Professional Documents
Culture Documents
đề cương ôn tập ngữ văn 8 hk1
đề cương ôn tập ngữ văn 8 hk1
tự sự
Tôi đi học ( In trong tập “Quê mẹ” Văn bản kể về một trang đời gần -Văn bản có sự kết hợp hài hòa
Thanh (1941), một tập văn xuôi gũi mà thiêng liêng, đó là kỉ giữa tự sự-trữ tình-miêu tả
Tinh ) nổi bật nhất của niệm buổi tựu trường đầu tiên -Bố cục chặt chẽ, tự nhiên theo
Thanh Tịnh. với tâm trạng bỡ ngỡ, những dòng hồi tưởng, theo trình tự đan
cảm xúc mới mẻ, những ấn xen giữa hiện tại và quá khứ
tượng không quên về trường lớp, -Ngôn ngữ miêu tả tinh tế, giàu
thầy cô và bạn bè hình ảnh, giàu nhạc điệu và chất thơ
Trong lòng Trích trong tập “Những Đoạn trích cho ta hiểu được tình Kết hợp lời văn kể chuyện với miêu
mẹ(Nguyên ngày thơ ấu” (1938) .Tác cảnh đáng thương, nỗi đau tinh tả, biểu cảm tạo nên những rung
Hồng) phẩm gồm 9 chương, thần của chú bé Hồng. Đồng động trong lòng tác giả. Khắc họa
"Trong lòng mẹ" là thời cảm nhận được nỗi khát hình tượng nhân vật bé Hồng với
chương 5 . khao sự ấm áp của tình mẹ lời nói, hành động, tâm trạng sinh
thiêng liêng cao đẹp của bé động, chân thật
Hồng
Tức nước Nằm trong chương XVIII Vạch trần bộ mặt tàn ác bất nhân -Tạo nên tình huống chuyện có kịch
vở bờ( Ngô của tác phẩm, của xã hội phong kiến đương tính
Tất Tố ) sáng tác năm 1939 thời. Vẻ đẹp tâm hồn của người -Kể chuyện, miêu tả nhân vật sinh
phụ nữ nông dân Việt Nam, vừa động chân thực( ngoại hình, tâm lý,
giàu tình yêu thương vừa có sức ngôn ngữ, hành động,…)
sống tiềm tàng mạnh mẽ.
Lão Sáng tác năm 1943 Thể hiện một cách chân thực, -Dùng ngôi kể thứ nhất.
Hạc( Nam cảm động số phận đau thương -Kết hợp các phương thức biểu đạt
Cao) của người nông dân và phẩm tự sự, trữ tình, lập luận, thể hiện
chất cao quý tiềm tàng của họ. được chiều sâu tâm lí nhân vật với
Tấm lòng yêu thương, trân trọng diễn biến tâm trạng phức tạp, sinh
đối với người nông dân của tác động.
giả. - Sử dụng ngôn ngữ hiệu quả, tạo
được lối kể khách quan, xây dựng
được hình tượng nhân vật có tính cá
thể hoá cao.
Cụ Bơ – men, Xiu và Giôn – xi là những họa sĩ nghèo sống ở trong một khu phố tồi tàn phía Tây Oa -sinh - Tơn.
Mùa Đông lạnh giá Giôn- xi mắc bệnh viêm phổi, cô tin chắc rằng khi chiếc lá thường xuân cuối cùng
rụng xuống cô sẽ lìa đời. Xiu nói điều này với cụ Bơ – men và hai người rất lo lắng. Mặc cho Xiu hết lòng
chăm sóc, Giôn – xi vẫn bướng bỉnh giữ ý nghĩ kì quặc ấy. Nhưng lạ thay, sau một đêm mưa gió dữ dội, ngày sau
nữa, chiếc lá vẫn còn đó. Điều này khiến Giôn- xi thoát khỏi ý nghĩ về cái chết.Xiu cho Giôn- xi biết chiếc lá
cuối cùng là bức tranh do cụ Bơ- men đã bí mật vẽ trong một đêm mưa gió để cứu Giôn- xi, trong khi đó chính
cụ chết vì bị bệnh viêm phổi.
Làng Ku-ku-rêu nằm ven chân núi , một cao nguyên , phía dưới là thung lũng Vàng. Phía trên làng , giữa một
ngọn đồi , hai cây phong to lớn , hai cây phong hùng vĩ như những ngọn hải đăng trên núi , như biểu tượng của
tiếng nói riêng , như tâm hồn riêng của làng .Vào năm học cuối , bọn trẻ chạy ào lên đấy phá tổ chim , leo lên hai
cây phong cao vút để thấy hiện ra trước mắt chúng biết bao vùng đất chưa từng biết và những con sông chưa
từng nghe .Thuở ấy , nhân vât "tôi" chỉ cảm nhận sự gắn bó tuổi thơ mình với hai cây phong , tìm đến nó để tìm
đến âm thanh kì diệu , những kí ức gắn liền suốt tuổi thơ , và " tôi " cũng ko biết vì sao ở đó được gọi là " Trường
Đuy-sen" .Tình cảm yêu mến hai cây phong của “tôi”, của “chúng tôi”, của những người dân làng Ku-ku-rêu
khiến chúng ta trân trọng chính là vì hai cây phong ấy gắn với câu chuyện về một con người cao đẹp, người thầy
giáo không có bằng sư phạm nhưng đã vun trồng bao ước mơ, hi vọng cho những trò nhỏ của mình.
