You are on page 1of 16

I.

Khái niệm, vai trò, đặc điểm ngành may mặc


1. Khái niệm ngành may mặc

Ngành may mặc là ngành công nghiệp sản xuất ra các sản phẩm phục
vụ cho nhu cầu thiết yếu của con người, liên quan đến việc sản xuất sợi, dệt
nhuộm, vải, thiết kế sản phẩm, hoàn tất hàng may mặc và cuối cùng là phân
phối hàng may mặc tới tay người tiêu dùng.

2. Vai trò của ngành dệt may

Ngành may mặc góp phần đảm bảo nhu cầu tiêu dùng, cần thiết cho
hầu hết các ngành nghề và sinh hoạt; là một ngành đem lại thặng dư xuất
khẩu cho nền kinh tế; góp phần giải quyết việc làm, nâng cao mức sống và
ổn định tình hình chính trị xã hội. Ngoài ra, có thể nói ngành may mặc là
một ngành có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của các ngành công
nghiệp khác, vì khi may mặc là một trong những ngành hàng đầu của nền
kinh tế thì bản thân nó sẽ cần đến một lượng lớn nguyên liệu là sản phẩm
đến từ các lĩnh vực đa dạng khác nhau. Tại các nước đang phát triển hiện
nay, ngành may mặc đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn
thông qua việc sản xuất các loại nguyên liệu dệt như bông, đay, tơ tằm, da...
và đồng thời là phương tiện dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông
nghiệp sang kinh tế công nghiệp.

Bên cạnh đó, ngành may mặc còn làm tăng phúc lợi xã hội, tăng thu
lợi nhuận để tích lũy làm tiền đề phát triển các ngành kinh tế khác như nông
nghiệp, công nghiệp hỗ trợ. Công nghiệp may mặc là ngành có ý nghĩa trọng
tâm trong giai đoạn chuyển đổi của Việt Nam từ nền kinh tế hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường. May mặc là một phần cấu thành quan trọng
trong chính sách định hướng xuất khẩu của đất nước, nói một cách chung
hơn, là một trong những nỗ lực của Việt Nam để hòa nhập vào nền kinh tế
quốc tế.

3. Đặc điểm của ngành may mặc

May mặc là ngành cung cấp sản phẩm thiết yếu nên thị trường tiêu
dùng là rất lớn, trong buôn bán trên thế giới, sản phẩm của ngành may mặc
là một trong những hàng hóa đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế. Hàng
hóa của ngành may mặc mang một số đặc trưng riêng biệt ảnh hưởng rất
nhiều đến sản xuất và buôn bán như tính thời trang, tùy thuộc vào thị hiếu
tiêu dùng hay phong tục tập quán ăn mặc, vấn đề nhãn mác và những yếu tố
thời vụ như chu kỳ sản xuất, luôn thay đổi theo thời tiết, v.v.

Về sản xuất, ngành may mặc là ngành sử dụng nhiều lao động nữ,
không đòi hỏi trình độ cao. May mặc là ngành công nghiệp nhẹ, công nghệ
bán tự động, là ngành không đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhưng lại có tỷ lệ lãi
cao, phù hợp với tổ chức sản xuất quy mô vừa và nhỏ. Chính vì vậy, sản
xuất may mặc thường phát triển mạnh và có hiệu quả rất lớn đối với các
nước đang phát triển và đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa.

Về thị trường, trong sản xuất may mặc thì thị trường đầu vào chính là
nguyên liệu bông, xơ, sợi hay vải, da,... còn thị trường đầu ra thì rất đa dạng.
Các sản phẩm may mặc là một trong những mặt hàng được bảo hộ chặt chẽ.
Trước khi Hiệp định về hàng dệt may – kết quả quan trọng của vòng đàm
phán Uruguay ra đời và phát huy tác dụng, việc buôn bán sản phẩm may
mặc được điều chỉnh theo các thể chế thương mại đặc biệt và nhờ đó phần
lớn các nước nhập khẩu thiết lập hạn chế số lượng để giảm thiểu hàng nhập
khẩu. Mặt khác, mức thuế phổ biến đánh vào hàng may mặc còn cao hơn so
với các hàng hóa của những ngành kinh tế khác. Tât cả những rào cản đó
ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và buôn bán hàng may mặc trên thế giới.

II. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển ngành may mặc ở Việt Nam
1. Điều kiện tự nhiên

Khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa rất phù hợp với phát
triển cây bông là một yếu tố đầu vào của ngành may mặc, sợi làm ra có năng
suất, chất lượng cao, cạnh tranh dễ dàng trên thị trường.

