You are on page 1of 28

ĐỀ TÀI: ENTREPRENEURSHIP VÀ SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG

KINH TẾ

Môn Quản trị khởi nghiệp

Giảng viên TS Võ Tấn Phong

Danh sách nhóm thực hiện Nhóm 4

1. Nguyễn Thị Phương Thanh 192107163


2. Đào Văn Huy - 192107064
3. Phạm Nguyễn Minh Trí - 192107196
4. Phạm Ngọc Triển - 192107198
5. Phan Nguyễn Nhật Hà - 192107042
6. Trần Minh Ngọc - 192107106
7. Võ Phước Thọ - 192107175
8. Nguyễn Thanh Mai - 192107093
9. Nguyễn Anh Vũ - 192107128
10. Trần Nguyên Thảo - 192107168

Mục lục

Phần 1 : Entrepreneurship là gì 2

1.1 Khái niệm.. 2

1.1.1 Entreprenuer 2

1.1.2 Entrepreneurship. 3

1.1.3 Phân loại các dạng Entrepreneurship. 3

1.1.4 Đặc điểm của Entrepreneurship. 4


1.1.5 Yếu tố ảnh hưởng tới tinh thần làm chủ. 4

Phần 2 :Sự bất bình đẳng kinh tế. 4

2.1 Sự bất bình đẳng là gì 4

2.2 Sự bất bình đẳng kinh tế. 5

2.2.1 Sự bất bình đẳng về thu nhập. 5

2.2.2 Sự bất bình đẳng giàu nghèo. 5

2.3 Các chỉ số đo lường sự bất bình đẳng kinh tế. 5

Phần 3 :Mối liên hệ của sự bất bình đẳng kinh tế và Entrepreneurship. 5

3.1 Đánh giá sự bất bình đẳng trong các nhóm lực lượng lao động. 5

3.2 Mối quan hệ của sự bất bình đẳng kinh tế và Entrepreneurship. 6

3.3 Vai trò của các nguyên nhân gây bất bình đẳng kinh tế trong việc làm gia tăng tinh
thần làm chủ và các đề xuất về các yếu tố tạo ra mối liên hệ đó. 9

Phần 4: Sự bất bình đẳng kinh tế ảnh hưởng như thế nào đến Entrepreneurship

Phần 1 : Entrepreneurship là gì

1.1 Khái niệm

1.1.1 Entreprenuer
Theo TS Võ Tấn Phong: “Entrepreneur có thể định nghĩa là những người có khả năng
nhận biết và đánh giá được nhưng cơ hội kinh doanh, cùng với những nguồn lực cần
thiết để nắm bắt lợi thế của chung và đề xướng những hành động phù hợp để đảm bảo
sự thành công” (International Labour Organisation - ILO)
Theo Peter Drucker: Entrepreneur là những người luôn tìm kiếm sự thay đổi, phản hồi
và khai thác chúng như một cơ hội và quá trình đó luôn có rủi ro. Trong hình dưới, Ali
K. Yetisen và đồng nghiệp sử dụng đồ thị thể hiện mức độ của các nhân tố Rủi ro, Sự
đầu tư và Quá trình bán hàng trong các doanh nghiệp khởi nghiệp. Giai đoạn hình
thành ý tưởng thường đi kèm rủi ro cao nhất và sẽ đòi hỏi sự cam kết của những
entrepreneur ở mức độ cao.

Biểu đồ biểu thị sự biến đổi của các yếu tố Rủi ro, Sự đầu tư và Bán hàng trong các
giai đoạn khác nhau của doanh nghiệp khởi nghiệp
Ngày nay, hầu hết các nhà kinh tế đều đồng ý rằng tinh thần khởi nghiệp là một nhân
tố cần thiết thúc đầy phát triển kinh tế và các cơ hội về nghề nghiệp trong mọi xã hội.
Ở các nước đang phát triển, các doanh nghiệp nhỏ thành công là động lực cơ bản
trong việc tạo ra việc làm, phát triển thu nhập và giảm nghèo.

1.1.2 Entrepreneurship
Như thầy có hướng dẫn vào buổi đầu lớp học, Entrepreneurship nên được dịch là “tinh
thần làm chủ” và những người entrepreneur là những người “làm chủ”. Làm chủ ở
đây, không gói gọn trong việc tạo dựng một doanh nghiệp riêng, xây dựng một đế chế
để thay đổi thế giới; việc làm chủ còn có thể hiểu theo nghĩa chủ động làm chủ được
cuộc đời mình, cuộc sống và môi trường xung quanh.
Vì thế, trong bài này mình sẽ không sử dụng từ “khởi nghiệp” vì như vậy,
entrepreneurship đã tự hạn chế mình trong một nghĩa duy nhất: tạo dựng sự nghiệp
riêng của mình.
ENTREPRENEURSHIP là sự dấn thân theo đuổi các cơ hội mới vượt quá các nguồn
lực bị kiểm soát. (Theo Howard Stevenson - Giáo sư đầu ngành kinh tế của Harvard
Business School- HBS)
Entrepreneurship là một quá trình hành động mà một Entrepreneur thực hiện để thiết
lập doanh nghiệp của mình. Đây là sự đáp ứng sáng tạo và đổi mới với môi trường.
Entrepreneurship là một khả năng khám phá, tạo lập hay phát hiện những cơ hội và
khai thác chúng để mang lại lợi ích cho xã hội và sự thịnh vượng cho người đổi mới
và tổ chức của họ. Entrepreneurship là một hành động của một Entrepreneur, là một
người thực hiện những đổi mới, sự nhạy bén tài chính và kinh doanh trong sự nỗ lực
để chuyển đổi những sự đổi mới thành những sản phẩm kinh tế. Kết quả này có thể
tạo ra các tổ chức mới hay một bộ phận của các tổ chức bão hòa đang khôi phục để
đáp ứng với một cơ hội được cảm nhận.

1.1.3 Phân loại các dạng Entrepreneurship

Entrepreneurship thực hiện khi cần thiết

Dạng entrepreneurship này được thực hiện khi có rất ít, hoặc không có các lựa chọn
khác để tìm việc làm phù hợp, hay có thể hiểu là người thực hiện bị thất nghiệp.
Chúng tôi tin rằng những người khởi nghiệp thường thực hiện loại hoạt động kinh
doanh này với ít hoặc không có vốn tài chính vì nó tạo ra nỗ lực cuối cùng để đảm bảo
thu nhập khi các lựa chọn việc làm khác thất bại.

Nói tóm lại, nó thể hiện sự thất bại của thị trường lao động trong việc cung cấp các cơ
hội hấp dẫn hơn so với việc tự kinh doanh. Người ta có thể dễ dàng hình dung rằng
kiểu khởi nghiệp này sẽ phổ biến hơn trong một số bối cảnh kinh tế và xã hội nhất
định so với những kiểu khác.

Ngoài ra, người ta có thể kỳ vọng một cách hợp lý rằng loại hình hoạt động này trung
bình sẽ cung cấp ít cơ hội hơn đáng kể cho sự thăng tiến của cá nhân cũng như tăng
trưởng kinh tế và tổ chức so với loại hoạt động khởi nghiệp thứ hai.

Entrepreneurship thực hiện khi có cơ hội từ thị trường

Mọi người thực hiện dạng entrepreneurship này khi họ nhận thấy cơ hội trên thị
trường, có thể bao gồm các thị trường ngách chưa được phục vụ, phục vụ kém hoặc
mới xuất hiện. Kiến thức về những thị trường ngách này có thể được coi là một dạng
vốn nhân lực, thường thu được từ kinh nghiệm trong ngành (Burton et al. 2002).

Ngoài ra, những người tham gia vào các mạng xã hội đa dạng và rộng lớn có khả năng
tiếp cận nhiều hơn với những kiến thức đó. Entrepreneurship cơ hội có lẽ phụ thuộc
nhiều hơn entrepreneurship cần thiết vào việc sở hữu vốn nhân lực. Nếu đúng như
vậy, thì những nỗ lực dựa trên cơ hội mang lại tiềm năng lớn nhất cho sự thăng tiến
của cá nhân, sự phát triển của tổ chức và tạo việc làm. Do đó, về trung bình,
entrepreneurship cơ hội sẽ có lợi hơn cho các nền kinh tế và xã hội hơn là những gì
phát sinh do cần thiết.

