You are on page 1of 127

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC


Ngành đào tạo: Cử nhân - Kỹ sư
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG
HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1. Thông tin về học phần


Học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc khối kiến thức lý luận chính trị, bắt buộc
sinh viên tất cả các ngành phải được trang bị theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Học phần có 8 chương, cung cấp cho sinh viên những hiểu biết cơ bản hệ thống lý luận
quan điểm, toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam.
- Tên môn học (tiếng Việt): Tư tưởng Hồ Chí Minh
(tiếng Anh): Ho Chi Minh Thought
- Mã số môn học: ML20049
- Thuộc khối kiến thức/kỹ năng:
Kiến thức cơ bản Kiến thức cơ sở ngành
Kiến thức chuyên ngành Kiến thức khác
Môn học chuyên về kỹ năng chung Môn học đồ án tốt nghiệp
- Số tín chỉ: 02
+ Số tiết lý thuyết: 20
+ Số tiết thảo luận/bài tập: 10
+ Số tiết thực hành:
+ Số tiết hoạt động nhóm:
+ Số tiết tự học: 60
- Môn học tiên quyết: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
- Môn học song hành:
2. Cấu trúc học phần
Học phần được cấu trúc thành 2 tín chỉ gồm:
- Giảng lý thuyết: 20 tiết
- Thảo luận: 10 tiết
- Tự học: 60 tiết

Thảo
thuyết Tự
TT Tên tín chỉ Nội dung tín chỉ luận
(Số học
(Số tiết)
tiết)
Tín chỉ 1: Chương mở đầu: Đối tượng, phương
pháp nghiên cứu và ý nghĩa học tập 1 0 2
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chương 1: Cơ sở, quá trình hình
thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí 3 1 8
Minh
1 Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và cách mạng giải 3 1 10
phóng dân tộc
Chương 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ 3 2 10
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Cộng 10 04 30
Tín chỉ 2: Chương 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh
2 1 6
về Đảng Cộng sản Việt Nam
Chương 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết 2 1 6
quốc tế
2
Chương 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nhà nước của dân, do 2 2 9
dân, vì dân
Chương 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa, đạo đức và xây dựng con 4 2 9
người mới
Cộng 10 06 30
Tổng cộng 20 10 60
LỜI NÓI ĐẦU

Trên cơ sở giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã khảo sát,
nghiên cứu, tiếp biến, tổng hòa và phát triển biện chứng tinh hoa văn hóa của phương
Đông và cuộc cách mạng ở các nước phương Tây thế kỷ XVII. XVIII, đặc biệt là thế giới
quan, phương pháp duy vật biện chứng của học thuyết Mác - Lênin và kinh nghiệm của
cuộc cách mạng vô sản trên thế giới thế kỷ XX để xây dựng một hệ thống quan điểm toàn
diện và sáng tạo về tư tưởng giải phóng và phát triển dân tộc, trong đó cốt lõi là tư tưởng
độc lập tự do làm kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì nhu cầu
phát triển của đất nước theo xu thế tiến bộ của thời đại mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Hệ thống quan điểm cách mạng của Hồ Chí Minh là cơ sở nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam và của mỗi người trong cuộc đấu tranh
giải phóng và phát triển đất nước thời đại mới.
Một trong những bài học quan trọng nhất mà Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt
Nam rút ra từ quá trình đổi mới là “kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh”1. Văn kiện Đại hội IX và các kỳ Đại hội tiếp theo của Đảng tiếp tục nhấn mạnh:
“Chúng ta một lần nữa khẳng định: Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh”. Quan điểm đó của Đảng không chỉ khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là một
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua, trong đó có
hơn 30 năm đổi mới mà còn chứng tỏ rằng, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, tư tưởng Hồ Chí Minh càng trở nên quan trọng, cần thiết hơn bao
giờ hết. Trong hành trang của mỗi người Việt Nam thời đại mới không thể thiếu tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nói một cách khác học tập, quán triệt, vận dụng sáng tạo và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh vẫn là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp
đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị
Quốc gia, là 1996, tr.70.
Chương mở đầu
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA
HỌC TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

I. GIỚI THIỆU
Trong chương mở đầu này, trình bày khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh; đối
tượng nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của môn học; mối quan hệ của môn học với môn
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và môn học Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam; cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể
và ý nghĩa của việc học tập môn học đối với sinh viên.
II. MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG:
Làm cho người học nhận biết và hiểu được kiến thức cơ bản về đối tượng, phương
pháp nghiên cứu và ý nghĩa học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó, làm cho sinh
viên nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam và của mỗi người.
III. CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
Mô tả CĐR Mức độ
Sau khi học xong chương này, người học có thể: giảng dạy
(I, T, U)
Nhận biết và hiểu được kiến thức cơ bản về khái niệm,
I,T
G1 G1.1 đối tượng, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa học tập
học phần tư tưởng Hồ Chí Minh
Có kỹ năng trình bày, phân tích một cách khoa học về
G2 G2.1 khái niệm, đối tượng, phương pháp nghiên cứu và ý I,T
nghĩa học tập học phần tư tưởng Hồ Chí Minh

IV. NỘI DUNG

ĐỀ CƯƠNG CÁC MỤC CHÍNH CỦA CHƯƠNG MỞ ĐẦU


I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh
2. Đối tượng và nhiệm vụ của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh
3. Mối quan hệ với môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và
môn học Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (tự học)
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (tự học)
1. Cơ sở phương pháp luận (tự học)
2. Các phương pháp cụ thể (tự học)
III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp công tác
2. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính trị

NỘI DUNG CHƯƠNG MỞ ĐẦU

I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU


1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Khái niệm tư tưởng
Theo nghĩa rộng nhất, tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện
quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh.
- Tuy nhiên, tư tưởng ở đây là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận
điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học (thế giới quan và phương pháp luận) nhất
quán đại diện cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc được hình thành trên
cơ sở nhất định để cải tạo thực tiễn, cải tạo hiện thực.
b) Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta nhận thức qua các kỳ Đại hội (xem
văn Kiện Đại hội Đảng VII, 1991, tr.127; Đại hội Đảng IX, tr. 83-84...).
Từ quan điểm của Đảng, các nhà khoa học rút ra định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí
Minh như sau:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến
cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân
tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người”2.
Hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh được tiếp cận trên hai phương diện:
2
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biện soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh , Nxb CTQG, HN, 2003, tr.19.
Thứ nhất là, tư tưởng Hồ Chí Minh được xem là một hệ thống tri thức tổng hợp, bao
gồm: tư tưởng triết học, tư tưởng kinh tế, tư tưởng chính trị, tư tưởng quân sự, tư tưởng
văn hoá, đạo đức và nhân văn.
Thứ hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm về cách mạng Việt
Nam, bao gồm: tư tưởng về vấn đề dân tộc và vấn đề giải phóng dân tộc, về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về Đảng cộng sản Việt Nam; về đại đoàn kết
dân tộc và đoàn kết quốc tế, về dân chủ, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, về văn hoá,
đạo đức,…
2. Đối tượng và nhiệm vụ của môn học tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Đối tượng nghiên cứu
Là hệ thống các quan điểm, quan niệm, lý luận về cách mạng Việt Nam trong dòng
chảy của thời đại (mà cốt lõi là tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội), được thể hiện qua các bài viết, bài nói, quá trình chỉ đạo thực tiễn cách mạng của Hồ
Chí Minh, được Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo qua các giai đoạn cách
mạng.
b) Nhiệm vụ nghiên cứu
- Cơ sở (khách quan và chủ quan) hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Các giai đoạn hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nội dung, bản chất cách mạng, khoa học, đặc điểm của các quan điểm trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với cách mạng Việt Nam.
- Quá trình nhận thức, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh qua các giai đoạn
cách mạng của Đảng và nhà nước ta.
- các giá trị tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh đối với kho tàng tư tưởng, lý luận
cách mạng thế giới.
3. Mối quan hệ của môn tư tưởng Hồ Chí Minh với môn Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản
Việt Nam
a) Mối quan hệ của môn tư tưởng Hồ Chí Minh với môn Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
- Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, nguồn gốc tư
tưởng, lý luận trực tiếp quyết định bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Hồ Chí Minh là người trung thành vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
cách mạng Việt Nam… Muốn học tốt môn tư tưởng Hồ Chí Minh phải có kiến thức cơ
bản về môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.

b) Mối quan hệ của môn tư tưởng Hồ Chí Minh với Đường lối cách mạng của
Đảng cộng sản Việt Nam
Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên, người sáng lập, giáo dục, rèn
luyện và là lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận
tư tưởng của Đảng, với tư cách là nền tảng, kim chỉ nam, là cơ sở khoa học để xây dựng
đường lối chiến lược, sách lược cách mạng.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở phương pháp luận
a) Bảo đảm sự thống nhất nguyên tắc tính Đảng và tính khoa học
- Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải dựa trên quan điểm, phương pháp luận
chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, bảo đảm
tính Đảng và tính khoa học, tránh cường điệu hoá, áp đặt, phản ánh khách quan, trung
thực tư tưởng Hồ Chí Minh
b) Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn
- Thực tiễn là nguồn gốc là động lực của nhận thức, là cơ sở và tiêu chuẩn của chân
lý.
- Tuy nhiên, Hồ Chí Minh khẳng định: “thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng, dễ mắc bệnh chủ quan; lý luận mà không liên hệ với thực tiễn
là lý luận suông”.
Vì vậy, suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn gắn bó chặt chẽ giữa
lý luận và thực tiễn, nói đi đôi với làm…
c) Quan điểm lịch sử cụ thể
- Cùng với quan điểm duy vật biện chứng, vận dụng quan điểm duy vật lịch sử vào
việc nghiên cứu, học tập môn học tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong thời gian và không gian cụ thể.
d) Quan điểm toàn diện và hệ thống
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về cách mạng
Việt Nam, vì vậy nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh không được tách rời yếu tố nào.
Chẳng hạn như: không thể tách rời độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng
của Người.
e) Quan điểm kế thừa và phát triển
Từ chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể
của cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu, học tập tư tưởng của Hồ Chí Minh phải biết phát
triển sáng tạo tư tưởng của trong điều kiện mới của đất nước và thế giới.
g) Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí
Minh
Hồ Chí Minh đã để lại nhiều bài viết, bài nói, nhưng nghiên cứu tư tưởng của Người
cần phải gắn liền với thực tiễn cách mạng dưới sự lãnh, chỉ đại của Đảng mới tránh được
sự rập khuôn, giáo điều.
2. Các phương pháp cụ thể
- Phương pháp là cách thức chủ thể đạt tới mục đích
- Phương pháp là một hệ thống các nguyên tắc chỉ đạo nhận thức và cải tạo thực tiễn
(xuất phát từ quy luật vận động của thực tiễn).
- Phương pháp phải gắn liền với đối tượng nghiên cứu, đối tượng nào thì phương
pháp ấy. Trong rất nhiều phương pháp thì phương pháp lịch sử và lôgíc là quan trọng
nhất đối với việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngoài ra cần phải vận dụng phương pháp liên ngành để nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh, vì bản thân tư tương Hồ Chí Minh là một hệ thống bao quát nhiều lĩnh vực như: tư
tưởng triết học, tư tưởng kinh tế, tư tưởng chính trị, tư tưởng quân sự, tư tưởng văn hoá,
tư tưởng đạo đức,…
- Trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, hiện nay các phương pháp cụ thể được
áp dụng có hiệu quả là: phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu, điều tra điền dã, phỏng
vấn nhân chứng chứng lịch sử,…
Tuỳ vào từng nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh mà có thể vận dụng một trong các
phương pháp nói trên.
III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN
Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thời kỳ CNH,
HĐH, hội nhập quốc tế.
1. Nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp công tác
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên con đường
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Làm cho sinh viên hiểu được vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách
mạng Việt Nam.
- Làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của
thế hệ trẻ Việt Nam.
- Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là
kim chỉ nam cho mọi hành động của dân tộc Việt Nam. Là vũ khí lý luận sắc bén để
chống lại mọi luận điệu sai trái của kẻ thù.

2. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính trị
- Tư tưởng Hồ Chí Minh giáo dục đạo đức, tư cách, phảm chất cách mạng cho cán bộ,
đảng viên và toàn dân sống hợp đạo lý, yêu cái tốt, cái thiện, ghét cái ác, cái xấu.
- Làm cho sinh viên tự hào về Hồ Chí Minh, về Đảng cộng sản, về Tổ quốc Việt
Nam.
- Trên cơ sở những kiến thức được học, sinh viên vận dụng vào cuộc sống, rèn
luyện, phấn đấu, tu dưỡng đạo đức, nhân cách góp phần xây dựng đất nước Việt Nam
“giàu và đẹp.
V. TÓM TẮT NỘI DUNG CHƯƠNG MỞ ĐẦU
Chương mở đầu trình bày về đối tượng, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa học tập
môn tư tưởng Hồ Chí Minh, gồm có các nội dung chính:
1. Đối tượng nghiên cứu
Trong phần này trình bày các nội dung: Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí
Minh; đối tượng và nhiệm vụ của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh; mối quan hệ với môn
học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và môn học Đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các vấn đề được nhấn mạnh trong khái niệm tư tưởng Hồ
Chí Minh là bản chất cách mạng và khoa học, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh; nguồn
gốc tư tưởng - lý luận và giá trị, ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Phương pháp nghiên cứu
Trong phần này đề cập đến cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
cụ thể của môn học. Nhấn mạnh việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn học phải trên
cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và bản thân
các quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh. Trong đó các phương pháp
luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin cần phải được sử dụng như một công cụ tư duy
quan trọng. Đó là các phương pháp: Đảm bảo sự thống nhất giữa nguyên tắc tính đảng và
tính khoa học; quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn; quan
điểm lịch sử - cụ thể; quan điểm kế thừa và phát triển....Ngoài ra còn sử dụng các phương
pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê...
3. Ý nghĩa của việc học tập môn học đối với sinh viên
Trong phần này, nội dung quan trọng là làm cho sinh viên hiểu được giá trị, ý nghĩa
của việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, nhấn mạnh việc học tập,
nghiên cứu sẽ giúp sinh viên nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp công tác.
Đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính
trị. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thời kì nước ta đẩy mạnh công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế.
VI. HƯỚNG DẪN SINH VIÊN TỰ HỌC:
Phần tự học chương mở đầu Hướng dẫn:
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU - Sinh viên tự nghiên cứu giáo
3. Mối quan hệ giữa môn Tư tưởng Hồ Chí Minh trình 1 từ trang 15- 16; tr.17-23
với môn học Những nguyên lý cơ bản của Chủ - Tóm tắt nội dung chính
nghĩa Mác - Lênin và môn Đường lối cách mạng - Ghi chú những nội dung và
của Đảng cộng sản Việt Nam vấn đề chưa rõ, băn khoăn cần
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (tự học) thảo luận với giảng viên và các
1. Cơ sở phương pháp luận (tự học) bạn.
2. Các phương pháp cụ thể (tự học)

VII. GIÁO TRÌNH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO


Giáo trình:
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dùng cho sinh viên đại
học cao đẳng khối không chuyên ngành Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh) NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2016, Tr.9-24
Tài liệu tham khảo:
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập (15tập) NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà nội - 2011 (Hồ
Chí Minh toàn tập, đĩa CDROM 15 tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2015.
[2]. http://hochiminh.vn
[3]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội - 2003.
Chương 1

CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

I. GIỚI THIỆU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận thiên tài của cách mạng
Việt Nam. Trên cơ sở kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
tinh hoa văn hóa nhân loại, Người đã nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học,
tinh thần biện chứng và nhân đạo của chủ nghĩa Mác - Lê nin, vận dụng một cách sáng
tạo vào hoàn cảnh thực tế, giải quyết thành công những vấn đề thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Trong chương 1, trình bày các nội dung cơ bản: Cơ sở hình thành và quá trình phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm cơ sở khách quan, nhân tố chủ quan hình; các thời kỳ
hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh: thời kỳ trước 1911; thời kỳ 1911-1920; thời
kỳ 1921-1930; thời kỳ 1930-1945; thời kỳ 1945-1969; giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh.
II. MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG:
Làm cho sinh viên nhận biết và hiểu được các nhân tố khách quan và chủ quan góp
phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và các thời kỳ hình thành và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh. Qua đó, bồi dưỡng cho sinh viên lập trường, quan điểm cách mạng, nhân văn và
niềm tin về cơ sở và quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
III. CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
Mô tả CĐR Mức độ
Sau khi học xong chương này, người học có thể: giảng dạy
(I, T, U)
Nhận biết và hiểu được cơ sở, quá trình hình thành và
G1 G1.1 I,T
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Có kỹ năng trình bày, phân tích và khái quát một cách
G2 G2.2 khoa học nội dung các quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ I,T
sở, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
G3 G3.1 Rèn luyện được kỹ năng làm việc nhóm thông qua việc T,U
G3.2 thảo luận các nội dung của chương để phát triển tư duy
G3.3 phản biện, khả năng lập luận về các tiền đề tư tưởng - lý
G3.4 luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và quá trình hình
G3.5 thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
IV. NỘI DUNG
ĐỀ CƯƠNG CÁC MỤC CHÍNH CỦA CHƯƠNG 1
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Cơ sở khách quan
2. Nhân tố chủ quan (tự học)
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH
1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước
2. Thời kỳ 1911-1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
3. Thời kỳ 1921-1930: Hình thành tư tưởng cơ bản về cách mạng Việt Nam
4. Thời kỳ 1930-1945: Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường cách mạng
(tự học)
5. Thời kỳ 1945-1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện (tự
học)
III. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển thế giới

NỘI DUNG CHƯƠNG 1

I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


1. Cơ sở khách quan
a) Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
- Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Hồ Chí Minh ra đời trong bối cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến động
Trong nước:
- Triều đình nhà Nguyễn thối nát, từng bước khuất phục trước sự xâm lược của thực
dân Pháp, đã ký kết nhiều hiệp ước, chấp thuận để Pháp bảo hộ cho Việt Nam.
- Nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang diễn ra nhưng đều thất bại, hệ tư tưởng phong kiến
đã lạc hậu, không đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng.
- Sự khai thác thuộc địa của thực dân pháp đã làm cho xã hội Việt Nam bị phân hoá
thành nhiều giai, tầng khác nhau (Công nhân, tiểu tư sản, tư sản).
- Nhiều luồng tư tưởng qua con đường “Tân thư” “Tân văn” của Nhật Bản và Trung
Quốc tràn vào Việt Nam làm cho cách mạng có khuynh hướng dân chủ tư sản.
Tiêu biểu có Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám. (PBC thì cầu
ngoại viện, đấu tranh bạo lực để giành độc lập; PCT thì “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, thương
lượng với Pháp, HHT thì mang nặng cốt cách phong kiến, nên chủ trưởng không rõ
ràng….). Tất cả đều không thành công.
Từ thực tễ nói trên, đòi hỏi phải có một con đường mới cho cách mạng Việt Nam.
Quốc tế:
Trong khi Việt Nam còn rối ren về đường hướng cách mạng, thì thế giới đã có
những chuyển biến lớn.
- CNTB từ tự do cạnh tranh đã chuyển sang CNTB độc quyền và đã xác lập vị trí
của nó trên toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc
thuộc địa trên thế giới.
- Các nước nhược tiểu ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh đã xuất hiện nhiều giai
cấp, tầng lớp khác nhau, trong đó có 2 giai cấp phân tuyến rõ ràng là công nhân và tư sản
(đây là hệ quả của việc khai thác thuộc địa của thực dân).
- Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, giai cấp công nhân thế giới đấu tranh mạnh mẽ
và giành nhiều thắng lợi. Đỉnh cao là cách mạng tháng 10 Nga.
- Từ thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga đã “thức tỉnh các dân tộc châu Á”, mở
ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại, Quốc tế cộng sản ra đời, liên bang cộng
hoà Xôviết được thành lập (1922), phong trào công nhân Á – Âu liên kết chặt chẽ với
nhau.
b) Những tiền đề lý luận:
- Giá trị truyền thống dân tộc
Truyền thống dựng nước và giữ nước lâu đời của dân tộc Việt Nam đã trở thành tiền
đề tư tưởng, lý luận cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là truyền thống bất
khuất, tự lực, tự cường,…….
+ Trong những giá trị truyền thống, chủ nghĩa yêu nước là nền tảng tư tưởng chủ
đạo cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là chuẩn mực đạo đức cơ bản của
người Việt Nam. Chính chủ nghĩa yêu nước đã thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm
đường cứu nước.
Hồ Chí Minh nói: “dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại
sôi nổi, nó kết thành làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó
khăn, nó nhất chìm tất cả lũ bán nước và hại nước” (tập 6, triết học.171).
- Tinh hoa văn hoá nhân loại
+ Kết các giá trị Đông - Tây là nét độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đối với văn hoá phương Đông: Ngoài sự uyên bác về Hán học, Hồ Chí Minh đã
chắt lọc những tinh tuý của triết học của Khổng Tử, Mạnh tử, Lão Tư,… đặc biệt là tư
tưởng triết học của Khổng tử (tư tưởng Nho giáo). Đó là các triết lý hành động, tư tưởng
nhập thế, hành đạo, giúp đời, đó là ước vọng của một xã hội bình trị, hoà mục, hoà đồng,
là triết lý nhân sinh; tu thân, dưỡng tính, đề cao văn hoá lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu
học.
Bên cạnh tinh hoa Trung Quốc, Hồ Chí Minh còn tiếp thu những tinh hoa quý báu
của Phật giáo. Đó là tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể
thương thân,…là nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo việc thiện, găn việc
đời với việc đạo….
Hồ Chí Minh còn tìm hiểu tư tưởng của Tôn Trung Sơn (khi đã trở thành người
mácxít) vì “vì nó thích hợp điều kiện Việt Nam”.
Đối với phương Tây: Hồ Chí Minh nghiên cứu và chịu ảnh hưởng của văn hoá dân
chủ và cách mạng. Đó là những giá trị tư tưởng trong tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của cách mạng Pháp; Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (về quyền sống, quyền tự
do, quyền mưu cầu hạnh phúc,..).
- Chủ nghĩa Mác - Lênin
+ Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng
Hồ Chí Minh.
+ CN Mác – Lênin phù hợp và đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp
ủ từ lâu, nay trở thành hiện thực. Hồ Chí Minh viết: “lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu
nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ
ba” (tập 10, tr.128).
+ Từ nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đã tiến tới nhận thức “lý
tính”, trở lại nghiên cứu sâu sắc hơn, để rồi tiếp thu có chắt lọc học thuyết của các ông.
+ Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện lịch sử
cách mạng Việt Nam, không hề rập khuôn máy móc. Hồ Chí Minh chỉ nắm cái hồn, cái
bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin chứ không đi tìm các kết luận sẵn có trong sách vỡ
của các ông.
Hồ Chí Minh viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Hồ Chí Minh cũng thừa
nhận: “trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận, vừa nghiên cứu Mác – Lênin, vừa
làm công tác thực tế, dần tôi hiểu được rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế
giới”.
2. Nhân tố chủ quan (tự học)
- Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh
+ Những tháng năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã không ngừng
quan sát, nhận xét thực tiễn, làm phong phú thêm nhận thức của mình.
+ Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh khám phá các qui luật vận
động xã hội, đời sống văn hoá của các dân tộc để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ
đạo hoạt động thực tiễn.
- Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn
+ Phẩm chất đạo đức, tài năng được biểu hiện trước hết ở tư duy độc lập, tự chủ,
sáng tạo, đầu óc phê phán, đánh giá đúng bản chất sự vật, sự việc xung quanh.
+ Phẩm chất đạo đức đó còn thể hiện ở bản lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân dân,
khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới,…
+ Phẩm chất đạo đức còn thể hiện ở sự khổ công học tập để chiếm lĩnh đỉnh cao tri
thức của nhân loại.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là tổng hoà của những điều kiện khách quan và chủ
quan của truyền thống dân tộc và tinh hoá nhân loại.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH
1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu
nước.
- Hồ Chí Minh (19/5/1890) sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước… ảnh
hưởng sâu sắc đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Tất Thành từ nhỏ đã tận mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức
đến cùng cực của nhân dân. Đến khi vào Huế học, Người thật sự đau xót khi thấy cảnh
thực dân Pháp đô hộ, thống trị nhân dân, trong khi đó triều đình nhà Nguyễn thì ươn hèn.
- Hồ Chí Minh nhận thấy, những phong trào yêu nước, phương páp cách mạng mà
các phong trào ấy sử dụng là không phù hợp - không thể nhờ vào ngoại bang để giải
phóng dân tộc, vì ngay cả những nước chính quốc, nhân dân cũng bị bóc lột.
- Từ thực tế đất nước, Hồ Chí Minh tự nhủ phải đi tìm hiểu cặn kẽ bản chất của
những từ: tự do, bình đẳng, bác ái.
2. Thời kỳ từ năm 1911 - 1920: Tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc
Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh bôn ba khắp các châu lục để tìm hiểu các cuộc cách
mạng trên thế giới.
Là thời kỳ chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản, từ giác ngộ
dân tộc đến giác ngộ giai cấp.
- Tại Pháp, Nguyến Ái Quốc tham gia nhiệt thành để ủng hộ cách mạng tháng Mười
Nga.
- Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tới hội nghị Vécxây “Bản yêu sách” gồm 8 điểm đòi
một số quyền dân chủ tối thiểu cho Việt Nam. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc đã chính thức
tham gia vào Đảng Xã hội Pháp.
- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với Luận cương của Lênin về vấn
đề dân tộc và thuộc địa.
- Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc thẳng thắng ủng hộ quốc tế III do Lênin sáng lập.
Đây là hành động chủ yếu đánh dấu bước ngạơt trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Từ 1921-1930: thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt
Nam
- Tích cực hoạt động trong ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng xã hội Pháp, xuất
bản tờ Le Paria (người cùng khổ) nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
(từ 1921-1923).
- Năm 1923 -1924 sang Liên Xô, dự Đại hội Quốc tế Nông dân và được bầu vào
đoàn chủ tịch Đại hội, dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V và Đại hội các đoàn thể
quần chúng khác: Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ, Quốc tế Công hội đỏ
- Cuối 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu - Trung Quốc tổ chức ra Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, tổ chức và chỉ đạo xuất bản báo Thanh niên, mở các lớp huấn luyện chính trị,
đào tạo cán bộ (Trường quân sự Hoàng Phố và trường Đại học Phương Động) đưa họ về nước
hoạt động.
- Nguyễn Ái Quốc chủ trì xuất bản hai tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp
(1925) và Đường kách mệnh (1927).
- Tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông” trong đó có Chi
hội Việt Nam.
- Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
trong nước, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra các văn kiện Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt.
+ Nguyễn Ái Quốc khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể nổ ra
và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc góp phần thúc đẩy cách mạng vô
sản ở chính quốc.
+ Cách mạng muốn thành công phải có đảng lãnh đạo. Đảng đó phải theo chủ nghĩa
Mác - Lênin, đồng thời phải có một đội ngũ cán bộ sẵn sàng hy sinh chiến đấu vì lý
tưởng của Đảng.
- Nguyễn Ái Quốc xuất bản tờ báo Le Paria (người cùng khổ), xuất bản báo Thanh
niên để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
- Mở các lớp huyến luyện, đào tạo cán bộ, gửi cán bộ sang đào tạo tại trường Quân
sự Hoàng Phố, trường Đại học Phương Đông.
- Tiến hành phong trào “Vô sản hóa” (1927 - 1928).
- Hợp nhất ba tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. 1930-1945: Giai đoạn vượt thử thách, kiên trì giữ vững quan điểm, nêu cao
tư tưởng độc lập, tự do và quyền dân tộc cơ bản
- Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra là dân tộc hữu khuynh bị Quốc tế Cộng sản đã chỉ trích là
có đường lối hữu khuynh (do họ không hiểu tình hình Đông Dương).
- Hội nghị TW 10/1930 Đảng, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đã ra quyết nghị phủ
quyết Chánh cương và Sách lược vắn tắt, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng
sản Đông Dương.
- Năm 1936, chủ nghĩa phát xít có nguy cơ phát triển lan rộng Đảng ta khẳng định:
“Đảng ta học tập kinh nghiệm của Quốc tế Cộng sản, kinh nghiệm của các cuộc vận
động cộng sản thế giới, chứ “không phải đem kinh nghiệm của xứ này sang xứ khác một
cách như máy”3.
5. 1945-1969: Giai đoạn phát triển mới của tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng
chiến và kiến quốc
Từ 1945 - 1954:
- Tiến hành đường lối chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào
sức mình là chính, vừa kháng chiến vừa kiến quốc”.
- Đỉnh cao của sự kết hợp truyền thống nhân đạo, yêu chuộng hoà bình của dân tộc
Việt Nam với tinh thần nhân đạo cao cả vì con người trong tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa
học.

