You are on page 1of 102

^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^

hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
ký một Hiệp ước hữu nghị tương tợ. Liên bang Đông Dương thực hiện xong. Bằng võ lực.
3.- Tranh chấp Việt - Hoa về lãnh thổ. Từ lâu, đề tài cãi vã giữa VN và Trung quốc xoay quanh ba
khu vực:
a)- Một biên giới chung dài trên 797 cây số, được thực dân Pháp và Trung Hoa ấn định năm
1887 trong một Thỏa ước và bổ túc năm 1895. Cuối thập niên 70, cả Hoa và Việt khiếu nại lẫn
nhau về vị trí của 300 cột trụ phân ranh.
b)- Vịnh Bắc Việt, còn gọi là Beibu Gulf / Bắc Bộ Gulf hay Gulf of Tonkin. Hai Thỏa ước vừa kể
không nói rõ lằn ranh thuộc phần kiểm soát của mỗi nước. Tháng 10.1977, cuộc hội nghị tại Bắc
kinh không giải quyết được dứt khoát vấn đề.
c)- Gây cấn nhất là chuyện dành hai nhóm quần đảo Hoàng Sa (hay Paracels/Xisha) và Trường
Sa (hay Spratlies/Ninsha). Khu vực này hệ trọng cho cả Trung quốc và VN về chiến thuật và dầu
khí. Hoàng Sa, Trường Sa, cùng với một số đảo lân cận khác như Pratas Reef và Macclesfield là
những trạm thông thương giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Bởi thế Phi Luật Tân, Đài
Loan, Nam Dương, Nhựt, Brunei v..v.. cũng đòi chia phần. Mỹ và Nga theo sát vấn đề. Nga nắm
thế thượng phong vì kiểm soát được Vladivostok, Cam Ranh và Đà nẵng. Ngày 4.9.1958, Bắc
Kinh công bố chủ quyền trên Trường Sa và Hoàng Sa. Quân đội VN đã tái chiếm được 6 đảo
nhỏ. Từ 1974 cho đến 16.2.1979, theo Renmin Ribao, số ra ngày 14.5.1979 và bản ghi chép
"SRV Memorandu " đề ngày 16.3.1979, có tất cả 3535 vụ xô xát Việt -Hoa tại biên giới (trong sổ
sách Trung cộng) và 4333 vụ (chiếu tài liệu VN).
4.- Hà nội trục xuất Hoa kiều làm cho tình hình căng thẳng tột độ. Đa số Hoa kiều tại VN di cư từ
hai tỉnh Quảng Đông va Phước kiến, sau Trận giặc Nha phiến (1840- 1842). Họ cần cù làm ăn,
sống đoàn kết và không tham gia chính trị. Tại Nam Việt, trước 1975, hơn phân nửa tổng số
1.300.000 người Hoa ủng hộ Chính phủ quốc gia. Sau Tết Mậu thân 1968, từ 75 đến 80% không
có thiện cảm với CS. Chỉ một số ít hoạt động cho Hà nội. Trước 1975, năm người Việt gốc Hoa
được bầu vào Hạ Viện. Tại Chợ lớn, người Hoa tổ chức thành 5 bang: Quảng Đông, Phước kiến,
Triều châu, Hẹ và Hakka, mỗi bang được đại diện bởi một bang trưởng chọn theo lối đầu phiếu.
Họ có một Phòng Thương mãi, một bệnh viện đặt tên Chung Cheng, một số trường học và báo
chí. Tháng 8.1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh buộc Hoa kiều bỏ quốc tịch
Tàu và nhập tịch VN nếu muốn tiếp tục hành nghề. Tháng 4.1957, thẻ lý lịch ngoại quốc bị coi
như vô giá trị............................

Đầu 1977, Việt - Hoa căng thẳng. Chính quyền Hà nội đuổi người Tàu sống tại các tỉnh biên giới
về Trung quốc. Tháng 5. 1978, trong vòng 13 hôm, con số này vượt lên đến 57.000, không kể
320.000 người bị đẩy đi vùng kinh tế mới và 50.000 bị tịch thu tài sản. Nhà Nước CHXHCN còn
công bố cho phép ra đi vĩnh viển những ai mang chiếu khán Hồng kông, Đài Loan hay Pháp.
Ngày 29 tháng 6, VN chính thúc gia nhập COMECON, Bắc kinh liền cúp viện trợ hoàn toàn, hồi
hương 880 chuyên viên và đóng cửa Sứ quán. Hà nội ra lệnh cho Tòa Tổng lãnh sự Tàu ngưng
hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh. Ba lãnh sự quán Việt ở Nam Ninh, Côn Minh và Quảng
Đông củng phải rút lui. Từ tháng 9. 1978, trong Tạp chí CS và tờ Quân Đội Nhân Dân, nhà cầm
quyền Việt Nam bắt đầu kêu gọi dân chúng sẵn sàng chống lại "chủ nghĩa bành trướng của nước
lớn và ý đồ bá quyền của bọn Hán phong kiến." Liên hệ Việt - Hoa "môi hở răng lạnh" tan thành
mây khói. Câu nói của Hồ "Việt và Hoa vừa là bạn, vừa là anh em" chua cay hơn lúc nào hết.
+Đặng Tiểu Bình chuẩn bị chiến tranh.
Chu Ân Lai qua đời đầu năm 1976 và Mao Trạch Đông, chín tháng sau. Nội tình Trung quốc xáo
trộn vì ba sự kiện hệ trọng:
1.- chiến dịch sôi nổi chống nhóm Tứ Quái của Jiang Qing, vợ Mao, đầu não xách động Cách
Mạng Văn Hóa.
2.- việc thi hành chậm trễ kế hoạch Bốn Hiện Đại Hóa do Chu đề xướng để canh tân kỹ nghệ,
canh nông, quốc phòng và khoa học.
3.- sự tranh quyền ráo riết giữa Đặng Tiểu Bình và Tổng bí thơ Hoa Quốc Phong, lãnh tụ của
"Phe Bất Cứ Gì" (=bất cứ gì chủ tịch Mao nói và làm đều đúng cả!). Cuối 1978, sau hai lần bị khai
trừ, Đặng phục hồi quyền lực, nắm đa số trong Chính trị bộ và Ủy ban trung ương Đảng CS, giữ
chức Tổng tư lệnh quân đội, thi hành chính sách của Chu và xét lại đường lối Mao ít. Đặng bắt
tay nghiên cứu cách giải quyết khủng hoảng với láng giềng VN. Trung quốc cảm thấy bị đe dọa

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
trong quyền lợi và thách đố bởi một nước đàn em hung hăng, phản bội và tự hào là nước mạnh
quân sự thứ ba trên địa cầu.
Theo Gs Irving Janis và Leon Mann, Đặng Tiểu Bình hành động thực tế và thận trọng qua 3 giai
đoạn. Trước hết, thu thập đầy đủ dữ kiện bên ngoài (chiến lược toàn cầu của nước Tàu, chiến
lược Đông dương của VN, sự nhúng tay của Liên sô, vấn đề Cam Bốt, tranh chấp biên giới, Hoa
kiều tại VN, yếu tố Hoa Kỳ, dư luận thế giới) và dữ kiện bên trong như: lợi ích và các giá trị của
Trung quốc, phản ứng tâm lý quần chúng trong nước, khả năng của quân đội Tàu, ảnh hưởng
chiến tranh đối với mức phát triển kinh tế quốc gia..v..v.. Thứ nữa, tham khảo ý kiến và đạt được
sự đồng thuận của các cơ cấu trong đảng CS: Chính trị bộ, Ủy ban Trung ương và Quân ủy Hội.
Sau hết, hành động để giữ vững quyết định đến cùng.
Hà nội ký Hiệp ước Hữu nghị với Liên sô và cưỡng chiếm Nam Vang là hành động khiêu khích
thêm, buộc Bắc kinh phải trả đũa. Ngày 15.12.1978, Hoa Kỳ công nhận Trung Hoa. Đặng Tiểu
Bình liền bay qua Hoa Thịnh Đốn hội kiến với Tổng thống Jimmy Carter, báo tin riêng sẽ tấn công
VN và trấn an Mỹ rằng nhà cầm quyền nước ông biết tự chế. Ngày 1.1.1979, hai nước bang giao
chính thức. Đặng cũng viếng Nhựt và một số quốc gia Đông Á để dò xét phản ứng. Tất cà đều lo
ngại về ý đồ tương lai của VN, đồng minh của Mạc Tư Khoa. Trở về Bắc Kinh, Đặng điều chỉnh
kế hoạch. Thay vì gởi quân qua Cam bốt giúp Khờ Me Đỏ và để tránh mang tiếng với Thế giới là
"mưu đồ bành trướng", Trung quốc quyết đánh thẳng vào VN dưới hình thức "phản công tự vệ",
không dùng hải lực không quân, trong một thời gian giới hạn và chỉ nhắm vào vùng biên giới.
Đặng muốn dạy cho nhóm lãnh tụ tại Bắc bộ phủ "một bài học quân sự đich đáng".
Mục phiêu thật của "sự trừng phạt" là gì? Tiêu hủy vài sư đoàn, căn cứ chiến lược hay chiếm một
giải đất biên phòng của đối phương? Đặng không cho biết thâm ý. Dù sao, theo học giả King C.
Chen, "chiến tranh trừng phạt, the Punitive War" tượng trưng cho chính sách đối ngoại của Bắc
Kinh tại Á châu từ 1949. Hành quân năm 1979 chống VN được chuẩn bị chu đáo như cuộc đụng
độ Hoa - Ấn năm 1962 và không hấp tấp như trường hợp Trung cộng tham chiến ở Triều tiên hay
vụ Nga sô can thiệp ở Tiệp khắc và Hung Gia lợi.

