Professional Documents
Culture Documents
Maughan RJ, Burke LM (eds): Sports Nutrition: More Than Just Calories –
Triggers for Adaptation.
Nestlé Nutr Inst Workshop Ser, vol 69, pp 39–58,
Nestec Ltd., Vevey/S. Karger AG., Basel, © 2011
Tóm lượt
Chất béo là nhiên liệu quan trọng trong tập luyện thể thao, nhưng đứng thứ hai sau
carbohydrate (CHO). Tăng cường sử dụng chất béo trong khi tập luyện có thể làm giảm
sự phụ thuộc vào CHO và chừa lại CHO cho các đợt luyện tập hoặc thi đấu sau vốn phụ
thuộc vào CHO để đạt được sự thành công. Các lộ trình chuyển hóa và oxy hóa mỡ được
kích hoạt chậm hơn so với CHO khi bắt đầu tập luyện và đạt mức tối đa ở cường độ tập
luyện vừa phải. Khi tăng cường độ tập luyện lên ~75% VO2max và cao hơn nữa, chuyển
hóa mỡ bị ức chế: sử dụng CHO sẽ làm tăng toàn bộ năng lượng được sản xuất trên một
lít oxy tiêu thụ. Khả năng sử dụng chất béo trong tập luyện được tăng lên bằng cách tập
aerobic và chế độ ăn uống kết hợp ít hoặc không nạp CHO và lượng chất béo cao. Oxy
hóa mỡ phụ thuộc nhiều vào lượng ti thể của cơ bắp nhưng các yếu tố điều tiết khác bao
gồm sự phóng thích mỡ từ hình thức tích trữ và vận chuyển mỡ qua các màng huyết
tương và ti thể. Chương này xem xét việc kiểm soát chuyển hóa mỡ khi tập luyện ở mức
vừa phải và mạnh, tập trung vào các khám phá trên người và các thích nghi xảy ra khi tập
luyện aerobic và các tác động dinh dưỡng cấp tính khác. Nghiên cứu gần đây sử dụng kỹ
thuật chia thành nhiều phần phân tử và tế bào đã nâng cao kiến thức trong lĩnh vực này.
Hình 2. Sơ đồ tổng quan về chuyển hóa mỡ trong cơ xương. PM = Màng huyết tương; OM, IM
= màng ti thể ngoài và trong; ALB = albumin; LCFA = chuỗi dài axit béo; GPAT = glycerol-
phosphate acyltransferase; DGAT = diacylglycerol acyltrans- ferase; CAT = carnitine
acylcarnitine translocase; NAD+, NADH = oxy hóa và giảm nicotinamide adenine dinucleotide,
G-6-P, G-1-P = glucose 6– và 1-phosphate; PCr = phosphocreatine; Cr = creatine; TCA =
tricarboxylic axit; ETC = chuỗi vận chuyển electron. Hình tròn và hình hộp tô xám mô tả vận
chuyển protein.
Các điểm kiểm soát tiềm năng điều chỉnh chuyển hóa mỡ trong cơ xương trong thời gian
tập luyện aerobic bao gồm: (1) sự phân giải lipit mô mỡ, phóng thích FFA từ mô mỡ, và
chuyển cho cơ, (2) FFA vận chuyển qua các màng cơ, (3) ràng buộc và vận chuyển FFA
trong tế bào chất, (4) phân giải lipid IMTG, (5) FFA vận chuyển qua màng ti thể, và có
thể (6) chuyển hoá qua lộ trình β-oxy hóa (hình 2). Việc tác động lên lượng ti thể cơ bắp,
vốn quyết định khả năng oxy hóa mỡ tổng thể, cũng có thể được coi là một điểm kiểm
soát bao quát.
