You are on page 1of 77

MỤC LỤC

MỤC LỤC............................................................................................... 1
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
VÀ PHÁT TRIỂN XANH......................................................................4
1.1. Tổng quan về phát triển bền vững...........................................................4
1.1.1. Khái niệm...........................................................................................4
1.1.2.Các mặt của phát triển bền vững.......................................................8
1.1.2.1 Kinh tế......................................................................................8
1.1.2.2. Xã hội....................................................................................11
1.1.2.3 Môi trường.............................................................................12
1.2. Tổng quan về phát triển xanh................................................................13
1.2.2. Định nghĩa.......................................................................................13
1.2.3. Quy mô của phát triển xanh............................................................14
CHƯƠNG II: MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN XANH CỦA SINGAPORE19
2.1 Tổng quan về Singapore..........................................................................19
2.1.1 Vị trí địa lý........................................................................................19
2.1.2 Lịch sử..............................................................................................21
2.1.3 Xã hội................................................................................................23
2.1.4 Kinh tế...............................................................................................24
2.1.4 Môi trường........................................................................................28
2.2 Mô hình phát triển xanh của Singapore................................................29
2.2.1 Thay đổi từ người dân......................................................................30
2.2.2 Xây dựng môi trường pháp lý cho sự phát triển xanh ...................33
2.2.3 Xã hội hoá mô hình phát triển xanh................................................42
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO
VIỆT NAM...........................................................................................47
3.1 Thực trạng của Việt Nam........................................................................47
3.1.1 Tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam......................................47
3.1.2 Chương trình phát triển bền vững của Việt Nam............................56
3.2 Những kinh nghiệm thực tiễn rút ra cho Việt Nam từ mô hình phát
triển xanh của Singapore...............................................................................58
3.2.1Thay đổi nhận thức của người dân...................................................58
3.2.2 Sản xuất chú trọng tới yếu tố môi trường........................................59
3.2.3 Xã hội hóa mô hình phát triển xanh................................................68
3.2.4 Định hướng tiêu dùng.......................................................................69
KẾT LUẬN........................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................74
LỜI NÓI ĐẦU
Trong một thế kỷ vừa qua, nền kinh tế thế giới đã có sự phát triển mạnh mẽ.
Chính trong thế kỷ này, xã hội loài người đã trải qua 2 cuộc cách mạng công
nghiệp và cách mạng công nghệ với nhiều thành tựu đi vào lịch sử. Và cũng nhờ
vậy, trong nhiều lĩnh vực, ở nhiều quốc gia đã có những sự thay đổi kỳ diệu.
Kinh tế thế giới trong thời gian này đã có những chuyển biến từ kinh tế phong
kiến sang kinh tế tư bản ngày nay và đang tiến sâu vào một nền kinh tế tư bản
phiên bản mới, chủ nghĩa tư bản sáng tạo.

Chúng ta không thể phủ nhận những thay đổi của đời sống con người do sự
phát triển kinh tế mang lại. Nhờ có khoa học công nghệ, cuộc sống của chúng ta
ngày nay càng trở nên thoải mái, tiện nghi và hoàn thiện hơn. Nhưng chúng ta
cũng đang phải đứng trước những khó khăn mà muốn phát triển hơn nữa loài
người cần phải dũng cảm vượt qua. Đó là sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu
sắc, đó là sự suy thoái về lối sống, sự suy đồi về đạo đức của một bộ phận nhỏ
những người mới, và đó chính là sự ô nhiễm môi trường ngày càng nặng nề hơn.
Nhưng những khó khăn này ta chỉ đang xét tởi ở tầm quốc gia, chúng ta còn phải
đối mặt với những khó khăn to lớn hơn mà đòi hỏi loài người phải chung tay tìm
ra giải pháp thay đổi. Đó chính là những vấn đề toàn cầu hiện nay: là sự khủng
hoảng, là vấn đề nóng lên của trái đất, ô nhiễm nặng nề gây ra những vấn đề như
thủng tần ozon, hiệu ứng nhà kính…

Những khó khăn trên đòi hỏi nhân loại phải tìm ra một con đường đi mới, con
đường phát triển đảm bảo cho cuộc sống của chúng ta cũng như những thế hệ
sau trong tương lại. Và đó cũng chính là lý do tại sao chúng ta hướng tới một sự
phát triển xanh – một sự phát triển bền vững.

1
Vì tính thực tiễn của vấn đề phát triển bền vững như đã đề cập ở trên, em đã
chọn đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình là:

Mô hình phát triển xanh hướng tới phát triển bền vững của Singapore và bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam

Thông qua đề tài này, em cũng muốn có được một cái nhìn sâu hơn, kiến thức
rộng hơn về “phát triển xanh” cũng như “phát triển bền vững” vì đó là mục đích
phấn đấu của xã hội, của loài người chứ không đơn thuần là một khái niệm được
đưa ra để nghiên cứu. Và cũng thông qua việc tìm hiểu về nước bạn – Singapore
xanh, em cũng sẽ có được những bài học về quá trình phát triển mà nước bạn đã
và đang tiếp tục áp dụng trên con đường đi đến một sự phát triển bền vững. Và
từ đó, em hy vọng mình sẽ góp một phần nhỏ bé vào quá trình giúp nước ta trong
quá trình phát triển.

Với những mục đích trên, đề tài nghiên cứu của em sẽ có kết cấu gồm 3
chương:

Chương I: Tổng quan về phát triển bền vững và phát triển xanh

Chương II: Mô hình phát triển xanh của Singapore

Chương III: Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Để hoàn thành luận văn trên, em đã sử dụng kết hợp các phương pháp kinh tế
như phương pháp logic, phân tích thống kê, phương pháp tổng phân hợp.

Trong quá trình hoàn thành bài báo cáo này, em đã nhận được sự giúp đỡ của
Thạc sĩ Nguyễn Thị Hải Yến – giảng viên bộ môn Kinh tế học, đại học Ngoại
Thương Hà Nội. Do kinh nghiệm thực tế còn thiếu và kiến thức còn hạn chế nên
đề tài của em còn thiếu sót. Em mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô để khóa

2
luận này được hoàn thiện hơn, đạt được kết quả tốt và hơn hết để giúp em nâng
tầm hiểu biết của mình, tạo tiền đề phấn đấu trong tương lại.

Em xin chân thành cảm ơn.

3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
VÀ PHÁT TRIỂN XANH

1.1. Tổng quan về phát triển bền vững

1.1.1. Khái niệm

Trên thế giới, thuật ngữ “phát triển bền vững” được biết đến từ những năm
70 của thể kỷ trước, tuy nhiên vào thời bấy giờ nhân loại vẫn chưa có một hình
dung cụ thể về nội hàm và con đường để đi tới phát triển bền vững. Song khái
niệm này cũng khuấy động các nhà khoa học về kinh tế, xã hội, môi trường….

Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển
về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương
lai. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế
giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa...
riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó.

Đặc biệt trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) năm 1980, nội
dung của phát triển bền vững đã được đưa ra như sau:

“Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà
còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi
trường sinh thái học.”

Khái niệm này đã được phổ biến nhờ báo cáo Brundtland vào năm 1987 của
Ủy ban Môi trường và Phát triển thế giới – WCED (nay là Ủy ban Brundtland).
Theo báo cáo này, phát triển bền vững được hiểu là:

4
“Sự phát triển có thể đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng,
tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.”1

Nói cách khác, phát triển bền vững phải đảm bảo có sự phát triển kinh tế hiệu
quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này,
tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, chính phủ và các tổ chức xã hội phải bắt
tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội –
môi trường.

Trên đây là những khái niệm đầu tiên về phát triển bền vững, tuy nhiên cho
đến nay, các nhà khoa học, trên các lĩnh vực và diễn đàn khác nhau vẫn chưa đưa
ra một định nghĩa nào thống nhất. Dưới đây là một số định nghĩa về phát triển
bền vững tồn tại trên thế giới:

- Hội nghị môi trường toàn cầu Rio de Janerio (6/1992) đưa ra thuyết phát
triển bền vững, nghĩa là sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên, bảo
vệ Môi trường một cách khoa học đồng thời với sự phát triển kinh tế.

- Tác giả David Munro cho rằng: Bền vững không phải là mục tiêu chính
xác mà là một tiêu chuẩn đối với quan điểm và hành động, đó là: “Một quá trình
tiếp diễn, có tính lặp đi, lặp lại, thông qua kinh nghiệm trong việc quản lý các hệ
thống phức hợp, được tích lũy lại, được đánh giá và được vận dụng”

- Stephan Viederman xác định: “Bền vững không phải là vấn đề kỹ thuật cần
giải quyết, mà là một tầm nhìn vào tương lai, đảm bảo cho chúng ta một lộ trình
và giúp tập trung chú ý vào một tập hợp các giá trị và những nguyên tắc mang
tính luân lý và đạo đức để hướng dẫn hành động của chúng ta”

1
Theo wikipedia http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1t_tri%E1%BB%83n_b%E1%BB%81n_v%E1%BB
%AFng

5
Tựu chung lại, mặc dù còn tồn tại nhiều định nghĩa về phát triển bền vững trên
thế giới, nhưng tất cả đều đi tới một sự thống nhất có tính tương đối về khía cạnh
và bản chất của phát triển bền vững. Mỗi mục tiêu phát triển đều có vị trí riêng
của nó, song nó phải gắn với những lợi ích khác để đi tới sự phát triển tối ưu cho
cả nhu cầu hiện tại và tương lại của xã hội loài người.

Khái niệm “Phát triển bền vững” bắt đầu phát triển trên thế giới từ những
năm 70 của thế kỷ trước và được biết đến ở Việt Nam vào khoảng cuối thập niên
80 đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Dù xuất hiện khá muộn ở nước ta, nhưng
khái niệm này đã được nghiên cứu và phát triển khá rộng.

Thuật ngữ này được giới khoa học tiếp thu nhanh, cùng với đó là hàng loạt
những nghiên cứu liên quan mà ta có thể kể tới như: Tiến tới môi trường bền
vững (1995 – Trung tâm tài nguyên và môi trường, Đại học Tổng hợp Hà Nội)
trong đó cho ta thấy tiền trình này đòi hỏi đồng thời trên bốn lĩnh vực: Bền vững
về mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về mặt môi trường và bền
vững về mặt kỹ thuật; Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển bền vững cấp
quốc gia ở Việt Nam – giai đoạn I (2003 – Viện Môi trường và phát triển bên
vững, Hội liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam tiến hành) cùng với sự
tham khảo kinh nghiệm từ các nước Trung Quốc, Anh và Mỹ tác giả đã đưa ra
tiêu chí cụ thể của phát triển bền vững là bền vững về kinh tế, xã hội và môi
trường; Đổi mới chính sách xã hội – Luận cứ và giải pháp (1997 – Phạm Xuân
Nam) Trong công trình này, tác giả làm rõ 5 hệ chỉ báo thể hiện quan điểm phát
triển bền vững: Phát triển xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, phát triển
chính trị, tinh thần, trí tuệ, và cuối cùng là chỉ báo quốc tế về phát triển... Nhìn
chung các công trình nghiên cứu này đều định hướng theo khái niệm phát triển
bền vững của Brundtland và tính thích ứng của các chỉ báo đối với Việt Nam ở

6
cấp độ vùng miền hay các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội vẫn chưa được
chỉ rõ.

Bên cạnh đó, ngay từ những ngày đầu của công cuộc đổi mới, nhằm hướng
tới phát triển, nhà nước ta đã có chủ trương gắn liền phát triển kinh tế với phát
triển xã hội, nhằm hướng tới một sự phát triển dài hạn. Tại đại hội Đảng VI đã
nêu rõ:

Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội
nhưng mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt động kinh tế 2(Văn kiện đại hội
Đảng VI, nhà xuất bản sự thật). Từ đó, chúng ta cũng đưa một khái niệm chung
cho phát triển bền vững:

Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường

Phát triển kinh tế gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo sự hài
hoà giữa môi trường nhân tạo, môi trường thiên nhiên, gìn giữ đa dạng sinh học.3
(Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần XI, tr 162, Nhà xb chính trị quốc gia Hà
Nội).

Có thể thấy rằng, ở Việt Nam khái niệm về phát triển bền vững có xu hướng
đi theo khái niệm của Brundtland, trong đó sự phát triển để hướng tới sự lâu dài
dược thể hiện qua ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. Theo đó, sự phát triển
kinh tế phải gắn liền với lợi ích phát triển của xã hội, nhằm hướng tới những lợi
ích xã hội như: giảm chênh lệch giàu nghèo, tăng lợi ích công cộng, gia tăng chất
lượng cuộc sống. Ngoài ra sự phát triển của kinh tế cũng không thể tách rời với
sự phát triển của những công nghệ mới, những nguyên liệu và năng lượng mới.

2
Văn kiện đại hội Đảng VI, nhà xuất bản Sự thật
3
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tr 162, nxb Chính trị quốc gia

7
Con người phát triển những nguồn năng lượng sạch và dần chuyển sang sử dụng
những nguồn năng lượng có thể tái tạo được như sức gió, năng lượng mặt trời....

1.1.2.Các mặt của phát triển bền vững


Theo khái niệm Phát triển bền vững của Brundtland mà Việt Nam có xu hướng
nghiên cứu theo thì phát triển bền vững được đồng ý có sự tác động trên cả ba
mặt gồm có kinh tế, xã hội và môi trường.

1.1.2.1 Kinh tế

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân
trên đâu người (PCI) trong một thời gian nhất định.

Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó
bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể
chế kinh tế, chất lượng cuộc sống.

Qua hai khái niệm ta có thể thấy được sự khác nhau giữa tăng trưởng kinh tế
và phát triển kinh tế. Nếu như tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về vật chất, số
lượng, tích luỹ và bành trướng thì phát triển - với phạm vi rộng hơn, nó bao hàm
cả tăng trưỏng kinh tế. Cùng với đó, sự phát triển còn quan tâm tới tiềm năng,
phẩm chất, phục vụ con người một cách toàn diện, về vật chất lẫn tinh thần.

Phát triển bền vững về mặt kinh tế nghịch với gia tăng sản xuất không giới
hạn, chinh phục thị trường bằng mọi cách, thương mại hóa bất cứ hàng hóa hoặc
dịch vụ nào, tìm lợi nhuận tối đa trong mọi hoàn cảnh. Phát triển bền vững kinh
tế đòi hỏi phải cân nhắc ảnh hưởng bây giờ hay sau này của hoạt động và tăng
trưởng sản xuất lên chất lượng cuộc sống, cứu xét xem có gì bị hư hại, bị phí
phạm.

8
Theo quan điểm của trường phái phát triển bền vững, thì sinh lực kinh tế của
một xã hội tùy thuộc vào khả năng giải quyết vấn đề giá trị thặng dư bằng cách
sử dụng giá trị thặng dư để trao đổi và bù đắp những thiệt hại do sự phát triển
kinh tế đơn thuần gây ra. Giá trị thặng dư có thể được tạo ra bằng cách nâng cao
năng suất, đổi mới công nghệ… Đối với những sản phẩm được chế tạo nguồn
gốc thiên nhiên, vấn đề chủ yếu là phải xét xem tài nguyên thiên nhiên đó có khả
năng tái tạo hay không. Nếu không thì phải tiến hành nghiên cứu và chế tạo các
sản phẩm có khả năng thay thế. Muốn vậy, phải cộng thêm vào giá thành sản
phẩm làm từ tài nguyên không tái tạo một loại chi phí khác đủ để nghiên cứu và
phát triển các sản phẩm thay thế. Nói cách khác, bền vững về kinh tế đòi hỏi nền
kinh tế phải tăng trưởng GDP và GDP bình quân đầu người cao; cơ cấu kinh tế
phải hợp lý, đảm bảo cho tăng trưởng GDP ổn định; lấy hiệu quả kinh tế - xã hội
làm tiêu chí phấn đấu cho tăng trưởng.

Trong kinh tế học, tổng sản phẩm nội địa, tức tổng sản phẩm quốc nội hay
GDP (viết tắt của Gross Domestic Product) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản
phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất tra trong phạm vi một lãnh thổ trong
một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.

GDP bình quân theo đầu người của mọt quốc gia hay lãnh thổ tại một thời
điểm nhất định là giá trị nhận được khi lấy GDP của quốc gia hay lãnh thổ này
tại thời điểm đó chia cho dân số của nó cũng tại thời điểm đó. Hiện nay mặc dù
GDP đang được sử dụng rộng rãi với giá trị như một chỉ số, tuy nhiên nó cũng
còn gây nhiều tranh cãi trong đó bao hàm cả ý nghĩa của sự phát triển bền vững.
Nói cách khác, nếu chỉ dựa vào sự tăng lên của GDP của một nền kinh tế thì
không thể khẳng định nền kinh tế đó phát triển bền vững. GDP của một nước
hay một vùng lãnh thổ có thể tăng lên đang kể nhờ vào việc khai thác tài nguyên

9
hay nhờ vào nguồn vốn đầu tư được rót vào nó. Lấy một ví dụ đơn giản, trữ
lượng lớn về phosphates làm cho người dân Nauru trở thành một trong những
người có thu nhập bình quân cao nhất trên thế giới, song, từ năm 1980 khi nguồn
cung cấp giảm thì chất lượng cuộc sống của họ lại giảm đi.Tương tự với những
nước có trữ lượng dầu lửa lớn. Họ có thể có sự sung túc không cần đến sản xuất,
tuy nhiên nó sẽ không thể như vậy khi không thể khai thác dầu.

Vì lý do trên, chúng ta không thể chỉ xét sự phát triển bền vững về kinh tế chỉ
bằng sự tăng trưởng của GDP hay GDP bình quân đầu người của một quốc gia
hay vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, ta phải xem xét đến một cơ cấu kinh tế hợp lý,
đảm bảo cho sự tăng trưởng của GDP ổn định. Để phát triển bền vững, cơ cấu
nền kinh tế không được phụ thuộc vào khai thác tài nguyên hay tăng trưởng do
đầu tư ồ ạt mà không đạt hiệu quả kinh tế. Ta đã thấy hậu quả trong phát triển
của việc tăng trưởng dựa trên khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức ở những
ví dụ trên. Vậy việc đầu tư ồ ạt, liệu có đưa đến những hậu quả về phát triển như
vậy.