+ Bài học quân sự 1979.


Năm 1938, Mao giải thích như sau quan điểm của Lê nin về chiến tranh: "Khi chính trị mở rộng
đến mức không còn tiến tới được bằng đường lối thông thường thì chiến tranh bùng nổ để san
bằng các trở ngại gặp phải". Lê nin từng viết: "Chiến tranh chỉ là chính trị nối tiếp bằng những
phương tiện khác". Câu này dựa vào ý kiến của Karl Von Clausewitz: "Chiến tranh không phải là
hành vi đơn giản của chính sách mà là một lợi khí chính trị đích thực, một sự tiếp tục của hoạt
động chính trị với phương thức khác". Cuộc chiến để sát phạt VN, dù núp dưới danh xưng phản
công tự vệ, được khởi xướng đúng theo chủ trương trên đây. Các lãnh tụ Trung quốc đã cân
nhắc quyết định của họ hai năm (1977-1979), với hy vọng bình thường hóa bằng võ lực mối bang
giao Hoa - Việt. Muốn thành đạt, chiến tranh nhân dân cần hội một số điều kiện: đảng và quân
thống nhất, quần chúng hỗ trợ, đất nước hậu tiến, vũ khí quy ước, kỹ thuật lạc hậu, ngoại xâm đe
dọa và đấu tranh trường kỳ.

Trước tháng 2.1979, Trung quốc có 3,600.000 quân nhân tại ngũ và 175 sư đoàn tại 11 vùng
chiến thuật. Võ khí gồm có 10.000 chiến xa, 20.000 giàn phóng hỏa tiễn, 16.000 cà nông và
phương tiện chuyên chở rất lạc hậu. Hải quân có 30.000 thủy thủ, 75 tiềm thủy đỉnh. Hạm đội
Bắc Hải có 300 chiến hạm, Đông hải: 450 và Nam hải: 300. Lực lượng không quân có 400.000
phi công, 5000 chiến đấu cơ cũ và lỗi thời, loại Mig 15,17,19 và 80 Mig 21. Đặng Tiểu Bình là
Tổng Tư lênh hành quân, với 2 phụ tá Xu Xiangqian và Nie Rongzhen, tướng Gen Biao giữ chức
Tham mưu trưởng. Về phía VN, tổng quân số lên đến 600.000 phân chia 200.000 tại Cam bốt,
100.000 tại Lào, 100.000 tại Nam Việt, và 200.000 ở Bắc Việt. Xung quanh Hà nội có 5 sư đoàn
và 4 lữ đoàn. Dài theo biên giới Trung hoa, VN có 150.000 dân quân tổ chức thành 6 sư đoàn địa
phương và một trung đoàn. Không lực Việt có 300 chiến đấu cơ (70 Mig 19, 21 Mig 17, và một số
F 5 tịch thu của Mỹ năm 1975). Hải quân Việt có 2 chiếc PETYA Sô viết với hỏa tiến chống tiềm
thủy đỉnh, và 60 tàu tuần tiễu.
Cuộc "hành quân sát phạt" kéo dài 16 ngày, chia thành 2 giai đoạn: 1)- Từ 17 đến 26.2.1979.
Ngày 17 thàng 2, lúc 5 giờ sáng, theo chiến thuật "biển người", 100.000 Tàu, được chiến xa hỗ

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
trợ, tràn vào Lạng Sơn, (phía Đồng Đăng), Cao Bằng, Đồng Khê, Mông Cáy, và Lào Cai sau khi
pháo kích mãnh liệt. Sự tiến quân, mau lẹ lúc dầu, lần hồi bị địa phương quân Việt chận lại và
bao vây. Các đơn vị chính quy VN tập trung về phía Nam Cao Bằng và Lạng Sơn để đánh tiêu
hao những sư đoàn đối phương. Số tổn thương của hai bên đều nặng nhưng khó kiểm chứng.
Phía Trung quốc chiếm được Lào Cai, Cao Bằng và chuẩn bị tấn công Lạng Sơn nhưng không
có ý định tiến về Hà nội. Đồng thời, Bắc Kinh công bố sẽ rút quân đội "sau khi hoàn tất mục tiêu".
Trong thời khoảng đó, Liên Sô đưa 7 chiến hạm tuần tiễu dài theo hải phận VN và ngày 21 tháng
2, gởi tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak vào Nam Hải. Vũ khí Nga được
không vận từ Calcutta và một phái đoàn quân sự sô viết bay qua Hà nội. Mạc Tư Khoa yêu cầu
Tàu rút binh.

2)- Từ 27.2 đến 5 tháng 3. Chiến cuộc tiếp diễn ở Lào Cai, Cao Bằng và Mông cáy nhưng tập
trung mạnh nhất vào Lạng Sơn, cách Đèo Hữu Nghị lối 10 dặm và Hà nội 85 dặm. Với hai sư
đoàn mới đến từ Đồng Đăng và Lộc Bình, Trung vất vả tấn công các ngọn đồi quanh tỉnh. Việt
chống cự mãnh liệt và còn đột nhập vào ba thị trấn Guangxi, Malipo và Ninping ở bên kia biên
giới. Ngày 3 tháng ba , Lạng Sơn thất thủ. Đồng Đăng và Cẩm Dương bị san bằng nhưng các
đơn vị Việt tiếp tục đánh tại Lộc Bình và Mông cái. Ngày 5 tháng 3, Chính quyền Bắc Kinh một
mặt công bố đã chiếm được các tỉnh lỵ Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và 17 quận, gây thiệt hại
nặng cho 4 sư đoàn Việt và mặt khác, cảnh cáo Hà nội không được cản trở sự rút lui của Quân
đội Nhân dân Trung quốc. Cùng một ngày, Bắc bộ phủ tổng động viên toàn quốc. Ngày 7 tháng
3, VN xác nhận đồng ý cho đối phương rút quân "để tỏ thiện chí hòa bình". Tại Nga, Thủ tướng
Kosygin và Tổng bí thơ Brezhnev cực lực lên án Trung quốc, tiếp tục cho không vận võ khí và
canh chừng hải phận VN. Cuba cho biết sẵn sàng gởi quân trợ chiến Hà nội. Tại Liên Hiệp Quốc,
với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, khối Asean kiến nghị đòi "các lực lượng ngoại quốc rút ra khỏi khu
vực" mà không lên án Bắc Kinh. Ngày 16.3.1979, không còn đơn vị Tàu cộng nào ở VN. Theo
tinh thần kiến nghị Asean thì VN tại Cam Bốt cũng phãi hồi hương quân đội chiếm đóng. Hội
Đồng An ninh LHQ rốt cuộc không có ra quyết nghị nào. Một nhà ngoại giao chua chát phê bình:
"Khi tranh chấp xẩy ra giữa các đại cường, Liên Hiệp Quốc biến mất!".
+Thẩm lượng "bài học quân sự 1979
1.- Thiệt hại của đôi bên. Dưới đây là bản kê khai thiệt hại căn cứ vào tài liệu mỗi phía, trích từ
quyển sách "China''''''''''''''''s War With Việt Nam, 1979" của Gs King G. Chen , trang 114:
Trung Quốc Việt Nam
Tử thương 26.000 30.000
Bị thương tích 37.000 32.000
Tù chiến tranh 260 1.638
Chiến xa, quân xa 420 185
Bích kích pháo, súng 66 200
Giàn hỏa tiễn 0 6

Hoa lẫn Việt đều tuyên bố thắng trận nhưng không xứ nào hoàn thành mục tiêu chính yếu. Trung
quốc không hủy được một sư đoàn Việt nào, không chấm dứt được xung đột tại biên giới, không
ép được các đơn vị Việt rút khỏi Cam Bốt và củng không thuyết phục nổi VN thay đổi chính sách
đối với Hoa kiều. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã gây ra tại Hà nội sự nghi ngờ về thực tâm của Mạc Tư
Khoa can thiệp bằng võ lực để chống Trung cộng ở VN. Mặt khác, khối Asean đã lên tiếng ủng
hộ Tàu trong cố gắng chận chủ nghĩa bành trướng của CS Việt tại Đông Á và, dưới khía cạnh
này, gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt không ít. Ngày 26.3.1979, Jiefangjun Bao viết trong bài xã
luận: "Cuộc chiến 1979 đã làm sáng tỏ những ý kiến sai lệch về vấn đề chiến tranh và một số vấn
đề khác". Không thấy báo xác định rõ vấn đề gì. Sáu tháng sau, nhân lễ kỷ niệm 30 năm thành
lập Cộng hòa Nhân Dân Trung quốc, Tổng trưởng Quốc Phòng Xu Xiangqian trình bày quan
điểm trong tạp chí "Quân Đội": "Như chúng ta biết, trong lịch sử chiến tranh, có nhiều cuộc thất
trận không vì nhân lực yếu hay võ khí kém, nhưng bởi tư tưởng quân sự lạc hậu và chỉ huy sai
lầm. Một kết luận thực tế là năm 1979, tại VN, các lãnh tụ Trung Hoa vừa dạy đối phương và vừa

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
thu thập một bài học hữu ích: Quân đội Trung Hoa không thể thắng một cuộc chiến tân tiến trước
khi được hiện đại hóa về võ khí và chiến lược.

