Professional Documents
Culture Documents
CÂY MÍA
đầu tư chưa đúng mức và trọng tâm, cũng như về quản lý thị trường, từ đó dẫn đến tồn
đọng sản phẩm, nhà máy sản xuất cầm chừng, nông dân không bán được sản phẩm mía
trồng dẫn đến chán đầu tư hoặc chuyển đổi giống cây trồng có giá trị kinh tế hơn, từ đó diện
tích canh tác mía bị thu hẹp.
Mặc dù vậy ngành công nghiệp mía đường vẫn là một ngành quan trọng ở nước ta bởi
nó góp phần đáp ứng lượng đường tiêu thụ dùng cho khu vực và cả nước, nâng cao từng
bước mức dinh dưỡng trong khẩu phần ăn hàng ngày, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế
khác phát triển, tận dụng đất hoang đồi trọc và đất nông nghiệp có hiệu quả thấp so với
trồng mía, tạo công ăn việc làm cho nông dân và lao động dư thừa. Góp phần nâng cao
trình độ chế biến, chuyển dần sang hình thức sản xuất đường cơ giới với công nghệ tiên
tiến, thay thế dần lượng đường tiểu thủ công nghiệp tiêu hao nguyên liệu mía gần gấp đôi
so với sản xuất công nghiệp.
4. Một số danh từ thường dùng trong nhà máy đường
1. Độ Bx: Độ Bx biểu thị tỉ lệ % trọng lượng các chất hoà tan so với trọng lượng nứơc mía.
Nói cách khác nó cho ta biết nồng độ các chất hoà tan có trong dung dịch nước mía hay dung
dịch đường là bao nhiêu phần trăm.
Dụng cụ để đo độ Bx là đường kế Bá linh hoặc Brix kế. Độ Bx đo được của dung dịch
ở nhiệt độ bất kì khác với nhiệt độ tiêu chuẩn của Bx kế gọi là Bx quan sát. Độ Bx cải chính
là độ Bx đã điều chỉnh từ độ Bx quan sát về nhiệt độ tiêu chuẩn của Bx kế.
2. Độ đường: Biểu thị thành phần đường saccaroza có trong dung dịch tính theo % trọng
lượng dung dịch.Tức là 100g dung dịch có bao nhiêu gam đường saccaroza.
Trong công nghiệp đường để phù hợp với yêu cầu của sản xuất và kĩ thuật người ta còn
dùng hai khái niệm sau để chỉ độ đường của dung dịch:
- Độ đường theo Pol: Pol là thành phần có trong dung dịch đường xác định trực tiếp
bằng đường kế (Polarimetre). Nó chính là thành phần đường gần đúng của dung dịch
căn cứ vào kết quả đo của phương pháp phân tích nhanh.
- Độ đường theo Sac: Là thành phần đường saccaroza có trong dung dịch tính theo %
trọng lượng dung dịch căn cứ vào kết quả đo và phân tích chính xác của phòng thí
nghiệm còn gọi là phương pháp chuyển hoá. Nó loại trừ những sai số do ảnh hưởng của
những chất không phải đường gây nên trong quá trình xác định.
3. Độ tinh khiết: Độ tinh khiết chỉ mức độ trong sạch của dung dịch nước mía. Nó biểu thị
bằng % trọng lượng đường saccaroza so với trọng lượng các chất hoà tan có trong dung dịch
Độ tinh khiết càng cao biểu thị chất lượng dung dịch đường càng tốt .
Trong công nghiệp đường người ta thường dùng hai khái niệm độ tinh khiết sau đây:
- Độ tinh khiết AP: Độ tinh khiết đơn giản
Pol
AP x100
Bx
- Độ tinh khiết trọng lực:
sacc
GP x100
Bx
4. Đường khử (Reducing sugar RS): Tức là đường không thể kết tinh như glucoza,
fructoza ... cho biết mức độ chuyển hoá của mật chè. Đường khử càng cao thì nguyên liệu
càng xấu, khó kết, kết lâu, hạt nhỏ, vì đường khử cao làm mật dẻo, đối lưu và kết tinh kém.
Công nghệ sản xuất đường 8
Khi cây mía còn non tỉ lệ RS cao và mía càng già tỉ lệ RS càng giảm. Thường khi mía chín, tỉ
lệ RS chỉ còn trên dưới 1%.
5. Chữ đường (CCS): Là khái niệm về năng suất công nghiệp chỉ lượng đường thương phẩm
có thể lấy ra từ mía ở các nhà máy hay xí nghiệp chế biến đường mía.
Pol mía x tỉ lệ thu hồi
Năng suất CN =
100
Năng suất CN thường đạt từ 9-13,5% (trung bình 10%).
Dưới đây là công thức tính chữ đường (CCS) ở nhà máy đường để thanh toán tiền mua
mía nguyên liệu:
3 5 F 1 3 F
CCS Pol (1 ) Bx (1 )
2 100 2 100
trong đó: Pol là pol nước mía ép đầu hoặc nước mía nguyên ép bằng máy ép phân tích.
Bx: là Bx nước mía ép đầu hoặc nước mía nguyên ép bằng máy ép phân tích.
F: % trọng lượng xơ trong mía.
6. Chế độ nấu đường: Là bản qui chế định rõ cách phối liệu các loại nguyên liệu, các chỉ
tiêu kinh tế kĩ thuật của thành phẩm, bán thành phẩm, cân đối các loại nguyên liệu.
Chế độ nấu đường còn gọi là hệ thống nấu đường: Nó vạch ra phương hướng cụ thể cho
từng nồi nấu về các chỉ tiêu sau:
- AP: Độ tinh khiết nguyên liệu, đường non.
- Dung tích cần nấu tính bằng m3.
- Độ Bx của đường non.
- Chỉ tiêu chất lượng thành phẩm: % sac, độ màu.
Lượng nước mía hỗn hợp x Pol nước mía hỗn hợp
7. Hiệu suất ép thực tế =
Lượng mía ép x Pol mía
8. Đường thô: Là một loại đường saccaroza được dùng làm nguyên liệu để sản xuất đường
tinh luyện. Chất lượng đường thô phụ thuộc vào tình hình nguyên liệu mía, trình độ kỹ thuật
của mỗi nước. Thành phần đường thô của một số nước được cho ở bảng 2
Bảng 2. Thành phần của đường thô
9. Đường RE (Refined sugar Extra): Là đường tinh luyện, là đường saccaroza được tinh
chế và kết tinh, là sản phẩm đường cao cấp, được sản xuất trực tiếp từ mía, từ đường thô hoặc
từ các nguyên liệu khác. Đường tinh luyện được dùng làm nguyên liệu cho các sản phẩm cao
Công nghệ sản xuất đường 9
cấp của CN thực phẩm. Ở nước ta có 2 nhà máy đường Biên Hòa và Khánh Hội sản xuất loại
đường này. Sau đây là thành phần chính và chỉ tiêu chất lượng theo TCVN 6958:2001:
* Các chỉ tiêu cảm quan của đường tinh luyện, phải phù hợp với yêu cầu qui định
trong bảng 3
Bảng 3. Các chỉ tiêu cảm quan
Chỉ tiêu Yêu cầu
Ngoại hình Tinh thể màu trắng, kích thước tương đối đồng đều, tơi khô, không vón cục
Mùi vị Tinh thể đường hoặc dung dịch đường trong nước có vị ngọt, không có mùi vị lạ
Màu sắc Tinh thể trắng óng ánh. Khi pha vào nước cất cho dung dịch trong suốt.
* Các chỉ tiêu lý - hóa của đường tinh luyện, phải phù hợp với yêu cầu qui định trong
bảng 4
* Dư lượng SO2
Sunfua dioxit ( SO2), ppm, không lớn hơn: 7
* Các chất nhiễm bẩn, mức tối đa
Asen (As) 1mg/kg
Đồng ( Cu) 2mg/kg
Chì ( Pb) 0,5 mg/kg
10. Đường RS (Refined Sugar, White Sugar): Đường trắng, đường trắng đồn điền hay
đường trắng trực tiếp. Phần lớn các nhà máy đường hiện đại của nước ta sản xuất loại đường
này như: Lam Sơn, Việt Trì , Quảng Ngãi, Bình Định, Bình Dương, Tuy Hoà v.v...
Thành phần chính và các chỉ tiêu chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 6959: 2001
như sau:
* Các chỉ tiêu cảm quan của đường trắng: phải phù hợp với yêu cầu qui định trong
bảng 5.
Công nghệ sản xuất đường 10
* Các chỉ tiêu lý - hóa của đường trắng, phải phù hợp với yêu cầu qui định trong bảng 6.
Bảng 6. Các chỉ tiêu lý - hóa
Mức
Tên chỉ tiêu Hạng A Hạng B
1. Độ Pol, (oZ), không nhỏ hơn 99,7 99,5
2. Hàm lượng đường khử, % khối lượng (m/m), không lớn hơn 0,1 0,15
3. Tro dẫn điện, % khối lượng (m/m), không lớn hơn 0,07 0.1
4. Sự giảm khối lượng khi sấy ở 105OC trong 3h, % khối lượng
0,06 0,07
(m/m), không lớn hơn
Công nghệ sản xuất đường 11
1.1.3. Sự biến đổi phẩm chất của mía sau thu hoạch
Mía sau khi chặt, hàm lượng đường trong mía giảm nhanh, gây tổn thất đường trong sản
xuất. Nguyên nhân do tác dụng hô hấp hoặc do vi khuẩn. Do đó mía vận chuyển về nhà máy
đưa ép càng sớm càng tốt.
Qua nghiên cứu, người ta thấy rằng nếu mía đưa vào ép sau 8 ngày kể từ khi chặt, hiệu
suất thu hồi đường giảm 20%.
Trong thời gian bảo quản mía, các chỉ tiêu quan trọng như: chất khô, thành phần đường,
độ tinh khiết, hàm lượng đường khử sẽ thay đổi nhiều.
1.1.4. Các biện pháp hạn chế tổn thất đường khi thu hoạch
- Chặt mía khi trời rét hoặc hơi rét.
- Chặt mía cho ngã theo chiều luống mía, các cây mía gối lên nhau, ngọn cây mía này phủ lên
gốc cây mía kia nhằm giảm lượng mía bốc hơi và chống rét.
- Chất mía thành đống có thể giảm sự phân giải đường.
- Dùng lá mía thấm nước để che cho mía lúc vận chuyển và dùng nước tưới phun vào mía.
1.2. Thành phần hoá học của mía
Thành phần hoá học của mía thay đổi tuỳ theo điều kiện đất đai, phương pháp canh tác,
loại, giống mía, v.v...
Bảng 1.1. Thành phần hoá học cây mía
Một cách khác có thể chia trong cây mía ra thành những phần sau:
Xơ
Mía Chất tan (chất khô) Dung dịch nước mía.
Nước
Chất Đường saccaroza
hoà tan Chất không đường
* Độ hoà tan: Đường rất dễ hoà tan trong nước, độ hoà tan tăng theo nhiệt độ (bảng
1.2).
Độ hoà tan của saccaroza còn phụ thuộc vào các chất không đường có trong dung dịch
đường (bảng 1.3).
Đường saccaroza không hoà tan trong dầu hỏa, cloroform, CCl4, CS2, benzen, tecpen,
ancol và glyxerin khan. Trong dung dịch ancol có nước, đường saccaroza hoà tan ít. Một gam
ancol có nồng độ 95% có thể hoà tan 0,01g đường.
Đường saccaroza còn hoà tan giới hạn trong anilin, piridin, etyl axetat, amyl axetat,
phenol và NH3.
* Độ nhớt: Độ nhớt của dung dịch đường tăng theo chiều tăng nồng độ và giảm theo
chiều tăng nhiệt độ (bảng 1.4).
* Nhiệt dung riêng: Nhiệt dung riêng của đường saccaroza tính theo công thức:
C = 4,18 (0,2387 + 0,00173 t ), kJ/ kg độ
Trong đó t: nhiệt độ.
Nhiệt dung riêng trung bình của saccaroza từ 22oC đến 51oC là 0,3019.
* Độ quay cực: Dung dịch đường có tính quay phải. Độ quay cực riêng của saccaroza
rất ít phụ thuộc vào nồng độ và nhiệt độ. Do đó rất thuận tiện cho việc xác định đường bằng
phương pháp phân cực.
20D = 66,469 + 0,00870 c - 0,000235 c2
Trong đó c : nồng độ saccaroza trong 100ml.
Trị số độ quay cực trung bình của saccaroza là: 20
D = + 66,5
o
Chất kiềm, muối của axit yếu làm giảm độ quay cực của saccaroza. Ví dụ: trong dung
dịch có 1 phân tử đường và 2 phân tử vôi thì độ quay cực của saccaroza là 51,8o chứ không
phải 66,5o. Đó là do sự tạo thành canxi saccarat.
Công nghệ sản xuất đường 15
Bảng 1.3. Độ hòa tan của saccaroza trong dung dịch nước chứa các loại muối
Bảng 1.4. Ảnh hưởng của nồng độ và nhiệt độ đến độ nhớt của dung dịch đường
- Tác dụng của kiềm: Phân tử đường saccaroza không có nhóm hydroxyt glucozit nên
không có tính khử. Khi tác dụng với chất kiềm hoặc kiềm thổ, saccaroza tạo thành saccarat.
Trong saccarat, hydro của nhóm hydroxyl được thay thế bởi kim loại. Như vậy trong môi
trường này, có thể coi saccaroza như 1 axit yếu. Phản ứng tạo thành saccarat phụ thuộc vào:
nồng độ của dung dịch, lượng kiềm và lượng saccaroza.
Trong dung dịch đậm đặc và dư kiềm, saccaroza sẽ tạo nên nhiều saccarat:
C12H22O11 + Na+OH - HOH + NaC12H21O11
Khi tác dụng với vôi sẽ thu được các phức saccarat sau:
C12H22O11 . CaO. H2O : monocanxi saccarat
C12H22O11 . 2CaO. 2H2O : dicanxi saccarat
C12H22O11 . 3CaO. 3H2O : tricanxi saccarat
Hai dạng monocanxi và dicanxi dễ hòa tan trong nước, trong khi đó tricanxi rất ít hòa tan
trong nước nên phản ứng tạo thành tricanxi saccarat được ứng dụng để lấy đường saccaroza
khỏi rỉ đường của củ cải.
Ở môi trường kiềm loãng và dung dịch đường lạnh, hầu như không có tác dung gì.
Nếu kiềm đậm đặc, ở nhiệt độ thấp, đường cũng bị phân giải.
Ở pH từ 8 đến 9 và đun nóng trong một thời gian dài, saccaroza bị phân hủy thành hợp
chất có màu vàng và màu nâu
Trong môi trường kiềm, ở nhiệt độ cao, đường bị phân huỷ tạo ra các axit và chất màu
v.v... Tốc độ phân huỷ tăng theo độ pH. Ở nhiệt độ sôi (trong 1 giờ) và pH = 8 ÷ 9,
saccaroza chỉ bị phân huỷ 0,05%. Nếu cùng ở nhiệt độ trên nhưng với pH là 12 thì sự phân
huỷ đó tăng 0,5 % ( hình 1.2).
Đường bị phân hủy,%
1.5
1.0
0.5
13
8 9 10 11 12 PH
Hình 1.2. Sự phân huỷ saccaroza
Sự phân huỷ và tạo thành các sản phẩm có màu thường do những phản ứng sau:
-H2O -2H2O -H2O
C12H22O11 -H2O C12H20O10 C12H18O9 C36H50O25
Saccaroza Izosacaran Caramenlan Caramelan
(không màu) (không màu) Ehrlich sacaran
(màu đậm)
-H2O C H O -19nH2O
36 48 24 C96H102O50 (C12H8O4)n Hoặc ( C3H2O) x
Caramelin Humin
(Schiff)
Công nghệ sản xuất đường 17
Chất màu caramen được coi như là hợp chất humin. Đó là sự polyme hoá ở mức độ khác
nhau của - anhidrit.
- Tác dụng của enzim: Dưới tác dụng của enzim invertaza, saccaroza sẽ chuyển thành
glucoza và fructoza. Sau đó dưới tác dụng của phức hệ enzim, glucoza và fructoza sẽ chuyển
thành ancol và CO2.
men rượu
C6H12O6 2 C2H5OH + CO2
Glucoza hoặc Fructoza
2.2. Chất không đường
Trong ngành đường, người ta gọi tất cả những chất có trong nước mía trừ
saccaroza, là chất không đường kể cả glucoza, fructoza và rafinoza.
Chất không đường trong nước mía có thể chia như sau:
- Chất không đường không chứa nitơ.
- Chất không đường chứa nitơ.
- Chất màu.
- Chất không đường vô cơ.
2.2.1. Chất không đường không chứa nitơ
2.2.1.1. Glucoza và fructoza
Thường còn được gọi là đường khử. Khi mía còn non, hàm lượng đường glucoza và
fructoza trong mía tương đối cao. Khi mía chín, hàm lượng đó giảm đến mức thấp nhất.
* Tính chất lý học của glucoza và fructoza:
- Độ hoà tan: của glucoza và fructoza tăng theo nhiệt độ. Độ hoà tan của glucoza kém
hơn của saccaroza. Fructoza hoà tan nhiều trong nước. Độ hòa tan của một số loại đường
được trình bày ở bảng 1.5.
Bảng 1.5. Tính hòa tan của một số loại đường trong nước ở 20OC
Tên đường Độ hòa tan, g/100g nước
Saccaroza 204
Fructoza 375
Glucoza ( hydrat) 107
Maltoza 83
Lactoza 20
- Độ ngọt: Độ ngọt của fructoza lớn hơn của saccaroza và glucoza. Trong mía hàm
lượng fructoza là ít nhất.
- Độ quay cực: Glucoza có góc quay phải. Góc quay cực của glucoza là:
20D = 52,50 + 0,0188c + 0,000517 c2
Trong đó c: Nồng độ glucoza trong nước ở giới hạn từ 0 - 35% trọng lượng, %.
Fructoza có góc quay trái, góc quay cực của fructoza là:
20D = - (91,5 + 0,133 c )
Trong đó c: nồng độ fructoza , % trọng lượng.
* Tính chất hoá học của glucoza và fructoza:
- Tác dụng của kiềm: Ở nhiệt độ thấp (60oC) trong môi trường kiềm loãng xảy ra sự
đồng phân hoá theo sơ đồ phản ứng sau:
Công nghệ sản xuất đường 18
H C O
HO C H
HO C H
H C O H C OH H C OH
H C OH C OH H C OH
HO C H HO C H H2 C OH
H C OH H C OH
Manoza
H C OH H C OH
H2 C OH
H2 C OH H2 C OH
C O
HO C H
H C OH
H C OH
H2 C OH
Fructoza
Ở nhiệt độ cao và môi trường kiềm, glucoza và fructoza có thể bị phân huỷ và tạo thành
một số sản phẩm như axit lactic, axit glucosacaric, axit formic, lacton. Những axit này lại kết
hợp với vôi tạo thành muối hoà tan. Vì vậy khi dùng vôi xấu, hàm lượng muối canxi trong
nước mía tăng.
Trong môi trường kiềm, fructoza bị phân huỷ nhiều hơn glucoza. Vì vậy, trong sản
phẩm đường, lượng glucoza thường nhiều hơn fructoza.