1.1.4 Đặc điểm của Entrepreneurship


1.1.5 Yếu tố ảnh hưởng tới tinh thần làm chủ
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến Entrepreneurship. Một số nghiên cứu đã đề xuất các
mô hình về yếu tố ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp tham khảo như sau
Phần 2 :Sự bất bình đẳng kinh tế

2.1 Sự bất bình đẳng là gì


Bất bình đẳng là sự không bình đẳng, sự không bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối với
những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm trong xã hội.

Tất cả các xã hội - cả quá khứ hay hiện tại - đều được đặc trưng bởi sự khác biệt xã hội. Đó là
một quá trình trong đó con người tạo nên khoảng cách do cách ứng xử khác nhau bởi các địa vị,
vai trò và những đặc điểm khác nhau. Quá trình của sự khác biệt xã hội không đòi hỏi con người
đánh giá các vai trò và các hoạt động cụ thể tồn tại như là quan trọng hơn những cái khác; tuy
nhiên, sự khác biệt xã hội chuẩn bị cho sự bất bình đẳng xã hội, là một điều kiện trong đó con
người có cơ hội không ngang bằng về sử dụng của cải, quyền lực và uy tín. Nhà xã hội học
Daniel Rossides cho rằng: ngay trong các xã hội đơn giản nhất "người già thường có uy quyền
đối với người trẻ, cha mẹ có uy quyền với con cái, và đàn ông có uy quyền đối với đàn bà."

Bất bình đẳng xã hội không phải là một hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các cá
nhân trong xã hội. Xã hội có bất bình đẳng khi một số nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các
nhóm xã hội khác. Qua những xã hội khác nhau đã tồn tại những hệ thống bất bình đẳng xã hội
khác nhau. Bất bình đẳng xã hội là một vấn đề trung tâm của xã hội học, đây là vấn đề có ý
nghĩa quyết định đối với sự phân tầng trong tổ chức xã hội.

2.2 Sự bất bình đẳng kinh tế


Bất bình đẳng kinh tế (còn được gọi là khoảng cách giàu nghèo, bất bình đẳng thu nhập) là
chênh lệch giữa các cá nhân, các nhóm trong xã hội hay giữa các quốc gia trong việc phân phối
các tài sản, sự giàu có, hay thu nhập. Các vấn đề bất bình đẳng kinh tế liên quan đến công
bằng, bình đẳng về kết quả, bình đẳng về cơ hội, và tuổi thọ.

Nhiều quan điểm khác nhau về tác động của nó. Một nghiên cứu năm 2010 xem nó là có lợi,
trong khi các nghiên cứu khác gần đây coi đó là một vấn đề xã hội đang phát triển. Mặc dù một
số bất bình đẳng thúc đẩy đầu tư nhưng quá nhiều bất bình đẳng sẽ là phá hoại. Bất bình đẳng
thu nhập có thể gây trở ngại cho tăng trưởng dài hạn. Các nghiên cứu thống kê so sánh bất bình
đẳng đến tăng trưởng kinh tế hàng năm không đi đến kết luận nào.

Bất bình đẳng kinh tế khác nhau giữa các xã hội, giữa giai đoạn lịch sử, cơ cấu kinh tế và các hệ
thống (ví dụ, chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội), và giữa các khả năng của từng cá nhân để
tạo ra sự giàu có.

Có các chỉ số khác nhau để đo lường bất bình đẳng kinh tế. Một trong những chỉ số nổi bật là hệ
số Gini, nhưng cũng có nhiều phương pháp khác.

2.2.1 Sự bất bình đẳng về thu nhập


Bất bình đẳng thu nhập (Income Inequality) là sự chênh lệch lớn về phân phối thu nhập, với
phần lớn tổng thu nhập trong nền kinh tế tập trung trong tay một nhóm người chiếm tỉ lệ nhỏ
trong tổng dân số. Khi xảy ra bất bình đẳng thu nhập, có một khoảng cách lớn giữa tài sản
và sự giàu có của một phân khúc dân số so với phân khúc dân số còn lại.
● Bản chất của bất bình đẳng thu nhập là gì?

Cơ sở căn bản để nghiên cứu bất bình đẳng thu nhập và chênh lệch thu nhập là phân phối
thu nhập theo phân khúc nhân khẩu học.

Các loại phân khúc thu nhập khác nhau được nghiên cứu khi phân tích bất bình đẳng thu
nhập có thể bao gồm các phân phối cho:

- Nam so với nữ

- Dân tộc

- Vị trí địa lí

- Nghề nghiệp

- Thu nhập trong quá khứ

● Ví dụ về bất bình đẳng thu nhập trong thực tiễn


Viện Đô thị là là một trong những nguồn uy tín để hiểu về bất bình đẳng thu nhập. Kết quả
của một phân tích dữ liệu kinh tế từ năm 1963 đến 2016 của tổ chức này cho thấy những
người nghèo nhất tại Mỹ đang ngày càng nghèo đi, trong khi những người giàu nhất lại càng
giàu thêm.

Từ năm 1963 đến năm 2016:

- 10% người nghèo nhất ở Mỹ từ tình trạng không có tài sản giờ có khoản nợ 1.000 USD

- Tài sản trung bình của các gia đình thuộc phân khúc thu nhập trung bình tăng hơn gấp đôi
so với trước đó

- Tài sản của các gia đình thuộc top 10% người giàu nhất tăng hơn 5 lần

- Tài sản của các gia đình thuộc top 1% người giàu nhất tăng hơn 7 lần

● Bất bình đẳng thu nhập trên toàn cầu

Chỉ số Gini được phát triển bởi nhà thống kê người Italy Corrado Gini vào đầu những năm
1900, để giúp định lượng và dễ dàng so sánh mức độ bất bình đẳng thu nhập giữa các quốc
gia trên thế giới.

Chỉ số Gini dao động từ 0 đến 100, chỉ số càng cao cho thấy sự bất bình đẳng thu nhập
càng lớn hơn giữa dân số của một quốc gia và ngược lại.

Dữ liệu từ Ngân hàng Thế giới cho thấy Nam Phi là một trong những nước có hiện tượng
bất bình đẳng thu nhập cao nhất thế giới, với mức chỉ số Gini là 63,0. Chỉ số Gini của Mỹ là
41,5. Chỉ số Gini thấp nhất thuộc về Ukraine, ở mức 25,0.
Chênh lệch bất bình đẳng thu nhập là một lĩnh vực liên tục được phân tích bởi các tổ chức
quản lý địa phương và trên thế giới. Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới có mục tiêu
giúp cải thiện thu nhập của nhóm 10% người có thu nhập thấp nhất trong tất cả các quốc
gia.

Những cải tiến mới trong công nghệ tài chính và sản xuất cũng đang giúp cải thiện dịch vụ
ngân hàng của những người có thu nhập thấp nhất thế giới, với vai trò là một nỗ lực tiên
phong để thực hiện tài chính toàn diện.

2.2.2 Sự bất bình đẳng giàu nghèo


Khoảng cách giàu nghèo là chênh lệch giữa các cá nhân, các nhóm trong xã hội hay
giữa các quốc gia trong việc phân phối lại tài sản hay thu nhập. Bất bình đẳng giàu
nghèo không những gây ra những hệ lụy xã hội mà còn có ảnh hưởng tiêu cực đến quá
trình tăng trưởng kinh tế (Berg, Ostry và Zettelmeyer, 2008).

Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy, bất bình đẳng giàu nghèo có ảnh hưởng tiêu cực
đến quá trình phát triển nói chung, gây tổn hại đến sự gắn kết xã hội như ảnh hưởng
xấu tới chất lượng cuộc sống của người dân, làm tăng tỷ lệ nghèo đói, cản trở tiến bộ y
tế - giáo dục nói chung. Riêng đối với những người nghèo, bất bình đẳng còn góp phần
làm gia tăng tình trạng tội phạm.

● Liên hệ đến tình hình bất bình đẳng giàu nghèo tại Việt Nam

Trong giai đoạn 2008 - 2018, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng khá cao so với nhiều
nước trên thế giới, đạt mức bình quân 6,1% (theo Tổng cục Thống kê, năm 2016 là
6,21%, năm 2017 là 6,81%, năm 2018 là 7,08%). Thu nhập các nhóm dân cư đều tăng
lên, đời sống của mọi tầng lớp dân cư được cải thiện. Tuy nhiên, tốc độ tăng thu nhập
của nhóm nghèo luôn thấp hơn nhóm giàu, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia
tăng.