2. Văn hóa xã hội


a. Yếu tố dân cư: Dân cư và cơ cấu dân cư ảnh hưởng rất lớn đến
ngành may mặc. Dân cư đông, nhu cầu hàng may mặc cao, lao
động nhiều. Cơ cấu dân số trẻ nhu cầu về hàng may mặc đa dạng
phong phú hơn cơ cấu dân số già.
b. Yếu tố văn hóa: Nhu cầu tiêu dùng sản phẩm may mặc rất phong
phú và đa dạng, chỉ khác nhau về cách ăn mặc, mẫu mã tùy thuộc
vào văn hoá, phong tục, tập quán, tôn giáo, khu vực, thị trường, khí
hậu, mức thu nhập, tuổi tác, giới tính... Nghiên cứu và hiểu rõ nhu
cầu của từng nhóm người tiêu dùng giúp cho việc sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm dễ dàng hơn.
c. Yếu tố thị trường: Việc phát triển ngành may mặc cần thiết phải
có thị trường cung cấp nguyên liệu, nếu không thì sản xuất sẽ phụ
thuộc rất lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Trong tiêu thụ sản
phẩm, cần chú ý đến môi trường bởi các nước yêu cầu và kiểm
soát nghiêm ngặt khi nhập khẩu hàng may mặc.

3. Tình hình kinh tế:

Tình hình biến động về tăng trưởng kinh tế, lạm phát, lãi suất, tỷ giá
hối đoái sẽ ảnh hưởng đến giá cả đầu vào và đặc biệt ảnh hưởng đến việc
tiếp cận vốn của các doanh nghiệp. Kinh tế càng phát triển, đời sống và thu
nhập càng cao thì con người càng chú trọng đến các sản phẩm phục vụ tiêu
dùng, trong đó có quần áo.

4. Nhân tố chính trị và cơ chế chính sách

Tình hình chính trị ổn định sẽ tạo sự tin tưởng vững chắc cho việc đầu
tư vào ngành, giúp thu hút được nhiều vốn đầu tư. Các cơ chế chính sách
ngày càng thông thoáng và hoàn thiện hơn, giúp cho các doanh nghiệp rất
nhiều trong hoạt động kinh doanh của mình.

III. Thực trạng ngành may mặc ở Việt Nam năm 2020

1. Về sản xuất

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
của ngành dệt may 11 tháng của năm 2020 giảm 0,4% so với cùng kỳ năm
trước, trong đó IIP tháng 9 giảm 6,3%; tháng 10 giảm 5% và đến tháng 11
đã tăng trở lại 1,3%. Tương tự đối với ngành sản xuất trang phục, mức giảm
IIP so với cùng kỳ năm trước được thu hẹp dần, tháng 8 giảm 7,2%; tháng 9
giảm 4,1%; tháng 10 giảm 3,1%, riêng tháng 11 phục hồi mạnh mẽ với tốc
độ tăng 3,6% do các doanh nghiệp đã dần nắm bắt được cơ hội trong thách
thức, chuyển đổi nhanh cơ cấu hàng hóa để có khả năng thích ứng với tình
hình mới. Trong đó, sản lượng vải dệt tự nhiên tháng 11/2020 tăng mạnh
24,2% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng vải dệt từ sợi nhân tạo tăng
3,3%, phục hồi rõ rệt so với mức giảm 9,6% của tháng 10 và 5,2% của tháng
9; quần áo mặc thường tăng 3,4%. Đối với ngành Da, giày, mặc dù chịu tác
động mạnh của dịch Covid-19 trong quý II/2020, tuy nhiên IIP của ngành đã
có sự cải thiện khi mức giảm IIP giữa các tháng được thu hẹp. Cụ thể, mức
tăng - giảm IIP các tháng từ quý II/2020 so với cùng kỳ năm trước như sau:
Tháng 4 giảm 16%; tháng 5 giảm 12%; tháng 6 giảm 9,6%; tháng 7 giảm
6,2%; tháng 8 giảm 3%; tháng 9 giảm 3,4%; tháng 10 giảm 2,6% và tháng
11 tăng trở lại 0,7%.

2. Về nhập khẩu

Trị giá nhập khẩu trong tháng đạt 1,93 tỷ USD, giảm nhẹ 0,7% so với
tháng trước, qua đó đưa trị giá nhập khẩu trong 11 tháng/2020 đạt 19,34 tỷ
USD, giảm mạnh 12,7% (tương ứng giảm 2,8 tỷ USD) so với cùng kỳ năm
2019. Trong đó, Trung Quốc là thị trường lớn nhất cung cấp nhóm hàng
nguyên phụ liệu phục vụ ngành dệt may, da giày cho Việt Nam, chiếm tỷ
trọng 50,6%, với 9,79 tỷ USD, giảm 6,8% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp
theo là các thị trường: Hàn Quốc với 2,06 tỷ USD, giảm 22,9%; Đài Loan:
1,83 tỷ USD, giảm 16,3%; Hoa Kỳ: 1,65 tỷ USD, giảm 19,3%.