Ta có thể thấy rằng, vốn là một yếu tố quan trọng trong phát triển và thúc đẩy
sự phát triển. Bất kỳ một quốc gia, một nền kinh tế nào cũng cần có vốn để phát
triển công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư sản xuất…. Tuy nhiên khi một
luồng tiền vào ồ ạt và nền kinh tế không thể hấp thụ kịp những nguồn vốn này
thì sẽ cho ta thấy sự non yếu của nền kinh tế. Khi luồng tiền đầu tư vào nhiều,
chỉ số tăng trưởng sẽ tăng lên. Cũng có thể nói, tăng vốn đồng nghĩa với tăng
trưởng. Tuy nhiên vốn này không được sử dụng hiệu quả, vì một hay nhiều lý do
nào đó như cơ sở hạ tầng kém, quản lý chưa chuyên nghiệp hay năng lực sản
xuất có hạn, thì dần dần nền kinh tế không được rót vốn vào nữa. Kèm theo đó là
sự giảm sút tăng trưởng. Hay nói cách khác, khi sự phát triển của một nền kinh tế

10
phụ thuộc quà nhiều vào đầu tư mà không tạo nên hiệu quả thì sự phát triển đó
không thể lâu dài và tạo ra giá trị bền vững. Có thể nói rằng, để xây dựng một
một nền kinh tế bền vững, ta nên chú trọng vào nghiên cứu để cải tiến công
nghệ, phát triển công nghiệp xanh, tìm ra những nguyên liệu có thể tái chế và
không ảnh hưởng tới môi trường. Có như vậy, nền kinh tế mới có thể mạnh mẽ
tạo ra giá trị thặng dư mang tính dài hạn.

Ta cũng không thể quên rằng, sự phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển xã
hội bởi mục đích cuối cùng của phát triển bền vững là nâng cao cuộc sống của
con người, hướng con người tới một thế giới tốt đẹp hơn.

1.1.2.2. Xã hội

Phát triển bền vững về mặt xã hội cũng có nghĩa nâng cao chất lượng cuộc
sống cho tất cả mọi người. Đó cũng chính là sự phát triển tự sinh do chính xã hội
ấy chủ động thực hiện, chứ không phải là một sự phát triển ngoại sinh, sống nhờ
hoàn toàn vào nguồn lực từ bên ngoài, muốn vậy phải giảm đói nghèo, nâng cao
năng lực lựa chọn cho mọi người, mọi người cùng tham gia vào quá trình phát
triển và mọi người cùng hưởng lợi từ quá trình phát triển. Như đã nói ở trên, mọi
sự phát triển kinh tế cần phải đi đôi với phát triển xã hội, bởi mục đích cuối cùng
của mội sự phát triển đều nhằm hướng tới sự phát triển của xã hội loài người,
nhằm nâng cao cuộc sống cho con người. Trên thế giời cũng đã đưa ra những
tiêu chí cho sự phát triển của xã hội như hệ số Gini – dùng để biểu thị độ bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập Hệ số Gini có giá trị từ 0 đến 1. Chỉ số Gini
(Gini Index) là hệ số Gini được thể hiện dưới dạng tỷ lệ phần trăm, được tính
bằng hệ số Gini nhân với 100. Hệ số Gini thường được sử dụng để biểu thị mức
độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp cư dân. Số 0 tượng
trưng cho sự bình đẳng thu nhập tuyệt đối (mọi người đều có cùng một mức thu

11
nhập), số 1 tượng trưng cho sự bất bình đẳng thu nhập tuyệt đối (một người có
toàn bộ thu nhập, trong khi tất cả mọi người khác không có thu nhập). Hệ số
Gini cũng được dùng để biểu thị mức độ chênh lệch về giàu nghèo. Bên cạnh đó
để đánh giá sự phát triển xã hội chúng ta còn sửa dụng chỉ số phát triển con
người HDI. Phát triển con người chính là, và phải là, sự phát triển mang tính
nhân văn. Đó là sự phát triển vì con người, của con người và do con người.Quan
điểm phát triển con người nhằm mục tiêu mở rộng cơ hội lựa chọn cho người
dân và tạo điều kiện để họ thực hiện sự lựa chọn đó (có nghĩa là sự tự do).
Những lựa chọn quan trọng nhất là được sống lâu và khỏe mạnh, được học hành
và có được một cuộc sống ấm no. Chỉ số phát triển con người (Human
Development Index - HDI) là chỉ số so sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ
biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác của các quốc gia trên thế giới. HDI
giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát về sự phát triển của một quốc gia. Chỉ số này
được phát triển bởi một kinh tế gia người Pakistan là Mahbub ul Haq vào năm
1990 HDI là một thước đo tổng quát về phát triển con người. Nó đo thành tựu
trung bình của một quốc gia theo ba tiêu chí sau:

1. Sức khỏe: Một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, đo bằng tuổi thọ trung
bình.

2. Tri thức: Được đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các
cấp giáo dục (tiểu học, trung học, đại học).

3. Thu nhập: Mức sống đo bằng GDP bình quân đầu người

1.1.2.3 Môi trường

Như đã phân tích ở trên, với phạm trù phát triển bền vững được nghiên cứu
với ba mặt kinh tế - xã hội – môi trường, để phát triển kinh tế và xã hội bền vững

12
ta phải giải được bài toán do môi trường đặt ra. Trong bất kỳ phương án quy
hoạch phát triển nào theo hướng bền vững cũng đều phải tính toán kỹ mối tác
động qua lại giữa con người và thiên nhiên sao cho sự phát triên kinh tế - xã hội
không làm suy thoái hoặc hủy diệt môi trường, bảo tồn tài nguyên, ngăn chặn ô
nhiễm.

1.2. Tổng quan về phát triển xanh

1.2.2. Định nghĩa

Hiện nay, trên thế giới, cụm từ phát triển bền vững đã trở nên phổ biến, nó trở
thành một mục tiêu cho sự phát triển của nhiều quốc gia cũng như vùng lãnh thổ.
Bên cạnh đó, ta cũng có thể thấy có sự xuất hiện của một thuật ngữ mới đó là
“phát triển xanh”.

Phát triển xanh là một khái niệm về sự phát triển hướng tới bền vững của một
đất nước hay vùng lãnh thổ. Tuy nhiên cụm từ này thường được sử dụng trong
việc quản lý, quy hoạch và sử dụng tài nguyên đất bao gồm quy hoạch thành
phố, kiến trúc, lên kế hoạch phát triển môi trường hay xây dựng khu công
nghiệp. Điểm khác nhau cơ bản giữa phát triển xanh với phát triển bền vững đó
chính là sự phát triển xanh nhằm tới sự bền vững về môi trường thông qua những
quyết định về kinh tế và xã hội.

Chúng ta đều biết nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới là có hạn. Và khi
con người sử dụng tài nguyên để phát triển kinh tế sẽ làm tài nguyên nghèo đi
theo sự lớn lên của nền kinh tế. Nói cách khác, nếu con người lạm dụng vào tài
nguyên thì có thể sự phát triển kinh tế không làm chúng ta giàu lên mà có thể
làm chúng ta “nghèo” đi. Nhận thức được vấn đề này, loài người ngày càng hiểu
rõ hơn tầm quan trọng của việc phát triển gắn liền với sự bảo tồn tự nhiên, bảo

13
vệ môi trường và tìm kiếm nguồn năng lượng mới. Chính vì lý do trên, phát triển
xanh trở thành một mục đích cho sự phát triển của nhiều lĩnh vực, nhiều nền
kinh tế.

1.2.3. Quy mô của phát triển xanh

Phát triển xanh là một khái niệm gắn bó chặt chẽ với phát triển bền vững. Nó
hướng tới một sự phát triển thân thiện với môi trường, nâng cao chất lượng cuộc
sống và đảm bảo cho sự phát triển của tương lại. Chính vì những lý do trên, nội
hàm của phát triển xanh cũng bao trùm lên những nội dung của phát triển bền
vững. Đó là sự phát triển trên cả ba phương diện: Kinh tế, xã hội và môi trường.
Theo đó, mỗi sự phát triển trên từng bình diện cuộc sống, kinh tế đề phải quan
tâm tới sự đảm bảo xanh – tự đảm bảo cho môi trường của chúng ta.

Về kinh tế:

Để phát triển, một nền kinh tế cần vận hành để tăng khả năng tăng lên về mọi
mặt và hướng tới đảm bảo sự hoàn chỉnh về cơ cấu, thể chế kinh tế. Để hướng
tới sự phát triển xanh, các mặt của nền kinh tế phải phát triển theo hướng thân
thiện với môi trường, với kết cấu hợp lý đảm bảo không gây tổn hại tới môi
trường sống, ảnh hưởng tới lợi ích thế hệ tương lại. Cụ thể, công nghiệp trong cơ
cấu ấy phải phát triển dựa trên những nguồn nguyên liệu tự nhiên, có thể tái chế
và không tạo ra chất thải công nghiệp gây ô nhiễm. Một ví dụ dễ thấy đó chính là
việc sử dụng năng lượng gió để phát điện. Các máy phát điện lợi dụng sức gió đã
được sử dụng nhiều ở các nước châu Âu, Mỹ và các nước công nghiệp phát triển
khác. Sau thảm họa Chernobyl (Ukraine 1986), cuộc đấu tranh đòi hủy bỏ các
nhà máy điện nguyên tử tại Đức diễn ra ngày càng mãnh liệt nên điện bằng sức
gió phát triển rất mạnh, sản lượng đã vượt xa sản lượng thủy điện và trở thành
nguồn năng lượng đáng kể trên cường quốc công nghiệp này. Ưu điểm dễ thấy

14
nhất của điện bằng sức gió là không tiêu tốn nhiên liệu, không gây ô nhiễm môi
trường như các nhà máy nhiệt điện, dễ chọn địa điểm và tiết kiệm đất xây dựng,
khác hẳn với các nhà máy thủy điện chỉ có thể xây dựng gần dòng nước mạnh
với những điều kiện đặc biệt và cần diện tích rất lớn cho hồ chứa nước. Các trạm
điện bằng sức gió có thể đặt gần nơi tiêu thụ điện, như vậy sẽ tránh được chi phí
cho việc xây dựng đường dây tải điện. Ngày nay điện bằng sức gió đã trở nên rất
phổ biến, thiết bị được sản xuất hàng loạt, công nghệ lắp ráp đã hoàn thiện nên
chi phí cho việc hoàn thành một trạm điện bằng sức gió hiện nay chỉ bằng 1/4 so
với năm 1986. Trạm điện bằng sức gió có thể đặt ở những địa điểm và vị trí khác
nhau, với những giải pháp rất linh hoạt và phong phú. Các trạm điện bằng sức
gió đặt ở ven biển cho sản lượng cao hơn các trạm nội địa vì bờ biển thường có
gió mạnh. Giải pháp này tiết kiệm đất xây dựng, đồng thời việc vận chuyển các
cấu kiện lớn trên biển cũng thuận lợi hơn trên bộ. Dải bờ biển VN trên 3.000km
có thể tạo ra công suất hàng tỉ kW điện bằng sức gió. Trên mái nhà cao tầng
cũng có thể đặt trạm điện bằng sức gió dùng cho các nhu cầu trong nhà và cung
cấp điện cho thành phố khi không dùng hết điện. Trạm điện này càng có ý nghĩa
lớn hơn khi thành phố bất ngờ bị mất điện.

Bên cạnh đó, sản phẩm công nghiệp được sử dụng nhằm mục đích phát triển
vì cộng đồng không gây ô nhiễm. Khi người dân có ý thức hơn về việc bảo vệ
môi trường từ trong hành vi lối sống của bản thân thì những sản phẩm xanh được
ưa chuộng và trở thành lợi thế cho các nhà sản xuất. Có thể thấy một ví dụ cụ thể
là sản phẩm bóng giặt quần áo đã rất được ưa chuộng tại các khu vực phát triển
như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc hay Hồng Kong. Lợi thế của sản phẩm này là làm sạch
quần áo mà không cần hóa chất hay bột giặt, giá cả hợp lý và đặc biệt nhờ sản
phẩm mà người tiêu dùng tiết kiệm được nước – một tài nguyên quý giá và tối

15
cần thiết cũng như không gây hại tới môi trường. Một ví dụ minh họa cụ thể hơn,
đó chính là ngành công nghiệp ô tô, trên thế giới các ông lớn trong lĩnh vực chế
tạo này đang có xu hướng phát triển sản phẩm của mình thân thiện với môi
trường hơn thông qua việc giảm nhiên liệu tiêu thụ hay thay đổi nhiên liệu chạy
máy truyền thống là xăng để đến với nguồn nguyên liệu thân thiện hơn như
hydro hay năng lượng mặt trời.

Cơ cấu kinh tế trong sự phát triển xanh không chỉ dừng lại ở việc phát triển
một nền công nghiệp thận thiện hơn với môi trường. Cơ cấu kinh tế cũng dần
thay đổi để phát triển về dịch vụ, những ngành công nghiệp không khói nhưng
lại làm gia tăng chất lượng cuộc sống của người dân.

Trong đó, nền nông nghiệp cũng đề cao tới sự tác động của bản thân nó tới
môi trường xung quanh. Đó là mội trường nước, môi trường đất. Ta không thể có
sự phát triển xanh, sự phát triển mang tính lâu dài khi mỗi người dân đều phá
hoại chính nền đất mà chúng ta đang sống trên nó. Với những công cụ canh tác
lạc hậu, chính sự sản xuất nông nghiệp lạc hậu cũ kỹ làm xói mòn dần đất đai
của chúng ta. Như những gì phân tích ở trên, ta có thể thấy phát triển xanh
không chỉ bao quanh ngoài vấn đề kinh tế, nó còn đi sâu hơn vào trong cơ cấu
nền kinh tế, cụ thể là từng ngành, từng lĩnh vực của một nền kinh tế. Để hướng
tới phát triển bền vững là sự phát triển bền vững của từng tế bào nền kinh tế.

Về xã hội:

Mục đích của sự phát triển trong xã hội loài người luôn là vì cộng động và để
nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Như đã đề cập ở trên, xã hội phát triển
đồng bộ cả về cơ cấu sẽ là một xã hội với những lợi ích vì toàn dân.

16
Cuộc sống phát triển xanh để mọi người hưởng một cuộc sống tốt đẹp hơn,
khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần. Trong sự gia tăng không ngừng về dân
số, sự thay đổi chóng mặt của công nghệ và biến đổi môi trường, cuộc sống của
chúng ta có được hiện đại hơn nhưng cũng tiềm ẩn những khó khăn đe dọa về
một đời sống lành mạnh. Trong quá trình phát triển xanh, chúng ta xác định vai
trò của xã hội và sự phát triển của xã hội cũng là mục tiêu cần đạt đến. Con
người phải là nhân tố hàng đầu để thúc đẩy sự phát triển xã hội. Nói cách khác,
chúng ta cần xây dựng một xã hội với nền móng từ những con người được đào
tạo và tư duy phù hợp với sự phát triển đó.

Nói ba mặt của sự phát triển luôn găn kết chặt chẽ với nhau là hoàn toàn hợp
lý. Trong đó, kinh tế là một chân không thể thiếu trong chiếc kiềng ba chân của
sự phát triển. Khi con người giàu có hơn và hành vi của họ ý thức về một sự
phát triển xanh thì cũng là lúc họ ý thức hơn về trách nhiệm xã hội của bản thân.
Mỗi người dân ý thức được phải làm cuộc sống của mình phải lành mạnh thì xã
hội cũng từ đó đi lên theo hướng tích cực. Nói tóm lại, để phát triển toàn xã hội,
mỗi con người trong xã hội ấy phải đẩy xã hội đi lên theo hướng tích cực bằng
chính hành vi của mình.

Về môi trường:

Nói đến phát triển xanh, có thể nói là nói tới khái niệm của sự thân thiện với
môi trường. Trong đó, mọi người hướng về một cuộc sống xanh hơn – gần gũi
với tự nhiên và bảo vệ tự nhiên như một cộng đồng. Bởi cuộc sống của chúng ta
được bao bọc bởi bầu khí quyển, ta thở bằng không khí để sống, uống nước và
làm ra mọi vật từ đất. Chúng ta có trách nhiệm phải gìn giữ cho những thế hệ sau
và cũng chính là đảm bảo cho chúng ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn ở hiện tại

17
và trong tương lại. Vì lẽ đó, yếu tố môi trường luôn là điều không thể thiếu trong
tiêu chí đánh giá về sự phát triển xanh.

Tóm lại, ta có thể thấy, cũng như phát triển bền vững, phát triển xanh tồn tại
trong ba mặt của sự phát triển là: kinh tế, xã hội và môi trường. Mỗi mặt này lại
có sự tác động qua lại với nhau và trong đó yếu tố môi trường là một yếu tố
không thể thiếu để ta xét một sự phát triển có thân thiện, xanh và bền vững hay
không.

18
CHƯƠNG II: MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN XANH CỦA
SINGAPORE

2.1 Tổng quan về Singapore

2.1.1 Vị trí địa lý

Singapore là một đảo quốc với diện tích khiêm tốn nằm ở phía nam khu vực
Đông Nam Á. Ví trí của Quốc đảo này nằm cách đường xích đạo 136,8 km về
phía Bắc, giữa vĩ độ 103038' và 104006' vĩ độ đông.

Singapore nằm ở giao nhau của con đường Huyết mạch chính vận chuyển
hàng hải giữa Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương và eo biên Malacca. Quốc đảo
nhỏ bé này được tổ hợp nên bởi hơn 50 hòn đảo trong đó Singapore là hòn đảo
lớn nhất, chiếm 9/10 diện tích toàn quốc. Địa thế nơi đây phẳng đều, những eo
biển giữa các hòn đảo chính là nơi neo đậu thuận tiện của các thuyền bè. Nằm tại
một trong những giao lộ của thế giới, vị trí chiến lược của Singapore chính là
một yếu tố thuận lợi góp phần giúp quốc gia này phát triển thành một trung tâm
quan trong trong các lĩnh vực thương mại, viễn thông và du lịch. Singapore nối
liền Malaysia bởi hai cây cầu vượt, và những hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo Riau
của Indonesia chỉ cách quốc gia một chuyến tàu tốc hành. Đối với Singapore và
Philippine chỉ là một chuyến bay ngắn. Đảo quốc Singapore có một phi trường
lớn phục vụ hơn 69 hãng hàng không. Quả là đất nước "cửa ngõ" vào Đông Nam
Á. Singapore là một hòn đảo có hình dạng một viên kim cương bao quanh bởi
nhiều đảo nhỏ khác. Có hai con đường nối giữa Singapore và bang Juhor của
Malaysia — một con đường nhân tạo có tên Đường nối Johor-Singapor ở phía
Bắc, băng qua eo biển Tebrau và chỗ nối thứ hai Tuas, một cầu phía Tây nối với
Juhor. Đảo Jurong, Pulau Tekong, Pulau Ubin và Sentosa là những đảo lớn nhất

19
của Singapore, ngoài ra còn có nhiều đảo nhỏ khác. Vị trí cao nhất của
Singapore là đồi Bukit Timah với độ cao 166 m.

Singapore đã mở mang lãnh thổ bằng đất lấy từ những ngọn đồi, đáy biển và
những nước lân cận. Nhờ đó, diện tích đất của Singapore đã tăng từ 581,5 km² ở
thập niên 1960 lên 697,25 km² ngày nay (xấp xỉ diện tích huyện Cần Giờ (thành
phố Hồ Chí Minh)), và có thể sẽ tăng thêm 100 km² nữa đến năm 2030.