FFA chuỗi dài từ mô mỡ là một nguồn chất béo chính cho cơ bắp đang làm việc trong khi
tập luyện. Sự suy biến của FFA từ mô mỡ triacylglycerol (TG) và sự phóng thích và loại
bỏ FFA từ mô mỡ là các quá trình được điều tiết, và nhiều công trình đã kiểm tra sự kiểm
soát của các enzyme điều tiết, hormone nhạy-lipase (HSL) và tế bào mỡ mới được phát
hiện triglyceride lipase (ATGL) [7]. Cũng cần có một nguồn cấp albumin trong máu liên
tục làm ngập mô mỡ để cho phép các FFA liên kết với albumin, do vận chuyển FFA
trong các tế bào máu và cơ bắp đòi hỏi một chaperone protein. Vận chuyển lượng lớn
FFA đến cơ ([FFA] × lưu lượng máu) cũng đóng một vai trò trong độ lấy FFA của cơ
bắp. Việc giảm khả năng di chuyển FFA mới được phóng thích trong các mô mỡ và đi
vào máu dường như là một lý do chính cho sự thiếu gia tăng trong huyết tương [FFA] khi
tập luyện ở ~80% so với 40-60%VO2maxvì tỷ lệ phân hoá lipid không giảm ở cường độ
xuất cao hơn [5]. Các câu hỏi quan trọng trong lĩnh vực này bao gồm làm thế nào chúng
ta tăng tốc độ các quá trình huy động chất béo lúc bắt đầu tập thể dục và duy trì lưu lượng
máu đầy đủ đến mô này khi luyện tập aerobic cường độ cao.
Bằng chứng gần đây đưa ra đề xuất rằng đa số các FFA vào tế bào cơ được vận chuyển
hoặc hỗ trợ qua màng tế bào cơ bởi các protein vận chuyển, đáng chú ý nhất là các
protein chuyển đoạn axit béo (FAT/CD36), protein liên kết-axit béo màng huyết tương
(FABPpm), và các thành viên của gia đình protein vận chuyển axit béo [8, 9]. FAT/CD36
cũng chuyển đoạn đến màng huyết tương trong thời gian 2 giờ chạy xe đạp ở 60%
VO2max nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho FFA di chuyển vào trong tế bào [unpubl. obs.].
Không rõ điều gì xảy ra khi tập luyện ở cường độ cao hơn, và liệu có thực sự giảm các
Nguồn mỡ quan trọng thứ hai là thông qua sự phóng thích FFA từ IMTG. Các sự kiện
đầu tiên trong sự điều chế phân hoá lipid cơ là sự kích hoạt của TG lipase, bao gồm phiên
bản cơ của ATGL và HSL. Các bước điều tiết bổ sung dường như bao gồm chuyển động
của phức chất ATGL-HSL đến giọt lipid, và sự xuyên qua lớp bảo vệ protein giống-
perilipin xung quanh giọt lipid. Giọt lipid được tìm thấy ở gần ti thể, và nhiều khả năng
các protein/enzym điều tiết tham gia vào việc kích hoạt mỡ để lưu trữ hoặc oxy hóa, vận
chuyển vào ti thể, tổng hợp TG, và suy biến TG tất cả ở gần nhau [4]. Những enzyme
này có vẻ nhạy với cả hai kích thích hormon và co bóp trong khi tập luyện, và IMTG
cung cấp một nguồn năng lượng quan trọng trong thời gian tập luyện ở cường độ vừa
phải [10, 11]. Hoạt động của HSL thực sự giảm trong thời gian tập aerobic cường độ
cao, điều này có thể là kết quả của hoạt động AMP kinase (AMPK) tăng và góp phần làm
giảm sử dụng IMTG [11]. Tuy nhiên, hiện nay sự hiểu biết về sự điều tiết phối hợp của
ATGL và HSL trong thời gian tập luyện ở cơ xương của con người còn ít. Sau cùng,
cũng có bằng chứng cho thấy rằng các mức FFA huyết tương tăng và độ lấy FFA vào tế
bào làm giảm sự phụ thuộc vào IMTG khi tập luyện vừa phải kéo dài 2- 4giờ [12].