Theo kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình của Tổng cục Thống kê năm 2002, thu
nhập bình quân đầu người (BQĐN) của nhóm nghèo là 107,7 nghìn đồng, nhóm giàu là
872,9 nghìn đồng. Năm 2016, thu nhập BQĐN tương ứng của 2 nhóm này là 771 nghìn
đồng và 7.547 nghìn đồng. Như vậy, qua 14 năm, thu nhập BQĐN của nhóm nghèo
tăng 7,159 lần, nhóm giàu tăng lên 8,646 lần. Khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa
nhóm giàu và nhóm nghèo năm 2002 là 8,105 lần (tương ứng với số tuyệt đối là 765,2
nghìn đồng), năm 2016 là 9,789 lần (tương ứng với số tuyệt đối là 6.776 nghìn đồng).

Theo John W. (2003), tăng trưởng kinh tế đạt 10% thì người nghèo chỉ được hưởng lợi
khoảng ¼ trong số đó. Trong khi đó, người giàu có cơ hội khai thác nhiều hơn để gia
tăng phúc lợi cho mình. Điều đó có nghĩa là, khi tăng trưởng kinh tế góp phần vào xóa
đói giảm nghèo thì nó lại làm gia tăng thêm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo.

Những năm qua, tại Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về bất bình đẳng thu nhập hay
phân hóa giàu nghèo nhưng các nghiên cứu này chỉ mang tính chất mô tả về thực trạng
giàu nghèo ở một thời điểm hoặc nghiên cứu về bất bình đẳng ở khu vực nông thôn –
thành thị. Từ thực trạng trên, nghiên cứu này tập trung làm rõ ảnh hưởng của một số
yếu tố ảnh hưởng đến bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam.

2.3 Các chỉ số đo lường sự bất bình đẳng kinh tế


● Sự bất bình đẳng trong xã hội lớn đến mức độ nào?
● Bao nhiêu người sống trong tình trạng nghèo đói?

Có nhiều cách mô tả phân phối thu nhập trong nền kinh tế. Bảng 1 (phân phối thu nhập của
Mỹ – năm 2000) trình bày một phương pháp đặc biệt đơn giản. Nó phân loại các hộ gia đình
thành các nhóm thu nhập. Người ta có thể sử dụng bảng này để xác định xem gia đình mình
nằm ở đâu trong phân phối thu nhập.

Để xem xét sự khác nhau trong phân phối thu nhập theo thời gian hoặc giữa các nước với
nhau, các nhà kinh tế thường sử dụng một số phương thức đo như đường cong Lorenz,
hệ số Gini. Để hiểu hai phương thức đo này, hãy tưởng tượng rằng bạn đang sắp xếp các
hộ gia đình trong nền kinh tế theo thu nhập hàng năm của họ (như bảng 1). Sau đó bạn chia
các gia đình thành các nhóm bằng nhau, ví dụ thông thường là 5 nhóm: 20% có thu nhập
cao nhất, 20% có thu nhập cao thứ nhì, 20% có thu nhập cao thứ ba, 20% có thu nhập cao
thứ tư và 20% có thu nhập thấp nhất. Tiếp theo bạn tính phần đóng góp vào tổng thu nhập
của mỗi nhóm gia đình. Bằng cách này, bạn có thể đưa ra các số liệu như trong bảng (Mức
độ bất bình đẳng về thu nhập ở Mỹ từ 1935 đến 2008).
Những con số trên cho phép chúng ta đánh giá được phương thức phân phối tổng thu nhập
của nền kinh tế. Nếu thu nhập được phân phối đều cho các gia đình, mỗi nhóm gia đình sẽ
nhận được 20% thu nhập (bình đẳng tuyệt đối). Nếu tất cả thu nhập chỉ tập trung vào một
vài gia đình, thì 20% gia đình có thu nhập cao nhất sẽ nhận được 100% thu nhập, và các
nhóm gia đình khác nhận được 0% (bất bình đẳng tuyệt đối). Tất nhiên, nền kinh tế nằm ở
đâu đó giữa hai thái cực này.

Bảng số liệu cho thấy, trong năm 2008, 20% gia đình có thu nhập thấp nhất nhận được 4%
tổng thu nhập, trong khi 20% phần gia đình có thu nhập cao nhất nhận được 47.8% tổng thu
nhập. Nói cách khác, mặc dù số gia đình của hai nhóm này bằng nhau, nhưng thu nhập của
nhóm cao nhất gấp khoảng 12 lần thu nhập của nhóm thấp nhất.

Bảng số liệu cũng trình bày phân phối thu nhập qua nhiều năm, từ 1935 đến 2008. Nhìn qua
chúng ta thấy, phân phối thu nhập có vẻ tương đối ổn định theo thời gian. Trong gần 100
năm qua, 20% số gia đình nghèo nhất đã nhận được khoảng từ 4 đến 5% tổng thu nhập,
trong khi đó 20% số gia đình giàu nhất nhận được khoảng từ 40 đến 50% tổng thu nhập.
Xem xét kỹ hơn, chung ta thấy được một số xu hướng về mức độ bất bình đẳng. Từ năm
1935 đến 1970, phân phối thu nhập dần trở nên bình đẳng hơn. Phần trăm thu nhập của
nhóm nghèo nhất đã tăng từ 4.1 đến 5.5%, còn phần trăm thu nhập của nhóm giàu nhất đã
giảm từ 51.7 xuống còn 40.9%. Trong những thập kỷ gần đây, xu hướng này đã bị đảo
ngược. Từ 1970 đến 2008, phần trăm thu nhập của nhóm nghèo nhất giảm từ 5.5 xuống
còn 4%, còn phần trăm thu nhập của nhóm giàu nhất tăng từ 40.9 đến 47.8%.

Dựa vào số liệu thu thập được như trên bảng, chúng ta có thể hình học hóa thành đường
cong Lorenz, hoặc số hóa thành chỉ số Gini để phản ánh mức độ bất bình đẳng thu nhập
trong xã hội.

Đường cong Lorenz

Đường Lorenz là cách thể hiện bằng hình học mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập thông qua việc phản ánh mối quan hệ giữa phần trăm cộng dồn của các nhóm dân số
với phần trăm thu nhập/của cải cộng dồn tương ứng của nhóm đó.

Đường Lorenz mang tên nhà kinh tế học người Mỹ Max Otto Lorenz (1876-1959). Năm
1905, ông đã xây dựng đường Lorenz để mô tả sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập,
nó được công bố trong luận án tiến sĩ khi ông còn là nghiên cứu sinh tại Đại học Wisconsin-
Madison.

Đường Lorenz được biểu thị trong một đồ thị hình vuông với trục tung là tỉ lệ phần trăm thu
nhập/của cải cộng dồn, còn trục hoành biểu thị tỉ lệ phần trăm cộng dồn các nhóm dân cư
được sắp xếp theo thứ tự mức thu nhập tăng dần.

Các bước xây dựng:

Bước 1: Sắp xếp thu nhập của dân cư theo thứ tự tăng dần

Bước 2: Chia tổng số dân cư thành 5 nhóm có số dân bằng nhau, gọi là ngũ phân vị
Bước 3: Phản ánh phần trăm cộng dồn của dân số trên trục hoành, phần trăm cộng dồn của
thu nhập các nhóm dân cư tương ứng trên trục tung

Bước 4: Nối các điểm phản ánh tỷ lệ cộng dồn dân số tương ứng tỷ lệ cộng dồn thu nhập ta
được đường cong Lorenz

Lưu ý: từ bảng số liệu (table 2) của Mỹ, chúng ta có thể dễ dàng vẽ các đường cong Lorenz,
mỗi năm sẽ được thể hiện bởi một đường cong Lorenz riêng.

Đường cong Lorenz giúp chúng ta dễ dàng hình dung ra mức độ bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập thông qua việc quan sát hình dạng của đường cong. Nó cũng cho phép so
sánh mức độ bất bình đẳng trong phân phối giữa các quốc gia hay giữa các thời kỳ phát
triển. Ví dụ, hình bên cho thấy, mức độ bất bình đẳng thu nhập ở Thụy Điển (Sweden) là
thấp nhất, và Brazil là quốc gia có sự phân hóa giàu nghèo cao nhất. Đường cong Lorenz
càng lõm thì càng thể hiện sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.