Figure 1 Kim ngạch nhập khẩu dệt may Việt Nam quý I/2020
(Nguồn: Tập đoàn Dệt May Việt Nam)
Chart 1 Mức tăng/giảm trị giá nhập khẩu của một số nhóm hàng trong 11
tháng/2020 so với cùng kì năm trước
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)

3. Về xuất khẩu

Năm 2020 là năm đầu tiên sau 25 năm, kim ngạch xuất khẩu hàng may
mặc 11 tháng của năm 2020 đạt 26,73 tỷ USD, chiếm 10,5% tổng kim ngạch
hàng hóa xuất khẩu, tăng trưởng âm 10,5% so với cùng kỳ năm trước, có tới
94,2% doanh ngiệp da giày, 87,1% doanh nghiệp dệt may bị giảm đơn hàng;
84,5% doanh nghiệp da giày, 53,5% doanh nghiệp dệt may bị hoãn, hủy
đơn; 74,8% doanh nghiệp da giày, 22,9% doanh nghiệp dệt may không xuất
khẩu được. Khảo sát tháng 6/2020 của ERC trong ngành dệt may, giày dép
cho thấy chỉ có 10% nhà máy tại Việt Nam được thanh toán đầy đủ chi phí
nguyên vật liệu và nhân công cho các đơn hàng đã sản xuất nhưng bị khách
hàng hoãn hoặc hủy, gần 90% nhà máy bị chậm thanh toán từ 1-6 tháng và
nhiều khách hàng đòi giảm giá tới 70% . Tuy nhiên mức giảm này vẫn thấp
hơn nhiều quốc gia khác, đặc biệt là trong bối cảnh tổng cầu dệt may thế
giới giảm 25%, các quốc gia cạnh tranh đều có mức giảm 15 – 20%, thậm
chí gần 30% nếu bị cách ly dài.

Theo báo cáo của McKinsey ngày 04/12/2020, lợi nhuận ngành thời
trang toàn cầu giảm 93%, hơn 10 thương hiệu chuỗi cung ứng và thương
hiệu thời trang lớn phá sản. Trong khi đó, nhờ không bị gián đoạn sản xuất
nên thị phần của ngành dệt may Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng, lần đầu
đạt 20% tại thị trường Mỹ. Bên cạnh đó, với quy mô nhập khẩu hàng dệt
may hàng năm hơn 250 tỷ USD, EU là thị trường nhập khẩu hàng dệt may
lớn nhất thế giới, chiếm 34% tổng kim ngạch nhập khẩu dệt may thế giới,
với tổng cầu tăng trưởng bình quân 3%/năm trong khi thị phần xuất khẩu
của dệt may Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 2,7% thì Hiệp định thương
mại tự do giữa EU và Việt Nam EVFTA (có hiệu lực từ 01/08/2020) được
đánh giá là hứa hẹn tạo ra nhiều chuyển biến tích cực cho ngành may mặc
của nước ta khi EU xóa bỏ thuế quan với 77,3% kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sau 5 năm và 22,7% kim ngạch còn lại sẽ được xóa bỏ sau 7 năm.
Bộ Công thương dự báo kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường
EU sẽ tăng nhanh với mức khoảng 67% đến năm 2025 so với kịch bản
không có Hiệp định EVFTA. Về sản lượng, nhìn chung EVFTA có tác động
tích cực tới sản lượng với tốc độ tăng 6% (với ngành dệt) và 14% (với ngành
may) vào năm 2030.

Đối với ngành Da, giày, khu vực EU là thị trường nhập khẩu chính của
nhóm hàng hóa giày dép của Việt Nam nhiều năm nay chỉ đứng sau thị
trường Mỹ, hiệp định EVFTA cũng đã trở thành động lực lớn cho tăng
trưởng ngành hàng giày dép, túi xách từ sau tháng 8 năm 2020. Tổng kim
ngạch xuất khẩu giày, dép các loại tháng 11 đạt 1,4 tỷ USD, tăng 0,1% so
với tháng trước (tháng 10 giảm 0,2%); tính chung 11 tháng đạt 14,93 tỷ
USD, giảm 9,8% so với 11 tháng năm 2019. Tuy hiệp định EVFTA tạo ra cơ
hội rất lớn về xuất khẩu, ngành may mặc cũng gặp bất lợi về quy tắc xuất xứ
do chúng ta hiện đang phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung nguyên liệu nước
ngoài, đặc biệt là nguyên liệu Trung Quốc chiếm khoảng 60%, nhiều doanh
nghiệp không chủ động được nguồn vải đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu vào EU
dẫn đến việc ngành dệt may Việt Nam khó được hưởng lợi từ hiệp định này
nếu không có những chiến lược hợp lý để tận dụng tối đa cơ hội từ EVFTA.
Figure 2 Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam quý I/2020
(Nguồn: Tập đoàn Dệt May Việt Nam)