Để quá trình oxy hóa xảy ra, tế bào chất FABPc-FFA, cho dù là bắt nguồn từ ngoài mặt tế
bào (huyết tương FFA) hoặc bên trong cơ bắp (IMTG), phải được vận chuyển đến màng
ngoài ti thể. Sau đó nó được kích hoạt với CoA, nếu chưa được kích hoạt, và chuyển đổi
đến acyl carnitine chất béo bởi carnitine palmitoyltransferase (CPT I). Hợp chất này
được chuyển ngang qua các màng ti thể thông qua một chuyển đoạn, trong khi carnitine
di chuyển theo hướng ngược lại. Những bằng chứng gần đây cũng cho thấy rằng việc
chuyển giao của acyl carnitine chất béo ngang qua các màng được hỗ trợ theo một cách
nào đó bởi các protein vận chuyển chất béo FAT/CD36, và protein này chuyển đoạn đến
các màng ty lạp thể trong thời gian 2 giờ tập luyện ở cường độ vừa phải [13]. Bên trong
ti thể, carnitine được lấy ra, và CoA tái gắn kết vào các axit béo chuỗi dài bởi CPT
enzyme II.
Mức carnitine tự do có thể ức chế độ lấy FFA ti thể khi tập luyện cường độ cao vì nó là
một chất nền cho các phản ứng CPT I [14]. Hàm lượng carnitine cơ giảm như một chức
năng của cường độ tập luyện tăng, và mức carnitine tự do có thể giới hạn FFA vận
chuyển vào ti thể và oxy hóa FFA trong quá trình tập luyện cường độ cao khi có dòng
Một cách giải thích thứ hai cho việc giảm phụ thuộc vào mỡ ở các cường độ cao hơn liên
quan đến sự ức chế hoạt động CPT I. Các nghiên cứu về ti thể ược phân lập từ cơ xương
của người lúc nghỉ ngơi cho thấy sự giảm độ pH từ 7 xuống 6.8, điển hình cho các thay
đổi tế bào khi di chuyển từ tập luyện aerobic vừa phải đến cường độ cao, gây ra giảm
mạnh hoạt động CPT I [16].
Một khi ở trong ti thể, các phân tử acyl-CoA béo được chuyển hóa trong lộ trình β-oxy
hóa để tạo acetyl-CoA và giảm tương đương (NADH, FADH2). Hiện tại không có bằng
chứng rằng những enzyme của lộ trình β-oxy hóa được điều tiết ở ngoài, gợi ý rằng sự
điều tiết đơn giản là một chức năng của lượng chất nền lộ trình có sẵn (acyl-CoA béo,
NAD+, FAD, và CoA tự do) và các sản phẩm (NADH, FADH2, và acetyl-CoA). Cách
hiệu quả nhất để thay đổi kiểm soát hoặc tăng năng lực của lộ trình β-oxy hóa là tăng
cường hàm lượng ti thể, xảy ra khi tập luyện. Hoạt động tối đa của β-hydroxyacyl-CoA
dehydrogenase (β-HAD), một enzyme đại diện trong lộ trình β-oxy hóa, thường được sử
dụng để đánh giá mức độ của sự thích ứng với việc luyện tập, như được thảo luận dưới
đây.
Hình. 3. Cơ xương PGC-1α và hàm lượng protein trong suốt 2 tuần tập huấn xen kẽ cường độ
cao. Các giá trị trung bình là ± SE cho 8–9 đối tượng. * p < 0.05, khác nhau đáng kể từ Pre; # p
< 0.05, khác nhau đáng kể từ 1st-4 h; † p <0.05, sự khác nhau đáng kể từ ngày 1-24 giờ [22]. Số
1, 3, 5 và 7 chỉ số thứ tự các buổi tập (mỗi buổi tập được cách khoảng 2 ngày). Các phép đo
được thực hiện 4 và 24 giờ sau một buổi tập.