3
Đảng Cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đảng toàn tập- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia- Hà Nội 2000- Tập 6- Trang
158.
- Sáng tạo và quyết tâm trong việc sử dụng bạo lực cách mạng để bảo vệ thành quả
của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Từ 1954 - 1969:
- Kết hợp hữu cơ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được phát triển lên một
tầm cao mới.
+ Lãnh đạo nhân đân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ cách mạng (cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc).
III. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc
a) Tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại, nó trường tồn, bất
diệt, là tài sản vô giá của dân tộc ta. (vì: Hồ Chí Minh kế thừa tinh hoà văn hoá Đông –
Tây, CN Mác - Lênin…..).
- Tính sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ: trung thành với
các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, mạnh dạn loại bỏ những yếu tố không phù hợp
với điều kiện cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh căn dặn: “lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng
tạo; lý luận luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong hoạt động
thực tiễn sinh động”.
- Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề xoay quanh việc giải
phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của dân tộc.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Ngay nay tư tưởng đó được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực.
b) Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
- Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân tư tưởng Hồ Chí Minh đi
đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Hơn nửa thế kỷ qua, tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đế thắng lợi khác……
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là nề tảng để Đảng ta hoạch định chủ trưởng, đường lối
chiến lược và sách lược phát triển đất nước.
- Trong bối hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận chân được các vấn
đề lơn liên quan đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi cùng dân tộc và thời đại, nó đã thấm sâu vào
trong lòng quần chúng nhân dân.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của thế giới
a) Phản ánh khát vọng thời đại
Mác: “mỗi thời đại xã hội đều cần có những con người vĩ đại của nó, nếu nó không
tìm ra những người như thế,… nó sẽ nặn ra nó”.
Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ của nhân dân Việt Nam mà còn là
của thời đại, của nhân loại tiến bộ.
- Những năm 20 của thế kỷ 19, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, phải giành độc lập dân
tộc, sau đó tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó không chỉ là vấn đề của nhân dân
Việt Nam mà còn là của nhân dân thuộc địa trên toàn thế giới.
- Hồ Chí Minh chỉ rõ, cách mạng thuộc địa có quan hệ mật thiết với cách mạng ở
chính quốc. Cách mạng ở thuộc địa phải tự thân vận động là chính.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách vấn đề chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã
hội , vấn đề hoà bình, hợp tác hữu nghị,.. giữa các dân tộc trên thế đã và đang có ý nghĩa
rất lớn về mặt lý luận và thực tiễn.

b) Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người
- Đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh là việc xác định con đường cứu nước đúng đắn
cho dân tộc, điều đó đã thức tỉnh hàng trăm triệu người bị áp bức ở các nước thuộc địa.
- Hồ Chí Minh đã xác định chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù lớn nhất của các dân tộc
thuộc địa, bị áp bức, và để chiến thắng đế quốc cần phải “đại đoàn kết”, “đại hoà hợp”.
- Hồ Chí Minh đã nắm rõ tính thần của thời đại và gắn bó mật thiết giữa cách mạng
Việt Nam với cách mạng thế giới.
Từ xu thế phát triển của thời đại, Hồ Chí Minh vạch ra đường lối cho cách mạng
Việt Nam. Từ kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã góp sức vào việc
giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới.
c) Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì mục tiêu cao cả
- Chí Minh là anh hùng dân tộc, người thầy thiên tài của cách mạng Việt Nam, một
nhà mácxít-Lêninnít lỗi lạc, nhà hoạt động xuất sắc của phong trào cộng sản quốc tế. Hồ
Chí Minh đã làm sống dậy tinh dân tộc Việt Nam. Bằng tư tưởng của Người, cách mạn
Việt Nam bách chiến, bách thắng, vượt qua mọi thác ghềnh, mọi trông giai trên bước
đường tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
- Đối với nhân dân thế giới Hồ Chí Minh là bất diệt, là “lãnh tụ của thế giới thứ ba”.
Cuộc chiến đấu của Người là kim chỉ nam cho các dân tộc, cho thanh niên, lãnh đạo các
nước tiến bộ trên thế giới.
V. TÓM TẮT NỘI DUNG CHƯƠNG 1
Trong chương 1, trình bày các nội dung cơ bản: Cơ sở hình thành và quá trình phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm cơ sở khách quan, nhân tố chủ quan hình; các thời
kỳ hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh: thời kỳ trước 1911; thời kỳ 1911-
1920; thời kỳ 1921-1930; thời kỳ 1930-1945; thời kỳ 1945-1969. Đồng thời trình bày các
giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với con đường giải phóng, phát triển dân tộc và sự phát
triển của thế giới.
VI. CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ BÀI TẬP
Phân tích các tiền đề tư tưởng - lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh? Trình
bày khái quát quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh?
VII. HƯỚNG DẪN SINH VIÊN TỰ HỌC:
Phần tự học chương 1 Hướng dẫn:
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ - Nghiên cứu giáo trình từ trang
CHÍ MINH 33-35 ; tr.42-49.
2. Nhân tố chủ quan (tự học)
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT - Tóm tắt nội dung chính
TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - Sinh viên cần chuẩn bị vở hoặc
4. Thời kỳ 1930-1945: Vượt qua thử thách, sổ tay tự học.
kiên trì giữ vững lập trường cách mạng (tự
- Ghi chú những nội dung và vấn
học)
5. Thời kỳ 1945-1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh đề chưa rõ, băn khoăn cần thảo
tiếp tục phát triển, hoàn thiện (tự học) luận với giảng viên và các bạn.
- Biết lấy ví dụ trong thực tiễn để
làm sáng tỏ phần lý luận
- Tập cách lập luận, luận giải các
vấn đề được học và phần tự
nghiên cứu...

VIII. GIÁO TRÌNH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO


Giáo trình:
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dùng cho sinh viên đại
học cao đẳng khối không chuyên ngành Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh) NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2016, tr.25-56.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập (15tập) NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà nội - 2011 (Hồ
Chí Minh toàn tập, đĩa CDROM 15 tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2015.
[2]. http://hochiminh.vn
[3]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội - 2003.
Chương 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

I. GIỚI THIỆU
Chương 2, nghiên cứu làm rõ hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc thuộc địa, về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp; về con đường cứu
nước, về chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc khỏi áp bức,
nô dịch của chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam để tiến tới xây dựng một nước Việt Nam độc
lập, hòa bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Đồng thời, khẳng định ý nghĩa và giá trị
thời đại sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân
tộc. Đó là sự đóng góp quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam lúc bấy giờ - một nước
thuộc địa nửa phong kiến.
II. MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Nhận biết và hiểu được các quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách
mạng giải phóng dân tộc. Trên cơ sở giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, sinh viên có thể vận dụng được để góp phần
nhận thức đúng các vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
III. CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
Mô tả CĐR Mức độ
Sau khi học xong chương này, người học có thể: giảng dạy
(I, T, U)
Nhận biết và hiểu được các quan điểm Hồ Chí Minh
G1 G1.3 I,T
về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
Có kỹ năng trình bày, phân tích và khái quát một cách
G2 G2.3 khoa học nội dung các quan điểm của Hồ Chí Minh về I,T
vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
G3.1 Rèn luyện được kỹ năng làm việc nhóm thông qua
G3.2 việc thảo luận các nội dung của chương để phát triển
G3 G3.3 tư duy phản biện, khả năng lập luận về các quan điểm T,U
G3.4 của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải
G3.5 phóng dân tộc
G4 G4.1 Vận dụng được kiến thức đạt được để góp phần nhận T,U
thức đúng các vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay

IV. NỘI DUNG


ĐỀ CƯƠNG CÁC MỤC CHÍNH CỦA CHƯƠNG 2
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1. Vấn đề dân tộc thuộc địa
2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp (tự học)
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
1. Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc (tự học)
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách
mạng vô sản
3. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo
4. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
6. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường cách mạng bạo
lực
III. KẾT LUẬN
1. Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực
mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
2. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan
điểm giai cấp
3. Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các
dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam

NỘI DUNG CHƯƠNG 2

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC


1. Vấn đề dân tộc thuộc địa
1.1. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không đề cập đến các vấn đề dân tộc nói chung mà là vấn đề
dân tộc thuộc địa. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là:
- Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh giành sự quan tâm đến đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xoá bỏ
ách thống trị, áp bức, bóc lột của nước ngoài; giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc,
thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà nước dân tộc độc lập.
- Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc.
Từ thực tiễn của phong trào cứu nước của dân tộc và nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng
định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh mới của thời đại là CNXH.
Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một việc làm hết sức mới
mẻ: từ nước thuộc địa lên CNXCH phải trải qua nhiều giai đoạn chiến lược khác nhau.
Con đường đó, như trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Người viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản”. Thực chất là con đường ĐLDT gắn liền với CNXH.
Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh của các nước thuộc địa, nó hoàn toàn khác
biệt với các nước đã phát triển đi lên CNXH ở phương Tây. Đây là nét độc đáo trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
1.2. Độc lập dân tộc - nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
-  Hồ Chí Minh đã tiếp cận vấn đề độc lập dân tộc từ quyền con người.
Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu và tiếp nhận
những nhân tố có giá trị trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người
sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc”; Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi”.
- Nội dung của độc lập dân tộc
Là người dân mất nước, nhiều lần được chứng kiến tội ác dã man của chủ nghĩa
thực dân đối với đồng bào mình và nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới, Hồ Chí
Minh thấy rõ một dân tộc không có quyền bình đẳng chủ yếu là do dân tộc đó mất độc
lập. Vì vậy, theo Người, các dân tộc thuộc địa muốn có quyền bình đẳng thực sự phải tự
đứng lên đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn cho
dân tộc mình.
Nền độc lập hoàn toàn, độc lập thật sự của một dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
phải được thể hiện đầy đủ ở những nội dung cơ bản sau đây:
+ Độc lập tự do là quyền tự nhiên, thiêng liêng, vô cùng quý giá và bất khả xâm
phạm của dân tộc.Độc lập của Tổ Quốc, tự do của nhân dân là thiêng liêng nhất. Người
đã từng khẳng định: Cái mà tôi cần nhất trên đời này là: đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc
tôi được độc lập.
Trong Bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Vec-xay năm 1919,
Nguyễn Ái Quốc đòi quyền bình đẳng về pháp lý cho dân tộc và quyền tự do, dân chủ
cho nhân dân Việt Nam.
Nội dung cốt lõi trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 là: độc lập, tự do
cho dân tộc tạo tiền đề xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Trực tiếp chủ trì Hội nghị TW 8 (5/1941), Người viết thư Kính cáo đồng bào và chỉ
rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng là cao hơn hết thảy”.
Tháng 8 năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Người khẳng định quyết tâm:
“Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho
được độc lập dân tộc”.
Trong  “Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Người long
trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự
do độc lập ấy”. v.v.
+ Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước vào thời
gian sau CMT8, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn
hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc
lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất
nước”.
Khi đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ
quyền được thể hiện rõ: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[7]. Và khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh
phá hoại miền Bắc, Hồ Chí Minh đã đưa ra một chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn
độc lập tự do”.
+ Dân tộc độc lập trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao. Mọi
vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Người khẳng định: Nước
Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam
không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài.
Trong hành trình tìm đường cứu nước, ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt
những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản “Yêu sách của
nhân dân An Nam” đòi quyền bình đẳng, tự do cho dân tộc Việt Nam:
Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối
với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật.
Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do báo
chí, hội họp, tự do cư trú...
Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn bình
đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc - làm cách mạng, muốn giải phóng dân
tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng của bản thân mình.
+ Trong nền độc lập đó, mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không độc
lập chẳng có nghĩa gì. Nghĩa là độc lập dân tộc phải gắn liền với hạnh phúc, cơm no, áo
ấm của nhân dân.
Suốt đời Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước ta được
hoàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”
Người nói: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc
lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách
mạng của Hồ Chí Minh.
Tóm lại, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ sống, là
học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên
chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của cả dân tộc Việt Nam, đồng thời là
nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
1.3. Chủ nghĩa yêu nước chân chính - Một động lực to lớn của đất nước
- Theo Hồ Chí Minh, do kinh tế lạc hậu nên sự phân hoá giai cấp ở Đông Dương
chưa triệt để, vì thế “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây”.
Các giai cấp vẫn có sự tương đồng lớn: không chỉ quần chúng lao động (công nhân và
nông dân), mà cả các giai cấp, tầng lớp khác trong xã họi (như tư sản, tiểu tư sản và địa
chủ) họ đều chịu chung số phận là người nô lệ mất nước, sống trong một dân tộc mất độc
lập, tự do.
- Từ đó, HCM chỉ rõ, mâu thuẩn chủ yếu ở các nước phương Tây là mâu thuẩn giữa
tư sản và vô sản, thì mâu thuẩn ở các nước phương Đông chủ yếu là mâu thuẩn giữa dân
tộc bị áp bước với chủ nghĩa thực dân
- Qua phân tích trên, HCM khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương
Đông, “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Vì thế, “người ta sẽ không thể
làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của
đời sống xã hội của họ.
- Từ đó, HCM kiến nghị về Cương lĩnh hành động của quốc tế cộng sản là “phát
động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của
họ thắng lợi... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa Quốc tế”.
- Như vậy, xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ
truyền thống dân tộc VN, HCM đã đánh giá cao sức mạnh dân tộc mà những người cộng
sản phải nắm lấy và phát huy và cho đó là “một chính sách mang tính hiện thực tuyệt
vời”.

2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp


2.1. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau
- Quan hệ của Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp thực chất là quan hệ giữa lợi ích
dân tộc và lợi ích giai cấp. HCM coi trọng vấn đề dân tộc, nhưng Người luôn đứng trên
lập trường giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đê dân tộc.
- Theo Người, lợi ích của dân tộc và lợi ích của mổi giai cấp lao động trong dân tộc
VN là gắn bó và thống nhất với nhau.
- Do vậy, phải kết hợp nhuần nhuyển và giải quyết hài hoà vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, quyền lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp trên phạm vi quốc tế cũng như trong
phạm vi quốc gia dân tộc VN.
2.2. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội
- Đây là vấn đề HCM xác định dứt khoát từ rất sớm trong quá trình tìm đường cứu
nước. Tư tưởng này phản ánh quy luật khách quan sự nghiệp giải phóng dân tộc trong
thời đại cách mạng vô sản, đồng thời thể hiện mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giảI
phóng dân tộc với giảI phóng giai cấp, giảI phóng con người.
- Theo Người, chỉ có xoá bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột; thiết lập một nhà
nước thực sự của dân, do dân, vì dân, mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm
chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân
tộc với tự do và hạnh phúc của mổi con người.
+ Năm 1930, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định
con đường của cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
+ Năm 1960, Hồ Chí Minh xác định “chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Do đó “giành
được độc lập rồi phải tiến lên CNXH, vì mục tiêu của CNXH là “làm sao cho dân giàu,
nước mạnh”, “là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do.”
- Theo HCM, ĐLDT là điều kiện cơ bản để xây dựng CNXH và xây dựng CNXH là
tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho việc bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, đem lại ấm no ho
con người, tạo ra những điều kiện giảI phóng triệt để con người.
2.3. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp.
- Theo Hồ Chí Minh, đối với Việt Nam, không phải giải quyết vấn đề giai cấp trước
rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các tư bản phát triển phương Tây.
- Mà ngược lại, chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải phóng
dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp.
Vì thế, lợi ích giai cấp phảI trùng với lợi ích dân tộc.
- Tháng 5 - 1941, Người cùng với Trung ương Đảng đã khẳng định: “trong lúc này,
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phảI đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của
dân tộc. Trong lúc này nếu không giảI quyết được vấn đề dân tộc giảI phóng, không đòi
được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn
chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi
lại được”.
2.4. Giữ vững độc lập cho dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của các
dân tộc khác
- Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh cho
tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
- Người viết: “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như
là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”.
- Hồ Chí Minh nêu cao tinh thần tự quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ
quốc tế cao cả của mình trong việc giúp đỡ, ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
trên toàn thế giới. Như giúp đỡ, ủng hộ các đảng cộng sản ở một số nước Đông Nam Á,
ủng hộ nhân dân Trung Quốc chống Nhật, ủng hộ Lào và Campuchia chống Pháp; đề ra
khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp mình”, và chủ trương bằng thắng lợi của cách mạng mỗi
nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là sự vận dụng và phát triển một cách
sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc, về giai cấp trong điều kiện cụ
thể của nước ta và đóng góp ta lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC
1. Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
1.1. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa
- Sự phân hóa của xã hội thuộc địa.
- Mâu thuẫn của xã hội thuộc địa.
- Đối tượng của cách mạng ở thuộc địa.
- Yêu cầu bức thiết của cách mạng thuộc địa.
- Nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa.
- Tính chất của cách mạng thuộc địa.
1.2. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
- Lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc.
- Giành độc lập dân tộc.
- Giành chính quyền về tay nhân dân.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của
cách mạng vô sản
2.1. Rút kinh nghiệm từ những thất bại của các con đường cứu nước trước đó
của cha ông
- Để giải phóng dân tộc, cha ông ta đã sử dụng nhiều con đường gắn với những
khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau. Như HCM
nhận xét, con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì: “đuổi hổ của trước, rước beo của
sau”. Con đường của Phan Chu Trinh chẳng khác gì “xin giặc rũ lòng thương”. Con
đường của Hoàn Hoa Thám thì mang nặng cốt cách phong kiến.
- Các phong trào đó, đã diễn ra vô cùng anh dũng, nhưng rút cuộc đều bị thực dân
Pháp dìm trong bể máu. Lúc này, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng về đường lối
cứu nước. Trước yêu cầu bức thiết đó, đòi hỏi phải tìm ra một con đường cứu nước mới.
- Mặc dù khâm phục tinh thần cứu nước của cha ông, nhung HCM không tán thành
con đường cứu nước của họ, mà quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước.
- Ngày 5 - 6 - 1911, tại Bến Nhà rồng, HCM đã ra tìm đường cứu nước giải phóng
dân tộc.
2.2. Khảo nghiệm các cuộc cách mạng trên thế giới.
- Sau khoảng 10 năm kết hợp tìm hiểu lý luận với khảo sát thực tiễn, nhất là ở 3
nước tư bản phát triển là: Anh, Pháp, Mỹ.
+ Người đã đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu cuộc cách mạng tư sản
Mỹ. Đọc tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng
tư sản Pháp.
+ Và Người nhận xét: “Cách mệnh Pháp cũng giống như cách mạng Mỹ, nghĩa là
cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong
thì tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Vì vậy, Người đã không đi theo
con đường cách mạng tư sản.
+ Đối với cách mạng Tháng 10 Nga năm 1917, HCM cho rằng, đây là cuộc cách
mạng đã thành công và thành công đến nơi. Vì “Cách mạng Nga đã đuổi được vua, đuổi
được tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công nông các nước và dân tộc bị áp bức và thuộc
địa làm cách mệnh để đấu tranh đánh đổ cả chủ nghĩa đế quốc tư bản trên thế giới”.
+ Từ đó, Người đã giành nhiều tâm lực nghiên cứu, khảo sát cuộc cách mạng Tháng
10, rút ra từ đó những kết luận quan trọng đối với cách mạng VN như: “trong thế giới bây
giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng
được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật… Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng
muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững
bền… Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Như vậy, Hồ Chí Minh khẳng định “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” là hoàn toàn đúng đắn. Tư tưởng cơ
bản của con đường cách mạng vô sản là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết
hợp chặt chẽ giữa 3 sự nghiệp giải phóng: sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp
giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đó cũng là sự lựa chọn duy nhất của toàn
thể dân tộc Việt Namc, là sự lựa chọn của chính lịch sử.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo
- Trước NAQ, các nhà yêu nước VN đã ý thức được tầm quan trọng và vai trò của
các tổ chức cách mạng.
+ Phan Châu Trinh cho rằng, ngày nay, muốn độc lập, tự do phảI có đoàn thể. Rất
tiếc là ông chưa kịp thực hiện ý tưởng của mình. Phan Bội Châu đã tổ chức ra “Duy tân
hội” (1904) và “Việt Nam quang phục hội” (1912), và dự định rẽ cảI tổ thành VN quốc
dân đảng theo kiểu Tôn Trung Sơn, chưa kịp thực hiện thì ông đã bị bắt và giam lõng ở
Huế.
+ Dù đã được thành lập hay chua thì các tổ chức cách mạng kiểu củ không thể đưa
CMGPDT đi đến thành công. Bởi vì: nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn, một
phương pháp cách mạng khoa học và không có cơ sở rộng rãi trong quần chúng nhân
dân.
- Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải
có cái gì?”(2) và Người khẳng định: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi. Đảng có vững thì cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thì thuyền mới chạy”(1).
- Như vậy, ta thấy rằng, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn ái Quốc không
chỉ là người Việt Nam đầu tiên nhận thức được tầm quan trọng và cần thiết phải có đảng
lãnh đạo mà còn chỉ ra rằng, đảng đó phải là một đảng kiểu mới, tức là phải khác về chất
so với các đảng, các hội chỉ tồn tại trên danh nghĩa trước đây. Sự khác biệt đó như Người
đã chỉ ra:
+ Đó là đảng phải lấy dân chúng công nông làm gốc, phải được vũ trang bằng chủ
nghĩa Mác Lênin.
+ Đảng đó phải tổ chức chặt chẻ, bền vững, thống nhất, đảng viên của đảng phải
bền gan, phải hi sinh.
+ Đảng phải biết tổ chức, vận động dân chúng, trong nước làm cách mạng, đồng thời biết
liên lạc, đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
- Tháng 2/1930, Nguyễn ái Quốc đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi
ra đời, Đảng đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và
của cả dân tộc VN, và trở thành nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng.
4. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
4.1. Cách mạng là sự nghiệp của dân chúng bị áp bức.
- HCM cho rằng: Cách mạng giải phóng dân tộc là “việc chung của cả dân chúng
chứ không phải việc một hai người”. Người nói: “có dân là có tất cả”; “dễ trăm lầm
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”; “dân khí mạnh, thì quân lính nào,
súng ống nào cũng không chống lại nổi” .
- Như vậy, ta thấy rằng, HCM coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của
quần chúng là then chốt đảm bảo thắng lợi của CM.
4.2. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc.
- Xuất phát từ nhiệm vụ cách mạng GPDT ở VN là đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, thực
dân và địa chủ phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc đi lên CNXH. Đây là nhiệm vụ
rất nặng nề, khó khăn, lâu dài, đòi hỏi phải tổ chức, huy động lực lượng toàn dân đứng
lên đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc mới có thể giành được thắng lợi.
- Quan niệm của HCM về lực lượng toàn dân rất rộng lớn, bao gồm tất cả những
người yêu nước: giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, tiểu ta sản, nhà buôn, điền chủ
nhỏ... không phân biệt dân tộc, đảng phái, tôn giáo. Nghĩa là “phải vận động tất cả lực
lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào góp thành lực lượng toàn
dân”.
+ Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người phân tích: “dân tộc cách mệnh chưa
phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Nghĩa
là lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân.
+ Trong Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đảng phải tập hợp đại bộ giai cấp
công nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo
nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi về phe vô
sản giai cấp; đối với bọn phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An-nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra
mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ”.
+ Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh viết: “Bất kỳ đàn ông,
đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người
Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.Ai có súng dùng súng.
Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra
sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
+ Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, HCM kêu gọi đồng bào hai miền Nam – Bắc
đoàn kết, quyết tâm chống đế quốc Mỹ xâm lược để giải phóng miền Nam, bảo vệ và xây
dựng miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà. Người viết: “31 triệu đồng bào ta ở cả hai
miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng dệt Mỹ, cứu nước, quyết
tâm giành thắng lợi cuối cùng”.
- Trong lực lượng đó “công - nông là chủ cách mạng, là gốc cách mạng”. Bởi vì, ở
VN, giai cấp công nhân và nông dân có số lượng đông nhất, nên có sức mạnh lớn nhất.
Họ lại bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất. Nên khi làm cách mạng, “nếu thua thì chỉ mất một
cáI kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới”. Từ đó, Người khẳng định “công - nông là
chủ cách mạng, là gốc cách mạng”
+ Khi nhấn mạnh vai trò của công nông, HCM không coi nhẹ khả năng cách mạng
của các giai cấp, tầng lớp khác. Người chỉ rõ “học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng
bị tư bản áp bức song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách
mệnh của công nông thôi”.
+ Song Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh: “Trong khi liên lạc giai cấp, phải cẩn thận,
không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công - nông mà đi vào thảo hiệp”.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
- Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm cho rằng cách mạng
thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Luận cương về
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nêu ở Đại hội VI Quốc tế
cộng sản (1928): “chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi
giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”.ý kiến này đã giảm tính
chủ động, sáng tạo của cách mạng thuộc địa.
- Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc có
mối liên hệ mật thiết với, tác động qua lại lẫn nhau nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, quan hệ
chính - phụ.
+ Ngay từ Đại hội V quốc tế cộng sản (1924), Nguyễn ái Quốc đã chỉ rõ: “vận mệnh
của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi
xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa...”.
+ Năm 1925, Người đua ra Luận điểm về con đỉa 2 vòi : Chủ nghĩa tư bản là một con
đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai
cấp vô sản ở các thuộc địa. Nừu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt
cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vào kia vẫn tiếp tục hút máu của giai
cấp vô sản ; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra. Luận điểm này cho
thấy cần thiết phải thực hiện liên minh chiến đấu giữa cách mạng vô sản chính quốc với cách
mạng thuộc địa.
- Dựa vào quan điểm của Mác, “sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân phải là
sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”. Nguyễn ái Quốc đi đến kết luận: “công cuộc
giải phóng anh, em (nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của
bản thân anh em”. Khối liên minh các dân tộc thuộc địa sẽ là một trong những cái cánh
của cách mạng thế giới. “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh
của giai cấp đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các
thuộc địa…”.
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh phân biệt về nhiệm vụ của cách
mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc và cho rằng: hai thứ cách mạng đó tuy có
khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Đây là luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; cống hiến quan
trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Cách mạng Việt
Nam đã chứng minh luận điểm của Hồ Chí Minh là đúng đắn.
6. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường cách
mạng bạo lực
6.1. Bạo lực cách mạng
- Bạo lực là quy luật phổ biến của mọi cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng của chúng
ta cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
- HCM đã sớm nhận thức được sự tàn bạo và ngoan cố của chủ nghĩa thực dân.
Người nói: “Độc lập, tự do không thể cầu xin mà có được”. Vì vậy, HCM chủ trương
phảI sử dụng bạo lực cách mạng để đánh đổ chủ nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc.
- Theo HCM, không có bạo lực cách mạng của quần chúng thì không thể đánh đổ được
kẻ thù bởi chúng luôn chủ trương dùng bạo lực phản cách mạng để đàn áp, duy trì sự thống
trị của chúng với đông đảo nhân dân. Người viết: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ
thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách
mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”.
- Bạo lực cách mạngVN là sức mạnh tổng hợp của toàn dân, bao gồm sức mạnh
tổng hợp của hai yếu tố, của hai lực lượng, đó là yếu tố quân sự và yếu tố chính trị, lực
lượng quân sự và lực lượng chính trị.
- Tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh vũ trang và hình
thức đấu tranh chính trị cho thích hợp. Sử dụng đúng và kết hợp khéo léo 2 hình thức đấu
tranh đó để giành thắng lợi cho cách mạng.
- Người cũng chủ trương giải quyết xung đột bằng biện pháp hoà bình, thương
lượng, chấp nhận nhượng bộ có nguyên tắc. Tư tưởng bạo lực cách mạng với tư tưởng
nhân đạo hoà bình thống nhất biện chứng.
Nhấn mạnh khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh chỉ đạo:
Phải xây dựng căn cứ địa cách mạng, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng tổ chức
chính trị của quần chúng, lập đội du kích vũ trang, đón thời cơ, phát động cuộc Tổng khởi
nghĩa tháng Tám và giành thắng lợi chỉ trong vòng có hơn 10 ngày.
6.2. Chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân tộc
“…Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định
thắng”….”Thắng lợi với trường kỳ phải đi đôi với nhau”. “Cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của nhân dân ta có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa…song
nhân dân Việt nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Tự lực cánh sinh là phương châm của bạo lực cách mạng …“kháng chiến trường kỳ
gian khổ đồng thời lại phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình…cố nhiên sự giúp đỡ của
các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người
khác”. Phương châm đúng đắn ta đã giành thắng lợi to lớn.
III. KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc có
những luận điểm sáng tạo, đặc sắc, có giá trị lý luận và thực tiễn lớn.
1. Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn
động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ nguồn lực và
phát huy nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó nguồn lực con người cả
về thể chất và tinh thần là quan trọng nhất. Cần khơi dậy truyền thống yêu nước của con
người Việt Nam biến thành động lực để chiến thắng kẻ thù, hôm nay xây dựng và phát
triển kinh tế.
2. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc
trên quan điểm giai cấp
Khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, của Đảng cộng sản, kết hợp
vấn đề dân tộc và giai cấp đưa cách mạng Việt Nam từ giải phóng dân tộc lên CNXH.
Đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công – nông và tầng lớp trí thức do
Đảng lãnh đạo. Trong đấu tranh giành chính quyền phải sử dụng bạo lực của quần chúng
cách mạng chống bạo lực phản cách mạng. Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
3. Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa
các dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam
Văn kiện Đại hội X nêu: vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc luôn có vị trí chiến
lược trong sự nghiệp cách mạng. Lịch sử ghi nhận công lao của các dân tộc miền núi
đóng góp to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm lược. Hồ Chí Minh nói:
đồng bào miền núi đã có nhiều công trạng vẻ vang và oanh liệt.
Trong công tác dân tộc Hồ Chí Minh chỉ thị các cấp bộ Đảng phải thi hành đúng
chính sách dân tộc, thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc sao cho
đạt mục tiêu: nhân dân no ấm hơn, mạnh khoẻ hơn. Văn hoá sẽ cao hơn. Giao thông
thuận tiện hơn. Bản làng vui tươi hơn. Quốc phòng vững vàng hơn.
V. TÓM TẮT NỘI DUNG CHƯƠNG 2
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
được trình bày ở chương 2 với những nội dung cơ bản sau:
Một là, trong nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, đã làm rõ các quan
điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thuộc địa, về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp.
Hai là, trong nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, đã
làm rõ các luận điểm của Hồ Chí Minh về tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng
giải phóng dân tộc, về cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vô sản, về cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, về lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn
dân tộc, về cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, về cách mạng giải phóng
dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực.
Ba là, trong phần kết luận đã nhấn mạnh tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
và cách mạng giải phóng dân tộc có những luận điểm sáng tạo, đặc sắc, có giá trị lý luận
và thực tiễn lớn. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay cần chú ý vận dụng: Khơi dậy sức
mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh nhận thức và giải quyết vấn đề
dân tộc trên quan điểm giai cấp; chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết
tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
VI. CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ BÀI TẬP
Trình bày khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc? Phân tích các luận
điểm của HCM về cách mạng Giải phóng dân tộc? Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân tộc cần nhận thức các vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay như thế nào?
VII. HƯỚNG DẪN SINH VIÊN TỰ HỌC:
Phần tự học chương 2 Hướng dẫn:
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ - Nghiên cứu giáo trình từ trang 64-67;
VẤN ĐỀ DÂN TỘC tr.67-72
2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc - Sinh viên cần chuẩn bị vở tự học. Ghi chú
và vấn đề giai cấp (tự học)
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH những nội dung hiểu, tâm đắc và những vấn
VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG đề chưa rõ trong phần tự học
DÂN TỘC - Biết lấy ví dụ trong thực tiễn để làm sáng
1. Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu tỏ phần lý luận nội dung tự học
của cách mạng giải phóng dân tộc (tự - Khái quát nội dung tự học
học)