Chart 2 Mức tăng/giảm trị giá xuất khẩu của một số nhóm hàng trong 11
tháng/2020 so với cùng kì năm trước
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
4. Về nhân công

Ngành đã xác định ngay từ đầu tháng 2/2020, tài sản quan trọng nhất
phải quyết tâm bảo vệ là lực lượng lao động lành nghề và vị trí trong chuỗi
cung ứng toàn cầu, với mục tiêu phải đủ năng lực phục hồi ngay khi thị
trường có dấu hiệu ấm lại. Chính với quan điểm đó nên ngành dệt may và da
giày đã cơ bản đảm bảo việc làm cho một lực lượng lao động rất lớn, lên đến
4 triệu người, dù việc làm và thu nhập ít đi nhưng vẫn trên mức tối thiểu và
không làm mất việc của người lao động, góp phần đảm bảo trật tự, an toàn
xã hội. Riêng với Tập đoàn Dệt May Việt Nam, năm 2020, tuy kim ngạch
xuất khẩu giảm hơn 10%, lợi nhuận giảm 15%, nhưng tiền lương chỉ giảm
4,5%, đạt trung bình 8,05 triệu đồng/người/tháng; giữ đủ việc làm cho
150.000 lao động; giảm giờ làm trên 12%, tiền lương thực tế theo giờ tăng
trên 8%; đặc biệt chưa phải nhận các khoản trợ cấp cho lao động để giữ
được vị thế của doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng.

IV. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng

1. Về cung

Trong tháng 1 và tháng 2/2020 khi dịch Covid-19 bùng phát ở Trung
Quốc, nhiều nhà máy đã bị đóng cửa khiến tình hình cung ứng nguyên, phụ
liệu cho các doanh nghiệp may mặc trên toàn thế giới bị ảnh hưởng, nhất là
những quốc gia chuyên sản xuất gia công như Việt Nam.

2. Về cầu

Bước sang tháng 3/2020, dịch bệnh bắt đầu lan rộng ra các nước như
Nhật, Hàn, khối EU và Mỹ, làm nhu cầu tiêu dùng toàn thế giới bị ảnh
hưởng nặng nề chủ yếu do hai nguyên nhân. Thứ nhất, kinh tế bất ổn khiến
nhiều người chỉ tập trung vào các nhu yếu phẩm như thức ăn, khẩu trang,
nước rửa tay. Thứ hai, các lệnh phong tỏa và cách ly xã hội khiến dân chúng
hạn chế tập trung đông người, không đi đến các cửa hàng mà chỉ ở nhà, dẫn
đến nhu cầu về hàng hóa may mặc, giày dép giảm đáng kể.

V. Các giải pháp khắc phục và phát triển ngành dệt may Việt Nam
Theo các dự báo của thế giới, thị trường dệt may phục hồi cầu về mức
2019 sớm nhất là Quý II/2022, chậm nhất là Quý IV/2023. Chính vì vậy,
năm 2021 vẫn còn là năm thị trường tiếp tục gặp khó khăn, bất định, phụ
thuộc vào tình hình dịch bệnh trên thế giới. Tính riêng tháng 1/2021 vừa
qua, IIP ngành dệt và ngành trang phục lần lượt tăng 16,6% và 9,9% so với
cùng kỳ năm 2020. Sản phẩm vải dệt từ sợi tổng hợp đạt 92,4 triệu m2, tăng
20,4% so với cùng kỳ năm trước; vải dệt từ sợi tự nhiên đạt 57,4 triệu m2,
tăng 35,6%; quần áo mặc thường đạt 380,1 triệu sản phẩm, tăng 9,3%. Kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt và may mặc tháng 1 đạt 2,6 tỷ USD, tăng 3,3%.
IIP ngành sản xuất da và các sản phẩm liên quan ước tính tăng 20,8% so với
cùng kỳ năm 2020; sản lượng giầy, dép da đạt 21,9 triệu đôi, tăng 3%; kim
ngạch xuất khẩu giầy, dép các loại đạt 1,8 tỷ USD, tăng 26,4%. Do đó, các
chuyên gia kỳ vọng xuất khẩu mặt hàng dệt may năm 2021 có thể phục hồi
về mức năm 2019, đạt 39 tỉ USD.