Tuy nhiên, sử dụng phương pháp này cũng có những hạn chế. Chẳng hạn, khi các đường
Lorenz không cắt nhau thì đường nào lõm hơn sẽ thể hiện mức độ bất bình đẳng lớn hơn
nhưng khi chúng cắt nhau thì không thể đưa ra kết luận được. Ví dụ như trong hình bên,
nhìn đường Lorenz của ba quốc gia X, Y, Z ta chỉ có thể biết Y và Z có mức độ bất bình
đẳng cao hơn X còn giữa Y và Z thì không biết được quốc gia nào có mức độ bất bình đẳng
lớn hơn.
Để khắc phục nhược điểm này, người ta sử dụng hệ số Gini.

Hệ số Gini

Hệ số Gini là tỷ lệ phần trăm giữa diện tích của vùng nằm giữa đường bình đẳng tuyệt đối
và đường cong Lorenz (A) với diện tích của vùng nằm giữa đường bình đẳng tuyệt đối và
đường bất bình đẳng tuyệt đối (A+B).

Gini Index = A/(A+B)

Giá trị của hệ số Gini nằm trong khoảng từ 0 đến 1, giá trị càng cao thì mức độ bất bình
đẳng càng lớn. Những quốc gia có hệ số Gini từ 0,5 trở lên thì được coi là có mức độ bất
bình đẳng cao còn trong khoảng 0,2 đến 0,35 thì phân phối tương đối công bằng.
Hình bên thể hiện hệ số Gini tăng dần, tương ứng với các đường Lorenz ngày càng lõm
(ngày càng rời xa đường bình đẳng tuyệt đối).

Phần 3 :Mối liên hệ của sự bất bình


đẳng kinh tế và Entrepreneurship

3.1 Đánh giá sự bất bình đẳng trong các nhóm lực
lượng lao động
Sử dụng các mô hình phân tích dựa trên hồi quy và vi dữ liệu được phát triển gần đây
cho tổng lực lượng lao động ở Thụy Điển vào năm 2005 và 2013, nhóm tác giả Daniel
Halvarsson a, Martin Korpi b,∗, Karl Wennberg (2018) đánh giá sự bất bình đẳng
trong ba nhóm lực lượng lao động: công nhân (W), tự kinh doanh trong các doanh
nghiệp tư nhân (SE) và tự kinh doanh trong các doanh nghiệp hợp nhất (ISE). Kết quả
là hai loại hình kinh doanh SE và ISE cùng có tác động rõ rệt đến bất bình đẳng tổng
thể trong cả năm 2005 và 2013, các doanh nhân trong các loại hình SE và ISE trên
thực tế đã làm tăng bất bình đẳng thu nhập bằng cách gây ảnh hưởng không cân đối
đến thu nhập ở cuối và cuối cùng của phân phối thu nhập, tạo thành mối quan hệ kiểu
U.
Mặc dù các doanh nhân với tư cách là một nhóm dường như đóng vai trò quyết định,
nhưng cơ chế mà tinh thần kinh doanh ảnh hưởng đến sự bất bình đẳng trong lực
lượng lao động lại khác nhau tùy thuộc vào việc chúng ta nhìn đó là SE hay ISE.
Như lập luận của Edmark và Gordon (2013), trong khi các cá nhân có thu nhập thấp
hơn phải đối mặt với các ưu đãi tương đối trung lập, các hộ kinh doanh cao có thể phải
đối mặt với các ưu đãi thuế để kết hợp các công ty của họ. Tuy nhiên, phân tích cho
thấy rằng không có thay đổi nào trong số này dẫn đến bất kỳ tác động đáng chú ý nào
đến sự bất bình đẳng tổng lực lượng lao động.
Hệ quả về mặt lý thuyết, tác động tổng hợp của cả hai loại hình doanh nhân đối với
bất bình đẳng thu nhập tổng thể của lực lượng lao động có mức độ tương tự với các
yếu tố thông thường hơn, chẳng hạn như quy mô nhóm giáo dục tương đối, được bao
gồm như các kiểm soát trong hầu hết các mô hình thay đổi bất bình đẳng thu nhập.
Phát hiện này cho thấy rằng mặc dù tinh thần kinh doanh tất nhiên không giải thích
duy nhất sự bất bình đẳng đang thay đổi trong các nền kinh tế đương đại, nhưng đó là
một yếu tố cần được khám phá cùng với các biến số giải thích phổ biến hơn khác
trong tài liệu về bất bình đẳng.
Sự giáo dục giải thích sự khác biệt hạn chế trong nhóm về thu nhập giữa cả hai nhóm
doanh nhân của chúng ta. Điều này chỉ ra rằng tỷ lệ doanh nhân trong lực lượng lao
động nắm bắt được sự thay đổi của bất bình đẳng chỉ có thể được thay thế ở một mức
độ hạn chế cho các biến tiêu chuẩn trong các nghiên cứu về bất bình đẳng thu nhập,
chẳng hạn như trình độ học vấn hoặc tỷ lệ cá nhân có học vấn cao hơn trong lực lượng
lao động. Phát hiện này cũng chứng thực và mở rộng kết quả trong các nghiên cứu từ
các quốc gia khác rằng lợi nhuận từ giáo dục chính thức của các doanh nhân là thấp.
Thành công kinh tế của các doanh nhân dường như được xác định bởi các yếu tố
thường không được tính đến trong các nghiên cứu bất bình đẳng truyền thống.

3.2 Mối quan hệ của sự bất bình đẳng kinh tế và


Entrepreneurship
Các nghiên cứu từ nhiều nền tảng lý thuyết khác nhau đã phát hiện ra rằng các yếu tố
ảnh hưởng đến mức độ bất bình đẳng thu nhập của các quốc gia cũng ảnh hưởng đến
cấu trúc, động lực và kết quả thị trường lao động của họ. Các nghiên cứu này chủ yếu
tập trung vào mức độ phát triển kinh tế của một quốc gia (Kuznets 1953; Nielsen và
Alderson 1995) hoặc vị trí của quốc gia đó trên thế giới (Wood 1994) ảnh hưởng đến
quy mô và tăng trưởng của các ngành kinh tế khác nhau như thế nào và các động lực
của ngành này ảnh hưởng như thế nào đến thu nhập và bất bình đẳng giàu nghèo và cơ
hội thăng tiến xã hội.

Tuy nhiên, thông thường, các nghiên cứu này bỏ qua hoạt động tư nhân và khởi
nghiệp, mặc dù chúng là một phần ngày càng quan trọng của thị trường lao động trên
toàn cầu (Aldrich 1999; xem Aronson 1991). Do đó, Elsevier Ltd.(2005) đã xem xét
các tài liệu về phát triển kinh tế và công nghiệp để phát triển một tập hợp các đề xuất
về các yếu tố có thể tạo ra mối liên hệ giữa bất bình đẳng và tinh thần làm chủ
(entrepreneurship).

Bảy cấu trúc và quy trình liên quan đến các mức độ khác nhau của tinh thần làm chủ
và bất bình đẳng được xem xét gồm: phát triển kinh tế, chính sách của chính phủ, đầu
tư trực tiếp nước ngoài, tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ, sự gia tăng tính linh hoạt
của thị trường lao động, các chương trình chuyển giao của cải và sự khác biệt về sức
mạnh của tầng lớp lao động.