Vùng thành thị trước đây chỉ tập trung ở khu vực phía Bắc Singapore bao
quanh sông Singapore, hiện nay là trung tâm buôn bán của Singapore, trong khi
đó những vùng còn lại rừng nhiệt đới ẩm hoặc dùng cho nông nghiệp. Từ thập
niên 1960, chính phủ đã xây dựng nhiều đô thị mới ở những vùng xa, tạo nên
một Singapore với nhà cửa san sát ở khắp mọi miền, mặc dù Khu vực Trung tâm
vẫn là nơi hưng thịnh nhất. Ủy ban Quy hoạch Đô thị là một ban của chính phủ
chuyên về các hoạt động quy hoạch đô thị với nhiệm vụ là sử dụng và phân phối
đất hiệu quả cũng như điều phối giao thông. Ban đã đưa ra quy hoạch chi tiết cho
việc sử dụng đất ở 55 khu vực.

Sự đô thị hóa đã làm biến mất nhiều cánh rừng mưa nhiệt đới một thời, hiện
nay chỉ còn lại một trong số chúng là Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bukit Timah.
Tuy nhiên, nhiều công viên đã được gìn giữ với sự can thiệp của con người, ví
dụ như Vườn Thực vật Quốc gia. Không có nước ngọt từ sông và hồ, nguồn
cung cấp nước chủ yếu của Singapore là từ những trận mưa rào được giữ lại
trong những hồ chứa hoặc lưu vực sông. Mưa rào cung cấp khoảng 50% lượng
nước, phần còn lại được nhập khẩu từ Malaysia hoặc lấy từ nước tái chế - một
loại nước có được sau quá trình khử muối. Nhiều nhà máy sản xuất nước tái chế
đang được đề xuất và xây dựng nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu.

20
2.1.2 Lịch sử

Tên Singapore xuất phát từ Singapura trong tiếng Malaysia (hay tiếng Malay),
vốn được lấy từ nguồn gốc của chữ Phạn là singa (sư tử) và pura (thành phố). Từ
đó Singapore được biết với cái tên Thành phố Sư Tử. Tên gọi này bắt nguồn từ
một vị hoàng tử tên là Sang Nila Utama. Theo truyền thuyết, vị hoàng tử này
nhìn thấy một con sư tử là sinh vật sống đầu tiên trên hòn đảo và do đó đặt tên
cho hòn đảo là Thành phố Sư Tử (Singapura).

Những bằng chứng đầu tiên về sự tồn tại của hòn đảo được tìm thấy trong
những văn bản của Trung Quốc từ thế kỉ thứ 3. Hòn đảo là nơi chiếm đóng của
đế chế Sumatran Srivijaya và khởi đầu có tên theo tiếng Java là Temasek.
Temasek phát triển thành một thành phố thương mại thịnh vượng nhưng sau đó
dần dần suy tàn. Từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 19, Singapore là một phần của
Vương quốc Johor.

Năm 1819, ông Thomas Stamford Raffles, một viên chức của công ty East
India (của Anh), đã kí một thỏa thuận với vua của Johor. Ông đồng thời thiết lập
Singapore trở thành một trạm thông thương buôn bán và nơi định cư, sau này đã
nhanh chóng phát triển và thu hút sự di dân từ nhiều chủng tộc khác nhau.
Singapore sau đó đã trở thành thuộc địa của Anh năm 1867. Sau một chuỗi các
hoạt động mở mang lãnh thổ, Đế quốc Anh nhanh chóng đưa Singapore trở
thành một trung tâm tập trung và phân phối dựa vào vị trị rất quan trọng của nó
trên con đường biển nối giữa châu Âu và Trung Quốc.

Tượng của ông Thomas Stamford Raffles, được dựng tại nơi ông đầu tiên đặt
chân lên Singapore. Ông được xem là người tìm ra Singapore mới.

21
Trong Thế chiến thứ hai, quân đội Đế quốc Nhật xâm chiếm Malaysia và
những vùng lân cận trong Cuộc chiến Malaya, lên đến cực điểm tại Cuộc chiến
Singapore. Quân Anh không được chuẩn bị và nhanh chóng thất thủ mặc dù có
lực lượng đông hơn. Anh giao nộp Singapore cho quân Nhật vào ngày 15 tháng
2 năm 1942. Người Nhật đổi tên Singapore sang tiếng Nhật thành Syonan-to,
nghĩa là "Ánh sáng Miền Nam", và chiếm đóng nó cho đến khi quân Anh trở lại
chiếm hòn đảo một tháng sau sự đầu hàng của Nhật vào tháng 9 năm 1945.

Singapore trở thành một nhà nước tự chủ năm 1959 với người đứng đầu nhà
nước đầu tiên là Yusof bin Ishak và thủ tướng đầu tiên là Lý Quang Diệu sau
cuộc bầu cử năm 1959. Cuộc trưng cầu dân ý về việc sát nhập Singapore vào
Liên bang Mã Lai đã đạt được năm 1962, đưa Singapore trở thành một thành
viên của liên bang Mã Lai cùng với Malaya, Sabah và Sarawak như là một bang
có quyền tự trị vào tháng 9 năm 1963. Singapore bị tách ra khỏi liên bang vào
ngày 7 tháng 8 năm 1965 sau những bất đồng quan điểm chính trị chính phủ của
bang và hội đồng liên bang tại Kuala Lumpur. Singapore được độc lập 2 ngày
sau đó, vào ngày 9 tháng 8 năm 1965, sau này đã trở thành ngày Quốc khánh của
Singapore. Malaysia là nước đầu tiên công nhận nền độc lập của Singapore.

Độc lập đồng nghĩa với tự túc, Singapore đã phải đối mặt với nhiều khó khăn
trong giai đoạn này, bao gồm nạn thất nghiệp, thiếu nhà ở, đất đai và tài nguyên
thiên nhiên như dầu mỏ. Với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và Đồng Minh, trong nhiệm
kỳ của mình từ năm 1959 đến 1990, Thủ tướng Lý Quang Diệu đã từng bước
kiềm chế thất nghiệp, lạm phát, tăng mức sống và thực hiện một chương trình
nhà ở công cộng với quy mô lớn. Các cơ sở hạ tầng kinh tế của đất nước được
phát triển, mối đe dọa của căng thẳng chủng tộc được loại bỏ và một hệ thống

22
phòng vệ quốc gia được thiết lập. Singapore từ một nước đang phát triển trở
thành một nước phát triển vào cuối thế kỷ 20.

Năm 1990, Goh Chok Tong kế nhiệm chức thủ tướng, đối mặt với nhiều khó
khăn bao gồm ảnh hưởng kinh tế từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm
1997, sự lan tràn của SARS năm 2003 cũng như những đe dọa khủng bố từ
Jemaah Islamiah, hậu 11 tháng 9 và các vụ đánh bom ở Bali. Năm 2004, Lý Hiển
Long, con trai cả của Lý Quang Diệu, trở thành thủ tướng thứ ba.

2.1.3 Xã hội

Xã hội Singapore là một xã hội đa sắc tộc gồm nhiều nền văn hóa khác nhau.
Singapore là một đất nước nhỏ bé và dân cư tại đây là sự tổng hợp của nhiều nền
văn hoá khác nhau như Trung Quốc, Ấn Độ, Mã Lai do kết quả của quá trình di
cư, vì vậy, xã hội Singapore là một xã hội đa sắc tộc. Mỗi người dân đến đây, họ
cố gắng giữ gìn nét riêng chính tổ tiên mình cùng lúc linh hoạt để hoà nhập vào
các văn hoá khác. Nhờ vậy, xã hội Singapore với nền văn hoá đa dạng của mình
đã được hình thành. Khi tới đất nước này, bạn có thể thấy một lễ cưới theo kiểu
Mã Lai cùng tổ chức trong một khu công cộng với một lễ tang của người Trung
Quốc. Có thể nói, xã hội Singapore tôn trọng mọi nền văn hoá tồn tại trên đảo
quốc này. Bên cạnh đó, Singapore cũng đã tạo ra được một bản sắc riêng trong
sự kết hợp của các nền văn hoá trong một mức độ nào đó. Nhờ vậy thế hệ trẻ của
Singapore được thừa hưởng một sự kết hợp giàu bản sắc. Kế hoạch Raffles của
Singapore từ đầu thế kỷ 19 nhằm phân biệt những người mới nhập cư vào từng
khu vực riêng mà tại Singapore ta có thể thấy những khu mang đậm chất riêng
như Little India, Chinatown và Kampong Glam. Mặc dù người dân không còn
xây dựng theo lối phân biệt như vậy, nhưng chủ yếu nhờ có chính sách của Uỷ
ban nhà ở và sự quản lý của Đảng Nhân dân Hành động mà những khu vực này

23
vẫn giữ được nét riêng của mình trong xã hội hiện đại. Ngày nay, những nền văn
hoá đặc trưmg không còn được sử dụng để quy hoạch nhà ở cho người dân
nhưng nó lại phục vụ cho mục đích thương mại. Vì vậy, ở Singapore ta có thể
mua một đồ vật hay tìm ăn một món ăn đặc trưng của văn hoá Ấn Độ, Trung
Hoa, hay Mã Lai. Một ví dụ đơn giản, tại Little India, bạn có thể tìm thấy tiệc
đứng Nam Ấn với những món ăn chay và các món ăn được đựng bằng lá chuối
theo đúng truyền thống.

Trên một khía cạnh khác, chính phủ không cho phép sự phân biệt chủng tộc
được phát triển. Chính sách của Uỷ ban Nhà ở Singapore đưa ra nhằm khuyến
khích người dân đến từ mọi nền văn hoá chung sống với nhau, với tỉ lệ của một
dân tộc không được quá lớn trong một khu nhà. Hay nói cách khác, họ luôn đảm
bảo sự đa dạng và tỉ lệ tương đối về các nền văn hoá trong một khu công cộng.
Điều này giúp cho mỗi người dân nói riêng và nền văn hoá họ mang trong mình
nói chung có sự hoà nhập bình đẳng trong xã hội. Sự đa dạng văn hoá và tự do
phát triển bản sắc riêng có thể thấy ở mọi mặt của xã hội. Ta có thể thấy một cửa
hàng chuyên bán đồ ăn Malay nằm ngay cạnh nhà hàng Trung Quốc hay nhà
hàng Ấn Độ. Như lời cựu thủ tướng Lý Quang Diệu khi ông còn đương nhiệm,
mục đích của việc này là nhằm thúc đẩy sự gắn kết xã hội, lòng yêu nước – yếu
tố không thể thiếu để giúp Singapore phát triển bền vững sau khi độc lập.

2.1.4 Kinh tế

Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên
ngoài. Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất
canh tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông
nghiệp không phát triển, hàng năm phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng
nhu cầu ở trong nước. Tuy nhiên vị trí địa lý đặc biệt, nằm trong tuyến đường

24
huyết mạch của khu vực khiến cho đảo quốc này được bù đắp bằng những “tải
nguyên” phong phú khác. Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công
nghiệp phát triển cao hàng đầu châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp
đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi.
Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán dẫn.
Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á.
Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40% thu
nhập quốc dân). Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi
sang nền kinh tế tri thức.

Kinh tế Singapore là nền kinh tế phát triển theo đường lối kinh tế tư bản. Sự
can thiệp của chính phủ vào vào nền kinh tế được giảm thiểu tối đa. Singapore
có môi trường kinh doanh mở, tham nhũng thấp, minh bạch tài chính cao, giá cả
ổn định, và là một trong những nước có GDP bình quân đầu người cao nhất thế
giới. xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng điện tử và hóa chất và dịch vụ là nguồn
cung cấp chính cho thu nhập kinh tế và mua được các nguồn tài nguyên thiên
nhiên và hàng chưa gia công mà trong nước không có. Do vậy có thể nói
Singapore dựa hoàn toàn vào nền kinh tế mở bằng việc mua các hàng hóa chưa
gia công và chế biến chúng để xuất khẩu. Singapore cũng có một hải cảng chiến
lược, có thể cạnh tranh với các nước láng giềng để thực hiện các hoạt động buôn
bấn, xất nhập khẩu. Thành phố hải cảng của Singapore là một trong những nơi
bận rộn nhất trên thế giới, vượt xa Hong Kong và Thượng Hải. Thêm vào đó,
thành phố hải cảng của Singapore có cơ sở hạ tầng tốt và lực lượng lao động có
tay nghề cao nhờ các chính sách giáo dục của đất nước trong việc đào tạo kỹ
nghề cho công nhân, nó cũng là nền tảng cho việc phát triển kinh tế của đất
nước.

25
Về mặt chính sách vĩ mô, Chính phủ thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư thông qua cơ
chế tiết kiệm cho kỳ nghỉ hưu còn gọi là Quỹ trung tâm dự phòng, và một phần
lớn của quỹ này được sử dụng cho mục đích giáo dục và kỹ thuật. Vào năm
2001, Singapore đã sử dụng 21% quỹ này cho mục đích trên so với 4% của Mỹ.
Tuy nhiên số liệu này có thể sai lệch, vì tại Mỹ, ngân sách rót vào giáo dục
thường dùng ngân sách bang chứ không phải ngân sách quốc gia. Tại Singapore,
tồn tại những công ty nằm trong dự án đầu tư của chính phủ, đặc biệt trong lĩnh
vực chế tạo Với cái nhìn dài hạn, Singapore hiểu được ý nghĩa của từ “toàn cầu
hoá”, đảo quốc này đang dần tạo nên vị trí của mình như một trung tâm tài chính
khu vực và trung tâm công nghệ cao cạnh tranh với các thành phố khác của
Đông Á.

Chiến lược phát triển kinh tế của Singapore tập trung vào hoạt động vận tải
biển. Những công dân chăm chỉ của đất nước này đã đưa đất nước họ trở thành
con rồng của khu vực Đông Nam Á. Sức mạnh về kinh tế của đảo quốc này hoàn
toàn tỉ lệ nghịch với diện tích nhỏ bé của nó. Kể từ khi tách ra khỏi Malaysia
vào năm 1965, Singapore phải đối diện với những khó khăn về sự nghèo nàn tài
nguyên và một thị trường nội địa nhỏ bé. Để giải quyết những khó khăn của
mình, Chính phủ Singapore đã xây dựng một nền kinh tế tập trung vào kinh
doanh, đầu tư nước ngoài và hướng ra xuất khẩu kết hợp với việc đầu tư theo
định hướng chính sách của nhà nước vào các công ty quốc doanh. Trong suốt
thời kỳ phát triển của chủ nghĩa xã hội vào những năm 60 của thế kỷ trước,
Singapore đã đẩy mạnh mở cở để tiếp nhận nền kinh tế tư bản. Tuy nhiên
Singapore vẫn luôn là một nước trung lập trên thế giới. Về kinh tế, chính phủ
đảo quốc sư tử hướng nền kinh tế và các mục đầu tư vào dược phẩm và cơ sở hạ
tầng.

26
Chiến lược kinh tế của Singapore là một minh chứng của sự thành công . Từ
năm 1960 đến năm 1999, tăng trưởng sản xuất thực tế luôn đạt ở mức trung bình
là 8%. Khi nền kinh tế thế giới gặp khó khăn vào những năm đầu thế kỷ 21,
những ông lớn của thế giơi là Mỹ, Nhật, Liên minh châu âu EU đều khó khăn
trong tăng trưởng (ước tính tăng trưởng tại các nước này là âm 2%). Trong khi
đó, Singapore vẫn giữ mức tăng trưởng là 2.2%. Và đất nước này đạt mức 1.1%
tăng trưỏng vào năm sau đó là 2003 do sự bùng nổ của bệnh SARS (Severe
Acute Respiratory Syndrome - Hội chứng hô cấp cấp tính nặng). Đến năm 2004,
sự phục hồi đã xuất hiện với mức tăng trưởng ấn tượng là 8.3% cho dù mức tăng
trưởng thực tế đã làm giảm mục tiêu tăng trưởng của nước này đến hơn một nửa
chỉ vào khoảng 2.5%. Năm 2005, nền kinh tế đã đạt mức tăng trưởng là 6.4%
còn năm 2006 là 7.9%.4

Chính quyền trong sạch, nguồn nhân lực chất lượng cao và cơ sở hạ tầng hiện
đại là những yếu tố tiên quyết để các nhà đầu tư chọn Singapore làm điểm đến
của mình. Những nhà đầu tư lớn vào đất nước nhỏ bé này là những tập đoàn đa
quốc gia của Mỹ, Nhật và EU. Singapore mở rộng cánh cửa đầu tư trong hầu hết
các lĩnh vực của nền kinh tế. Các công ty đa quốc gia làm ra 2/3 mặt hàng chế
tạo và cũng là những nhà xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên những tập đoàn trong
nước lại nắm hầu hết lĩnh vực dịch vụ.

Trong nền kinh tế phát triển nhanh và vững vàng của Singapore, có thể coi chế
tạo và dịch vụ tài chính doanh nghiệp là hai nguồn năng lượng chính với mức
đóng góp lần lượt là 26% và 22% vào tổng sản phẩm quốc nội năm 2000. Trong
ngành chế tạo thì ngành điện tử đứng vị trí đầu tiên với mức đóng góp là 48%

4
Theo Wikipedia: http://vi.wikipedia.org/wiki/Singapore

27
tổng sản lượng sản phẩm hàng hoá làm ra tại nước này. Bên cạnh đó chính phủ
cũng đầu tư phát triển cho ngành hoá chất và công nghệ xanh.

Tăng trưởng và phát triển cũng đồng nghĩa với việc Singapore mất dần lợi thế
cạnh tranh về giá nhân công rẻ như thời kỳ đầu mở cửa. Tuy nhiên, nhờ các hoạt
động của chính phủ nhằm thúc đẩy giá trị gia tăng trong lĩnh vực chế tạo và dịch
vụ mà Singapore vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh của mình trên thị trường thế
giới. Đồng thời, những ngành mới cũng phát triển và bắt đầu có mặt trong cơ cấu
nền kinh tế như: dịch vụ tài chính, viễn thông, và bán lẻ cho những nhà cung cấp
nước ngoài. Chính phủ cũng nỗ lực đưa ra những giải pháp bao gồm các giải
pháp về tiền lương hay cho thuê bất động sản chưa sử dụng nhằm kiểm soát sự
tăng giá thuê nhà, văn phòng tại đây.

2.1.4 Môi trường

Singapore là một đất nước rất quan tâm tới môi trường. Cùng với sự phát triển
kinh tế, Singapore còn không ngừng khẳng định vị trí của mình là một thành phố
công viên của thế giới. Người ta nói rằng ở Singapore bạn có thể tìm thấy bất cứ
thứ gì, chỉ có một thứ rất khó kiếm – đó chính là rác. Nói như vậy để thấy rằng
môi trường của Singapore rất trong sạch. Người ta có thể ngồi thoải mái ở bất kỳ
bậc thềm nào trong thành phố bởi lẽ chúng lúc nào cũng sạch bong như đá lát
sàn nhà. Lá cây luôn xanh mướt màu nguyên bản, không bụi bậm. Dù ở những
nơi công cộng như bến xe điện ngầm, sân bay hay siêu thị ta sẽ luôn thấy những
nhân viên vệ sinh cần mẫn với công việc của mình. Họ sẽ làm hoàn thành vịêc
dọn vệ sinh dù rằng trong khu vực rộng lớn chỉ có vài chiếc lá rụng.