VIII. GIÁO TRÌNH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO


Giáo trình:
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dùng cho sinh viên đại
học cao đẳng khối không chuyên ngành Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh) NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2016, tr.57-95
Tài liệu tham khảo:
[1]. Xem trong: Hồ Chí Minh, Toàn tập (15tập) NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà nội
- 2011 (Hồ Chí Minh toàn tập, đĩa CDROM 15 tập, NXB CTQG. Hà Nội, 2015:
- Báo cáo Bắc Kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ
- Bản án chế độ thực dân Pháp
- Đường cách mệnh
[2]. http://hochiminh.vn
[3]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội - 2003.
Chương 3

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


VÀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM
I. GIỚI THIỆU
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có giá trị to lớn cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam
thực sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện nay.
Trong chương 3, chúng ta sẽ tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con
đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam qua các nội dung: Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam; quan điểm HCM về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; quan
niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của CNXH; đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam; những chỉ dẫn có tính định hướng về nguyên tắc, bước đi,
biện pháp thực hiện trong quá trình xây dựng CNXH theo quan điểm của Hồ Chí Minh.
II. MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Làm cho sinh viên nhận biết và hiểu được các quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Qua đó, sinh viên có
thể vận dụng kiến thức đạt được để góp phần nhận thức đúng vấn đề xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay.
III. CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
Mô tả CĐR Mức độ
Sau khi học xong chương này, người học có thể: giảng dạy
(I, T, U)
Nhận biết và hiểu được các quan điểm Hồ Chí Minh
G1 G1.4 về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ I,T
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Có kỹ năng trình bày, phân tích và khái quát một cách
khoa học nội dung các quan điểm của Hồ Chí Minh về
G2 G2.4 I,T
chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
G3 G3.1 Rèn luyện được kỹ năng làm việc nhóm thông qua T,U
G3.2 việc thảo luận các nội dung của chương để phát triển
G3.3 tư duy phản biện, khả năng lập luận về các quan điểm
G3.4 của Hồ Chí Minh về những đặc trưng, mục tiêu và
G3.5 động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Vận dụng được kiến thức đạt được để góp phần nhận
G4 G4.2 thức đúng vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt T,U
Nam hiện nay.

IV. NỘI DUNG


ĐỀ CƯƠNG CÁC MỤC CHÍNH CỦA CHƯƠNG
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của CNXH ở Việt Nam (tự học)
3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của CNXH
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT
NAM
1. Đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
2. Những chỉ dẫn có tính định hướng về nguyên tắc, bước đi, biện pháp thực hiện trong
quá trình xây dựng CNXH (tự học)
III. KẾT LUẬN
1. Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực,
trước hết là nội lực, để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
4. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước

NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG 3

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM


1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- HCM tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về sự phát triển tất
yếu của xã hội loài người theo các hình tháI kinh tế - xã hội. Đó là XH loài Người trải qua 5
hình thái HT - XH: Hình thái KT - XH cộng sản nguyên thuỷ, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến,
Tư bản chủ nghĩa, Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là CNXH. Đặc biệt là lý luận về
thời kỳ quá độ tiến lên CNXH.
- Từ đó, HCM cho rằng: Tiến lên CNXH là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau
khi nước nhà giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản.
- Mục tiêu con đường cách mạng vô sản mà HCM đã lựa chọn cho dân tộc Việt
Nam là: Nước nhà độc lập, nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Tức là sau khi giành độc lập dân tộc, nhân dân ta sẻ xây dựng một xã hội mới, xã hội xã
hội chủ nghiã.
- Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc, nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác áI, đoàn kết, ấm no trên quả
đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc, nói tóm lại là
nền cộng hoà thế giới chân chính, xoá bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ
là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu
thương nhau”.
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của CNXH ở Việt Nam
a. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về CNXH
- Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng về CNXH từ phương diện kinh tế
+ Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận
dụng sáng tạo và đưa ra nhiều kiến giải mới phù hợp với Việt Nam.
+ Người khẳng định vai trò quyết định của sức sản xuất đối với sự phát triển của xã
hội cũng như đối với sự chuyển biến từ xã hội nọ sang xã hội kia. Trên cơ sở nền tảng kinh
tế mới, chủ nghĩa xã hội sẽ xác lập một hệ thống các giá trị đặc thù mang tính nhân bản
thấm sâu vào các quan hệ xã hội.
+ Bác cũng khẳng định, trong lịch sử loài người có 5 hình thức quan hệ sản xuất chính,
và nhấn mạnh “ không phải quốc gia dân tộc nào cũng đều trải qua các bước phát triển tuần
tự như vậy”. Bác sớm đến với tư tưởng quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua
giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
- Nét sáng tạo của Hồ Chí Minh là tiếp cận CNXH từ khát vọng giải phóng dân tộc
và nhu cầu giải phóng con người một cách triệt để.
Người đã tìm thấy trong học thuyết khoa học và cách mạng của Mác con đường
chân chính để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng loài người. Và Hồ Chí
Minh cho rằng, chỉ có CNXH mới cứu được nhân loại, mới thực sự đem lại độc lâp, tự
do, bình đẳng cho các dân tộc và mổi con người.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hoá, đưa văn hoá thâm nhập vào
chính trị, kinh tế tạo nên sự thống nhất biện chứng giữa văn hoá, kinh tế và chính trị.
Điều này cho thấy ở Hồ Chí Minh, CNXH là một hình thái phát triển của văn hoá, một
đỉnh cao của nền văn hoá nhân loại. Do đó, quá trình hình thành và phát triền của CNXH lại
càng phải gắn với văn hoá, và chỉ có đứng trên đỉnh cao của văn hoá, CNXH mới có thể phát
triển theo đúng quy luật xã hội khách quan, phù hợp với tiến trình phát triển chung của nhân
loại.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức. Chủ nghĩa xã hội
là đối lập với chủ nghĩa cá nhân.
Theo Người, đạo đức cao cả nhất là đạo đức cách mạng, đạo đức giải phóng dân
tộc, giải phóng loài người; CNXH vì vậy, cũng là giai đoạn phát triển mới của đạo đức.
CNXH là xa lạ với chủ nghĩa cá nhân. HCM coi, chủ nghĩa cá nhânlà một trở ngại lớn
cho việc xây dựng CNXH và thắng lợi của CNXH không thể tách rời thắng lợi của cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Lên án mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân, nhưng Người
không hề phủ nhận con người cá nhân mà trái lại rất chăm lo đến những nhu cầu và lợi
ích cá nhân, luôn đề cao năng lực và phẩm chất của mổi cá nhân.
- Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hoá tốt
đẹp của dân tộc
+ Từ đặc điểm lịch sử dân tộc: Nước ta không trải qua thời kỳ chiếm hữu nô lệ,
mang đậm dấu ấn phong kiến phương Đông, mâu thuẫn giai cấp không gay gắt, quyết
liệt, kéo dài, như ở phương Tây, do đó hình thành Quốc gia dân tộc từ sớm; Ngay từ buổi
đầu dựng nước, chúng ta liên tục phải đấu tranh chống ngoại xâm, hình thành chủ nghĩa
yêu nước truyền thống; Là nước nông nghiệp, lấy đất và nước làm nền tảng với chế độ
công điền hình thành cộng đồng thêm bền chặt. Tất cả điều này là giá trị cơ bản của tinh
thần và tư tưởng XHCN ở Việt Nam: Tinh thần yêu nước, yêu thương đùm bọc trong
hoạn nạn đấu tranh, cố kết cộng đồng Quốc gia dân tộc.
+ Từ truyền thống văn hoá lâu đời, bản sắc riêng: đó là nền văn hoá lấy nhân nghĩa
làm gốc, trừ độc, trừ tham, trọng đạo lý; nền văn hoá mang tính dân chủ; có tính chất khoan
dung; một dân tộc trọng hiền tài; hiếu học...Hồ Chí Minh quan niệm, chủ nghĩa xã hội là
thống nhất với văn hoá, “chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn so với chủ nghĩa
tư bản về mặt văn hoá và giải phóng con người”.
+ Từ tư duy triết học phương Đông: coi trọng hoà đồng, đạo đức nhân nghĩa. Về
phương diện đạo đức, Người cho rằng: chủ nghĩa xã hội đối lập với chủ nghĩa cá nhân.
Như vậy, từ việc phân tích một cách khoa học truyền thống tư tưởng - văn hoá, điều
kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, các nước phương Đông, sự tàn của chế độ thuộc địa tại
các nước đó, HCM đi đến kết luận: CNXH, CNCS không những thích ứng được với châu
á, phương Đông mà còn thích ứng dễ hơn ở Châu Âu.
Hồ Chí Minh nhận thức về chủ nghĩa xã hội là kết quả tác động tổng hợp của các
nhân tố: truyền thống và hiện đại; dân tộc và quốc tế; kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hoá.
Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm cách tiếp cận về chủ nghĩa xã hội, đóng góp vào
phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam và xu
hướng phát triển của thời đại
+ Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX đặt ra yêu cầu khách quan là tìm một ý thức
hệ mới đủ sức vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn đem lại thắng lợi
cho cách mạng Việt Nam. (Bậc cách mạng tiền bối hoặc là có ý thức giành độc lập dân
tộc lại không có ý thức canh tân đất nước; hoặc là có ý thức canh tân đất nước lại kém ý
thức chống Pháp). Cách mạng Việt Nam đòi hỏi có một giai cấp tiên tiến đại diện cho
phương thức sản xuất mới, có hệ tư tưởng độc lập, có ý thức tổ chức và trở thành giai cấp
tự giác đứng lên làm cách mạng. Hồ Chí Minh sớm nhìn thấy phong trào yêu nước Việt
Nam đang rơi vào khủng hoảng về đường lối, vì vậy cách mạng chưa đem lại giải phóng
dân tộc. Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất phát từ thực tiễn
cách mạng Việt Nam.
+ Cách mạng tháng mười Nga giành thắng lợi đã mở ra con đường hiện thực cho
giải phóng dân tộc ở phương Đông: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH và Nguyễn ái
Quốc đã bắt đầu truyền bá tư tưởng CNXH trong dân.
- Hồ Chí Minh đến với CNXH từ tư duy độc lập sáng tạo tự chủ
Đặc điểm của định hướng tư duy tự chủ sáng tạo là: định hướng tư duy trên cơ sở
thực tiễn; luôn tìm tận gốc của sự vật, hiện tượng; kết hợp lý trí khoa học và tình cảm
cách mạng. Tư duy của Hồ Chí Minh là tư duy rộng mở và văn hoá.
b. Bản chất và đặc trưng của CNXH
- Với tư cách là một chế độ xã hội mới sẽ được xây dựng ở Việt Nam, bản chất của
CNXH đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh luận giải qua một số đặc trưng cơ bản. Những đặc
trưng ấy là sự thống nhất quan điểm của Người với quan điểm của Chủ nghĩa Mác, là sự
vận dụng sáng tạo quan điểm của Mác, ănggen, Lênin về CNXH vào điều kiện thực tế
của Việt Nam. Đó còn là kết quả của sự nhận thức của Hồ Chí Minh qua thực tiễn chỉ đạo
công cuộc xây dựng CNXH trên miền Bắc Việt Nam trong những thời điểm khác nhau.
- Qua nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, chúng ta thấy bản chất và mục
tiêu CNXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nhân đạo, nhân văn, tất cả vì con người, vì
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho đông đảo nhân dân. Điều này thể hiện thông qua
rất nhiều bài nói, bài viết cũng như qua những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
- Bản chất của CNXH được thể hiện qua những đặc trưng chủ yếu sau:
+ Về chính trị: CNXH là một chế độ do nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước phải
phát huy quyền làm chủ, tích cực, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
CNXH.
+ Về kinh tế: CNXH có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của
khoa học, kỹ thuật, quan hệ sản xuất mới dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu. Mục đích là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
lao động.
+ Về văn hoá: Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng CNXH là một xã hội phát triển cao
về văn hoá, đạo đức, trong đó người với người là bạn.
+ Về xã hội: đó là một xã hội công bằng, hợp lý, các dân tộc đều bình đẳng, đoàn
kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
+ Về con người: Con người được giải phóng, có cuộc sống vật chất, tinh thần phong
phú, được phát triển tự do, toàn diện.
+ Lực lượng để xây dựng CNXH là: CNXH là công trình tập thể, là sự nghiệp của
nhân dân do nhân dân tự xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tóm lại: Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH là một tư tưởng khoa học, thống nhất,
hoàn chỉnh, thể hiện rõ tính chất nhân đạo, nhân văn sâu sắc của Hồ Chí Minh.
Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH là một hệ thống bao gồm những quan
niệm về các giá trị cao đẹp của con người, của xã hội cần vươn tới, mà trọng tâm là giá trị con
người. Do vậy, tư tưởng HCM về CNXH là hiện thực, là nhân đạo.
3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của CNXH
a. Mục tiêu cơ bản
- Mục tiêu chung, đó là độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. “Tôi chỉ
có một ham muốn…”. Chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”. Hoặc “không ngừng nâng cao
mức sống của nhân dân”. Đây là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội theo quan niệm của Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội so với các chế độ đã tồn tại trong lịch sử là chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con
người một cách toàn diện.
- Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là lâu dài, Hồ Chí Minh cho rằng: “chúng ta
phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc
ta….”, Đề cập đến các mục tiêu cụ thể:
+ Mục tiêu chính trị: là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước là của dân,
do dân và vì dân.
+ Mục tiêu kinh tế: Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công-nông nghiệp hiện đại,
khoa học - kỹ thuật tiên tiến, bóc lột bị xoá bỏ dần, cải thiện đời sống. Kết hợp các lợi
ích.
+ Mục tiêu văn hoá - xã hội: văn hoá là mục tiêu cơ bản, xoá mù chữ, phát triển
nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, nâng cao dân trí…
+ Mục tiêu con người: Theo Hồ Chí Minh, CNXH là công trình tập thể của nhân
dân. Do đó, nếu không có con người thì sẽ không có CNXH.
- Trước hết, để xây dựng CNXH thì phải có con người XHCN. Đó là con người có
lý tưởng XHCN, đấu tranh cho lý tưởng của CNXH.
- Thứ hai, con người XHCN phải luôn gắn tài năng với đạo đức. Người quan niệm: Có tài
mà không có đức là hỏng. Có đức mà không có tài thì không thể làm việc được.
b. Về động lực của CNXH
- Để đạt được các mục tiêu cần phải nhận thức và phát huy tất cả các động lực của
CNXH. Theo Hồ Chí Minh, động lực là tất cả những yếu tố, điều kiện góp phần thúc đẩy
sự phát triển kinh tế xã hội thông qua hoạt động của con người. Mặt khác cần phải triệt
tiêu các trở lực kìm hãm sự hoạt động của con người, kìm hãm sự phát triển kinh tế xã
hội. Động lực của CNXH là một hệ thống rất phong phú: trong đó bao gồm động lực bên
trong và động lực bên ngoài.
- Động lực bên trong, nguồn nội lục của CNXH, theo HCM:
+ Động lực 1. Động lực con người: phải phát huy sức mạnh con người với tư cách
cá nhân người lao động trong bối cảnh cộng đồng sức mạnh của cả dân tộc.
+ Động lực 2. Động lực vật chất: đó là nhu cầu và lợi ích của con người, của xã hội,
coi trọng động lực từ các đòn bẩy kinh tế.
+ Động lực 3. Chính trị, tinh thần: đó là việc phát huy quyền làm chủ, ý thức làm
chủ của người lao động, thực hiện công bằng xã hội, thực hiện sự điều chỉnh của các yếu
tố tinh thần khác: chính trị, văn hoá, đạo đức, pháp luật.
- Điểm mấu chốt để phát huy động lực của CNXH là phải khơi dậy, phát huy động
lực của con người trên cả 2 phương diện cá nhân và cộng đồng.
+ Phương diện cá nhân:
Phải giải quyết hài hoà đúng đắn vấn đề lợi ích, trước hết là mối quan hệ giữa 3 loại
lợi ích: lợi ích cá nhân người lao động, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội.
Phải tác động tích cực đến nhân tố tinh thần của con người.
+ Phương diện cộng đồng.
Củng cố và tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nâng cao vai trò
hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức nghề nghiệp.
Tạo lập môi trường thuận lợi để các tổ chức tham gia vào công cuộc xây dựng kinh
tế, phát triển văn hoá, xã hội.
* Tạo điều kiện giúp đỡ các dân tộc ít người, các vùng sâu, vùng xa cùng phát triển.
- Động lực bên ngoài:
+ Theo HCM, phải kết hợp được sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế,
chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử
dụng tốt những thành quả của khoa học – kỷ thuật thế giới.
- Mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực.
+ Giữa nội lực và ngoại lực, HCM xác định rõ nội lực là quyết định nhất, ngoại lực
là rất quan trọng.
Vì thế, HCM nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh là chính, nhưng
luôn luôn chú trọng, tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh quốc tế tạo thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công CNXH trên cơ sở
bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản của VN, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, chung sống hoà bình và phát triển.
- Đẩy lùi, xoá bỏ trở lực.
Bên cạnh việc phát huy các động lực, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra sự cần thiết phải đấu
tranh khắc phục những trở lực của CNXH. Người đã chỉ ra những trở lực chủ yếu sau:
+ Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc: đây là kẻ địch to.
+ Các phong tục tập quán không tốt.
+Chủ nghĩa cá nhân: đây là đồng minh của hai kẻ thù kia, là bệnh mẹ đẻ ra vô số bệnh
con, đe doạ sự mất còn của CNXH, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù hung ác của CNXH. Vì vậy,
Hồ Chí Minh chủ trương kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng tinh thần
chí công vô tư cho cán bộ đảng viên và nhân dân nhằm khơi dậy và phát huy động lực con
người vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
+ Chống tham ô, lãng phí: Bác coi đó là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến.
+ Chống bè phái mất đoàn kết nội bộ; chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều; chống lười
biếng... Theo Bác các căn bệnh trên sẽ phá hoại đạo đức cách mạng, làm suy giảm uy tín và
ngăn trở sự nghiệp cách mạng của Đảng, Bác gọi đó là giặc nội xâm.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở
VIỆT NAM
1. Đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
1.1. Thực chất, loại hình và đặc điểm của thời kỳ quá độ.
- Tính khách quan của thời kỳ quá độ.
+ Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định tính tất yếu khách quan của
thời kỳ quá độ lên CNXH.
+ Theo quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin, có 2 con đường
quá độ lên CNXH:
Con đường thứ nhất: Quá độ trực tiếp từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển
cao, cơ sở vật chất đã được chuẩn bị tương đối đầy đủ lên CNXH
Con đường thứ 2: Quá độ gián tiếp từ các nước tiền tư bản chủ nghĩa, dân cư đa số
là nông dân với nền sản xuất nhỏ.
+ Theo Lênin, các nước tiền tư bản chỉ có thể đi lên CNXH với điều kiện là trong
nước có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, có khối đoàn kết toàn dân rộng rãi trên cơ sở
liên minh công nông, còn ngoài nước thì có sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa.
+ Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử từng nước mà con
đường quá độ lên CNXH ở mỗi nước cũng khác nhau. Quan niệm này là nguồn gốc lý
luận quan trọng hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên CNXH ở
Việt Nam.
- Theo Hồ Chí Minh,
+ Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên
CNXH của chủ nghĩa Mác – Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế của VN,
HCm khẳng định: Cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản, do
giai cấp công nhân lãnh đạo và chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn đầu: là tiến hành cách mạng giảI phóng dân tộc, hoàn thàn cách mạng dân
tộc chủ nhân dân.
Giai đoạn thứ hai: là tiến dần lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Sự kết thúc thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là mở
đầu cho cuộc cách mạng XHCN. Quá độ lên CNXH ở Việt Nam là cầu nối trung gian, là
bước chuyển giao giữa hai giai đoạn này. Đó là thời kỳ phát triển tiếp theo của cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành, là sự phát triển tự nhiên, tất yếu của lịch
sử cách mạng Việt Nam. Như vậy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu
lịch sử, phù hợp với lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH, phù hợp với
Cương lĩnh chính trị năm 1930 của Đảng cộng sản Việt Nam, phù hợp với sự vận động
nội tại của cách mạng Việt Nam và xu thế của thời đại ngày nay.
+ Kế thừa quan điểm của Mác, ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định đi lên
CNXH là quy luật vận động chung của lịch sử nhân loại: “Sớm hay muộn các dân tộc
cũng đi lên CNXH”.
+ Hồ Chí Minh cho rằng, trong quá trình xây dựng CNXH cần phải nắm vững đặc
điểm lịch sử của mỗi nước khi bước vào thời kỳ quá độ, không được máy móc, giáo điều,
rập khuôn. Người viết: “Tuỳ hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo các con đường
khác nhau, có nước đi thẳng lên CNXH, có nước phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi
tiến lên CNXH”.
+ Nước ta đi lên CNXH là quá trình gián tiếp, đi từ chế độ dân chủ nhân dân lên
CNXH. Quá trình đó được tiến hành dần dần và không kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa.
+ Về thời điểm tiến hành: được bắt đầu khi cuộc cách mạng dân chủ nhân dân hoàn
thành. Đây là quá trình đấu tranh lâu dài phức tạp, khó khăn và gian khổ.
- Đặc điểm và mâu thuẫn chủ yếu trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
+ Đặc điểm.
Sau năm 1945, miền Bắc nước ta bước vào thời quá độ trong bối cảnh tương đối
thuận lợi. Về tình hình trong nước, ta phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược,
vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh,… nhưng bao trùm là “từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển của tư bản chủ nghĩa”.
Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn, khó khăn phức tạp, chi phối toàn
bộ thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Nó đặt ra hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn
mà chúng ta cần nhận thức và giải đáp một cách đúng đắn để tìm ra những hình thức,
bước đi và cách làm phù hợp với đặc điểm Việt Nam.
+ Mâu thuẫn
Đó là hệ thống các mâu thuẫn tác động đan xen lẫn nhau rất phức tạp, nhưng bao
trùm lên tất cả là yêu cầu phát triển ngày càng cao của đất nước với thực trạng nghèo nàn,
lạc hậu và sự chống phá của các thế lực phản động đối với dân tộc ta trong quá trình đi
lên CNXH.
1.2. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN.
- Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN, Người chỉ rõ:
+ Một là: Xây dựng nền tảng vật chất và kỷ thuật cho CNXH, xây dựng tiền đề kinh tế,
chính trị, văn hoá, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
+ Hai là: cải tạo xã hội củ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cảI tạo và xây dựng, trong đó
lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất chủ chốt, lâu dài.
- HCM cũng chỉ ra tính phức tạp và khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đó:
+ Thứ nhất: đây là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội, cả
LLSX và QHSX, CSHT và KTTT. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giảI quyết hàng loạt
các mâu thuẩn khác nhau.
+ Thứ hai: Trong sự nghiệp xây dựng CNXH, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chưa có
kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ, nên phải vùa
làm, vùa học và có thể có những vấp vấp, thiếu sót. Xây dựng XH mới bao giờ cũng khó
khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội củ đã lỗi thời.
+ Thứ ba: Sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta luôn bị các thế lực phản động trong và
ngoài nước chống phá.
1.3. Quan điểm HCM về nội dung xây dựng CNXH ở nước ta trong thời kỳ qúa
độ.
- Trong lĩnh vực chính trị:
+ Nội dung quan trọng nhất là giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng
phảI luôn luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có
các hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng với yêu cầu và nhiệm vụ mới.
+ Người cũng quan tâm khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân, thoái hoá, biến chất,
làm mất lòng tin của nhân dân, có thể dẫn đến nguy cơ sai lầm về đường lối, cắt đứt mối
quan hệ máu thịt với nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở dưới nhiều hình thức.
+ Người quan tâm cũng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên
minh công nhân – nông dân – trí thức, do Đảng lãnh đạo; cũng cố và tăng cường sức mạnh
toàn bộ hệ thống chính trị, cũng như từng thành tố của nó.
- Trong lĩnh vực kinh tế:
+ Người chủ trương phát triển nông nghiệp – công nghiệp, trong đó lấy nông nghiệp
làm mặt trận hàng đầu.
+ Đối với kinh tế vũng, lãnh thổ, HCM lưu ý phải phát triển đồng đều giữa kinh tế
thành thị và kinh tế nông thôn. Đặc biệt, Người quan tâm chỉ đạo phát triển kinh tế vùng núi,
hải đảo, vùa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của đồng bào, vừa
đảm bảo an ninh, quốc phòng cho đất nước.
+ Về phát triển kinh tế nhiều thành phần: HCM là người đầu tiên chủ trương phát triển
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
+ Trong phân phối và quản lý kinh tế:
Trong quản lý: Quản lý kinh tế phảI dựa trên cơ sở hoạch toán, đem lại hiệu quả cao,
sử dụng các đòn bẩy trong phát triển sản xuất.
Trong phân phối: Người chủ trương phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều,
làm ít hưởng ít, không làm không hưởng.
- Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội:
+ HCM nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con người mới.
+ Đặc biệt đề cao vai trò của văn hoá giáo dục và khoa học, kỹ thuật trong xã hội xã
hội chủ nghĩa.
+ Người còn coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài, khẳng định
vai trò của văn hoá trong đời sống xã hội.
2. Những chỉ dẫn có tính định hướng về nguyên tắc, bước đi, biện pháp thực hiện
trong quá trình xây dựng CNXH (tự học)
2.1. Nguyên tắc, bước đi
- Hồ Chí Minh nêu 2 nguyên tắc có tính phương pháp luận:
+ Một là: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang tính quốc tế,
cần nắm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng chế độ mới. Phải
học tập kinh nghiệm của các nước anh em nhưng không áp dụng máy móc vì nước ta có
đặc điểm riêng của ta. Người cho rằng, VN có thể làm khác LX, TQ và các nước khác vì
VN có điều kiện cụ thể khác.
+ Hai là: Xác định bước đi, biện pháp phải xuất phát từ thực tế, đặc điểm dân tộc,
nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.
- Về bước đi.
+ Người xác định phương châm thực hiện bước đI trong xây dựng CNXH: dần dần,
thận trọng, từng bước một, từ thấp đến cao, không chủ quan, nôn nóng, và việc xác định
các bước đi phải luôn luôn căn cứ vào điều kiện khách quan quy định.
+ Người nhận thức về phương châm “tiến nhân, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
CNXH” không có nghĩa là làm bừa, làm ẩu, “đốt cháy giai đoạn”, chủ quan, duy ý chí,
mà phảI làm vững chắc từng bước, phù hợp với điều kiện thực tế.
2.2. Biện pháp
Người đã chỉ đạo trên thực tế một số cách làm cụ thể sau:
+ Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng,
xây dựng làm chính.
+ Kết hợp xây dựng với bảo vệ, tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền Nam
- Bắc khác nhau trong phạm vi một quốc gia.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm thực hiện
thắng lợi kế hoạch.
+ Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng
CNXH là đem của dân, tài dân, sức dân làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
III. KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam là cơ
sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đồng thời gộ mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện pháp và bước
đi lên CNXH phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày nay.
Vì vậy, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt
Nam cần chú ý:
3.1. Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Độc lập dân tộc là một mục tiêu bất biên mà nhân dân ta đã kiên trì phấn đấu hi
sinh, theo đuổi suốt 40 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bằng kinh nghiệm lịch sử
của mình, nhân dân ta đã thấm thía sâu sắc lời dạy của Hồ Chí Minh “nếu nước được độc
lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập, tự do cũng chẳng có ý nghĩa
gì”. Trải qua gần một trăm năm dưới chế độ thực dân nữa phong kiến, nhân dân ta bị kìm
hãm trong vòng nghèo đói, lạc hậu, đời sống vật chất và văn hoá rất thấp kém. Muốn biến
đổi tình hình nghèo nàn, lạc hậu ấy, sau khi giành lại độc lập, chúng ta không có con đường
nào khác là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có CNXH mới thực hiện được “ham muốn
tột bậc” của Bác Hồ và mong muốn nghìn đời của nhân dân ta. Độc lập dân tộc là điều kiện
tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc.
- Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới
nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” cũng là hoàn
thành mục tiêu, lý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta trong hoàn cảnh mới. Đổi
mới đối với chúng ta không bao giờ là thay đổi mục tiêu...
3.2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực,
trước hết là nội lực để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một yêu cầu có tính quy luật đối với các nước
nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa qua giai đoạn phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Chúng ta phải tranh thủ thành tựu phát triển của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, của điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế đang mở rộng để nhanh chóng
biến nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại trong những thập niên đầu của thế kỷ
XXI.
- Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, ta cần phát huy các ngồn lực bên
trong và bên ngoài, nhưng chủ yếu phải lấy nguồn lực bên trong làm gốc, có phát huy
mạnh mẽ nguồn lực trong nước mới sử dụng tốt, hiệu quả nguồn lực bên ngoài; phải quán
triệt sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể
của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng; phải “đem tài dân,
sức dân, của dân làm lợi cho dân”.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, ta phảI phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân,
tạo nên không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Muốn thế, phải nâng cao dân trí, bồi dưỡng
văn hoá chính trị, trau dồi bản lĩnh công dân, cung cấp thông tin đúng đắn cho người dân, phải
thực hiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo cho người dân có điều kiện
tham gia giám sát công việc của Nhà nước. Đồng thời phải thực hiện nhất quán chiến lược đại
đoàn kết của Hồ Chí Minh, trên cơ sở lấy liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt, tranh
thủ sự đóng góp, ủng hộ của tất cả những ai tán thành đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
3.3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Công cuộc đổi mới của nhân dân ta diễn ra vào lúc cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ, xu thế toàn cầu hoá đang ảnh hưởng đến
nhịp độ phát triển và cuộc sống của các dân tộc. Chúng ta phải ra sức tranh thủ tối đa mọi
cơ hội tốt do xu thế nói trên tạo ra, phát huy hiệu lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,
phải có cơ chế, chính sách tốt để thu hút vốn đầu tư, điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm khai
thác và sử dụng tốt nhất các ngồn lực bên ngoài (vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ
hiện đại), thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
- Tuy nhiên, cũng phải thấy, không có viện trợ lớn nào hoàn toàn vô tư, không kèm
theo những điều kiện nhất định. Qua cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ các nước Đông
Nam Á năm 1997, người ta càng thấy rõ bàn tay của “chủ nghĩa đế quốc về kinh tế”. Vì
vậy, tranh thủ hợp tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần độc lập dân tộc, kêu gọi toàn dân sẵn sàng đem nhân lực, vật lực, tài lực để tăng
cường sức mạnh quốc gia.
Giao lưu, hội nhập đồng thời phải không ngừng trao dồi bản lĩnh và bản sắc văn hoá
của dân tộc, đặc biệt là cho thanh niên. Chỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh
mẽ mới tạo ra bộ lọc tốt để tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đồng thời có sức đề kháng
tốt để chống lại mọi yếu tố văn hoá độc hại từ bên ngoài tràn vào.
3.4. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh
đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư để xây dựng CNXH.
- Để phát huy được quyền làm chủ của người dân, trước hết cán bộ Đảng và Nhà
nước, những người thừa hành công vụ phải trong sạch, liêm khiết, phải thực sự là người
đầy tớ trung thành và tận tuỵ của dân như Bác Hồ mong muốn. Dù Đẩng và Nhà nước có
đường lối, chính sách đúng đắn, nhưng đội ngũ cán bộ thừa hành không tận tuỵ, mẫn cán,
sách nhiễu, tham nhũng, cửa quyền… thì chẳng những họ không làm cho đường lối,
chính sách đó đi được vào người dân, mà có khi họ còn trở thành nguyên nhân trực tiếp
gây nên những điểm nóng, có thể dẫn tới những bùng nổ xã hội không thể xem thường.
- Bài học vô giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công giáo dục, nhắc nhở chúng ta
phải không ngừng chăm lo tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, muốn
thế thì phải quyết tâm làm trong sạch bộ máy Nhà nước, loại trừ những phần tử thoái hoá
biến chất, làm cho Nhà nước thực sự là “của dân, do dân và vì dân”. Chính tệ quan liêu,
tham nhũng, mất dân chủ, tác phong hách dịch, cửa quyền, lối sống xa hoa, lãng phí,
thiếu đạo đức,… của một bộ phận cán bộ có chức, có quyền đã gây nên những vụ bất
bình trong dân, làm đổ vỡ niềm tin của quần chúng vào tương lai của chủ nghĩa xã hội.
V. TÓM TẮT NỘI DUNG CHƯƠNG 3
Chương 3, đề cập đến các một dung chủ yếu sau trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam đã đề cập đến các nội dung chủ yếu
sau:
Một là, trong nội dung ư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam, đã được thể
hiện qua 3 vấn đề cụ thể, đó là tính tất yếu của CNXH ở Việt Nam; quan niệm của Hồ
Chí Minh về đặc trưng bản chất của CNXH ở Việt Nam và Quan điểm của Hồ Chí Minh
về mục tiêu, động lực của CNXH ở Việt Nam
Hai là, trong nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh con đường quá độ lên CNXH ở Việt
Nam, nội dung này làm rõ hai vấn đề trong tư tưởng của người, đó là đặc điểm, nhiệm vụ
của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam và những chỉ dẫn có tính định hướng về nguyên
tắc, bước đi, biện pháp thực hiện trong quá trình xây dựng CNXH.
Ba là, trong phần kết luận đã nhấn mạnh tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con
đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam có giá trị quan trọng, vận dụng cần chú ý các vấn
đề sau: thứ nhất, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; thứ hai, đổi
mới là sự nghiệp của nhân dân, do đó, cần phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn lực nội sinh, để thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; thứ ba, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại; thứ tư, xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà
nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư để xây dựng CNXH.
VI. CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ BÀI TẬP
Trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam? Phân tích quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa
xã hội? Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay ở
nước ta như thế nào?
VII. HƯỚNG DẪN SINH VIÊN TỰ HỌC:
Phần tự học chương 3 Hướng dẫn:
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ - Nghiên cứu giáo trình từ trang 97-103;
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT tr.118-121.
NAM - Sinh viên cần chuẩn bị vở hoặc sổ tay tự
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc học. Ghi chú những nội dung hiểu, tâm đắc
trưng bản chất của CNXH ở Việt Nam và những vấn đề chưa rõ trong phần tự học
(tự học) - Biết lấy ví dụ trong thực tiễn để làm sáng
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH tỏ phần lý luận nội dung tự học
CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN - Ngoài việc ghi lại các nội dung trọng tâm
CNXH Ở VIỆT NAM trong phần tự học, sinh viên cần thiết tự đặt
2. Những chỉ dẫn có tính định hướng ra các câu hỏi, xây dựng hệ thống câu hỏi
về nguyên tắc, bước đi, biện pháp thực tương ứng với các nội dung đã được giáo
hiện trong quá trình xây dựng CNXH trình trình bày sẽ giúp sinh viên nhớ kỹ nội
(tự học) dung tự học…