Cấu trúc / Quy trình Ảnh hưởng đến bất bình Ảnh hưởng đến hoạt
đẳng động khởi nghiệp

Phát triển kinh tế (+) Mẫu hình chữ U (+) Cung cấp thị trường
(Kuznets 1953) mới cho hàng hóa và dịch
vụ

Chính sách của chính phủ (+)Tạo ra tầng lớp tinh (+) Cung cấp tài chính và
hoa công nghiệp mới, cơ hội thị trường cho các
tầng lớp công nhân công doanh nhân non trẻ
nghiệp mới

Đầu tư trực tiếp nước (+) Tạo ra tầng lớp ưu tú (+) Cung cấp tài chính và
ngoài cơ hội thị trường cho các
tầng lớp quản lý và nhà tài
doanh nhân non trẻ
chính, tăng số lượng công
việc lương thấp, kỹ năng
thấp
Chuyển dịch ngành tăng (*) Phân đôi lao động (+) Tạo ra nhu cầu thị
trưởng nhanh trường mới
tiếp thị vào các công việc
dịch vụ có tay nghề cao,
lương cao và các công
việc dịch vụ kỹ năng thấp,
lương thấp

Tăng tính linh hoạt trong (+) Trở lại kỹ năng thông (+) các cá nhân ít bị ràng
việc làm qua thị trường lao động buộc với các công ty cụ
nghề nghiệp, gia tăng tình thể, phản ứng với tình
trạng mất an toàn lao trạng mất an toàn việc
động làm thông qua cơ hội cá
nhân

Các chương trình chuyển (-) Phân phối lại của cải (-) Giảm nhu cầu dựa vào
giao của cải tinh thần kinh doanh cần
công bằng trên toàn dân
thiết như một phương
sách cuối cùng

Sức mạnh giai cấp công (-) Giúp khuyến khích (-) Giảm nhu cầu dựa vào
nhân phân phối lại của cải, hình tinh thần kinh doanh cần
thành thị trường lao động thiết vì
nghề nghiệp và bảo vệ lợi
việc làm được đảm bảo
ích kinh tế của họ
hơn do thị trường lao
động nghề nghiệp
Ghi chú: (+) là mối quan hệ thuận chiều (-) là mối quan hệ nghịch chiều

3.3 Vai trò của các nguyên nhân gây bất bình đẳng
kinh tế trong việc làm gia tăng tinh thần làm chủ và các
đề xuất về các yếu tố tạo ra mối liên hệ đó.
3.3.1 Phát triển kinh tế

Chúng ta bắt đầu với công trình tiên phong của Kuznets (1953, 1955), người đã lập
luận rằng bất bình đẳng theo đường hình chữ U ngược trùng với sự phát triển kinh tế
và công nghiệp. Theo logic của ông, khi các quốc gia bắt đầu phát triển cơ sở hạ tầng
công nghiệp, của cải mới tạo ra sẽ tập trung vào tay những người kiểm soát cơ sở hạ
tầng đó. Theo thuật ngữ của Marx, những người khác bị buộc phải bán sức lao động
của họ hoặc tham gia vào nông nghiệp hoặc sản xuất quy mô nhỏ và do đó không
được chia đều của cải mới tạo ra. Tuy nhiên, khi sự phát triển tiếp tục diễn ra, cơ hội
tăng thu nhập sẽ lan rộng đến nhiều bộ phận dân cư hơn; khu vực nông nghiệp thu hẹp
và sự tham gia vào nền kinh tế công nghiệp trở nên lớn hơn. Lý thuyết của Kuznets đã
được hỗ trợ cho sự bất bình đẳng thu nhập trong nhiều bối cảnh khác nhau (Lindert và
Williamson 1985), và một xu hướng tương tự đã được ghi nhận về bất bình đẳng giàu
nghèo (Lampman 1962).

Vì mức độ phát triển kinh tế của một quốc gia là yếu tố dự đoán chính xác về mức độ
bất bình đẳng của quốc gia đó,

Đề xuất 1. Các quốc gia đang phát triển có tỷ lệ khởi nghiệp cao hơn. (kết luận từ dữ
liệu của GEM)

Đề xuất 1 nhận được một số hỗ trợ từ dữ liệu GEM, như thể hiện trong Hình 4. Ở mức
độ phát triển thấp, được đo bằng mức tiêu thụ năng lượng trên đầu người, tổng hoạt
động kinh doanh cao vào năm 2001. Theo GEM, các nước Mỹ Latinh đang phát triển
và các nước đang phát triển ở Châu Á có tỷ lệ khởi nghiệp trên 10%, con số này cao
hơn nhiều so với tỷ lệ trung bình là 7% của tất cả các nước GEM. Khi các quốc gia
phát triển, nhiều cơ hội hơn cho tinh thần làm chủ có thể xuất hiện khi các thị trường
chưa được phục vụ được mở rộng và nhiều người chuyển sang tự kinh doanh vì các
lĩnh vực truyền thống của nền kinh tế bị thu hẹp. Tuy nhiên, trong mối quan hệ bậc hai
được trình bày trong Hình 4, dường như sau khi phát triển đến một giai đoạn nhất
định, hoạt động khởi nghiệp giảm dần và sau đó lại tăng lên ở các cấp độ phát triển
cao hơn.

3.3.2 Chính sách nhà nước,

Một số yếu tố chính liên quan đến nền kinh tế quốc gia ở cả các quốc gia đang phát
triển và phát triển có thể giải thích cho sự khác biệt về bất bình đẳng kinh tế và
entrepreneurship. Rõ ràng, sự phát triển có thể là kết quả của một chiến lược tích cực
mà các chính phủ muốn cạnh tranh trong việc theo đuổi nền kinh tế toàn cầu. Các cơ
quan và chương trình của nhà nước ở các quốc gia đang phát triển đóng một vai trò
lớn trong sự phát triển công nghiệp thông qua các chính sách tài khóa hỗ trợ hoạt động
kinh doanh và doanh nghiệp, bao gồm thuế, đầu tư, cho vay và các chính sách khác
(Evans et al. 1985; Wade 1990). Để cạnh tranh trong một nền kinh tế ngày càng toàn
cầu, các quốc gia đang phát triển có thể khuyến khích tăng trưởng các ngành công
nghiệp mục tiêu nhất định, điều này có thể tạo ra một thành phần công nghiệp ưu tú và
gia tăng bất bình đẳng kinh tế. Những chính sách tương tự này cũng có thể cung cấp
hạt giống cho các doanh nghiệp mới.

Các quá trình tương tự cũng có thể xảy ra ở các quốc gia phát triển. Ví dụ, ở Ireland,
Cơ quan Phát triển Công nghiệp đã làm việc trong suốt những năm 1990 để tuyển
dụng các công ty công nghệ cao hiện có. Ireland cũng thành lập một tổ chức có tên
Enterprise Ireland để khuyến khích và hỗ trợ tinh thần làm chủ trong các ngành tương
tự (Florida 2002). Kết quả là, Ireland có tỷ lệ cơ hội hoạt động khởi nghiệp cao thứ hai
(7,8) trong số các quốc gia phương Tây, chỉ sau Hoa Kỳ. Do đó, các quốc gia tích cực
theo đuổi các chiến lược như vậy sẽ tạo ra những bối cảnh thuận lợi cho cơ hội khởi
nghiệp.

Đề xuất 2. Các chính phủ có chính sách và quy định ủng hộ sự xuất hiện của nền kinh
tế thị trường và phát triển công nghiệp sẽ có cơ hội khởi nghiệp nhiều hơn.

Rona-Tas (1994) đã hỗ trợ cho ý tưởng này trong nghiên cứu của ông về quá trình
chuyển đổi từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa tư bản của Hungary, phân biệt giữa các
quốc gia trải qua sự bào mòn của chủ nghĩa xã hội với các quốc gia đang trải qua quá
trình chuyển đổi từ chủ nghĩa xã hội. Sự bào mòn của chủ nghĩa xã hội là một quá
trình thụ động, trong đó các thể chế xã hội chủ nghĩa bị giải thể. Mặt khác, quá độ lên
chủ nghĩa xã hội đã trở thành một chiến lược tích cực của các chính phủ nhằm tạo ra
một nền kinh tế thị trường. Theo Rona-Tas, các quốc gia đang trải qua quá trình
chuyển đổi mang lại nhiều cơ hội hơn cho những người khởi nghiệp và trải nghiệm
mức độ hoạt động khởi nghiệp cao hơn.

3.3.3 Đầu tư nước ngoài

Phát triển công nghiệp cũng có thể là kết quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
vào cơ sở hạ tầng công nghiệp, với các doanh nghiệp tận dụng môi trường thân thiện ở
nhiều quốc gia đang phát triển, bao gồm chi phí lao động rẻ hơn và các tiêu chuẩn quy
định lỏng lẻo hơn. FDI đã bị chỉ trích bởi lý thuyết hệ thống thế giới vì vai trò của nó
đối với các nước đang phát triển (Bornschier và Chase- Dunn 1985). Những người chỉ
trích cho rằng FDI tạo ra sự phụ thuộc lâu dài của các quốc gia đang phát triển vào các
tập đoàn xuyên quốc gia và góp phần vào sự bất bình đẳng bằng cách tạo ra một nhóm
các nhà quản lý và chuyên gia được trả lương cao, bên cạnh các ngành sản xuất lương
thấp và các công việc biên khác. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng FDI
thực sự có thể mang lại một số lợi ích cho nền kinh tế của các quốc gia đang phát
triển (Alderson và Nielsen 1999; Soysa và Oneal 1999). Khi các công ty nước ngoài
đầu tư tiền trực tiếp vào hoạt động của chính họ hoặc thông qua hợp đồng phụ và các
thỏa thuận thuê ngoài khác, họ cũng tạo ra cơ hội cho hoạt động khởi nghiệp bằng
cách kích thích thị trường mới và bơm các nguồn tài chính mới vào nền kinh tế.