- Tác dụng của axit: trong môi trường axit, đường khử ổn định nhất là ở pH= 3 chứ
không phải bằng 7. Nhưng trong môi trường axit và đun nóng, đường khử sẽ tạo thành
oximetylfufurol và sau đó tạo thành axit levulic và axit focmic.
- Tác dụng của chất oxi hóa: Glucoza chỉ tác dụng với brom trong môi trường axit và
với axit hipobromic trong môi trường kiềm. Phản ứng tiến hành như sau:
RCHO + Br2 + H2O RCOOH + 2HBr
RCHO + HBrO RCOOH + HBr
Fructoza bị oxi hoá bởi brôm ở nhiệt độ cao và thời gian dài hơn so với glucoza.
- Tác dụng của nhiệt độ: Khi đun nóng ở nhiệt độ 160 - 170oC , glucoza và fructoza bị
mất một phần nước và tạo thành glucozan và fructozan. Nếu tiếp tục đun ở nhiệt độ cao, CO2
sẽ thoát ra, còn lại là than.
Đối với fructoza, ở nhiệt độ 100oC, đã bị phân huỷ nên nhiệt độ mất nước của fructoza
thấp hơn glucoza.
Công nghệ sản xuất đường 19
▪ Phản ứng giữa cacbonyl với hợp chất chứa nhiều amin được gọi là phản ứng Maillard
và chất màu là melanoidin.
▪ Sự phân giải đường ở nhiệt độ hơi cao và trong môi trường kiềm.
▪ Sự tạo thành hợp chất phức chất giữa polyphenol và ion kim loại nặng trước hết là Fe.
Đối với sản xuất đường thường gặp chất màu melanoidin, caramen và polyphenol + Fe.
▪ Chất màu phần lớn là hợp chất hữu cơ có nối đôi. Muốn biến thành chất không màu cần
phá vỡ nối đôi.
2.2.4. Chất không đường vô cơ
Hàm lượng nó phụ thuộc giống mía, chế độ canh tác và điều kiện khí hậu. Các chất vô
cơ chủ yếu trong nước mía hỗn hợp là K2O, Na2O, SiO2,, P2O5, Ca, Mg trong đó K2O chiếm
lượng khá lớn. Trong quá trình làm sạch P2O5 có tác dụng tốt. Những chất còn lại đều là
những chất có hại trong sản xuất đường. Kali và natri là nguyên nhân tạo mật cuối. Các chất
khác như Ca, Mg, SiO2 là thành phần chủ yếu đóng cặn trong thiết bị bốc hơi và truyền nhiệt.
Công nghệ sản xuất đường 21
Hình 2.1. Máy băm mía điều khiển bằng môtơ điện
Máy băm cây mía thành những mảnh nhỏ, phá vỡ các tế bào mía, san mía thành lớp dày
ổn định trên băng, nâng cao mật độ mía trên băng từ 125 - 150kg/m3 lên đến 250 – 300kg/m3.
* Tác dụng chính:
- Nâng cao năng suất ép do san mía thành lớp dày đồng đều, mía dễ được kéo vào máy
ép không bị trượt, nghẹt.
- Nâng cao hiệu suất ép, do vỏ cứng đã được xẻ nhỏ, tế bào mía bị phá vỡ, lực ép được
phân bố đều trên mọi điểm nên máy ép làm việc ổn định và luôn đầy tải, nước mía chảy ra dễ
dàng.
* Số lượng dao băm và phương cách lắp đặt các dao băm:
Hiện nay số lượng máy băm thường không quá hai máy. Lượng ép tăng nhưng không
tăng tỉ lệ thuận với số máy băm. Một dao băm duy nhất khó có thể băm tốt hết bề dày lớp mía
và băm vụn mía được. Theo nghiên cứu của Hugot, công suất tương đối của các hề thống ép
có số dao băm khác nhau như trong bảng 2.1.
Bảng 2.1. Công suất tương đối của các hề thống ép có số dao băm khác nhau
Không có dao băm Có 1 dao băm Có 2 dao băm
Công suất tương đối 1 1,15 1,20
Nếu hệ thống có 2 dao băm thì thường lắp đạt như sơ đồ hình 2.2.
Công nghệ sản xuất đường 23
▪ Trục ép dập kiểu Fulton (hình 2.5) được dùng thông dụng hơn cả. Khi ta cắt trục bằng 1
mặt phẳng dọc trục thì răng trục ở vết cắt có dạng hình chữ V. Góc mở hình chữ V bằng 60o.
Để trục kéo mía dễ dàng, ở trục đỉnh và trục trước, người ta đục những rãnh dọc theo thân
trục cách nhau 20 cm hình chữ nhân. Đỉnh chữ nhân ở giữa thân trục, góc mở của chữ nhân là
140 – 144o. Góc răng càng nhỏ có tác dụng kéo mía dễ nhưng nhọn quá thì dễ gãy.
* So sánh giữa răng chữ nhân và chữ V:
+ Chữ V dùng 3 trục có lắp tấm dẫn mía.
+ Chữ nhân dùng 2 trục không lắp tấm dẫn mía.
+ Khi không có máy băm, mía vào cả cây, dùng chữ nhân kéo mía tốt hơn chữ V.
+ Nếu có máy băm mía thì dùng chữ V tốt hơn, kéo và thoát mía dễ dàng.
Hình 2.6. Máy ép kiểu đỉnh thẳng Hình 2.7. Máy ép kiểu cần cong
(kiểu Fives Lille- Cail C46)
* Trục ép: Trục ép gồm có lõi trục bằng thép, một đầu gắn một bánh xe răng cao chân để
truyền chuyển động, lồng chặt trong áo trục bằng gang đặc biệt.
Đường kính ngoài áo trục thường bằng một nửa chiều dài trục. Ở hai đầu áo trục có
vành chắn nước mía khỏi bắn vào cổ trục. Hình dáng và vị trí lắp của vành đó trên trục đỉnh
và hai trục trước có khác nhau.
Thép làm lõi trục có thành phần: Ni= 3-4%, Cr = 0,5 - 1%, C = 0,2 - 0,45%. Hai cổ
trục tròn, nhẵn bóng, đường kính bằng một nửa đường kính trục ép. Vỏ trục đúc bằng gang.
Mặt vỏ trục được kẻ nhiều rãnh quanh trục để kéo mía và phân lớp mía tốt hơn, tạo thuận lợi
cho các bộ ép sau, nâng cao hiệu suất lấy đường.
Trên mặt trục còn có răng trục để tăng cường khả năng xé tơi mía, thường dùng răng
có cấu tạo chữ V nhưng kích thước răng nhỏ hơn máy ép dập.
Ví dụ: Răng ép dập : H x t = 40 x 52 mm
ép nát I : H x t = 20 x 26 mm
II : H x t = 20 x 26 mm
III : H x t = 10 x 18 mm.
Công nghệ sản xuất đường 27
Đối với trục đỉnh và trục trước, người ta còn đục những rãnh có hình chữ nhân chồng
lên nhau cách đều khoảng 20 cm để kéo mía dễ dàng.
Ở trục trước và trục sau, để nước mía thoát nhanh và dễ dàng, người ta tiện thêm
những rãnh sâu 25mm và rộng khoảng 5mm cách đều nhau, khoảng 4 răng tiện một rãnh sâu
đối với trục trước và 6 răng đối với trục sau (đối với kích thước răng 10x13 mm), bởi vì nước
mía ở trục sau ít hơn ở trục trước (hình 2.8).
“trượt” trong chóp nón của giá máy. Các cút-xi-nê này tiếp nhận lực nén của pittông thủy
lực, trực tiếp hay qua miếng đệm pittông trượt trong chóp nón (hình 2.11). Hiện nay có các
kiểu bình tụ sức sau:
+ Bình tụ sức bằng gang (hình 2.10).
+ Bình tụ sức có bình chứa dầu hoặc khí nén.
Hình 2.9. Lực nén lò xo Hình 2.10. Lực nén thủy lực
Hình 2.12. Bình thủy lực dầu khí Evard có bong bóng nitơ
- Ở thiết bị nén bằng dầu và khí nén, sự chuyển dịch áp lực dầu từ thiết bị nén dầu ở
trục đỉnh tuân theo định luật Pascal. Dựa vào tỉ lệ giữa tiết diện của buồng dầu ở trục đỉnh và
cột dầu của thiết bị nén dầu, có thể tìm được lực nén của máy ép.3z
● Sự phân bố áp lực ở các trục:
+ Ở trục đầu tiên, áp lực trục đỉnh là Po. Ở trục đầu mía còn gồ ghề, rỗng, khó vào trục ép
nên lực ở đây không được quá lớn.
+ Ở trục 2 có áp lực là P1, lớp mía đã tương đối bằng phẳng, cần lấy nước mía nhiều hơn
nên P1 > Po.
Phạm vi áp lực 18- 30 T/dm3 dựa vào nguyên liệu, động lực
● Các phương pháp phân phối:
+ Tăng áp lực dần từ đầu đến cuối.
+ Giảm áp lực dần từ đầu đến cuối .
+ Áp lực giữa các bộ trục bằng nhau.
Thường dùng phương pháp thứ nhất có hiệu suất tốt.
Sự phân phối áp lực ở một số nhà máy:
Ép dập I II III
Van Điểm 170 195 210 235 , Kg/cm2
Việt Trì 60 68 64 72 , Kg/cm2
b. Tốc độ máy ép:
Tốc độ không chỉ có tác dụng hoàn thành chỉ tiêu sản xuất mà còn có tác dụng nâng
cao năng suất và công suất máy ép.
Tốc độ có thể biểu thị bằng 2 cách:
- Tốc độ dài : V = D n, (m/phút)
D: đường kính trục ép, (m)
- Tốc độ vòng: n = V/ D
Tromp đưa ra công thức kinh nghiệm:
V 18 D
n < 18/ = 5,73 (vòng/phút)
Công nghệ sản xuất đường 30
Bã mía có tính đàn hồi nên sau khi tế bào mía bị phá vỡ, nước mía thoát ra tạo thành
những lỗ hổng ở trạng thái không cân bằng. Nếu thẩm thấu chậm, không khí lọt vào khó ép.
Do đó cần thẩm thấu ngay sau khi nước mía ra khỏi máy ép.
2.2. Lấy nước mía bằng phương pháp khuếch tán
Khuếch tán là một hiện tượng trong đó hai dung dịch có nồng độ khác nhau tập trung
lại sát bên nhau, hoặc chỉ cách nhau bởi một màng mỏng, tự trao đổi với nhau bằng thẩm thấu
xuyên qua màng mỏng ấy. Nếu là hai dung dịch cùng một chất thì sự trao đổi kéo dài cho đến
khi cả hai bên màng mỏng có nồng độ bằng nhau.
Ở nhà máy đường, khuếch tán là hiện tượng trong đó những tế bào của củ cải hay của
mía ngâm vào trong nước hay trong một dung dịch có nồng độ đường thấp hơn nồng độ
đường của củ cải hay của mía, nhường lại cho nước hay cho dung dịch đó một phần hay tổng
lượng đường có trong đó.
Phương pháp khuếch tán được dùng nhiều năm trong tất cả các nhà máy đường củ cải.
Đối với mía thì phương pháp này mới được dùng gần đây. Sau thế chiến I, nhờ thành công
trong việc nghiên cứu thiết bị khuếch tán liên lạc, có tác dụng thúc đẩy việc nghiên cứu hệ
khuếch tán mía. Từ năm 1950 trở lại đây, nhiều thiết bị khuếch tán đã được dùng cho mía.
Tuy nhiên việc khuếch tán củ cải và mía không hoàn toàn giống nhau. Ở nhà máy
đường củ cải chỉ cần dùng thiết bị khuếch tán là đủ, nhưng mía, do tính chất của mía, cần
phải dùng một số máy ép để xử lí trước và sau khi khuếch tán. Qua thí nghiệm khi cắt mía và
củ cải thành từng lát có kích thước tương tự và ngâm trong nước có nhiệt độ 75oC, thì thời
gian khuếch tán của lát mía so với lát củ cải tăng gấp ba lần. Vì vậy, cần phải có dao băm
mía, máy ép dập, máy đánh tơi v.v.. để phá vỡ tế bào mía, ép một phần nước mía, sau đó
dùng thiết bị khuếch tán để lấy phần nước mía còn lại.
Như vậy, thiết bị khuếch tán chỉ thay thế vài bộ trục ép ở giữa công đoạn ép nên có thể
coi đó là phương pháp kết hợp giữa ép và khuếch tán.
2.2.1. Sự tổ hợp các hệ khuếch tán ở một số nước trên thế giới
Công nghệ sản xuất đường 33
Nước mía
Thiết bị lắng
hỗn hợp
Thiết bị lọc
Bùn
Nước ép
Tách nước từ
Thiết bị
bã ướt Bã
khuếch tán
Nước mới
Nước ép Đun nóng và
cho vôi
Nước
khuếch Thiết bị lắng
tán
Thiết bị lọc
Bốc
hơi
Hình 2.17. Không trích ly trước và có xử lý nước ép
2.2.3. Một số thiết bị khuếch tán
2.2.3.1.Thiết bị khuếch tán SMET
Thiết bị khuếch tán của Smet (hình 2.18) gồm có một bồn dài trong đó có một băng tải
ngang được chất đầy bã mía khô với độ dày nhất định. Phía trên lớp bã mía được tưới rất
nhiều nước. Phía dưới băng tải, dọc theo chiều dài băng tải là một vĩ lưới bằng thép không rỉ
để lấy nước mía chảy ra từ lớp bã đã được tưới nước trên. Dưới vĩ lưới, phía dưới đáy của
bồn có 11 hay 17 phễu hứng nước khuếch tán đặt cạnh nhau. Nước khuếch tán thu nhận từ
mỗi phễu được bơm đi trả về phếu đặt trước nó, sao cho nước khuếch tán chảy ngược từ phía
cửa ra bã về cửa vào. Nghĩa là có sự trích ly bằng dòng nước ngược chiều lại. Cứ như vậy sau
9 hoặc 15 lần dung dịch nước mía được khuếch tán qua bã, nước khuếch tán cuối cùng được
thu nhận ở phễu thứ nhất ngay đầu vào và được mang đi gia nhiệt trước khi đi công đoạn tiếp
theo.
Còn bã ướt, sau khi ra khỏi thiết bị khuếch tán được qua bộ phận xử lý bã và nước ép
sau khi xử lý được đưa trở về thết bị khuếch tán làm nước tưới bã.
2.2.3.2. Khuếch tán BMA
Thiết bị khuếch tán BMA được sử dụng để lấy nước mía bằng 2 cách: khuếch tán mía
(hình 2.19) và khuếch tán bã (hình 2.20). Đó là những máng nằm ngang hình chữ nhật đáy có
lưới sàng dính liền và một hệ thống dây xích đặc biệt được thiết kế để đảm bảo việc trích ly
nước mía một cách triệt để. Một ưu thế của thiết bị khuếch tán loại này là có lắp đặt 2 hàng
vis khuấy đảo (hình 2.21) để tăng cường hiệu suất trích ly nước mía.
Hình 2.21. Bên trong của một thiết bị khuếch tán BMA - vis khuấy đảo
2.2.4. So sánh phương pháp ép và khuếch tán
+ Hiệu suất ép: Hệ máy ép cồng kềnh, tiêu hao năng lượng lớn và công suất lớn.
Phương pháp ép không thể lấy hoàn toàn nước mía trong cây mía vì trong quá
trình ép, bã mía có khả năng hút lại những phần nước mía đã ép lại.
Hiệu suất ép chỉ đạt 97%.
Hiệu suất lấy nước mía bằng phương pháp khuếch tán đạt 98 99%.
+ Về tổng hiệu suất thu hồi đường: Qua nghiên cứu tổng hiệu suất thu hồi đường 2
Công nghệ sản xuất đường 38
phương pháp trên ở một số nước như Pêru, Nam Phi v.v… người ta kết luận: Hiệu suất thu
hồi đường bằng phương pháp khuếch tán tốt hơn phương pháp ép.
+ Về tiêu hao năng lượng: Theo tài liệu Ai Cập, năng lượng tiêu hao cho 1 hệ khuếch
tán 2000 tấn/mía ngày là 132.480W. Với công suất trên, tiêu hao năng lượng cho bộ máy ép
phải là 438.160W. Do đó dùng phương pháp khuếch tán tiết kiệm được 305.680W.
Theo Bairov, 1 phân xưởng ép có 18 trục, nếu thay một thiết bị khuếch tán có thể giảm
được 9 trục. Hiệu suất lấy đường cao hơn: cứ 100kg mía tăng được 0,5kg đường thu hồi.
Một nhà máy đường năng suất 4000 tấn mía/ngày. Nếu tăng thêm 2 thiết bị khuếch tán
thì có thể xử lí 8000 tấn mía/ngày mà công suất chỉ cần tăng không quá 515.400 W.
+ Vốn đầu tư:
Theo tài liệu của công ty BMA (Đức), vốn đầu tư của nhá máy đường dùng phương
pháp khuếch tán với công suất 500 tấn mía/ngày có thể giảm 30% vốn đầu tư so với nhà máy
đường dùng phương pháp ép.
So sánh vốn đầu tư của nhà máy 1500 tấn/ngày theo phương pháp khuếch tán so với
phương pháp ép:
▫ Hiệu suất lấy đường tăng 2,5%.
▫Tổng thu hồi đường tăng 1,24%.
▫ Tỉ lệ đường thành phẩm trên mía tăng 0,61%.
▫ Số lượng đường tăng trong 1 vụ là 32.635tấn/vụ.
▫ Chi phí vốn đầu tư giảm 3-5% tức là 129.462 đôla.
▫ Tiết kiệm điện và nhiệt 30%.
▫ Tiết kiệm lao động 50%, tiết kiệm bao bì 50%.
+ Tồn tại của 2 phương pháp:
* Phương pháp khuếch tán:
▫ Tăng nhiên liệu dùng cho bốc hơi.
▫ Tăng chất không đường trong nước mía hỗn hợp, do đó tăng tổn thất đường trong
mật cuối.
* Phương pháp ép:
▫ Trục ép là thiết bị thô kệch nặng nề. Lõi trục ép làm bằng thép hợp kim đắt tiền. Giá
tiền chế tạo, sửa chữa, bảo dưỡng nhiều.
▫ Tiêu hao nhiều năng lượng.
▫ Tổng hiệu suất thu hồi ít.
Từ những so sánh trên cho thấy phương pháp khuếch tán có nhiều ưu điểm hơn so với
phương pháp ép.
Công nghệ sản xuất đường 39
Keo tồn tại trong nước mía và ở trạng thái ổn định khi keo mang điện tích hoặc có lớp
nước bao bọc bên ngoài. Nếu vì một nguyên nhân nào đó, keo mất các tính chất trên sẽ bị
ngưng kết.
Để ngưng kết keo, thường cho vào nước mía những chất điện li để thay đổi pH của
môi trường. Dưới điều kiện pH nhất định, keo hấp phụ chất điện ly và dẫn đến trạng thái
trung hoà điện. Lúc đó, keo mất trạng thái ổn định va ngưng kết. Ở trị số pH làm chất keo
ngưng kết gọi là pH đẳng điện. Điểm đẳng điện của các chất keo khác nhau thì khác nhau.