Một lượng lớn ti thể sau huấn luyện được cho là bao gồm những sự gia tăng trong bộ máy
chuyển hóa mỡ, như các enzyme đại diện cho những lộ trình chuyển hóa mỡ chính yếu
(ví dụ như citrate synthase, CS, β-HAD và cyto-chromec oxydase IV) cũng tăng lên [17,
23]. Điều này cung cấp các phương tiện để có khả năng sản xuất NADH từ mỡ lớn hơn,
và vì vậy thêm ATP trong chuỗi vận chuyển electron. Kết quả của những thay đổi này là
việc dùng mỡ làm nhiên liệu nhiều hơn và cải thiện kiểm soát chuyển hoá (tức khiến việc
sản xuất ATP tương ứng với việc thủy phân ATP thông qua cơ chế oxy hóa) khi bắt đầu
tập luyện aerobic ở cường độ vừa phải và cao. Điều này dẫn đến việc giảm các tín hiệu
Sử dụng Mỡ khi Tập luyện và Phục hồi 7
([ADP] tự do và [AMP]) kích hoạt các enzyme chính chuyển hóa CHO (glycogen
phosphorylase, phosphofructokinase và pyruvate dehydrogenase) và giảm phụ thuộc vào
CHO để sản xuất năng lượng tại bất kỳ cường độ xuất dưới tối đa nào [17, 24].
Tăng năng lực cho oxy hóa mỡ cũng yêu cầu tăng cung cấp axit béo, và không có gì ngạc
nhiên rằng việc tập luyện làm tăng màng huyết tương và protein vận chuyển FA ti thể
[25]. Ngoài ra, tập luyện sức bền cũng làm tăng lưu trữ IMTG [4, 26] và làm tăng hoạt
động HSL theo một số nghiên cứu. Một nghiên cứu gần đây cũng đã báo cáo sự gia tăng
hoạt động ATGL [27]. Tổng kết lại, những sự thích nghi làm biến đổi mô hình sử dụng
nhiên liệu trong thời gian tập luyện dưới mức tối đa theo đó tỷ lệ oxy hóa mỡ toàn thân
được tăng lên, trong khi tỉ lệ oxy hóa CHO giảm, chủ yếu thông qua việc chừa lại
glycogen trong cơ bắp, ở cả hai tỉ lệ hoạt động tuyệt đối và tương đối như nhau trước khi
tập luyện.
Nghiên cứu phân tử mới đây đã kiểm tra khoảng thời gian phản ứng của sự sinh tổng hợp
ti thể, protein tổng hợp và phân hạch ti thể, và mRNA phiên mã và ti thể và protein được
chọn trong các cơ của con người đến bảy buổi tập huấn xen kẽ cường độ cao [23]. PGC-
1α mARN được tăng >10 lần 4 giờ sau buổi tập đầu tiên và trở lại để kiểm soát trong
vòng 24 giờ (hình 3). Mô hình 'răng cưa' này tiếp tục cho đến lượt thứ 7, với sự gia tăng
nhỏ hơn sau mỗi lượt. Protein PGC-1α đã được tăng lên 24 giờ sau buổi tập đầu tiên
(23%) và giữ nguyên +30-40% giữa những lượt 3-7. Sự gia tăng đã được quan sát trong
PPARα và protein-γ (1 buổi), mRNA PPARβ/δ và protein (5 buổi) và protein yếu tố-2 hô
hấp nguyên tử (3 buổi), trong khi không có sự thay đổi nào xảy ra trong protein yếu tố A
phiên mã ti thể (hình 5). mRNA CS và β-HAD được tăng lên nhanh chóng (1 buổi), tiếp
theo là tăng trong các hoạt động CS và β-HAD (buổi 3), trong khi các thay đổi trong
mRNA COX-IV (buổi 3) và protein (buổi 5) bị trì hoãn hơn (hình 4). Tập huấn cũng làm
tăng protein phân hạch ti thể (protein-1 phân hạch, >2 lần; protein-1 liên quan đến-
dynamin, 47%) và protein tổng hợp mitofusin-1 (35%) nhưng không phải mitofusin-2.
