy, cô hay là tôi?”

Một hôm, người khiêu vũ với cô là một chàng trai Trung Hoa. Vài phút sau khi màn khiêu
vũ bắt đầu, chàng trai nói thầm vào tai cô gái, rất lịch sự: “Trong một bài khiêu vũ, sẽ thuận tiện
hơn rất nhiều nếu người phụ nữ đừng nghĩ gì về hướng di chuyển, phải không?”

264(Chân Lý đôi khi bị sự thành thật che lấp ...

Hai nhân viên chào hàng gặp nhau tại sân ga.
“Chào!”

“Chào!”

Im lặng.

“Ông đi đâu?”

“Calcutta.”

Im lặng.

“Này, khi ông nói ông sắp đi Calcutta, thì tui biết tỏng là ông thực sự đi Bombay. Nhưng
ở đây, tui biết rằng thực sự ông sắp đi Calcutta. Vậy sao ông không nói thật?”

265(... và đôi khi Chân Lý được bộc lộ bởi sự dối trá ...

Một gã say rượu đi loang choạng qua các phố, cuối cùng rơi tõm xuống một hầm chứa
phân. Khi anh ta đang chìm xuống trong thứ chất sền sệt ấy, anh ta la toáng lên: “Cháy, cháy,
cháy!”

Vài người đi qua nghe tiếng la, chạy đến cứu anh ta. Sau khi anh ta được kéo lên, họ hỏi
tại sao anh la “Cháy!” trong khi họ chẳng thấy lửa đâu cả.

Anh trả lời: “Liệu có ai trong các người sẽ chạy đến cứu tôi, nếu như tôi la: ‘Cứt, cứt,
cứt!’ không?” 

266(Một anh lính ở tuyến đầu được đưa gấp về hậu phương để gặp cha anh - vì người cha
này đang hấp hối. Đây là một ưu tiên ngoại lệ, vì ngoài anh ra, cha anh không còn một người
thân nào khác.

Vừa bước vào phòng săn sóc đặc biệt của bệnh viện, anh bỗng nhận ra rằng ông già
nửa mê nửa tỉnh với những dây ống dính chằng chịt trên người kia không phải là cha anh. Nghĩa
là đã có sự nhầm lẫn nào đó khi người ta báo tin cho anh,.

”Bệnh nhân còn sống được bao lâu nữa?” Anh hỏi bác sĩ.

“Chừng vài giờ nữa thôi. Anh về vừa kịp đó!”

Anh nghĩ đến người con trai của ông cụ này – một người lính đang chiến đấu ở mặt trận
nào đó cách đây cả ngàn dặm. Anh nghĩ đến ông cụ đang giằng co từng phút với cái chết, hy
vọng được gặp lại con mình lần cuối trước khi nhắm mắt lìa đời. Lập tức anh có một quyết định.
Anh cúi xuống, nắm bàn tay ông cụ, nhỏ nhẹ nói: “Cha ơi, con đây. Con đã về với cha đây.”

Người hấp hối giữ chặt lấy bàn tay anh lính. Đôi mắt ông cụ mở ra như  muốn cố nhìn kỹ
xung quanh – dù đôi mắt ấy chẳng còn trông thấy gì. Một nụ cười mãn nguyện từ từ nở trên
khuôn mặt ông cụ. Nụ cười vẫn còn đọng lại cho đến khi ông cụ tắt thở khoảng một giờ sau đó.
 

267(... Chân Lý luôn luôn đòi phải dám liều.

Một tai nạn xe hơi xảy ra trong một thị trấn nhỏ. Đám đông vây kín quanh nạn nhân dày
đặc đến nỗi một phóng viên không thể tiếp cận để nhìn xem nạn nhân.

Nảy ra một kế, người phóng viên thét lên: “Tôi là cha của nạn nhân, cho tôi vào đi!”

Những kẻ chen lấn phía trước rục rịch nhường chỗ cho người phóng viên vào. Lách vào
được sát nạn nhân, anh ta mới trố mắt nhận ra: Đó là một con lừa!

Tác giả Lê Công Đức, Lm.

You might also like