(pHanbumin = 4,6-4,9; pHasparagin = 3 ...).
Ở pH đẳng điện, đối với keo ưa nước và không ưa nước, sản sinh tác dụng trung hoà
điện theo sơ đồ sau:
Kết tủa
Keo không
ưa nước
Hình 3.1. Sơ đồ tác dụng trung hoà điện của chất keo
Ở nước mía có 2 điểm pH làm ngưng tụ chất keo: pH trên dưới 7 và pH trên dưới 11.
Điểm pH trước là điểm pH đẳng điện. Điểm pH sau là điểm ngưng kết của protein trong môi
trường kiềm mạnh, điểm này không gọi là điểm đẳng điện vì lúc đó trong nước mía có đường
saccaroza và lượng vôi nhiều sẽ tạo thành hợp chất có tính hấp phụ protein tạo thành kết tủa.
Sản xuất đường theo phương pháp cacbonat hoá có thể lợi dụng 2 điểm ngưng tụ keo.
Đối với phương pháp sunfit hoá chỉ lợi dụng được một điểm ngưng tụ keo.
3.2.1.2 . Làm chuyển hoá đường saccaroza
Khi nước mía ở môi trường axit (pH< 7) sẽ làm chuyển hoá đường saccaroza và tạo
thành hỗn hợp đường glucoza và fructoza gọi là phản ứng nghịch đảo:
[H+ ]
C12H22O11 + H2O C6H12O6 + C6H12O6
Saccaroza Glucoza Fructoza
Công nghệ sản xuất đường 41
Tốc độ chuyển hoá tăng theo sự tăng nồng độ [H+] trong nước mía, nếu nồng độ [H+]
trong nước mía càng lớn thì tốc độ chuyển hoá càng nhanh. Mặt khác, các axit khác nhau sẽ
làm chuyển hoá saccaroza với tốc độ khác nhau. Ví dụ: nếu lấy tốc độ chuyển hoá saccaroza
của HCl là 100 thì tốc độ chuyển hoá của các axit khác như ở bảng 3.1.
Tên axit Tốc độ chuyển hoá Tên axit Tốc độ chuyển hoá
HCl 100,0 Axit focmic 1,53
H2SO3 30,4 Axit malic 1.27
(COOH)2 18,60 Axit lactic 1,07
H3PO4 6,20 Axit sucxinic 0,55
Axit tactric 3,08 Axit axetic 0,40
Axit nitric 1,72
Bảng 3.1. Tốc độ chuyển hóa saccaroza của các axit khác nhau
Tốc độ chuyển hoá saccaroza còn phụ thuộc vào nồng độ đường, nhiệt độ và thời gian.
Khi nồng độ đường, nhiệt độ và thời gian tăng thì tốc độ chuyển hoá tăng.
pH 7,2
7,0
6,8
6,6
6,4
6,2
6,0 120oC
5,8
5,6 110oC
5,4
5,2 100oC
5,0
4,8
90oC
4,6
70oC 80oC
4,4
70oC
0 0,5 1,0 1,5 2,0 2,5
5 6 7 8 9 10 11
pH nước mía
Hình 3.3. Ảnh hưởng của pH đến sự phân huỷ đường khử
( nhiệt độ: 100oC, thời gian: 1h)
Sản phẩm phân huỷ của đường khử tương tự sản phẩm phân huỷ của saccaroza.
3.2.1.5. Tách loại các chất không đường
Đối với pH khác nhau, có thể tách loại được các chất không đường khác nhau.
Hình 3.4 cho thấy quan hệ giữa hiệu suất tách loại chất không đường ở các pH khác
nhau:
- Khi pH = 7-10, các muối vô cơ của Al2O3 , P2O5, SiO2, Fe2O3, MgO dễ bị tách loại
trong đó Al2O3, P2O5, SiO2 có thể bị loại hơn 95%, còn Fe2O3, MgO có thể bị loại đến 60%.
- Khi pH khoảng 7,0, tách loại được 50% chất keo (pentozan).
- Khi pH khoảng 5,6 trên 98% protein có thể bị tách loại, nếu vượt quá trị số pH đó,
hiệu quả tách loại rất thấp.
Khi chọn pH thích hợp để loại chất không đường, không nên tách loại đơn độc từng
chất mà phải xét một cách toàn diện để tách loại nhiều chất không đường.
Công nghệ sản xuất đường 43
Hiệu quả tách loại chất không đường còn phụ thuộc vào giống mía và hiệu quả làm
sạch có thể biểu thị bằng hiệu quả loại chất không đường.
3.2.2. Tác dụng của nhiệt độ
Phương pháp dùng nhiệt để làm sạch nước mía là một trong những phương pháp quan
trọng. Để đảm bảo chất lượng sản phẩm và nâng cao hiệu suất thu hồi đường cần khống chế
điều kiện nhiệt độ.
Khống chế nhiệt độ tốt sẽ thu được những tác dụng chính sau:
a. Loại không khí trong nước mía, giảm bớt sự tạo bọt. Tăng nhanh các quá trình phản
ứng hoá học. Ví dụ: Tạo thành CaSO3 và CaCO3 (kết tủa) trong các phương pháp làm sạch.
b. Có tác dụng diệt trùng, đề phòng sự lên men axit và sự xâm nhập của vi sinh vật vào
nước mía.
c. Nhiệt độ tăng cao làm tỉ trọng nước mía giảm, đồng thời làm chất keo ngưng tụ,
tăng nhanh tốc độ lắng của các chất kết tủa.
Nếu khống chế nhiệt độ không tốt thường gặp các trường hợp không tốt sau:
+ Nước mía ở pH = 55,5 có tính axit, dưới tác dụng nhiệt, đường saccaroza bị chuyển
hoá dẫn đến tăng tổn thất đường.
+ Nếu thời gian tác dụng nhiệt kéo dài, và ở nhiệt độ cao thường sinh ra hiện tượng
caramen hoá ảnh hưởng đến màu sắc của nước mía, làm nước mía có màu sẫm.
+ Trong NMHH có chứa hàm lượng đường khử nhất định, dưới tác dụng của nhiệt độ,
đặc biệt ở nhiệt độ cao, đường khử bị phân huỷ tạo các chất màu và các axit hữu cơ.
+ Đun nóng nước mía có tác dụng thủy phân vụn mía, sản sinh chất keo.
3.2.3. Tác dụng của các chất điện ly
3.2.3.1. Vôi
Vôi là hóa chất quan trọng được dùng nhiều trong sản xuất đường. Các phương pháp
sản xuất đường hiện nay đều dùng vôi.
Vôi là chất vô định hình có độ phân tán cao. Khi hòa tan trong nước có tính chất keo.
Độ hòa tan của vôi trong nước còn giảm khi nhiệt độ tăng. Herzfelt tìm được công thức độ
hòa tan của vôi phụ thuộc vào nhiệt độ:
Z = 0,1394 - 0,000649t - 0,00000157t2
Trong đó: Z : độ hòa tan của vôi.
t : nhiệt độ, oC.
Ngoài ra độ hòa tan của vôi còn phụ thuộc vào hàm lượng chất khô của dung dịch,
nồng độ đường saccaroza và chất không đường.
Độ hòa tan của vôi tăng khi nhiệt độ giảm và nồng độ của đường và chất không đường
tăng.
* Tác dụng của vôi:
- Trung hòa các axit hữu cơ và vô cơ.
- Tạo các điểm đẳng điện để ngưng kết các chất keo.
- Làm trơ phản ứng axit của nước mía hỗn hợp và ngăn ngừa sự chuyển hóa đường
saccaroza.
- Kết tủa hoặc đông tụ những chất không đường, đặc biệt protein, pectin, chất màu và
những axit tạo muối không tan.
Công nghệ sản xuất đường 44
- Phân hủy một số chất không đường, đặc biệt đường chuyển hóa, amit. Do đó để hạn
chế sự phân hủy đường cần có những phương án cho vôi thích hợp: cho vôi vào nước mía
lạnh, cho vôi vào nước mía nóng, cho vôi phân đoạn ...
- Tác dụng cơ học: Những chất kết tủa được tạo thành có tác dụng kéo theo những
chất lơ lửng và những chất không đường khác.
- Sát trùng nưóc mía: Với độ kiềm khi có 0,35% CaO, phần lớn vi sinh vật không sinh
trưởng. Tuy nhiên có trường hợp phải dùng đến lượng 0,8% CaO.
* Tác dụng của ion Ca2+:
- Những phản ứng do tác động của ion Ca2+ thuộc loại phản ứng kết tủa và đông tụ.
Ion Ca có thể phản ứng với những anion để tạo ra muối canxi là những chất không tan:
2+
Sự thay đổi từ muối K2CO3, CaCO3 thành K2SO3, CaSO3 có ý nghĩa quan trọng. Muối
cacbonat có khả năng tạo mật lớn và có ảnh hưởng đến màu sắc của dung dịch đường. Muối
sunfit khả năng tạo mật kém và lại có khả năng làm giảm độ kiềm và độ nhớt của mât chè, có
lợi cho thao tác nấu đường và kết tinh, đồng thời hạn chế sự phát triển của sinh vật.
- Tẩy màu và ngăn ngừa sự tạo màu:
Tẩy màu: SO2 là chất khử có khả năng biến chất màu của nước mía hoặc mật chè
thành chất không màu sắc hoặc màu nhạt hơn. Có thể biểu diển sự khử theo sơ đồ sau:
SO2 + H2O = H+ + HSO3-
HSO3- +H2O = HSO4- + H2
C = C + H2 = H -C - C -H
HSO3
C = O + H2O + SO2 = C
OH
Nhờ vậy ngăn ngừa được khả năng tạo màu Melanoidin.
SO2 còn là chât xúc tác chống oxi hóa, nó ngăn chặn ảnh hưởng không tốt của oxi không
khí (O2 không khí chỉ phát huy tác dụng khi có chất xúc tác như khi có mặt Fe2+, Fe3+, Cu2+).
SO2 khử Fe3+ thành Fe2+. Khi thông SO2 có tác dụng khử ion sắt.
- Làm cho CaSO3 kết tủa tạo thành chất tan.
Tính chất của CaSO3 không tan trong nước nhưng tan trong H2SO3. Do đó nếu cho
SO2 quá lượng có thể làm CaSO3 kết tủa thành hòa tan.
CaSO3 + SO2 + H2O = Ca(HSO3)2
Tương tự: K2SO3 + SO2 + H2O = 2KHSO3
Dưới tác dụng của nhiệt độ cao, Ca(HSO3)2 có thể phân giải thành CaSO3 kết tủa tạo
thành chất đóng cặn trong thiết bị truyền nhiệt và bốc hơi.
Ca(HSO3)2 = CaSO3 + SO2 + H2O
Công nghệ sản xuất đường 46
tách chất màu của hợp chất phenol và sắt. Trong những thùng lắng đặc biệt có thể tách 20-40
% chất màu.
3.3. Các phương pháp làm sạch nước mía
3.3.1. Phương pháp vôi
Phương pháp vôi có từ lâu đời và là phương pháp đơn giản nhất làm sạch nước mía
chỉ dưới tác dụng của nhiệt và vôi và thu sản phẩm đường thô.
Phương pháp vôi có thê chia làm mấy loại sau đây:
- Cho vôi vào nước mía lạnh.
- Cho vôi vào nước mía nóng.
- Cho vôi nhiều lần đun nóng nhiều lần.
3.3.1.1. Phương pháp cho vôi vào nước mía lạnh
Ưu điểm:
- Quản lý thao tác giản đơn.
- Trước khi đun nóng, cho vôi vào nước mía đến trung tính, tránh được chuyển hóa
đường saccaroza. Nếu cho vôi đều đặn có thể tránh được sự phân giải đường khử.
Nhược điểm:
- Lượng vôi dùng nhiều.
- Độ hòa tan của vôi ở nước mía lạnh tăng. Nếu vôi quá thừa sau khi đun nóng vôi sẽ
đóng cặn ở thiết bị.
- Hiệu suất làm sạch thấp.
Công nghệ sản xuất đường 48
Cô đặc
Cho vôi lần 1 gọi là cho vôi sơ bộ, pH thường không quá 6,6. Lượng vôi cho vào
khoảng 1/3 tổng lượng vôi còn lại cho vào lần 2. Khi đun nóng lần 1 nếu nhiệt độ < 900 hiệu
quả làm sạch không tốt. Cho vôi lần 2, pH = 7,8 là tương đối thích hợp, nếu cao quá dung
dịch kiềm tính mạnh sẽ tăng phân giải đường.
Ưu điểm:
- Hiệu suất làm sạch tốt, loại chất không đường nhiều: Qua 2 lần gia vôi có thể lợi
dụng được 2 điểm ngưng tụ khác nhau để loại chất không đường nên nước mía trong, bùn lọc
dễ, chất keo chứa nitơ loại 80%, sáp mía loại 90%.
Công nghệ sản xuất đường 49
Trong thực tế sản xuất thường dùng pH để biểu thị lượng vôi cho vào nước mía. Mặt
khác khi đun nước mía đã cho vôi, trị số pH thay đổi (thường giảm từ 0,2-0,5) nên khi xác
định pH cần chú ý đến các yếu tố làm giảm trị số pH.
Trong trường hợp cho vôi vào nước mía lạnh, tác dụng giữa vôi và nước mía không
hoàn toàn khi đun nóng sẽ hoàn toàn hơn, do đó giảm pH.
Lúc nước mía sôi, một phần Ca3(PO4)2 có thể phân ly thành Ca(OH)2.nCa3(PO4)2
không tan và một muối axit hòa tan, vì vậy sau phân ly làm giảm pH.
Khi đun nóng Ca2HPO4 sẽ kết hợp với vôi tạo thành canxi photphat kết tủa và H3PO4:
Ca2HPO4 + Ca(OH)2 = Ca3(PO4)2 + H3PO4
Khi nhiệt độ cao và môi trường kiềm, đường khử bị phân hủy tạo thành chất màu và
axit.
Do có sự giảm pH khi đun nóng nên trị số pH trong sơ đồ công nghệ là trị số pH sau
khi đun nóng. Thông thường khống chế pH nước mía khoảng trên dưới 7,0.
Hàm lượng P2O5 trong nước mía:
Trong phương pháp vôi hiệu quả làm sạch chủ yếu dựa vào phản ứng kết tủa giữa vôi
và P2O5.Ca3(PO4)2. Trong nước mía thường tồn tại hai dạng: dạng keo và dạng tinh thể. Dạng
tinh thể làm sạch nước mía, ngược lại dạng keo gây trở ngại cho lắng, lọc và kết tinh đường.
Sự hình thành kết tủa Ca3(PO4)2 nhiều hay ít phụ thuộc vào nồng độ ion Ca2+ và PO43-.
Trong phương pháp vôi, khi cho vôi đến pH = 7,0, nồng độ ion Ca2+ có thể đủ để phản ứng
tạo kết tủa Ca3(PO4)2, nhưng thường hàm lượng P2O5 trong nước mía rất thấp. Theo nghiên
cứu người ta thấy hàm lượng P2O5 cần thiết vào khoảng 300 mg P2O5/l nước mía. Nếu hàm
lượng P2O5 quá ít, có thể cho vào nước mía H3PO4 hoặc muối photphat hòa tan để nâng cao
hiệu quả làm sạch.
Nhiệt độ cho vôi:
Thường nhiệt độ đun nóng khoảng 105oC. Nhiệt độ cao có tác dụng tăng kết tủa làm giảm
dung tích nước bùn, nhưng có thể làm tăng màu sắc nước mía (do phân hủy đường khử và có thê làm
cho một phần keo kết tủa hòa tan lại). Vì vậy cần khống chế nhiệt độ nước mía đến sôi hoặc cao hơn
một chút là thích hợp.
3.3.2. Phương pháp sunfit hóa
Phương pháp sunfit hóa còn gọi là phương pháp SO2 vì trong phương pháp này người
ta dùng lưu huỳnh dưới dạng khí SO2 để làm sạch nước mía.
Phương pháp SO2 có thể chia làm 3 loại:
- Phương pháp sunfit hóa axit.
- Phương pháp sunfit hóa kiềm mạnh.
- Phương pháp sunfit hóa kiềm nhẹ.
* Đặc điểm của phương pháp SO2 axit là thông SO2 vào nước mía đến pH axit và thu
được sản phẩm đường trắng. Đây là phương pháp có nhiều ưu điểm nên được dùng rộng rãi
trong sản xuất đường.
* Đặc điểm của phương pháp sunfit hóa kiềm mạnh là trong quá trình làm sạch nước
mía có giai đoạn tiến hành ở pH cao. Hiệu quả làm sạch tương đối tốt, đặc biệt đối với loại
mía xấu và bị sâu bệnh. Nhưng do sự phân hủy đường tương đối lớn, màu sắc nước mía đậm,
tổn thất đường nhiều nên hiện nay không sử dụng.
Phương pháp SO2 kiềm nhẹ (pH = 8-9) có đặc điểm là chỉ tiến hành thông SO2 vào
nước mía, không thông SO2 vào mật chè và sản phẩm đường thô.
Công nghệ sản xuất đường 51
Cô đặc
3.3.2.2. Sơ đồ công nghệ của phương pháp sunfit hóa kiềm mạnh
Đặc điểm của phương pháp này là dùng 2 điểm pH: pH trung tính (7,0) và pH kiềm
mạnh (10,5-11,0) nên có thể loại được P2O5, SiO2, Al2O3, Fe2O3, MgO ... nhưng điều kiện
công nghệ của phương pháp này chưa ổn định nên không giới thiệu.
3.2.2.3. Sơ đồ công nghệ của phương pháp sunfit hóa kiềm nhẹ
Đây là phương pháp sản xuất đường thô, so với phương pháp vôi thì hiệu quả loại chất
không đường tốt hơn, nhưng thiết bị và thao tác phức tạp hơn, hóa chất tiêu hao nhiều nên
hiện nay ít dùng.
Công nghệ sản xuất đường 52
Cô đặc
Mật chè
Trên cơ sở của phương pháp sunfit hóa kiềm nhẹ, trong sơ đồ công nghệ của nhà máy
đường Quảng Ngãi và Bình Dương khi mới thiết kế có giai đoạn thông SO2 lần hai.
Sơ đồ công nghệ của nhà máy đường Quảng Ngãi theo thiết kế ban đầu (bên dưới).
Hiện nay, nhà máy đường Quảng Ngãi trong quá trình mở rộng năng suất từ 1500 tấn
mía/ngày lên 2500 tấn mía/ngày cũng đã cải tiến quy trình công nghệ theo phương pháp
sunfit hóa axit trong đó giai đoạn thông SO2 lần 1 và trung hòa được tiến hành trong cùng
một thiết bị.
Nước mía hỗn hợp
Mật chè
Công nghệ sản xuất đường 53
3.3.2.4. Điều kiện công nghệ của các phương pháp SO2 axit tính
Các điều kiện kỹ thuật chủ yếu:
- pH gia vôi sơ bộ: 6,2-6,8 (7,0).
- pH thông SO2 lần 1: 3-4.
- pH trung hòa: 6,9-7,3.
- pH thông SO2 lần 2: 5,8-6,2.
- Gia nhiệt 1: 60-70oC.
- Gia nhiệt 2: 100-105oC.