Những số liệu này gợi ý rằng sự gia tăng do tập luyện trong protein phiên mã và ti thể là
từ các tác động tích lũy của bùng nổ nhất thời trong mARN của chúng và rằng sự sinh
tổng hợp ti thể do tập luyện có liên quan đến sự tái lập mô hình bên cạnh hàm lượng ti thể
tăng lên. Quan trọng hơn, có vẻ như 'khả năng phiên mã’ của các cơ của người cực kỳ
nhạy cảm, được kích hoạt bởi một lượt tập luyện. Nghiên cứu gần đây bởi Gibala [28] kết
luận rằng tín hiệu thông qua AMPK và p38 MAPK đến PGC-1α có thể lý giải phần nào
sự tái lập mô hình do tập luyện xen kẽ cường độ cao, bao gồm cả sự sinh tổng hợp ti thể
và khả năng oxy hóa FFA tăng.
Vì vậy, có vẻ như việc cung cấp triacylglycerol chuỗi trung bình đến cơ xương nên tăng
thêm tỉ lệ oxy hóa FFA, vì chúng nhanh chóng bị phá vỡ trong dạ dày và tá tràng và các
MCFA ra khỏi ruột vào máu, hòa tan hơn trong huyết tương, và vượt qua các cơ và các
màng ti thể ít lệ thuộc vào các protein vận chuyển. Tương tự đối với acetat, chất tự do đi
vào cơ bắp và ti thể và có thể được chuyển đổi thành acetyl-CoA chỉ qua một bước. Việc
tiêu hóa và truyền các hợp chất này tạo sự tích lũy trong máu khi nghỉ ngơi, và chúng
được oxy hóa khi nghỉ ngơi. Khi bắt đầu tập luyện, các hợp chất này tiếp tục được oxy
hóa trong các cơ và có thể chiếm đến 7-8% nhiên liệu được sử dụng [32, 33]. Tuy nhiên,
chúng không làm giảm sự phụ thuộc vào glycogen trong cơ bắp xuống một lượng đáng
kể để tạo lượng glycogen dự phòng có thể đo được [33-35]. Trong trường hợp của
acetate, hầu hết các nghiên cứu đã truyền hợp chất này nhằm nạp vào cơ thể thông qua
các phương thức bằng đường uống kém hiệu quả. Trong trường hợp của MCFA, khả
năng tiêu hoá và di chuyển các chất béo vào dòng máu phụ thuộc vào cảm giác khó chịu
GI, và sự tiêu hóa một lượng dung nạp được (10 g/h) không chừa lại glycogen trong cơ
bắp hoặc làm thay đổi cách thức oxy hóa nhiên liệu ở cơ bắp khi tập luyện [34].
Các cách thức nhằm làm tăng oxy hóa mỡ ở các vận động viên tập luyện tốt ở những
cường độ tập luyện aerobic cao để nâng cao mức FFA huyết tương và nhắm vào các yếu
tố quan trọng của chuyển hoá và oxy hóa mỡ trong chính cơ bắp. Các phương án dinh
dưỡng đã cố gắng cung cấp thêm FFA từ chế độ ăn uống hoặc tăng phân giải lipid mô mỡ
phần lớn đã thất bại. Các nỗ lực nhắm đến các cơ và tăng quá trình oxy hóa mỡ ở cường
độ xuất aerobic cao cần vượt qua những điều dường như là cơ chế sẵn có hoặc bản chất
làm giảm sự phụ thuộc vào mỡ và tăng sự phụ thuộc vào CHO như một chất nền.