1. Kiến nghị

Để đạt được mục tiêu này, những kiến nghị về chính sách của Nhà
nước được đưa ra như sau:

- Chính phủ tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, tỷ giá, lãi suất. Quan tâm
tiếp tục giảm được lãi suất vay dài hạn vì năm 2021 bắt đầu vào chu kỳ đầu
tư đáp ứng các yêu cầu mới hậu Covid-19, cũng như đầu tư sản xuất nguyên
liệu phục vụ đáp ứng quy tắc xuất xứ của các Hiệp định thương mại tự do
(FTA). Hệ thống ngân hàng thương mại linh hoạt trong đánh giá tín nhiệm,
sau một năm khó khăn hiệu quả thấp, các dự án đầu tư của dệt may, nhất là
đầu tư sản xuất sợi, vải không còn được thứ tự ưu tiên cao, tiếp cận vốn khó,
lãi suất cao nên rất cần sự đánh giá lại cho giai đoạn mới tương ứng với tốc
độ phục hồi của thị trường.

- Chính phủ có chính sách cụ thể cho phát triển công nghiệp hỗ trợ dệt may,
kể cả không gian phát triển và các điều kiện kích thích phát triển. Các địa
phương ủng hộ Dệt May phát triển trên nguyên tắc phát triển bền vững, sản
xuất sạch mà doanh nghiệp Dệt May phải tuân thủ theo quy ước toàn cầu
của chuỗi cung ứng.
- Chính phủ tiếp tục chỉ đạo tiết giảm được chi phí ngoài sản xuất, nhất là
các chi phí logistic thông qua quy hoạch mạng lưới logistic quốc gia, cùng
các chi phí thuế quan khác.

- Bộ Công Thương tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp khai thác hiệu quả các FTA
thông qua hướng dẫn sớm nhất các quy trình đáp ứng Quy tắc xuất xứ, có
cổng thông tin tra cứu lợi ích các FTA do hiện nay Việt Nam đã có tới 17
FTA, có quốc gia có cùng lúc 4 FTA với Việt Nam như Nhật Bản (RCEP,
CPTPP, Asean-JP, VN-JP) dẫn tới doanh nghiệp có thể lựa chọn không tối
ưu.

2. Giải pháp từ Chính phủ và các cơ quan chức năng

Các hiệp định thương mại quốc tế đang dần đem lại cơ hội lớn và tiềm
năng mở rộng thị trường xuất khẩu cho ngành may mặc Việt Nam, điển hình
là Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực từ ngày 01/08/2020 và Hiệp
định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEF) vừa được kí kết tháng
11/2020. Hiệp định này đang mở ra cơ hội xuất khẩu mới, nhờ đó có thể tiết
kiệm chi phí và giúp quy trình chuỗi cung ứng trở nên linh hoạt hơn. Đặc
biệt, Hiệp định RCEP sẽ giải quyết được một số vấn đề lớn cho doanh
nghiệp ngành dệt may khi Trung Quốc bắt đầu nhập khẩu sản phẩm dệt may
của Việt Nam, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận được cơ hội rộng
mở với thị trường tỷ dân này. Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng là một thị trường
tiềm năng, nếu như trước đó, hàng may mặc vào thị trường này buộc phải
chứng minh nguyên liệu có nguồn gốc xuất xứ từ ASEAN và Nhật Bản, thì
nay với Hiệp định RCEP, hàng may mặc Việt Nam được sản xuất từ nguyên
phụ liệu Trung Quốc cũng được hưởng ưu đãi về thuế quan khi xuất khẩu
sang thị trường Nhật Bản. Hiệp định thương mại tự do với các nước khác có
thể giúp ngành dệt may Việt Nam thu hút các thương hiệu toàn cầu mới.

Chính nhờ những tác động tích cực đó, ngày 23/12/2020, Bộ Công
Thương đã chính thức khai trương Cổng Thông tin điện tử về FTA đầu tiên
của Việt Nam cung cấp công cụ tra cứu trực tuyến thông minh cho cộng
đồng doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm đối với cam kết liên quan đến
thuế quan, quy tắc xuất xứ và dịch vụ - đầu tư trong các FTA mà Việt Nam
tham gia giúp cho các doanh nghiệp chủ động trong việc nắm bắt triệt để cơ
hội từ các hiệp định thương mại quốc tế.