- Cường độ SO2: 1-1,5 g SO2/lít nước mía.
- Hàm lượng P2O5 trong nước mía: 250-350 mg/l.
Điều kiện kỹ thuật cụ thể của phương pháp SO2 có thể có những phương án sau đây:
Phương án 1: pH và nhiệt độ tương đối thấp.
Nhiệt độ: - Gia nhiệt 1: 63-65oC.
- Gia nhiệt 2: 98-100oC.
pH: - Gia vôi sơ bộ: 6,2-6,8.
- Trung hòa: 6,8- 7,0.
Với điều kiện kỹ thuật trên mục đích để loại một số chất màu và chất keo nhưng hạn
chế sự phân hủy đường khử tránh hiện tượng tạo chất màu. Phương án này dùng cho nguyên
liệu mía có hàm lượng đường khử cao và nước mía không tươi.
Phương án 2: Trung tính hơi kiềm nhẹ.
- pH gia vôi sơ bộ: 7-7,2.
- Trung hòa: 7,2-7,5.
- Lắng 7-7,2.
Sử dụng phương án này mục đích giảm đường saccaroza bị chuyển hóa và loại được
nhiều chất không đường vô cơ. Phương án này dùng cho nguyên liệu mía tươi, đường khử
không cao, độ tinh khiết tương đối cao.
Phương án 3: Nhiệt độ cao, độ kiềm cao và cường độ SO2 cao.
- Lượng P2O5 cho vào nước mía 0,2-0,3% so với mía.
- Cường độ SO2: 1,4-1,6 g SO2 so với mía.
Phương án này dùng cho nguyên liệu sâu bệnh, bão lụt, đường saccaroza chuyển hóa
nhanh do vi sinh vật xâm nhập từ những chỗ vỏ mía bị xước, hàm lượng chất keo tăng.
Công đoạn cho vôi vào nước mía:
Cho vôi sơ bộ: Nước mía hỗn hợp thường được cho vôi sơ bộ đến pH = 6,4-6,6.
Tác dụng gia vôi sơ bộ:
Trung hòa axit hữu cơ và vô cơ.
Tác dụng trao đổi tạo kết tủa:
2K3PO4 + 3 Ca(OH)2 Ca3 (PO4)2 + 6 KOH
K2SO4 + Ca(OH)2 Ca SO4 + 2 KOH
MgCl2 + Ca(OH)2 Ca Cl2 + Mg(OH)2
Nước mía và ngưng tụ keo trước khi đun nóng. Trong nước mía có nhiều loại keo, với
Công nghệ sản xuất đường 54
những pH đẳng điện khác nhau, cần xác định trị số pH thích hợp để ngưng tụ được nhiều keo,
đồng thời không ảnh hưởng đến sự chuyển hóa và phân hủy đường. Sau nữa do tác dụng của
Ca2+ đối với chất nguyên sinh tế bào sinh vật nên ức chế được sự phát triển của vi sinh vật.
Cho vôi trung hòa: Lượng vôi cho vào quyết định bởi tính axit của nước mía và nồng
độ SO2 trong nước mía. Mặt khác, cho vôi vào nước mía cần đảm bảo chất lượng của vôi,
giảm phần tạp chất trong vôi, vôi hòa tan đều trong nước. Lượng vôi dùng khoảng 0,2-0,3%
so với trọng lượng mía ép.
Thứ tự cho vôi vào nước mía đóng một vai trò quan trọng. Thứ tự cho vôi và thông
SO2 có thể tiến hành theo 3 cách sau:
- Cho vôi trước, thông SO2 sau.
- Thông SO2 trước, cho vôi sau.
- Thông SO2 và cho vôi đồng thời.
Trị số pH trung hòa:
Trong phương pháp SO2 việc khống chế trị số pH trung hòa là một vấn đề quan trọng.
Nó ảnh hưởng lớn đến hiệu quả làm sạch và thu hồi đường.
Để tạo việc kết tủa CaSO3 hoàn toàn, cần tránh hiện tượng quá axit vì sẽ tạo
Ca(HSO3)2 hòa tan và sau đó nếu ở nhiệt độ cao Ca(HSO3)2 sẽ phân ly tạo chất kết tủa đóng
cặn ở các thiết bị truyền nhiệt và bốc hơi.
Nếu nước mía có tính kiềm, đường khử sẽ bị phân hủy tăng chất màu và axit hữu cơ,
tăng lượng muối canxi trong nước mía. Mặt khác trong môi trường kiềm, do tính chất thủy
phân của kết tủa CaSO3 nên tạo dung dịch lớn, tăng lượng bùn lọc và do đó tăng diện tích ép
lọc.
Để tránh các hiện tượng trên, cần khống chế pH lắng trong 7,0.
Nhiệt độ:
Đun nóng 1: Nhiệt độ đun nóng lần thứ nhất 55oC có tác dụng:
- Làm mất mất nước của chất keo ưa nước, tăng nhanh quá trình ngưng tụ keo.
- Tăng nhanh tốc độ phản ứng hóa học. Theo Honig thì hiệu suất hấp thụ SO2 vào
nước mía tốt nhất là ở 75oC.
- Ở nhiệt độ càng cao sự hòa tan của nước muối CaSO3, CaSO4 giảm, kết tủa càng
hoàn toàn, khi thông SO2 ít tạo hiện tượng quá bão hòa, giảm đóng cặn ở thiết bị bốc hơi và
truyền nhiệt.
Đun nóng 2: Nhiệt độ đun nóng lần 2: 100-105oC. Nếu nhiệt độ quá cao nước mía sôi,
lắng sẽ không tốt. Tác dụng của đun nóng lần 2 là giảm độ nhớt, tăng nhanh tốc độ lắng.
Đun nóng 3: Nhiệt độ đun nóng lần 3: 110-115oC. Tác dụng: tăng khả năng truyền
nhiệt trước khi vào thiết bị cô đặc, để không mất thời gian đun sôi ở thiết bị cô đặc.
Thông SO2:
Thông SO2 lần 1: Tạo kết tủa CaSO3 có tính hấp phụ có thể hấp phụ các chất không
đường, chất màu kết tủa. SO2 có thể dùng ở dạng lỏng hay khí.
Thông SO2 lần 2: Thông SO2 lần 2 vào mật chè sao khi bốc hơi có tác dụng như sau:
+ SO2 ngăn ngừa sự tạo thành chất màu, khử chất màu thành chất không màu.
+ Giảm độ nhớt của mật chè có lợi cho khâu nấu đường, kết tinh vầ phân ly.
+ Thông SO2 lần 2 vào mật chè sau khi bốc hơi đến pH = 6,2-6,6, nhiệt độ thông SO2
85- 90 C, nhưng nhiệt độ này phụ thuộc vào nhiệt độ của nồi bốc hơi cuối. Thông SO 2 càng
o
Ca(OH)2, CO2 Thông CO2 lần 1 (pH = 10,5-11,3, độ kiềm 0,04-0,06% CaO)
Lọc ép lần 2
Cô đặc
Qui trình công nghệ của phương pháp thông C02 thông thường
Công nghệ sản xuất đường 57
Nhiệt tổn thất ra môi trường xung quanh phụ thuộc chất lượng chất cách nhiệt thường
lấy từ 3-10% so với lượng hơi dùng.
* Trường hợp bốc hơi 1 nồi:
Để bốc hơi nước mía từ 15 đến 60 Bx, tức bốc 75% nước so mía, tiêu hao một lượng
hơi 75% so mía, nghĩa là cứ bốc hơi 1kg nước thì tiêu hao 1kg hơi.
* Trường hợp bốc hơi nhiều nồi
Hơi thứ hiệu trước được dùng làm hơi đốt hiệu sau. Hơi thứ hiệu cuối dùng đun nóng
nước mía hoặc trực tiếp vào thiết bị ngưng tụ. Nồng độ nước mía tăng dần lên. Hệ này mang
lại hiệu quả kinh tế cao trong việc sử dụng hơi thứ.
Khi cô đặc một nồi, cứ bốc hơi 1kg nước tiêu hao 1kg hơi. Với hệ 4 nồi lượng hơi tiêu
hao là 75% : 4 = 18,75% so mía, hệ 5 nồi 75% : 5 = 15%, nhưng từ hiệu I sang hiệu II lượng
hơi tiết kiệm nhiều nhất khoảng 50%, từ hiệu II sang hiệu III lượng hơi chỉ giảm hơn 10%.
Như vậy thêm 1 nồi cô đặc lượng hơi tiết kiệm không nhiều nhưng tăng vốn đầu tư, thao tác,
quản lý phức tạp. Vì vậy thường sử dụng 3-5 hiệu và hệ 4 hiệu là thích hợp.
* Sử dụng hơi:
Việc dùng hơi trong nhà máy đường khá phong phú. Ngoài việc dùng hơi cho hệ cô
đặc còn dùng hơi cho các bộ phận khác: đun nóng, nấu đường, phân mật, sấy ... Để tiết kiệm,
thường sử dụng hơi thứ của hệ cô đặc.
Sơ đồ sử dụng hơi thứ của 1 hệ cô đặc:
E2 E4 E5
E1 E3
W1 W2 W3 W4
W'3
W1'
W'2
Trong đó:
D: Hơi sống.
E1, E2, E3, E4: Hơi thứ dùng cho đun nóng và nấu đường.
E5: Hơi thứ hiệu 4 đi vào thiết bị ngưng tụ baromet.
W1', W'2, W3': Hơi thứ hiệu 1, 2, 3 làm hơi đốt cho hiệu 2, 3, 4.
4.2.3. Tổn thất nhiệt trong quá trình bốc hơi
Nguyên nhân: Do nồng độ tăng cao.
Do áp suất thủy tỉnh.
Do trở lực đường ống.
4.2.3.1. Tổn thất nhiệt do độ tăng nhiệt độ sôi (')
Trong cùng điều kiện áp lực nhiệt độ sôi của dung dịch đường cao hơn nhiệt độ sôi
của nước. Nhiệt độ cao hơn đó gọi là độ tăng nhiệt độ sôi.
Độ tăng nhiệt độ sôi tỷ lệ thuận với nồng độ chất khô trong dung dịch và từ biểu đồ
cho sẵn, ta có thể tra nhiệt độ tăng độ sôi ' theo Bx tương ứng.
Công nghệ sản xuất đường 60
Khi áp lực của dung dịch khác áp lực thường, độ tăng nhiệt độ sôi có sai khác một ít
và có thể tính theo công thức gần đúng của Tisenco:
' = af
Trong đó: ': độ tăng nhiệt độ sôi ở áp lực bất kỳ.
a: độ tăng nhiệt độ sôi ở áp lực thường.
f: hệ số hiệu chỉnh.
4.2.3.2. Tổn thất tĩnh áp (")
Tổn thất tĩnh áp là do áp suất cột dung dịch trong thiết bị gây nên. Tức là nhiệt độ sôi
của dung dịch cũng phụ thuộc độ sâu, trên mặt thoáng nhiệt độ sôi thấp nhất, càng xuống sâu
nhiệt độ sôi càng tăng. Hiệu số giữa nhiệt độ sôi trên mặt thoáng và ở lớp dưới gọi là tổn thất
nhiệt độ do áp suất thủy tĩnh:
p= p'gh , (N/m2)
Trong đó: p: Hiệu số áp suất thủy tĩnh.
’: Khối lượng riêng của dung dịch ở dạng bọt, kg/m3; gần đúng: ’ = /2.
: khối lượng riêng của dung dịch, kg/m3.
g: gia tốc trọng trường, m/s2.
h: độ sâu kể từ mặt thoáng đến giữa ống truyền nhiệt, m.
4.2.3.3. Tổn thất đường ống ”’.
Hơi thứ từ hiệu trước qua hiệu sau, qua đường ống giữa hai hiệu, chịu ảnh hưởng của
trở lực đường ống làm giảm nhiệt độ.
Dựa vào thực tế tổn thất nhiệt độ đường ống giữa 2 hiệu, thông thường lấy từ 1-1,5oC.
Tổng tổn thất nhiệt độ:
tổng = '+ " + "'
4.2.4. Các phương án bốc hơi của hệ cô đặc
Trạm bốc hơi là trung tâm hệ thống nhiệt của toàn nhà máy, là hệ thống tương đối
phức tạp. Để chọn phương án bốc hơi tốt cần xét tới những vấn đề sau:
- Yêu cầu công nghệ sản xuất đường.
- Đảm bảo chất lượng thành phẩm.
- Nghiên cứu đầy đủ việc bố trí trạm nhiệt điện.
- Sử dụng hơi thải, hơi thứ hợp lý.
- Tốc độ đóng cặn trong thiết bị thao tác và khống chế ổn định.
- Vốn đầu tư.
* Phân loại phương án bốc hơi: có 3 loại.
Phương án bốc hơi chân không:
Phương án này có từ lâu. Những nhà máy đường cũ thường dùng phương án này. Hệ
cô đặc thường có từ 3-5 hiệu thường là 4 hiệu, và không hút hơi thứ hiệu cuối vì nhiệt độ hơi
thứ thấp.
Ưu diểm: Thỏa mãn đầy đủ yêu cầu công nghệ vì bốc hơi ở điều kiện chân không,
nhiệt độ tương đối thấp tránh được hiện tượng phân hủy đường khử và biến đường saccaroza
thành caramen, phẩm chất mật chè tốt, quản lý thao tác dễ dàng.
Nhược điểm: Nhiệt độ hơi thứ thấp, không thỏa mãn đầy đủ yêu cầu công nghệ, giảm
khả năng sử dụng hơi thứ, hơi thứ hiệu cuối vào thiết bị ngưng tụ tăng tổn thất hơi.
Phương án bốc hơi áp lực:
Đặc điểm của phương án này là các hiệu cô đặc làm việc ở điều kiện áp lực.
Công nghệ sản xuất đường 61
Ưu điểm:
- Việc sử dụng hơi tương đối triệt để, toàn bộ hơi hiệu cuối đều dùng.
- Nhiệt độ hơi thứ của các hiệu tương đối cao, có thể giảm diện tích truyền nhiệt của
thiết bị truyền nhiệt.
- Không cần thiết bị ngưng tụ lớn, chỉ cần một thiết bị nhỏ dùng khi khởi động hệ cô
đặc.
Nhược điểm:
- Màu sắc nước mía tương đối đậm, pH giảm nhiều do nhiệt độ cao, đường khử bị
phân hủy và tạo caramen nhiều.
- Khi sản xuất nếu hút hơi thứ không bình thường không những không giảm lượng hơi
tiêu hao mà còn tăng lên do hiện tượng xả hơi và từ đó khó duy trì ổn định các chỉ tiêu bốc
hơi, nồng độ mật chè không ổn định.
Phương án bốc hơi áp lực chân không:
- Đặc điểm: Nhiệt độ sôi của dung dịch đường hiệu cuối tương đối cao có thể dùng hơi
thứ hiệu đó đun nóng nước mía dẫn đến độ chân không hiệu cuối không lớn, khoảng 550
mmHg.
- Phương án này được dùng phổ biến trong các nhà máy đường. Ưu nhược điểm của
phương pháp này là tổng hợp của ưu nhược điểm của hai phương án trên.
4.2.5. Thiết bị cô đặc
- Thiết bị cô đặc ống chùm thẳng đứng.
- Thiết bị cô đặc tuần hoàn đơn.
- Ở nhà máy đường thường dùng nhiều loại thiết bị cô đặc khác nhau nhưng bất cứ
loại nào cũng đều có phòng đốt, phòng bốc hơi, thiết bị thu hồi đường, ống nước mía chảy
vào, ống thoát khí không ngưng, ống thoát nước ngưng tụ.
Những điều lưu ý ở các bộ phận chính của thiết bị:
* Buồng đốt: Để tăng hệ số truyền nhiệt K, buồng đốt phải đảm bảo: hơi vào đều, tốc
độ hơi vừa phải, nước ngưng và khí không ngưng tách ra liên tục và triệt để, thông rửa cặn
tốt.
* Khí không ngưng: Khí không ngưng do: không khí lọt vào hơi, các chất khí tạo
thành do phân giải các tạp chất trong nước mía, có trong hơi. Do đó phải dẫn nó ra khỏi
buồng hơi để tăng thể tích hơi trong buồng hơi và tăng hệ số truyền nhiệt. Ống thoát khí
không ngựng đặt ở vị trí nào đấy phải đảm bảo: dẫn được hết khí không ngưng, hơi không
dẫn ra theo.
Thường đặt ống dẫn khí không ngưng ở chỗ tốc độ hơi chậm nhất (cuối đường hơi).
Khí không ngưng gồm nhiều loại khác nhau và chúng có tỷ trọng khác nhau. Do vậy ống
thoát khí không ngưng đặt ở nhiều độ cao khác nhau.
Ống thoát nước ngưng phải đạt yêu cầu: Đảm bảo nước ngưng thoát ra nhanh, triệt để,
xa đường hơi vào.
* Bộ phận thu hồi đường:
Nguyên nhân sự bay đường:
+ Đường bay do những đường nước phụt lên mạnh.
+ Những giọt nước mía nhỏ hơn bọt bay lên.
+ Tốc độ bốc hơi quá nhanh.
+ Hơi vào buồng đốt quá mạnh.
Công nghệ sản xuất đường 62
+ Quá trình sôi không đều do cấu tạo buồng đốt làm hơi vào không đều dẫn đến làm
bay đường.
+ Mức nước mía cao quá.
+ Hiện tượng tự bốc mạnh quá.
+ Chân không thay đổi đột ngột.
Đề phòng:
+ Cố gắn hạn chế những nguyên nhân trên.
+ Lắp bộ phận thu hồi đường ở đỉnh nồi.
4.2.6. Hóa học của quá trình cô đặc
Trong nhà máy đường hiện đại, nước mía cô đặc ở hệ cô đặc 4-5 hiệu với nhiệt độ
khoảng từ 60-130oC. Kết quả là hơi nước bốc đi và trên cơ bản không có sự thay đổi thành
phần hoặc tính chất của chất khô trong dung dịch. Tuy nhiên trong quá trình cô đặc vẫn xảy
ra nhiều phản ứng hóa học và hóa lý dẫn đến sự thay đổi thành phần và đặc tính của chất tan.
Nước ngưng tụ trong hệ cô đặc nhiều nồi không phải là nước nguyên chất mà chứa ít đường
và chất không đường sẽ dẫn đến ăn mòn nồi hơi.
* Sự chuyển hóa saccaroza:
Nếu dung dịch đường có tính axit hoặc một số chất không đường trong quá trình cô
đặc bị phân hủy tạo thành axit thì dưới tác dụng của nhiệt sẽ dẫn đến sự chuyển hóa
saccaroza.
Thông thường sự tổn thất saccaroza không vượt quá 0,01% so với nguyên liệu mía.
* Sự phân hủy saccaroza và tăng màu sắc:
Dưới tác dụng của nhiệt độ cao, đường saccaroza bị caramen hóa. Lượng caramen tạo
thành phụ thuộc thời gian truyền nhiệt, nhiệt độ và pH. Chỉ cần 1 lượng caramen rất nhỏ cũng
làm cho nước mía có màu đậm.
Ngoài ra đường khử bị phân hủy hoặc kết tủa với những chất chứa nitơ tạo thành
melanoidin làm tăng màu sắc của nước mía. Sự tăng màu sắc của nước mía trong quá trình
bốc hơi phụ thuộc vào hiệu quả làm sạch nước mía, thời gian và nhiệt độ cô đặc.