VIII. GIÁO TRÌNH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO


Giáo trình:
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dùng cho sinh viên đại
học cao đẳng khối không chuyên ngành Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh) NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2016, tr.96-127
Tài liệu tham khảo:
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập (15tập) NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà nội - 2011 (Hồ
Chí Minh toàn tập, đĩa CDROM 15 tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2015.
[2]. http://hochiminh.vn
[3]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội - 2003.
Chương 4
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

I. GIỚI THIỆU
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, những luận điểm của Người về Đảng Cộng
sản, về xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, là một phần
rất quan trọng. Quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Hồ Chí Minh nhằm chỉnh
đốn và đổi mới Đảng Cộng sản Việt Nam, làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh,
xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, là một trong những nhiệm vụ chủ
yếu của toàn Đảng, toàn dân ta. Đây là vấn đề then chốt đảm bảo thắng lợi cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. Trong chương 4, trình bày quan điểm của Hồ Chí
Minh về sự ra đời, vai trò và bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam; về Đảng Cộng sản
Việt Nam cầm quyền và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh.
II. MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Làm cho sinh viên nhận biết và hiểu được các quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng
Cộng sản Việt Nam bao gồm các nội dung về sự ra đời, vai trò và bản chất của Đảng
Cộng sản Việt Nam; về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền và xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh. Qua đó, sinh viên có thể vận dụng được để góp
phần nhận thức đúng vấn đề xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
III. CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
Mô tả CĐR Mức độ
Sau khi học xong chương này, người học có thể: giảng dạy
(I, T, U)
Nhận biết và hiểu được các quan điểm Hồ Chí Minh
G1 G1.5 về Đảng Cộng sản Việt Nam và công tác xây dựng I,T
Đảng trong sạch vững mạnh
Có kỹ năng trình bày, phân tích và khái quát một cách
khoa học nội dung các quan điểm của Hồ Chí Minh về
G2 G2.5 I,T
Đảng Cộng sản Việt Nam và công tác xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh
G3 G3.1 Rèn luyện được kỹ năng làm việc nhóm thông qua T,U
G3.2 việc thảo luận các nội dung của chương để phát triển
G3.3 tư duy phản biện, khả năng lập luận các quan điểm
của Hồ Chí Minh về các nhân tố cho sự ra đời của
G3.4
Đảng Cộng sản Việt Nam và bản chất giai cấp công
G3.5
nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam
Vận dụng được kiến thức đạt được để góp phần nhận
G4 G4.3 thức đúng vấn đề xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam T,U
hiện nay

IV. NỘI DUNG


ĐỀ CƯƠNG CÁC MỤC CHÍNH
I. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ VÀ BẢN CHẤT CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam (tự học)
3. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
4. Quan niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
1. Xây dựng Đảng - Quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
2.Nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1. Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận (tự học)
2.2. Xây dựng Đảng về chính trị (tự học)
2.3. Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ
2.4. Xây dựng Đảng về đạo đức
III. KẾT LUẬN

NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG 4

I. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ VÀ BẢN CHẤT


CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Xuất phát từ thực tiễn phong trào công nhân châu Âu, Mác – Ăngghen cho rằng,
sự ra đời của đảng Cộng sản là sự kết hợp của 2 yếu tố đó là: Chủ nghĩa Mác với phong
trào công nhân.
- Xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước Nga, Lênin cho rằng, sự ra đời của Đảng
Cộng sản là sự kết hợp của 3 yếu tố đó là: Chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân và
một bộ phận binh lính tiến bộ.
Như vậy, quy luật chung cho sự ra đời của đảng Cộng sản đã được Mác, Ăng ghen
nêu ra. Tùy vào điều kiện cụ thể của quốc gia và sự vận động của xã hội, các yếu tố cho
sự ra đời của đảng Cộng sản được vận dụng một cách sáng tạo.
- Khi đề cập đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố là Chủ
nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân, Hồ Chí Minh còn nêu lên yếu tố thứ 3, đó là
phong trào yêu nước.
- Đây chính là quy luật hình thành và phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng
thời là sự bổ sung sáng tạo vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì sao Hồ Chí
Minh lại thêm yếu tố phong trào yêu nước?
Thứ nhất, Phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát
triển của dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, Phong trào công nhân kết hợp với phong trào yêu nước vì nó đều có mục
tiêu chung. Phong trào yêu nước Việt Nam là phong trào rộng lớn nhất có trước phong
trào công nhân từ nghìn năm lịch sử. Nó cuốn hút mọi tầng lớp nhân dân, toàn dân tộc
đứng lên chống kẻ thù. Phong trào công nhân ngay từ khi mới ra đời đã kết hợp với
phong trào yêu nước. Khác với những người cộng sản phương Tây, Hồ Chí Minh và
những người cộng sản Việt Nam đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-
Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp.
Thứ ba, Phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân ngay từ đầu. Hơn
90% dân số là nông dân, họ là bạn đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân.
Thứ tư, Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy
sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Quy luật hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở kết hợp vấn đề dân tộc với
giai cấp, có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình thành Đảng ở một nước thuộc địa.
Để có sự ra đời Đảng Cộng sản ở Việt Nam, trước hết Hồ Chí Minh tìm cách truyền bá
chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Bác viết “không
phải mọi người yêu nước đều là cộng sản, việc tiếp nhận đường lối của Đảng Cộng sản là
cần thiết để xác định mục tiêu yêu nước đúng đắn. Mỗi người cộng sản trước hết phải là
một người yêu nước tiêu biểu, phải truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong dân, lãnh
đạo công nhân và quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng”.
Cách mạng Việt Nam đi từ tự phát đến tự giác, có tổ chức, có đường lối được giác
ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin giành được thắng lợi to lớn đó là nhờ có Đảng Cộng sản Việt
Nam.
2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Sức mạnh to lớn của nhân dân ta chỉ phát huy được khi được tập hợp, đoàn kết và
được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Hồ Chí Minh khẳng định “lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất
to lớn, là vô cùng, vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”,
giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được.
- Hồ Chí Minh nhấn mạnh “Cách mạng trước hết phải có gì? Phải có Đảng
Cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thì con thuyền mới chạy.”
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với quy luật
phát triển của xã hội, vì Đảng không có lợi ích tự thân, ngoài lợi ích của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân
tiến bộ trên thế giới, Đảng không có lợi ích nào khác.
- Vai trò lãnh đạo của Đảng, tính quyết định hàng đầu từ sự lãnh đạo của Đảng đối với
cách mạng Việt Nam đã được thực tế lịch sử chứng minh, không có một tổ chức chính trị nào
có thể thay thế được.
- Mọi âm mưu nhằm hạ thấp, hoặc xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, đều xuyên tạc
thực tế lịch sử cách mạng dân tộc ta, trái với mặt lý luận và thực tiễn, đều đi ngược với xu
thế phát triển của xã hội Việt Nam.
3. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng
sản Việt Nam chúng ta thấy nhận thức của Hồ Chí Minh về vấn đề này là nhất quán. Quá
trình này được thể hiện:
+ Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng là đội
tiên phong của giai cấp vô sản.
+ Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trong giai đoạn
này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì
Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó
phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
+ Năm 1953, Hồ Chí Minh viết: “Đảng Lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần
lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc… Đảng là đảng của giai cấp lao động mà cũng là
đảng của toàn dân”.
+ Năm 1957, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc.
+ Năm 1961 – thời kỳ miền Bắc xây dựng CNXH, Người khẳng định: Đảng ta là
đảng của giai cấp, đồng thời cũng là đảng của dân tộc, không thiên tư, thiên vị.
+ Năm 1965, Hồ Chí Minh cho rằng: Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ
tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
- Cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân của Đảng xét về
mặt ngôn từ có nhiều chỗ khác nhau, nhưng thực chất Người luôn khẳng định tính chất
giai cấp công nhân của Đảng. Điều này thể hiện:
+ HCM khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta dựa trên cơ sở thấy rõ
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, tuy số lượng ít so với dân số nhưng có
đầy đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo đất nước thực hiện những mục tiêu của cách
mạng. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam không chỉ giải phóng giai cấp
mà trước hết phải giải phóng dân tộc và vươn lên trở thành dân tộc. Còn các tầng lớp, giai
cấp khác chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
+ Về lý luận: Hồ Chí Minh luôn chủ trương Đảng phải theo chủ nghĩa Mác – Lênin,
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
Đảng. Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân.
+ Về mục tiêu: Hồ Chí Minh cho rằng: Đảng sẽ đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản.
+ Về tổ chức: Tổ chức và sinh hoạt theo những nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân.
- Về tính dân tộc của Đảng:
+ Bản chất của Đảng là bản chất giai cấp công nhân, nhưng quan niệm Đảng không
những là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động và của toàn
dân tộc. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc, hoạt động của Đảng là đem lại lợi ích
cho toàn dân tộc. Cho nên nhân dân Việt Nam coi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của
chính mình.
+ Trong thành phần của mình, ngoài công nhân, còn có những người ưu tú trong
giai cấp nông dân, trí thức và các thành phần khác.
+ Điều này cho thấy cơ cở xã hội rất rộng lớn, bao gồm tất cả quốc dân trừ bọ phản
quốc và tham ô ra ngoài. Thành phần xuất thân của các đảng viên rất đa dạng: công nhân,
nông dân, trí thức, tiểu tư sản….
- Hiện nay, khi đề cập đến bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta, các văn kiện
của Đảng đã chỉ ra rằng:
+ Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong đường lối của Đảng.
+ Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của Đảng.
+ Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng.
+ Nêu cao tinh thần yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
4. Quan niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
4.1. Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền
Với đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, Đảng đã lãnh đạo toàn thể dân
tộc giành chính quyền, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đó cũng là thời
điểm Đảng Cộng sản Việt Nam (Đông Dương) trở thành Đảng cầm quyền.

4.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền.


- “Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng chính
trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh dạo chính quyền để điều hành, quản lý
đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm cùng chỉ một hiện tượng Đảng lãnh đạo xã
hội sau khi giành được chính quyền nhà nước như: “Đảng nắm quyền”, “Đảng lãnh đạo
chính quyền”, “Đảng cầm quyền”. Trong đó, thuật ngữ “Đảng cầm quyền” phản ánh rõ
nhất, chính xác nhất vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình cải tạo
xã hội củ thuộc địa nữa phong kiến, xây dựng chế độ xã hội mới, xã hội xã hộ chủ nghĩa.
- Theo Hồ Chí Minh, “Đảng cầm quyền” là Đảng tiếp tục lãnh đạo sự ghiệp cách
mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được quyền lực nhà
nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
- Khi Đảng cầm quyền:
+ Mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền: Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta không có
lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Đó là mục đích, là lý tưởng
không bao giờ thay đổi trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng.
+ Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vùa là “người đầy tớ” trung thành của
nhân dân. “Người lãnh đạo” là xác định quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với toàn
bộ xã hội và khí có chính quyền, Đảng lãnh đạo chính qyền nhà nước. Đối tượng lãnh
đạo của Đảng là toàn thể quần chúng nhân dân trong toàn dân tộc, nhằm đem lại độc lập
cho dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Nhưng muốn lãnh đạo được nhân dân, trước hết Đảng phải có tư cách, phẩm chất,
năng lực cần thiết. Vì “quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức” và
“chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách
đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Là người lãnh đạo, theo HCM, lãnh đạo phải bằng giáo dục, thuyết phục, nghĩa là
Đảng phải làm cho dân tin, dân phục để dân theo. Đồng thời Đảng phải tổ chức, đoàn kết họ
lại thành một khối thống nhất, bày cách cho dân và hướng dẫn họ hành động.
Đảng là người lãnh đạo, nhưng Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: Đảng phải sâu sát, gắn bó
mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và phải
chịu sự kiểm soát của nhân dân.

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN


VIỆT NAM TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
1. Xây dựng Đảng - Quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
- Công tác xây dựng Đảng chiếm vị trí đặc biệt trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Công tác xây dựng Đảng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục cùng với sự
vận động của sự nghiệp cách mạng. Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Khi cách
mạng gặp khó khăn phải làm tốt công tác xây dựng Đảng để cán bộ đảng viên giữ vững
niềm tin, tìm nguyên nhân thất bại và giải pháp để vượt qua thất bại đó. Ngay cả khi cách
mạng đang trên đã thắng lợi, phải làm tốt công tác xây dựng Đảng để cán bộ và đảng viên
không chủ quan, tự mãn, rơi vào bệnh “kiêu ngạo cộng sản”.
- Công tác xây dựng và chỉnh đốn đảng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục
với các căn cứ sau:
Thứ nhất, công tác xây dựng đảng bị chế định bởi quá trình phát triển liên tục của
sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Thứ hai, Đảng là một bộ phận hợp thành cơ cấu xã hội, mỗi cán bộ đảng viên đều
chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường xã hội.
Thứ ba, xây dựng Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và
tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà nhân dân giao phó.
Thứ tư, trong điều kiện Đảng trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng Đảng đặc
biệt quan trọng. Bởi quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực thoái hóa, biến
chất, lợi dụng quyền lực để mưu lợi cá nhân.
2. Nội dung công tác xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam
2.1. Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận
- Hồ Chí Minh cho rằng, công tác xây dựng Đảng phải dựa vào lý luận cách mạng
và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người nói: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có
chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”; “bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”...
- Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân
lao động, các dân tộc bị áp bức và giải phóng con người nói chung, đồng thời là học
thuyết về sự phát triển xã hội lên một hình thái cao hơn, xoá bỏ hoàn toàn bất công,
nguồn gốc đẻ ra sự bóc lột, áp bức.
- Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt có nghĩa là Đảng ta nắm vững tinh thần của
chủ nghĩa Mác-Lênin, lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin,
đồng thời nắm vững tinh hoa văn hoá dân tộc và trí tuệ thời đại vận dụng sáng tạo vào hoàn
cảnh cụ thể của nước ta. Không máy móc, kinh viện, giáo điều.
- Trong tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh lưu ý những
điểm sau đây:
+ Học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin phải luôn phù hợp với
hoàn cảnh và từng đối tượng.
+ Vận dụng chủ nghĩa Mác – lênin phải phù hợp từng hoàn cảnh.
+ Chú ý học tập, kế thừa kinh nghiệm tốt của các Đảng cộng sản khác, tổng kết kinh
nghiệm của mình để bổ sung cho chủ nghĩa Mác-Lênin.
+ Đảng tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
2.2. Xây dựng Đảng về chính trị
- Theo Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về chính trị đó là: Xây dựng đường lối chính
trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng
chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị. Trong đó Hồ Chí Minh
xem đường lối chính trị là vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Đó chính
là các cương lĩnh của Đảng, đường lối chiến lược, phương hướng phát triển kinh tế - xã
hội trong các Văn kiện Đảng.
- Muốn xây dựng đường lối chính trị đúng đắn cần phải: dựa trên cơ sở lý luận chủ
nghĩa Mác- Lênin, vận dụng chúng vào hoàn cảnh cụ thể nước ta trong từng thời kỳ; học tập
kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản anh em; đặc biệt phải có đội ngũ đảng viên luôn luôn
kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh.
2.3. Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ.
- Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy: Hồ Chí Minh cho rằng: sức mạnh của Đảng
bắt nguồn từ tổ chức. Do vậy, tổ chức bộ máy của Đảng từ trung ương đến cơ sở phải thật
chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Trong đó, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ. Bởi
vì, đối với Đảng, chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng, là
môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên, là nơi gắn kết Đảng
với quần chúng nhân dân.
- Các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng
+ Tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản của tổ chức Đảng. Tập trung là thống nhất về tư tưởng, tổ
chức, hành động. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên chấp
hành nghị quyết của tổ chức Đảng. “Đảng tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành thì chỉ như
một người”.
+ Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Tập thể lãnh đạo, nhiều người thì thấy hết mọi việc, hiểu hết mọi mặt của vấn đề, có
nhiều kiến thức, tránh tệ bao biện, quan liêu, độc đoán, chủ quan. “Việc gì đã bàn kỹ
lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít
người phụ trách kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới
chạy”.
Cá nhân phụ trách, sau khi bàn bạc kỹ lưỡng thì phải giao cho một người phụ trách
(nếu là nhóm người thì có một người phụ trách chính) để tránh bừa bãi, lộn xộn, vô chính
phủ dễ hỏng việc.
+ Tự phê bình và phê bình
Đây là nguyên tắc sinh hoạt Đảng, là quy luật phát triển Đảng. Tự phê bình là mỗi
đảng viên phải tự thấy rõ mình để phát huy mặt ưu điểm, khắc phục nhược điểm. Tự phê
bình mà tốt thì mới phê bình người khác được. “muốn đoàn kết trong Đảng, phải thống nhất
tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Đó là vũ khí sắc bén
để rèn luyện đảng viên.
Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình thật đúng và nghiêm túc không phải dễ
dàng. Nó là vấn đề khoa học và nghệ thuật cách mạng. “Phải tiến hành thường xuyên như
rửa mặt hàng ngày: phải trung thực, chân thành, thẳng thắn, không nể nang, không giấu
giếm và cũng không thêm bớt khuyết điểm, phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau”.
Cán bộ, đảng viên phải luôn dùng và khéo dùng. Để thực hiện tốt nguyên tắc này mọi
người cần trung thực chân thành với nhau - với chính mình và với người khác, “phải có
tình đồng chí yêu thương lẫn nhau”. Bác nhắc, tránh lợi dụng phê bình để nói xấu nhau, bôi
nhọ nhau, đả kích nhau...
+ Kỷ luật nghiêm minh và tự giác
Đây là nguyên tắc đảng kiểu mới do Lênin đề ra, đảng thực sự là một tổ chức chiến đấu
chặt chẽ để giành thắng lợi cho sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh
coi trọng xây dựng kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn
cho Đảng.
Nghiêm minh là thuộc về tổ chức đảng, kỷ luật đối với mọi đảng viên không phân
biệt. Mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật Đảng.
Tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cán bộ đảng viên đối với Đảng. Kỷ luật này do
lòng tự giác của họ về nhiệm vụ của họ đối với Đảng. Yêu cầu cao nhất của kỷ luật đảng
là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng tuân theo nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo
và sinh hoạt Đảng. “mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng
những kỷ luật đảng, mà cả kỷ luật của đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền
cách mạng.”
+ Đoàn kết thống nhất trong Đảng
“Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng ta, của nhân dân ta...phải giữ
gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.” Cơ sở để đoàn kết nhất
trí trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của Đảng, điều lệ của Đảng. “Ngày nay, sự
đoàn kết trong đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các
cán bộ lãnh đạo”.
- Cán bộ, công tác cán bộ của Đảng
HCM cho rằng, cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy, là mắt khâu trung gian nối
liền giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Mọi việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt
hay kém. Người cán bộ phải có đức và tài, trong đó, đức là gốc.
Công tác cán bộ theo HCM đó là: tuyển chọn cán bộ, đào tạo, huấn luyện, bồi
dưỡng; bố trí sắp xếp và thực hiện các chính sách đối với cán bộ.
2.4. Xây dựng Đảng về đạo đức
Hồ Chí Minh khẳng định: Một Đảng chân chính cách mạng phải có đạo đức. Đạo
đức tạo nên uy tín, sức mạnh của Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh đạo, hướng dẫn quần
chúng nhân dân.
Xét về thực chất, đạo đức của Đảng ta là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đạo đức
đó mang bản chất của giai cấp công nhân, cũng là đạo đức Mác – Lênin, đạo đức cộng
sản chủ nghĩa mà nội dung cốt lõi là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu. Vì thế, Hồ Chí Minh
chỉ rõ: Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Có đạo đức
cách mạng trong sáng. Đảng ta mới lãnh đạo nhân đân đấu tranh giải phóng dân tộc, làm
cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Đó là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và
cũng là tư cách số một của Đảng cầm quyền.
Giáo dục đạo đức cách mạng là một nội dung quan trọng trong việc tu dưỡng rèn
luyện của cán bộ, đảng viên. Nó gắn chặt với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
dưới mọi hình thức nhằm làm cho Đảng luôn luôn thật sự trong sạch.
Đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức, gắn đạo đức với tư cách của một Đảng chân
chính cách mạng, Hồ Chí Minh đã góp phần bổ sung, mở rộng, phát triển quan điểm của
chủ nghĩa Mác Lênin về nội dung công tác xây dựng Đảng phù hợp với truyền thống văn
hóa, lịch sử của các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam
III. KẾT LUẬN
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng
trên tất cả các mặt, làm cho Đảng thực sự trong sạch, đạt đến tầm cao về đạo đức, trí tuệ,
bản lĩnh chính trị, vững vàng trước mọi thử thách của lịch sử.
Thứ nhất, về chính trị. Đó là đường lối chính trị đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững
vàng trong mọi tình huống phức tạp, hiểm nghèo. Trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, về tư tưởng. Đó là tư tưởng cách mạng triệt để, tiến công, chống chủ nghĩa
cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ. Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin , tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng phải biết làm giàu trí tuệ bằng việc kế thừa và phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Thứ ba, về tổ chức. Đó là một tổ chức chính trị trong sạch, vững mạnh.
Thứ tư, về đạo đức, lối sống. Đó là mỗi cán bộ, đảng viên coi việc tu dưỡng đạo
đức, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gắn bó máu thịt với nhân dân.
V. TÓM TẮT
Chương 4, trình bày các quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam gồm có các nội dung chính:
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò và bản chất của Đảng Cộng sản Việt
Nam
1.1. Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong phần này đề cập đến các quan điểm của Hồ Chí Minh về sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đây là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện
thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Bằng việc phát hiện và nhấn mạnh vai trò của phong
trào yêu nước bên cạnh phong trào công nhân trong quá trình ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Hồ Chí Minh đã bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về
sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa.
1.2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong phần này đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Muốn cách mạng thành công, trước hết phải có Đảng để nhận rõ tình hình,
đường lối và định phương châm đúng đắn ; Đảng phải tổ chức và giáo dục nhân dân
thành một đội quân thật mạnh mẽ để đánh tan mọi kẻ thù. Sự ra đời, tồn tại và phát triển
của Đảng Cộng sản Việt Nam là phù hợp với quy luật vận động và phát triển của xã hội.
1.3. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong phần này đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của gia cấp công
nhân, đội tiền phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Tuy
nhiên Đảng không chỉ đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đại diện cho lợi
ích của nhân dân lạo động và dân tộc Việt Nam.