Song song với đó, việc giảm lãi suất và hỗ trợ tài chính của Chính phủ
có thể thúc đẩy doanh nghiệp ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm nâng cao
năng suất, hiệu quả và chất lượng sản phẩm nói chung. Điều này cũng sẽ
giúp doanh nghiệp sẵn sàng đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường do các nước
nhập khẩu đặt ra hơn, cũng như chủ động hơn trong việc đầu tư vào các
dòng sản phẩm đa dạng theo nhu cầu quốc tế.

Trong giai đoạn 2018 – 2022, dưới tác động của các FTA, thuế quan
sẽ giảm mạnh, tạo nhiều cơ hội mới cho việc gia tăng giá trị xuất khẩu và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chi phí lao động cạnh tranh và các chính sách
ưu đãi trong nước tiếp tục giúp Việt Nam trở thành một trong những điểm
đến lý tưởng cho các nhà đầu tư dệt may trong những năm gần đây. Ngoài
ra, Chính phủ đang dành nhiều ưu tiên hỗ trợ cho phát triển ngành công
nghiệp hỗ trợ, trong đó có công nghiệp hỗ trợ cho dệt may, giúp ngành tận
dụng được các lợi thế. Mặt khác, khuyến khích doanh nghiệp xây dựng
thương hiệu và tham gia chuỗi phân phối toàn cầu, ứng dụng phương thức
tiên tiến vào quản trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Hiệp hội Dệt may Việt
Nam (VITAS) cũng mở các đợt giao lưu trực tuyến với các tập đoàn nước
ngoài để hỗ trợ doanh nghiệp dệt may trong nước tìm thêm đối tác xuất khẩu
sản phẩm.

Ngoài ra, vào ngày 24/02/2021, Hiệp hội Dệt May Việt Nam vừa có
thông báo tới các doanh nghiệp trong ngành về việc Tổng cục Hải quan đã
chính thức có Công văn số 879/TCHQ-TXNK thông báo về việc xử lý thuế
đối với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu đưa đi gia công lại. Cụ
thể, về chính sách thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu
được đưa đi gia công, đối với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu
đăng ký tờ khai hải quan từ ngày 01/09/2016 (ngày Luật thuế Xuất khẩu,
thuế Nhập khẩu có hiệu lực), doanh nghiệp có đưa một phần nguyên liệu,
vật tư linh kiện nhập khẩu để thuê doanh nghiệp khác gia công hoặc thuê
doanh nghiệp khác gia công một hoặc một số công đoạn của sản phẩm và đã
nhận lại bán thành phẩm để tiếp tục sản xuất xuất khẩu hoặc nhận lại thành
phẩm để xuất khẩu toàn bộ ra nước ngoài thì được miễn thuế theo quy định
tại khỏan 7, điều 16 Luật Thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu số
107/2016/QH13. Tổng cục Hải quan cũng đã giao hải quan các tỉnh thành
phố kiểm tra báo cáo quyết toán tình hình sử dụng nguyên liệu, vật tư
nguyên liệu, hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp sử dụng hàng hóa
nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu, đồng thời cũng có những hướng dẫn rõ
ràng và cụ thể cho việc xử lý thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng ở khâu
nhập khẩu. VITAS đánh giá, sau một thời gian dài kiến nghị tới các Cơ quan
quản lý liên quan, cuối cùng “đơn kêu cứu” của các doanh nghiệp dệt may
về vấn đề gia công lại theo Nghị định 134/2016/NĐ-CP đã được lắng nghe
và giải quyết. Đây là quyết định sửa đổi sáng suốt của Chính phủ và các cơ
quan quản lý, vì điều này sẽ giúp doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động,
tránh đổ vỡ, phá sản ảnh hưởng đến việc làm và đời sống của hàng ngàn lao
động.

3. Giải pháp đến từ các doanh nghiệp cụ thể

Qua khảo sát, có tới 55,7% doanh nghiệp dự định thúc đẩy tự động
hóa, 49,8% sẽ phát triển sản phẩm mới, 39,9% sẽ đa dạng hơn nữa sản phẩm
và 41,5% sẽ đầu tư nâng cao kĩ năng lao động để đón đầu các thị trường mới
thông qua lợi thế từ các FTA.

a. Tập đoàn Dệt may Việt Nam

Ðứng trước khó khăn, ngay từ thời điểm dịch Covid-19 bùng phát,
Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) đã huy động tổng lực cùng các đơn
vị thành viên đẩy mạnh sản xuất mặt hàng vải khẩu trang kháng khuẩn cung
cấp ra thị trường phục vụ nhân dân phòng, chống dịch. Ðiều đó cho thấy
phản ứng linh hoạt, hiệu quả của Vinatex trước tình huống khẩn cấp, nhưng
cũng chỉ sử dụng 15% đến 20% năng lực sản xuất của Tập đoàn.