* Độ tinh khiết tăng cao:
Độ tinh khiết tăng trong quá trrình cô đặc phu thuộc phương pháp làm sạch. Đối với
phương pháp vôi độ tinh khiết tăng 0,7-1,0, phương pháp sunfit hóa tăng 0,8-1,0 và phương
pháp cacbonat tăng 0,2-0,5.
Nguyên nhân:
- Chất không đường bị phân hủy do sự phân hủy axit amin và muối cacbonat sinh ra
CO2, NH3 làm cho độ tinh khiết mật chè tăng 0,1.
- Sự tạo cặn trong thiết bị cô đặc, cứ 2000 tấn nước mía (15 Bx) tạo chừng 1 tấn cặn.
- Sự tăng độ tinh khiết còn gây nên do sự thay đổi góc quay riêng của chất không
đường đặc biệt là đường khử.
* Sự thay đổi độ kiềm:
Tăng: Hiện tượng tăng độ kiềm trong quá trình bốc hơi vật lý rất ít thấy.
Giảm: Nguyên nhân
- Sự phân hủy axit, ví dụ: asparagin.
- Phân hủy đường khử tạo axit hữu cơ làm giảm độ kiềm.
- Sự tạo caramen của đường saccaroza tuy tác dụng rất nhỏ nhưng cũng có ảnh
hưởng đến sự giảm độ kiềm.
Công nghệ sản xuất đường 63
* Sự tạo cặn:
Trong quá trình bốc hơi, có sự tạo thành cặn trong thiết bị cô đặc, làm tổn thất nhiệt.
Trong dung dịch quá bão hòa, hiện tượng tạo cặn sẽ phát sinh trước hết ở những chỗ dung
dịch tiếp xúc trực tiếp với diện tích đốt, tức là cặn thường xuất hiện nhiều ở phần dưới của
ống truyền nhiệt. Thành phần của cặn trong các thiết bị cô đặc sản xuất bằng các phương
pháp khác nhau thì khác nhau.
Sự hình thành cặn trong thiết bị dẫn đến giảm hệ số truyền nhiệt và do đó làm giảm
năng suất bốc hơi.
Có nhiều phương pháp loại cặn nhưng hiện nay phổ biến nhất vẫn bằng phương pháp
hoá học.
Các hoá chất dùng để loại cặn như kiềm (NaOH, Na2CO3), axit (HCl) và muối ăn
(NaCl). Trong sản xuất đường thường dùng kiềm sau đó dùng axit. Lượng kiềm dùng chừng
6-12%, thời gian đun 2h. Lượng axit khoảng 0,5 - 1%, thời gian đun từ 1-6h. Sau khi sử dụng
kiềm và axit, dùng nước rửa nồi và dùng thanh sắt loại cặn khỏi thiết bị. Hiệu quả loại cặn tốt
nhưng tốn nhiều hoá chất và ăn mòn thiết bị.
Để tránh ăn mòn thiết bị, trước khi đun với axit, cần cho vào thiết bị những chất kiềm
hãm sự ăn mòn như DBS hoặc ryphalgen A. Ryphalgen A có tác dụng tốt, dễ hoà tan và phân
bố đều trong dung dịch axit.
Công nghệ sản xuất đường 64
H1: Lượng đường trong một phần nước của dung dịch bão hoà
Nếu: > 1 dung dịch quá bão hòa.
= 1 dung dịch bão hòa.
< 1 dung dịch chưa bão hòa.
Đối với dung dịch saccaroza tinh khiết H1 = Ho, có thể tra bảng. Đối với dung dịch
đường không tinh khiết việc xác định H1 khá phức tạp. Vì vậy trong thực tế đối với dung dịch
đường không tinh khiết người ta cũng tra theo bảng độ hòa tan đường tinh khiết được hệ số
quá bão hòa biểu kiến:
H
1 =
H0
5.1.6. Động học của quá trình kết tinh đường
Quá trình kết tinh đường gồm hai giai đoạn: Sự xuất hiện nhân tinh thể (mầm) và sự
lớn lên của tinh thể với tốc độ nhất định.
5.1.6.1. Sự xuất hiện nhân tinh thể hay sự tạo mầm
Trên đồ thị trạng thái của dung dịch saccaroza chia ra 3 vùng quá bão hòa:
- Vùng ổn định: Hệ số bão hòa thấp = 1,1-1,15. Trong vùng này tinh thể chỉ lớn lên
mà không xuất hiện các tinh thể mới.
- Vùng trung gian: = 1,2-1,25. Trong vùng này không chỉ tinh thể lớn lên mà còn
xuất hiện một lượng nhỏ tinh thể mới.
- Vùng biến động: >1,3. Ở đây các tinh thể saccaroza sẽ tự xuất hiện không cần sự
tạo mầm hoặc kích thích.
Đối với dung dịch saccaroza không tinh khiết, giá trị hệ số quá bão hòa giữa các vùng
khác nhau phụ thuộc vào nồng độ chất không đường.
Thực tế trong quá trình sản xuất người ta cố gắng khống chế < 1,3 để tránh tạo thành
các tinh thể “dại”.
c'
C
Ngay sát bề mặt của tinh thể, dung dịch chứa quá bão hòa vì ở đây tồn tại mọi điều
kiện để lượng đường dư từ dung dịch quá bão hòa kết tinh. Như vậy ở bề mặt tinh thể có
nồng độ c' ứng với dung dịch bão hòa. Cách bề mặt tinh thể khoảng d, dung dịch quá bão
hòa với nồng độ C. Do sự chênh lệch nồng độ (C - c') đường sẽ khuếch tán qua lớp dung
dịch không chuyển động d. Khi các phân tử đường khuếch tán đến bề mặt tinh thể thì lập
tức kết tinh. Ở bề mặt tinh thể mới lại có nồng độ c' như cũ, do đó quá trình kết tinh lại tiếp
tục. Như vậy bên cạnh quá trình khuếch tán các phân tử lên bề mặt tinh thể, còn có quá
trình liên kết các phân tử saccaroza trong lưới tinh thể. Nhưng Xilin cho rằng quá trình kết
tinh chủ yếu là quá trình khuếch tán. Do đó, tốc độ kết tinh là tốc độ khuếch tán.
Công nghệ sản xuất đường 67
Tốc độ kết tinh chính là tốc độ khuếch tán, theo định luật Fick, lượng đường khuếch
tán S tỉ lệ thuận với hiệu số nồng độ (C - c'), tỉ lệ nghịch với khoảng đường khuếch tán d và tỉ
lệ thuận với bề mặt khuếch tán F và thời gian :
k1 (C c' )
S= F : (5.1)
d
k 1 ( C c' )
Tốc độ kết tinh: K= (5.2)
d
Theo Einsteins, hệ số khuếch tán k1 phụ thuộc vào nhiệt độ tuyệt đối T và độ nhớt môi
trường :
k' T
k1 =
Trong đó k' hằng số:
kT (C c' )
K= (5.3)
d
Dựa vào công thức này có thể phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ.
Nhưng ngoài tốc độ khuếch tán các phân tử trên bề mặt tinh thể, còn phải kể đến tốc
độ liên kết các phần tử saccaroza trong lưới tinh thể. Trong phương trình (5.1), bỏ qua yếu tố
thứ hai, cho rằng sự liên kết các phân tử vào lưới tinh thể xảy ra rât nhanh so với tốc độ kết
tinh. Theo nghiên cứu của Mark và Xavinov đối với các dung dịch muối, nhận thấy khi tăng
tốc độ khuấy, tốc độ kết tinh tăng nhưng khi đạt cực đại thì tốc độ kết tinh không thay đổi
nữa, lúc này lớp mật bao quanh tinh thể rất nhỏ (d 0) và theo quan sát của Mark, ở ngay bề
mặt tinh thể còn tồn tại một ít dung dịch quá bão hòa (nồng độ C1). Sự bão hòa cần thiết để
chuyển đường hòa tan sang trạng thái kết tinh. Tốc độ chuyển dịch đó tỉ lệ với (C1 - c')2 (hai
nồng độ đó đều ở ngay bề mặt tinh thể ).
Ta có: K = k2(C1 - c')2 (5.4)
Trong đó: k2 hằng số.
Vì rằng tốc độ đó cũng bằng tốc độ khuếch tán phân tử đường, nên:
k1 (C C1 )
S= (5.5)
d
(theo sự suy luận ở trên, cần thay c' bằng C1)
Nếu loại nồng độ C1 từ hai phương trình (5.4) và (5.5) ta rút ra phương trình tốc độ kết
tinh chính xác:
k1 1 k1 k1 1 k1
K= [C (C ) ] (5.6)
d 2 dk 2 dk 2 4 dk 2
Trong đó: C = C - c'
k2: Phụ thuộc vào hình dáng tinh thể.
Phương trình (5.6) cho phép tính được tốc độ kết tinh saccaroza ở các hệ số quá bão
hòa khác nhau và trong giới hạn nhiệt độ rộng.
Đối với dung dịch đường có độ tinh khiết thấp, độ nhớt lớn, hệ số k1 rất nhỏ so với k2,
k1
tỉ số gần bằng không.
k2
Công nghệ sản xuất đường 68
k1
Phương trình (5.4) có dạng : K = C
d
k ( C c' )
K= 1
d
Như vậy khi nấu đường có độ tinh khiết thấp dùng phương trình ban đầu, tức là
phương trình (5.3).
5.1.7.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ kết tinh
- Độ quá bão hòa dư.
- Nhiệt độ.
- Độ tinh khiết của dung dịch đường.
- Độ nhớt.
- Sự khuấy trộn.
5.2. Quá trình hóa học của giai đoạn nấu đường
Sau khi được tạo thành, tinh thể saccaroza rất bền, ở nhiệt độ dưới 70oC hầu như
không có sự thay đổi nào về cấu trúc cũng như các thay đổi đặc biệt khác. Nhưng sự thay đổi
của đường non trong quá trình kết tinh chủ yếu phụ thuộc vào thành phần của mật cái.
5.2.1. Chuyển hóa đường saccaroza
Sự chuyển hóa saccaroza phụ thuộc vào pH và nhiệt độ. pH đường non phụ thuộc vào
phương pháp làm sạch và pH mật chè sau làm sạch, đồng thời pH các loại đường non cũng
khác nhau.
Ví dụ : Đường non A có pH = 5,8-6,8
Đường non B có pH = 5,6-6,5
Đường non C có pH = 5,5-6,4
Đường non luyện có pH ổn định hơn khoảng pH = 6,9-7,1.
5.2.2. Phân hủy đường khử
Trong quá trình nấu xảy ra hiện tượng thay đổi khả năng quay cực của đường khử,
phản ứng melanoidin, phản ứng phân hủy đường khử thành những sản phẩm không lên men.
Đường non có độ tinh khiết thấp và nồng độ cao, sự phân hủy càng tăng.
5.2.3. Phản ứng của các chất không đường hữu cơ
- Trong quá trình kết tinh, một số axit hữu cơ trong quá trình kết tinh trở thành không
tan, kết tủa ở dạng muối canxi và muối magiê như: canxi aconitat, magiê aconitat, canxi
oxalat.
- Một số axit amin kết hợp với đường khử tạo thành hợp chất hữu cơ chứa nitơ tan
trong dung dịch.
- Tinh bột, pectin kết tinh cùng với saccaroza và liên kết bền trong tinh thể đường.
- Phản ứng caramen, phản ứng tác dụng với Fe.
Độ tinh khiết đường non càng thấp, nồng độ chất màu càng cao.
5.2.4. Các phản ứng của chất không đường vô cơ
Trong quá trình nấu đường, khi nồng độ dung dịch đường tăng lên, nồng độ các chất
không đường tăng. Một số chất đạt quá bão hoà và có khả năng kết tinh với đường.
5.2.5. Hiện tượng nấu khó
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những mẻ đường rất khó nấu, đôi khi đường non đặc
cứng trong nồi, bốc hơi chậm, không kết tinh được.
Công nghệ sản xuất đường 69
Nguyên nhân:
- Mật chè và các nguyên liệu nấu chứa lượng muối canxi cao.
- Độ kiềm dung dịch cao, một phần đường ở dạng saccarat làm cho nồng độ và độ
nhớt tăng lên.
- Mía non, keo nhiều, độ nhớt lớn cũng khó nấu, đặc biệt là khi nấu các loại đường
chất lượng thấp.
5.3. Quá trình nấu đường
Có hai phương pháp nấu đường:
- Nấu đường gián đoạn.
- Nấu đường liên tục.
5.3.1. Nấu đường gián đoạn
Nấu đường gián đoạn gồm 4 giai đoạn: cô đặc đầu, tạo mầm, nuôi tinh thể, cô đặc
cuối.
5.3.1.1. Cô đặc đầu
Cô dung dịch đến nồng độ cần thiết để chuẩn bị cho sự tạo thành tinh thể. Tùy theo
phương pháp gây mầm mà khống chế nồng độ khác nhau. Giai đoạn này nên cô ở độ chân
không thấp nhất (600-620 mmHg) để giảm nhiệt độ sôi của dung dịch (thường nhiệt độ = 60-
65oC), giảm sự phân hủy đường. Lượng nguyên liệu gốc (mật chè hoặc đường hồ) nên phủ
kín bề mặt truyền nhiệt của nồi nấu, tránh hiện tượng cháy mật chè trong nồi. Thời gian cô
đặc có thể từ 30-45 phút.
5.3.1.2. Tạo mầm tinh thể
Là thời điểm quan trọng của quá trình nấu đường. Dùng phương pháp thủ công hoặc
dụng cụ kiểm tra để tìm thời điểm tạo mầm. Có thể quan sát sự thay đổi như sau: đầu tiên các
dòng chất lỏng trên kính quan sát rơi nhanh xuống. Khi độ đặc đến nồng độ cần thiết để tạo
mầm thì có giọt mật chảy chậm và trên kính có nhiều vết.
Khi dung dịch đã đạt yêu cầu, dùng một trong những phương pháp tạo mầm tinh thể
để gây mầm.
Các phương pháp tạo mầm tinh thể:
- Tạo mầm tự nhiên: Nấu dung dịch đường đến hệ số quá bão hoà khoảng = 1,4 các
tinh thể đường tự xuất hiện. Phương pháp này hiện nay ít dùng vì saccaroza rất khó tự kết
tinh, nấu đến nồng độ cao chất lượng đường không bảo đảm, thời gian nấu kéo dài, khó
khống chế lượng mầm.
- Phương pháp kích thích: Nấu mật đến độ quá bão hoà = 1,2-1,3 (nồng độ khoảng
82-83 Bx đối với đường thành phẩm), thay đổi độ chân không đột ngột, hoặc cho một lượng
mầm rất ít vào để kích thích sự xuất hiện tinh thể mới. Phương pháp bỏ bột đường như vậy có
ưu điểm là ít tốn đường để tạo mầm nhưng có nhược điểm là khó khống chế lượng mầm.
- Phương pháp tinh chủng: Thêm lượng bột đường ở vị trí quá bão hoà thấp ( = 1,1).
Lượng bột đường cho vào chính là lượng nhân tinh thể và khống chế không để xuất hiện tinh
thể mới. Bột đường nghiền nhỏ có thể cho vào dạng khô, nhưng như vậy khó trộn đều. Tốt
nhất là bột đường sau khi nghiền cho vào trong ancol với tỉ lệ 1 : 0,8. Dựa vào tính chất dễ
bay hơi và nhiệt độ sôi thấp của ancol làm cho các mầm tinh thể được trộn đều. Yêu cầu
nghiền đường rất nhỏ trước khi trộn với ancol. Thời gian cho vào không quá 30 giây.
Công nghệ sản xuất đường 70
- Phương pháp nấu giống (phương pháp phân cắt). Nấu một nồi đường tinh thể có kích
thước nhất định, sau đó chia một phần làm mầm tinh thể. Phương pháp này đơn giản, dễ
khống chế. Thường được áp dụng nấu đường B, C.
Lượng giống nấu non B khoảng 6-8%, đối với đường non C khoảng 22-23% so với
khối lượng đường non.
- Phương pháp đường hồ: Dùng đường B hoà với mật chè tạo thành hỗn hợp giống để
nấu. Thường làm nguyên liệu gốc để nấu đường thành phẩm. Phương pháp này nấu ngắn và
dễ nấu nhưng giảm lượng đường. Hiện nay các nhà máy đường ở nước ta thường dùng
phương pháp đường hồ và phương pháp nấu giống.
5.3.1.3. Nuôi tinh thể
Gồm 2 giai đoạn: cố định tinh thể và nuôi tinh thể lớn lên.
● Cố định tinh thể: Sau khi tạo đủ tinh thể, dùng nguyên liệu hoặc nước nấu 2-3 lần để
giảm độ quá bão hòa xuống còn 1,1-1,15 để tinh thể mới không xuất hiện.
● Nuôi tinh thể:
- Nhiệm vụ:
+ Nuôi tinh thể lớn lên nhanh chóng và đều cứng.
+ Đảm bảo chất lượng đường bằng các nguyên liệu đã tính toán.
+ Nguyên tắc chung:
▫ Nhiệt độ nguyên liệu cho vào nấu lớn hơn trong nồi từ 3-5oC để giữ nhiệt độ sôi
trong nồi, tăng khả năng truyền nhiệt, trộn đều với đường non trong nồi.
▫ Nguyên liệu có độ tinh khiết cao cho vào trước, độ tinh khiết thấp cho vào sau để
không ảnh hưởng đến chất lượng thành phẩm.
Quá trình lớn lên của tinh thể gồm 2 quá trình song song :
+ Kết tinh đường, làm giảm hệ số quá bão hòa.
+ Bay hơi nước làm tăng hệ số quá bão hòa.
Khi quá trình kết tinh xảy ra chậm hơn qua trình bay hơi nước sẽ làm tăng hệ số quá
bão hòa. Đến một lúc nào đó quá bão hòa nằm trong vùng biến động hay vùng trung gian
sẽ xuất hiện tinh thể "dại". Tiếp tục cho nguyên liệu vào nước thì tinh thể "dại" có thể bị hòa
tan. Ở giai đoạn này có hai phương pháp nấu: nấu gián đoạn và nấu liên tục.
* Nấu gián đoạn: Cho nguyên liệu vào nuôi tinh thể gián đoạn với lượng nguyên liệu
khác nhau.
Vừa cho nguyên liệu vào, độ quá bão hòa giảm, một số tinh thể mới tạo thành bị hòa
tan, độ nhớt đường non giảm. Do thêm mật chè vào nên số tinh thể chuyển ra xa nhau, hệ số
truyền nhiệt tăng lên, nước bay hơi nhanh, dung dịch quá bão hòa, đường bắt đầu kết tinh
nhanh, lượng mật giảm, lượng đường trong mật tăng lên, độ nhớt tăng, giảm hệ số truyền
nhiệt và sự bay hơi nước. Song sự bay hơi nước vượt xa sự kết tinh, dẫn đến sự tạo thành tinh
thể "dại". Cần phải cho mật hoặc nguyên liệu vào chỉnh lí ngay. Trong quá trình chỉnh lí cố
gắng giữ hàm lượng tinh thể cố định.