Không chỉ sạch, thành phố công viên Singapore còn là một thành phố xanh.
Xanh vì môi trường sạch, và xanh vì màu xanh của cỏ cây. Khắp nơi trên quốc
đảo này đều có cây xanh với màu sắc nhiệt đới. Trong sân bay, lan can cầu vượt,

28
chân cầu, các toà nhà, quán ăn thậm chí trong toilet công cộng, chố nào cũng có
cây xanh.

Có thể nói, xanh - sạch – an toàn là những điều hay được nhắc tới nhất khi
người ta nói tới Singapore.

2.2 Mô hình phát triển xanh của Singapore

Từ một nước thứ ba dành được độc lập vào năm 1960 Singapore đã thay đổi
và biến mình thành một con rồng của Châu Á. Có được Singapore như hiện nay,
hẳn ta không thể không nhắc tới một người có vai trò vô cùng quan trọng là cựu
thủ tướng Lý Quang Diệu - người đã đưa Singapore trở thành thành phố công
viên.

Trong hồi ký “Singapore xanh” của mình, Lý Quang Diệu đã có đoạn viết

“Sau độc lập, tôi đã tìm kiếm một vài cách để chỉ ra sự khác biệt giữa chúng tôi
với các nước thuộc Thế giới Thứ ba khác. Tôi chấp nhận chọn một Singapore
xanh và sạch. Mục đích của chiến lược này là làm Singapore trở thành một ốc
đảo trong Đông Nam Á, vì nếu chúng tôi có những tiêu chuẩn của Thế giới Thứ
nhất thì các thương gia và các khách du lịch sẽ chọn chúng tôi làm căn cứ cho
việc kinh doanh của họ cũng như là một vùng du lịch.”5

Từ đó, bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX, thủ tưởng Lý Quang Diệu đã
bắt tay vào thay đổi đất nước của mình. Và để có một Singapore như ngày nay,
cố gắng thay đổi không chỉ trên bình diện kinh tế mà nó còn diễn ra mạnh mẽ cả
về xã hội.

5
http://vietnamnet.vn/thuhanoi/2006/08/607051/

29
2.2.1 Thay đổi từ người dân

Người ta nói rằng, thói quen sẽ tạo ra tính cách. Một xã hội với những con
người có thói quen xấu sẽ trì trệ và hạn chế trong tốc độ phát triển. Vì lẽ đó, cựu
thủ tướng Lý Quang Diệu đã nhận thức được rằng để cho Singapore phát triển
trước tiên phải thay đổi những thói quen xấu của người dân nước này. Bắt đầu từ
thói quen khó bài trừ như khạc nhổ tới sự lộn xộn trên đưòng phố. Tất cả những
điều này được ông nói tới trong cuốn hồi ký “Singapore xanh” của mình.

“Trong chuyến viếng thăm đầu tiên của tôi đến Uỷ ban nhân dân thành phố
Bắc Kinh năm 1976, trong phòng khách nơi họ tiếp đón chúng tôi có rất nhiều
ống nhổ. Một vài nhà lãnh đạo Trung Quốc thật sự sử dụng chúng. Năm 1978, khi
Đặng Tiểu Bình đến thăm Singapore, chúng tôi đã chuẩn bị một ống nhổ màu
trắng xanh đời Minh. Mặc dù chúng tôi đã đặt nó sát bên ghế của ông ta trong
phòng họp, nhưng ông ta không sử dụng nó. Dường như ông ta biết rằng người
Singapore gốc Trung Quốc không nhổ. Năm 1980, trong chuyến viếng thăm kế
tiếp tại Bắc Kinh, tôi thấy các ống nhổ được chuyển đi khỏi Uỷ ban. Vài năm sau
khi tôi dùng bữa tối với Gu Mu, uỷ viên hội đồng nhà nước chịu trách nhiệm về
kinh tế tại Singapore, tôi đã đề cập đến vấn đề rằng họ đã ngừng sử dụng các ống
nhổ tại Uỷ ban. Ông ta cười và nói rằng họ đã loại bỏ chúng ra khỏi phòng họp
nhưng vẫn sử dụng chúng trong văn phòng. Đó là một hủ tục lâu đời khó bài
trừ.”6

Từ câu chuyện trên,trong những năm 60, Lý Quang Diệu đã khởi xướng một
cuộc vận động chống khạc nhổ. Nhưng thậm chí trong những năm 80, một vài tài
xế ta xi vẫn khạc nhổ ra khỏi cửa sổ và một vài người vẫn khạc nhổ trong chợ và
các trung tâm ăn uống. Tuy nhiên, vị thủ tướng Singapore vẫn bền lòng tiếp tục

6
http://vietnamnet.vn/thuhanoi/2006/08/607051/

30
phổ biến thông báo vào các trường học và trên khắp phương tiện thông tin đại
chúng rằng khạc nhổ sẽ làm lây lan dịch bệnh như ho lao chẳng hạn. Và quá
trình cố gắng của chính phủ Singapore cũng như từng người dân đảo quốc này đã
đạt được những thành công. Ngày nay,ở Singapore ta thấy rằng ít người khạc
nhổ nơi công cộng.Thủ tướng Lý Quang Diệu nhấn mạnh: “Chúng tôi là một
cộng đồng di cư, những người đã rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình và
chuẩn bị từ bỏ những hủ tục để tạo cuộc sống tốt hơn trên quê hương mới. Điều
này cũng khích lệ tôi thay đổi những thói quen xấu khác.”

Cơ sở hạ tầng dễ cải tiến hơn cung cách cục cằn của người dân. Nhiều người
trong số họ đã rời khỏi những nhà xí tạm bợ chỉ với một cái lỗ dưới đất và một
các gầu để đến những căn hộ cao tầng với điều kiện vệ sinh hiện đại, nhưng cách
cư xử của họ thì vẫn như cũ. Chính phủ nước này đã phải làm việc cật lực để xoá
bỏ việc vứt rác bừa bãi, những âm thanh ồn ào và thái độ thô lỗ, và hướng dẫn
người dân trở nên ý tứ và lịch sự hơn.

Đảo quốc sư tử là một đất nước bắt đầu từ một nền tảng thấp. Trong những
năm 60, hàng ngàn người xếp hàng dài tại các buổi tiếp dân, nơi các Bộ trưởng
và các Nghị sĩ giúp giải quyết các vẫn đề của cử tri của họ. Những người thất
nghiệp, cùng với vợ và con của họ cần xin việc làm, giấy phép lái xe tắc xi hoặc
bán hàng rong, hoặc quyền bán thức ăn trong căng tin trường học. Đây là khía
cạnh nhân quyền đằng sau các con số thống kê thất nghiệp. Hàng ngàn người bán
thức ăn trên lề đường không đếm xỉa gì đến giao thông, sức khoẻ, và các lý do
khác. Rác rưởi, mùi hôi thối của các thức ăn đã bị thối rữa, và các âm thanh hỗn
loạn đã khiến nhiều khu vực của thành phố biến thành những ổ chuột.

Một vài thương nhân cho nhiều người mướn xe các xe hơi tư nhân cũ kỹ để
trở thành "những tài xế cướp tắc xi", không bằng lái và không bảo hiểm. Giá đi

31
loại xe này chỉ đắt hơn một chút so với xe buýt nhưng lại rẻ hơn nhiều so với các
loại xe tắc xi có đăng ký. Họ dừng lại mà không hề báo hiệu, đón và trả khách vô
tội vạ và đã trở thành mỗi đe doạ cho nhiều người đi đường khác. Hàng trăm,
hoặc thậm chí hàng nghìn tắc xi kiểu này đã làm kẹt cứng đường phố và phá huỷ
hệ thống xe buýt.

Chính phủ nước này không thể làm sạch thành phố bằng cách di dời những
người bán hàng rong và những tắc xi bất hợp pháp trong nhiều năm. Chỉ sau năm
1971, khi đã tao ra nhiều việc làm, họ mới có thể thi hành luật pháp và làm sạch
đường phố. Chính phủ cấp giấy phép kinh doanh cho những người bán hàng
rong và chuyển họ từ lề đường vào trung tâm dành cho những người bán hàng
rong với hệ thống nước, cống rãnh và chỗ đổ rác. Mãi đến đầu những năm 80,
chính phủ nước này mới tái ổn định tất cả những người bán hàng rong. Một vài
người trong số đó làm những món ăn tuyệt hảo hấp dẫn khách du lịch. Một vài
trong số đó trở thành những nhà triệu phú đi làm bằng xe Mercedes - Benz và
thuê người phục vụ. Đây là sự táo bạo, nỗ lực, và tài năng của những người tạo
nên Singapore. Những tài xế tắc xi bất hợp pháp đã bị trục xuất khỏi đường phố
chỉ sau khi tái tổ chức lại hệ thống xe buýt phục vụ và tạo cho họ những việc làm
khác.

Tính kiên trì và sức chịu đựng là những đức tính cần thiết để đánh đổi các thói
xấu cũ: Người ta bước lên cây, giẫm lên cỏ, hái hoa, ăn cắp cây non, hoặc dựng
xe đạp hay xe gắn máy lên những cây lớn hơn khiến chúng bị đổ. Và không chỉ
những người nghèo khổ phạm tội. Một bác sĩ bị bắt quả tang khi đang chuyển
một cây thông giống Morfolk Irland có giá trị mà ông ta yêu thích về vườn nhà
của ông ta. Để khắc phục thái độ dửng dưng ở nơi công cộng, chín phủ
Singapore đã giáo dục trẻ em trong trường bằng cách dạy chúng trồng cây, chăm

32
sóc cây, và trồng vườn. Chúng mang thông điệp học được về nhà cho cha mẹ
chúng.

Rõ ràng, không có điều gì dễ dàng và đặc biệt để thay đổi thói quen của con
người là một điều khó hơn cả. Thủ tướng Lý Quang Diệu đã thật sự thành công
với những kế hoạch hành động của mình, ông chủ trường dùng roi sắt để tạo cho
người dân ý thức tốt hơn. Có thể thấy mô hình phát triển xanh của Lý Quang
Diệu đặt ra lấy một gốc chắc chắn đó chính là “dân”. Cựu thủ tướng quốc đảo sư
tử ý thức rõ ràng về điểm xuất phát của những chính sách hành động của mình
và vì thế ông đã lựa chọn con đường thay đổi người dân trước khi thay đổi đất
nước mình. Và sự thật đã chững minh, sự thành công của mô hình thay đổi
Singapore đã chững minh điều vừa nói là đúng đắn. Sau 5 năm, với những chính
sách “roi sắt” của mình, Lý Quang Diệu đã giúp cho người dân nước ông thay
đổi theo chiều hướng tốt lên, ý thức người dân cao hơn và từ đó giúp cho đất
nước ông tốt đẹp lên.

2.2.2 Xây dựng môi trường pháp lý cho sự phát triển xanh

Trong 40 năm qua, sự phát triển kinh tế kỳ diệu đã giúp đời sống của người
dân Singapore trở nên thoải mái hơn và chất lượng cuộc sống cũng ngày càng
được nâng cao. Như đã nói ở trên, trong thời kỳ này, Singpore đồng thời cũng
tập trung vào xây dựng những tòa nhà công viên thiết kế có nhiều cây xanh với
tiêu chí hàng đầu là đô thị hóa xanh và kiềm chế ô nhiễm. Vì một lý do đơn giản,
người Singapore đã chọn lựa sự phát triển xanh, phát triển theo hướng thân thiện
với môi trường và hướng tới sự lâu dài từ những năm bắt đầu xây dựng đất nước.

Có được những gì như ngày nay là do Chính phủ Singapore đã coi nhiệm vụ bảo
vệ môi trường sinh thái là một nhiệm vụ chiến lược trong chính sách phát triển

33
kinh tế - xã hội. Chính phủ Singapore đã tiến hành nhiều biện pháp kiểm soát và
bảo vệ, trong đó có các biện pháp pháp lý. Trong phạm vi khoá luận này xin giới
thiệu một số vấn đề liên quan đến các biện pháp pháp lý trong việc kiểm soát và
bảo vệ môi trường ở Singapore, đó là: các đạo luật liên quan đến môi trường và
các biện pháp thi hành các chế tài dân sự, hành chính và tăng cường áp dụng các
biện pháp hình sự đối với các vi phạm pháp luật về môi trường. Nhằm bảo đảm
cho việc kiểm soát và bảo vệ môi trường ở Singapore, một loạt các văn bản liên
quan đến pháp luật về môi trường được ban hành, bao gồm:
Đạo luật về môi trường và sức khoẻ cộng đồng: Đạo luật này bao hàm các vấn
đề về tiếng ồn, vệ sinh công cộng, chất thải rắn, chất thải độc hại và việc kiểm
soát kinh doanh thực phẩm, chôn cất, hoả táng cũng như quản lý các bể bơi. Để
thi hành Đạo luật này có 14 văn bản hướng dẫn thi hành.
Đạo luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường: Đạo luật này điều chỉnh các vấn đề
liên quan đến việc kiểm soát ô nhiễm môi trường và các hoạt động có mục đích
liên quan đến việc kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Đạo luật về hệ thống cống tiêu thoát nước: Đạo luật này được ban hành nhằm
điều chỉnh việc xây dựng, duy trì và cải tạo nâng cấp các hệ thống cống rãnh và
hệ thống tiêu thoát nước dưới mặt đất điều chỉnh việc xử lý nước thải thương
mại cũng như các vấn đề liên quan đến các hoạt động nêu trên.

Đạo luật về xuất nhập khẩu, quá cảnh chất thải nguy hiểm: Đạo luật này điều
chỉnh việc xuất nhập khẩu và quá cảnh chất thải nguy hiểm và các chất khí thải
khác.

Để đảm bảo cho các đạo luật có hiệu lực thi hành trên thực tế, thì các biện pháp
cưỡng chế là không thể thiếu, do đó pháp luật về môi trường của Singapore cũng

34
đã đặt ra các biện pháp cưỡng chế khác nhau cho các mức vi phạm pháp luật về
môi trường như sau:

Biện pháp xử lý hình sự

Pháp luật môi trường Singapore lấy chế tài hình sự là công cụ cơ bản để thực thi,
biện pháp này được áp dụng đối với người bị kết án phạt tiền, phạt tù, bắt bồi
thường và đối với những vi phạm nhỏ thì phạt cải tạo lao động bắt buộc (chỉ áp
dụng với những bị cáo đủ 16 tuổi trở lên và đủ tiêu chuẩn y tế). Cụ thể là:

+ Hình phạt tiền:

Đây là hình phạt phổ biến nhất trong các đạo luật về môi trường của Singapore,
phạt tiền được xem là công cụ hữu hiệu trong việc tăng cường hiệu lực pháp luật
về bảo vệ môi trường của Singapore. Chánh án của Singapore trong vụ
Chadrakumar - một vụ về đổ rác nơi công cộng vi phạm đạo luật về môi trường
sức khoẻ cộng đồng đã tuyên bố: “... Việc áp dụng rộng rãi hình phạt tiền sẽ làm
tăng hiệu quả trong việc trừng trị kẻ vi phạm và phòng ngừa các hành vi tương
tự, phạt tiền có độ chính xác cao, tỉ mỉ cao, để thay đổi và vì thế càng trở nên có
hiệu quả”.

Theo các đạo luật ở Singapore thì có nhiều mức độ vi phạt tiền khác nhau, tuỳ
thuộc vào các đạo luật khác nhau và mức độ nguy hiểm của hành vi gây ra. Ví dụ
trường hợp đổ rác nơi công cộng, nếu bị Toà án kết tội thì người vi phạm sẽ bị
phạt đến 10.000$ với vi phạm lần đầu và nếu tái phạm sẽ bị phạt tới 20.000$.

Ngoài ra, các đạo luật về môi trường của Singapore cũng quy định phạt tiền một
cách rất linh hoạt đối với các vi phạm ít nghiêm trọng, đó là việc cho phép người

35
vi phạm trả một khoản tiền thích hợp cho Bộ Môi trường Singapore và vụ việc sẽ
tự kết thúc mà không phải đưa ra Toà.

+ Hình phạt tù

Đây là chế tài nghiêm khắc nhất nhằm trừng trị những người vi phạm ngoan cố,
khi mà các hành vi phạm tội có thể mang lại cho người phạm tội những khoản
lợi nhuận lớn nếu họ không bị phát hiện và hình phạt tiền vẫn không ngăn chặn
được các hành vi mà người đó gây ra. Ví dụ: theo Đạo luật về môi trường sức
khoẻ cộng đồng và Đạo luật kiểm soát ô nhiễm thì những người vi phạm lần đầu
bị buộc tội về hành vi đưa chất thải hoặc các chất độc hại vào nguồn nước ngầm
có thể bị phạt tù đến 12 tháng. Đối với những người tái phạm thì có thể bị phạt tù
với chế độ khắc nghiệt từ 1 đến 12 tháng.

+ Tạm giữ và tịch thu

Một số luật về môi trường quy định về việc tạm giữ và tịch thu các công cụ,
phương tiện được sử dụng vào việc phạm tội. Ngoài ra, nếu trường hợp thực
phẩm không phù hợp cho con người có thể bị tịch thu và tiêu huỷ theo Đạo luật
về môi trường và sức khoẻ cộng đồng và Đạo luật về mua bán thực phẩm.

+ Lao động cải tạo bắt buộc

Lao động cải tạo bắt buộc là biện pháp mà qua thực tiễn thực thi pháp luật về
môi trường ở Singapore cho thấy đây là một biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn
các vi phạm nhỏ, những người vi phạm đã bị áp dụng hình phạt lao động cải tạo
bắt buộc ít khi lặp lại hành vi đã vi phạm, đặc biệt rất ít người tái phạm. Cụ thể
tại Mục 21A quy định: “Người nào từ 16 tuổi trở lên bị kết án vì vi phạm một

36
trong các quy định tại mục 18 hoặc 20, và nếu trước khi anh ta bị kết tội, toà án
thấy rằng để cải tạo người vi phạm và để bảo vệ môi trường cũng như sức khoẻ
cộng đồng liên quan đến môi trường, người vi phạm cần phải thực hiện công
việc liên quan đến vệ sinh làm sạch các vị trí nhất định mà không được trả thù
lao thì thay cho các quyết định hoặc hình phạt khác và trừ khi có những lý do
đặc biệt. Toà án sẽ ra quyết định bắt buộc lao động cải tạo đối với người vi phạm
buộc họ phải thực hiện công việc nói trên dưới sự giám sát của các nhân viên
giám sát, phù hợp với các quy định của mục này và mục 21B”.