Đề xuất 3. Đầu tư nước ngoài vào các quốc gia đang phát triển làm tăng tỷ lệ cơ hội
khởi nghiệp của họ.

3.3.4 Chuyển dịch ngành,

Các quốc gia đang phát triển thường trải qua một sự chuyển đổi ngành mạnh mẽ
khỏi nông nghiệp sang lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Khi nông nghiệp thu hẹp lại,
những cá nhân hoặc gia đình trước đây hoạt động nông nghiệp phải cạnh tranh trong
một trật tự kinh tế mới. Ngay từ sớm, quá trình này đã phá vỡ các phương tiện truyền
thống để đảm bảo cuộc sống và dẫn đến gia tăng bất bình đẳng kinh tế. Mặc dù nhiều
người thực hiện điều chỉnh bằng cách trở thành nhân viên của các công ty lớn hơn,
nhiều người cũng chuyển sang các hoạt động khởi nghiệp (Rona-Tas 1994). Đối với
một số người, sự suy giảm của nông nghiệp làm giảm các cơ hội truyền thống để đảm
bảo cuộc sống. Khi cán cân ngành dịch chuyển khỏi nông nghiệp, những cá nhân này
có thể có ít cơ hội trong các lĩnh vực công nghiệp mới xuất hiện. Tinh thần làm chủ
(entrepreneurship) có thể là lựa chọn tốt nhất hoặc duy nhất của họ. Đồng thời, sự tăng
trưởng của khu vực dịch vụ có thể tạo ra những cơ hội kinh tế mới mà các doanh nhân
có thể khai thác.

Đề xuất 4. Khi nền kinh tế của các nước đang phát triển chuyển dịch khỏi nông
nghiệp, cả nhu cầu và cơ hội khởi nghiệp đều tăng lên.

Trong khi các quốc gia đang phát triển công nghiệp hóa và kinh nghiệm trong nông
nghiệp giảm và hoạt động sản xuất của họ tăng lên thì các quốc gia đã phát triển
công nghiệp lại đồng thời bị sụt giảm trong lĩnh vực sản xuất của họ. Động lực kép
này thể hiện bản chất của toàn cầu hóa, khi các công ty ở các nước tiên tiến chuyển
hoạt động sản xuất ra nước ngoài để tận dụng nguồn lao động rẻ hơn, chuỗi sản xuất
kéo dài ranh giới chính trị và các nền kinh tế trở nên toàn cầu (Alderson 1997). Kết
quả chính của quá trình toàn cầu hóa sản xuất là sự suy giảm tương đối về quy mô của
khu vực sản xuất ở các nền kinh tế công nghiệp tiên tiến và sự thay đổi tổng thể về
nhu cầu thị trường lao động ở các quốc gia này, như trường hợp của Hoa Kỳ đã nêu
rõ. Chuyển dịch cơ cấu thị trường lao động đã tạo ra một lực lượng lao động ngày
càng đa dạng gồm các công việc dịch vụ kỹ năng cao, lương cao và kỹ năng thấp,
lương thấp (Harrison và Bluestone 1988). Vì lý do này, các động lực của toàn cầu hóa
được cho là đã làm gia tăng bất bình đẳng giữa các quốc gia công nghiệp và hậu công
nghiệp tiên tiến, dẫn đến “sự quay đầu vĩ đại” trong đường cong Kuznets (Alderson và
Nielsen 2002; Harrison và Bluestone 1988). Ngoài ra, các lựa chọn về thị trường lao
động mà người lao động phải đối mặt trong nền kinh tế “mới” đã thay đổi đáng kể.
Theo báo cáo của GEM, tỷ lệ tổng số người khởi nghiệp và cơ hội khởi nghiệp của
Hoa Kỳ cao hơn mức trung bình của tất cả các quốc gia được đưa vào bộ dữ liệu và
cao hơn đáng kể các quốc gia có mức độ phát triển công nghiệp tương tự, như được
báo cáo trong Bảng 3. Những mô hình tập trung vào các đặc điểm chung của các quốc
gia đang phát triển thúc đẩy tinh thần làm chủ thất bại trong việc giải thích mức độ
độc đáo của hoạt động khởi nghiệp của Hoa Kỳ. Phi công nghiệp hóa đã có những tác
động độc đáo và đáng kể đến việc làm và sự tăng trưởng thị trường lao động ở Hoa
Kỳ, điều này có thể giải thích cho mức độ tương đối cao hơn của hoạt động khởi
nghiệp.

Tại sao việc phi công nghiệp hóa ở Hoa Kỳ có thể dẫn đến gia tăng hoạt động khởi
nghiệp cũng như bất bình đẳng? Một số người cho rằng phi công nghiệp hóa tạo thành
kết quả tự nhiên của tăng trưởng kinh tế, và khi các xã hội trở nên giàu có và năng
suất tăng lên, nhu cầu về dịch vụ tăng lên (Alderson 1999). Dấu hiệu của sự trưởng
thành về kinh tế là sự suy giảm trong lĩnh vực sản xuất và gia tăng lĩnh vực dịch vụ.
Do đó, sự phát triển nhanh chóng của khu vực dịch vụ có thể tạo ra nhiều cơ hội hơn
để tham gia vào hoạt động khởi nghiệp nhằm phục vụ cho các thị trường ngách mới và
chưa được phục vụ.

Đề xuất 5. Sự phát triển nhanh chóng của khu vực dịch vụ trong quá trình phi công
nghiệp hóa dẫn đến sự gia tăng cơ hội khởi nghiệp.

3.3.5 Thị trường lao động

Những người khác cho rằng phi công nghiệp hóa, thay vì là kết quả tự nhiên của các
giai đoạn phát triển công nghiệp tiên tiến, tạo thành một thành phần của chiến lược
tích cực của các công ty nhằm chuyển sản xuất ra nước ngoài. Theo Bluestone và
Harrison (1982), phi công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là kết quả của một quá trình
tiến hóa tự nhiên, mà còn là một phần của chiến lược quản lý được thực hiện ở Hoa
Kỳ để đối phó với sự cạnh tranh toàn cầu ngày càng tăng. Ngoài việc cắt giảm đáng kể
vốn đầu tư và phát triển, một phần lớn của chiến lược này liên quan đến việc giảm chi
phí lao động. Hàng triệu công nhân mất việc làm với số lượng lớn chưa từng có khi
các chủ lao động phá bỏ hợp đồng xã hội đã điều chỉnh các mối quan hệ giữa người sử
dụng lao động sau Thế chiến II. Người lao động không còn được đảm bảo an toàn việc
làm để đổi lấy sự cam kết và lòng trung thành của họ. Các chiến dịch phá hoại công
đoàn đã cắt giảm các nguồn cơ cấu của quyền của người lao động và việc làm ở Hoa
Kỳ ngày càng trở nên không ổn định.

Ngay từ đầu, sự bất ổn như vậy đã tạo ra rất nhiều lo ngại từ các nhà phân tích thị
trường lao động (Bluestone và Harrison 1982; Harrison và Bluestone 1988; Osterman
1988) và các nhà hoạch định chính sách (Reich 1983). Tuy nhiên, khi việc cắt giảm
quy mô và sự bất ổn về việc làm trở nên thường xuyên trong thị trường lao động Hoa
Kỳ, các quá trình này cũng trở thành một phần “thường xuyên về mặt thể chế” hơn
trong quan hệ việc làm và phát triển nghề nghiệp (Osterman 1999). Nhân viên đã phát
triển chậm các phản ứng thích nghi với sự bất ổn này bằng cách đầu tư mới vào giáo
dục và đóng vai trò tích cực hơn trong việc xác định các cơ hội thăng tiến và khả năng
phát triển trong nghề nghiệp.