1.4. Quan niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Trong phần này đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm
quyền. Đây là nội dung rất quan trọng của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản, Đảng lãnh
đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền sẽ xứng đáng là đảng cầm quyền, nhưng mục
đích, lý tưởng của Đảng không bao giờ thay đổi, Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là
người đầy tớ trung thành của nhân dân.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trrong sạch,
vững mạnh
2.1. Xây dựng Đảng - Quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
Theo Hồ Chí Minh, công tác xây dựng Đảng phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục kể cả khi thất bại cũng như lúc thành công của sự nghiệp cách mạng. Bởi sự vận
động và phát triển của Đảng sẽ đồng hành cùng với sự vận động và phát triển xã hội, của
đất nước. Xây dựng Đảng là môi trường tốt để mỗi cán bộ, đảng viên hiểu rõ, thực hiện
đường lối của Đảng, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất và năng lực để đẩy
lùi mọi tệ nạn do thoái hóa, biến chất gây ra, đáp ứng với yêu cầu của nhân dân và sự
phát triển của cách mạng.
2.2 Nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
- Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận
Trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận thì việc tiếp thu và vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lênin đóng vai trò quyết định. Trong quá trình đó phải nắm vững tinh
thần, lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin đồng thời phải
tiếp thu tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, tham khảo kinh nghiệm của các nước
anh em và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam để định ra đường lối,
chính sách đúng đắn.
- Xây dựng Đảng về chính trị
Xây dựng đường lối chính trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của
Đảng, vì vậy Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình chủ yếu bằng việc đề ra cương
lĩnh, đường lối chiến lược, phướng hướng phát triển của đất nước lâu dài cũng như từng
giai đoạn cụ thể.
- Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ
Trong công tác xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ gồm 3 vấn
đề : hệ thống tổ chức Đảng ; nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng và công tác cán bộ, trong
đó các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng đóng vai trò quan trọng. Đây là nguyên tắc xây
dựng Đảng kiểu mới của gia cấp vô sản, gồm : tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo - cá
nhân phụ trách ; tự phê bình và phê bình ; kỷ luật nghiêm minh - tự giác và đoàn kết
thống nhất trong Đảng.
- Xây dựng Đảng về đạo đức
Làm tốt công tác xây dựng Đảng về đạo đức cũng chính là tạo nên uy tín, sức mạnh
của Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh đạo quần chúng nhân dân. Có đạo đức cách mạng
trong sáng Đảng mới lãnh đạo được nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng
xã hội mới. Đó cũng chính là mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
3. Kết luận
Trong giai đoạn cách mạng mới vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam càng
phải được khẳng định, năng lực và sức chiến đấu của Đảng cần được nâng cao để hoàn thành
nhiệm vụ mà dân tộc giao phó. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam
đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng trên tất cả các mặt : tư tưởng - lý luận; chính trị ; tổ chức,
cán bộ ; đạo đức, làm cho Đảng thực sự trong sạch, đạt đến tầm cao về trí tuệ, đạo đức, bản
lĩnh, vững vàng trước mọi thử thách của lịch sử.
VI. CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ BÀI TẬP
Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam? Phân
tích bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam? Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh trong thực hiện các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt, xây dựng Đảng hiện nay như
thế nào?.
VII. HƯỚNG DẪN SINH VIÊN TỰ HỌC:
Phần tự học chương 4 Hướng dẫn:
I. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH - Nghiên cứu giáo trình từ trang tr.132-
VỀ VAI TRÒ VÀ BẢN CHẤT CỦA 133 ; tr.150-153
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - Sinh viên cần chuẩn bị vở hoặc sổ tay
2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam tự học. Ghi chú những nội dung hiểu,
(tự học) tâm đắc và những vấn đề chưa rõ trong
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ phần tự học
XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT - Biết lấy ví dụ trong thực tiễn để làm
NAM TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH sáng tỏ phần lý luận nội dung tự học;
2.Nội dung công tác xây dựng Đảng liên hệ trực tiếp đến công tác xây dựng
Cộng sản Việt Nam Đảng CSVN hiện nay.
2.1. Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận - Sinh viên tự đặt ra các câu hỏi, xây
(tự học) dựng hệ thống câu hỏi tương ứng với
2.2. Xây dựng Đảng về chính trị (tự học) các nội dung tự học…

VIII. GIÁO TRÌNH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO


Giáo trình:
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dùng cho sinh
viên đại học cao đẳng khối không chuyên ngành Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh)
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2016, tr.128-162.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập (15tập) NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà nội - 2011 (Hồ
Chí Minh toàn tập, đĩa CDROM 15 tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2015.
[2]. http://hochiminh.vn
[3]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa
học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội - 2003.
Chương 5
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ

I. GIỚI THIỆU
Trong những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt
Nam, tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế của Người là một cống hiến
đặc sắc, có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn hết sức quan trọng. Thấm nhuần và vận dụng
tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế là điều kiện không
thể thiếu để giúp chúng ta tìm ra những chủ trương, chính sách phù hợp trong việc vận
động, tập hợp quần chúng nhân dân để thực hiện tốt sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
II. MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Làm cho sinh viên nhận biết và hiểu được các quan điểm của Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế bao gồm: vai trò, lực lượng, hình thức đại đoàn kết
dân tộc và đoàn kết quốc tế. Qua đó, sinh viên có thể vận dụng kiến thức đạt được để góp
phần nhận thức đúng vấn đề xây dựng đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
III. CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
Mô tả CĐR Mức độ
Sau khi học xong chương này, người học có thể: giảng dạy
(I, T, U)
Nhận biết và hiểu được các quan điểm Hồ Chí Minh
G1 G1.6 I,T
về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
Có kỹ năng trình bày, phân tích và khái quát một cách
G2 G2.6 khoa học nội dung các quan điểm của Hồ Chí Minh về I,T
đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
G3 G3.1 Rèn luyện được kỹ năng làm việc nhóm thông qua T,U
G3.2 việc thảo luận các nội dung của chương để phát triển
G3.3 tư duy phản biện, khả năng lập luận các quan điểm
G3.4 của Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc
G3.5 trong sự nghiệp cách mạng; sự sáng tạo của Hồ Chí
Minh về việc xác định các lực lượng và thành lập các
mặt trận trong tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân
tộc
Vận dụng được kiến thức đạt được để góp phần nhận
G4 G4.4 thức đúng vấn đề xây dựng đại đoàn kết dân tộc và T,U
đoàn kết quốc tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

IV. NỘI DUNG


ĐỀ CƯƠNG CÁC MỤC CHÍNH
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1. Vai trò đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng.
1.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công
của cách mạng.
1.2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng của dân tộc
2. Lực lượng đại đoàn kết dân tộc
2.1. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
2.2. Thực hiện đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân
nghĩa - đoàn kết của dân tộc; đồng thời phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng,
tin vào nhân dân, tin vào con người
3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc (Tự học)
3.1. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất (tự
học)
3.2. Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống
nhất (tự học)
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
1. Vai trò của đoàn kết quốc tế
2.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
2.2. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện
thắng lợi các mục tiêu cách mạng
2. Lực lượng đoàn kết và hình thức tổ chức (tự học)
2.1. Các lực lượng cần đoàn kết (tự học)
2.2. Hình thức đoàn kết quốc tế (tự học)
3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
3.1. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý có tình
3.2. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
III. KẾT LUẬN

NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG 5


I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1. Vai trò đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
1.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của
cách mạng.
- Đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam trong lịch sử dựng nước
và giữ nước.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc nhất quán, xuyên suốt toàn bộ tiến
trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được
nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của
dân tộc, của giai cấp.
- Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng của cách mạng, trước những yêu
cầu và nhiệm vụ khác nhau, Hồ Chí Minh điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp
lực lượng cho phù hợp với từng đối tượng, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải là vấn đề
sống còn của cách mạng.
- Theo Hồ Chí Minh, muốn đưa cách mạng đi đến thành công thì phải có lực lượng,
lực lượng đó đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới. Muốn
có lực lượng thì phải thực hiện đại đoàn kết, đoàn kết rộng rãi tất cả các tầng lớp nhân
dân không phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc… đoàn kết thành một khối vững chắc vì
mục tiêu chung.
- Hồ Chí Minh cho rằng, đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân,
mà đại đa số nhân dân là công nhân và nông dân và các tầng lớp nhân dân khác. Đó là cái
nền, cái gốc của đại đoàn kết. Có nền vững, gốc chắc rồi thì cần phải đoàn kết với các
tầng lớp khác, tạo thành mặt trận đoàn kết rộng rãi.
- Hồ Chí Minh đã có những câu nói nổi tiếng về đại đoàn kết:
+ “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi…, đoàn kết là then chốt của thành
công”.
+ “Đoàn kết là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt đẻ ra con cháu đều tốt”.
+ “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công”.
1.2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng của dân tộc
- Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp, tập hợp tổ chức
lực lượng cách mạng, mà cao hơn đó là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng nhằm
phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, ở mỗi một thời kỳ cách mạng, Đảng phải xây
dựng được đường lối chiến lược thật sự khoa học, phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi
của đại đa số dân chúng, để thu hút và phát huy triệt để sức mạnh của quần chúng vào sự
nghiệp cách mạng.
- Đại đoàn kết phải là điểm xuất phát và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối,
chủ trương của Đảng.
- Như vậy:
+ Đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp lực lượng cách mạng, mà
đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Vấn đề đại đoàn kết dân tộc không
phải là một chủ trương, một ý đồ xuất phát từ ý muốn chủ quan của lực lượng lãnh đạo,
mà đại đoàn kết phải xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cách mạng do quần chúng tiến
hành.
+ Khi đó, lực lượng lãnh đạo chỉ có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển
những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành hiện thực có tổ chức, thành sức
mạnh vô địch của cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
2. Lực lượng đại đoàn kết dân tộc
2.1. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
- Dân và nhân dân là khái niệm có nội hàm rộng, Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm
này để chỉ chỉ toàn bộ “con dân nước Việt”, “con Lạc, cháu Hồng”, “con Rồng, cháu Tiên”,
không phân biệt dân tộc thiểu số hay đa số, tín ngưỡng, già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo… Như
vậy dân và nhân dân trong tư tưởng Hồ chí Minh vừa được thể hiện với tư cách là một con
người Việt Nam cụ thể, vùa là tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân.
- Đại đoàn kết dân tộc, có nghĩa là tập hợp được tất cả mọi người dân vào một khối
trong cuộc đấu tranh chung.
- Người còn chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà mối quan hệ giai cấp, dân
tộc để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng
đó có lòng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không là Việt gian, không phản bội
lại quyền lợi của dân chúng là được.
- Với tư tưởng đại đoàn kết rộng rãi như vậy, Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
2.2. Điều kiện thực hiện đại đoàn kết toàn dân
- Thứ nhất, để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu
nước
- Phải có lòng khoan dung, độ lượng, thương yêu, tin tưởng con người.
Quan điểm này của Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống nhân ái, khoan dung của
dân tộc, trên cơ sở xác định rõ vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của nhân dân trong lịch
sử và trong sự nghiệp cách mạng.
Người cho rằng, trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này
hay thế khác đều là dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên, ta phải khoan hồng, độ lượng, ta phải
nhận thức rằng là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những
đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành
đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn vẻ vang.
- Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của
nhân dân là nguyên tắc tối cao.
- Luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, thực hiện đại đoàn kết
với phương châm “nước lấy dân làm gốc”.
Nền gốc của đại đoàn kết là liên minh công - nông. Nền gốc vững vẫn cần phải
đoàn kết với các tầng lớp nhân dân khác.
3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
3.1. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống
nhất
- Nhận thức rõ rằng đoàn kết phải có vỏ vật chất, phải có hình thức cụ thể mới vững
mạnh được, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến vấn đề tổ chức từ rất sớm, đặc biệt từ khi
Đảng ra đời, tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Khối đại đoàn kết dân tộc phải được giác ngộ về mục tiêu, tổ chức thành khối
vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Và phải đưa quần chúng
vào tổ chức phù hợp với từng giai tầng, từng lứa tuổi, giới tính, ngành nghề, tôn giáo, phù
hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng. Đó có thể là hội ái hữu hay
tương trợ, công hội hay nông hội, đoàn thanh niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi
đồng hay hội phụ lão, Hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước hay nghiệp đoàn…
+ Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước. Trong
từng thời kỳ Mặt trận có những nét khác nhau và tên gọi khác nhau (Hội phản đế đồng
minh-1930, Mặt trận dân chủ-1936, Mặt trận nhân dân-1939, Mặt trận Việt Minh-1941,
Mặt trận Liên Việt -1946, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam-1960, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam-1955, 1976), căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng, nhưng
đó phải là mặt trận chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp đông đảo các lực lượng phấn đấu vì
mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
3.2. Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc
thống nhất
Một là, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên
minh công - nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Sở dĩ phải lấy liên minh công - nông làm nền tảng vì: “họ là người trực tiếp sản
xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết và cũng bị áp bức bóc lột
nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp
khác”.
- Người cũng căn dặn, làm cách mạng phải có tri thức và tầng lớp trí thức rất quan
trọng đối với cách mạng. Người nói: “trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây
dựng CNXH, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần
đoàn kết chặt chẽ thành một khối”.
- Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song chỉ có thể
được củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối
với Mặt trận là vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu đảm bảo cho Mặt trận tồn
tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn.
- Mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận là mối quan hệ máu thịt. Không có Mặt trận,
Đảng không có lực lượng, không thể thực hiện được nhiệm vụ cách mạng; không có sự
lãnh đạo của Đảng, Mặt trận không thể hình thành, phát triển và có đường lối đúng đắn.
- Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là thành viên của Mặt trận. Đảng lãnh đạo bằng
việc xác định chính sách mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng.
Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng nhân
ái, chân thành để cảm hoá, khơi dậy tinh thần tự giác, tự nguyện, không gò ép quan liêu
mệnh lệnh.
Hai là, Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao
của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
- Độc lập, tự do là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết, là mẫu số chung để
quy tụ các giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo vào trong Mặt trận dân tộc thống
nhất.
- Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra các tiêu
chí đảm bảo quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân là độc lập, tự do và hạnh phúc.
Ba  là, Mặt trận dân tộc hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm bảo
đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
- Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải
được đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, đi đến nhất trí, loại trừ
mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức
- Thực hiện nguyên tắc này cũng phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công
nhân, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lợi ích chung
và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt.
Bốn là, đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết. Phương châm
là “cầu đồng tồn dị” lấy cái chung để hạn chế cái riêng. Trong đoàn kết phải luôn đấu
tranh chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một
chiều.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí
và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học
hỏi những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân
ái, vì nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên CNXH thì toàn dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn kết
thực sự và cùng nhau tiến bộ”.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là kết tinh mối quan hệ biện chứng
giữa dân tộc với giai cấp, nhân loại. Mở rộng khối đại đoàn kết đến đâu thì giải quyết
đúng đắn mối quan hệ dân tộc, giai cấp, nhân loại đến đó. Quyền lợi của nhân dân lao
động luôn gắn với quyền lợi tối cao của dân tộc.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
1. Vai trò của đoàn kết quốc tế
1.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
- Tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè
quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thế giới tạo
ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù.
- Sức mạnh dân tộc là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước hết là
chủ nghĩa yêu nước truyền thống, ý thức tự lực, tự cường của dân tộc.
- Sức mạnh quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng: Phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc; Phong trào cách mạng của công nhân và nhân dân lao động các nước
chính quốc và TBCN nói chung; phong trào XHCN; Phong trào vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương...
- Sức mạnh thời đại mà Hồ Chí Minh nhận thức còn là sức mạnh của tiến bộ khoa
học công nghệ, làm thay đổi có tính cách mạng về các lĩnh vực như: năng lượng, vật liệu,
công nghệ sinh học, giao thông vận tải…, loài người đã tiến một bước dài trong việc
chinh phục thiên nhiên. “50 năm qua thế giới đã có những chuyển biến lớn... đặc biệt là
sức mạnh nguyên tử, nhiều hơn thế kỷ trước cộng lại”.
- Theo Hồ Chí Minh thực hiện đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho thực hiện đoàn kết quốc tế. Đoàn kết quốc tế là nhân
tố thường xuyên và hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi.
1.2. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực
hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng
- Kết hợp nhuần nhuyễn các vấn đề dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, không chỉ vì sự thắng lợi
của cách mạng mỗi nước mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại: Hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và XHCN.
- Muốn đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung, các đảng cộng sản
phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng cơ hội, vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh...
- Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh: Kết
hợp nhuần nhuyễn các vấn đề dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản mà cốt lõi là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
- Công lao to lớn đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã đặt phong trào cách
mạng Việt Nam vào hàng ngũ, vào quỹ đạo của cách mạng thế giới, đưa dân tộc Việt
Nam đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin.
2. Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế
2.1. Các lực lượng cần đoàn kết
- Phong trào cộng sản, phong trào công nhân thế giới là lực lượng nòng cốt của
đoàn kết quốc tế.
+  Tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng cho
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đồng thời Người cũng tìm thấy một lực lượng ủng hộ
mạnh mẽ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, đảm bảo cho sự
nghiệp cách mạng của nước nhà đi đến thắng lợi vẻ vang. Đó là phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế; là Liên Xô và sau này là các nước XHCN; là Quốc tế III.
+ Thực tế, Người nhận thấy, chủ nghĩa đế quốc là một lực lượng phản động quốc tế,
là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Vì vậy, chỉ có sự đoàn kết, nhất trí,
đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao động thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản
đều là anh em” mới có thể thắng được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa thực dân.
+ Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các đảng Cộng sản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp vô sản
trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn
thế giới.
+ Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta không tách rời sự
đồng tình, ủng hộ của Liên Xô và các nước XHCN, của các Đảng Cộng sản và công nhân
quốc tế.
- Đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa.
+ Ra đi tìm đường cứu nước từ một nước nô lệ nên trái tim Người cùng nhịp đập
với nổi thống khổ của các dân tộc khác cùng hoàn cảnh với dân tộc mình.
+ Từ sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc để dễ bề cai trị của
các nước đế quốc, tạo sự thù ghét, đối kháng dân tộc, chủng tộc,… nhằm làm suy yếu sức
mạnh của các phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
+ Người đề nghị Quốc tế cộng sản phải làm sao cho các dân tộc hiểu biết lẫn nhau,
xích lại gần nhau (“làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau,
hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông tương
lai, khố liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”) và bằng
mọi cách phải làm cho “đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai
cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này”.
- Đoàn kết với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình, dân chủ, tự
do và công lý
+ Xuất phát từ mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là đấu tranh cho hoà bình, độc
lập, thống nhất và tiến bộ, Hồ Chí Minh quan tâm đến việc khơi dậy lương tri của loài
người, tạo nên tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ từ các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức
và từng người cụ thể trên hành tinh đối với cuộc cách mạng chính nghĩa của nhân dân ta.
+ Quan điểm ngoại giao này cũng thể hiện chủ nghĩa nhân văn trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Người đã tìm thấy bạn ngay trong các nước đi xâm lược. Bởi vậy, mà Người
chủ trương chống thực dân, chống bọn xâm lược chứ không phải chống người Pháp,
người Mỹ nói chung.
2.2. Hình thức đoàn kết quốc tế
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết quốc tế đối với cách mạng dân
tộc, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến việc thành lập các mặt trận. Đó là:
- Chủ trương thành lập một liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung giữa 3
nước Đông Dương.
Năm 1941, để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, Người quyết
định thành lập mặt trận riêng biệt, Mặt trận độc lập đồng minh, cho từng nước Việt Nam,
Lào, Cao Miên, tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc
hình thànhMặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào, phối hợp, giúp đỡ nhau cùng chiến đấu,
cùng thắng lợi.
- Thiết lập mặt trận trong phe dân chủ
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác
nhiều mặt theo tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em” với Trung Quốc, nước láng
giềng có quan hệ lịch sử - văn hoá lâu đời với ViệtNam.
+ Thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu Á và châu Phi đang đấu tranh giành độc
lập.
Từ những năm 1920, cùng với việc sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa tại Pháp, Hồ
Chí Minh đã tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại Trung Quốc. Đây là
hình thức sơ khai của mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức theo xu hướng vô sản, lần
đầu tiên xuất hiện trong lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Với sự kiện này,
Người đã góp phần đặt cơ sở cho sự ra đời của Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với
Việt Nam.
- Thiết lập mặt trận đối với các lực lượng yêu chuộng hoà bình, công lý
Trong những năm đấu tranh, Hồ Chí Minh đã tiến hành những hoạt động ngoại giao
không mệt mỏi nhằm xây dựng các quan hệ với Mặt trận dân chủ và các lực lượng đồng
minh chống phát xít, đoàn kết với nhân dân tiến bộ ở các nước trên thế giới, kể cả ở Mỹ
và Pháp, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc
xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết  vì thắng lợi của cách mạng của Hồ Chí Minh đã đặt
cơ sở cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc, Mặt trận đoàn
kết Việt - Miên - Lào, Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam, Mặt trận nhân
dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển
rực rỡ và thắng lợi to lớn của tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
3. Nguyên tắc xây dựng khối đại đoàn kết quốc tế
3.1. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý có tình
- Đối với phong trào cộng sản công nhân quốc tế, dứt khoát giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ
nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.
+ Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng là “điều kiện quan trọng để đảm bảo
cho phong trào cộng sản và công nhân toàn thắng trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương
lai tươi sáng của toàn thể loài người”. Thực hiện sự đoàn kết đó cũng phải đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa
quốc tế vô sản.
+ “Có lý” tức là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin,
phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới; đồng thời phải biết vận dụng linh
hoạt, sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt động thực tiễn của mỗi nước, mỗi đảng.
+ “Có tình” là sự cảm thông, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của những
người cùng chung lý tưởng, chung mục tiêu đấu tranh; phải khắc phục tư tưởng “sô vanh”
nước lớn, áp đặt, hoặc sử dụng các giải pháp về kinh tế, chính trị, … để gây sức ép với
nhau. Có tình còn đòi hỏi trong mọi vấn đề phải chờ đợi nhau để cùng nhận thức, cùng
hành động vì lợi ích chung. Tôn trọng lợi ích của mỗi dân tộc, mỗi đảng nếu lợi ích đó
không phương hại đến lợi ích chung, lợi ích của đảng khác, dân tộc khác.
+ “Có lý, có tình” vừa thể hiện nguyên tắc, vừa là một nội dung của chủ nghĩa nhân
văn Hồ Chí Minh - chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng to lớn trong việc củng
cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân và tình đoàn kết trong nhân dân lao
động.
- Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập, tự do
và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
+ Độc lập tự do cho mỗi dân tộc theo Hồ Chí Minh là quyền trời cho, là “lẽ phải
không ai chối cải được”. Suốt cuộc đời mình, Người không chỉ đấu tranh cho độc lập, tự
do của dân tộc mình mà còn cho các dân tộc khác trên thế giới.
+ Trong quan hệ với các nước láng giềng cũng như các nước khác, Hồ Chí Minh
thực hiện nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế
giới, đồng thời mong muốn các quốc gia, dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị
với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó. Người cũng khẳng định nhất quán chính
sách ngoại giao của Việt Nam là: “làm bạn với tất cả các nước dân chủ, không gây thù
oán với một ai”.
Nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh
trở thành người khởi xướng và là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong
việc khẳng định bản sắc dân tộc mình, đồng thời thúc đẩy cho sự hiểu biết lẫn nhau, thực
hiện đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới với Việt Nam vì thắng lợi của cách
mạng mỗi nước.
- Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hoà
bình trong công lý.
+ Giương cao ngọn cờ hoà bình và đấu tranh bảo vệ hoà bình, chống chiến tranh
xâm lược là tư tưởng bất di bất dịch của Hồ Chí Minh, nhưng đó phải là “một nền hoà
bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân chủ”. Người khẳng định: “Chính sách
ngoại giao của Chính phủ Việt Nam thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các
nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hoà bình”, “thái độ của Việt Nam đối với những
nước Á châu là thái độ anh em, đối với ngũ cường là thái độ bạn bè”.
+ Chính quan điểm này của Hồ Chí Minh và lòng khao khát hoà bình của nhân dân
Việt Nam đã làm rung động trái tim của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Bởi vậy, trong hai
cuộc kháng chiến, dân tộc ta đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ to lớn của rất nhiều lực
lượng yêu chuộng hoà bình, nhờ vậy chúng ta đã làm nên những chiến thắng vẻ vang,
lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
3.2. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
- Nội lực luôn là nhân tố quyết định hàng đầu, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể
phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn nêu cao
tinh thần “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “muốn người khác giúp mình thì
trước hết tự mình phải giúp lấy mình đã”. Người còn chỉ rõ “Một dân tộc không tự lực
cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì dân tộc đó không xứng đáng được độc
lập”.
Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực lực là cái chiêng,
ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn…
- Vì vậy, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc lập,
tự chủ và đúng đắn.
- Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chính nhờ thực hiện chính sách
ngoại giao theo tư tưởng Hồ Chí Minh này mà chúng ta đã nhận được nhiều sự ủng hộ
quý báu của rất nhiều nước và tổ chức trên thế giới.
III. KẾT LUẬN
1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay
- Trong công cuộc đổi mới đất nước, đại đoàn kết phải được củng cố và phát triển
nhằm rửa được cái nhục đói nghèo và lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế
giới; khơi dậy tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, quyết tâm chấn hưng đất nước; phát huy
tính năng động của mỗi người dân, của cả cộng đồng, khắc phục những mặt trái của kinh
tế thị trường, giữ vững và phát huy nền văn hoá đậm đà bản sức dân tộc.
- Xây dựng Đảng cầm quyền thật sự trong sạch, vững mạnh; xây dựng một chế độ
dân chủ, một Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; một hệ thống chính trị có hiệu
quả và hiệu lực thực tế.
- Chủ động xác định rõ các bước hội nhập quốc tế, củng cố khối đoàn kết với mọi
lực lượng tiến bộ trên thế giới vì mục tiêu hoà bình, độc lập, dân chủ và phát triển.
2. Ý nghĩa của việc học tập
- Thấy rõ vai trò, sức mạnh to lớn của đại đoàn kết; tin tưởng vào tiềm năng cách
mạng của quần chúng nhân dân.
- Đóng góp sức mình vào xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế; thật sự đoàn kết trong tập thể nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
V. TÓM TẮT NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG 5
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
1.1. Vai trò đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
1.1.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán, xuyên suốt,
lâu dài của sự nghiệp cách mạng, trước yêu cầu và nhiệm vụ của từng giai đoạn cách
mạng khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng phải thay đổi để phù hợp
với thực tiễn và từng đối tượng cụ thể.
1.1.2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng của dân
tộc
Đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng,
phải được quán triệt trong tất cả các lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương đến hoạt động thực
tiễn của Đảng. Đảng phải cụ thể hóa thành những nục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách
mạng thích hợp với từng giai đoạn lịch sử để kêu gọi, tập hợp quần chúng nhân dân, tạo lực
lượng cho cách mạng.
1.2. Lực lượng đại đoàn kết dân tộc
1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Đại đoàn kết toàn dân có nghĩa là không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo, tôn
giáo, dân tộc. Tất cả được tập hợp trong một cuộc đấu tranh chung vì độc lập cho đất
nước, hạnh phúc cho nhân dân. Trong quá trình tập hợp lực lượng phải đứng vững trên
lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ dân tộc và giai cấp. Hồ Chí
Minh đã định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong suốt tiến trình
cách mạng.
1.2.2. Điều kiện thực hiện đại đoàn kết toàn dân
Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc cần phải kế thừa truyền thống yêu nước –
nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc đồng thời phải có lòng khoan dung, độ lượng với con
người, phải có niềm tin vào nhân dân, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, đấu tranh vì hạnh
phúc của nhân dân.
1.3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
1.3.1. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống
nhất
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, nơi tập
hợp mọi con dân nước Việt, hướng về Tổ quốc Việt Nam. Tùy vào từng thời kỳ cách
mạng cụ thể cương lĩnh, điều lệ và tên gọi của Mặt trận có thể khác nhau nhưng mục đích
không bao giờ thay đổi, phấn đấu cho độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
1.3.2. Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc
thống nhất
Một là, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên
minh công - nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao
của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Ba  là, Mặt trận dân tộc hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm bảo
đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Bốn là, đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
2.1. Vai trò của đoàn kết quốc tế
Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại,
tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng
nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng
2.2. Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế
2.2.1. Các lực lượng cần đoàn kết
Đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân thế giới – lực lượng nòng cốt của
đoàn kết quốc tế; đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và đoàn kết với
các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tự do và công lý.
2.2.2. Hình thức đoàn kết quốc tế
Đoàn kết quốc tế là một vấn đề có tính nguyên tắc, một đòi hỏi khách quan của cách
mạng Việt Nam trong thời đại mới. Hồ Chí Minh đã thành lập các mặt trận phù hợp với
sự vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với
cách mạng thế giới.
2.3. Nguyên tắc xây dựng khối đại đoàn kết quốc tế
Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý có tình; Đoàn kết trên cơ
sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.
3. Kết luận
Cần vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay để
góp phần tạo ra khối đại đoàn kết dân tộc để đáp ứng với sự vận động và phát triển của
cách mạng Việt Nam gắn với xu thế thời đại.