Bên cạnh các quy định cụ thể nêu trên, pháp luật về môi trường của Singapore
cũng xác định trách nhiệm tuyệt đối với việc phạm tội mà có thể là nguyên nhân
gây hại đối với môi trường hoặc sức khoẻ của cộng đồng nói chung, trong một số
trường hợp toà án có thể phán quyết về hành vi phạm tội đã được thực hiện
không cần công tố phải chứng minh bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi đó. Ví dụ:
trường hợp Young Heng Yew (1996) bị buộc tội xả rác nơi công cộng là vi phạm
phải chịu trách nhiệm tuyệt đối. Cụ thể là bị buộc tội vi phạm mục 18 (1) (a) của
Đạo luật về môi trường sức khoẻ cộng đồng vì đã vứt một mẩu thuốc lá xuống
sàn. Người này thừa nhận là có vứt mẩu thuốc lá xuống sàn nhưng khẳng định là
anh ta có ý định nhặt mấu thuốc lá đó và cho vào nơi quy định, nhưng không kịp
vì anh ta bị bắt ngay sau khi vừa vứt mẩu thuốc lá xuống sàn. Toà án cấp dưới
kết luận anh ta không có tội với lập luận rằng công tố buộc tội không chứng
minh được là người bị buộc tội này không có ý định nhặt mẩu thuốc lá để cho
vào nơi quy định. Khi xem xét kháng nghị của công tố, Chánh án Singapore cho
rằng: “Vi phạm quy định tại mục 18 (1)... là vi phạm thuộc loại “chịu trách
nhiệm tuyệt đối”. Điều này không ám chỉ những vi phạm mà yếu tố chủ quan
hoàn toàn không tồn tại, nó dùng để chỉ những vi phạm mà ở đó yếu tố chủ quan

37
có lỗi không cần làm rõ ngay..., ngay hành vi vứt mẩu thuốc lá xuống sàn đã
chứng tỏ đó là hành vi cố ý, việc buộc tội không cần phải làm sáng tỏ sự tồn tại
của trạng thái lỗi trong ý thức”.

Biện pháp hành chính

Tuy pháp luật Singapore xem chế tài hình sự là quan trọng nhất trong việc bảo
vệ môi trường nhưng không vì thế mà xem nhẹ các chế tài hành chính và dân sự
bởi nếu chỉ riêng chế tài hình sự thì không thể bảo vệ môi trường một cách có
hiệu quả. Không giống như các chế tài hình sự và dân sự thường là các biện pháp
tức thời, các chế tài hành chính thường có hiệu lực trong việc bảo đảm các biện
pháp liên tục, đặc biệt là các hoạt động gây ô nhiễm. Một số chế tài hành chính
đã được chấp nhận là các kế hoạch sử dụng đất, giấy phép và việc ban hành cá
mệnh lệnh thông báo. Cụ thể là:

+ Kế hoạch sử dụng đất

Việc lập kế hoạch sử dụng đất trong kiểm soát môi trường cơ bản có tính chất
phòng ngừa. Các khu vực dành cho công nghiệp nặng, công nghiệp vừa và công
nghiệp làm sạch được phân ranh giới rõ ràng. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ
Môi trường và các cơ quan liên quan như Uỷ ban tái phát triển đô thị và Cục
kiểm soát xây dựng.

+ Giấy phép, giấy chứng nhận

Việc cấp giấy phép và giấy chứng nhận thuộc thẩm quyền của Bộ Môi trường
nhằm đảm bảo kiểm soát và quản lý chặt chẽ các hoạt động có khả năng tác động
có hại tới môi trường. Cụ thể là trước khi một hoạt động được phép tiến hành,

38
Bộ Môi trường phải đảm bảo là hoạt động đó sẽ không gây ra tác hại gì cho môi
trường. Ví dụ về Đạo luật kiểm soát ô nhiễm về môi trường, các hoạt động công
nghiệp có khả năng gây ô nhiễm không khí đều phải được phép của Bộ Môi
trường trước khi công việc được triển khai.

+ Thông báo và lệnh

Thông báo và lệnh được áp dụng trong trường hợp người chủ sở hữu hoặc quản
lý một tài sản không tuân thủ các quy định tiêu chuẩn hoặc điều kiện về môi
trường được quy định trong các đạo luật liên quan. Thông báo và lệnh này sẽ yêu
cầu chủ sở hữu hoặc quản lý tài sản phải tuân thủ các yêu cầu đặt ra trong đó.
Nếu không thực hiện các yêu cầu đó, chủ sở hữu hoặc quản lý phải chịu trách
nhiệm trước toà án và phải chịu hình phạt.

Bên cạnh các quy định về thông báo và lệnh để đảm bảo yếu tố dân chủ trong
việc thực thi pháp luật trong nhiều đạo luật khác nhau, người nhận được lệnh
hoặc thông báo nếu không đồng ý với yêu cầu đề ra trong đó thì sẽ nộp đơn phản
đối. Đơn phản đối đó sẽ được Bộ trưởng Bộ có liên quan quyết định: giữ nguyên,
thay đổi hoặc bãi bỏ lệnh hoặc thông báo đề ra. Quyết định này của Bộ trưởng là
quyết định cuối cùng. Ví dụ theo điều 93 Luật về môi trường sức khoẻ cộng
đồng, thì bất cứ người nào nếu không đồng ý với thông báo, lệnh hoặc quyết
định của người có thẩm quyền thì trong vòng 7 ngày nhận được lệnh, thông báo
hoặc quyết định có thể nộp đơn phản đối tới Bộ trưởng và Bộ trưởng là người
trực tiếp xem xét, giải quyết.

Ngoài ra, chế tài hành chính còn thực hiện chức năng giám sát nhằm đảm bảo
hạn chế tiếng ồn tại các công trường không được vượt quá giới hạn cho phép.

39
Nếu có tiếng khiếu nại từ phía dân chúng, Bộ Môi trường phải tiến hành đánh
giá độc lập về mức độ tiếng ồn. Nếu tiếng ồn vượt quá mức độ quy định, thì chủ
sở hữu, người quản lý công trường xây dựng có liên quan, căn cứ vào chứng cứ
đã có quản chịu một khoản tiền phạt tối đa là 2.000USD, nếu tái phạt phải nộp
100USD cho mỗi ngày tái phạm tiếp theo.

Do tính cấp thiết của pháp luật về môi trường cho nên trong các Đạo luật về môi
trường cũng đã trao cho Bộ Môi trường một số quyền hạn để thực thi các công
việc khẩn cấp, nhằm thi hành ngay bất kỳ nhiệm vụ nào nếu nhiệm vụ đó là cấp
bách đối với sự an toàn xã hội, sức khoẻ hay dịch vụ cộng đồng. Ví dụ: trong
điều 90 Luật Bảo vệ môi trường quy định: “trong trường hợp khẩn cấp, người có
thẩm quyền có thể chỉ đạo thực hiện ngay lập tức bất kỳ nhiệm vụ hoặc làm bất
cứ việc gì theo quy định tại Luật này, nếu người có thẩm quyền thấy công việc
đó là cần thiết cho sức khoẻ cộng đồng hoặc cho sự an toàn của xã hội”.

Biện pháp dân sự

Bên cạnh các chế tài về Hình sự và Hành chính, các Đạo luật môi trường
Singapore cũng quy định nhiều hình thức chế tài dân sự. Cụ thể như: Yêu cầu cá
nhân gây ô nhiễm phải nộp phạt, bồi thường thiệt hại, chi phí và các khoản phí
tổn mà cơ quan có thẩm quyền phải chịu để làm sạch môi trường... Theo Điều 97
của Luật Bảo vệ môi trường của Singapore thì Chính phủ có thể thu giữ lại từ
người sở hữu hoặc quản lý tài sản các phí tổn và chi phí đã được sử dụng trong
quá trình thực hiện bất kỳ nào đã được quy định trong luật. Trong vòng 14 ngày
theo quy định, nếu chi phí này chưa được thanh toán thì vụ việc sẽ được đưa ra
Toà.

40
Trên đây là một số quy định về tổng quan pháp luật môi trường Singapore. Từ
một số vấn đề nêu trên cho ta thấy sở dĩ môi trường Singapore trở nên sạch, đẹp
và để có được một Singapore là “thành phố của cây xanh” phải có rất nhiều yếu
tố, nhưng chính pháp luật về môi trường được quy định một cách toàn diện là
công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo sự sạch, đẹp cho môi trường Singapore

Ngày nay, người dân thành phố sư tử đang sống trong một thành phố sạch đẹp
với tiêu chí sức khỏe cộng đồng rất cao. Họ được sử dụng không khí trong lành
và nguồn nước tuyệt đối đảm bảo cũng như việc tiếp cận thể thao công cộng,
những cơ hội hoạt động, tập luyện nâng cao sức khỏe. Tuy nhiên, cũng như
những quốc gia khác, Singapore cũng phải chịu những ấp lực từ các vấn đề môi
trường mang tính toàn cầu.

Việc duy trì những gì đảo quốc này đang có và tạo nên sự phát triển bền lâu
trong tương lai không phải điều dễ dàng. Trong môi trường nội địa, một nền kinh
tế phát triển mạnh hơn, dân số đống hơn sẽ trở thành sức ép lớn đè nặng lên
không chỉ môi trường sống mà còn là những tài nguyên thiết yếu nhưng có hạn
như: tài nguyên đất, nước sạch và năng lượng. Còn đối với mơi trường rộng lớn
hơn là thế giới, việc leo thang của giá khí đốt do nhu cầu ngày một cao của kinh
tế toàn cầu sẽ ảnh hưởng không nỏ tới nền kinh tế mở nhỏ bé Singapore. Ngoài
ra vấn đề thay đổi khí hậu đã đưa ra một yêu cầu cấp thiết đối với mỗi quốc gia
phải giảm lượng khí carbon thải vào môi trường bởi chính đây là yếu tố gây nên
sự ấm lên của trái đất và đe dọa sự sống trên hành tinh này. Đó chính là vấn đè
toàn cầu mà mỗi quốc gia không chỉ Singapore phải chung tay để giải quyết vì
lợi ích của chính bản thân mỗi quốc gia.

Do vậy, với trách nhiệm của một thành viên trong cộng đồng thế giới,
Singapore muốn chung tay góp sức trong việc giảm bớt ảnh hưởng của hiệu ứng

41
nhà kính, hướng tới một sự phát triển bền vững mà vẫn đảm bảo được chất lượng
cuộc sống. Singapore sẽ cố gắng giảm lượng carbon xả vào môi trường dù rằng
đối với đảo quốc công viên này lượng carbon hiện tại vẫn còn nhỏ hơn mức quy
định của quốc tế.

Với những ý định và ý tưởng như vậy, Singapore đã bắt tay vào xây dựng
thành phố với tiêu chí Singapore xanh từ sau khi giành độc lập vào năm 1960.
Trong hồi ký “Singapore xanh”, cựu thủ tướng Lý Quang Diệu đã có đoạn nhắc
tới nỗ lực để xanh hoá Singapore của đảo quốc này.

Chính phủ Singapore bắt đầu biến đổi nước này thành một thành phố vườn
nhiệt đới từ việctrồng nhiều cây tại buổi khai trương các khu cộng đồng, trong
những chuyến viếng thăm những tổ chức khác nhau và các bùng binh. Để phát
triển và tạo hiệu quả cho chiến dịch công viên hóa Singapore, thủ tướng Lý
Quang Diệu đã thiết lập một văn phòng như thế trong Bộ Phát triển Quốc gia.

Khi chúng ta nói tới phát triển xanh, cũng đồng nghĩa với việc chúng ta đề cập
tới vấn đề môi trường trong phát triển. Như những gì đã phân tích ở phần trước,
phát triển xanh bản chất là sự phát triển các mặt của đời sống xã hội, kinh tế
nhưng luôn luôn gắn chặt với lợi ích của môi trường. Sự phát triển thân thiện với
thiên nhiên, môi trường, tạo nên một môi trường tự nhiên trong lành và môi
trường sống lành mạnh cho con người luôn là mục tiêu phấn đấu cảu phát triển
xanh.

2.2.3 Xã hội hoá mô hình phát triển xanh

Một xã hội muốn phát triển không thể chỉ dựa vào hành vi của người dân cũng
không thể chỉ dựa trên nền tảng pháp lý cũng như nỗ lực một chiều từ chính phủ
mà hai yếu tố này phải phối hợp hài hòa thì một xã hội mới có thể phát triển một

42
cách bền vững, lâu dài. Chính vì vậy, mô hình phát triển xanh của Singapore
cũng hướng tới sự xã hội hoá. Xã hội hóa là quá trình con người tiếp thu văn hóa
vào nhân cách của mình để sống trong xã hội như một thành viên của nó. Xã hội
hóa không chỉ quan trọng đối với đời sống của cá nhân, nó giúp xã hội phát triển
được liên tục, có lịch sử, có hiện tại và có tương lai. Kinh nghiệm xã hội luôn tồn
tại trong xã hội, quá trình diễn ra liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác, vượt
qua đời sống của một cá nhân. Đúng với ý nghĩa phổ biến văn hóa cho người
dân, việc xã hội hóa mô hình phát triển xanh của Singapore là phổ biến văn hóa
sống xanh đối với từng người dân và để người dân đóng góp vào ý tưởng cho sự
phát triển bền vững của chính đảo quốc này.

Để xã hội hóa mô hình phát triển xanh, Singapore dựa rất nhiều vào các
phương tiện truyền thông. Trong đó, ta không thể không kể đến website:
www.sustainablesingapore.com với việc thu thập những ý tưởng và đề nghị của
người dân về làm thế nào để có thể đạt được sự phát triển bền vững trong những
lĩnh vực nhưng quản trị nguồn lực, kiểm soát ô nhiễm và chất lượng của môi
trường sống của chúng ta. Tại website này, chính phủ Singapore có thể tìm thấy
những ý tưởng của người dân dưới dạng thảo luận về một topic như sử dụng hiểu
quả năng lượng và năng lượng sạch. Tính đến thời điểm cuối năm 2008, website
này đã nhận được 1300 đề nghị. Vào 28 tháng Mười và ngày 06 tháng Mười một
năm 2008 đã có 400 người tham gia vào hai diễn đàn. Trong thời gian này, có 6
thành viên xuất sắc của hội đồng phúc thẩm đã thể hiện ý kiến là kinh nghiệm
trong lĩnh vực của mình. Những người tham gia vào diễn đàn đã thể hiện ý kiến,
đưa ra những đánh giá, phản hồi về các vấn đề được đặt ra như việc sử dụng
năng lượng hiệu quả, năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời và cân bằng
sinh thái.

43
Công việc thu thập ý kiến từ phía người dân này sẽ kết thúc vào ngày 1 tháng
12 năm 2008. Sau đó, các nhà chức hoạch định kế hoạch phát triển bền vững sẽ
mất vài tháng để nghiên cứu những ý kiến khả thi. Ngoài ra những ý tưởng này
cũng sẽ được đưa vào kế hoạch phát triển bền vững đầu năm 2009. Không chỉ có
lập ra những diễn đàn như www.sustainablesingapore.com như ở trên, với mục
tiêu xã hội hóa mô hình phát triển xanh của mình, Sinagore đã lập ra những cơ
quan chủ quản có nhiệm vụ quản lý, hỗ trợ và khuyến khích người dân nêu lên ý
tưởng và thực hiện. Đây cũng là một kênh quản lý rất hiệu quả của đảo quốc
Singapore.

Ủy ban liên bộ về phát triển bền vững

Ủy ban liên bộ về phát triển bền vững của Singapore viết tắt là IMCSD (The
Inter Ministerial Committee on Sustainable Development) được thành lập vào
tháng hai năm 2008 với mục đích tổng hợp lại những kế hoạch và chiến lược phù
hợp với hoàn cảnh trong nước và cải thiện tích cực những khó khăn bên ngoài
nhằm phục vụ cho sự phát triển bền vững của Singapore. Hai vị chủ tịch của bộ
phát triển quốc gia là ông Mah Bow Tan và của bộ môi trường và tài nguyên
nước là tiến sĩ Yaacob Ibrahim là đồng chủ tịch của IMCSD. Các thành viên của
ủy ban này gồm có bộ trưởng tài chính ông Tharman Shanmugaratnam, bộ
trưởng bộ giao thông, ông Raymond Lim và phó bộ trưởng bộ công thương
Singapore, ông S Iswaran.

Hội đồng môi trường Singapore

Hội đồng môi trường Singapore xuất phát từ hội đồng quốc gia về môi trường
của nước này (NCE-National Council on the Environment) thành lập vào tháng
11 năm 1990.

44
Hội đồng môi trường Singpore (SEC-Singapore Environment Council) ra đời
năm 1995. Kể từ đó đến nay nó được xem là hội đồng quốc gia về vấn đề môi
trường. Sự ra đời của SEC xuất phát từ sự hiểu biết rõ ràng hơn về vai trò của
mình trong cộng đồng toàn cầu với xu hướng phát triển xanh. Xét trên bình diện
thế giới, các quốc gia đều tổng hợp những nghiêm cứu thành những giải pháp
thực tiễn cho vấn đề môi trường như sự thay đổi khí hậu, công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đang gia tăng chón mặt. Năm 1992, hội nghị Liên Hợp Quốc về vấn
đề môi trường và phát triển hay được biết nhiều hơn với “hội nghị thượng đỉnh
trái đất”. Mục đích là để bổ sung những chính sách, tiêu chuẩn hiệu quả và thực
tế hơn.

Singapore đã tở thành một ví dụ điển hình cho các quốc gia khác. Đảo quốc sư
tử đã phát triển thành một đô thị công nghiệp hiện đại mà vẫn giữ được môi
trường trong sạch, không khí trong lành, nguồn nước tinh khiết và tiêu chuẩn sức
khỏe tốt cho người dân. Đảo quốc Singapore cũng được thế giới công nhận là
một thành phố công viên xanh với 5% đảo còn giữ nguyên sơ. Như một điều kỳ
diệu, đất nước nhỏ bé này đã xây dựng 50% khu vực đảocho một lượng dân số
lớn.

Khi SEC ra đời, mọi người cho rằng những ảnh hưởng về gia tăng dân số sẽ
trở thành những khó khăn hàng đầu phải đối mặt để tiến tới sự phát triển bền
vững.

Nhiệm vụ của SEC

- Giúp người dân nhận thức rõ hơn về môi trường sống cũng như môi
trường tự nhiên của Singapore.

45
- Khuyến khích mỗi cá nhân trong xã hội có ý thức sống thân thiện với
môi trường và ý thức cao hơn về trách nhiệm bảo vệ môi trường của
bản thân.

- Kết hợp với các tổ chức, viện khoa học, cá nhân nhằm bảo vệ môi
trường. Kết hợp cải tạo và bảo vệ môi trường.

- Nghiên cứu, phát triển và đưa ra những giải pháp cho cải thiện và bảo
vệ môi trường sao cho phù hợp với cá nhân, tổ chức, viện khoa học, tổ
chức cộng đồng, truyền thông tại Singapore.