Phương pháp nấu gián đoạn đòi hỏi công nhân nhiều kinh nghiệm.
* Nấu liên tục: Nấu liên tục cho hiệu quả cao vì độ quá bão hòa luôn luôn được giữ cố
định, sự truyền nhiệt, sự bay hơi và kết tinh không bị đứt đoạn, do đó tốc độ kết tinh tăng,
giảm sự tạo thành các tinh thể dại.
Để giảm độ nhớt trong giai đoạn này nên phân đoạn nấu nước. Đối với nguyên liệu độ
tinh khiết thấp nấu nước nhiều lần hơn. Nhiệt độ nước cho vào lớn hơn nhiệt độ trong nồi là
Công nghệ sản xuất đường 71
10oC. Không nên nấu nước nhiều lần và lượng nước quá nhiều vì thời gian nấu quá dài, tốn
nhiên liệu. Các loại đường thành phẩm không nấu nước.
Phương pháp gián đoạn thường dùng khi nấu các loại đường có độ tinh khiết thấp.
Phần lớn các nhà máy đường đều dùng phương pháp nấu liên tục.
5.3.1.4. Cô đặc cuối
Khi tinh thể đạt kích thước nhất định, ngừng cho nguyên liệu và cô đặc đến nồng độ ra
đường. Tùy theo từng loại đường, cô đặc đến các nồng độ khác nhau như non A là 92-93 Bx;
non B là 94-96 Bx, non C là 98-99 Bx. Tránh cô đặc nhanh vì có thể tạo thành các tinh thể
dại.
Trước khi xả đường non thường phun nước nóng 75oC để giảm sự tạo thành tinh thể
dại. Khi đường non từ nồi nấu ra ngoài, giảm độ nhớt của mật, tạo điều kiện li tâm dễ dàng.
Lượng nước khoảng 0,5% so khối lượng đường non.
- Tổng thời gian nấu một nồi đường phụ thuộc kích thước tinh thể cần nấu, chất lượng
nguyên liệu, trình độ thao tác của công nhân và các điều kiện khác. Ở nước ta nấu non A
khoảng 2-4 giờ, non B 4-6 giờ và non C 8-12 giờ.
5.4. Các chế độ nấu đường
5.4.1. Mục đích đặt chế độ nấu đường
- Bảo đảm chất lượng đường thành phẩm.
- Tăng hiệu suất thu hồi đường, giảm tổn thất.
- Cân bằng nguyên liệu và bán thành phẩm.
5.4.2. Cơ sở đặt chế độ nấu
- Dựa vào độ tinh khiết mật chè sau khi làm sạch:
Theo lý thuyết nếu AP mật chè < 80% => nấu hai hệ.
> 80% => nấu ba hệ.
> 86% => nấu 4 hệ hoặc hơn 3 hệ.
Trong thực tế ứng dụng cơ sở này rất linh hoạt.
- Dựa vào yêu cầu chất lượng sản phẩm. Nếu chất lượng sản phẩm cao, để giảm độ
tinh khiết mật cuối nên nấu nhiều hệ hơn.
- Dựa vào trình độ thao tác của công nhân và tình hình thiết bị của nhà máy. Trình độ
công nhân cao, thiết bị tốt có thể nấu nhiều hệ hơn.
5.4.3. Nguyên tắc
Kinh tế nhất, lượng nấu lại ít nhất, chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu cao nhất, tổn thất
đường trong mật cuối thấp nhất, nâng cao hiệu suất sử dụng thiết bị.
5.4.4. Các chế độ nấu đường thông thường
Hiện nay ít dùng chế độ nấu đường trực tiếp tức là dùng mật chè nấu như sau: Mật chè
nấu đường non A, rồi dùng mật A nấu đường non B, mật B nấu đường non C v.v... Nấu
đường trực tiếp thường không bảo đảm chất lượng đường và không bảo đảm kinh tế.
Mật chè Non A Non B Non C
Non A Non C
Đường hồ
Hình 5.2.
5.1Chế độ nấu đường hai hệ
Mật chè
Đường A Mật trắng Mật nâu Đường B Mật B Đường C Mật cuối
Theo sơ đồ này sản phẩm là đường A. Đường B và C cũng có thể là sản phẩm. Nhưng
thông thường đường B và đường C hòa tan lại để nấu đường non A hoặc đường B được trộn
với mật chè thành đường hồ, làm giống nấu non A.
Cũng có thể có nhiều sơ đồ nấu khác, ví dụ như sơ đồ hình 5.3.
5. 3
Hình 5.3. Chế độ nấu đường ba hệ
Thành phẩm Mật trắng Mật nâu Đường B Mật B Đường C Mật C Đường D Mật cuối
Hồ B
Hòa tan lại
Hồ dung
Công nghệ sản xuất đường 74
Q1 Q0 Q Q0
1
(Q0 Q2 ) (Q Q0 ) Q Q2
Nếu nấu A tấn đường non thì các tỷ lệ trên được nhân với A.
Ví dụ để nấu 20 tấn đường non B:
73 70
Giống 78 . 20 7,4 tấn giống
73 78 70
Mật A 70
78 73
. 20 13,6 tấn mật A
78 70
5.5.3. Tính hiệu suất kết tinh và hiệu suất thu hồi đường
* Hiệu suất kết tinh: là % lượng đường kết tinh so với chất rắn trong đường non x.
Gọi Qo: độ tinh khiết đường non.
100: độ tinh khiết đường kết tinh.
Qm: độ tinh khiết của mật.
Ta có: 1.Q0 = x . 100 + (1 - x) . Qm
Q0 Qm
x .100
Q1 Qm
* Hiệu suất thu hồi: là % chất rắn của thành phẩm so với chất rắn trong đường non.
Gọi Qt: độ tinh khiết của thành phẩm. Các kí hiệu khác được sử dụng như trên.
Ta có: 1.Q0 = Qt . x + (1 - x) . Qm
Q Qm
x 0 .100
Qt Qm
Còn đối với đường C cần phải qua KTLL vì mật C là mật cuối, nhiều tạp chất, độ nhớt
lớn, không dùng nấu lại được, cần làm tinh thể đường hấp thụ phần đường trong mẫu dịch ở
mức độ cao nhất để giảm tổn thất đường trong mật. Do đó KTLL đường non C được xem là
một trong những khâu quan trọng nhất để tăng hiệu suất thu hồi, giảm tổn thất cho nhà máy.
Quá trình kết tinh làm lạnh đường non cuối có những khó khăn sau đây :
- Quá trình kết tinh chậm do độ nhớt cao không tương ứng với sự giảm hệ số quá bão
hòa. Có khi độ quá bão hòa tăng lên sinh ra các tinh thể “dại”.
- Độ nhớt mật quá cao, li tâm khó.
- Độ nhớt đường non cao dẫn đến ngừng trệ quá trình kết tinh, gẫy trục khuấy.
Vì vậy cần phải khống chế tốt quá trình kết tinh như sau:
- Hệ số quá bão hòa = 1,1 để tránh tạo tinh thể dại.
- Giảm nhiệt độ theo một chế độ thích hợp.
- Tốc độ giảm nhiệt độ khoảng 1-1,5oC, nhiệt độ máy ly tâm là 45-55oC.
- Khống chế tốc độ khuấy trộn, đảm bảo đường non không bị lắng xuống đáy thiết bị,
tinh thể phân bố đều, đảm bảo quá trình truyền nhiệt nhanh. Không nên khuấy nhanh dễ gẫy
trục và tinh thể bị hòa tan. Thường khuấy với v = 0,36-10 vòng/phút.
- Tính toán tốt thành phẩm đường non và thành phần mật cái để giảm độ nhớt.
- Hàm lượng tinh thể, kích thước tinh thể phải đảm bảo tính đồng đều và tốc độ kết
tinh nhanh.
5.6.4. Cấu tạo thiết bị kết tinh làm lạnh
Quá trình kết tinh làm lạnh được thực hiện trong các thiết bị thùng hở. Để giảm thể tích
thùng và tăng nhanh quá trình kết tinh, thường dùng phương pháp làm lạnh cưỡng bức bằng
bề mặt truyền nhiệt kiểu ruột gà (đối với đường non A, B) (hình 5.5) và kiểu các đĩa khuyết
quay đối với đường non cuối (hình 5.6).
3
Hình 5.5. Thiết bị kết tinh ống ruột gà
1- Thân thiết bị; 2- Cánh khuấy; 3- Trục
.
Công nghệ sản xuất đường 77
Trong thiết bị đĩa khuyết quay, đường non và nước làm lạnh đi ngược chiều. Nước
làm lạnh đi trong đĩa theo đường zic zắc nhờ bên trong đĩa có các tấm ngăn, rồi chuyển dần
từ chỗ này sang chỗ khác, qua các đoạn trục nối 2 đĩa và ra ngoài theo đoạn trục rỗng cuối
cùng. Các đĩa khuyết được lắp đối diện nhau, để đường non chuyển động từ đầu đến cuối
thiết bị. Ưu điểm của thiết bị là diện tích làm lạnh lớn, hệ số truyền nhiệt cao.
Hiện nay, đối với trợ tinh đường non cuối, còn sử dụng thiết bị trợ tinh kiểu đứng, rất
có hiệu quả trong việc nâng cao hiệu suất thu hồi đường, giảm tổn thất.
Công nghệ sản xuất đường 78
Hình 5.7. Mặt cắt của một đơn vị làm nguội thùng trợ tinh đứng có dĩa (BMA)
Hình 5.8. Thiết bị trợ tinh đứng trong nhà máy đường
Công nghệ sản xuất đường 79
5.7
hòa sinh ra các tinh thể đường. Chúng liên kết với nhau dần dần tạo thành từng mảng đường.
Ngoài ra còn có thể do nhiều nguyên nhân khác.
6.3.3. Thành phần đường giảm
Nguyên nhân cũng do ẩm đường sinh ra. Vì khi bị ẩm đường dễ bị vi sinh vật xâm
nhập và có thể gây nên hiện tượng chuyển hóa đường.
6.3.4. Đường biến chất
Một số vi sinh vật và mốc làm biến chất đường như: Penicillium glaucum biến đường
thành axit butyric và axit lactic.
Sau khi đường bị ẩm có nhiều loại nấm men làm đường bị chuyển hóa.
Các loại nấm mốc Aspergillus có thể biến đường thành axit xitric hoăc axit axetic.
Các loại vi sinh vật này có sẵn trong mía trong quá trình sản xuất có thể không bị tiêu
diệt hoàn toàn, khi gặp nhiệt độ thấp và môi trường thích hợp chúng trở lại hoạt động, hoặc
do sự xâm nhập từ môi trường bên ngoài.
Để ngặn chặn hiện tượng này trong công nghệ cần chú ý làm sạch cám mía, không kéo
dài thời gian làm sạch và sấy khô các tinh thể đường.
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 83
Số gam
saccaroza trong
2038 219,5 238,1 206,0 288,1 320,1 362,0 415,7 489,0
100 gam nước
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 84
Khi có mặt của các dạng đường khác thì độ hòa tan của saccaroza giảm, nhưng độ tan
của đường chung tăng, nếu ta cho saccaroza trong dung dịch nước của glucoza thì đường
saccaroza hòa tan kém hơn trong nước tinh thiết, nhưng hàm lượng chất khô chung trong
dung dịch đó lớn hơn trong dung dịch đường saccaroza tinh khiết.
Từ đó chúng ta có thể rút ra được tính chất quan trọng của saccaroza như sau: Trong
hỗn hợp với các dạng đường khác, saccaroza cho ta dung dịch có hàm lượng đường chung
cao. Đó là một tính chất quan trọng đối với công nghiệp bánh kẹo. Bảng 1.2 làm sáng tỏ tính
chất trên, nó biểu hiện độ hòa tan của saccaroza ở 50oC khi có thêm đường chuyển hóa.
Bảng 1.2. Độ hòa tan của saccaroza ở 50oC khi có thêm đường chuyển hóa
Số gam trong 100g nước Phần trăm so với dung dịch
Đường Lượng Đường Lượng
Saccaroza chuyển đường Saccaroza chuyển đường
hóa chung hóa chung
260,36 260,36 72,25 72,25
243,73 44,31 288,04 62,81 11,42 74,83
228,45 96,17 324,62 53,80 22,65 76,45
215,08 150,46 365,54 46,20 32,32 78,52
196,43 253,02 449,45 35,75 46,05 81,80
Đường glucoza và maltoza cho vào dung dịch của saccaroza thì hàm lượng chất khô
tăng ít hơn so với mật và đường chuyển hóa.
+ Sự tăng hàm lượng chất khô trong dung dịch mật đường bão hòa cũng như trong dung
dịch đường - đường chuyển hóa bão hòa làm cho sirô kẹo và khối kẹo không bị kết tinh.
Saccaroza không háo nước, nó chỉ bắt đầu hút nước khi độ ẩm tương đối của không khí
đạt tới 90% nếu ta cho một dạng đường khác vào dung dịch của saccaroza thì tính háo nước
tăng (bảng 1.3).
Bảng 1.3. Ảnh hưởng của độ ẩm không khí đến tính háo nước của các loại đường
Độ ẩm của không khí, (%)
Tên đường
81,8 62,7 43,0
Saccaroza Không hút nước Không hút nước Không hút nước
Sac. + 10% glucoza Bị ẩm sau 10 ngày Không hút nước Không hút nước
Sac. + 10% maltoza Bị ẩm sau 10 ngày Không hút nước Không hút nước
Sac. +10% fructoza Bị ẩm sau 3 ngày Hút ẩm Không hút nước
Sac. + 10% đường
Bị ẩm sau 3 ngày Bị ẩm sau 23 ngày Không hút nước
chuyển hóa
Qua bảng trên ta thấy khi cho vào saccaroza 10% đường glucoza hoặc maltoza thì tính
háo nước của hỗn hợp sẽ mạnh hơn so với đường saccaroza tinh khiết, nhưng thấp hơn đường
fructoza và đường chuyển hóa.
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 85
Đường saccaroza tạo ra dung dịch quá bão hoà rất dễ dàng. Dung dịch bão hòa không
bền vững dễ bị kết tinh thành tinh thể.
Nếu hệ số quá bão hòa càng lớn thì nhân kết tinh càng nhiều.
+ Đối với sản xuất bánh kẹo, những quá trình xảy ra khi nấu dung dịch đường đậm đặc
có một ý nghĩa quan trọng. Thực nghiệm chỉ rõ rằng khi nấu dung dịch đường saccaroza tinh
khiết đậm đặc thì sự thay đổi hóa học không nhiều lắm. Nếu có sự tham gia của các dạng
đường khác thì sự phân hủy xảy ra rất mạnh và có thể phân hủy ở nhiệt độ thấp hơn (100 oC).
Khi tăng nhiệt độ đến 115-125oC và thời gian nấu tăng từ 60-90 phút thì hàm lượng chất khử
trong sirô tăng từ 13-17%. Nếu tăng nhiệt độ đến 145oC thì lượng chất khử tăng 19-20%, và
nhiệt độ ở 160oC thời gian nấu 30 phút thì hàm lượng chất khử đạt tới 52%. Saccaroza sẽ
phân hủy ở nhiệt độ thấp khi có tác dụng của mật tinh bột vì mật tinh bột có độ axit nhất định
(pH = 5,2) nên làm đường saccaroza chuyển hóa.
Mức độ phân hủy tăng theo thời gian và nhiệt độ. Khi saccaroza bị phân hủy không
những tạo ra đường chuyển hóa, mà còn có các sản phẩm axit khác làm tăng quá trình phân
hủy.
* Tiêu chuẫn kỹ thuật của saccaroza:
Độ ẩm : 0,14%
Đường khử : 0,05%
Độ axit (pH) : 6
Độ tinh khiết : 99,75%
Tỉ lệ tro : : 0,03%
Màu sắc : 1,05 stame.
1.1.1.2. Mật tinh bột
Mật tinh bột là một sản phẩm do thủy phân tinh bột chưa triệt để bằng axit hoặc enzim.
Là một trong những nguyên liệu chính dùng trong sản xuất kẹo. Khi thủy phân tinh bột ta thu
được các hydratcacbon có trọng lượng phân tử khác nhau nhưng thành phần chính của mật
tinh bột là dextrin, maltoza và glucoza. Trong sản xuất kẹo thường dùng mật tinh bột có hàm
lượng chất khô 78-80%, trong đó gần 38-42% đường khử (tính theo glucoza). Tỉ lệ glucoza :
maltoza : dextrin trong mật tinh bột là 1:1:3, thành phần của nó phụ thuộc vào mức độ thủy
phân tinh bột. Mức độ thủy phân càng cao thì lượng glucoza càng nhiều và ít dextrin. Dextrin
trong thành phần của mật tinh bột không phải là chất đồng nhất mà phân tử của nó có cấu tạo
từ những số lượng khác nhau các gốc glucoza; maltoza còn gọi là đường mạch nha -
C12H22O11. Khi bị thủy phân, một phân tử maltoza tạo ra hai phân tử glucoza.
Chất lượng và độ bền của sản phẩm bánh kẹo khi bảo quản phụ thuộc vào thành phần
các hydratcacbon của mật, phụ thuộc vào tỉ lệ glucoza, maltoza và dextin trong mật. Nếu ta
dùng mật tinh bột có hàm lượng glucoza cao thì sản phẩm làm ra dễ hút ẩm của môi trường
xung quanh (kẹo cứng), và ngược lại nếu ta dùng mật tinh bột có hàm lượng glucoza thấp thì
sản phẩm làm ra dễ chóng khô (kẹo dẻo, kẹo xốp) khi bảo quản.
Tùy theo yêu cầu sử dụng người ta sản xuất ra mật tinh bột có hàm lượng các loại
đường khác nhau và được chia làm 3 loại :
- Mật đường hóa thấp.
- Mật đường hóa cao.
- Mật đường hóa trung bình.
Các loại trên khác nhau về mức độ đường hóa hay nói cách khác là khác nhau về hàm
lượng đường khử. Hàm lượng đường khử của từng loại như sau:
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 86
- Mật đường hóa cao có nguồn lượng đường khử lớn.
- Mật đường hóa cao có hàm lượng hơn 60% theo glucoza.
- Mật đường hóa thấp có hàm lượng 26 - 38% glucoza.
- Mật đường hóa trung bình: 48-58% glucoza.
Tùy theo mức độ đường hóa tinh bột mà tính chất của mật có thay đổi (thay đổi về độ
nhớt, độ ngọt và tỉ trọng). Độ nhớt của mật càng thấp khi mức độ đường hóa càng cao. Độ
ngọt của mật đường hóa thấp, kém hơn của mật đường hóa bình thường. Mật đường hóa cao
có độ ngọt cao nhất trong các loại mật kể trên.
Vai trò của mật tinh bột: Mật tinh bột trong kỹ nghệ sản xuất kẹo đóng vai trò chất
chống hồi đường. Tính chất chống kết tinh của mật tinh bột là do nó làm tăng độ nhớt của
dung dịch đường mật so với dung dịch đường saccaroza tinh khiết ở cùng một nồng độ, và
đồng thời làm tăng độ hòa tan chung của đường có trong hợp chất. Trong sản xuất kẹo cứng
nếu ta dùng mật tinh bột có hàm lượng maltoza cao thì tính hút nước của kẹo sẽ thấp, kẹo có
độ bóng tốt.