Liên quan tới việc chủ động nguồn nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất
trong tương lai, Tập đoàn đã tập trung giải quyết các đơn hàng cho các thị
trường khác trong thời điểm thiếu nguyên liệu nhập từ Trung Quốc, đơn cử
là tập trung vào sản xuất khẩu trang phục vụ thị trường trong nước và xuất
khẩu. Khẩu trang là mặt hàng mà Vinatex làm chủ được nguồn nguyên liệu,
tạo chuỗi cung ứng hoàn thiện trong nội bộ Vinatex. Bên cạnh mặt hàng
khẩu trang, Tập đoàn sẽ đẩy mạnh kích cầu nội địa một số mặt hàng như sơ-
mi, quần âu, quần áo dệt kim, cũng là những mặt hàng Vinatex chủ động
được nguyên liệu. Mặt khác, Vinatex cũng đẩy cao công suất sản xuất vải
của tất cả các nhà máy dệt trong Tập đoàn để có thể bảo đảm sản xuất, thay
thế một phần thiếu hụt nguyên liệu làm hàng xuất khẩu. Thế nhưng, đó chỉ là
giải pháp tình thế, không có lợi về mặt tài chính, bởi vì nguyên liệu sản xuất
trong nước có quy mô nhỏ, giá thành cao hơn so với nguyên liệu nhập khẩu.
Mặc dù vậy, Vinatex vẫn quyết định thực hiện giải pháp sản xuất nguyên
liệu nội địa cung ứng cho sản xuất, để các nhà máy may không bị gián đoạn
sản xuất, người lao động có việc làm.

Khẳng định đội ngũ Vinatex cần phát huy tiềm lực và nội lực để tăng
trưởng, Tập đoàn tiếp tục tăng cường mảng công tác dịch vụ cho đơn vị
thành viên trong kinh doanh, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho DN về chính sách,
pháp lý... Bên cạnh đó, để nâng cao năng lực sản xuất đáp ứng với tình hình
mới, Tập đoàn tập trung bổ sung, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, kết nối chuỗi trong các doanh nghiệp thành viên, tăng hiệu quả
hoạt động của các DN có vốn Tập đoàn chi phối, số hóa công tác quản trị,
sao cho chất lượng quản trị được nâng cao, phát triển hài hòa các mảng sợi,
vải, may.

b. Tổng Công ty cổ phần Dệt may Hòa Thọ

Năm 2020, với khó khăn chồng chất, nhất là ảnh hưởng của đại dịch
Covid-19 và bão lũ, Dê ̣t May Hòa Thọ đã phải hết sức nỗ lực để duy trì sản
xuất, bảo toàn lực lượng lao động lên tới gần 9.000 người. Là mô ̣t tổ chức
hoạt đô ̣ng đông người, nguy cơ lây lan nhanh nếu chẳng may có công nhân
mắc virus, Dệt May Hòa Thọ đã chủ đô ̣ng các giải pháp tích cực phòng
chống Covid ngay từ đầu. Do đó, không mô ̣t nhà máy nào phải dừng sản
xuất vì có ca lây nhiễm. Trong thời gian mô ̣t số đơn hàng bị giãn, hủy thì
Dê ̣t May Hòa Thọ đã chủ đô ̣ng thay đổi mă ̣t hàng, chuyển đổi sản xuất hàng
veston sang sản xuất quần áo mă ̣c nhà, quần áo trẻ em, sẵn sàng làm những
mă ̣t hàng chưa bao giờ làm, cho dù làm không có lãi cũng chấp nhâ ̣n, miễn
sao đảm bảo viê ̣c làm cho người lao động, thiết bị máy móc không bị dừng
hoạt đô ̣ng. Kết quả năm 2020 Dê ̣t May Hòa Thọ có doanh thu 3.256 tỷ đồng,
lợi nhuâ ̣n 60,6 tỷ đồng, thu nhâ ̣p bình quân 7,4 triê ̣u đồng/người/tháng. Bên
cạnh đó, Dệt May Hòa Thọ cũng xây dựng chiến lược dài hạn và kế hoạch
trung hạn cho Tổng Công ty đến năm 2030, tạo thế chủ đô ̣ng trong sản xuất
kinh doanh.