Đối với VN, hậu quả của cuộc chiến nặng nề hơn, về nhiều phương diện:
1) Trong vòng một năm, 1979-1980, vì lý do an ninh và cũng vì nhu cầu chiếm đóng Miên và Lào,
ngân sách quốc phòng tăng rất mạnh. Lục quân vượt từ 600.000 bộ binh lên một triệu, Hải quân
từ 3.000 thủy thủ lên 12.000 và Không quân từ 12.000 phi công lên 15.000. không kể ngân khoản
khổng lồ để mua võ khí, tàu chiến và phi cơ.
.......................

3) Về kinh tế, hai kế hoạch ngũ niên 1976- 1980 và 1981- 1985 thất bại thê thảm. Đồng bạc phá
giá 100%. Giá sinh hoạt tăng phi mã. Lợi tức đầu người dưới 300 mỹ kim năm 1984. Ngày
30.4.1984, tại phiên họp ở La mã, Chương trình Liên Hiệp quốc về Thực phẫm cắt bỏ 5,3 triệu đô
la viện trợ cho VN.

2- Hậu quả quốc tế.


A) Thái độ của Khối Asean: Từ 1979, chính sách của Asean có tính cách liên tục. Trong thời gian
tháng 2 đến tháng 8, 1979, phần đông các nước thành viên âm thầm tán đồng cuộc hành quân
của Bắc Kinh nhưng sau đó kêu gọi chính thức chấm dứt xung đột. Từ tháng 9 đến tháng 6.1982,
Asean khuyến cáo VN rút quân khỏi Cam Bốt để quốc gia này tổ chức bầu cử tự do. Việc Trung
quốc ngưng xô xát với VN giúp xúc tiến giải pháp. Từ tháng 6.1982 về sau, Asean vận động
thành lập một liên minh chính trị do Sihanouk lãnh đạo trong khi vẫn áp lực Hà nội. Kết quả là
tháng 7.1982, Hội nghị Ngoại trưởng 3 nước Đông Dương ra thông cáo đề nghị rút một phần
quân Việt khỏi Cam Bốt, lập một hành lang an ninh giữa Thái và Miên và tổ chức Hội nghị Đông
Á.
B) Các quốc gia khác trên thế giới - Khi chiến tranh Hoa-Việt nổ lớn, Tiệp khắc, Hung Gia Lợi, Lỗ
Ma Ni, Bulgarie, Cuba và Lào chỉ trích mạnh Bắc kinh. Nhựt và Tây Đức cắt viên trợ vì VN chiếm
Cam Bốt. Ấn độ công nhận Chính phủ Heng Samrin để phản đối Trung quốc. Nam và Bắc Hàn
im lặng, giữ thế trung lập. Mỹ có cảm tình với Đặng Tiểu Bình vì lo ngại Liên sô bành trướng,
theo dõi tình hình và khuyên hai đối phương tự chế.
+++
Ba yếu tố căn bản đã ảnh hưởng sâu đậm cuôc chiến 1979: Quyền lợi quốc gia và chiến lược - Ý
thức hệ CS và Lòng ái quốc. Một số vấn đề đã khích động nhóm người lãnh đạo có trách vụ
quyết định. Tuy nhiên không một ai nghĩ rằng nước Tàu thực sự bị đe dọa về mặt an ninh vào
thời khoảng đó. Trung quốc và Việt Nam không đi đến chiến tranh toàn diện vì cả hai thuộc phe
xã hội chủ nghĩa. Tinh thần yêu nước và "mặc cảm huynh trưởng tự tôn" thúc đẩy Bắc kinh đòi
hỏi đất đai, với mong ước tái lập ảnh hưởng cũ trong vùng. Tình anh em lâu đời giữa hai quốc gia
láng giềng ngăn họ kéo dài một cuộc chiến đẫm máu. Bởi thế, sự đọ sức được giữ ở mức trung,
may thay!
Điểm khác đáng lưu ý là vai trò của lãnh đạo. Đúng thế, lãnh đạo đẻ ra chính sách. Và chính
sách vẽ đường cho ngoại giao. Nhân cách Đặng Tiểu Bình chi phối cuộc khủng hoảng 1979
được mệnh danh "chiến tranh của Đặng Tiểu Bình". Đặng mưu trí, nhẫn nại, liều lĩnh và thực tiễn.
Đối diện là Lê Duẩn, không có kinh nghiệm sâu sắc về nước Tàu vì ở tù ngoài Côn đảo trong giai
đoạn Việt Minh kháng chiến 1940 - 1950 với sự ủng hộ duy nhất và nhiệt tình của Bắc Kinh.

Một bài học quân sự thứ hai: Tháng 4.1985, Quân đội VN tảo thanh biên giới Thái - Miên, Son
Sann hù dọa Hà nội rằng Trung quốc chuẩn bị một bài học khác. Mùa đông 1984- 1985, VN
thành công dẹp phiến loạn Miên. Lại có tin đồn giống như thế. Tại Bắc kinh, Đặng Tiểu Bình, Lý
Chấn Nhiệm và Hoàng Hoa không bỏ hẳn ý định này. Giới truyền thông Tây phương, chính giới
Hoa Kỳ và Nghị sĩ Henry Jackson cũng tiên đoán bi quan.
KẾT LUẬN:

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Trung Hoa - thành công hay thất bại - mãi mãi sẽ là mối ám ảnh của nước Việt Nam bé nhỏ.
Ngược lại, Việt Nam luôn luôn là khúc xương khó nuốt của anh chàng khổng lồ phương Bắc.
Đồng sàng nhưng dị mộng. Buộc phải sống chung hòa bình.
LÂM LỄ TRINH

Trích từ bài của Jparrow :

Hmm mọi người đọc thử một số ý kiến về vụ 1979 , mấy đọan này em trích trong sách của Lý
Quang Diệu , đây là lời ghi lại đoạn hội đàm của ông ta với Đặng Tiểu Bình , tất nhiên cả 2 đều ở
phía đối lập Việt Nam , Đặng của Trung Quốc trong khi Lý rất chống +:

"..... ông ta <Đặng Tiểu Bình> đưa ra một quan sát bao trùm về những việc Liên Xô đã làm ở
Châu Âu , Trung Đông , châu Phi , Nam Á và sau cùng là Đông Dương . Liên Xô đã đạt được ưu
thế tại Việt Nam .Nhiều người không hiểu tại sao các quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam lại
xấu đi như thế , và tại sao Trung Quốc lại có các hành động như cắt viện trợ , mà việc đó lại càng
khiến VN thân Liên xô hơn . Câu hỏi nên đặt ra là tại sao Việt Nam chọn lựa ngả hẳn theo Liên
Xô khi điều đó không có lợi cho họ? Câu trả lời là vì một "giấc mơ ấp ủ nhiều năm về một liên
bang Đông Dương thống nhất " .Trung Quốc không tán thành điều này và Việt Nam đã xem TQ
như là cản trở lớn nhất trong việc xây dựng liên bang này. TQ đã kết luận là VN sẽ không thay
đổi quan điểm và sẽ trở nên nghi kị TQ hơn.Việc bùng nổ vấn đề người Hoa tại Viện Nam là một
trong những biểu hiện như thế . Sau khi suy xét kĩ Trung Quốc đã quyết định cắt viện trợ.
Đặng nói tổng giá trị viện trợ của TQ dành cho Việt Nam đã lên tới hơn 10 tỷ USD , theo thời giá
lúc đó thì là hơn 20 tỷ .Khi Trung Quốc ngưng viện trợ , Liên Xô phải cáng đáng một mình .Khi họ
không kham nổi thì chuyển qua khối COMECON để chia gánh nặng với các nước Đông Âu , Việt
Nam cũng muốn lập quan hệ với Nhật ,Mỹ ....... và ngay cả Singapore nữa. Trong vòng mười
năm, ông ta nói , Trung Quốc sẽ xem tới việc thuyết phục Việt Nam . Tôi <Lý quang diệu> thầm
nghĩ Đặng có một tầm nhìn rất xa , hoàn toàn khác hẳn những nhà lãnh đạo Mỹ.
Đặng nói vấn đề thực sự và cấp bách là khả năng Việt Nam kiểm soát hoàn toàn Campuchia,
Trung Quốc sẽ làm gì ? Ông ta hỏi như một cách nêu vấn đề . Việc Trung Quốc làm sẽ tuỳ vào
Việt Nam hành động tới đâu , ông tự trả lời như thế. Ông ta lặp lại điều này nhiều lần , không nói
thẳng tới một cuộc phản kích vào Việt Nam . Ông ta nói nếu Việt Nam thành công trong việc kiểm
soát toàn Đông Dương , nhiều nước Châu Á sẽ đứng trước mối đe doạ . Liên Bang Đông Dương
mở rộng ảnh hưởng sẽ phục vụ cho mục tiêu toàn cầu của Liên Xô muốn tiến vào phía Nam vào
vùng biển Ấn Độ Dương . Vai trò của Việt Nam sẽ giống như một Cuba ở phương Đông , Liên Xô
đang tăng cường lực lượng hạm đội tại Thái Bình Dương . Thế giới đã chứng kiến rối loạn trong
hai năm qua tại Việt Nam , Afghanistan , Iran và Pakistan , tất cả đều cho thấy xu hướng tiến về
phía Nam của Liên Xô....."
".... trong bữa tối ông ta rất lịch sự và thân thiện , nhưng vẫn còn căng thẳng .Việc Việt Nam tấn
công vào Campuchia vẫn còn làm ông bận chí .Khi tôi hỏi gặng - Trung Quốc sẽ làm gì bây giờ
,khi mà tướng Kriangsak ,thủ tướng Thái đã tỏ ra ủng hộ Trung Quốc bằng cách tiếp đón Đặng
rất long trọng ở BangKok , ông ta lại nói vắn tắt rằng điều đó còn tuỳ thuộc Việt Nam sẽ hành
động tới đâu . Tôi có ấn tượng rằng nếu Việt Nam không vượt sông Mekong , thì sẽ không có gì
nguy hiểm , như nếu họ vượt thì Trung Quốc sẽ có hành động.
........Tại dinh thống đốc ở Fanling , Hồng Kông , trong một kì nghỉ , tôi đã gặp Davis Bonavia ,
một chuyên gia về Trung Quốc từng làm cho tờ Times ở London . Ông ta nghĩ lời cảnh báo của
Đặng chỉ là đe dọa xuông vì hải quân Liên Xô đang có mặt ở biển Nam Trung Quốc . Tôi nói rằng
đã gặp Đặng 3 tháng trước và ông ta là một người ăn nói rất cân nhắc. Hai ngày sau , 19/2/1979
, quân đôi Trung Quốc tấn công vào biên giới Bắc Việt Nam .
Trung Quốc tuyên bố rằng các mục tiêu hành động quân sự này rất hạn chế và kêu gọi Hội đồng
bảo an Liên Hợp Quốc có biện pháp tức thời và hữu hiệu ngăn chặn VN chiếm đóng Campuchia .
Chiến dịch kết thúc trong vòng 1 tháng . Họ chịu tổn thất nặng nhưng đã cho VN thấy là bằng bất
cứ giá nào , họ vẫn có thể tiến sâu vào VN , tàn phá làng mạc thị trấn trên đường tiến quân và rút
lui , như họ đã làm vào ngày 16/3/79.
Trong cuộc tấn công vào VN , Đặng nói công khai rằng TQ đã chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
có thể xảy ra với Liên Xô , và cho rằng một bài học cho VN cũng là một bài học cho Liên Xô .
Liên Xô đã không tấn công Trung Quốc . Báo chí phương Tây mô tả hành động trừng phạt của
Trung Quốc như một thất bại . Còn tôi thì tin rằng nó đã thay đổi dòng lịch sử Châu Á . Việt Nam
hiểu rằng TQ sẽ tấn công khi họ vượt quá Campuchia vào đến đất Thái . Liên Xô không muốn bị
vướng vào một cuộc chiến dai dẳng ở một nơi xa xôi tại Châu Á. Họ có thể có một hành động
mau chóng có tính quyết định đối với Trung Quốc , nhưng Trung Quốc đã không cho họ là như
thế bằng cách tuyên bố rằng hành động quân sự của Trung Quốc là một hành động "trừng phạt "
và không có ý chiếm đóng VN . Như Đặng đã tiên đoán , Liên Xô đã phải chịu gánh nặng trong
việc ủng hộ Việt Nam . việc mà họ đảm nhận thêm 11 năm nữa cho đến 1991 , khi Liên Xô tan
rã. Khi chuyện này xảy ra , Việt Nam đồng ý rút quân khỏi Campuchia vào tháng 10/1991."