Không chỉ các công ty trở nên ít cam kết hơn với các mối quan hệ lâu dài với nhân
viên của họ, mà nhân viên cũng cảm thấy ít cam kết hơn với các công ty cụ thể trong
suốt sự nghiệp của họ (Osterman 1999). Có lẽ để đối phó với sự suy giảm của thị
trường lao động nội bộ doanh nghiệp và việc làm ổn định, nhiều người lao động đã áp
dụng cách tiếp cận cá nhân hơn để phát triển nghề nghiệp (DiTomaso 2001). Thông
thường, điều này có nghĩa là đảm nhận nhiều công việc tự định hướng hơn trong các
công ty. Tuy nhiên, khi sự không ổn định về việc làm và sự chú trọng vào việc tự định
hướng phát triển song song, nhiều người lao động từ chối các mối quan hệ ràng buộc
với các công ty và cư xử như những nhà thầu độc lập. Đặc biệt, những người lao động
có trình độ học vấn cao và các kỹ năng có giá trị đang tìm kiếm cơ hội mới cho mình.
Những người thuộc “tầng lớp sáng tạo” mới nổi thường tìm kiếm những cơ hội này
thông qua các công ty khởi nghiệp (Florida 2002).

Đề xuất 6. Tăng tính linh hoạt trong việc làm dẫn đến tăng cơ hội khởi nghiệp.

Chúng tôi không đưa ra một lập luận xác định. Các mối quan hệ năng động giữa phát
triển, bất bình đẳng và hoạt động khởi nghiệp tạo ra các cấu trúc chính trị và xã hội cụ
thể tại các bối cảnh lịch sử cụ thể. Các cấu trúc chính trị và xã hội ảnh hưởng đến bất
bình đẳng kinh tế phần lớn là do thay đổi cấu trúc và những quy trình của thị trường
lao động (Kalleberg và Berg 1987). Các chính sách chính trị ảnh hưởng đến mức độ
mà các cá nhân phải dựa vào thị trường lao động để kiếm sống và các chính sách thuế
xác định lượng của cải được chuyển từ những người có tài sản lớn sang những người
không có. Cơ cấu giai cấp trong xã hội phụ thuộc vào quy mô của các nhóm nghề
nghiệp và công nghiệp và mức độ vận động của chúng. Khi các nhóm được huy động
và có ảnh hưởng cao, chúng có thể bảo vệ lợi ích của mình hiệu quả hơn. Các cấu trúc
này làm thay đổi các lựa chọn mà cá nhân phải thực hiện về việc tham gia lực lượng
lao động của họ. Do đó, như chúng tôi giải thích dưới đây, chúng sẽ có ảnh hưởng đến
hoạt động khởi nghiệp.

3.3.6 Đặc điểm việc làm

Các chính sách và điều khoản được cung cấp bởi các phúc lợi quốc gia hiện đại rất
khác nhau giữa các quốc gia. Trong công trình của mình, Esping-Andersen (1990) đã
phân loại các cấu trúc này thành ba loại chế độ. Các loại chế độ khác nhau về mục tiêu
và loại điều khoản mà chúng đảm bảo cho người dân và tác động của chúng đối với sự
tăng trưởng thị trường lao động. Esping-Andersen lập luận rằng ba kiểu chế độ - tự
do, chủ nghĩa tập thể và dân chủ xã hội - khác nhau về mức độ giảm bớt sự thoải mái
mà chúng cho phép. Các quốc gia có phúc lợi dân chủ xã hội hào phóng nhất đi xa
nhất trong việc cho phép công dân duy trì sinh kế mà không phụ thuộc vào thị trường,
trong khi các chế độ tự do ràng buộc việc cung cấp lợi ích trực tiếp cho việc tham gia
thị trường và kỳ thị người nhận, tăng cường sự phụ thuộc vào thị trường cho tất cả trừ
những công dân tuyệt vọng nhất.

Loại chế độ có ảnh hưởng gì đến mức thu nhập và bất bình đẳng giàu nghèo?

Các quốc gia có chế độ nhà nước phúc lợi dân chủ xã hội thường có đạo đức quân
bình mạnh mẽ. Những quốc gia như vậy làm giảm mức độ bất bình đẳng giàu nghèo
bằng cách giảm bớt lao động và phân phối lại một lượng lớn của cải. Ở đầu ngược lại,
các chế độ tự do có mức độ bất bình đẳng giàu nghèo cao và các cơ chế khuyến khích
sự tham gia vào thị trường lao động như một nguồn thu nhập và sự thăng tiến. Chúng
tôi đề xuất rằng các chính sách của nhà nước về phúc lợi cũng ảnh hưởng đến hoạt
động khởi nghiệp, củng cố mối quan hệ giữa bất bình đẳng và hoạt động khởi nghiệp.
Theo định nghĩa, nếu khởi nghiệp là nỗ lực cuối cùng để đảm bảo cuộc sống khi các
lựa chọn thị trường lao động khác thất bại, thì các chính sách phúc lợi mạnh mẽ của
nhà nước dưới hình thức bảo hiểm thất nghiệp và đào tạo việc làm sẽ giảm nhu cầu
dựa vào tinh thần làm chủ cần thiết.

Đề xuất 7. Các quốc gia có chính sách nhà nước về phúc lợi hào phóng hơn có tỷ lệ
khởi nghiệp cần thiết thấp hơn.

Hình 5 và 6 cho thấy tổng số và mức độ cần thiết của doanh nghiệp của các quốc gia
được phân loại theo chế độ Esping-Andersen (1990). Như Hình 5 cho thấy rõ ràng,
các chế độ dân chủ và xã hội, cả hai chế độ này đều giảm bớt lao động và chuyển giao
nhiều của cải hơn các quốc gia tự do, có tỷ lệ tổng hoạt động khởi nghiệp thấp hơn.
Mối quan hệ giữa kiểu chế độ và tinh thần làm chủ cần thiết thậm chí còn rõ ràng hơn.
Các chế độ dân chủ xã hội có 2/3 tinh thần làm chủ cần thiết của các chế độ tập thể, và
chỉ 1/3 của các chế độ tự do. Theo dữ liệu của GEM, công dân của các chế độ giảm
bớt lao động phụ thuộc ít hơn vào loại entrereneurship cần thiết để đảm bảo cuộc sống
so với công dân của các chế độ khác.

3.3.7 Cơ cấu giai cấp.

Một số nhà lý thuyết cho rằng mối quan hệ tiêu cực giữa bình đẳng kinh tế và hoạt
động khởi nghiệp bắt nguồn từ sức mạnh của giai cấp công nhân của một quốc gia.
Các quốc gia có các tầng lớp lao động có tổ chức cao và có ảnh hưởng ít bị bất bình
đẳng hơn vì các công đoàn và các tổ chức khác của giai cấp công nhân có thể phát huy
ảnh hưởng của mình để giành được phần lớn hơn các thành quả lao động của họ. Ở
nhiều quốc gia châu Âu có nền công nghiệp tiên tiến, các đảng phái lao động sau Thế
chiến thứ hai đã có thể theo đuổi các chính sách toàn dụng lao động, trợ cấp thất
nghiệp và các phúc lợi xã hội liên quan (Korpi 1989; Korpi và Palme 2000). Ngoài ra,
nhiều quốc gia theo chủ nghĩa quân bình có tầng lớp lao động mạnh (Esping-Andersen
1990, 1994). Sự hiện diện của một tầng lớp lao động mạnh làm giảm nhiều tác động
tiêu cực của toàn cầu hóa và sự bất ổn về việc làm mà trước đây chúng ta đã tranh
luận có thể gây ra sự gia tăng hoạt động khởi nghiệp.
Đề xuất 8. Sự hiện diện của một tầng lớp lao động được huy động cao và có ảnh
hưởng sẽ làm giảm tỷ lệ khởi nghiệp cần thiết.

McManus (2000) đã xác nhận mối liên quan này trong nghiên cứu của cô ấy về chất
lượng tự doanh ở Đức và Mỹ. Ở Đức, sự hiện diện của các công đoàn có sức ảnh
hưởng - hiệp hội người sử dụng lao động và thị trường lao động nghề nghiệp mạnh mẽ
đã góp phần ổn định hơn thị trường lao động và tăng mức thu nhập đối với nhiều
ngành nghề tương tự đang giảm ở Mỹ. Những yếu tố này dẫn đến tỷ lệ lao động tự do
chất lượng kém ở Đức thấp hơn ở Mỹ. Thị trường lao động nghề nghiệp mạnh và thị
trường lao động ổn định hơn dẫn đến ổn định hơn , chất lượng tự kinh doanh cao hơn
ở Đức.