Trong nhiều năm qua, Tổng Công ty đã có tăng trưởng rất tốt, nhưng
cần chú trọng vào phát triển chiều sâu trong giai đoạn tới, đă ̣c biê ̣t là cần tâ ̣p
trung phát triển nhân lực và công nghê ̣. Lấy đầu tư công nghê ̣ làm nền tảng
để đào tạo nhân lực mới, chứ không chỉ dừng lại ở đào tạo các kỹ năng
mềm. Đầu tư cho công nghê ̣ thì không chỉ học tâ ̣p từ mô ̣t số đơn vị bạn
trong nước, mà cần tiếp câ ̣n, học hỏi công nghê ̣ cao từ quốc tế, sau đó
nghiên cứu, lựa chọn công nghê ̣ phù hợp, tạo hiê ̣u quả tăng năng suất.

c. Công ty Cổ phần May Sông Hồng (MSH)

Lãnh đạo Công ty Cổ phần May Sông Hồng cho biết đã tìm cơ hội
phát triển thành công nhiều thị trường mới do xu hướng dịch chuyển nguồn
cung về dệt may trên thế giới như Nga, Australia, Canada, bên cạnh thị
trường truyền thống là Mỹ, EU… Song, trong khó khăn, doanh nghiệp cũng
nhìn lại mình để tiếp tục có giải pháp cải thiện trong thời gian tới. Đó là cần
tăng cường khả năng thích nghi một cách nhanh chóng hơn với môi trường
kinh doanh ngày một biến động hơn. Trên thực tế, sự thích ứng và đổi mới
đã được MSH liên tục triển khai, thể hiện rõ nét qua việc chuyển hướng
mạnh từ may gia công CMT (cut, make, trim) có giá trị gia tăng thấp sang
may theo phương thức FOB (free on board), tạo ra giá trị gia tăng cao hơn
trong chuỗi giá trị.

Việc chuyển sang may theo phương thức FOB sẽ đóng góp vào tăng
trưởng dài hạn của Công ty. Hơn nữa, tăng trưởng thông qua sản xuất hàng
may mặc theo phương thức FOB hứa hẹn là tăng trưởng bền vững, nắm bắt
xu hướng ngành và sự thay đổi trong tương lai của ngành dệt may Việt Nam.
Đặc biệt là trong bối cảnh Nhà nước đã có các chính sách nhằm cải thiện
chuỗi cung ứng dệt may trong nước thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi
cho đầu tư dệt nhuộm.

Để chuẩn bị đón đầu cơ hội thị trường hàng dệt may phục hồi sau đại
dịch, lãnh đạo công ty cho biết, MSH đang thúc đẩy hoạt động đầu tư nhà
máy mới (Sông Hồng 10). Đây được xem là một trong những kế hoạch lớn
của Công ty trong năm 2021.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO

https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2020/12/nganh-cong-
nghiep-det-may-va-da-giay-trong-boi-canh-dich-covid-19/

https://vinatex.com.vn/nganh-det-may-viet-nam-dat-muc-tieu-tro-lai-39-ty-usd-
trong-nam-2021/

https://www.baohanam.com.vn/kinh-te/cong-nghiep/co-hoi-doi-voi-nganh-det-
may-tu-hiep-dinh-evfta-38657.html

https://tphcm.chinhphu.vn/co-hoi-lon-tu-hiep-dinh-evfta-noi-lo-nguyen-lieu-
cua-det-may

http://baochinhphu.vn/Thi-truong/Det-may-Viet-Nam-2020-Sut-giam-chua-
tung-co-va-cu-nguoc-dong-de-dung-vung/416813.vgp

https://vinatex.com.vn/nganh-det-may-the-gioi-va-viet-nam-3-thang-dau-nam-
2020/

https://auroraip.vn/vi/tin-tuc/news-feeds/doanh-nghiep-det-may-duoc-giai-cuu-
thue-nhap-khau-nguyen-lieu-gia-cong.html

https://vinatex.com.vn/tong-cong-ty-cp-det-may-hoa-tho-can-tap-trung-dau-tu-
nhan-luc-va-cong-nghe/

https://123doc.net/document/1412155-giai-phap-phat-trien-nganh-cong-nghiep-
phu-tro-det-may-viet-nam.htm

https://123doc.net/document/292739-mot-so-giai-phap-nang-cao-kha-nang-
canh-tranh-cua-hang-det-may-viet-nam.htm

https://nhipcaudautu.vn/ceo/giai-phap-cho-nganh-thoi-trang-va-det-may-viet-
nam-phuc-hoi-sau-covid-19-3339813/

https://enternews.vn/them-chinh-sach-cho-nganh-det-may-131636.html

https://baotintuc.vn/kinh-te/nganh-det-may-dat-muc-tieu-den-nam-2025-xuat-
khau-55-ty-usd-20201219120017752.htm
https://www.vov.vn/kinh-te/covid-19-lam-lung-lay-vi-tri-cua-det-may-viet-
nam-trong-chuoi-cung-ung-toan-cau-839092.vov

You might also like