Nó dồn cục lại như thế này thì có thể bắn cháy 7 cái xe tăng một lúc không nhỉ ? Hay là nện cho
mấy loạt BM-21 ?

Pháo nó bắn cũng gớm đấy chứ, tôi nhớ là năm 1988 nhân ngày 1/10 quốc khánh Tung Của nó
bắn 10.000 quả đạn trong 1 ngày

nghe bài hát Gửi em ở cuối sông Hồng mà em thấy ngày xưa người lính thật lòng được quý
trọng , công nhận rằng công tác tư tưởng của mình ngày đó cũng tuyệt vời thật ,xét ngay bản
thân mình nghe bài hát đó hay nhỉ các bác

Bạn chiangshan và các bạn khác đã đưa nhiều thông tin về lực lượng TQ tấn công xâm lược VN
năm 1979, tôi xin đưa lên đây tài liệu " Các lực lượng vũ trang TQ 1978 " của Viện quốc tế
nghiên cứu chiến lược Anh, in trong tạp chí Cán cân quân sự năm 1978-1979 .

Dân số TQ { 1978 } hiện có khoảng 960-975 triệu người. Chế độ nghĩa vụ quân sự đang được
thực hiện với thời hạn : lục quân từ 2 đến 4 năm, không quân 4 năm, hải quân 5 năm.
Tổng số lực lượng quân chính quy là 4.325.000, gồm :
Lục quân : 3.600.000 { số tròn }. Các đơn vị chủ yếu có : 121 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn đổ bộ
đường không, 40 sư đoàn pháo binh { kể cả pháo phòng không }, 11 sư đoàn thiết giáp, 15 sư
đoàn công binh, 150 trung đoàn độc lập. Các lực lượng địa phương có : 70 sư đoàn bộ binh và
130 trung đoàn độc lập.
Trang bị nặng có : khoảng 10.000 xe tăng các loại, từ xe tăng lội nước kiểu 60 { coppy PT-76 của
LX } đến xe tăng T-54, T-59 { cũng theo mẫu của LX }, 3.500 xe thiết giáp chở quân, gần 18.000
đại bác từ súng phòng không 37mm đến pháo mặt đất 130,152mm.
Hải quân : 300.000 { kể cả 30.000 lính không quân của hải quân và 38.000 lính thuỷ đánh bộ }
với khoảng 1.400 tàu các loại từ tàu quét mìn, phóng lôi, tuần tiễu đến tàu khu trục, tàu ngầm.
Trong đó đại bộ phận là tàu nhỏ, chẳng hạn có 300 giang hạm, 400 pháo hạm { tất cả đều do LX
viện trợ từ những năm 50-60, hoặc sản xuất theo mẫu của LX }.
Không quân : 400.000, gồm cả lực lượng phòng không. Trang bị khoảng 5.000 máy bay chiến
đấu các loại, phần lớn là loại MiG-15, MiG-17 { khoảng 4.500 chiếc }. Máy bay vận tải có khoảng
gần 1.000 chiếc, gồm 450 máy bay cánh cố định và cả 500 máy bay của hàng không dân dụng {
lúc cần có thể huy động vận chuyển quân sự }.
Toàn TQ chia làm 11 Đại quân khu. Mỗi Đại quân khu có 2-3 phân khu.
Các sư đoàn bộ binh tập hợp thành 40 quân đoàn. Thông thường 1 quân đoàn có 3 sư đoàn bộ
binh, 3 trung đoàn pháo binh. Có một số quân đoàn được tổ chức thêm 3 trung đoàn thiết giáp.
Tất cả các sư đoàn tuy thuộc quyền quản lý của các Đại quân khu nhưng đều do trung ương
điều động, chỉ huy.
Ước tính số sư đoàn có thể được phân bố ở 5 vùng { không kể pháo binh, công binh } như sau :
- Vùng Bắc và Đông Bắc { các đại quân khu Thẩm Dương và Bắc Kinh } : 55 sư đoàn chủ lực và
25 sư đoàn địa phương.
- Vùng Bắc và Tây Bắc { các đại quân khu Lan Châu và Tân Cương } : 15 sư đoàn chủ lực và 8
sư đoàn địa phương.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
- Vùng Đông và Đông Nam { các đại quân khu Tế Nam, Nam Ninh, Phúc Châu và Quảng Châu,
gồm cả đảo Hải Nam } : 32 sư đoàn chủ lực và 22 sư đoàn địa phương.
- Vùng trung tâm { đại quân khu Vũ Hán } : 15 sư đoàn chủ lực và 7 sư đoàn địa phương.
- Vùng Tây và Tây Nam { các đại quân khu Thành Đô và Côn Minh } : 18 sư đoàn chủ lực và 8
sư đoàn địa phương.
Hải quân được chia thành 3 hạm đội, triển khai trên 3 khu vực :
- Hạm đội Bắc Hải : khoảng trên 300 tàu, bố trí từ cửa sông Áp Lục đến Nam Liên, Vân Cảng,
dựa vào 3 căn cứ lớn là Thanh Đảo, Lữ Thuận và Lữ Đại.
- Hạm đội Đông Hải : khoảng trên 450 tàu rải dài từ Vân Cảng đến Đường Sơn, dựa vào các căn
cứ Thượng Hải, Châu Sơn và Thiên Bảo.
- Hạm đội Nam Hải : khoảng 300 tàu rải từ Đường Sơn đến biên giới VN, dựa vào các căn cứ
Hoàng Phố, Trạm Giang, Du Lâm.

Các bác sưu tầm tài liệu giỏi thật. Chúng ta đọc theo kiểu gạn đục khơi trong, tự tìm lấy cho mình
câu trả lời về cuộc chiến năm 79, và tổng quát hơn nữa là về mối quan hệ giữa VN và TQ.
Bản thân tôi có dịp tiếp xúc với nhiều người TQ. Đa số họ là những người bạn cùng trang lứa
(hơn hai mươi). Có thể nói không có ai có bất kỳ thành kiến nào về VN cả. Đối với họ VN là một
quốc gia nhỏ ở phía Nam, là bạn của TQ, và nói thẳng ra là chẳng đáng quan tâm (người TQ đều
có tư tưởng mình là nước lớn, coi thường những nước khác). Khi tôi hỏi về cuộc chiến năm 79
rất ít người biết. Có người biết thì họ lại bảo rằng, "Chắc bọn tự trị dân tộc Choang (chú thích:
khu tự trị Quảng Tây) bọn nó vớ vẩn thế nào ấy chứ, bọn tao chẳng có liên quan gì cả". Có
người thì quả quyết là TQ không hề tấn công VN mà chỉ "phòng vệ" thôi, rồi họ kể chuyện bộ đội
VN tấn công sang TQ, đặc công VN luồn sâu vào lãnh thổ TQ, nã cối vào sân bay Nam Ninh...
Theo cảm nhận của riêng tôi thì người TQ có tư tưởng "nước lớn" đối với VN, nhưng tuyệt nhiên
không coi VN là kẻ thù. Kẻ thù số một của TQ chính là Nhật Bản. Nói thật TQ ghét Nhật Bản còn
gấp mấy lần VN ghét TQ.
Ngẫm nghĩ lại VN đối với TQ cũng có phần giống Campuchia đối với VN. Khi tôi nghĩ về
Campuchia, tôi hình dung đó là một quốc gia nhỏ, không đáng kể. Có điều tôi không hề thù ghét
hay có thành kiến xấu về họ. Tuy nhiên người Campuchia thì hơi bị thành kiến về VN đấy các
bác ạ. Thằng bạn tôi sang Campuchia du lịch, khi đi lang thang trong khu Angkowat thì bị một
chú bảo vệ chặn lại. Khi biết nó là người VN thì tay kia liền hỏi, "Mày sang đây làm gián điệp cho
VN hả?". Thằng bạn tôi xém nữa thì nổi khùng lên.