Phần 4 : Sự bất bình đẳng kinh tế ảnh


hưởng như thế nào đến
Entrepreneurship
Như đã phân tích ở phần 3 thì sự bất bình đẳng kinh tế thường đại diện nổi bật bởi sự
bất bình đẳng giàu nghèo. Sự giàu có đề cập đến tổng số tài sản của một cá nhân hoặc
hộ gia đình. Điều này có thể bao gồm các tài sản tài chính, chẳng hạn như trái phiếu
và cổ phiếu, tài sản và quyền hưu trí tư nhân. Do đó, bất bình đẳng giàu nghèo đề cập
đến sự phân bổ tài sản không đồng đều trong một nhóm người. Và điều này ảnh
hưởng không nhỏ đến tinh thần làm chủ (Entrepreneurship).

4.1 Ràng buộc về tính thanh khoản

Lý thuyết ràng buộc thanh khoản có ý nghĩa sâu sắc đối với nền kinh tế của chúng ta.
Hãy xem xét một doanh nhân không giàu có đang cố gắng bắt đầu kinh doanh và
chúng ta hãy giả định rằng anh ấy hoặc cô ấy có các kỹ năng cần thiết để biến một ý
tưởng tốt thành một công việc kinh doanh có lãi. Trong phạm vi lý thuyết về ràng
buộc thanh khoản đúng, sự thiếu giàu có của cá nhân này sẽ ngăn cản anh ta hoặc cô
ta chuyển đổi một cơ hội khả thi thành một doanh nghiệp mới thành công. Và, trong
phạm vi kịch bản này phổ biến, Entrepreneurship như một phương tiện phát triển kinh
tế xã hội đi lên và điều đó chỉ giới hạn ở những cá nhân có tài sản giá trị ròng. Một số
yếu tố khiến các cá nhân có thể tham gia tinh thần làm chủ.

Tích lũy tài sản: Các nghiên cứu về hạn chế thanh khoản cũng đã tìm cách giải quyết
tính nội đồng sinh ra từ việc thu được của cải theo thời gian. Một số cá nhân sẽ tích
lũy tài sản trong thời kỳ khởi nghiệp.
Giàu có đột ngột: Một ví dụ về việc sử dụng các biến công cụ liên quan đến các
khoản thu nhập như tiền thừa kế hoặc tiền thắng xổ số. Sự giàu có đột ngột như vậy có
thể khiến một cá nhân tham gia vào kinh doanh.

Khả năng: Trình độ học vấn hoặc kinh nghiệm quản lý cao hơn có thể dẫn đến kinh
nghiệm lớn hơn và cải thiện khả năng bắt đầu thành công một dự án kinh doanh mới.

Tình trạng: Ví dụ, những cá nhân đang làm việc hiệu quả tại thời điểm đưa ra quyết
định tham gia vào etrepreneurship có khả năng giàu có hơn những cá nhân thất
nghiệp. Nhóm thứ hai này được gọi là các doanh nhân ‘‘ mất việc làm ’’ vì họ quyết
định tham gia vào kinh doanh có thể là do bị mất việc hoặc giảm lương (Fairlie và
Krashinsky 2012). Các nghiên cứu điều tra về nhóm này đã phát hiện ra rằng những
người thất nghiệp thường ít giàu có hơn.

Cơ hội: Có rất nhiều sự khác biệt trong các loại cơ hội mà các doanh nhân trẻ theo
đuổi. Nhiều người có thể được coi là một phần của ‘‘phần lớn khiêm tốn ’’ của các dự
án không yêu cầu đầu tư tài chính lớn trong thời kỳ thai nghén (Davidsson và Gordon
2012). Những người khác yêu cầu đầu tư lớn vào đất đai, địa điểm và thiết bị. Khi tính
đến những yếu tố này, chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng mức độ giàu có cao hơn cung
cấp cho các công ty khởi nghiệp một tấm đệm chống lại các sự kiện không lường
trước.

Xem xét giả thuyết

Giả thuyết 1a: Các doanh nhân mới thành lập có mức tài sản thấp có nhiều khả năng
rời khỏi quá trình khởi nghiệp hơn so với các doanh nhân trẻ giàu có hơn.

Giả thuyết 1b: Trong số những doanh nhân non trẻ vẫn tiếp tục tham gia vào quá trình
khởi nghiệp, những doanh nhân non trẻ có ít tài sản ít có khả năng thành lập công ty
mới hơn so với những doanh nhân trẻ giàu có hơn.

Kết luận: Các doanh nhân mới thành lập có tài sản thấp và trung bình phải đối mặt
với các hạn chế về thanh khoản và có nhiều khả năng từ bỏ quá trình khởi nghiệp khi
thai nghén. Tuy nhiên, một khi rào cản đó được vượt qua, sự giàu có không có tác
dụng rõ ràng trong việc khởi động thành công một dự án kinh doanh mới.

4.2 Các thước đo hiệu suất của các dự án kinh doanh, sự giàu có và gia nhập kinh
doanh:

Nghiên cứu trước đây cũng đã xem xét sự giàu có ảnh hưởng như thế nào đến những
phần thưởng có thể tích lũy từ tinh thần kinh doanh. '' Phần thưởng '' bao gồm doanh
thu kiếm được từ liên doanh, về cơ bản là một thước đo hiệu suất. Các cá nhân giàu có
có thể rời bỏ công việc làm công ăn lương hoặc làm công ăn lương và tham gia vào
chủ nghĩa kinh doanh để tìm kiếm phần thưởng tài chính lớn hơn (Carter 2011; Evans
và Leighton 1989; Rees và Shah 1986). Tuy nhiên, khi đang trong quá trình thai
nghén, họ có thể không thể phát triển liên doanh (Freel 2007; Stiglitz và Weiss 1981).
Chúng tôi đề xuất rằng cơ chế mà sự giàu có có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh mới bắt nguồn từ niềm tin rằng tinh thần kinh doanh sẽ mang lại phần thưởng
tài chính lớn hơn so với việc làm thông thường. Một khi quyết định khởi nghiệp,
những người có giá trị ròng cá nhân thấp hơn sẽ gặp khó khăn khi cố gắng phát triển
doanh nghiệp của họ. Dựa trên các nghiên cứu trên, chúng tôi đề xuất hai thước đo đại
diện cho mức độ hoạt động của dự án kinh doanh mới — số doanh thu kiếm được
trong năm hoạt động đầu tiên và số lượng nhân viên được thuê. Chúng tôi kiểm tra tác
động của sự giàu có đối với hoạt động kinh doanh mới thông qua các giả thuyết sau:

Giả thuyết 2a: Trong số những doanh nhân non trẻ mới thành lập một công ty mới,
những doanh nhân non trẻ giàu có sẽ kiếm được ít doanh thu hơn trong năm đầu tiên
hoạt động so với những doanh nhân trẻ tuổi giàu có hơn.

Giả thuyết 2b: Trong số những doanh nhân trẻ mới thành lập một công ty mới, những
doanh nhân mới thành lập ít giàu có sẽ thuê ít nhân viên hơn trong năm đầu tiên hoạt
động so với những doanh nhân trẻ giàu có hơn.

Kết luận: Khi xem xét kỹ hơn ảnh hưởng của sự giàu có đối với hiệu suất của các dự
án kinh doanh mới thành công, sự giàu có không giải thích được sự khác biệt ngoài
tác động của nhóm, vốn nhân lực và đầu tư nguồn lực cá nhân trong liên doanh. Tổng
hợp lại, những kết quả này cho thấy các doanh nhân non trẻ thuộc tầng lớp trung lưu
và ít giàu có cũng có khả năng như những người giàu có, nhưng chịu nhiều hạn chế
hơn về thanh khoản. Giá trị ròng của cá nhân cao giúp giảm đáng kể khả năng rời khỏi
quá trình khởi động. Tuy nhiên, khi vượt qua được rào cản này, sự giàu có dường như
không ảnh hưởng đến việc triển khai thành công các dự án kinh doanh mới. Các doanh
nhân mới giàu có ít, đang giàu có và đã giàu có đều có khả năng bắt đầu các dự án
kinh doanh mới, một khi tránh được việc bỏ việc.

Những người sáng lập thuộc tầng lớp thấp, trung lưu và giàu có dường như có khả
năng kiếm tiền và thuê người với số lượng lớn và nhỏ như nhau.

Tổng hợp lại, những phát hiện này cho thấy tài năng kinh doanh có thể như nhau
trong xã hội, nhưng cơ hội khởi nghiệp có thể bị hạn chế về tài sản đối với tầng
lớp trung lưu và thấp.

TỔNG KẾT

You might also like