Chỉ số quan trọng của mật tinh bột là độ axit. Độ axit không được quá 25o đối với mật
hảo hạng, đối với mật loại 1 không quá 27o. Ở đây 1o axit bằng số mol dung dịch NaOH
0,1M để trung hòa 100g chất khô của chất đó. Khả năng chuyển hóa được saccaroza trong
quá trình sản xuất kẹo phụ thuộc vào độ axit của mật cuối và các chất phi đường có trong
mật.
1.1.1.3. Đường chuyển hóa
- Đường chuyển hóa cũng được dùng trong sản xuất kẹo (khi không có mật, hoặc khi
sản xuất loại kẹo đòi hỏi lượng mật không cao) sirô chuyển hóa dùng làm kẹo cần có các
thành phần như sau:
+ Hàm lượng đường khử : 70-78%.
+ Hàm lượng chưa khử : 2-10%.
+ Hàm lượng nước : 18-20%.
- Đường chuyển hóa khi nấu nóng thì tính chất hóa lý của nó thay đổi mạnh hơn đường
saccaroza vì đường fructoza rất nhạy với nhiệt độ.
- Nếu ta tăng nhiệt độ và thời gian nấu thì độ axit của đường chuyển hóa tăng, đặc biệt
là fructoza bị phân hủy tạo ra axit levulic và các axit khác.
Màu sắc của dung dịch đường chuyển hóa bắt đầu tăng ở nhiệt độ 100-120oC, màu sắc
càng tăng khi nhiệt độ đạt tới 145-160oC và thời gian nấu từ 60-90 phút. Màu của dung dịch
đường chuyển hóa tan nhanh là do sản phẩm này được tạo ra khi phân hủy sâu xa đường
chuyển hóa, đặc biệt là fructoza.
Trong môi trường kiềm thì sự phân hủy đường xảy ra mạnh nhất và tạo ra các sản phẩm
phân hủy màu sắc đậm.
Đuờng chuyển hóa hầu hết là háo nước, do đó dùng hạn chế trong sản xuất kẹo. Khi bảo
quản ở nhiệt độ 20oC và độ ẩm của không khí 50% thì nó bắt đầu hút ẩm nếu tăng độ ẩm của
không khí lên 65-70% thì khả năng hút ẩm tăng và dễ bị chảy nước.
Đường chuyển hóa có khả năng khử ôxi của oxit đồng thành oxit đồng thấp. Dựa vào
khả năng này ta có thể xác định hàm lượng của nó trong dung dịch cần nghiên cứu.
Để sirô có hàm lượng đường chuyển hóa hết 70-80% người ta dùng dung dịch đường có
nồng độ 80% và axit HCl, lượng axit cho vào phụ thuộc vào chất lượng của đường và ở trong
giới hạn 0,015-0,03%, so với trọng lượng đường kính thường dùng 0,02-0,03% HCl. Axit
cho vào sirô đường ở nhiệt độ 90oC có nồng độ 40%.
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 87
Nếu dùng 0,02% axit thì thời gian chuyển hóa là 30 phút và nếu dùng 0,03% axit thì
thời gian chuyển hóa là 20 phút. Sau khi thu được sirô chuyển hóa cần trung hòa và làm lạnh
ngay (50-45oC).
Không nên bảo quản sirô chuyển hóa ở nhiệt độ cao, vì thành phần của nó bị phân hủy
(nhất là fructoza).
1.1.1.4. Glucoza
Đường glucoza dùng trong sản xuất kẹo có trong thành phần của đường chuyển hóa và
mật tinh bột. Glucoza thu được là dung dịch thủy phân tinh bột đến tận cùng bằng axit.
Glucoza là chất kết tinh thường gặp ở hai dạng: Glucoza khan và glucoza ngậm nước
C6H12O6.H2O. Trọng lượng riêng của glucoza khan là 1,5384 T/m3 và của glucoza ngậm
nước là 1,5714 T/m3. Điểm nóng chảy của glucoza là 146oC. Glucoza có trong dung dịch ở
hai dạng và , nếu kết tinh khỏi dung dịch chỉ có dạng .
Độ hoà tan của glucoza tăng theo nhiệt độ, ở nhiệt độ cao hơn 60 oC độ hòa tan của nó
sẽ cao hơn của saccaroza. Độ hòa của glucoza tăng theo nhiệt độ được nêu ở bảng 1.4.
Bảng 1.4. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến độ hòa tan và độ nhớt glucoza
Nhiệt độ, oC
Chỉ số
20 30 40 50 60 70 80 90
% glucoza trong
dung dịch bảo 47,72 54,64 61,83 70,9 74,73 78,23 81,83 81,63
hòa
% glucoza trong
91,60 120,46 126,14 243,8 295,0 359,9 436,3 552,27
100 phần nước
Độ nhớt, N.s/m2 0,813 0,187 0,224 0,509 0,662 0,784 1,04 0,183
Glucoza tinh thể ít háo nước, nó bắt đầu hút ẩm khi độ ẩm của không khí đạt tới 85-
90%. Glucoza ở dạng dung dịch háo nước hơn dạng tinh thể, vì trong tinh thể có dạng -
glucoza và -glucoza.
Glucoza có khả năng khử oxit đồng (II) thành oxit đồng (I). Dựa vào khả năng đó để
định lượng glucoza trong dung dịch.
Khi nấu nóng glucoza trong môi trường axit thì các sản phẩm phân hủy được tạo thành
(anhydrit, hydroxy metyfuron, chất màu). Trong dung dịch kiềm glucoza bị phân hủy và tạo
ra các chất màu mạnh hơn.
Độ ngọt của glucoza là 60-75%. Trong sản xuất kẹo, glucoza rất dễ hấp thụ nên dùng
trong sản xuất kẹo cho trẻ em.
* Các chỉ tiêu chất lượng của glucoza:
Màu sắc : Trong suốt hơi vàng nhạt
Độ axit : Không quá 25o
Độ trơn : Không quá 0,45%
Chất khử : 60%.
Độ ẩm : 14-20%
Nhiệt độ nấu : 140oC hơi sẫm màu.
Kim loại nặng : Không cho phép.
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 88
1.1.1.5. Maltoza
Maltoza hoặc đuờng mạch nha là disaccarit, có công thức chung C12H22O11. Khi thủy
phân maltoza bằng amilaza hoặc bằng axit thu đuợc hai phân tử glucoza. Trước lúc xuất hiện
phân tử glucoza đầu tiên thì maltoza rất bền dưới tác dụng của nhiệt độ cao, nhưng sau đó
quá trình phân hủy maltoza xảy ra rất nhanh. Dưới tác dụng của dung dịch kiềm đậm đặc
maltoza bị phân hủy tạo ra axit lactic:
Độ hòa tan maltoza tăng theo nhiệt độ cụ thể như sau:
Nhiệt
21 29,6 34,4 43,5 54,2 66.3 74,2 87,0 96,0
độ
Độ hòa
44,1 48,0 49,6 55,3 60,2 66,7 72,3 79,3 85,1
tan %
Độ ngọt của maltoza so với đường saccaroza là 30%.
Trong sản xuất kẹo nếu dùng quá nhiều maltoza thì kẹo dễ bị chảy và sẩm màu.
* Tiêu chuẩn chất lượng maltoza:
+ Trong suốt, có vị ngọt thanh và hơi có mùi của mầm lúa, không có tạp chất.
+ Hàm lượng đường khử : 55%
+ Độ tro : Không quá 5,5%
+ Nhiệt độ nóng chảy : 1800C.
+ Độ ngọt so với saccaroza : 30-40.
1.1.1.6. Đường fructoza
Đường fructoza trong sản xuất kẹo có trong thành phần của đường chuyển hóa hoặc
trong bán thành phẩm của kẹo khi nấu. Trọng lượng phân tử của fructoza khan là 180, nhiệt
độ nóng chảy 104oC. Nếu độ ngọt của saccaroza là 1 thì của fructoza là 1,5.
Fructoza dễ hòa tan trong nước, độ hòa tan của nó cao hơn saccaroza và glucoza, độ hòa
tan tăng theo nhiệt độ.
Nhiệt độ 20 30 40 50
Độ hòa tan trong nước, % 78,94 81,64 84,34 86,90
Fructoza rất háo nước, nó hút ẩm khi độ ẩm của không khí là 45-50%. Fructoza có khả
năng khử oxit đồng giống glucoza, song tốc độ nhanh hơn. Khi tăng độ axit của môi trường
thì tốc độ phân hủy tăng. Nếu fructoza trong môi trường kiềm thì nó tạo ra chất màu ngay từ
đầu.
1.1.1.7. Mật ong
Mật ong là do con ong tự tổng hợp từ nhiều loài hoa khác nhau, do đó mùi vị, màu sắc
và thành phần hóa học có khác nhau.
Thành phần chính của mật ong bất kỳ gồm đường 74% nước 18%. Trong phần trăm
đuờng nói trên có 3% là fructoza, 35% glucoza, saccaroza 2%, ngoài ra trong thành phần của
mật ong còn có dextrin, chất phi đường, protit, chất khoáng, men, vitamin C, vitamin B, chất
màu, chất thơm.
Mật ong còn bảo quản nơi khô thoáng, độ ẩm của không khí 75-80%, nhiệt độ không
quá 10oC. Mật ong dùng để sản xuất kẹo mềm, khan và bích qui.
Ngoài mật ong tự nhiên còn có mật ong nhân tạo từ sirô đường vì thêm các chất thơm
có trong thành phần của mật ong tự nhiên.
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 89
1.1.2. Bột
Trong sản xuất bánh kẹo người ta dùng nhiều loại bột để sản xuất ra các loại bánh Âu
và bánh Á, nhưng dùng nhiều nhất chủ yếu vẫn là bột mì.
Qua các công trình nghiên cứu của “Viện nghiên cứu về bánh kẹo bên Liên Xô” cho
biết: hạng bột, màu sắc, số lượng đến chất lượng gluten, cũng như độ mịn của bột đều có ảnh
hưởng đến chất lượng của bánh.
1/ Bột hạng thấp làm bánh bích qui tối màu do đó trong sản xuất bánh bích qui nên
dùng bột hảo hạng hoặc bột hạng I.
2/ Số và chất lượng gluten: Chất lượng gluten ảnh hưởng lớn đến chất lượng của sản
phẩm. Tùy theo từng loại bánh sử dụng bột có chất lượng gluten khác nhau.
Bích qui xốp dùng bột có chất lượng gluten yếu và trung bình.
Bích qui dai dùng bột có chất lượng gluten trung bình và tốt
Số lượng gluten ảnh hưởng lớn chất lượng của bánh, song hàm lượng gluten cao thì độ
ẩm bột nhào tăng, do đó thời gian nướng bị kéo dài, cho nên ta cần hạn chế lượng gluten
trong giới hạn 27-30%.
3/ Độ mịn của bột:
Độ mịn của bột ảnh hưởng rõ nhất đến chất lưuợng của bích qui xốp. Tốc độ trương nở
của gluten trong bột thô bé hơn trong bột mịn, vì bề mặt riêng của bột thô sản xuất ra bích qui
dai có cấu trúc và tính chất không khác bích qui xốp (tất nhiên dựa vào thực đơn của bích qui
dai). Nếu dùng bột thô thì bánh qui xốp làm ra có độ dòn lớn hơn, cấu tạo xốp hơn và thể tích
tăng lên nhiều hơn so với khi dùng bột mịn.
Ngoài ra còn chỉ số như mùi vị, độ tro, độ ẩm phải đáp ứng với chỉ tiêu của từng loại
bột.
Khi sản xuất một số bánh bích qui ta có thể thay 5% bột mì bằng bột đậu nành. Bột đậu
nành dùng sản xuất bánh có hàm lượng chất béo 19-21%, protit 38-41%, bột đậu nành không
được có mùi quả đậu.
4/ Thành phần hóa học của bột:
a. Hàm lượng tro: Hàm lượng tro càng cao bột càng xấu. Hàm lượng tro trong các loại
bột như sau:
Bột cao cấp : 0,55%
Bột hạng I : 0,75%
Bột hạng II : 1,25%
Bột không phân loại : 1,23%
Trong tro có các chất khoáng như K2O, Na2O, CaO, Fe2O3.
b. Tinh bột: Chiếm tỉ lệ nhiều nhất, nó là thành phần chính của bột khoảng 68-75%
hạng bột càng cao thì tinh bột càng nhiều. Cho tinh bột vào mứt có nhiệt độ 50oC, tinh bột bắt
đầu nở, nếu tăng nhiệt độ đến 65-67oC, tinh bột sẽ bị hồ hóa.
c. Đường trong bột: Gồm có saccaroza (2%), maltoza, glucoza và fructoza. Nếu trong
bột chứa nhiều maltoza chứng tỏ lúa mì thu hoạch non, hàm lượng đường trong bột có một ý
nghĩa lớn khi lên men bột.
d. Chất béo: Chứa trong hạt từ 2-3%. Trong quá trình bảo quản, chất béo bị men thủy
lên thành axit béo tự do, và do tác dụng của không khí bên ngoài nên bột bị oxy hóa đưa đến
hư hỏng.
e. Enzym trong bột:
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 90
Trong bột có chứa nhiều loại enzym làm ảnh hưởng đến chất lượng của bột. Các loại
enzym quan trọng như: enzym amilaza, men proteaza: phân hủy protit trong bột tạo ra axit
amin, NH3 ... làm cho bột có mùi hôi.
f. Hàm lượng vitamin trong bột: Hạng bột càng cao thì hàm lượng vitamin càng thấp
(bảng 1.5).
Bảng 1.5. Hàm lượng vitamin trong các loại bột
Vitamin, mg/kg
Hạng bột
B1 B2 PP
Bột hảo hạng 0,77 - 1,3 0,25 - 0,61 7,0 - 13,5
Bột loại I 1,27 - 3,7 0,37 - 0,61 12,5 - 18,5
Bột hạng II 3, - 7,4 0,50 - 0,11 16,5 - 36,1
CH2 - OCOR1
|
CH - OCOR2 Trong đó: R1, R2, R3 là gốc của axit.
|
CH2 - OCOR3
Trong thành phần của triglyxerit có axit no và chưa no. Chất béo chia làm hai loại: dầu
thực vật và mỡ động vật. Trong công nghệ bánh kẹo, chất béo đóng vai trò quan trọng trong
cơ cấu các mặt hàng, nâng cao giá trị dinh dưỡng của sản phẩm, làm cho sản phẩm có vị
ngon và giữ được hương vị bền vững.
Muốn đánh giá chất lượng của chất béo cần xác định tính chất hóa lý, và các chỉ số
chất lượng của nó. Các chỉ số đặc trưng của chất béo là:
+ Tỉ trọng, nhiệt độ nóng chảy và đông đặc thể hiện sự liên quan giữa axit rắn và lỏng
trong thành phần chất béo.
+ Chỉ số iốt thể hiện hàm lượng axit béo không no trong thành phần triglyxerit.
+ Chỉ số xà phòng đặc trưng cho axit béo có trong thành phần của chất béo đã cho.
+ Chỉ số axit đặc trưng cho mức độ phân hủy của chất béo.
1. Dầu thực vật:
a. Dầu ca cao lấy từ quả ca cao, trong hạt có tới 58% dầu. Nó là một nguyên liệu rất có
giá trị để sản xuất bánh kẹo. Ca cao được dùng trong sản xuất kẹo - socola, socola thanh, làm
vỏ socola cho kẹo. Theo thành phần hoá học thì dầu ca cao chủ yếu là glyxerit của axit béo,
khi tươi có màu vàng nhạt, mùi thơm dễ chịu, ở nhiệt độ thường dầu ca cao ở thể rắn. Nhiệt
độ nóng chảy của dầu ca cao thấp hơn nhiệt độ của cơ thể người (32-36oC), do đó khi ta ăn
socola rất dễ tan. Khi làm lạnh dầu ca cao đến nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ đông đặc thì nó sẽ
cứng lại, có cấu tạo tinh thể và thể tích giảm. Tính chất này rất có giá trị trong công nghệ sản
xuất socola (socola rất dễ róc khuôn).
Dầu ca cao khi kết tinh tạo ra các tinh thể khác nhau. Các tinh thể này có tính chất hóa
lý không giống nhau, đó là hiện tượng điển hình. Trong dầu ca cao có 4 dạng đa hình
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 96
, , , ’, dạng ’ thì bền, ba dạng còn lại đều không bền. Tính đa hình đó là một nhược điểm
làm cấu trúc tinh thể không ổn định và sẽ bị xám màu.
* Chỉ số hóa học của dầu ca cao như sau:
Tỉ trọng ở 40oC : 0,9206
Nhiệt độ nóng chảy : 32-36oC
Nhiệt độ đông đặc : 22-27oC
Chỉ số xà phòng hóa : 192-200
Chỉ số iốt : 34-36
Chỉ số axit : 1,0-11,5
b. Dầu dừa: Dầu dừa lấy từ cùi dừa bằng cách ép, dầu dừa tươi có mùi thơm ngon.
Trong công nghệ bánh kẹo người ta dùng dầu dừa làm nhân kẹo và nhân bích qui v.v…
* Dầu dừa tinh khiết có các chỉ số hóa lí như sau:
Tỉ trọng ở 15oC : 0,925-0,926
Nhiệt độ nóng chảy : 20-28oC
Chỉ số xà phòng : 192-200
Chỉ số iốt : 5,0-10,0
Nhiệt độ đông đặc : 14-250C.
Dầu dừa tinh khiết ở 15oC có màu trắng, ở 40oC là chất lỏng trong suốt.
c. Dầu hướng dương và dầu bông:
Lấp ra bằng phương pháp ép, phương pháp trích ly hoặc phối hợp (lúc đầu ép sau đó
trích ly).
Hạt đem làm sạch, sấy, tách vỏ. Sau đó đem hạt nghiền nhỏ, hấp sấy trong nồi hấp sấy ở
nhiệt độ 105-110oC, sau đó đưa vào máy ép để ép dầu. Khô dầu sau khi ép có hàm lượng là
6-8%. Dùng phương pháp trích ly thì thu được lượng dầu nhiều hơn. Dung môi trích ly phần
lớn là etxăng. Lượng dầu còn lại trong bã sau khi trích ly 1-1,5%. Dầu lấy ra từ phương pháp
trích ly rất tinh khiết, có giá trị thực phẩm cao. Các chỉ số hóa lý của dầu hướng dương và
dầu bông như sau:
Trong công nghiệp thực phẩm thường dùng các chất chống oxi hóa tự nhiên
(photphotic, carotin v.v…) và các chất chống oxi hóa tổng hợp (butylhydrooxytuluol,
butylhydroxyomizol v.v…).
1.2.5. Hạt thơm
Hạt thơm dùng trong sản xuất bánh kẹo nói chung là có nhiều loại song ta chỉ tìm hiểu
một số loại thường dùng nhất.
1. Hạt hạnh nhân: Được chia làm hai loại chính:
+ Hạnh nhân đắng.
+ Hạnh nhân ngọt.
Trong sản xuất bánh kẹo thường chỉ dùng loại ngọt, song cũng có thể dùng thêm 2-4%
loại đắng.