46
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO
VIỆT NAM

3.1 Thực trạng của Việt Nam

3.1.1 Tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam


Về kinh tế:
Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế tăng
trưởng với tốc độ cao và tương đối ổn định. Trong những năm của thập kỷ 90
(thế kỷ 20), tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7,5%/ năm, GDP
năm 2000 đã gấp hơn 2 lần so với năm 1990. Năm 2003 GDP tăng 7,24%, bình
quân 3 năm 2001-2003, tốc độ phát triển nền kinh tế tăng trên 7,1%/năm.7
Trong ngành nông nghiệp, sản xuất lương thực từ mức 19,9 triệu tấn (quy thóc)
năm 1990 đã tăng lên tới trên 37 triệu tấn năm 2003; lương thực có hạt bình quân
đầu người tăng từ 303 kg năm 1990 lên 462 kg năm 2003, không những bảo đảm
an ninh lương thực vững chắc cho đất nước mà còn đưa Việt Nam vào danh sách
những nước xuất khẩu gạo hàng đầu của thế giới. Nhờ bảo đảm an ninh lương
thực, các cây nông nghiệp hàng hoá và chăn nuôi có điều kiện phát triển. Gạo, cà
phê, cao su, hạt điều, chè, lạc, rau quả, thịt lợn, thuỷ hải sản đã trở thành những
mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng của Việt Nam.
Công nghiệp đã được cơ cấu lại và dần dần tăng trưởng ổn định. Tốc độ tăng
bình quân hàng năm trong mười năm qua đạt mức 13,6%; trong đó khu vực quốc
doanh tăng 11,4%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 11,4% và khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài tăng 22,5%. Tính theo giá trị sản xuất, quy mô sản xuất công
nghiệp năm 2000 đã gấp 3,6 lần năm 1990. Trong 3 năm 2001-2003 công nghiệp
7
Theo số liệu của tổng cục thống kê Việt Nam các năm

47
tiếp tục phát triển khá, giá trị sản xuất tăng 15%, trong đó công nghiệp quốc
doanh tăng 12,1%/năm, công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 19,8%/năm và công
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,6%.8
Các ngành dịch vụ đã được mở rộng và chất lượng phục vụ đã được nâng lên,
đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống dân cư. Giá trị sản xuất
các ngành dịch vụ bình quân 10 năm (1990-2000) tăng 8,2%, bình quân 3 năm
(2001-2003) tăng trên 7%. Thị trường trong nước đã thông thoáng hơn với sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Giá trị hàng hoá bán ra trên thị trường
trong nước năm 2000 đạt gấp 12,3 lần so với năm 1990. Trong 3 năm (2001-
2003) thị trường trong nước càng trở nên sôi động, tổng mức lưu chuyển hàng
hoá trên thị trường tăng bình quân hàng năm trên 12%.
Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải phát triển nhanh, đáp ứng khá tốt cho yêu cầu
phát triển kinh tế-xã hội. Giá trị dịch vụ vận tải, kho tàng, thông tin liên lạc tăng
1,8 lần.
Du lịch đã có bước phát triển khá, nhiều trung tâm du lịch được nâng cấp, trùng
tu, cải tạo, các loại hình du lịch phát triển đa dạng, đặc biệt trong những năm gần
đây đã tập trung khai thác nâng cao giá trị nhân văn và bản sắc văn hoá dân tộc
trong các tuyến du lịch, làm cho du lịch càng thêm phong phú, hấp dẫn khách du
lịch trong và ngoài nước.
Dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển nhanh, mạng lưới viễn thông trong nước
đã được hiện đại hoá về cơ bản. Nhiều phương tiện thông tin hiện đại đạt tiêu
chuẩn quốc tế đã được phát triển, bước đầu đáp ứng nhu cầu thông tin, giao dịch
thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Đã hình thành thị trường
dịch vụ bảo hiểm với sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế trong và ngoài nước. Dịch vụ tài chính, ngân hàng có những đổi mới
8
Theo số liệu Tổng cục thống kê Việt Nam qua các năm

48
quan trọng. Các dịch vụ khác như tư vấn pháp luật, khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo, y tế...đã bắt đầu phát triển.
Do sản xuất phát triển và thực hiện các chính sách điều tiết tài chính, tiền tệ có
hiệu quả, môi trường kinh tế vĩ mô đã ổn định, tạo điều kiện cho thu hút đầu tư
và nâng cao mức sống nhân dân.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Việt Nam cũng vẫn còn mắc phải một số
hạn chế trong quá trình phát triển. Nguồn lực phát triển còn thấp nên những yêu
cầu về phát triển bền vững ít có đủ điều kiện vật chất để thực hiện. Đầu tư được
tập trung chủ yếu cho những công trình mang lại lợi ích trực tiếp, còn rất ít đầu
tư cho tái tạo các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Số nợ hiện nay của Việt Nam so với các nước khác chưa thuộc loại cao và chưa
tới giới hạn nguy hiểm, song nó đang tăng lên nhanh chóng và sẽ có nguy cơ đe
doạ tính bền vững của sự phát triển trong tương lai, nhất là khi vốn vay chưa
được sử dụng có hiệu quả. Mức độ chế biến, chế tác nguyên vật liệu trong nền
kinh tế Việt Nam còn rất thấp và mức độ chi phí nguyên, nhiên, vật liệu cho một
đơn vị giá trị sản phẩm còn cao; sản phẩm tiêu dùng trong nước cũng như xuất
khẩu phần lớn là sản phẩm thô; sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu là theo chiều
rộng...trong khi đó những nguồn tài nguyên thiên nhiên chỉ có hạn và đã bị khai
thác đến mức tới hạn.
Xu hướng giảm giá các sản phẩm thô trên thị trường thế giới gây ra nhiều khó
khăn cho tăng trưởng nông nghiệp ở Việt Nam. Với cơ cấu sản xuất như hiện
nay, để đạt được một giá trị thu nhập như cũ từ thị trường thế giới, Việt Nam đã
phải bán đi một số lượng hàng hoá hiện vật nhiều hơn trước.
Các mục tiêu phát triển của các ngành có sử dụng tài nguyên thiên nhiên còn
mâu thuẫn nhau và chưa được kết hợp một cách thoả đáng. Các cấp chính quyền

49
ở cả Trung ương và địa phương chưa quản lý có hiệu quả việc sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Về xã hội:
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển xã hội. Đầu tư
của Nhà nước cho các lĩnh vực xã hội ngày càng tăng, hiện chiếm trên 25% vốn
ngân sách nhà nước, trong đó đặc biệt ưu tiên đầu tư cho xóa đói giảm nghèo,
giải quyết việc làm, giáo dục-đào tạo, dạy nghề, y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân
dân, phòng chống các tệ nạn xã hội, khoa học-công nghệ, bảo vệ môi trường
cũng như các dịch vụ xã hội cơ bản khác.
Một hệ thống luật pháp đã được ban hành đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn và
phù hợp hơn với yêu cầu đổi mới của đất nước trong tình hình mới như Bộ Luật
dân sự; Bộ Luật lao động; Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân; Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em; Luật bảo vệ môi trường; Luật giáo dục; Luật khoa học và
công nghệ; Pháp lệnh ưu đãi người có công, Pháp lệnh người tàn tật, Luật bảo
hiểm...
Nhiều chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển xã hội đã, đang được triển
khai thực hiện và đạt hiệu quả xã hội cao. Bảy chương trình mục tiêu quốc gia
giai đoạn 1998-2000 về: xóa đói giảm nghèo; giải quyết việc làm; dân số và kế
hoạch hoá gia đình; phòng chống HIV/AIDS; thanh toán một số bệnh xã hội và
bệnh dịch nguy hiểm; nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; xây dựng lực
lượng vận động viên tài năng và các trung tâm thể thao trọng điểm; phòng,
chống tội phạm cũng như một số chương trình mục tiêu khác về: phát triển kinh
tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; tiêm chủng
mở rộng cho trẻ em; xóa mù chữ và phổ cập tiểu học; phòng chống các tệ nạn xã
hội...đã được triển khai thực hiện và đạt hiệu quả tốt về mặt xã hội. Các quỹ
quốc gia về xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ tạo việc làm, quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ

50
tình thương, quỹ hỗ trợ trẻ em nghèo vượt khó...đã được thành lập và hoạt động
có hiệu quả. Giai đoạn 2001-2005 có 6 chương trình mục tiêu quốc gia về: xoá
đói giảm nghèo và việc làm; nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; dân số
và kế hoạch hoá gia đình; phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy
hiểm và HIV/AIDS; văn hoá; giáo dục và đào tạo đã được phê duyệt, đang tích
cực triển khai thực hiện và đạt được những kết qủa ban đầu về mặt xã hội đáng
khích lệ.
Đời sống nhân dân ở cả thành thị và nông thôn đã được cải thiện rõ rệt. Công
cuộc xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu được dư luận trong nước và
thế giới đánh giá cao. Tỷ lệ hộ nghèo đói trong cả nước tính theo chuẩn nghèo
quốc gia giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 10% năm 2000 (theo chuẩn cũ), bình
quân mỗi năm giảm được gần 300 nghìn hộ. Tính theo chuẩn mới thì đến năm
2003 tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 11%. Tính theo chuẩn nghèo có thể so sánh
quốc tế của Điều tra mức sống dân cư 1993 và 1998, thì tỷ lệ nghèo chung đã
giảm từ 58% năm 1993 xuống 37% năm 1998 và tỷ lệ nghèo lương thực giảm từ
25% xuống còn 15%. Từ năm 1991 đến năm 2000, số người có việc làm tăng từ
30,9 triệu lên 40,6 triệu người, bình quân mỗi năm tăng thêm khoảng 2,9%. Mỗi
năm có khoảng 1,2 triệu chỗ làm việc mới được tạo ra.
Đến năm 2000, cả nước đạt tiêu chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học, trên 90% dân cư được tiếp cận với dịch vụ y tế, 60% số hộ gia đình
có nước sạch, sóng truyền hình đã phủ 85%, sóng phát thanh phủ 95% diện tích
cả nước.9
Các chỉ tiêu xã hội được cải thiện hơn rất nhiều. Chỉ số phát triển con người
(HDI) của Việt Nam đã tăng từ 0,611 năm 1992 lên 0,682 năm 1999. Xếp hạng
HDI trong số 162 nước, Việt Nam đứng thứ 120 năm 1992; thứ 101 năm 1999 và
9
http://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=217

51
thứ 109 trên 175 nước vào năm 2003. So với một số nước có tổng sản phẩm
trong nước-GDP trên đầu người tương đương, thì HDI của Việt Nam cao hơn
đáng kể. Về chỉ số phát triển giới (GDI), năm 2003 Việt Nam được xếp thứ 89
trong trong tổng số 144 nước. Phụ nữ chiếm 26% tổng số đại biểu Quốc hội, là
một trong 15 nước có tỷ lệ nữ cao nhất trong cơ quan quyền lực của nhà nước.
Tuy nhiên xã hội chúng ta vẫn còn một và vấn đề cần khắc phục, trong đó baol
gồm: Quan điểm phát triển bền vững chưa được thể hiện một cách rõ rệt và nhất
quán qua hệ thống chính sách và các công cụ điều tiết của Nhà nước. Các chính
sách kinh tế-xã hội còn thiên về tăng trưởng nhanh kinh tế và ổn định xã hội, mà
chưa quan tâm đầy đủ, đúng mức đến tính bền vững khi khai thác và sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Mặt khác, các chính sách bảo vệ môi
trường lại chú trọng việc giải quyết các sự cố môi trường, phục hồi suy thoái và
cải thiện chất lượng môi trường, mà chưa định hướng phát triển lâu dài nhằm
đáp ứng những nhu cầu tương lai của xã hội. Quá trình lập quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội và quá trình xây dựng chính sách bảo vệ môi
trường còn chưa được kết hợp chặt chẽ, lồng ghép hợp lý với nhau. Cơ chế quản
lý và giám sát sự phát triển bền vững chưa được thiết lập rõ ràng và có hiệu lực.
Sức ép về dân số tiếp tục gia tăng, tình trạng thiếu việc làm ngày một bức xúc, tỷ
lệ hộ nghèo còn cao vẫn là những trở ngại lớn đối với sự phát triển bền vững.
Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Số lượng và chất lượng lao động kỹ thuật
(về cơ cấu ngành nghề, kỹ năng, trình độ) chưa đáp ứng được yêu cầu của thị
trường lao động.
Khoảng cách giàu nghèo và phân tầng xã hội có xu hướng gia tăng nhanh chóng
trong nền kinh tế thị trường. Mô hình tiêu dùng của dân cư đang diễn biến theo
truyền thống của các quốc gia phát triển, tiêu tốn nhiều nguyên vật liệu, năng
lượng và thải ra nhiều chất thải và chất độc hại. Mô hình tiêu dùng này đã, đang

52
và sẽ tiếp tục làm cho môi trường tự nhiên bị quá tải bởi lượng chất thải và sự
khai thác quá mức.
Một số tệ nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm, căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, tham
nhũng còn chưa được ngăn chặn có hiệu quả, gây thất thoát và tốn kém các
nguồn của cải, tạo ra nguy cơ mất ổn định xã hội và phá hoại sự cân đối sinh
thái.
Về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường:
Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhằm khắc phục những hậu quả môi trường do
chiến tranh để lại. Nhiều chính sách quan trọng về quản lý, sử dụng tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ môi trường đã được xây dựng và thực hiện trong những
năm gần đây. Hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được hình
thành ở cấp Trung ương và địa phương. Công tác quản lý môi trường, giáo dục ý
thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường cho mọi tổ chức, cá nhân ngày càng được
mở rộng và nâng cao chất lượng. Công tác giáo dục và truyền thông về môi
trường đang được đẩy mạnh. Nội dung bảo vệ môi trường đã được đưa vào giảng
dạy ở tất cả các cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Việc thực hiện những chính sách trên đã góp phần tăng cường quản lý, khai thác
hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn ô
nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường; phục hồi và cải thiện một cách rõ rệt chất
lượng môi trường sinh thái ở một số vùng.
Nhưng do chú trọng vào phát triển kinh tế, nhất là tăng trưởng GDP, ít chú ý tới
hệ thống thiên nhiên, nên hiện tượng khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí tài
nguyên thiên nhiên, gây nên suy thoái môi trường và làm mất cân đối các hệ sinh
thái đang diễn ra phổ biến. Một số cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, bệnh
viện…gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Quá trình đô thị hoá tăng lên
nhanh chóng kéo theo sự khai thác quá mức nguồn nước ngầm, ô nhiễm nguồn

53
nước mặt, không khí và ứ đọng chất thải rắn. Đặc biệt, các khu vực giàu đa dạng
sinh học, rừng, môi trường biển và ven biển chưa được chú ý bảo vệ, đang bị
khai thác quá mức.
Tuy các hoạt động bảo vệ môi trường đã có những bước tiến bộ đáng kể, nhưng
mức độ ô nhiễm, sự suy thoái và suy giảm chất lượng môi trường vẫn tiếp tục gia
tăng. Điều này chứng tỏ năng lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy làm công
tác bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển bền vững.
Công tác bảo vệ môi trường có tính liên ngành, liên vùng, liên quốc gia và toàn
cầu, cần phải được tiến hành từ cấp cơ sở phường xã, quận huyện. Chúng ta còn
thiếu phương thức quản lý tổng hợp môi trường ở cấp vùng, liên vùng và liên
ngành, trong khi đó lại có sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các cấp, các
ngành trong công tác bảo vệ môi trường. Quản lý nhà nước về môi trường mới
được thực hiện ở cấp Trung ương, ngành, tỉnh, chưa hoặc có rất ít ở cấp quận
huyện và chưa có ở cấp phường xã. Một số quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội
vùng đã được xây dựng, song chưa có cơ chế bắt buộc các địa phương và các
ngành tham gia khi xây dựng và thực hiện quy hoạch này.
Đầu tiên là các cơ sở công nghiệp hoá chất, sản xuất thuốc trừ sâu, phân bón và
khai thác chế biến khoáng sản thải ra cyanua vượt quá tiêu chuẩn cho phép hơn
80 lần còn H2S gấp 4 lần. Tiếp đến là các cơ sở dệt may, cơ sở công nghiệp giấy,
với nước thải có độ kiềm cao (độ PH 9 – 11), chứa nhiều kim loại nặng, chất hữu
cơ đa vòng thơm chứa Clo độc hại rất khó phân huỷ trong môi trường tự nhiên.
Loại nước thải này có chỉ số nhu cầu ôxy sinh hoá (BOD) có thể lên tới 700 mg/l
và nhu cầu ôxy hoá học (COD) cao tới 2.500 mg/l, có thể gấp 17 lần tiêu chuẩn
cho phép, thường không được xử lý trước khi đổ vào sông. phát triển kinh tế
chưa dung hoà với bảo vệ môi trường. Ông Phùng Văn Vui, Chánh Thanh tra
Cục Bảo vệ Môi trường “cụ thể hoá” rằng: “Cứ 4 đơn vị sản xuất thì có 1 cơ sở

54
vi phạm”. Theo đúng luật thì nhiều nhà máy sẽ phải đóng cửa từ lâu, ví dụ như
Gang thép Thái Nguyên. Nước thải của nhà máy này chứa nhiều phenon, kim
loại nặng, NH4 (30 mg/l), các hợp chất hữu cơ (120 mg/l), làm ô nhiễm sông
Cầu nghiêm trọng, nhất là vào lúc không phải là mùa lũ trong năm.
Nước thải bẩn đổ vào sông là tình trạng phổ biến ở các đô thị, nghiêm trọng nhất
là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Một số cơ sở chế biến thực phẩm và giết
mổ gia súc không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh lại bị quá tải lâu nay. Ở Hà Nội, 62
cơ sở giết mổ gia súc (37 cơ sở giết mổ lợn, còn lại là giết mổ trâu, bò) thì có 6
cơ sở tư nhân, tất cả số này dù đã có đầu tư nâng cấp nhà xưởng, bể chứa và
đường ống nước, nhưng vẫn không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và đều
giết mổ thủ công. Chỉ có một cơ sở duy nhất tại Công ty chế biến thực phẩm
Lương Yên là có hệ thống nhà xưởng máy móc giết mổ hoàn chỉnh. Chất thải từ
quá trình giết mổ ở các cơ sở tư nhân đều chảy thẳng ra cống thoát nước thành
phố, bể phốt là thứ hiếm hoi ở các lò mổ này. Vì thế, dù được nhân viên thú y
kiểm định, không thể đảm bảo thịt đưa ra thị trường đủ tiêu chuẩn an toàn vệ
sinh thực phẩm. Thực chất các lò mổ này hiện nay chỉ là điểm “thu gom” các lò
mổ tự phát, nhỏ lẻ để cơ quan thú y dễ kiểm dịch hơn mà thôi. Bỏ ra hơn 5 tỷ
đồng để đầu tư cho mỗi lò mổ hiện đại được “cơ giới hoá” là điều mới nằm trong
trong “kế hoạch". Tình trạng ở thành phố Hồ Chí Minh cũng tương tự.
Lò mổ “tự phát” tại nông thôn thì sao? Làng nào cũng có vài hộ gia đình làm
nghề “hàng dát”. Tất nhiên, chất thải từ giết mổ thường chảy xuống ao, cũng như
mọi loại chất thải sinh hoạt khác. Ao vẫn là nơi rửa bát, rửa rau, giặt chăn chiếu
ở nhiều vùng nông thôn. Thuốc trừ sâu bị sử dụng bừa bãi, các loại bao túi đựng
thuốc trừ sâu vương vãi bên bờ ruộng, cạnh đường làng... nhiều nơi. Và cá, tôm
dưới ao nước bẩn cũng sẽ bị nhiễm bẩn. Còn tại Hà Nội, nơi ao đã bị lấp hầu hết,
các hồ đều là nơi “chứa tạm” nước cống và chống ngập lụt cho thành phố.