Một số nghiên cứu được xuất bản đã xem xét khoảng thời gian phục hồi của IMTG sau
tập luyện đã giảm một phần của tích trữ IMTG. Họ chứng minh rằng chế độ ăn phục hồi
kéo dài 18-48 giờ chỉ chứa 10-24% tổng lượng năng lượng nạp vào từ chất béo không bổ
sung IMTG theo một cách nhanh chóng như chế độ ăn uống có chứa chất béo cao hơn
(35-57% tổng năng lượng). Trong thực tế, hai nghiên cứu báo cáo không có sự bù đắp
IMTG sau 18 giờ với các bữa ăn lặp đi lặp lại có chứa 21% chất béo [36] và 48 giờ chiếm
24% chất béo được tiêu thụ [37]. Mặt khác, sự phục hồi IMTG hoàn tất chỉ sau 22 giờ khi
một chế độ ăn uống 35% chất béo được tiêu thụ sau khi tập luyện [37]. Nghiên cứu này
cũng báo cáo rằng sự suy giảm hàm lượng IMTG và sự thiếu bù đắp IMTG do tập luyện
trong thử nghiệm với hàm lượng chất béo thấp chỉ thấy trên sợi loại-1. Người ta đã ước
tính rằng lượng chất béo ăn vào cần thiết cho sự bù đắp IMTG là 2g/kg khối lượng cơ thể
mỗi ngày [38]. Tuy nhiên, lượng chất béo nạp vào cao ngay sau khi tập luyện thể dục có
thể làm ảnh hưởng đến khả năng cung cấp glycogen trong cơ và làm giảm thành tích, vì
vậy một phương pháp thường dùng là tăng cường bổ dung CHO và protein trong vòng 6-
8 giờ đầu sau khi tập luyện và sau đó tăng hàm lượng chất béo ngoài thời điểm đó [38].
Đây có thể là một cách hay do sự bù đắp IMTG trong những giờ sau khi tập luyện dường
như bị trì hoãn do cơ xương oxy hóa một phần lớn FFA có sẵn khi phần lớn các CHO
được tiêu hóa được lưu trữ dưới dạng glycogen. Không có thay đổi trong các mức IMTG
cơ được báo cáo 2, 3 hoặc 6 giờ phục hồi sau đây tập luyện [36, 39, 40], trong khi
glycogen được bù đắp đáng kể [36].
Kết luận
Sự điều tiết chuyển hóa mỡ trong cơ xương phức tạp và liên quan đến nhiều yếu tố kiểm
soát. Nghiên cứu gần đây đã xác định được tầm quan trọng của việc vận chuyển mỡ qua
huyết tương và các màng ti thể và sự điều tiết của suy biến IMTG như là yếu tố kiểm soát
chính điều tiết sự chuyển hoá và oxy hóa mỡ trong khi tập luyện. Sự oxy hóa mỡ đạt
mức tối đa khi tập luyện ở cường độ vừa phải với các cơ chế kiểm soát riêng biệt cho
điều tiết giảm oxy hóa mỡ ở những cường độ cao aerobic kết hợp với tập luyện các môn
thể thao cấp cao và thi đấu. Tập huấn là kích thích mạnh nhất để tăng lượng ti thể cơ và
khả năng oxy hóa mỡ khi tập luyện. Hoạt động phân tử đã xác định rằng việc gia tăng
protein phiên mã và ti thể khi tập luyện là do các tác động tích lũy của việc bùng nổ nhất
thời qua mARN của chúng. Các chương trình dinh dưỡng đã cố gắng cung cấp nhiều
FFA hơn trong chế độ ăn uống, tăng việc phân giải lipid trong mô mỡ, và trực tiếp làm
tăng thêm sự oxy hóa mỡ trong cơ phần lớn không thể tăng sự oxy hóa mỡ đủ để chừa lại
việc sử dụng CHO khi tập luyện. Ngoài ra, những hiệu quả của các tác động dinh dưỡng
cấp tính trên những phản ứng phân tử trong cơ bắp phần lớn chưa được khám phá. Sau
cùng, một số nghiên cứu đã xem xét tầm quan trọng của hàm lượng chất béo trong chế độ
ăn phục hồi, nhưng những hậu quả của các phương pháp đối với sự thành công trong các
buổi đào tạo và thi đấu tiếp theo ít được biết đến.