Thành phần hóa học của hạnh nhân:
Trong hạnh nhân đắng có chất amidalin làm cho nó có vị đắng và độc, còn trong loại
ngọt có men đặc biệt emulsin. Dưới tác dụng của men này amidalin bị phân tích thành
glucoza, benzadenhyt và axit xianhyđric.
C20H27NO11 + 2H2O 2C6H12O6 + C6H5CHO + HON.
2. Cà phê: Cà phê được trồng ở vùng nhiệt đới như Nam Mỹ, Châu Phi, Châu Á. Trong
bánh kẹo thường cho thêm cà phê ở dạng bột hoặc tinh dầu cà phê.
* Thành phần hóa học của cà phê:
Nước : 2,7%
Chất nitơ : 13,9%
Cafein : 1,24%
Chất béo : 14,4%
Đường : 2,8%
Dextrin : 1,3%
Xenluloza : 03,9%
Chất khoáng : 3,9%
Axit aulincafein : 5,7%
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 99
Quan trọng nhất là chất cafein và axit aulincafein là những chất kích thích cơ thể người,
những chất khác hỗ trợ làm cà phê có hương thơm ngon.
Cà phê cần bảo quản nơi khô ráo, độ ẩm của không khí khoảng 75%.
3. Hạt ca cao: Hạt ca cao lấy từ quả ca cao. Cacao được dùng chủ yếu ở sản xuất socola.
4. Quả cây: Ở các nước Châu Âu thường dùng quả cây trong sản xuất bánh kẹo và được
coi là nguyên liệu quan trọng. Quả cây dùng trong sản xuất bánh kẹo thường có mùi thơm
ngon, dễ chịu. Chúng cung cấp sinh tố cho cơ thể người.
* Thành phần hóa học của quả cây:
1. Đường:
Hàm lượng đường trong quả cây chênh lệch từ 2-24%. Phổ biến nhất là đường glucoza,
frutoza và saccaroza.
2. Vitamin:
Có giá trị rất lớn đối với cơ thể người. Trong quả cây có nhiều loại vitamin hàm lượng
khá lớn như A, B1, B2, C, PP, K. Đa số quả cây đều có chứa vitamin C. Vitamin C có trong
quả ở hai dạng: axit axsoobic và hyđroaxsoobic.
3. Tro:
Thường có ở dạng muối của axit hữu cơ và axit vô cơ, và một phần có trong thành phần
của hợp chất hữu cơ cao phân tử. Độ tro của quả trong giới hạn 0,25-1,0. Trong thành phần
của tro có các cấu tử như: K, Na, Ca, Fe, Al, Mg, P, S, Cu, v.v...
4. Axit hữu cơ:
Trong quả cây axit hữu cơ thường ở dạng tự do hoặc dạng muối. Hàm lượng của axit
hữu cơ không giống nhau, mức độ chênh lệch trong khoảng từ 1-3,5%. Các axit phổ biến
trong quả như: axit maclic, axit citric, axit tactric.
5. Chất chát:
Hàm lượng của chúng trong quả cây không nhiều lắm, không có ảnh hưởng đến vị ngon
của quả. Khi chất chát bị oxi hóa làm quả cây dễ bị sẫm màu. Hiện tượng oxi hóa của chất
chát là do hoạt động của men oxi hóa trong quả cây. Nếu đun nóng hoặc dùng những phương
pháp nhiệt men thì quả sẽ không bị sẫm màu.
6. Hỗn hợp pectin:
Khả năng tác động của quả là nhờ pectin chứa trong ruột của quả cây. Thành phần hỗn
hợp của pectin gồm có:
+ Protopectin
+ Pectin
+ Axit pectic
+ Axit pectonic
Khả năng tác động của quả được xác định bằng hàm lượng và cấu tạo của pectin, trong
quá trình bảo quản và chín hàm lượng pectin thay đổi.
a. Protopectin: Có nhiều trong quả cây còn xanh, làm cho quả trở nên cứng, nó không
hòa tan trong nước lạnh, quả cây càng chín thì protopectin bị phân hủy dưới tác dụng của
men tạo ra glucoza và pectin. Quá trình này xảy ra nhanh dưới tác dụng của nước ở nhiệt độ
80-85oC, protopectin không có khả năng đông tụ.
b. Pectin:
Hòa tan trong nước, dưới tác dụng của axit pectic có khả năng đông tụ. Khả năng đông
tụ của pectin được xác định bằng chiều dài của mạch pectin. Phân tử pectin càng lớn thì khả
năng đông tụ càng lớn. Nhưng nếu chín quá thì khả năng giảm vì pectin bị phân hủy.
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 100
c. Axit pectic và axit pectonic:
Hai sản phẩm này là do pectin bị phân hủy tạo thành. Chúng có khả năng đông tụ kém.
1.2.6. Chất làm nở
1. Men:
Thường dùng men bánh mì loại I Saccaromyces cerevisiase. Nhiệt độ thích hợp để
men phát triển là 26-28oC. Dưới 10oC men sinh sản chậm, khi nhiệt độ tăng đến 40oC thì men
ngừng sinh sản và bị chết khi nhiệt độ tăng đến 55-60oC.
Thức ăn thích hợp của men là hợp chất nitơ, đuờng, photpho, kali, men hoạt động rất
mạnh trong môi trường axit yếu. Sự tích tụ khí cacbonic, rượu, đường có nồng độ cao đều
làm men phát triển chậm hoặc ngừng hẳn. Do đó men không được dùng trong sản xuất bích
qui, mà dùng thuốc nở hóa học.
2. Thuốc nở hóa học:
Thuốc nở hóa học có hai loại như sau:
a. Bicacbonat natri:
Dạng bột màu trắng, không mùi, hòa tan trong nước. Theo tiêu chuẩn thì chia làm 3
loại:
+ Loại A có 98% NaHCO3.
+ Loại B có 94% NaHCO3.
+ Loại C có 93% NaHCO3.
Khi đốt nóng NaHCO3 bị phân hủy theo phương trình sau:
2NaHCO3 Na2CO3 +CO2 + H2O
Khí CO2 thoát ra có tác dụng làm bánh có độ xốp. Bicacbonat natri phân hủy cho 50%
khí làm xốp bánh.
b. Amonicacbonat (NH4)2 CO3:
Dạng tinh thể màu trắng có mùi amôniac, hòa tan trong nước khi đốt bị phân hủy theo
phương trình sau:
(NH4)2 CO3 2NH3 + CO2 + H2O
Sau khi phân hủy có tới 82% khí tham gia vào việc làm xốp bánh.
1.2.7. Phẩm màu và axit thực phẩm
Phẩm màu thực phẩm thu được bằng hai phương pháp:
+ Tổng hợp nhân tạo.
+ Lấy từ vật phẩm tự nhiên.
Các loại phẩm màu khác nhau có độ hòa tan và sắc màu khác nhau. Phẩm màu ở nước
ta phần lớn là nhập ở nước ngoài. Phẩm màu ở mỗi nước có tên gọi riêng rất phức tạp. Chúng
ta chỉ tìm hiểu một số phẩm màu chính của Liên Xô để tham khảo. Nói chung tính chất của
các loại phẩm màu không khác nhau nhiều lắm.
1. Phẩm màu thực phẩm tổng hợp:
a. Indigo-oarmin C16H8O8M2S2Na2: Chất màu này ở dạng bột nhão, có màu xanh đen.
Khi hòa tan trong nước có màu xanh, trong môi trường kiềm nó sẽ chuyển sang màu xanh lá
cây.
b. Tartraxin C16H9N4O9H2Na2: Có màu vàng, trọng lượng phân tử là 534,4, dạng tinh
thể màu vàng da cam, hòa tan dễ trong nước và trong rượu, không hòa tan trong mỡ.
c. Riborlavin C17H20N4O6: Có màu da cam, dạng bột tinh thể, không mùi, nhiệt độ
nóng chảy 282oC, khó tan trong nước, hòa tan trong axit.
2. Phẩm màu thực phẩm tự nhiên:
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 101
a. Carotin: Carotin là provitamin C40H56.
Nó không hòa tan trong nước, mà hòa tan trong chất béo, có màu vàng đến màu da cam
đỏ. Loại này có màu bền vững do đó carotin thường dùng trong kẹo có nhiều chất béo.
b. Clorophin (diệp lục tố):
Là sắc tố màu xanh lá cây. Lấy phần này bằng cách cho lá cây hòa tan trong rượu và
đem tinh chế. Diệp lục tố không hòa tan trong nước (ít dùng trong bánh kẹo).
3. Axit thực phẩm: Dùng axit thực phẩm trong sản xuất bánh kẹo để có vị ngon của quả
cây đặc trưng và có khả năng chống hồi đường.
a. Axit citric: Khi dùng axit citric trong sản xuất kẹo cần phải chú ý đến nhiệt độ nóng
chảy của nó, vì sự phân hủy của axit citric phụ thuộc vào nhiệt độ nóng chảy của nó.
Axit citric hòa tan khá trong nước, độ hòa tan tăng theo nhiệt độ. Cứ 1,5-2 phần nước
hòa tan được một phần axit, hoặc dùng một phần nước nóng cũng hòa tan được một lượng
như trên. Tỉ lệ hòa tan của axit trong cồn là 1/1.
Axit citric thường có trong cam, chanh, quýt. Trong chanh có 60-80%, trong cam, quýt
có 70%. Thực tế cho thấy rằng lấy axit citric từ cam, chanh, quýt không kinh tế lắm. Theo
tiêu chuẩn thì axit citric ở dạng tinh thể hoặc dạng bột điều phải có màu trắng hoặc màu vàng
nhạt khi hòa tan trong nước cất phải trong suốt, không mùi. Hàm lượng tro trong axit citric
không quá 0,5.
b. Axit tactric C4H6O6:
Thường gặp nhiều trong quả nho. Khi kết tinh có màu trong suốt. Axit tactric dễ tan
trong nước, ít tan trong cồn. Độ hòa tan tăng theo nhiệt độ.
Khi ở nhiệt độ 70OC thì cứ 100g nước hòa tan được 139,4g axit. Nhiệt độ nóng chảy
của nó là 170OC.
* Tiêu chuẩn kĩ thuật của axit tactric:
+ Màu sắc: Trắng hoặc vàng nhạt.
+ Độ tro: 0,5%.
+ Kim loại nặng: 0,00014%
c. Axit malic:
Công thức hóa học: C4H6O5, axit này lấy từ nguyên liệu thực phẩm hoặc tổng hợp.
Nếu lấy từ nguyên liệu thực phẩm thì nhiệt độ nóng chảy là 100 oC, nếu tổng hợp thì
nhiệt độ nóng chảy là 130-131oC. Axit malic thực phẩm hòa tan khá trong nước, còn loại
tổng hợp thì ít tan trong nước.
d. Axit lactic:
Công thức hóa học: C3H6O3, axit này thường ở dạng nước, là chất hóa học không bền.
Tùy theo điều kiện bảo quản và sử dụng, axit lactit có thể tạo ra anhyđrit dễ dàng. Axit này ít
dùng trong sản xuất bánh kẹo.
1.2.8. Chất thơm và chất nhũ hóa
1. Chất thơm:
Chất thơm dùng trong sản xuất bánh kẹo làm sản phẩm có mùi thơm ngon dễ chịu, hấp
dẫn người tiêu dùng.
Chất thơm gồm: chất thơm thiên nhiên và chất thơm tổng hợp. Chất thơm thiên nhiên là
các loại tinh dầu lấy từ thực phẩm, có tinh dầu được lấy bằng phương pháp trích ly. Các loại
tinh dầu thường dùng trong sản xuất bánh kẹo là tinh dầu cam, quýt, chanh, dứa, dừa, cafê, ca
cao, đồng thời còn dùng một ít tinh dầu hoa hồng.
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 102
Chất thơm để lâu dễ bị biến chất. Nguyên nhân là do hiện tượng oxi hóa. Tốc độ biến
chất nhanh hay chậm là do ảnh hưởng của nước, không khí, ánh sáng, kiềm, axit. Vì vậy, tinh
dầu cần được bảo quản trong các loại bao bì sẫm màu, để nơi tối, không nên để gần lửa vì dễ
sinh ra hiện tượng nổ hoặc cháy. Khi cho vào chai cần đổ đầy chai để tránh tiếp xúc với
không khí gây hiện tượng oxi hóa.
2. Chất nhũ hóa và chất dịch hóa:
Chất nhũ hóa và chất dịch hóa có hai khả năng:
Khi cho chúng vào môi trường (với số lượng không lớn), có trường hợp chúng sẽ làm
giảm độ nhớt của môi trường, có trường hợp chúng có khả năng tạo ra sự nhũ hóa bền vững.
Chất nhũ hóa và chất dịch hóa là hai chất có khả năng hoạt động bề mặt trong khối
socola, chất hoạt động bề mặt, có tác dụng như chất dịch hóa; còn trong dung dịch nhũ hóa
của bánh nó có tác dụng như chất nhũ hóa.
Trong sản xuất bánh kẹo thường dùng photphatit đậm đặc. Photphatit lấy từ hạt có dầu.
Thường dùng trong sản xuất bánh kẹo là photphatit đậu và một lượng không lớn photphatit
hướng dương.
Photphatit ở dạng bột nhão có màu sẫm, chúng chứa lexitin và kephalin. Photphatit đậm
đặc phải đảm bảo các yêu cầu:
+ Độ ẩm: 2% (dùng cho socola).
+ Độ axit: 20% (tính theo axit oleic).
+ Độ tinh khiết: 50% (lượng photphatit).
+ Độ ẩm: 4% (dùng cho bánh kẹo khác).
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 103
Sirô caramen
Lọc
Xả khối kẹo
(hoặc) (hoặc)
Cán Làm lạnh Quật kẹo
(hoặc)
Làm nguội
Đóng bao
Tiêu thụ
3.3.7. Sự thay đổi tính háo nước của kẹo khi bảo quản
Kẹo cứng có nhiều tính chất khác hẳn đường như tính háo nước hơn. Ở độ ẩm của
không khí 60-65% và nhiệt độ 18-22oC nó đã hút ẩm. Quá trình hút ẩm của kẹo có thể gồm
các giai đoạn sau:
a. Bề mặt kẹo hấp thụ hơi nước.
b. Một phần khối kẹo hòa tan trong hơi nước do nó hấp thụ vào và tạo ra trên bề mặt
một lớp dung dịch bảo hòa.
c. Đường bị kết tinh, khối kẹo chuyển từ trạng thái phi tinh về trạng thái tinh thể.
Tính háo nước là khả năng hấp thụ ẩm của một vật thể nào đấy. Bất kỳ một chất rắn
nào (có chứa ít hơi ẩm) đặt trong môi trường ẩm đều có một lớp dung dịch nước bảo hòa trên
bề mặt. Khối kẹo cứng thường có độ ẩm từ 1-3%. Với độ ẩm này khó tạo ra một lớp mỏng
dung dịch bao lấy bề mặt khối kẹo. Tuy nhiên trong giai đoạn bảo quản đầu tiên, trên bề mặt
khối kẹo có các trường lực tự do, các phần tử hơi nước trong không khí liên kết với các phần
tử trên bề mặt của vật rắn có trường lực tự do đó. Kết quả là một phần các phân tử hơi nước
gắn chặt trên bề mặt của kẹo tạo ra lớp hấp thụ, do đó một phần khối kẹo bị hòa tan trong lớp
nước hấp thụ, kết quả trên bề mặt khối kẹo hình thành một lớp mỏng dung dịch bảo hòa có áp
suất xác định. Dung dịch này có áp suất hơi luôn luôn bé hơn áp suất hơi nước bảo hòa. Nếu
áp suất hơi của dung dịch bé hơn áp suất hơi của không khí xung quanh thì khối kẹo tiếp tục
hút ẩm của không khí đến khi đạt cân bằng ẩm.
Nếu áp suất hơi của lớp dung dịch kẹo lớn hơn áp suất hơi của không khí xung quanh
thì kẹo sẽ nhả hơi ẩm.
Nếu áp suất của dung dịch kẹo bằng áp suất hơi của không khí xung quanh thì kẹo sẽ ở
trạng thái cân bằng ẩm, như vậy kẹo sẽ không hút ẩm mà cũng không nhả ẩm.
3.3.8. Những yếu tố ảnh hưởng đến tính háo nước của kẹo
Khả năng hút ẩm của kẹo phụ thuộc hàng loạt yếu tố, trong đó có những yếu tố quan
trọng như: độ ẩm tương đối và nhiệt độ của không khí, trạng thái yên và chuyển động của
không khí, tính chất lý học và thành phần hóa học, độ ẩm của kẹo.
3 2
2
1
1
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Đuờng cong 1: Biểu diễn tính háo nước của kẹo dùng mật có Rs = 27%.
Đường cong 2: Biẻu diễn tính háo nưóc của kẹo dùng mật có Rs = 38%.
Dùng mật tinh bột có hàm lượng glucoza cao thì kẹo có khả năng hút nước cao hơn, vì
glucoza ở trong mật cũng như ở trong dung dịch khác thường có hai dạng và . Dạng
glucoza có tính háo nước cao.
Kẹo dùng mật có hàm lượng maltoza cao (chẳng hạn 50%) thì tính háo nước của nó bé
hơn loại kẹo dùng mật bình thường, đồng thời kẹo làm ra trong hơn và chịu tác dụng cơ học
tốt hơn.
Độ axit của mật cũng có ảnh hưởng đến tính háo nước của kẹo. Khi tăng độ axit thì
lượng hơi ẩm hấp thụ trong quá trình bảo quản kẹo tăng (vì trong quá trình sản xuất kẹo, một
lượng đường bị chuyển hóa tạo ra hydroxymetylfufuron và chất màu kết tủa, những sản phẩm
này làm tăng màu sắc cũng như tính háo nước của kẹo).
Công nghệ sản xuất bánh - kẹo 132
Độ ẩm của kẹo có ảnh hưởng đến độ bền chống ẩm của kẹo. Độ ẩm của kẹo càng thấp
thì kẹo hấp thụ hơi ẩm của không khí xung quanh càng chậm, có nghĩa là nó càng bền khi
bảo quản.
Hợp chất có trong đường kính và mật dùng trong sản xuất kẹo có thể ảnh hưởng đến
sự chuyển hóa đường và thay đổi màu sắc của kẹo. Tinh chế đường thường còn lại một màng
dung dịch bao quanh, những hợp chất này có thể là gốc clorua, sunfat, photphat, dấu vết sắt,
đồng và hợp chất nitơ. Cation và anion đền có ảnh hưởng đến độ bền của kẹo, trong đó cation
ảnh hưởng nhiều hơn. Nếu kẹo làm từ mật hàm lượng maltoza cao, khi đã tách được Cu2+ và
Mg2+ trong mật thì kẹo làm ra sẽ trong hơn và ít háo nước hơn khi dùng mật bình thường.
3.3.8.3. Các biện pháp tăng độ bền của kẹo cứng
a. Đường và mật là những nguyên liệu chính có môi trường gần trung tính. Hàm lượng
đường khử trong mật 30-34%, glucoza 12-13%.
b. Thời gian tác dụng của nhiệt độ lên khối kẹo không được quá lâu, muốn vậy phải
tạo ra dung dịch kẹo có nồng độ cao.
c. Không nên giữ khối kẹo trên các công đoạn để nâng cao phẩm chất quá lâu.
---------------- ----------------