Đôn Ki-hô-te mong muốn trở thành hiệp sĩ nên đã cùng Xan-chô Pan-xa đi phiêu lưu khắp nơi, trừ gian diệt ác.
Trên đường đi hai thầy trò gặp những chiếc cối xay gió.Mặc cho Xan- chô khuyên can, xong Đôn –ki-hô -tê vẫn
cho rằng trước mặt là những tên khổng lồ xấu xa. Đôn –ki –hô –tê một mình một ngựa xông vào chiếc cối xay
gió gần nhất, phóng giáo đâm vào cánh quạt Kết quả Đôn Ki-hô-tê bị thương nhưng ko ren la gì cả. Suốt đường
đi, Xan-chô Pan-xa ăn uống no say, Đôn Ki-hô-tê ko ăn gì . Tối hôm đó, Xan-chô Pan-xa ngủ say còn Đôn Ki-
hô-tê ko ngủ để nghĩ đến tình nương của mình. Sáng hôm sau, 2 thầy trò tiếp tục cuộc hành trình của mình
Cô bé bán diêm sống trong gia đình nghèo khổ, khó khăn, mồ côi mẹ, bà mất sớm, tài sản tiêu tán nên em phải
bán diêm cho người bố rất tàn nhẫn hay đánh em. Vào một ngày cuối năm, không bán được que diêm nào, em
không dám về nhà vì sợ cha đánh. Đêm giao thừa trời giá rét, em ngồi nép vào góc tường giữa hai ngôi nhà. Đêm
càng lạnh giá, em quẹt que diêm để sưởi ấm. Mỗi lần quẹt que diêm cháy sáng là một mộng tưởng đến với cô.
Lần thứ nhất, em thấy lò sưởi; lần thứ hai em thấy bàn ăn và con ngỗng quay; lần thứ ba em thấy cây thông no-en
hiện ra, lần thứ tư bà hiện về em cùng bà chầu trời thượng đế. Buổi sáng đầu năm, người ta thấy một em bé giữa
những bao diêm trong đó có một bao diêm đốt hết nhẵn. Người ta bảo cô bé đã chết nhưng đôi má vẫn ửng hồng
và đôi môi em đang mỉm cười.
Từ vựng Lý thuyết Ví dụ
Cấp độ khái Nghĩa của một từ có thể rộng hơn ( khái quát hơn ) hoặc hẹp hơn (ít khái quát
quát của hơn ) nghĩa của từ ngữ khác
nghĩa từ vựng -Một từ ngữ được coi là có nghĩa hẹp khi phạm vi nghĩa của từ ngữ đó được bao
hàm trong phạm vi nghĩa của một số từ ngữ khác
-Một từ ngữ được coi là có nghĩa rộng khi phạm vi nghĩa của từ đó bao hàm
phạm vi nghĩa của một số từ ngữ khác
- Một từ ngữ có nghĩa rộng với những từ ngữ này, đồng thời có thể có nghĩa hẹp
với từ một từ ngữ khác.
Trường từ Trường từ vựng là tập hợp của những từ có ít nhất một nét chung về nghĩa
vựng
Từ tượng - Từ tượng hình là từ gơị tả hình ảnh, dáng vẻ, trạng thái của sự vật.
hình, từ tượng - Từ tượng thanh là từ mô phỏng âm thanh của tự nhiên, của con người.
thanh - Từ tượng hình, tượng thanh gợi được hình ảnh, âm thanh cụ thể, sinh động, có
giá trị biểu cảm cao; thường được dùng trong văn miêu tả và tự sự.
Từ ngữ địa -Khác với từ ngữ toàn dân, từ ngữ địa phương là từ ngữ chỉ sử dụng ở một (hoặc
phương và biệt một số) địa phương nhất định.
ngữ xã hội - Khác với từ ngữ toàn dân, biệt ngữ xã hội chỉ được dùng trong một tầng lớp xã
hội nhất định
-Việc sử dụng từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội phải phù hợp với tình
huống giao tiếp. Trong thơ văn, tác giả có thể sử dụng một số từ ngữ thuộc hai
lớp từ này để tô đậm màu sắc địa phương, màu sắc tầng lớp xã hội của ngôn
ngữ, tính cách nhân vật.
-Muốn tránh lạm dụng từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội, cần tìm hiểu các từ
ngữ toàn dân có nghĩa tương ứng để sử dụng khi cần thiết
Nói quá -Nói quá là biện pháp tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện
tượng được miêu tả để nhấn mạnh , gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.
Nói giảm nói -Nói giảm nói tránh là biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển,
tránh tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề; tránh thô tục, thiếu lịch sự.