Đến năm 1985, 11 Đại quân khu của Trung Quốc đã được tổ chức lại thành 7 Đại quân khu.

1. Đại quân khu Thẩm Dương gồm các phân khu Liêu Ninh, Cát Lâm, Hắc Long Giang.
2. Đại quân khu Bắc Kinh gồm các phân khu Hà Bắc, Sơn Tây, Nội Mông.
3. Đại quân khu Lan Châu gồm các phân khu Cam Túc, Thiểm Tây, Tân Cương, Ninh Hạ, Thanh
Hải.
4. Đại quân khu Tế Nam gồm các phân khu Sơn Đông, Hà Nam.
5. Đại quân khu Nam Kinh gồm các phân khu Giang Tô, Triết Giang, An Huy, Phúc Kiến, Giang
Tây.
6. Đại quân khu Quảng Châu gồm các phân khu Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, Hải
Nam.
7. Đại quân khu Thành Đô gồm các phân khu Vân Nam, Tây Tạng, Quý Châu, Tứ Xuyên.

Cả 7 Đại quân khu này đều đã từng có lực lượng tham chiến ở mặt trận biên giới Hà Giang của
Việt Nam.

(nguồn : www.china-defense.com)

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Chiếc trực thăng Mi-6 này, mang số hiệu 7609 đã được Không quân Nhân dân Việt Nam dùng để
chuyển quân, vũ khí, khí tài phục vụ chiến đấu trong chiến tranh biên giới với Trung Quốc. Hiện
được trưng bày tại Bảo tàng Không quân.

Nói thêm một chút về biên chế của quân đội TQ { thời điểm 1978 - 1979 }

- Một quân đoàn bộ binh TQ có khoảng 50.000 người { khoảng 6.000 sĩ quan với 44.000 lính }
gồm 3 sư đoàn bộ binh, 3 trung đoàn pháo và có thể có thêm một số trung đoàn thiết giáp.
- Một sư đoàn có khoảng 12.900 lính gồm 3 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn pháo { cả pháo mặt
đất, chống tăng và phòng không }, 1 trung đoàn thiết giáp.
- Một trung đoàn có 3 tiểu đoàn bộ binh và các đại đọi súng máy phòng không, súng cối, súng
không giật, súng máy hạng nặng.
Quân đội TQ tổ chức theo kiểu tam tam chế cộng thêm các đơn vị yểm trợ. Bên cạnh hệ thống
chỉ huy quân sự là hệ thống cán bộ chính trị từ cấp đại đội trở lên.
Các đơn vị quân đội TQ trang bị các loại vũ khí thông thường như CKC, AK, B-40/41, các loại
pháo { cỡ lớn nhất là 152mm }. Ngoài ra còn một số rocket tầm ngắn H-12 { cự ly bắn trên 10km
}.

Shenyang: Thẩm dương


Jilin: Cát lâm
Gansu: Cam túc
Shaanxi: Thiểm tây
Xinjiang: Tân cương
Ningxia: Ninh hạ
Jiangsu: Giang tô
Zhejiang: Triết giang
Fujian: Phúc kiến
Guizhou: Quí châu
Sichuan: Tứ xuyên

Chú chiangshan có cảm ơn anh không thì bảo, anh post tiếp về chiến thuật " biển người " của
Tung Của đây này :

Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, trên bờ bên này sông Áp Lục, vào mờ sáng ngày 25/11/1950
quân Mỹ đã sửng sốt kinh ngạc khi nhìn thấy lớp lớp sóng bộ binh quân " Chí nguyện " ào ạt
xông lên tiến công. Cảnh tượng lớp người này ngã xuống, lớp người khác lại xông lên đủ làm
cho quân Mỹ khiếp đảm. Tập đoàn quân 8 Mỹ đã liên tục rút lui trong suốt hơn một tháng và mãi
đến ngày 31/12/1950, khi về đến vĩ tuyến 38, quân Mỹ mới dừng lại được để xây dựng tuyến
phòng ngự.
Bài học rút ra từ trận chiến kể trên : Quân đội TQ là một trong những quân đội đông người nhất
thế giới, có những kinh nghiệm chiến đấu nhất định. Khi nghiên cứu về cách đánh của quân " Chí
nguyện " TQ tại Triều Tiên, phía Mỹ đã nhận xét như sau :
Trước khi mở chiến dịch tiến công, quân TQ thường tiến công thăm dò để xác định các điểm yếu
trong bố trí trận địa của đối phương { đặc biệt là những khu vực tiếp giáp giữa hai đơn vị, trận địa
pháo, sở chỉ huy phía trước, v,v,,, }
Việc di chuyển lực lượng của quân TQ từ các vùng hậu phương tới địa điểm tập kết thường được
tiến hành ban đêm. Họ thường dùng ban ngày để cất giấu lực lượng.
Do hệ thống tiếp vận hậu cần thô sơ nên việc di chuyển cũng như trú quân của quân TQ có thể
tiến hành dễ dàng, bí mật, ít chịu ảnh hưởng của địa hình, đường sá và thời tiết.
Mục tiêu của từng trận tấn công thường được quy định cụ thể và khi đạt được mục tiêu quân TQ
thường dành thời gian củng cố bộ đội, bổ sung đạn dược, quân số, chuyển pháo lên phía trước.
Quân TQ rất giỏi về nguỵ trang và lợi dụng địa hình, địa vật. Người ta thường nhắc nhiều đến
chiến thuật " biển người " của quân TQ. Nhưng đây không phải là một nguyên tắc bất di bất dịch,

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
quân TQ thường chia thành nhiều mũi tiến công, có hướng chủ yếu, hướng thứ yếu. Khi cần
hướng thứ yếu có thể biến thành chủ yếu và ngược lại.
Các sĩ quan chỉ huy trong quân đội TQ thường có thái độ máy móc. Một khi cấp trên đã vạch ra
kế hoạch hành động thì cấp dưới cứ theo đó mà tiến hành trong bất kỳ tình huống nào, dù rằng
trên thực tế tình hình đã diễn biến khác trước.
{ Trích từ Các chiến dịch trong cuộc chiến tranh Triều Tiên do Phòng Nghệ thuật quân sự thuộc
Học viện quân sự Mỹ West Point xuất bản }.
Nhưng Việt Nam năm 1979 khác xa so với Triều Tiên năm 1950 và quân đội Việt Nam cũng khác
xa quân đội Mỹ. Vậy TQ đã chuẩn bị cho cuộc tấn công vào Việt Nam năm 1979 như thế nào ?
Xin xem hồi sau sẽ rõ...

Chúng ta đều đã khá quen với cái tên Lê Đình Chinh. Và đây là trận đánh mà anh đã tham gia :

Giữa năm 1978, xảy ra vụ "nạn kiều", hàng ngàn người Hoa đổ về cửa khẩu Hữu Nghị để sang
Trung Quốc. Ngày 12-7-1978, phía Trung Quốc đột ngột đóng cửa khẩu, khiến cho số người Hoa
ở đây dồn lại đến hơn 4.000, sống trong những điều kiện khó khăn, mất vệ sinh, đau ốm...

Ngày 25-8-1978, các cán bộ một số cơ quan, nhân viên y tế, phụ nữ Việt Nam... đang chăm sóc
cho những người Hoa đau yếu dưới sự bảo vệ của 25 chiến sĩ đồn Hữu Nghị và đại đội 6 (trung
đoàn biên phòng 12), thì lúc 8h30, bọn côn đồ Trung Quốc, vũ trang bằng dao, gậy, gạch đá
được sự hỗ trợ của 500 công an Trung Quốc tràn sang tấn công. Các chiến sĩ biên phòng đã
kiên quyết đánh trả, quật ngã hàng chục tên xâm lược, bảo vệ người của ta.
Trước tình hình căng thẳng, cấp trên điều thêm lực lượng đồn Hữu Nghị, đại đội 4B, đại đội 6
thuộc trung đoàn 12 đến tiếp viện. Bằng gậy, đá tước của địch, các chiến sĩ ta giao chiến với
địch trên đồi Pò Tà Hèn và các khu vực xung quanh đồn Hữu Nghị. Tiểu đội trưởng Lê Đình
Chinh thuộc đại đội 6 đã đánh gục 4 tên côn đồ, cứu được 1 chị cán bộ và 1 chiến sĩ của ta đang
bị địch hành hung. Bị ném đá vào gáy, máu chảy đầm đìa nhưng anh vẫn xông lên đánh địch.
Một tên Trung Quốc dùng gậy ngáng, Lê Đình Chinh vừa ngã xuống, nhiều tên đã xô lại chém
bằng dao quắm....