55
Nhưng cá nuôi ở Hồ Tây (hồ ít ô nhiễm nhất) bán vẫn rất chạy, xí nghiệp nuôi cá
Hồ Tây ăn nên làm ra, đồng thời dân quanh hồ không ít người đang kiếm sống
bằng cách câu cá trộm. Trai, ốc tại các hồ ao ô nhiễm của Hà Nội cũng tiêu thụ
tốt. Dịch bệnh ở tôm nuôi tại các địa phương rộ lên gần đây như Long An và
nhiều tỉnh miền Trung có nguyên nhân mấu chốt là môi trường nơi nuôi tôm đã
bị ô nhiễm.
Các loại nghề thủ công vừa phát đạt lại đã ô nhiễm, có thể kể đến làng gốm sứ
Bát Tràng, các làng sơn mài ở Hà Tây, đồ gỗ Đồng Kỵ, làng rèn Vân Chàng...

3.1.2 Chương trình phát triển bền vững của Việt Nam
Thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi
trường:
Trong thời gian qua, nhờ tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và do chính sách mở
cửa nền kinh tế, lĩnh vực tiêu dùng của nhân dân đã được cải thiện rõ rệt. Tuy
vậy, trong lĩnh vực tiêu dùng, còn một số xu hướng ảnh hưởng tiêu cực tới triển
vọng phát triển bền vững:
1. Mô hình tiêu dùng của một bộ phận dân cư, trước hết ở các đô thị vẫn còn
nặng về tiêu dùng truyền thống, sử dụng nguyên liệu thô chưa qua chế biến,
trong đó có nhiều điều không có lợi cho việc tiết kiệm tài nguyên và phát triển
bền vững. Tiêu dùng phô trương, lãng phí ngày càng phổ biến trong một số tầng
lớp dân cư đang đối đầu với lối sống tiết kiệm, gần gũi và hài hoà với thiên nhiên
của hệ giá trị đạo đức xã hội truyền thống.
Tình trạng khai thác cạn kiệt các loài động, thực vật quý hiếm và tài nguyên
thiên nhiên không tái tạo lại còn khá phổ biến. Hoá chất, thực phẩm, các chất
kích thích tăng trọng, các sản phẩm biến đổi gen được sử dụng ngày càng nhiều.

56
Tiêu dùng năng lượng cho sinh hoạt và giao thông vận tải tăng lên dẫn đến việc
tiêu thụ nhiều than và xăng dầu hơn so với trước đây làm tăng mức ô nhiễm môi
trường. Trong khi đó, các dạng năng lượng sạch có tiềm năng lớn ở Việt Nam và
có thể sử dụng phổ biến ở quy mô gia đình như năng lượng mặt trời, gió, thuỷ
điện nhỏ, biogas còn ít được nghiên cứu, ứng dụng và phổ cập. Còn thiếu những
chính sách khuyến khích việc phát triển các loại hình giao thông vận tải tiết
kiệm, phương tiện vận tải công suất nhỏ và sử dụng năng lượng sạch, thân thiện
với môi trường.
2. Trong việc sản xuất và tiêu dùng hàng hoá, tình trạng sử dụng lãng phí tài
nguyên cho một số nhu cầu không hợp lý đã bắt đầu phổ biến. Số lượng rượu,
bia, thuốc lá được sản xuất, nhập khẩu và tiêu dùng tăng lên với tốc độ không
tương xứng với mức sống còn thấp và khả năng thu nhập của dân cư. Tình trạng
nghiện rượu, nghiện ma tuý không giảm đi. Các loại nguyên vật liệu không tái
chế và khó phân huỷ (như kim loại, PVC) thải ra ngày càng nhiều.
3. Chưa có chính sách và biện pháp cụ thể hướng dẫn phương thức tiêu dùng hợp
lý, nhất là các chính sách, biện pháp tài chính để khuyến khích tiêu dùng thân
thiện với môi trường.
4. Một bộ phận dân cư còn đang sống dưới ngưỡng nghèo, chưa đáp ứng đủ
những nhu cầu cơ bản của mình về ăn, mặc, ở, học hành, về những hàng hoá tiêu
dùng và dịch vụ thiết yếu. Nghèo đói là một trong những nguyên nhân gây nên
tình trạng khai thác bừa bãi, sử dụng lãng phí và không hợp lý tài nguyên thiên
nhiên. Nó cũng cản trở việc thực hiện những cách thức tiêu dùng có hiệu quả
nhằm góp phần phát triển bền vững hơn.
Thực hiện quá trình "công nghiệp hóa sạch":
Đẩy mạnh công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của Việt Nam trong thời gian
10 năm tới. Thực hiện một chiến lược "công nghiệp hóa sạch" là ngay từ ban đầu

57
phải quy hoạch sự phát triển công nghiệp với cơ cấu ngành nghề, công nghệ,
thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường; tích cực ngăn ngừa và xử
lý ô nhiễm công nghiệp, xây dựng nền "công nghiệp xanh". Những tiêu chuẩn
môi trường cần được đưa vào danh mục tiêu chuẩn thiết yếu nhất để lựa chọn các
ngành nghề khuyến khích đầu tư, công nghệ sản xuất và sản phẩm, quy hoạch
các khu công nghiệp, khu chế xuất và xây dựng các kế hoạch phòng ngừa, ngăn
chặn, xử lý và kiểm soát ô nhiễm.

3.2 Những kinh nghiệm thực tiễn rút ra cho Việt Nam từ mô hình phát triển
xanh của Singapore

3.2.1Thay đổi nhận thức của người dân

Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Con
người là động lực cũng chính là nguồn lực để tạo nên sự phát triển. Nhận thức
tầm quan trọng của yếu tố này, trong mô hình phát triển xanh của Singapore, cựu
thủ tưởng Lý Quang Diệu đã đặt yếu tố con người lên hàng đầu. Chính vì vậy,
trong kế hoạch xây dựng Singapore xanh của mình ông đã đặt việc thay đổi ý
thức người dân là việc cần làm đầu tiên.

Mặc dù xã hội Việt Nam đã có nhiều thay đổi kể từ khi đổi mới cách đây hơn 20
năm, ý thức người dân vẫn chưa có sự thay đổi tương đồng với sự phát triển đó.
Ý thức người dân không cao khiến cho việc không chấp hành pháp luật trở thành
phổ biến. Việc môi trường sống của chúng ta trở nên ô nhiễm hơn do rác thải
sinh hoạt, nguồn nước ô nhiễm do nước thải sinh hoạt cũng do một phần bởi ý
thức tự giác và nhận thức của người dân vẫn chưa cao. Hoặc nói một cách khác,
nhận thức về trách nhiệm xã hội của bản thân về vấn đề môi trường của người

58
dân chưa được đầy đủ. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức của người dân là một
điều ta cần làm và cần học tập từ những mô hình đã thành công trước đó.

Ở Singapore ta có thể thấy việc giáo dục ý thức người dân luôn đi liền với những
quy định nghiệm ngặt và chế tài xử phạt nặng cho những người vi phạm. Việt
Nam có thể áp dụng mô hình đó để nâng cao ý thức chấp hành quy định của
người dân. Sẽ dễ dàng quản lý hơn nếu ta có những chế tài xử phạt rõ ràng cho
những người vi phạm quy định của pháp luật.

3.2.2 Sản xuất chú trọng tới yếu tố môi trường


Như những gì đã phân tích ở trên, sự phát triển xanh của Singapore là một quá
trình phấn đấu của cả hai phía từ chính phủ cho tới người dân. Chính phủ xây
dựng hệ thống pháp lý chặt chẽ hướng vào mục đích phát triển xanh của đất
nước. Và những người thi hành chính sách phải nhận thức rõ ràng trách nhiệm,
nghĩa vụ và ảnh hưởng của mỗi hành vi của mình vào sự phát triển chung của xã
hội.
1. Về pháp luật:
- Rà soát quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội các vùng trọng điểm, quy
hoạch phát triển các ngành kinh tế, đặc biệt là những ngành tác động mạnh mẽ
tới môi trường, nhằm bảo đảm phát triển công nghiệp bền vững, bảo đảm sử
dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải
một cách có hiệu quả.
- Thể chế hóa việc đưa yếu tố môi trường vào quy trình lập quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội hàng năm, 5 năm và dài hạn của cả nước, các bộ, ngành
và địa phương, từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở. Hoàn thiện quy trình đánh giá
tác động môi trường và giám sát chặt chẽ việc thực hiện các nội dung đánh giá

59
tác động môi trường; thực hiện nghiêm ngặt quy định phải đánh giá tác động môi
trường trước khi cấp phép đầu tư cho doanh nghiệp.
- Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế chính sách để thúc đẩy
quá trình thay thế công nghệ sản xuất lạc hậu, tốn nhiều năng lượng, nguyên liệu
bằng những công nghệ tiên tiến, hiện đại và thân thiên với môi trường.
- Khuyến khích sản xuất sạch; tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức của
cộng đồng doanh nghiệp về tầm quan trọng và lợi ích của sản xuất sạch trong
quá trình phát triển bền vững.
- Xây dựng các tiêu chuẩn và nguyên tắc đối với sản xuất sạch phù hợp với trình
độ phát triển kinh tế. Nghiên cứu và phát triển công nghệ và thiết bị sản xuất
sạch, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ sở sản xuất và các nhà nghiên cứu
công nghệ sản xuất sạch, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng trong sản xuất.
- Nghiên cứu, ban hành một số chế tài buộc các doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh quy mô lớn và vừa phải thiết lập các hệ thống tự quan trắc, giám sát về
môi trường để cung cấp thông tin về chất thải và mức độ ô nhiễm do các hoạt
động sản xuất của doanh nghiệp gây nên. Nghiên cứu, ban hành các chỉ tiêu về
mức ô nhiễm tối đa cho phép ở các khu công nghiệp. Nhanh chóng hình thành
một lực lượng cán bộ được đào tạo về quản lý môi trường trong các khu công
nghiệp.
2. Về kinh tế:
- Trong quá trình cơ cấu lại ngành công nghiệp, phải ưu tiên phát triển các ngành
công nghiệp sạch, thân thiện với môi trường. Phát triển và đẩy mạnh việc sử
dụng công nghệ, thiết bị bảo vệ môi trường thích hợp và tiên tiến; lập các dự án
với luận chứng đầy đủ, chi tiết về các biện pháp kiểm soát ô nhiễm và bảo vệ
môi trường.

60
- Thành lập mới và phát triển khu công nghệ cao. Ban hành các tiêu chuẩn an
toàn và bảo vệ môi trường trong các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp
khai thác và chế biến dầu mỏ, công nghiệp điện, điện tử và công nghiệp sản xuất
ô tô, mô tô, xe máy.
- Từng bước nâng dần tỷ lệ đầu tư phát triển công nghệ sạch.
- Hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, bảo đảm tỷ trọng công nghệ sạch ngày càng
tăng.
3. Về kỹ thuật và công nghệ:
- Phòng ngừa ô nhiễm do các cơ sở công nghiệp mới tạo ra, bao gồm việc hoàn
thiện quy trình thẩm định đánh giá tác động môi trường, đặc biệt là đưa ra yêu
cầu về việc đánh giá tác động môi trường phải được thực hiện trước khi cấp giấy
phép đầu tư.
- Giảm thiểu ô nhiễm do các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của các cơ
sở hiện có gây ra. Tiến hành xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng, buộc các cơ sở này phải lắp đặt các thiết bị kiểm soát và xử lý ô
nhiễm, nâng cấp hoặc đổi mới công nghệ sản xuất, di dời toàn bộ hoặc từng bộ
phận ra khỏi khu vực dân cư đông đúc và ở mức cao nhất là đình chỉ các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của các cơ sở này. Hàng năm, tiến hành
thống kê, đánh giá lại những cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trong
phạm vi cả nước, tiến tới kiểm soát được ô nhiễm.
- Thực hiện việc đánh giá tác động môi trường đối với các mỏ quy mô vừa và
lớn trong toàn quốc và báo cáo về tình trạng quản lý môi trường trong ngành
khai khoáng và các ngành công nghiệp chế biến có liên quan. Những mỏ gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng nhất sẽ bị buộc phải đầu tư để giảm thiểu mức
độ ô nhiễm xuống mức cho phép hoặc bị đóng cửa. Các cơ quan chuyên môn của
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện đánh giá tác

61
động môi trường đối với các hoạt động khai khoáng quy mô nhỏ và các hoạt
động chế biến trong phạm vi tỉnh. Tất cả các dự án khai khoáng mới phải được
xem xét, sàng lọc cẩn thận và phải thực hiện đánh giá tác động môi trường chi
tiết, đặc biệt là xem xét, đánh giá các công nghệ khai khoáng và chế biến, việc sử
dụng và thải bỏ hóa chất, công tác duy tu các bãi phế thải và việc xây dựng cơ sở
hạ tầng.
4. Phát triển bền vững một số ngành có tác động đặc biệt đối tới môi trường:
Một số ngành kinh tế có tác động mạnh mẽ tới môi trường như năng lượng, khai
thác mỏ, xây dựng, giao thông vận tải, du lịch phải sớm xây dựng những chương
trình hành động nhằm bảo đảm phát triển bền vững, trong đó đặc biệt chú trọng
tới việc ứng dụng những công nghệ khai thác và chế biến tiên tiến cho phép tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên, giảm lượng phát thải và ô nhiễm, khuyến khích sử
dụng các dạng năng lượng tái tạo được, cải thiện môi trường sinh thái ở những
khu vực khai thác tài nguyên.
a. Ngành năng lượng:
Năng lượng là ngành then chốt của nền kinh tế, cũng là một trong những ngành
có tác động mạnh nhất tới môi trường do hoạt động khai thác than ở các mỏ, khai
thác dầu khí trên thềm lục địa, sản xuất và sử dụng nhiên liệu, năng lượng gây ra
nhiều chất thải.
Để phát triển bền vững, cần thực hiện những hoạt động ưu tiên sau:
- Tăng cường cơ sở pháp luật cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ
năng lượng và bảo vệ môi trường. Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý ngành
năng lượng, tăng cường năng lực xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển
năng lượng.

62
- Lựa chọn công nghệ sản xuất và sử dụng tối ưu các loại hình năng lượng; lựa
chọn các công cụ chính sách, xây dựng các chương trình phát triển nhằm thực
hiện định hướng chiến lược phát triển bền vững.
- Hỗ trợ công tác nghiên cứu, phát triển, chuyển giao và ứng dụng các hệ thống
năng lượng không gây hại cho môi trường, bao gồm các nguồn năng lượng mới
và nguồn năng lượng có khả năng tái sinh. Khuyến khích sử dụng các công nghệ
tiêu tốn ít năng lượng và tích cực thực hiện chương trình tiết kiệm năng lượng.
Ưu tiên cho việc phát triển nguồn năng lượng có khả năng tái sinh thông qua
việc khuyến khích tài chính và các cơ chế chính sách khác trong chiến lược phát
triển năng lượng quốc gia.
- Cần có các giải pháp cụ thể về công nghệ và tổ chức quản lý cho từng phân
ngành năng lượng nhằm thực hiện các chương trình, dự án làm giảm tác động
tiêu cực đối với môi trường trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh và sử dụng
năng lượng.
- Tham gia tích cực các hoạt động hợp tác và trao đổi quốc tế liên quan đến Công
-ước khung về Biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc năm 1992 mà Việt Nam đã
ký kết tham gia ngày 16 tháng 11 năm 1994 và hiện là Thành viên của Công ước
này. Nhập khẩu và ứng dụng những công nghệ tiên tiến của nước ngoài trong
lĩnh vực khai thác, rửa và chế biến than. Đưa vốn và áp dụng công nghệ tiên tiến
của nước ngoài để cải tạo và nâng cấp công nghệ cho ngành công nghiệp than.
b. Ngành khai thác khoáng sản:
Khoáng sản là loại tài nguyên không tái tạo được. Cả nước hiện có tổng cộng
trên 1.000 mỏ đang hoạt động và khai thác trên 50 loại khoáng sản khác nhau.
Hiện tại, do còn quản lý lỏng lẻo, tình trạng khai thác bừa bãi tương đối phổ
biến, nhất là ở các mỏ nhỏ nằm phân tán, rải rác ở các địa phương. Bên cạnh việc
làm lãng phí tài nguyên do không tận thu được hàm lượng khoáng sản hữu ích,

63
việc khai thác bằng công nghệ lạc hậu còn gây ra tình trạng mất rừng, xói lở đất,
bồi lắng và ô nhiễm sông suối, ven biển.
Để phát triển bền vững, cần thực hiện những hoạt động ưu tiên sau:
- Đưa vào sử dụng các công cụ kinh tế, hành chính và chế tài pháp luật nhằm
thực hiện kiên quyết và có hiệu quả hơn Luật Khoáng sản.
- Kiện toàn hệ thống quản lý tài nguyên khoáng sản ở Trung ương và các địa
phương. Xây dựng quy hoạch thống nhất sử dụng các nguồn tài nguyên khoáng
sản và bảo vệ môi trường.
- Đổi mới công nghệ khai thác, sàng tuyển và chế biến nhằm tận dụng tài nguyên
khoáng sản và bảo vệ môi trường. Nghiên cứu công nghệ sử dụng các loại quặng
có hàm lượng thấp nhằm triệt để sử dụng khoáng chất trong các mỏ, đồng thời
giảm khối lượng đất đá thải, thu hẹp diện tích bãi thải. Tìm giải pháp thu hồi các
chất hữu ích từ các bãi thải quặng để làm sạch môi trường và tránh lãng phí tài
nguyên.
- Tổ chức trình tự khai thác mỏ một cách hợp lý, tránh tình trạng mỏ dễ thì làm
trước, mỏ khó thì bỏ lại, làm ảnh hưởng tới việc theo dõi, đánh giá và quy hoạch
khai thác khoáng sản. Hạn chế và sớm tiến tới nghiêm cấm tình trạng khai thác
mỏ một cách tự phát, bừa bãi.
- Đối với tài nguyên khoáng sản ở dưới lòng sông, cần khoanh khu vực khai
thác, tránh làm sạt lở bờ và thay đổi dòng chảy.
- Tăng đầu tư cho khâu phục hồi, tái tạo và cải thiện môi trường sinh thái ở các
địa bàn khai thác mỏ.
c. Ngành giao thông vận tải:
Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ
và đường không đều đã và đang được mở rộng và hoàn thiện, tạo điều kiện thuận
lợi để dịch vụ vận tải nhanh chóng tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh

64
doanh và lưu thông của xã hội, của sự nghiệp công nghiệp hoá và đời sống của
nhân dân. Việc tập trung xây dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng giao thông
vận tải trong thời gian tới sẽ làm cho môi trường, cảnh quan tốt đẹp hơn, điều
kiện giao thông tốt hơn, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước và cải thiện đời sống nhân dân. Song mặt khác, lĩnh vực giao
thông vận tải cũng đặt ra một số thách thức đối với phát triển bền vững:
- Một bộ phận dân cư sẽ phải di dời do giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án
và tái định cư làm đời sống xáo trộn; một bộ phận đất đai đang canh tác sẽ bị
mất.
- Nguy cơ ô nhiễm khí thải, bụi, tiếng ồn, ô nhiễm sông biển sẽ tăng lên.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông vận tải sẽ thu hút một số lớn vốn đầu tư,
trong đó phần lớn là vốn vay bên ngoài dẫn đến gánh nặng nợ nần của thế hệ mai
sau sẽ tăng lên.
Để phát triển bền vững, cần thực hiện những hoạt động ưu tiên sau:
- Xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ nhằm phát triển bền vững lĩnh vực giao
thông vận tải, bao gồm các chính sách sử dụng đất đai, phát triển kết cấu hạ tầng,
xây dựng mạng lưới giao thông vận tải công cộng, đồng thời khuyến khích khu
vực tư nhân tham gia phát triển giao thông vận tải, sử dụng phương tiện giao
thông vận tải có mức tiêu hao năng lượng thấp và giảm phát thải gây ô nhiễm.
- Quy hoạch mạng lưới giao thông vận tải đồng bộ với quy hoạch các vùng sinh
thái, khu bảo tồn thiên nhiên, nhằm bảo đảm phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
kỹ thuật và tăng dịch vụ trong mối quan hệ hài hoà với phát triển kinh tế vùng và
bảo vệ môi trường tự nhiên.
- Tập trung phát triển mạng lưới giao thông công cộng ở các đô thị lớn. Sử dụng
các công cụ kinh tế và hành chính trong việc khuyến khích thói quen sử dụng
dịch vụ giao thông công cộng. Hạn chế phát triển các loại phương tiện giao

65
thông cá nhân tiêu tốn nhiên liệu, sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên và gây
ô nhiễm môi trường, đồng thời khuyến khích sáng chế và phổ biến các loại
phương tiện giao thông thân thiện với môi trường.
- Phát triển nhanh chóng mạng lưới giao thông nông thôn để phục vụ tốt việc
phát triển kinh tế-xã hội và đời sống của nhân dân, đặc biệt là ở các vùng nông
thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa.
- Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến luật pháp về giao thông và an toàn giao thông
nhằm giảm tai nạn giao thông.
d. Thương mại:
Trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, thương mại là lĩnh vực có mức gia tăng
nhanh chóng nhất. Bên cạnh những tác động tích cực về mặt kinh tế-xã hội, hội
nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại, thương mại cũng làm gia tăng
nguy cơ phá vỡ tính bền vững của sự phát triển:
- Việt Nam hiện xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng thô và sơ chế, mặc dù đã bước
đầu có những chuyển biến tích cực hơn trong cơ cấu mặt hàng theo hướng tăng
sản phẩm chế biến. Đẩy mạnh xuất khẩu đồng nghĩa với gia tăng khai thác tài
nguyên. Nếu không bảo vệ, tái tạo, đồng thời từng bước chuyển sang chế biến
sâu hơn, tinh hơn các nguồn nguyên vật liệu, thì nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ
nhanh chóng bị cạn kiệt, môi trường bị quá tải và suy thoái.
- Việc nhập khẩu hàng hoá chứa những chất độc hại, khó phân huỷ cũng làm
tăng khối lượng chất thải.
- Việc nhập khẩu vật tư, thiết bị cũ và lạc hậu không những là tác nhân gây ra ô
nhiễm môi trường mà còn cản trở việc nâng cao năng suất lao động và hiệu quả
sản xuất, kinh doanh, gây tác hại tới sức khoẻ cộng đồng.
Để phát triển bền vững, cần thực hiện những hoạt động ưu tiên sau:

66
- Xây dựng chiến lược thị trường, nhằm bảo đảm những nhu cầu của thị trường
trong nước, thúc đẩy việc tạo lập mô hình tiêu dùng hợp lý.
- Kiện toàn cơ sở pháp lý và bộ máy quản nhà nước về thương mại và thị trường
nhằm phát triển thị trường trong nước và mở rộng quan hệ thương mại với nước
ngoài.
- Xây dựng kế hoạch dài hạn và cơ cấu lại mặt hàng xuất khẩu theo hướng tăng
mức độ chế biến và giá trị gia tăng trong hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, giảm
dần xuất khẩu tài nguyên thô và sơ chế.
- Giám sát chặt chẽ việc nhập khẩu hàng hoá, dây chuyền công nghệ và thiết bị
nhằm bảo đảm giảm thiểu phát sinh chất thải, đồng thời khuyến khích nhập khẩu
các dây chuyền công nghệ, thiết bị thân thiện với môi trường.
e. Du lịch:
Tiềm năng du lịch của Việt Nam rất phong phú. Phát triển du lịch đã tạo ra nhiều
việc làm và thu nhập, khôi phục nhiều truyền thống văn hoá, tôn tạo một số cảnh
quan và di tích lịch sử, văn hoá. Song mặt khác, nó cũng làm ảnh hưởng đến phát
triển bền vững.
- Các khách sạn, công trình phục vụ du lịch và giải trí "bung ra" thiếu sự quy
hoạch thận trọng, nhiều trường hợp phá hoại các di tích lịch sử và cảnh quan
thiên nhiên.
- Một số hệ sinh thái nhạy cảm, có đa dạng sinh học cao như các vườn quốc gia,
khu bảo tồn thiên nhiên, vùng ven biển...bị xâm phạm và gây biến đổi mạnh.
- Lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường ở các khu du lịch lớn, tập trung, đặc
biệt ở một số khu du lịch ven biển ngày càng gia tăng.
- Môi trường văn hoá-xã hội chịu tác động của lối sống ngoại lai cũng có những
biến đổi xấu đi. Tệ nạn mại dâm, nghiện hút, bệnh xã hội, HIV/AIDS là những
hậu quả trực tiếp của sự phát triển du lịch.

67
Để phát triển bền vững, cần thực hiện những hoạt động ưu tiên sau:
- Lồng ghép quy hoạch phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường với quy
hoạch phát triển và kinh doanh du lịch. Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về
du lịch, trong đó lồng ghép những yêu cầu phát triển bền vững vào công tác quản
lý nhà nước về du lịch.
- Thực hiện đánh giá tác động môi trường đối với tất cả các dự án phát triển và
kinh doanh du lịch.
- Khuyến khích phát triển du lịch sinh thái. Hỗ trợ các cộng đồng dân cư tham
gia quản lý công tác du lịch trên địa bàn của địa phương nhằm tăng thêm lợi ích
kinh tế, đồng thời tham gia giám sát, bảo đảm giảm tới mức thấp nhất những tác
động tiêu cực và rủi ro của du lịch đối với môi trường, truyền thống văn hóa và
điều kiện sống của nhân dân địa phương.
- Tăng cường đầu tư, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho
mọi người để bảo tồn những di sản tự nhiên, lịch sử và văn hóa dân tộc. Huy
động sự tham gia rộng rãi của các cấp chính quyền, doanh nghiệp kinh doanh du
lịch và cộng đồng dân cư trong việc phát triển du lịch sinh thái và văn hóa, bảo
vệ di sản và môi trường.

Phát triển bền vững không chỉ là đề tài nghiên cứu mà đây đã trở thành mục tiêu
của các nước trên thế giới. Chương trình phát triển bền vững của Việt Nam đã
được đề xuất và quan tâm từ những năm 80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên càng ngày
những hoạt động cụ thể được đưa ra nhằm tới sự thân thiện với môi trường

3.2.3 Xã hội hóa mô hình phát triển xanh

Singapore kêu gọi mọi người đóng góp ý kiến của mình cho mục tiêu phát triển
xanh của đát nước qua một website để từ đó cơ quan chức năng cùng các chuyên

68
gia xem xét và đi đến những đề án phát triển khả thi. Rõ ràng việc xã hội hóa
như vậy không chỉ huy động sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong xã hội mà còn
thúc đẩy ý thức trách nhiệm xây dựng xã hội của người dân. Với mô hình đưa ra
những hoạt động kinh tế, đời sống xã hội trong nước nhằm đạt đến sự phát triển
bền vững thân thiện với môi trường. Tuy nhiên mô hình này vẫn chưa có được
sự đóng góp từ phía người dân. Đây mới chỉ là những tin bài, những sự kiện của
chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức với mục đích sản xuất theo hướng ít ảnh hưởng
tới môi trường hoặc những sự kiện nhằm kêu gọi mọi người hành động bảo về
môi trường.

3.2.4 Định hướng tiêu dùng

Theo kế hoạch mới của chính phủ Singapore 10-20 năm tới, trong đó sẽ nỗ lực
biến 80% số tòa nhà ở Singapore thành tòa nhà sử dụng năng lượng hiệu quả
hoặc sử dụng các năng lượng sạch. Hiện một số tòa nhà đã được thí điểm lắp các
tấm pin năng lượng mặt trời trên mái để lấy điện sinh hoạt. Tuy vậy, theo Ủy ban
nhà cửa và phát triển (HDB), chi phí cho năng lượng mặt trời vẫn còn khá cao và
HDB sẽ tìm cách giảm giá thành.

Với kế hoạch mới, Chính phủ Singapore dự kiến sẽ giảm 1/3 lượng năng lượng
sử dụng hiện tại vào năm 2030, tăng tỉ trọng tái chế và tỉ trọng sử dụng các
phương tiện công cộng ở Singapore lên 70%. Ngoài ra, các khu đô thị mới sẽ
phải giảm 25% lượng năng lượng tiêu thụ, xây dựng nhiều tuyến đường cho
người đi xe đạp... Chi phí cho toàn bộ chương trình mới này sẽ vào khoảng 1 tỉ
dôla Singapore (666,3 triệu USD).

69
Bộ trưởng phát triển Mah Bow Tan khẳng định nếu muốn đối mặt với các thách
thức của tương lai thì cần phải bắt đầu ngay từ bây giờ. Bước khởi động của
chương trình này là đào tạo 18.000 “chuyên gia xanh”.

Trên đây là một vài định hướng tiêu dùng của chính phủ Singapore đặt ra nhằm
hướng tới mục tiêu phát triển của đất nước. Qua đó có thể đề xuất cho Việt Nam
một số kinh nghiệm học tập như sau:

a. Cơ cấu lại hoạt động sản xuất và dịch vụ phục vụ tiêu dùng:
Để làm thay đổi mô hình tiêu dùng, trước hết cần tác động tới phương thức và kỹ
thuật sản xuất theo hướng hình thành một hệ thống sản xuất các sản phẩm với
dây chuyền công nghệ tiêu thụ ít năng lượng và nguyên vật liệu, đồng thời thải ra
ít chất thải, đặc biệt là chất thải độc hại.
- Đối với hệ thống sản xuất đang tồn tại, cần rà soát và điều chỉnh các tiêu chuẩn
kỹ thuật và nâng cấp công nghệ nhằm mục đích nâng cao hiệu quả môi trường
của sản phẩm, khuyến khích sáng chế các loại sản phẩm mới có tính năng tiết
kiệm năng lượng và nguyên vật liệu, đồng thời tạo ra ít chất thải.
- Khuyến khích áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn và thân thiện với môi
trường, công nghệ tái chế và tái sử dụng chất thải, phế liệu.
- Hình thành cơ cấu sản phẩm tiêu dùng hợp lý nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ
bản về ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh, giải trí của các tầng lớp nhân dân.
Chú trọng đổi mới sản phẩm, không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản
phẩm và dịch vụ, chú trọng tiêu chuẩn thân thiện với môi trường để nâng cao
chất lượng tiêu dùng và hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
- Phát triển và nâng cao mức độ thâm canh của các ngành sản xuất và dịch vụ
tổng hợp có tính năng bảo vệ và cải thiện môi trường như trồng rừng, nuôi trồng

70
thuỷ sản, du lịch. Hạn chế sự phát triển sản xuất rượu, bia, thuốc lá, thực phẩm
và hàng tiêu dùng có chứa các chất có hại cho sức khỏe con người.
b. Thực hiện các biện pháp cần thiết để định hướng tiêu dùng hợp lý:
- Tuyên truyền, giáo dục để hình thành lối sống lành mạnh và phương thức tiêu
dùng hợp lý trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt trong thanh thiếu niên. Xây
dựng văn hóa tiêu dùng văn minh, mang đậm bản sắc dân tộc, hài hòa và thân
thiện với thiên nhiên.
- Phát động phong trào tiêu dùng tiết kiệm, chống lãng phí. Phát huy vai trò tích
cực của các đoàn thể quần chúng và của mọi tầng lớp nhân dân trong việc tuyên
truyền, giáo dục, thực hiện và giám sát thực hiện phong trào toàn dân tiết kiệm
tiêu dùng.
- Áp dụng một số công cụ kinh tế, như thuế tiêu dùng để điều chỉnh những hành
vi tiêu dùng không hợp lý.
- Đối với những vùng đặc biệt khó khăn, tiếp tục thực hiện những chính sách hỗ
trợ đồng bào đáp ứng những nhu cầu cơ bản của cuộc sống.

71
KẾT LUẬN

Phát triển bền vững là xu thế chung mà toàn nhân loại đang nỗ lực tiến tới. Đó
cũng chính là mục tiêu chiến lược quan trọng mà Chính phủ và nhân dân Việt
Nam quyết tâm biến thành hiện thực trong hiện tại và tương lai.

Nhìn lại trong quá trình đổi mới, trên góc độ phát triển bền vững, trong những
năm qua nền kinh tế nước ta đã tăng trưởng với tốc dộ cao và tương đối ổn định.
Sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển đa dạng, bảo đảm an toàn
lương thực quốc gia và tham gia xuất khẩu với khối lượng lớn nhiều mặt hàng.
Công nghiệp đã được cơ cấu lại và dần tăng trưởng ổn định. Các ngành dịch vụ
đã được mở rộng và chất lượng phục vụ đã nâng lên, đáp ứng nhu cầu tăng
trưởng kinh tế và phục vụ đời sống dân cư. Trong lĩnh vực xã hội, nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng trong giáo dục và đào tạo, chăm lo bảo vệ sức
khỏe cộng đồng; phát triển văn hóa, thông tin và các hoạt động xã hội khác. Đặc
biệt là xóa đói giảm nghèo (một lĩnh vực có tác động rộng lớn của yếu tố phát
triển bền vững) nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật. Đầu tư cho lĩnh
vực phát triển xã hội ngày càng tăng. Nhiều chương trình mục tiêu quốc gia về
phát triển xã hội đã và đang được thực hiện tốt, đạt hiệu quả cao. Đời sống nhân
dân ở cả thành thị và nông thôn được cải thiện rõ rệt. Trong lĩnh vực tài nguyên
và môi trường, hệ thóng luật pháp và các cơ chế chính sách về quản lý, sử dụng
tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái đã được ban hành và đang
đi dần vào cuộc sống; ý thức bảo vệ môi trường ngày càng được nâng lên. Công
tác quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước đã dần dần đi vào nền
nếp. Hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được hình thành từ
trung ương đến địa phương. Việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên,

72
phòn ngừa, ngăn chặn ô nhiễm và suy thoái môi trường được đặt trong tổng thể
của mục tiêu phát triển bền vững, nên đã tạo ra những chuyển biến tốt.

Để thực hiện kế hoạch 5 năm (2006 -2010) về phát triển kinh tế bền vững, Đảng
và nhà nước nên tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững
đã được xác định trong Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam về cả ba mặt
kinh tế, văn hóa – xã hội và môi trường. Phát triển đất nước theo hướng tăng
trưởng kinh tế nhanh và ổn định; thực hiện dân chủ tiến bộ và công bằng xã hội
khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lý có hiệu quả. Phát triển kinh tế - xã hội
gắn liền với mục tiêu bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo cho mọi người dân ở
mọi vùng miền đều được sống trong môi trường trong lành và được hưởng các
lợi ích cộng đồng.

73
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách tham khảo:

Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội tốc độ nhanh, bền vững, chất
lượng cao ở Việt Nam, Tiến sĩ Đinh Văn Ân, Nhà xuất bản thóng kê, 2005.

Giáo dục Việt Nam – những năm đầu thế kỷ 21, GS.TS Nguyễn Hữu Châu, TS.
Đỗ Thị Bích Loan, PGS.TS Vũ Trọng Rỹ, nhà xuất bản giáo dục, 2007.

Giáo dục Việt Nam – đổi mới và phát triển hiện đại hóa, GS.TSKH Vũ Ngọc
Hải, PGS.TS Đặng Bá Lãm, PGS.TS Trần Khánh Đức,Nhà xuất bản giáo dục
2007.

Chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế,
TS. Nguyễn Thị Bích Hường, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2005.

Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam, GS.TS Nguyễn Văn Nam,
PGS.TS Trần Thọ Đạt, Nhà xuất bản đại học Kinh tế quốc dân, 2005.

Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam, GS Lê Thanh Nghiệp, Nhà xuất bản
khoa học kỹ thuật, 2006.

Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới (1986-2000) – thành tựu và những vấn đề đặt
ra, GS.TSKH Lê Du Phong, PGS.TS Đặng Thị Loan, PGS. TS Hoàng Văn Hoa,
Nhà xuất bản đại học kinh tế quốc dân, 2006.

Không chỉ là tăng trưởng kinh tế, Tatyana P.Soubbotina, Nhà xuất bản văn hóa
thông tin, 2005.

74
Phát triển bền vững ở Việt Nam. GS.TSKH Nguyễn Quang Thái, PGS.TS Ngô
Thắng Lợi,Nhà xuất bản lao động xã hội, 2007.

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, PGS.TS Bùi Tất Thắng, Nhà xuất
bản Khoa học kỹ thuật, 2006.

Tổng kết kinh tế Việt Nam 2001 – 2005, GS.TS Nguyễn Văn Thường,
GS.TSKH Lê Du Phong, Nhà xuất bản đại học kinh tế quốc dân, 2006.

Hội nhập kinh tế với phát triển bền vững, PGS.TS Nguyễn Xuân Tiến, PGS.TS
Lê Thế Giới, PGS.TS Trương Bá Thanh, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2005.

CÁC WEBSITE THAM KHẢO

http://web.worldbank.org/WBSITE/EXTERNAL/COUNTRIES/EASTASIAPACIFICEXT/VIE
TNAMINVIETNAMESEEXTN/0,,menuPK:486777~pagePK:141132~piPK:141109~theSitePK
:486752,00.html

http://www.agenda21.monre.gov.vn/default.aspx?tabid=231

http://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=217

http://www.mpi.gov.vn/portal/page/portal/bkhdt

http://app.mewr.gov.sg/web/Contents/ContentsSSS.aspx?ContId=1034

http://app.mewr.gov.sg/web/Contents/ContentsSSS.aspx?ContId=1034

75

You might also like