VI. CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ BÀI TẬP


Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự
nghiệp cách mạng? Làm sáng tỏ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc xác định các lực
lượng và thành lập các mặt trận trong tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc? Trong
bối cảnh hiện nay, chúng ta cần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế như
thế nào?
VII. HƯỚNG DẪN SINH VIÊN TỰ HỌC:
Phần tự học chương 5 Hướng dẫn:
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ - Nghiên cứu giáo trình từ trang 213- 214 ;
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC tr.172-182 ; tr.187-193
3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn - Sinh viên cần chuẩn bị vở hoặc sổ tay tự
kết dân tộc (Tự học)
3.1. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết học. Trước khi lên lớp ghi chú những nội
dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất dung hiểu, tâm đắc và những vấn đề chưa rõ
(tự học) trong phần tự học
3.2. Một số nguyên tắc cơ bản về xây - Biết lấy ví dụ trong thực tiễn để làm sáng
dựng và hoạt động của Mặt trận dân tỏ phần lý luận nội dung tự học
tộc thống nhất (tự học)
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ - Có thể khái quát các vấn đề được học và
ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ phần tự nghiên cứu.
2. Lực lượng đoàn kết và hình thức - Ngoài việc ghi lại các nội dung trọng tâm
tổ chức (tự học) trong phần tự học, sinh viên cần thiết tự đặt
2.1. Các lực lượng cần đoàn kết (tự ra các câu hỏi, xây dựng hệ thống câu hỏi
học) tương ứng với các nội dung đã được giáo
2.2. Hình thức đoàn kết quốc tế (tự
học) trình trình bày sẽ giúp sinh viên nhớ kỹ nội
dung tự học…

VIII. GIÁO TRÌNH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO


Giáo trình:
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dùng cho sinh
viên đại học cao đẳng khối không chuyên ngành Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh)
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2016, tr.163-203
Tài liệu tham khảo:
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập (15tập) NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà nội - 2011 (Hồ
Chí Minh toàn tập, đĩa CDROM 15 tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2015.
[2]. http://hochiminh.vn
[3]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa
học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội - 2003.

Chương 6
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

I. GIỚI THIỆU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước là một tài sản quý giá trong di sản cách mạng
của Người, chứa đựng những giá trị to lớn cả về phương diện lý luận và thực tiễn đối với
xây dựng nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng. Ngày nay, tư tưởng đó vẫn tiếp
tục soi sáng con đường xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong chương 6,
trình bày các quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân,
vì dân. Quan điểm đó được thể hiện ở các phương diện: Xây dựng Nhà nước thể hiện
quyền là chủ và làm chủ của nhân dân; sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân
với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước; xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý
mạnh mẽ; xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả và sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong công cuộc đổi mới hiện nay ở
Việt Nam.
II. MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG:
Làm cho sinh viên nhận biết và hiểu được các quan điểm của Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Qua đó, sinh viên có thể vận dụng kiến thức
đạt được để góp phần nhận thức đúng vấn đề xây dựng về nhà nước Việt Nam hiện nay.
III. CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
Mô tả CĐR Mức độ
Sau khi học xong chương này, người học có thể: giảng dạy
(I, T, U)
Nhận biết và hiểu được các quan điểm Hồ Chí Minh
G1 G1.7 I,T
về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
Có kỹ năng trình bày, phân tích và khái quát một cách
G2 G2.7 khoa học nội dung các quan điểm của Hồ Chí Minh về I,T
xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
Rèn luyện được kỹ năng làm việc nhóm thông qua
G3.1 việc thảo luận các nội dung của chương để phát triển
G3.2 tư duy phản biện, khả năng lập luận các quan điểm
G3 G3.3 của Hồ Chí Minh về nhà nước thể hiện quyền là chủ T,U
G3.4 và làm chủ của nhân dân; sự thống nhất giữa bản chất
G3.5 giai cấp với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà
nước Việt Nam
Vận dụng được kiến thức đạt được để góp phần nhận
G4 G4.5 thức đúng vấn đề xây dựng về nhà nước Việt Nam T,U
hiện nay.

IV. NỘI DUNG


ĐỀ CƯƠNG CÁC MỤC CHÍNH CỦA CHƯƠNG 6
I. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC THỂ HIỆN QUYỀN LÀ CHỦ VÀ LÀM CHỦ CỦA
NHÂN DÂN
1.Nhà nước của dân
2. Nhà nước do dân
3. Nhà nước vì dân
II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA BẢN
CHẤT GIAI CẤP CÔNG NHÂN VỚI TÍNH NHÂN DÂN VÀ TÍNH DÂN TỘC
CỦA NHÀ NƯỚC
1. Về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
2. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà
nước (tự học)
III. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CÓ HIỆU LỰC PHÁP LÝ MẠNH MẼ
1. Xây dựng Nhà nước hợp pháp, hợp hiến
2. Hoạt động quản lý Nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật
vào cuộc sống
IV. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, HOẠT ĐỘNG
CÓ HIỆU QUẢ
1. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài
2. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước (tự học)
3. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức
cách mạng (tự học)
III. KẾT LUẬN

NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG 6

I. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC THỂ HIỆN QUYỀN LÀ CHỦ VÀ LÀM


CHỦ CỦA NHÂN DÂN
1. Nhà nước của dân
- Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, HCM chỉ rõ: Chúng ta đã hy sinh làm cách
mạng thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân
chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế
dân chúng mới được hạnh phúc”
- HCM quan niệm: Dân chủ là dân làm chủ và dân là chủ
- Một nhà nước của dân theo quan điểm của HCM là:
+ Xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân
dân.
→ Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng, nghĩa là nhân dân có quyền
lực cao nhất trong nhà nước
Hiến pháp VN 1946, Điều 1:
Nước Việt Nam là một nước Dân chủ cộng hòa
Tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân
biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo...
+ Đó là một nhà nước mà người dân là người chủ, người dân được hưởng mọi
quyền dân chủ.
Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác
định quyền và nghĩa vụ của dân
+ Nhân dân có quyền làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, kiểm soát,
bãi miễn, quyết định những vấn đề quan trọng
Điều 32 - Hiến pháp năm 1946 quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc
gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết…”
→ Thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, dân chủ trực tiếp.
- Để xây dựng được một nhà nước của dân theo quan điểm của HCM là Nhà
nước có trách nhiệm phải bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho dân thực thi quyền làm
chủ của mình
+ HCM chỉ rõ: Chính phủ trong nhà nước “là đày tớ chung của dân, dân là chủ thì
chính phủ phải là đày tớ… nếu chính phủ hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”
Nhân dân có trách nhiệm kiểm soát Nhà nước, giám sát và bãi miễn các đại biểu do
mình bầu ra (đại biểu QH và đại biểu HĐND các cấp) nếu các đại biểu tỏ ra không xứng
đáng với sự tín nhiệm của nhân dân
+ Cử tri phải có trách nhiệm tích cực đóng góp ý kiến, kiểm tra, kiểm soát đại biểu
của mình…
→ Phải có mối liên hệ chặt chẽ trách nhiệm giữa cử tri và đại biểu do cử tri bầu ra.
(Cơ chế trách nhiệm)
- Trong quá trình xây dựng Nhà nước của dân ở Việt Nam, HCM đã phê phán
những “vị đại diện” lầm lẫn sự ủy quyền đó với quyền lực cá nhân, sinh ra lộng quyền,
cửa quyền: “cậy thế mình trong ban này, ban nọ… coi khinh dư luận, không nghĩ đến
dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải đi cậy thế với
dân”, “lên mặt quan cách mạng”…
- HCM khẳng định vai trò của nhân dân trong nhà nước: “Đã là người chủ thì phải
biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ”
→ Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng Quốc hội và Hiến pháp
phát triển Nhà nước của dân và để thực thi quyền lực của nhân dân.
→ Như vậy, những quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân chứa đựng
nhiều giá trị sâu sắc về cả lý luận và thực tiễn.
Theo quan điểm của HCM, một nhà nước của dân và đồng thời cũng phải là một
nhà nước do dân.
2. Nhà nước do dân
Theo quan điểm của HCM, Nhà nước do dân là nhà nước:
- Do nhân dân lập nên, do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình và
nhân dân tham gia quản lý:
+ Công dân bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, là cơ quan
lập pháp
+ Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính
phủ
+ Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, thực hiện các
nghị quyết của QH, là cơ quan hành pháp
+ Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí
của dân (thông qua QH do dân bầu ra)
- Nhà nước do dân là nhà nước do dân ủng hộ, giúp đỡ, dân phê bình và xây
dựng. Nhân dân đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động (nhân dân là lực lượng thực
hiện các chủ trương, kế hoạch Nhà nước đề ra….
“Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng… Nếu không có Chính
phủ thì nhân dân không ai dẫn đường…”
- Nhà nước do dân, vì vậy người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân
giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm
lo xây dựng nhà nước
- Nhà nước do dân, vì vậy tất cả các cơ quan Nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân
- Suốt cuộc đời HCM luôn nung nấu khát khao cháy bỏng, ham muốn tột bậc là:
Làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào
ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
- Vì vậy, sau khi VN giành được độc lập thì Người đã khẳng định: Nước nhà đã
được độc lập nhưng dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập không có nghĩa
lý gì.
→ Do đó, trong lý luận cũng như trong thực tiễn HCM đã hết sức quan tâm cho việc
xây dựng một nhà nước thực sự vì nhân dân.
3. Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân theo quan điểm của HCM là một nhà nước:
- NN phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. HCM đặt quyền lợi của nhân
dân lên trên hết: “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân ta
phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta kính ta”;…
- Nhà nước luôn quan tâm mọi mặt đời sống của nhân dân “làm cho dân có ăn,
làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có chỗ học hành”. HCM nhấn
mạnh: Tất cả mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ đều chỉ
nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
- Nhà nước vì dân phải biết kết hợp hài hòa các loại lợi ích khác nhau trong
NN: lợi ích tập thể, cá nhân; lợi ích trước mắt, lâu dài; lợi ích giai cấp, dân tộc…
- Đội ngũ cán bộ Nhà nước không phải là quan cách mạng, đè đầu cưỡi cổ
nhân dân mà là làm đầy tớ cho nhân dân
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo,
nghĩa là tất cả cán bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp
nào, nghành nào đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”
→ HCM yêu cầu cán bộ Nhà nước phải hiểu rõ mình vừa là công bộc vừa là người
lãnh đạo nhân dân: “người thay mặt nhân dân phải có đủ đức và tài, vừa hiền lại vừa
minh”
→ Tư tưởng HCM về Nhà nước của dân, do dân, vì dân thể hiện rất rõ trong
quá trình lãnh đạo cách mạng thực tiễn của Người.
HCM chỉ rõ: gánh vác chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức
làm cũng như người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào
cho tôi lui thì tôi rất vui lòng lui.
Người khẳng định: “cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi Tổ
quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào
chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó”.
II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA
BẢN CHẤT GIAI CẤP CÔNG NHÂN VỚI TÍNH NHÂN DÂN VÀ TÍNH
DÂN TỘC CỦA NHÀ NƯỚC
1. Bản chất giai cấp của nhà nước dân chủ nhân dân
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và đấu tranh
giai cấp xuất hiện. Do đó, NN bao giờ cũng mang một bản chất giai cấp nhất định, không
có nhà nước phi giai cấp, đứng trên giai cấp. Nhà nước VNDCCH theo quan điểm của
HCM là NN của dân, do dân, vì dân có phải là “Nhà nước toàn dân” phi giai cấp không?.
Theo quan điểm của HCM, Nhà nước VN mới được thiết lập năm 1945 là một Nhà nước
mang bản chất giai cấp công nhân. Vì sao?
Thứ nhất, Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo NN giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp
công nhân (từ khi Đảng ra đời 1930 đã giữ vai trò lãnh đạo cách mạng VN, đưa CMVN
giành chính quyền, thiết lập NN kiểu mới, Đảng tiếp tục lãnh đạo NN đó)
- ĐCSVN lãnh đạo NN theo phương thức nào? Đó là cách lãnh đạo cho phù hợp với
từng thời kỳ.
- Phương thức lãnh đạo chung của Đảng là:
+ Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để NN thể chế hóa thành
pháp luật, chính sách, kế hoạch
+ Đảng lãnh đạo NN bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình
trong bộ máy, cơ quan NN
+ Đảng lãnh đạo NN bằng công tác kiểm tra.
+ Đảng không bao biện, làm thay công việc của Nhà nước
Sinh thời, HCM vừa làm Chủ tịch Đảng, vừa làm Chủ tịch nước nhưng Bác luôn
thực hiện 2 chức danh đó một cách rõ ràng, khoa học, khiêm tốn.
Thứ hai, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội
chủ nghĩa của sự phát triển đất nước?
“bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến
nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp, nông nghiệp
hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”
Thứ ba, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ
chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ?
HCM rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ
quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao độ
tập trung, Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực vào tay
nhân dân.
Chủ tịch HCM viết: Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ… có phát huy dân
chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng
tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng
chủ nghĩa xã hội”
* Theo HCM, để đảm bảo và giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà
nước, cần quán triệt những vấn đề có tính nguyên tắc?
Thứ nhất: Xây dựng, tổ chức và hoàn thiện chính quyền Nhà nước phải dựa trên
nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, về nhà nước, nhà nước chuyên chính vô
sản áp dụng vào điều kiện, đặc điểm của nước ta để có hình thức và cơ chế vận hành
thích hợp. Nếu xa rời CNMLN? sẽ làm biến dạng Nhà nước, lu mờ bản chất giai cấp,
chệch hướng phát triển đi lên CNXH. CNMLN là nền tảng lý luận để xây dựng mô hình
nhà nước đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Thứ hai: Xác nhận và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, bảo
đảm bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
- Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền thắng lợi, trở thành Đảng
cầm quyền và tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi cuối cùng là xây dựng
CNXH, CNCS.
- Sự lãnh đạo Nhà nước của Đảng được quy định bởi các nhân tố lịch sử nhằm thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng
CNXH phát triển, giải phóng giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc đem đến cuộc sống
ấm no, hạnh phúc cho tất cả mọi người.
HCM khẳng định: “Để xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước
nhà, chúng ta cần phải tăng cường không ngừng sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối
với Nhà nước dân chủ nhân dân”
Thứ ba: Tăng cường nguyên tắc tập trung dân chủ trong thiết chế, tổ chức và hoạt
động của Nhà nước
2. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc của
nhà nước
Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc là
ở chỗ:
- Nhà nước ta là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự hy sinh
xương máu của bao thế hệ cách mạng.
Theo quan điểm của HCM, sự thống nhất trước hết là sự thống nhất về lực lượng,
các giai cấp tầng lớp qua nhiều giai đoạn cách mạng để thiết lập nên Nhà nước.
+ Quan điểm nhất quán của HCM là Nhà nước Việt Nam mới mang bản chất giai
cấp công nhân, là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; là khối đại đoàn kết dân tộc trên nền
tảng liên minh công - nông - trí thức do ĐCSVN lãnh đạo.
+ Cách mạng không gạt bỏ một giai cấp, tầng lớp nào mà bồi dưỡng, dìu dắt, tổ
chức để mọi giai cấp, tầng lớp, mọi người tiếp tục đi theo cách mạng góp phần cống hiến
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới vì lợi ích chung của cả
dân tộc.
- Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng
Bản chất của vấn đề này là ở chỗ lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động
và của toàn dân tộc là một. Nhà nước ta không những thể hiện ý chí của giai cấp công nhân
mà còn thể hiện ý chí của nhân dân và của toàn dân tộc.
HCM khẳng định: Nhà nước Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân nhưng
giai cấp công nhân không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân tộc và chỉ có giải
phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp công nhân một cách triệt để.
Sau thắng lợi của CM Tháng tám, năm 1945, từ Tân trào về Hà Nội, Chủ tịch HCM
đã họp với Thường vụ TW Đảng đưa ra nhận xét: Chính phủ lâm thời của các chú còn đỏ
quá và yêu cầu rút bớt các thành viên cộng sản ra.
Trong cuộc họp với UBDT giải phóng, HCM đề nghị thi hành chính sách đoàn kết
rộng rãi, thành lập Chính phủ thống nhất quốc gia, bao gồm các đại biểu của các đảng
phái yêu nước và những nhân sỹ không đảng phái.
Đề nghị của HCM được mọi người tán thành, nhiều ủy viên là đại biểu của Việt
Minh đã tự nguyện rút lui, nhường chỗ cho người thuộc các đảng phái khác và không
đảng phái
+ Đến cuối năm 1945, để có sự hợp tác chặt chẽ giữa các đảng phái nhằm tranh thủ
sự hoàn toàn nền độc lập, Chủ tịch HCM mở rộng Chính phủ lâm thời thành Chính phủ
liên hiệp lâm thời, cử Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch Chính phủ và nhường thêm hai
chức Bộ trưởng cho Việt Nam Quốc dân Đảng.
Như vậy, Chủ tịch HCM chấp nhận 70 ghế cho người của Việt Nam CM đồng minh
hội và VNQDĐ vào Quốc hội không qua bầu cử là một sách lược mềm dẻo; cũng như
việc Người dung nạp nhiều nhân sỹ tri thức, quan lại cao cấp của chế độ cũ tham gia
Chính phủ, cử Vĩnh Thụy (tức Vua Bảo Đại), Lê Hữu Từ, Hồ Ngọc Cẩn….tham gia đoàn
cố vấn tối cao.
+ Sau khi quân đội tưởng rút về nước, một số đại biểu các đảng phái đào ngũ, trốn
ra nước ngoài, Chủ tịch HCM được Quốc hội ủy nhiệm lập chính phủ mới.
Trong Lời tuyên bố sau khi thành lập, HCM nói: “Theo ý Quốc hội, Chính phủ mới
phải tỏ rõ, cái tinh thần đại đoàn kết, không phân đảng phái… Tôi có thể tuyên bố trước
Quốc hội rằng… Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc
tham gia”
- Nhà nước ta phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử tổ chức toàn dân tộc tiến hành
cuộc cách mạng không ngừng
Nhà nước Việt Nam mới ra đời đã thực hiện nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã
lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ
quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, và
tiến lên CNXH, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới.
Có được những thành quả như vậy là nhờ sự thống nhất về lực lượng; nhiệm vụ,
mục đích; thống nhất sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước… từ đó, nhà nước đã phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc.
III. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CÓ HIỆU LỰC PHÁP LÝ MẠNH MẼ
1. Xây dựng một Nhà nước hợp pháp, hợp hiến (tự học)
2. Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa
pháp luật vào cuộc sống
Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật luôn đi đôi với nhau. Không thể
có dân chủ ngoài pháp luật, pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người
dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp và pháp luật phải đảm
bảo quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế.
Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo việc thực hiện quyền lực của
nhân dân là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Trong Yêu sách 8 điểm, Người đòi thực dân Pháp phải bải bỏ chế độ cai trị bằng
sắc lệnh và thay thế bằng đạo luật. Trong Việt Nam yêu cầu ca, Người khẳng định vai trò
của pháp luật: Trăm điều phải có thần linh pháp quyền.
- Hồ Chí Minh là người có công lớn trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp của Nhà
nước ta. Ở cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo
Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và
nhiều văn bản dưới luật khác.
- Vừa chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và Pháp luật nước ta, Người vừa hết sức chăm
lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ chế
kiểm tra, giám sát việc thi hành đó. Theo Người, công bố luật chưa đủ, cần phải tuyên
truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt.
Người coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa
chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc
của Nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức.
- Hồ Chí Minh luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám
sát công việc của Chính phủ, đồng thời không ngừng nhắc nhở mọi cán bộ phải gương
mẫu trong việc tuân thủ pháp luật.
Để có một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, phải nhanh chóng đào tạo,
bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước có trình độ văn hóa,
am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư.
IV. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, HOẠT
ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ
Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả là mối quan tâm thường
xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ những ngày đầu mới có chính quyền. Người
thường nhấn mạnh ba nội dung cơ bản sau đây:
1. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức đủ tài (tự học)
2. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của nhà nuớc
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã chỉ ra ba thứ giặc ấy chúng ta phải kiên quyết chống, nếu
không chúng sẽ dẫn đến nguy cơ suy thoái, đổ vỡ không lường hết được. Người nói: “Tham
ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không cũng là ban đồng minh của thực dân và
phong kiến... Nó làm hỏng tinh thần trong sạch, và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá
hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiêm, liêm, chính... Tội ấy cũng nặng như tội lỗi Việt
gian, mật thám”. Người cũng nói: “Nếu chiến sỹ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm
mà quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”.
Về nguyên nhân của nạn nội xâm, Người chỉ ra, một phần do sơ hở của cơ chế quản
lý kinh tế, do thiếu nghiêm minh trong xét xử và thi hành án, do công tác quản lý, giáo
dục còn yếu kém, do nạn phe phái, ô dù, bao che cho nhau, v.v. Nhưng có một nguyên
nhân quan trọng không thể bỏ qua là bệnh quan liêu. Người nói: “Vì những người và
những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không
theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình
thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hộ, viết chỉ
thị, xem báo cáo trên giấy tờ, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn... thành thử có mắt
mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật
mà không nắm vững... Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham
ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh
quan liêu”.
+ Đặc quyền, đặc lợi: Phải tẩy trừ những thói cậy mình là người cơ quan chính
quyền để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình. Đó là sa vào
chủ nghĩa cá nhân.
+ Tham ô, lãng phí, quan liêu: là ba thứ giặc nội xâm còn nguy hiểm hơn giặc
ngoại xâm, là đồng minh của thực dân, phong kiến. Tội ấy cũng nặng như tội Việt gian,
mật thám. Chính thế, ngày 27/11/1945, Người ký sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và
nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp gấp đôi số tiền nhận hối
lộ. Ngày 26/1/1946, Người ký sắc lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của công là tội tử hình.
Lãng phí được Người xác định là lãng phí sức lao động, thời giờ và tiền của.
Quan liêu là không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không
gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi
mặt, không đi sâu vào vấn đề. Chỉ khai hội, viết chỉ thị, báo cáo trên giấy mà không đôn
đốc, kiểm tra đến nơi đến chốn... Bệnh quan liêu vì thế đã ấp ủ, dung túng, che chở cho
nạn tham ô, lãng phí. Muốn quét sạch tham ô, lãng phí trước hết phải tẩy sạch bệnh quan
liêu.
+ Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo: gây mất đoàn kết, gây rối cho công tác. Người kịch
liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu của mình không tài năng vào chức này
chức nọ. Trong chính quyền, còn chia rẽ, không biết làm cho mọi người hoà thuận với
nhau. Ngoài cậy thế, có người còn kiêu ngạo tưởng mình là thần thánh, vác mặt quan
cách mạng làm mất uy tín của Chính phủ.
3. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục
đạo đức cách mạng
Là một nhà chính trị kế thừa được những kinh nghiệm lịch sử quý báu trong văn
hóa trị nước của loài người, Hồ Chí Minh là một mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và
pháp luật.
- Trước hết, chính trị Hồ Chí Minh là một nền chính trị đạo đức, và là đạo đức cao
nhất: “Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương
mẫu trong mọi việc”. Người thường nhắc nhở: “Nước lấy dân làm gốc”.
Giữa đạo đức và pháp luật vốn có mối quan hệ khăng khít với nhau. Pháp luật bao
giờ cũng là những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức nào đó. Vì thế, Hồ
Chí Minh nêu khẩu hiệu Cần, Kiệm đi liền với Liêm, Chính.
- Đi đôi với giáo dục đạo đức, Người kịp thời ban hành pháp luật. Nhưng ban hành
sắc lệnh là chuyện dễ, tổ chức đưa nó vào cuộc sống, làm cho nó có hiệu lực trong thực tế
mới là chuyện khó hơn nhiều.
Người kêu gọi nhân dân tham gia giám sát công việc của Chính phủ. Chính phủ phải
làm gương để chống tệ tham ô, quan liêu, ăn hối lộ... Nếu làm gương không xong thì dùng
pháp luật mà trị. Trong thi hành pháp luật, Người luôn chú ý đảm bảo tính vô tư, khách quan,
công bằng, bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.
Hồ Chí Minh rất đề cao phép nước, “Nhân trị” đi đôi với “pháp trị”. Người hết lòng
yêu thương, dạy bảo cán bộ. Nhưng kẻ nào lạm dụng tình thương của Người, làm hại đến
tính mệnh và tài sản của nhân dân, làm mất thanh danh, uy tín của Đảng và Nhà nước, thì dù
họ có là cán bộ cách mạng kỳ cựu đi nữa vẫn phải được đem ra xét xử theo đúng pháp luật.
III. KẾT LUẬN
Bước vào thời kỳ mới, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân
phải tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã
hội của nhân dân.
Đảm bảo trên thực tế Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, từng bước xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân. Tiến hành cải cách thể chế, phương thức hoạt động của Nhà nước một cách đồng bộ,
bao gồm cả cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, đẩy
mạnh việc thực thi nghiêm chỉnh pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; kiên
quyết đấu tranh chống tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu; xây dựng đội ngũ công chức
vững mạnh, trong sạch, có đạo đức, phẩm chất, có năng lực. Đồng thời, giải quyết đúng
đắn quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của
nhân dân, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Củng cố, tăng
cường cơ sở xã hội của Nhà nước là khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh
giữa công nhân với nông dân và trí thức...
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong công cuộc đổi
mới cần chú trọng:
1. Nhà nước đảm bảo quyền làm chủ thật sự của nhân dân
2. Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một nền hành chính dân chủ,
trong sạch, vững mạnh
3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; gắn liền xây dựng, chỉnh
đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính
V. TÓM TẮT NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHƯƠNG
Chương 6 trình bày các quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
của dân, do dân, vì dân gồm có các nội dung chính:
1. Xây dựng Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân:
Trong phần này, có các quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Các quan điểm được nhấn mạnh nhà nước của dân là nhà nước mà tất cả các
quyền lực đều thuộc về nhân dân; nhà nước do dân là nhà nước được thiết lập, hình
thành, phát triển là nhờ vào lực lượng to lớn của nhân dân; nhà nước vì dân là nhà nước
đặt lợi ích nhân dân lên trên hết, phục vụ lợi ích của nhân dân.
2. Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính
dân tộc của Nhà nước
Trong phần này, có các quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân
của nhà nước được thể hiện trên 3 điểm: Nhà nước Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam; tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nước; nguyên tắc tổ
chức cơ bản của nhà nước là nguyên tắc tập trung dân chủ. Sự thống nhất của nhà nước
giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc được phản ánh trên
các khía cạnh: thống nhất về sự ra đời của nhà nước; thống nhất về lợi ích; thống nhất về
nhiệm vụ.
3. Xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
Trong phần này, có các quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước có hiệu
lực pháp lý mạnh mẽ được thể hiện: đó là một nhà nước tôn trọng pháp luật, được tổ chức và
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai
trò quan trọng của pháp luật trong quản lý, điều hành xã hội và chú trọng đưa pháp luật vào
cuộc sống.
Trong quá trình chỉ đạo xây dựng Hiến pháp và pháp luật, tổ chức và vận hành Nhà
nước, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, pháp luật của ta là
pháp luật dân chủ, bảo vệ quyền lợi của nhân dân, nhưng phải nghiêm minh và phát huy
hiệu lực thực tế. Hồ Chí Minh luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê
bình, giám sát công việc của Chính phủ, đồng thời, nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành,
trước hết là cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp phải gương mẫu trong việc tuân
thủ pháp luật.
4. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
Với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở tìm
cách làm thế nào để Nhà nước ta trở thành một nhà nước pháp quyền kiểu mới, trong
sạch, vững mạnh, hiệu quả, khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các nhà nước
kiểu cũ. Trong phần này, có các quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả được thể hiện ở các nội dung: Xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài; đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong
hoạt động của Nhà nước; tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy
mạnh giáo dục đạo đức cách mạng.
5. Phần kết luận nhấn mạnh đến giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Từ đó, khẳng định sự cần thiết và
định hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong công cuộc đổi
mới hiện nay ở Việt Nam.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của nhiều nước
trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rất rõ phương hướng đổi mới Nhà
nước hiện nay, đó là đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân
chủ, tăng cường pháp chế. Phương hướng chung, khái quát này được cụ thể hoá thành các
nội dung chính: Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân; kiện toàn bộ
máy hành chính nhà nước; tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước...
VI. CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ BÀI TẬP
Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân
dân? Phân tích sự thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân và tính dân tộc của
Nhà nước Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước? Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả trong giai
đoạn hiện nay ở Việt Nam cần nắm vững những vấn đề gì?
VII. HƯỚNG DẪN SINH VIÊN TỰ HỌC:
Phần tự học chương 6 Hướng dẫn:
II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ - Nghiên cứu giáo trình từ trang 213- 214 ;
MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT tr.221-225
GIỮA BẢN CHẤT GIAI CẤP - Sinh viên cần chuẩn bị vở tự học. Trước
CÔNG NHÂN VỚI TÍNH NHÂN
DÂN VÀ TÍNH DÂN TỘC CỦA khi lên lớp ghi chú những nội dung hiểu, tâm
NHÀ NƯỚC đắc và những vấn đề chưa rõ trong phần tự
2. Bản chất giai cấp công nhân thống học
nhất với tính nhân dân, tính dân tộc - Biết lấy ví dụ trong thực tiễn để làm sáng
của Nhà nước (tự học) tỏ phần lý luận mục II. 2, mục IV.2, IV.3
IV. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, - Tập cách trình bày, phân tích, khái quát
các vấn đề được học và phần tự nghiên
HOẠT ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ cứu.
2. Đề phòng và khắc phục những tiêu - Sinh viên cần thiết tự đặt ra các câu hỏi,
cực trong hoạt động của Nhà nước xây dựng hệ thống câu hỏi tương ứng với
(tự học)
3. Tăng cường tính nghiêm minh của các nội dung đã được giáo trình trình bày
pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo sẽ giúp sinh viên nhớ kỹ nội dung tự học…
dục đạo đức cách mạng (tự học)