Đến 10 giờ, địch phải cụm lại trên mỏm Pò Tà Hèn.


Đến 16 giờ, sau khi được tăng cường lực lượng các đại đội của tiểu đoàn 1 (trung đoàn 12), các
mũi xung kích của ta đồng loạt xông lên tiến công các chốt địch chiếm đóng trái phép. Cuộc
chiến đấu giá lá cà bằng vũ khí thô sơ, tay không và võ thuật diễn ra rất ác liệt. Đến 17h25, toàn
bộ bọn Trung Quốc phải tháo chạy về bên kia biên giới. Hơn 4.000 người Hoa cũng ùa theo.
Chiến sĩ ta nhanh chóng dàn hàng, dùng dây thép gai, chông, mìn chuẩn bị sẵn rào chặt biên
giới, không cho địch đẩy só người Hoa trở lại.

Đây là một trận đánh xuất sắc của đồn Hữu Nghị và trung đoàn biên phòng 12, đã đập tan âm
mưu gây hấn, lấn chiếm của địch. Liệt sĩ Lê Đình Chinh được truy tặng danh hiệu Anh hùng các
lực lượng vũ trang nhân dân.

(Theo Lịch sử bộ đội biên phòng).

Hôm nay 17-2-2005, kỉ niệm tròn 26 năm chiến tranh biên giới.

Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới


Gọi đoàn quân ta vào cuộc chiến đấu mới
Quân xâm lược bành trướng dã man
Đã giày xéo mảnh đất tiền phương
Lửa đã cháy và máu đã đổ trên khắp dải biên cương

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Đất nước hàng ngàn chiến công
Đang sục sôi ý chí hào hùng
Những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa
Đang gọi tiến đến những chặng đường xa

Việt Nam ơi nước Việt yêu thương


Lịch sử đã trao cho mình một sức mạnh thiêng liêng
Mang trong mình còn lắm vết thương
Đã vùng dậy thẳng ra chiến trường
Vì một lẽ sống cao đẹp
Vì Độc lập, tự do

Bộ đội biên phòng là những đơn vị đầu tiên phải chịu những mũi tiến công của địch. Vào sáng
17-2-1979, địch tấn công vào 47 trên 63 đồn biên phòng dọc biên giới.
Đồn biên phòng Pò Mã (Lạng Sơn) phục kích ở xã Tri Phương (Tràng Định) diệt hơn 60 tên địch,
sau đó tổ chức sơ tán hơn 10.000 người dân ra khỏi khu vực chiến sự.
Đồn biên phòng Pha Long (Quảng Ninh) từ 17-2 đến 20-2-1979 liên tục chiến đấu với 1 trung
đoàn địch, diệt gần 400 tên. Trong toàn chiến dịch, đồn đã tiêu diệt 800 tên địch, làm bị thương
400 tên khác.
Đồn biên phòng Xi Là Lầu (Lai Châu), vừa vũ trang đánh địch, vừa tổ chức giúp đỡ, sơ tán nhân
dân, truy quét bọn phản động trong vùng. Đồn đã diệt 600 tên địch, bắt 5 tên phản động, chỉ điểm
và 2 tên thám báo. Đồng chí Vừ A Phù, tiểu đội trưởng nuôi quân của đồn đã chỉ huy anh em
đánh lui 2 đợt tiến công của địch. Khi bị thương và hết đạn, đồng chí đã dùng tay không bóp cổ
chết tên địch, cướp súng để chiến đấu.
Tại Tràng Định (Lạng Sơn), trong khi đại đội 3 thuộc tiểu đoàn 1 (trung đoàn biên phòng 12) đang
chiến đấu chống trả địch thì căn hầm có 8 thương binh ta bị địch phát hiện. Quân địch ném bộc
phá vào trong. Thiếu uý Triệu Toàn Tăng đã dũng cảm ôm quả bộc phá lao ra ngoài quăng trả
vào quân địch và dùng AK bắn. 7 thương binh ta được cứu sống. Đồng chí Triệu Toàn Tăng đã
anh dũng hy sinh.
.............
Trong toàn chiến dịch, các lực lượng bộ đội biên phòng đã tiêu diệt được gần 10.000 tên địch,
bắn cháy 42 xe tăng, thiết giáp, 18 xe kéo pháo, bắt sống 100 tù binh, bắt 800 tên phản động, chỉ
điểm, thám báo của địch, thu nhiều vũ khí. 13 đơn vị, 17 cán bộ chiến sĩ được phong danh hiệu
Đơn vị Anh hùng và Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

(Theo Lịch sử bộ đội biên phòng T1).

bác chiangshan quả thật là có nội công thâm hậu , bác cố gắng lên bác nhé em chỉ có mỗi 5* để
động viên bác cho tinh thần bác thêm sáng suốt để phục vụ anh em . cảm ơn bác rất nhiều vì
nhiều tài liệu của bác làm tinh thần yêu nước của chúng ta được nâng cao và luôn cảnh giác
trước âm mưu của bọn tàu Khựa

17/2/1979

Lúc đó emmới 5 tháng trong bụng mẹ!


Lúc đó thằng K bạn thân mới chưa đầy 30 ngày hình hài......Và Bố nó đã ngã xuống ngay hôm
đầu tiên lửa khói ! Hơn chục năm B, về nhà kịp gửi lại nó và lại lên phía Bắc .....

Kính chúc các Cựu binh khoẻ, chúng em mãi biết ơn các anh !
Chúc các chiến sĩ trên chốt ngày nay khoẻ, vui và dũng mãnh!

Gửi các Bác chút tin từ vnexpress :

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Việt Nam khẳng định chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa

"Lập trường của Việt Nam về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được nhiều lần nói rõ. Việt
Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền không thể tranh
cãi của mình đối với hai quần đảo", người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Dũng tuyên bố hôm qua.

Ông nói như vậy khi được hỏi về phản ứng của Việt Nam trước việc Trung Quốc tiến hành thăm
dò, khảo sát tại các khu vực thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng nêu rõ, bất kỳ việc làm nào của một nước khác
đối với hai quần đảo trên mà không được sự chấp thuận của Việt Nam đều là vi phạm chủ quyền
và các quyền chủ quyền của Việt Nam đối với các khu vực này.

Trước đó, Tân Hoa Xã đưa tin lần đầu tiên trong lịch sử, Trung Quốc tiến hành khảo sát
đảo san hô dưới biển với quy mô lớn ở vùng biển Tây Sa, tức Hoàng Sa của Việt Nam.

Những kẻ chỉ huy cuộc xâm lược Việt Nam :

Tướng Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou), tư lệnh Đại quân khu Quảng Châu, tổng tư lệnh chiến dịch và
trực tiếp chỉ huy hướng tiến công vào biên giới đông bắc Việt Nam (Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng
Ninh).

Tướng Dương Đắc Chí (Yang Dezhi), tư lệnh Đại quân khu Côn Minh, chỉ huy hướng tiến công
vào tây bắc Việt Nam (Hà Giang, Hoàng Liên Sơn - Lào Cai, Lai Châu).

Gọi là tướng cáo già cũng không sai, vì Hứa sinh năm 1904, còn Dương sinh 1911, đều là những
chỉ huy cấp trung đoàn thời Vạn Lý Trường chinh và được phong tướng năm 1955. Thời kỳ nội
chiến, Hứa là tư lệnh binh đoàn 11 (tương đương tập đoàn quân) thuộc Dã chiến quân số 3
(tương đương Phương diện quân), Dương là tư lệnh binh đoàn 19 thuộc Dã chiến quân Bắc
(Tức Dã chiến quân số 5).

Tướng Vi Quốc Thanh (Wei Quoqing), Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân giải phóng nhân dân
Trung Quốc.
Tướng Vi những năm 1950-1954 từng là cố vấn quân sự của tướng Võ Nguyên Giáp và đã có
một số đóng góp cho chiến thắng của Việt Nam. Vi được phong tướng năm 1955.
Trong cuộc tấn công "trừng phạt Việt Nam" Vi không tham gia chỉ huy, nhưng ông ta chính là tác
giả của câu nói nổi tiếng : "Bắc Kinh sẽ dạy cho Việt Nam một bài học !" ngày 13-12-1978, trong
một cuộc họp ở Trung Nam Hải.

....TQ đã chuẩn bị cho cuộc tấn công vào VN năm 1979 như thế nào ?