VIII. GIÁO TRÌNH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO


Giáo trình:
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dùng cho sinh viên đại
học cao đẳng khối không chuyên ngành Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh) NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2016, tr.204-228.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập (15tập) NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà nội - 2011 (Hồ
Chí Minh toàn tập, đĩa CDROM 15 tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2015.
[2]. http://hochiminh.vn
[3]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội - 2003.
Chương 7
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC
VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI

I. GIỚI THIỆU
Nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh, con người, cuộc đời sự nghiệp hoạt động chính trị
Hồ Chí Minh là một chỉnh thể kết tinh những gì ưu tú, tốt đẹp nhất của trí tuệ, đạo đức,
tâm hồn, tình cảm của con người và bản sắc văn hóa Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới là một bộ phận rất quan trọng trong hệ
thống tư tưởng của Người. Tư tưởng ấy có ý nghĩa soi sáng cho công cuộc xây dựng một
nền văn hóa và đạo đức mới, con người mới ở Việt Nam. Trong chương 7, trình bày các
quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức, xây dựng con người mới và sự
cần thiết cũng như những nội dung sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh.
II. MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG:
Làm cho sinh viên nhận biết và hiểu được các quan điểm của Hồ Chí Minh về
văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới. Qua đó, sinh viên có thể vận dụng kiến
thức đạt được để góp phần nhận thức đúng vấn đề văn hóa, đạo đức và xây dựng con
người mới ở Việt Nam hiện nay, có định hướng học tập, rèn luyện và làm theo tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
III. CHUẨN ĐẦU RA CỦA CHƯƠNG
Mô tả CĐR Mức độ
Sau khi học xong chương này, người học có thể: giảng dạy
(I, T, U)
Nhận biết và hiểu được các quan điểm Hồ Chí Minh
G1 G1.8 I,T
về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới
Có kỹ năng trình bày, phân tích và khái quát một cách
G2 G2.8 khoa học nội dung các quan điểm của Hồ Chí Minh về I,T
văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới
Rèn luyện được kỹ năng làm việc nhóm thông qua
G3.1 việc thảo luận các nội dung của chương để phát triển
G3.2 tư duy phản biện, khả năng lập luận các quan điểm
G3 G3.3 của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục, vai trò của con T,U
G3.4 người, chiến lược “trồng người” và những phẩm chất
G3.5 đạo đức cơ bản của con người Việt Nam theo tư tưởng
Hồ Chí Minh
Vận dụng được kiến thức đạt được để góp phần nhận
thức đúng vấn đề văn hóa, đạo đức và xây dựng con
G4.6
G4 người mới ở Việt Nam hiện nay, có định hướng học T,U
G4.7
tập, rèn luyện và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh.

IV. NỘI DUNG


ĐỀ CƯƠNG CÁC MỤC CHÍNH CỦA CHƯƠNG 7
I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
1. Định nghĩa về văn hóa và quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
1.1. Định nghĩa về văn hóa
1.2. Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa (tự học)
2.1. Quan điểm về vị trí và vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội
2.2. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa
2.3. Quan điểm về chức năng của văn hóa
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa
3.1. Văn hóa giáo dục
3.2. Văn hóa văn nghệ
3.3. Văn hóa đời sống
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
1.2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
1.3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới (tự học)
2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
2.1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
2.2. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người (tự học)
1.1. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
1.2. Con người cụ thể, lịch sử
1.3. Bản chất con người mang tính xã hội
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược “trồng
người”
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”
III. KẾT LUẬN

NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG 7

I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA


1. Định nghĩa về văn hóa và quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
1.1. Định nghĩa về văn hóa
- Tháng 8 năm 1943, khi còn trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ
Chí Minh đưa ra một định nghĩa về Văn hoá. Định nghĩa đó có rất nhiều điểm gần với
quan điểm hiện đại về văn hoá. Định nghĩa đó là:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngô ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
- Như vậy, văn hóa đã được Người định nghĩa theo nghĩa rộng nhất. Nó bao gồm toàn
bộ những giá trị vật chất và tinh thần mà loài người sáng tạo ra nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn và
mục đích cuộc sống của loài người.
1.2. Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
Cùng với định nghĩa về văn hoá, Hồ Chí Minh còn đưa ra năm điểm lớn định
hướng cho việc xây dựng nền văn hoá dân tộc:
“1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền
5. Xây dựng kinh tế”.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa (tự học)
2.1. Quan điểm về vị trí và vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội
Một là, văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.
- Văn hóa quan trọng ngang kinh tế, chính trị, xã hội.
Người đặt văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội và xác định văn hóa là
bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Theo Người, bốn yếu tố đó luôn có sự tác động lẫn
nhau, quan hệ biện chứng với nhau.
- Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị
giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển.
Theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành cách mạng chính trị trước. Giải phóng dân tộc,
giải phóng chính trị, giải phóng xã hội từ đó giải phóng văn hoá, mở đường cho văn hoá
phát triển. Người nói: “Xã hội thế nào văn nghệ thế ấy… Dưới chế độ thực dân phong
kiến, nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn không thể phát triển
được”.
Người yêu cầu:
+ Để văn hoá được phát triển tự do, phải làm cách mạng chính trị trước.
+ Ở Việt Nam, tiến hành cách mạng chính trị thực chất là tiến hành cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc để giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó
giải phóng văn hoá, mở đường cho văn hoá phát triển.
- Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hóa.
Kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng. Xây dựng văn hoá thuộc về kiến trúc thượng tầng.
Kinh tế có kiến thiết được, văn hoá mới kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển
được.
Hai là, văn hóa không đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa
phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.
- Tuy văn hoá là kiến trúc thượng tầng, nhưng văn hoá không thụ động chờ kinh tế
phát triển xong rồi mới phát triển. Văn hoá có tính tích cực chủ động, đóng vai trò to lớn
thúc đẩy kinh tế và chính trị phát triển như một động lực.
Người nói: “Trình độ văn hó của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy
mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của
nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống
nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh”.
- Văn hoá ở trong chính trị là văn hoá phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị, tham
gia vào cách mạng, kháng chiến và xây dựng CNXH. Người nêu rõ: “văn hoá kháng
chiến, kháng chiến hoá văn hoá”.
Văn hoá ở trong kinh tế là văn hoá phải phục vụ, thúc đẩy việc xây dựng và phát
triển kinh tế.
Văn hoá ở trong kinh tế và chính trị là chính trị và kinh tế phải có tính văn hoá.
- Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là kinh tế phải đi trước một bước. Người viết: “Muốn
tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không nói phát triển
văn hoá và kinh tế. Tục ngữ có câu: có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước”.
2.2. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa
- Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Hồ Chí Minh đã bắt tay ngay
vào việc xây dựng nền văn hoá mới. Như việc giải quyết nạn dốt, giáo dục nhân dân tinh
thần cần, kiệm, liêm, chính; cấm hút thuốc phiện; lương giáo đoàn kết và tự do tín ngưỡng.
- Nền văn hoá trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp là nền văn hoá kháng
chiến kiến quốc, nền văn hoá dân chủ mới.
- Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền văn hoá xã
hội chủ nghĩa.
Mặc dù còn nhiều cách diễn dạt khác nhau song nền văn hoá mới mà chúng ta xây dựng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh có ba tính chất: tính dân tộc, tính khoa học, tính đại chúng.
Tính dân tộc: được Hồ Chí Minh biểu đạt bằng nhiều khái niệm, như “đặc tính dân
tộc”, “cốt cách dân tộc”, nhăm nhấn mạnh đến chiều sâu bản chất, là cái cốt, cái tinh tuý
bên trong rất đặc trưng của văn hoá dân tộc, giúp phân biệt không nhầm lẫn với văn hoá
của các dân tộc khác. Cái cốt cách này không “nhất thành bất biến”, mà nó có sự phát
triển, bổ sung những tinh tuý mới, phù hợp với điều kiện lịch sử mới của dân tộc.
Tính khoa học: Là thuận với trào lưu của tư tưởng hiện đại: hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nó được thể hiện trên nhiều mặt: cơ sở hạ tầng, nền tảng
kinh tế phải khoa học, hiện đại. Đội ngũ làm công tác văn hoá phải có trí tuệ, hiểu biết
khoa học tiên tiến. Phải có chiến lược văn hoá, xây dựng lý luận văn hoá ngang tầm thời
đại.
Tính khoa học của văn hoá đòi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa
học, phản tiến bộ, phải truyền bá tư tưởng triết học Mácxít, đấu tranh chống lại chủ nghĩa
duy tâm thần bí, mê tín dị đoan.
Tính đại chúng: Là phục vụ nhân dân, hợp với nguyện vọng nhân dân, đậm đà tính
nhân văn. Hồ Chi Minh nói: “văn hoá phục vụ ai? Cố nhiên, chúng ta phải nói là phục vụ
công nông binh, tức là phục vụ đại đa số nhân dân”, “quần chúng là những người sáng
tạo. Nhưng quần chúng không chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xẫ hội. Quần
chúng còn là người sáng tác nữa”.
- Trong thời kỳ cách mạng XHCN, nền văn hoá mới phải XHCN về nội dung và
dân tộc về hình thức.
Nội dung XHCN là thể hiện tính tiên tiến, tiến bộ, khoa học, hiện đại, biết tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại; phù hợp với trào lưu tiên tiến trong thời đại mới.
Tính dân tộc (dân tộc về hình thức) là biết giữ gìn, kế thừa, phát huy truyền thống văn
hoá tốt đẹp của dân tộc phù hợp với những điều kiện lịch sử mới của đất nước.
2.3. Quan điểm về chức năng của văn hóa
Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi, làm cho ai cũng có lý tưởng độc lập, tự
chủ; phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ...
Trong tư tưởng văn hóa của Hồ Chí Minh, văn hóa có ba chức năng cơ bản:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân.
Chức năng này phải được tiến hành thường xuyên, phải làm cho văn hóa đi sâu vào
đời sống tâm lý quốc dân. Đồng thời loại bỏ những tư tưởng sai lầm, tình cảm thấp hèn.
Phải bồi dưỡng lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, thực hiện nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Phải bồi dưỡng tình cảm lớn là lòng yêu nước, thương dân, thương nhân loại bị đau
khổ, áp bức. Đó là tính trung thực, thẳng thắn, thuỷ chung, đề cao chân - thiện - mỹ
Tư tưởng và tình cảm luôn có mối quan hệ gắn bó nhau. Tình cảm cao đẹp là con
đường dẫn tới tư tưởng đúng đắn. Tư tưởng đúng làm cho tình cảm cao đẹp hơn, làm cho
con người ngày càng hoàn thiện hơn.
Hai là, nâng cao dân trí. Đó là việc nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ kiến thức
của người dân, của mỗi công dân. Sự hiểu biết đó bao gồm nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh
tế, học vấn, nghiệp vụ chuyên môn, khoa học kỹ thuật, lịch sử, xã hội... Phải làm cho mọi
người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia
vào công cuộc xây dựng nước nhà.
Tuỳ từng giai đoạn cách mạng mà mục tiêu nâng cao dân trí có khác nhau, nhưng tất cả
đều chung một mục đích là độc lập dân tộc và CNXH.
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn
hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để không ngừng hoàn thiện bản
thân mình. Có những phẩm chất đạo đức chung cho mọi người Việt Nam trong thời đại
là Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư. Có những phẩm chất đạo đức dành cho từng
lĩnh vực hoạt động: nhà giáo, thầy thuốc... Văn hóa là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân.
Văn hóa là một mặt trận, mỗi nghệ sỹ là một chiến sỹ trên mặt trận ấy.
Văn hoá giúp con người hình thành những phẩm chất phong cách lối sống tốt đẹp,
lành mạnh thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng cái tiến bộ với
cái lạc hậu, bảo thủ. Từ đó giúp cho con phấn đấu làm cho cái tốt đẹp, lành mạnh ngày
càng tăng, càng nhiều, cái lạc hậu cái bảo thủ ngày càng giảm, vươn tới cái chân, thiên,
mỹ để hoàn thiện bản thân.
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa
3.1. Văn hóa giáo dục
Hồ Chí Minh đã phê phán nền giáo dục phong kiến (tầm chương, kinh viện, xa rời
thực tế, bất bình đẳng, trọng nam khinh nữ...) và nền giáo dục thực dân (ngu dân, xảo trá,
nhồi sọ, nguy hiểm hơn cả sự dốt nát...).
Nền văn hóa giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập mà Người dày công xây
dựng có các đặc điểm sau:
- Mục tiêu của văn hóa giáo dục:
Thực hiện ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục: Dạy và học để mở mang dân
trí, nâng cao kiến thức; bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp; bồi dưỡng
những phẩm chất trong sáng và phong cách lành mạnh cho nhân dân.
Giáo dục đào tạo những con người có ích cho xã hội; đào tạo lớp người có đức, có
tài, kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng và làm cho nước ta sánh vai cùng các cường
quốc năm châu.
Phải tiến hành cải cách giáo dục để xây dựng một hệ thống trường, lớp với chương
trình, nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với từng bước phát triển của
ta.
- Nội dung giáo dục là toàn diện: văn hoá, chính trị, khoa học - kỹ thuật, chuyên
môn nghiệp vụ, lao động... Phải gắn nội dung giáo dục với thực tiễn Việt Nam, không
giáo điều. Nắm các quan điểm có tính nguyên tắc, phương pháp luận, đáp ứng đòi hỏi của
thời đại mới - thời đại khoa học - kỹ thuật - công nghệ.
- Phương châm và phương pháp giáo dục:
Phương châm học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải kết
hợp với lao động. Muốn đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục phải kết hợp cả ba khâu gia đình,
nhà trường và xã hội.Thực hiện bình đẳng, dân chủ trong giáo dục. Học mọi nơi, mọi lúc;
học mọi người; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại.
Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo dục. Học tập
là một quá trình lao động gian nan. Phải rèn luyện những đức tính, những tập quán tốt
trong học tập và điều đó đòi hỏi vượt qua không ít khó khăn. Trước hết phải có tinh thần
say mê học tập, phải có quyết tâm, phải có nghị lực để học tập không ngừng, hơn nữa còn
phải có phương pháp đúng để học tập có kết quả: phù hợp với lứa tuổi, kết hợp học và
chơi, nêu gương và thi đua.
- Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên:
Phải xây dựng đội ngũ giáo viên yêu nghề, có đạo đức cách mạng, yên tâm công
tác, đoàn kết, giỏi về chuyên môn, thuần thục về phương pháp, luôn luôn tự giáo dục.
- Phải không ngừng nâng cao Đảng trí:
Dân trí là mục tiêu của giáo dục đối với các tầng lớp nhân dân. Đảng trí là mục tiêu
của giáo dục đối với cán bộ, đảng viên. Đó là việc không ngừng nâng cao rèn luyện, tu
dưỡng, bồi dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin. Phải đứng vững trên lập trường của chủ
nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn
những đặc điểm của đất nước và quốc tế, chỉ ra được bước đi cụ thể của cách mạng xã
hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta.
3.2. Văn hóa văn nghệ
Tư tưởng văn hóa văn nghệ của Hồ Chí Minh gồm những điểm chủ yếu sau:
- Văn nghệ là một mặt trận, nghệ sỹ là chiến sỹ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc
bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới
Văn nghệ là mặt trận vì nó là một bộ phận của cách mạng. Văn nghệ là cách mạng
“Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.
Mặt trận này không kém phần cam go, quyết liệt. Tác phẩm và ngòi bút của văn
nghệ sỹ phải là vũ khí sắc bén “phò chính trừ tà”, vạch trần, tố cáo tội ác, âm mưu của
các lực lượng thù địch. Đồng thời thức tỉnh, định hướng, cổ vũ tinh thần đấu tranh của
nhân dân, động viên quần chúng phấn khởi, tin tưởng thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Văn nghệ sỹ là chiến sỹ, tức phải có lập trường vững, tư tưởng đúng, đặt lợi ích và
nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc và nhân dân lên trên hết. Phải luôn nâng cao trình độ về mọi mặt,
phải có phẩm chất, bản lĩnh, tài năng để sáng tạo những tác phẩm hay ngang tầm thời đại.
- Văn nghệ phải gắn liền với thực tiễn của đời sống nhân dân
Văn nghệ phải từ quần chúng mà ra và trở lại phục vụ quần chúng, phải liên hệ và
đi sâu vào đời sống của nhân dân, phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của
quần chúng. Nhân dân là người hưởng thụ, đồng thời là người định giá giá trị tác phẩm
văn nghệ trung thực, khách quan và chính xác nhất.
- Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước
và dân tộc
Phải phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân là các tác
phẩm phản ánh được những giá trị truyền thống của dân tộc và mang hơi thở của thời đại.
Vừa ca ngợi được cái chân thật người tốt, việc tốt, vừa phê phán được cái giả, cái ác, cái
sai. Các tác phẩm hay xứng đáng với dân tộc và thời đại là món ăn tinh thần phong phú,
có tác dụng mở đường sáng tạo mới cho văn nghệ sỹ.
3.3. Văn hóa đời sống
Tháng 1-1946, Hồ Chí Minh đã phát động phong trào xây dựng đời sống mới bao
gồm các nội dung về lối sống, nếp sống, phong cách sống và chất lượng sống... mà hầu
như chưa được bàn đến một cách rộng rãi ở các nước.
Khái niệm đời sống mới được Người nêu ra bao gồm cả ba nội dung: Đạo đức mới, lối
sống mới và nếp sống mới. Ba nội dung này có quan hệ mật thiết nhau, trong đó đạo đức mới
đóng vai trò chủ yếu. Đạo đức mới được thể hiện trong lối sống, nếp sống. Ngược lại, có dựa
trên nền đạo đức mới thì mới xây dựng được lối sống mới, nếp sống mới lành mạnh, vui tươi,
hướng con người tới tầm cao của văn hóa của một đất nước độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
Đến lượt mình, đạo đức mới cũng chỉ có thể thể hiện trong lối sống và nếp sống.
Đạo đức mới là rèn luyện, tu dưỡng, bồi dưỡng đạo đức theo tư tưởng đạo đức và
tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh. Người đã nhiều lần khẳng định: “Nếu không giữ
đúng cần, kiệm, liêm chính, thì dễ trở thành hủ bại, biến thành sâu mọt của dân, Nêu cao
và thực hành cần, kiệm, liêm, chính tức là nhên lửa cho đời sống mới”
Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức; là lối sống văn minh, tiên tiến
kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là
phong cách sống khiêm tốn, giản dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao
động, biết quý trọng thời gian, ít lòng tham muốn về vật chất, chức quyền danh lợi. Với
nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em là cởi mở chân tình, ân cần tế nhị, yêu thương quý
mến và trân trọng con người. Với mình thì chặt chẽ, với người thì khoan dung, độ lượng.
Trong công việc phải có tác phong quần chúng, tác phong tập thể, dân chủ và tác phong
khoa học. Ba tác phong này luôn quan hệ mật thiết với nhau.
Nếp sống mới là lối sống mới trở thành thói quen ở mỗi người, thành phong tục,
tập quán của cộng đồng địa phương, dân tộc, đất nước. Nếp sống mới theo tư tưởng Hồ
Chí Minh là sự kế thừa những truyền thống tinh thần tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục
lâu đời của nhân dân ta. Việc thay đổi những thói quen, cải tạo những phong tục, tập
quán cũ lạc hậu không thể tiến hành một cách đơn giản, tùy tiện. Những biện pháp ép
buộc, trấn áp thô bạo chỉ đem lại những hậu quả không tốt.
Việc xây dựng đời sống mới phải bắt đầu từ từng người, từng gia đình. Mỗi người,
mỗi gia đình đều thực hiện đời sống mới thì mới xây dựng được đời sống mới ở tập thể,
cộng đồng, đất nước. Gia đình tốt xã hội mới tốt. Xã hội tốt gia đình càng tốt.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
Theo Hồ Chí Minh, muốn thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng XHCN, chúng ta
phải đem hết tinh thần và lực lượng ra phấn đấu; phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách
mạng.
Người xem xét đạo đức cả trên hai bình diện lý luận và thực tiễn. Về lý luận, Người để
lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu sắc và toàn diện về đạo đức. Về thực tiễn, Người
luôn coi trọng thực hành đạo đức, mà bản thân Người là một tấm gương sáng về đạo đức.
- Đạo đức là cái gốc của cách mạng
Khi đánh giá vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh nói: “Cũng như sông thì có
nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có góc thì cây
héo. Người cách mạng phải có dạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân”. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy phải là công việc
thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người trong xã hội.
Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi lẽ muốn làm cách mạng thì trước hết con
người phải có cái tâm trong sáng, cái đạo đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, với
nhân dân lao động, với dân tộc mình. Cái tâm, cái đức ấy phải thể hiện trong các mối
quan hệ hàng ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người xung
quanh mình. Phải có tâm, có đức mới giữ vững được chủ nghĩa Mác - Lênin và đưa được
chủ nghĩa Mác - Lênin vào cuộc sống.
Xóa bỏ đạo đức cũ, xây dựng đạo đức mới là một bộ phận của cuộc cách mạng xóa
bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới với những lý tưởng và khát vọng cao đẹp xã hội chủ
nghĩa và chủ nghĩa cộng sản. Người nói: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã
hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một
cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi
được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành
được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
- Đạo đức là vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và CNXH.
Những vấn đề đạo đức đã được Hồ Chí Minh xem xét một cách toàn diện: Đối với mọi
đối tượng như công nhân, nông dân, trí thức...; Trên mọi lĩnh vực hoạt động của con
người, từ đời tư đến đời công, sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu, lãnh đạo, quản
lý...; Trên mọi phạm vi từ hẹp đến rộng: từ gia đình đến xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ
các vùng, miền, địa phương đến cả nước, từ quốc gia đến quốc tế; Trong cả ba mối quan
hệ chủ yếu của mỗi người (đối với mình, đối với người, đối với công việc): quan hệ giữa
cán bộ, đảng viên của Đảng, của Nhà nước với dân, giữa cấp trên với cấp dưới...
Người dạy: Nếu quyền lực là sức mạnh để giữ vững thành quả cách mạng và phát
triển đất nước, thì quyền lực cũng có thể làm tha hóa con người nắm quyền lực, có thể
đưa đến những tổn thất cho cách mạng.
Những vấn đề đạo đức mà Người đặt ra với cán bộ, đảng viên chính là nhằm ngăn
chặn, khắc phục những hiện tượng tha hóa có thể xảy ra: quan liêu, cậy quyền cậy thế, lợi
dụng quyền lực, tranh giành quyền lực, tham quyền cố vị... chúng có thể trở thành nguy
cơ làm sụp đổ sự nghiệp của một người, thậm chí của một Đảng Cộng sản.
Đạo đức mới do Người đề xướng và dày công vun đắp, xây dựng đã lật ngược lại
các kiểu đạo đức cũ của giai cấp thống trị, áp bức bóc lột nhân dân. Nó xóa bỏ những
chuẩn mực đạo đức phong kiến đã luôn trói buộc nhân dân lao động vào những lễ giáo hủ
bại, hà khắc. Nó hoàn toàn trái ngược với đạo đức của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ cực đoan
của giai cấp tư sản. Nó xa lạ với đạo đức tôn giáo luôn khuyên con người khắc kỷ, cam
chịu, chấp nhận số phận trong chốn trần tục, để hướng tới cuộc sống sau khi chết.
Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân”.
Thực hiện được điều căn dặn tâm huyết ấy của Người là có được vũ khí mạnh mẽ
trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1.2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
Thứ nhất, trung với nước, hiếu với dân.
Đây là phẩm chất quan trọng nhất và bao trùm nhất.
“Trung” và “hiếu” là những khái niệm cũ trong tu tưởng đạo đức truyền thống Việt
Nam và phương Đông phản ánh mối quan hệ lớn nhất, và cũng là phẩm chất đạo đức bao
trùm nhất: “trung với vua hiếu với cha mẹ”.
Hồ Chí Minh đã mượn những khái niệm “trung, hiếu” trong tư tưởng đạo đức
truyền thống và đưa vào đó những nội dung mới: “trung với nước hiếu với dân” tạo nên
một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức.
Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo
đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngững lên trời”.
Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước do dân
làm chủ nên trung với nước đồng thời là hiếu với dân. Hiếu với dân không còn lại ở
thương dân với tính chất dân là đối tượng cần phải dạy dỗ, ban ơn, mà là đối tượng phải
phục vụ hết lòng. Phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa hẳn vào
dân, lấy dân làm gốc.
Người dạy: Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của
Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng đánh thắng. Đối với cán bộ, đảng viên, điều đó là tận trung với nước, tận hiếu với
dân, vì họ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Trung với nước là: Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội, phải biết
đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết; Quyết tâm phấn đấu thực hiện
mục tiêu cách mạng; Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Hiếu với dân là: Khẳng định vai trò sức mạnh của dân; Tin dân, học dân, lắng nghe
ý kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân, tổ chức, vận động nhân dân thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân.
Thứ hai, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Đây là phẩm chất đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập nhiều nhất và thường xuyên
nhất từ Đường cách mệnh đến bản Di chúc cuối cùng.
Những phẩm chất này đã rất cần thiết đối với con người Việt Nam khi đất nước còn
phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo của chủ nghĩa thực dân. Ngày nay,
nó lại càng cần thiết cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong hòa bình.
Cần là lao động cần cù siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất
cao; lao động tự lực cánh sinh, không ỷ lại, không lười biếng; phải coi lao động là nghĩa
vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi người.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của của nhân dân,
của đất nước, của bản thân; không xa xỉ, hoang phí.
Liêm là luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm một xu, một
hạt thóc của dân, của Nhà nước. Không tham địa vị, tiền tài. Không tham sung sướng.
Không tham người tâng bốc mình.
Chính là thẳng thắn, đúng đắn. Đối với mình là không tự cao, tự đại, luôn chịu khó
học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm để phát triển điều tốt, khắc phục điều dở của bản thân.
Đối với người là không nịnh hót đối với cấp trên, không coi khinh người dưới; luôn chân
thành khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá lừa lọc. Đối với công việc là để việc công lên
trên việc riêng. Đã phụ trách việc gì thì làm cho kỳ được, không sợ khó khăn nguy hiểm;
việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một
việc lợi cho nước, cho dân.
Chí công vô tư là khi làm việc gì cũng phải nghĩ cho người trước, khi hưởng thụ thì
phải đi sau; phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Thực hiện chí công vô tư cũng có
nghĩa là kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Cần kiệm liêm chính và chí công vô tư luôn quan hệ mật thiết với nhau. Cần mà
không kiệm như gió vào nhà trống. Kiệm mà không cần thì sản xuất được ít, không đủ
dùng, không có tăng thêm, không có phát triển. Thiếu một trong bốn đức cần, kiêm, liêm,
chính là không thành người. Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính tất yếu dẫn đến chí công vô
tư. Đã chí công vô tư ắt thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính. Thực hiện cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư là thực hiện nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Có được điều ấy thì “giàu sang
không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”, “trợn
mắt coi khinh nghìn lực sỹ, cúi đầu làm ngựa đám nhi đồng”.
Thứ ba, yêu thương con người.
Hồ Chí Minh xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất
cao đẹp nhất.
Tình cảm rộng lớn đó, trước hết dành cho những người nghèo khổ, những người lao
động bị áp bức. Ham muốn tột bậc của Người là nước được độc lập, dân được tự do, ai
cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc, ai cũng được học hành.
Tình thương đó được thể hiện trong quan hệ với bạn bè, đồng chí, với mọi người.
Nó đòi hỏi mỗi người phải luôn chặt chẽ, nghiêm khắc với chính mình và luôn khoan
dung, độ lượng với người khác; phải tôn trọng con người.
Tình thương đó còn được thể hiện đối với những người mắc sai lầm, khuyết điểm,
nhưng đã nhận rõ khuyết điểm sai lầm và cố gắng sửa chữa; kể cả đối với những người
lầm đường lạc lối đã hối cải; kể cả đối với kẻ thù bị thương, bị bắt hoặc đã quy hàng.
Tình yêu thương con người được xây dựng dựa trên nguyên tắc tự phê bình và phê
bình một cách chân thành, nghiêm túc giữa những người cùng lý tưởng vì sự nghiệp
chung. Nó xa lạ với thái độ dĩ hòa vi quý, bao che sai lầm khuyết điểm cho nhau; yêu nên
tốt, ghét nên xấu và bè cánh.
Thứ tư, tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung.
Tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản là tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”.
Đó lựng tôn trọng và yêu thương, là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức,
với nhân dân lao động thế giới, với những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình,
công lý và tiến bộ xã hội.
Sự đoàn kết ấy là nhằm những mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các
nước, các dân tộc.
Chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng phải gắn liền với chủ nghĩa yêu nước chân
chính. Nó xa lạ với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa sô vanh, kỳ thị chủng tộc, chủ
nghĩa bành trướng.
1.3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới (tự học)
Thứ nhất, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Nói đi đôi với làm mới đem lại hiệu quả thiết thực cho bản thân và có tác dụng đối
với người khác. Nói nhiều làm ít, nói mà không làm, nói một đường làm một nẻo chỉ đem
lại những hậu quả phản tác dụng. Đó là thói đạo đức giả. Lòng tin của nhân đối với Đảng,
với chủ nghĩa xã hội một phần quan trọng phụ thuộc vào vấn đề nói đi đôi với làm.
Một trăm bài diễn văn hay không bằng một tấm gương sống, và Hồ Chí Minh là
một tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt vời.
Trong xã hội, tấm gương của các thế hệ trước đối với thế hệ sau là đặc biệt quan
trọng. Chính thế mà thế hệ trước luôn có trách nhiệm nặng nề đối với thế hệ sau trong
việc giáo dưỡng, bồi dưỡng đạo đức. Dĩ nhiên, người già cũng có thể học tập người trẻ để
không ngừng hoàn thiện đạo đức của mình.
Có những tấm gương chung, có tấm gương riêng, lớn và nhỏ, xa và gần. Những tấm
gương đạo đức của những người tiêu biểu, những người tốt việc tốt có ý nghĩa thúc đẩy
cho quá trình xây dựng và củng cố, phát triển nền đạo đức mới.
Đối với cán bộ, đảng viên, “trước mặt quần chúng, không phải cứ viết lên trán hai chữ
cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức.
Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người khác bắt chước”.
Thứ hai, xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi
Muốn xây dựng đạo đức mới, muốn bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cách mạng cho
nhân trong các giai đoạn khác nhau của cách mạng, thì cùng với xây dựng những phẩm chất tốt
đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện sai trái, trái với những yêu cầu của đạo đức mới.
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những
phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình đến nhà trường và ngoài xã hội.
Vấn đề quan trọng trong giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức lành mạnh ở mọi
người để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình. Bởi lẽ, tiếp
nhận sự giáo dục đạo đức là vấn đề nhất thiết không thể thiếu, nhưng sự tự giáo dục, tự
trau dồi đạo đức ở mỗi người còn quan trọng hơn.
Trong xây dựng những phẩm chất đạo đức mới, đồng thời phải chống cái xấu, cái sai.
Điều quan trọng là phải phát hiện sớm cái xấu, cái sai và hướng mọi người vào cuộc đấu tranh
cho sự trong sạch lành mạnh về đạo đức. Phải thấy trước những gì có thể xảy ra để đề phòng,
ngăn chặn.
Hồ Chí Minh yêu cầu phải kiên quyết chống các loại giặc nội xâm (tham ô, lãng
phí, quan liêu) vì nó nguy hiểm như việt gian, mật thám. Chống nó vừa bằng giáo dục,
vừa bằng xử phạt với những mức độ nặng nhẹ khác nhau. Người vạch rõ nguồn gốc của
mọi thứ tệ nạn là chủ nghĩa cá nhân. Muốn xây dựng đạo đức mới, chung quy lại là phải
chống cho được chủ nghĩa cá nhân.
Để xây và chống có kết quả, phải tạo thành phong trào của quần chúng rộng rãi.
Người đã thường xuyên phát động những phong trào như vây. Có phong trào, có cuộc
vận động chung cho toàn Đảng, toàn dân; có phong trào, có cuộc vận động riêng cho từng
ngành, từng giới. Qua đó, lôi kéo mọi người vào cuộc đấu tranh xây dựng đạo đức mới,
chống lại các loại giặc nội xâm do chủ nghĩa cá nhân gây ra.
Thứ ba, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Người chỉ rõ: mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa
mặt hàng ngày, nó là công việc phải kiên trì, bền bỉ suốt đời, không được chủ quan, tự
mãn. Người dạy: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh,
rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong”.
Theo Người, ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ tốt, chỗ xấu, ai cũng có thiện, có ác
trong bản thân mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc
mình, phải thấy rõ cái hay cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác
để khắc phục.
Trong cuộc sống, con người có nhiều cương vị, nhiều vai trò khác nhau đòi hỏi phải
điều chỉnh hành vi của mình. Có rèn luyện công phu, con người mới có được phẩm chất đạo
đức tốt đẹp và những phẩm chất ấy càng được bồi đắp, nâng cao.
2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
2.1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
2.2. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay
- Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ở các nội dung:
Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống
giản dị và đức khiêm tốn phi thường
Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết
lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con
người
Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi
thử thách, gian nguy để đạt được mục đích của cuộc sống.

III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI


1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người (tự học)
1.1. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
1.2. Con người cụ thể, lịch sử
1.3. Bản chất con người mang tính xã hội
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược “trồng
người”
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
Dân ta có tài năng trí tuệ và sáng tạo, họ biết “giải quyết nhiều vấn đề một cách giản
đơn, mau chống, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không
ra”. Đắc biệt là lòng hăng hái, sốt sắng của dân để thực hiện các mục tiêu cách mạng.
Trong khi khẳng định mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người, mang lại tự
do, hạnh phúc cho con người, Hồ Chí Minh cũng đồng thời khẳng định rằng sự nghiệp
giải phóng là do chính bản thân con người thực hiện.
Nhưng cái hiện thực lúc bấy giờ hết sức nghiệt ngã cho cách mạng: Nhân dân các
nước thuộc địa nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng, mà hầu hết là nhân dân bị
chính sách ngu dân làm cho mù chữ, dốt nát, bị nền nông nghiệp manh mún, lạc hậu làm
cho phân tán, rời rạc, lại bị chủ nghĩa thực dân và tay sai của chúng tìm đủ mọi cách chia
rẽ…, liệu với nền tảng nhân dân như vậy có khả năng cứu nước được hay không? Liệu
cách mạng có đủ lạc quan và đặt niềm tin vào quần chúng nhân dân như vậy hay không?
Hơn nữa, liệu với nền tảng nhân dân như vậy có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội sau khi tự
giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân hay không?
Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã thấy ở nhân dân bị áp bức bóc lột, gầy còm xơ xác ấy
cái sức mạnh lấp biển vá trời, đã thấy ở những người bị đầu độc, bị thất học ấy cái trí tuệ
lớn lao. Người chỉ ra rằng: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu
một cái gì sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nỗ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”.
Lòng tin của Hồ Chí Minh đối với nhân dân dựa trên “Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báo của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị
xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nỗi, nó kết thành một làn ssống vô cùng mạnh mẽ, to
lớn,nó luớt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhân chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước”.
Tiến hành cuộc cách mạng xây dựng một phương thức sản xuất mới, đòi hỏi phải
phát huy sức mạnh của giai cấp tiên phong của phương thức sản xuát đó. Về vấn đề này,
Hồ CHí Minh đã bổ sung cho nhân thức về truyền thống yêu nước của dân tộc.
Người tin tưởng rằng cùng với dân tộc, giai cấp công nhân sẽ đào mồ chôn chủ
nghĩa đế quốc tại Việt Nam: “Việc đã tạo ra một giai cấp vô sản và dạy cho người An
Nam biết sử dụng súng ống là một bằng cớ chứng tỏ chủ nghĩa đế quốc tự mình đào hố
để chôn mình”.
Đây là một sáng tạo hết sức quan trọng của Hồ Chí Minh:
+ Gắn bó, thống nhất giai cấp công nhân với dân tộc. Giai cấp công nhân liên minh
chặt chẽ với nông dân phải tập hợp được toàn thể dân tộc chung quanh mình.
+ Dân tộc phải được giai cấp công nhân lãnh đạo. Giai cấp công nhân tìm được sức
mạnh của mình ở dân tộc, ngược lại dân tộc phải tìm thấy ở giai cấp công nhân người dẫn
đường thắng lợi cho mình.
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra, nhưng ở
đây trên con đường tiến lên CNXH thì trước hết cần có những con người XHCN. Điều
này cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những
phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã
hội. Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng CNXH,
đây là mối quan hệ biện chứng giữ xây dựng CNXH và con người XHCN.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó
chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống. Hai
là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xẫ hội
chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội và thiên nhiên …);
có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.
Để thực hiện chiến lược “trồng người” cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và
đào tạo là biện pháp quan trọng nhất. Nội dung của phương pháp giáo dục phải toàn diện
cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức lý tưởng và lý tưởng cách mạng, lối sống xã hội chủ
nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức và tài thống nhất với nhau, không tách rời nhau, trong
đó đức là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển.
Nguyên tắc trong quá trình thực hiện “trồng người”
+ “trồng người” là công việc trăm năm, không thể nóng vội “một sớm một chiều”,
không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện đến đâu hay đến đó.
+ Trước hết phải có Đảng cách mạng và học thuyết cách mạng. Đảng ấy, là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Học thuyết ấy, là chủ nghĩa Mác - Lênin.
III. KẾT LUẬN
- Trong lĩnh vực văn hóa, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh của
văn hóa, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước.
- Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh có những đóng góp đặc sắc vào tư tưởng
đạo đức học mácxít. Đó là vấn đề về vai trò và sức mạnh của đạo đức, về những chuẩn
mực đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng một nền đạo đức mới phù hợp với
Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới với nội dung sâu sắc và mới
mẻ có giá trị lý luận và thực tiễn rất quan trọng.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng văn hóa, đạo đức và con
người mới ở Việt Nam hiện nay cần chú ý các định hướng:
1. Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Là thành viên của UNESCO, Chính phủ Việt Nam đã thành lập Ủy ban quốc gia
thập kỷ văn hoá và phát triển (1989-1999) theo nội dung của UNESCO đã phát động:
Độc lập của mỗi dân tộc, dân chủ cho nhân dân và tự do cho mỗi con người. UNESCO lo
âu sâu sắc trước những biểu hiện đầu độc môi trường xã hội, gây nguy hại đến cuộc sống
bình thường của mọi người. Bởi vậy, tổ chức này đề nghị phải “tiếp thêm sức mạnh cho
nền văn hoá của xã hội đương thời, và nâng nó lên ngang tầm với sự phát triển kinh tế và
sự phồn vinh của xã hội; làm cho những nhà lãnh đạo thế giới lĩnh hội được tầm cỡ phát
triển của văn hoá”.
Chúng ta đang sống những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, một thiên niên kỷ mới,
đánh dấu bước tiến bộ của loài người. Nếu chúng ta “xa rời những giá trị truyền thống sẽ
làm mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác,
của dân tộc khác” (26) . Mặt khác, người ta không thể sống một mình với cội rễ. Thậm chí
cội rễ đó cũng sẽ khô héo nếu nó không vươn ra dưới mặt trời và không khí tự do. Chỉ
khi đó cội rễ mới đem dinh dưỡng đến cho anh. Chỉ khi đó cuộc sống mới đâm cành trổ
hoa... Vấn đề ở đây là làm thế nào có được sự cân bằng” (Nêru).
Đảng ta xác định: Văn hoá là nền tàng tinh thần của xã hội, là tầm cao chiều sâu về
trình độ phát triển của dân tộc, kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa
người với người, người với xã hội, với thiên nhiên. Văn hoá là động lực, mục tiêu của sự
nghiệp cách mạng. Trong các tư tưởng chỉ đạo xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc thì độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chỉ đạo hàng
đầu.
Những nội dung lớn được cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày trong quyển
sách  Văn hoá và đổi mới,  tức văn hoá là đổi mới, đổi mới là văn hoá. Ông cho rằng:
“đổi mới và văn hoá quan hệ mật thiết với tư tưởng Hồ Chí Minh như hình với bóng”.
Ngày nay nhân loại đang chú ý tới và đề cao văn hoá phương Đông. Trả lời một nhà
báo Pháp, ông Lý Quang Diệu cho rằng: “Chúng tôi (châu Á) không theo mô hình
phương Tây. Chúng tôi có mẫu số chung, một truyền thống văn hoá đặt lợi ích chung lên
trên lợi ích cá nhân”. Ông khẳng định: “Lợi ích cộng đồng luôn luôn đứng cao hơn quyền
lợi cá nhân đó là phương pháp Singapo” (27) .
Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo
tư tưởng Hồ Chí Minh cần nhận thức và hành động theo những nội dung cơ bản sau:
- Trước hết phải thấy vị trí và tầm quan trọng của văn hoá trong xã hội. UNESCO
nhắc nhở các nhà lãnh đạo thế giới cần quan tâm đến văn hoá. Bởi vì, “sự phát triển của
xã hội xét đến cùng là sự phát triển của văn hoá”; “sự thăng hoa của văn hoá là đỉnh cao
nhất của sự phát triển”.
Phát triển kinh tế phải có gia tài văn hoá như là “hệ điều tiết” xã hội. Cách mạng
khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được thai nghén và
nuôi dưỡng trong môi trường văn hoá.
- Nghiên cứu thấu đáo, toàn diện văn hoá dân tộc và văn hoá phương Đông để thấy
rằng, sức mạnh văn hoá Việt Nam không những giúp chúng ta đánh thắng ngoại xâm mà
còn là vũ khí tinh thần giúp ta trong xây dựng đất nước.
- Xây dựng nền văn hoá mới phải toàn diện nhưng chú ý hai vấn đề quan trọng hàng
đầu: đó là sự nghiệp của quần chúng nhân dân và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải
trở thành văn hoá, là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm của dân tộc và
thời đại.
- Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là giữ
gìn Tổ quốc ta mãi mãi là quốc gia văn hiến, dân tộc ta là một dân tộc văn hoá, nền văn
hoá nước ta không ngừng phát triển, xứng đáng với tầm vóc của dân tộc và thời đại.
2. Tấm gương và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới
2.1. Thực trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên và xã hội ta hiện nay
Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói tới đạo đức là xét trên ba mối quan hệ
chủ yếu: với mình, với người, với việc. Biểu hiện cụ thể của ba mối quan hệ đó là sự hy
sinh phấn đấu để thực hiện lý tưởng, mục tiêu, chấp hành kỷ luật và đường lối chính sách
của Đảng. Thực hành đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin
tưởng quần chúng, hiểu quần chúng, thực hành đại đoàn kết toàn dân. Đó chính là lòng
nhân của người cách mạng. Đạo đức cách mạng là phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa
cá nhân, thực hành cần kiệm liêm chính...
Xét trên những lĩnh vực then chốt nhất của đạo đức, xã hội ta đã có những chuyển
biến quan trọng. Trong sự nghiệp đổi mới, cán bộ, đảng viên nhân dân ta đã sáng suốt, kế
thừa và phát huy trí tuệ của dân tộc và thời đại, tiêu biểu là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng một cách phù hợp vào điều kiện của đất nước. Đây là
nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh thần - đạo đức của xã hội phát triển đúng
hướng.
Ý thức phấn dấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm của
cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước. Nhiều nét mới trong giá trị văn hoá và chuẩn
mực đạo đức từng bước được hình thành và ăn sâu vào tâm lý quốc dân.Tính năng động
và tính tích cực công dân được phát huy, sở trường và năng lực cá nhân được khuyến
khích. Không khí dân chủ trong xã hội tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến
thức mới, trung thành, dũng cảm, khiêm tốn, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đạo lý của dân tộc sống có tình có nghĩa, bầu ơi thương lấy bí
cùng, lá lành đùm lá rách... được tiếp tục nhân rộng. Những việc làm thiết thực hướng về
cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, quý trọng các
danh nhân văn hoá, đền ơn đáp nghĩa những người có công, giúp đỡ đồng bào hoạn nạn...
trở thành phong trào quần chúng.
Bên cạnh những thành tựu, nổi lên những mặt yếu kém về nhận thức, tư tưởng,
chính trị dẫn tới phai nhạt lý tưởng và sa sút về lối sống, phẩm chất đạo đức. Hai vấn đề
này gắn bó với nhau.
Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII trong thời gian gần
đây đã thẳng thắn chỉ ra sự suy thoái nghiêm trọng về đạo đức, lối sống ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức có quyền, cán bộ trung, cao
cấp. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước, tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đoạ chưa
dược ngăn chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn
cựa địa vị, cục bộ địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến. Riêng tham nhũng thì
“chứng minh bao nhiêu cũng không đủ, càng nói càng thấy đau xót”. Phải khẳng định
rằng, bệnh đã nặng, cho nên phải chữa tận gốc, chữa một cách cơ bản.
Về nguyên nhân, bên cạnh những nguyên nhân khách quan như sự phá hoại của kẻ
địch, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, những tiêu cực của cơ chế thị trường,
nước ta còn nghèo… thì phải nhấn mạnh tới những nguyên nhân chủ quan.
Đảng ta chưa lường hết những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, thiếu những
biện pháp hữu hiệu cả “xây” và “chống” trên lĩnh vực đạo đức. Việc xử lý những phần tử
thoái hoá biến chất trong Đảng và bộ máy Nhà nước chưa nghiêm. Tinh thần tự phê bình
và phê bình sa sút ở nhiều cấp bộ Đảng. Trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện
buông lỏng, né tránh, hữu khuynh. ..
2.2. Học tập, rèn luyện theo tấm gương và tư tương đạo đức Hồ Chí Minh
Trước hết cán bộ, đảng viên, nhân dân phải nhận thức, quán triệt đầy đủ và rèn
luyện đạo đức theo những nguyên tắc đã được Hồ Chí Minh nêu lên.
Rèn luyện trong thực tiễn, nêu gương đạo đức, “người tốt việc tốt”, “xây” đi liền
với “chống”, tự phê bình và phê bình tạo ra phong trào thi đua rèn luyện đạo đức mới là
những biện pháp tốt để xây dựng đạo đức trong tình hình hiện nay.
Không thể chỉ giản đơn đòi hỏi xây dựng đạo đức xã hội chủ nghĩa. Nhưng rõ ràng
chủ nghĩa xã hội muốn thành công cần có đạo đức. Khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc học tập và thực hành theo tấm gương và tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Văn kiện Đại hội IX của
Đảng chỉ rõ: Mở rộng trong Đảng và trong nhân dân phong trào học tập và làm theo tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Mỗi cấp ủy, mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm việc
thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ
nghĩa cá nhân.
Quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, trước hết phải
thấm nhuần tư tưởng của Người về vai trò và các phẩm chất đạo đức. Điều quan trọng
nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong sinh hoạt và công tác, không ngừng
nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, nói đi đôi với làm, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều
lệ, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết khắc phục sự suy thoái đạo
đức cũng như những tiêu cực trong xã hội theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, là một
quá trình tạo ra những chuẩn giá trị đạo đức mới phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Xây dựng con người mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Việc bồi dưỡng và xây dựng con người mới chính là góp phần nhân sức mạnh và
hiệu quả của con người trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội cống bằng, dân chủ, văn minh.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã khẳng định nhiệm vụ xây dựng con người về
trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách tốt đẹp, có bản lĩnh vững
vàng. Đó là những con người theo truyền thống  Nhân, Trí, Dũng  của dân tộc. Đây là
phẩm chất toàn vẹn mà Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo giáo dục cán bộ, đảng viên
và nhân dân ta. Người chính là bậc đại nhân, đại trí, đại dũng, biểu tượng tập trung của
truyền thống đó.
Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII nêu nhiệm
vụ hàng đầu xây dựng và phát triển văn hoá là xây dựng con người Việt Nam với những
đức tính sau:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân
dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn
trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất
cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ
và thể lực.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, các Văn kiện Đại hội của Đảng Cộng sản Việt
Nam I, X, XI, XII khẳng định xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
V. TÓM TẮT NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHƯƠNG
Trong chương 7, trình bày các quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo
đức, xây dựng con người mới và sự cần thiết cũng như những nội dung sinh viên học tập
và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, các quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa được thể hiện trên
các khía cạnh: định nghĩa, vị trí, vai trò, chức năng, tính chất của văn hóa; các lĩnh vực
chính của văn hóa như: văn hóa giáo dục, văn hóa văn nghệ, văn hóa đời sống.
Thứ hai, các quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đạo đức bao gồm các nội dung
về vai trò của đạo đức cách mạng; những chuẩn mực đạo đức cách mạng; các nguyên tắc
xây dựng đạo đức mới và vấn đề sinh viên học tập, làm theo tư tưởng, tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh.
Thứ ba, các quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới được thể
hiện từ quan niệm của Hồ Chí Minh về con người: Con người được nhìn nhận như một
chỉnh thể; Con người cụ thể, lịch sử; Bản chất con người mang tính xã hội đến quan điểm
của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược “trồng người”. Di sản Hồ Chí Minh
về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới vẫn vẹn nguyên giá trị thời đại, tiếp tục soi
sáng sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Thứ tư, trong giai đoạn hiện nay cần chú trọng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới trên nhiều phương diện để không ngừng
thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước và hội nhập quốc tế.
VI. CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ BÀI TẬP
Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục và quan điểm của Hồ Chí
Minh về vai trò của con người và chiến lược “trồng người”? Phân tích những phẩm chất
đạo đức cơ bản của con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh? Vận dụng các
nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng,
rèn luyện đạo đức của sinh viên hiện nay như thế nào?.
VII. HƯỚNG DẪN SINH VIÊN TỰ HỌC:
Phần tự học chương 7 Hướng dẫn:
I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ - Nghiên cứu giáo trình từ trang
CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA 231 - 238; 255-259 ; 270-272.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề - Sinh viên cần chuẩn bị vở hoặc
chung của văn hóa (tự học) sổ tay tự học. Trước khi lên lớp
2.1. Quan điểm về vị trí và vai trò của văn hóa ghi chú những nội dung hiểu, tâm
trong đời sống xã hội đắc và những vấn đề chưa rõ
2.2. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa
trong phần tự học.
2.3. Quan điểm về chức năng của văn hóa
- Biết lấy ví dụ trong thực tiễn để
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về làm sáng tỏ phần lý luận ở các nội
đạo đức dung tự học.
1.3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng - Có thể viết một bài luận, khái
đạo đức mới (tự học) quát về những kết quả nội dung tự
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY học.
DỰNG CON NGƯỜI MỚI
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người - Ngoài việc ghi lại các nội dung
(tự học) trọng tâm trong phần tự học, sinh
1.1. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể viên cần thiết tự đặt ra các câu hỏi,
1.2. Con người cụ thể, lịch sử xây dựng hệ thống câu hỏi tương
1.3. Bản chất con người mang tính xã hội ứng với các nội dung đã được giáo
trình trình bày sẽ giúp sinh viên nhớ
kỹ nội dung tự học…
VIII. GIÁO TRÌNH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình:
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dùng cho sinh viên đại
học cao đẳng khối không chuyên ngành Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh) NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2016, tr.229-284.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập (15tập) NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà nội - 2011 (Hồ
Chí Minh toàn tập, đĩa CDROM 15 tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2015.
[2]. http://hochiminh.vn
[3]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội - 2003.

You might also like