Trước hết ta sẽ thử tìm nguyên nhân tại sao TQ lại phát động cuộc chiến tranh này vào thời điểm
tháng 2 năm 1979. Theo tôi có mấy nguyên nhân sau :
- Về tình hình VN : sau hơn 1/3 thế kỷ chiến tranh, vừa thống nhất đất nước, VN lại mất 2 năm
đối phó với cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam do Pônpốt - Iêngxari phát động. Kinh tế chưa hồi
phục lại gặp mấy năm mất mùa, thiên tai liên tiếp. Nền kinh tế đối ngoại thì bị cấm vận.
Phần lớn lực lượng quân đội chính quy của VN lại đang tập trung ở phía Nam và Cambodia. Tại
vùng biên giới Việt - Trung lực lượng của VN mỏng, chủ yếu là quân địa phương khó được tiếp
viện kịp thời trong thời gian ngắn.
Vùng biên giới phía Bắc của VN có đông Hoa kiều sinh sống, họ kéo về TQ khá nhiều sau cái gọi
là vụ " nạn kiều " 1978. TQ có thể sử dụng hiểu biết của họ về địa bàn này. Thực tế lính sơn
cước của TQ có khá đông là Hoa kiều tù VN về.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Từ nhiều năm trước TQ đã có sự chuẩn bị cho cuộc chiến tranh này. { Bác phaphai và các cựu
chiến binh vùng Vị Xuyên - Thanh Thuỷ chắc còn nhớ dọc theo con đường từ thị xã HG lên cửa
khẩu Thanh Thuỷ - con đường do TQ giúp ta xây dựng - trồng rất nhiều hoa gạo và trồng cách
đều nhau bám theo bờ sông Lô. Những cây gạo này là lộ tiêu khá chuẩn cho pháo từ TQ câu
sang, nhất là nếu đứng trên 1509 - Lão Sơn.}.
- Về tình hình nội bộ TQ : Đặng Tiểu Bình vừa trở lại đỉnh cao quyền lực rất muốn chứng tỏ mình
và thúc đẩy nhanh quá trình " 4 hiện đại hoá " mà quan trọng nhất là hiện đại hoá quân đội. Đã
17 năm sau xung đột Trung - Ấn, lần này là lần xuất quân
ra nước ngoài lớn nhất của quân đội TQ, các tướng lĩnh trong quân đội TQ muốn thể hiện mình.
Hơn nữa dưới con mắt họ VN và quân đội VN chưa thể sánh ngang với " Quân giải phóng TQ ",
họ đã từng đẩy lui quân Mỹ tại Triều Tiên cơ mà ! { giá mà không có trận Nhân Xuyên khéo họ
còn thắng Mỹ ấy chứ !? }.
- Về đối ngoại : Họ không tin LX sẽ thực hiện cam kết của mình với VN trong " Hiệp ước hợp
tác... Xô - Việt ". Với Mỹ, ngày 28/01/1979 Đặng đi Mỹ tìm sự ủng hộ của Mỹ. OK ! tổng thống
Catơ cũng muốn " chơi con bài TQ đến cùng ", vả lại vết thương VN vẫn còn rỉ máu ! ---> Đặng
được Mỹ " bật đèn xanh ".

Ngay sau khi về tới Bắc Kinh, ngày 09/02/1979 Đặng họp Quân Uỷ TW để thông báo kết quả
chuyến công du và xét duyệt lần cuối kế hoạch xâm lược VN. Thực ra từ 12/1978 Bắc Kinh đã
mở hội nghị thông qua kế hoạch và thúc đẩy hoàn thành gấp các mặt tồn tại của công cuộc
chuẩn bị chiến tranh. Hội nghị trên đã quyết định đặt quân đội TQ ở tư thế sẵn sàng chiến đấu
cao, đặc biệt là các quân đoàn, các đơn vị không quân, hải quân tại các đại quân khu Quảng
Châu, Côn Minh, Vũ Hán. Những đơn vị này được bổ sung theo biên chế thời chiến. VD : một
trung đoàn của quân đoàn 50 { sau này được sử dụng trên hướng Cao Bằng } đã được bổ sung
1.200 lính, trong đó có 500 đã đến hạn giải ngũ bị giữ lại và 700 tân binh. Hầu hết các trung đoàn
đều được củng cố cấp tốc, đưa quân số lên trên 3.000 lính.
Trong quân đội mở đợt học chính trị cấp tốc. Binh lính học trong 3 ngày, sĩ quan học dài hơn với
nội dung chủ yếu như sau : " VN vong ân bội nghĩa ", " VN xâm lấn biên giới, giết hại dân thường
TQ ", " VN là Cuba phương Đông ", " là bá quyền khu vực ", TQ phải thực hiện một cuộc tấn công
" hạn chế về không gian và thời gian " , " đánh sập huyền thoại về tài bách chiến bách thắng của
VN " và " dạy cho VN một bài học ".
Sau hội nghị Quân Uỷ TW 09/02/1979 các đơn vị sẽ tham chiến được lệnh kéo về tập kết tại các
vùng gần biên giới VN. Người ta nhìn thấy nhiều đoàn xe lửa chở đầy binh sĩ, xe tăng, pháo binh
cùng nhiều đoàn xe tải, mỗi đoàn có hàng trăm ô-tô chạy ngang qua Nam Ninh và Côn Minh. Các
sân bay ở Vân Nam, Quảng Tây cũng chứa đầy máy bay. Thành phần lực lượng được huy động
gồm quân của 10 trong số 11 đại quân khu của TQ.
Tổng số quân TQ huy động vào cuộc chiến tranh này lên tới trên 600.000 quân { tên các đơn vị
cụ thể chiangshan đã post ở trên }. Vũ khí nặng gồm 3.000 khẩu pháo, 550 xe tăng-thiết giáp,
211 tàu chiến, hàng nghìn máy bay sẵn sàng ở phía sau { theo nguồn tin tình báo phương Tây
TQ đã điều động, chuẩn bị 1.700 máy bay các loại }.
Tướng Hứa Thế Hữu - tư lệnh đại quân khu Quảng Châu - { cánh hẩu của Đặng } được cử làm
tổng tư lệnh cuộc " Nam chinh " và trực tiếp chỉ huy hướng Cao Bằng - Lạng Sơn. Tướng Dương
Đắc Chí - tư lệnh đại quân khu Côn Minh chỉ huy hướng tấn công vào Lào Cai.
Đây là lực lượng quân TQ được huy động đông nhất trong lịch sử xâm lược VN của các triều đại
Trung Hoa trước đây { Thế kỷ XI : 300.000 quân Tống, thế kỷ XIII : 500.000 quân Nguyên, thế kỷ
XVIII : 200.000 quân Thanh }. Và lịch sử lại được lặp lại, quân TQ sau một tháng tiến hành cuộc
chiến tranh xâm lược VN lại cũng ôm đầu máu chạy về. Diễn biến chính của một tháng chiến
tranh đã xảy ra như sau :

To bác dongadoan, về bài của bác ở trang trước http://ttvnol.com/quansu/476742/trang-11.ttvn


Thật ra chiến thuật "biển người" không phải là lớp lớp người xông lên. Chính chiến thuật của
Đức trong WW2 mới là lớp lớp người, mỗi lớp một hàng ngang xông lên. Từ Nga trở về Đông,
chiến thuật của quân đội đều rất sâu. Chiến lược biển người của TQ là nhiều mũi quân sâu dầy,
làm địch phải rút lui liên tục tránh bị bao vây chia cắt. Trong các trận đánh cụ thể, chiến thuật là
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
các mũi tiến quân đông đặc và sâu thọc tốt bằng lực kéo dài vào trận địa phòng ngự. Đây là
chiến thuật dùng để tân công khi ta đã có một lực lượng trội. Bản chất của Giải Phóng Quân TQ
là tìm cách tránh đánh nhau, nuôi được lực lượng lớn quân đội và sĩ quan để dùng trong thời
gian ngắn.
Triều Tiên, thật sự TQ đã sai lầm khi áp dụng chiến lược-chiến thuật này. Thực tế lúc đó, Mac
Athur bất chấp lời khuyên không ngoan từ hậu phương, cho rằng TQ không than chiến và chỉ
nhìn thấy địch là quân Bắc Hàn. Do đó, ông đã đưa quân đội phát triển thành một đường hẹp và
kéo dài dọc bờ biển Tây. Ở bờ Đông, ông bỏ qua những chỗ khó, nên chưa bao giờ ông làm chủ
hoàn toàn bờ đông Bắc Hàn, chỉ là xen kẽ nhau. Với đường hẹp bên bờ Tây như vậy, TQ dễ
dàng tiến theo sống giữa bán đảo, phát triển ra bờ biển theo những thung lũng, chia cắt Mac
Athur. Kết quả là những bờ biển bị bao vây từ trong bờ phải tháo chạy theo đường biển về nam.
Không phải chiến lược, chiến thuật TQ thắng mà tương quan lực lượng TQ đông gấp 3 Mỹ trong
khi Mac Athur không tính đến TQ tham chiến, mới là lý do chính Mac Athur phải lui.
Đến khi Mỹ đã hoàn thành việc rút lui, thì máy bay và pháo hạm của họ đã cho "biển người TQ
biết thế nào là lễ độ". Một điều ngu ngốc nữa, là trong khi Mỹ tìm mọi cách rút kinh nghiệm, thì
TQ tìm mọi cách huyênh hoang về "chiến thắng". Mỹ vừa ra khỏi WW2, với một đống máy bay và
chiến hạm, xe tăng và súng máy, lại có thể sợ một đội quân rất kém trang bị cơ giới dùng thịt đè
người ????? May cho TQ, máy bay LX thắng lợi lớn trước không quân liên hiệp quốc, không thì
kết cục bi đát nữa với TQ.
Về chiến tranh chiều sâu, VN cũng tổ chức rất sâu, nhưng với địa hình thưa lực lượng, đặc biệt
cơ động, người VN đã tìm ra những phương pháp để đi bộ mà cơ động hơn cơ giới. Hồng Quân
WW2 dựa vào những binh đoàn thiết giáp có độ cơ động cũng khủng khiếp luôn, đè bẹp các
tuyến phòng thủ mạnh nhất hàng trăm km một ngày trên mũi tiến công. Chiến thuật Hồng Quân
thừ kế những mũi tiến công của kỵ binh Mông Cổ. Như vậy, dù ở đâu thời nào, chiến tranh chiều
sâu cũng dựa vào sự cơ động. Còn TQ, họ lại dựa vào biển lính đi bộ.

Trong khi em gõ, không nhìn thấy bác bốt bài trên. Em thêm tí.
Nhân Xuyên, thật nhục nhã cho TQ, đây có lẽ là ví dụ đau đớn cho sự huyênh hoang "chiến
thắng", khi bại trận thảm hại. Mac Athur là tác giả đổ bộ Nhân Xuyên lần đầu, cắt lượng lượng
mạnh nhất Bắc Hàn với hậu phương, cứu Nam Hàn tưởng như đã chết rồi. Một thời gian ngắn
sau, rất ngắn, TQ lại dính chưởng lần nữa. Đây không phải lần đầu người Tầu đại bại ở bãi biển
đặc biệt này. Thuỷ triều cao (10 mét), bán đảo có 3 mặt biển, thật nguy hiểm cho quân trên bờ
khi đối phó với hạm đội mạnh. Hạm đội đắt giá và mạnh hơn của Từ Hy cũng đã bị tầu chiến
Nhật nhấn chìm ở đây. Thói huyên hoang, tự huyễn hoặc những thất bại chua cay thành "chiến
thắng", có phải là nguyên nhân Tầu Khựa nối tiếp chết ở đây không. Từ thời cổ đại, các cuộc
chiến tranh ở Triều Tiên đều lấy thuỷ quân đánh bộ là lực lượng quan trọng nhất, thế mà Tầu tiến
quân khi hầu như không có hải quân và rất yếu không quân.

To huyphuc : ở bài ấy tớ cũng có viết thế này :

Người ta thường nhắc nhiều đến chiến thuật " biển người " của quân TQ. Nhưng đây không phải
là một nguyên tắc bất di bất dịch, quân TQ thường chia thành nhiều mũi tiến công, có hướng chủ
yếu, hướng thứ yếu. Khi cần hướng thứ yếu có thể biến thành chủ yếu và ngược lại.

Thực ra chiến thuật chủ yếu của TQ là : đầu nhọn đuôi dài. Tuy nhiên khi gặp đối thủ yếu hơn,
cần đánh nhanh thắng nhanh, TQ cũng vẫn áp dụng cái món " biển người " ấy. Trong cuộc chiến
tranh năm 1979 sai lầm của TQ là đã quá coi thường lực lượng địa phương quân cũng như " Dê
cu dê ka " của VN.

Trong chiến tranh Triều Tiên chiến thuật biển người của TQ qủa thật không thuần túy là đội hình
hàng ngang nhiều lớp . TQ thường tấn công ban đêm và đội hình di chuyển dần vào phòng tuyến
UN theo những cột dọc . Ở khỏang cách 1 Km chúng tu họp thành từng nhóm trong cột dọc . . Ở
khỏang cách 500m chúng chia thành tổ tam tam . Ở khỏang cách dưới 300m chúng mới dàn

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
hàng ngang và đồng loạt xung phong vào phòng tuyến mẽo . Ban ngày rất ít khi chúng tấn công
vì sợ hỏa lực mạnh và máy bay mẽo . chúng rất coi trọng tổ ba người hổ trợ cho nhau . lối đánh
này TQ dùng rất nhiều ở Triều tiên . trên mặt trận lớn chúng đồng loạt xô vào trận cả sư đoàn
đông đảo hành quân thành những khối đông và trải rất dài . hàng nghìn con người đồng loạt
xung trận thì quả là biển người rồi .
Tớ có cái Link họ phân tích khá tỉ mỉ chiến thuật biển người của TQ ở Triều tiên .
http://www-cgsc.army.mil/carl/download/csipubs/historic/hist_c2_pt1.pdf

Một tháng phiêu lưu chiến tranh của Trung Quốc xâm lược đã diễn ra như sau:
Trên hướng Lạng Sơn : chúng chia thành ba cánh quân, mỗi cánh từ 1 đến 2 sư đoàn:
-Cánh chủ yếu từ cửa Hữu Nghị thọc theo đường 1A đánh vào thị trấn Đồng Đăng, tiến chiếm
Tam Lương là coi như đã hoàn thành nhiệm vụ giai đoạn 1.
-Cánh thứ hai đánh qua bản Sâm vào Cao Lộc, hình thành mũi thọc ngang sườn.
-Cánh thứ ba đánh qua Chi Ma, chiếm Lộc Bình để ép phía đông và nam thị xã Lạng Sơn, hỗ trợ
cho cánh chủ yếu thực hiện nhiệm vụ giai đoạn 2 là đánh chiếm thị xã Lạng Sơn.
Cả ba cánh quân nói trên đều bị quân dân địa phương của ta chặn đánh, ghìm chân tại chỗ suốt
ba ngày liền. Ngày 20-2-1979, chúng phải tăng thêm quân để tăng hiệu lực đột phá. Lần này,
chúng mở đợt tiến công rộng ra các điểm cao trên dọc đường 1 để hỗ trợ cho đại quân tiến
xuống phía nam Đồng Đăng. Nhưng mỗi bước tiến của chúng đều bị quân dân ta đánh trả quyết
liệt: chúng bị đánh ở khắp nơi, cả phía trước lẫn sau lưng và hai bên sườn đội hình hành quân.
Vì vậy cuộc tiến quân của chúng buộc phải nhích lên từng bước rất chậm, có nơi còn bị đẩy lùi.
Nhìn chung, cuộc chiến đấu đã diễn ra ác liệt tại các điểm cao 417, 608, 800, 556 và 473. Hàng
nghìn tên giặc Trung Quốc xâm lược đã bị diệt trên quãng đường số 1A này. Riêng trong trận
đánh địch ngày 27-2-1979, các chiến sĩ ta đã loại khỏi trung đoàn 850 của địch ra khỏi vòng
chiến đấu. Đặc biệt, ở khu vực cầu Khánh Khê trên đường số 1B, các chiến sĩ ta đã chặn đứng
cả 1 sư đoàn và 1 tiểu đoàn xe tăng địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại nặng nề.
Riêng trên mặt trận Lạng Sơn, từ ngày 17-2-1979 đến 18-3-1979, gần 19.000 tên giặc Trung
Quốc đã bị tiêu diệt; 128 xe quân sự địch (trong đó có 76 xe tăng-xe bọc thép), 98 khẩu pháo,
súng cối và hỏa tiễn của địch bị bắn cháy và phá hủy. Quân dân địa phương Lạng Sơn đã thu
được hàng trăm súng và nhiều đồ dùng quân sự.

Trên hướng Cao Bằng : địch dùng 2 quân đoàn tăng cường, chia làm hai cánh lớn: một cánh từ
tây bắc theo hướng Thông Nông-Hà Quảng và một cánh từ phía đông nam qua Thủy Khẩu-
Quảng Hóa vòng lên cùng hợp điểm đánh chiếm tiến công Cao Bằng. Đồng thời, chúng còn cho
hai mũi phối hợp tiến công Thất Khê-Na Sầm.
Trong quá trình tiến công, cả hai cánh quân chính đều bị các lực lượng vũ trang địa phương Cao
Bằng chặn đánh quyết liệt.
Cánh tây bắc có xe tăng đột phá mở đường bị chặn đánh tại Hòa An. Mũi đánh vào Trà Lĩnh-
Trùng Khánh bị đánh ở ngay sát đường biên giới, riêng ở cột mốc 62 chúng bị tập kích mất gần
hết 1 tiểu đoàn ở đồi Chông Mu.
Cánh đông nam bị chặn ngay ở đèo Khâu Chia-Phục Hòa. Chỉ trong 5-6 ngày đầu, 1 sư đoàn đã
bị thiệt hại nặng mà vẫn không vượt qua được đèo.
Như vậy là toàn bộ các cánh, các mũi của địch đều bị chặn đánh, không những bị đánh trước
mặt mà còn luôn luôn bị đánh ngang sườn và sau lưng. Lực lượng vũ trang địa phương của
chúng ta tuy ít nhưng đã cùng dân quân, tự vệ giữ vững các chốt chặn địch ở Khau Đồn (tây thị
xã Cao Bằng), cầu Tài Hồ Xìn, các chốt đông Nguyên Bình cản phá nhiều đợt tiến công ác liệt
của địch cho đến ngày buộc địch phải tháo chạy.
Tổng cộng, trong 30 ngày chiến đấu, quân dân Cao Bằng đã diệt hơn 18.000 tên, bắn cháy và
phá hủy 134 xe tăng-xe bọc thép và 23 xe quân sự.

Trên hướng Hoàng Liên Sơn : địch cho nhiều sư đoàn tiến công từ tây bắc vòng qua đông bắc thị
xã Lao Cai. Chúng tổ chức thành nhiều mũi đánh vào Bát Xát, Mường Khương và thị xã Lao Cai.
Chúng bị chặn đánh ở khu vực Quang Kim, ngã ba bản Phiệt, khu phố Duyên Hải (trong thị xã
Lao Cai). Đến ngày 24-2-1979, chúng đã phải tung hết lực lượng dự bị vào chiến đấu, nâng tổng
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
số quân trên hướng Hoàng Liên Sơn lên tới trên 2 quân đoàn.
Tính đến ngày 18-3-1979, ngay trên dải đất Hoàng Liên Sơn đã có hơn 11.500 tên địch bị diệt,
255 xe quân sự địch (trong đó có 66 xe tăng-xe bọc thép) bị phá hủy.

Tại nhiều khu vực khác, quân Trung Quốc xâm lược cũng bị đánh tả tơi.
Ở Lai Châu, 1 quân đoàn địch đã tiến đánh dọc theo đường 10 vào Nậm Cúm-Phong Thổ.
Nhưng chỉ hai ngày đầu, chúng đã bị diệt trên 750 tên và 2 tiểu đoàn bị thiệt hại nặng. Ngày 10-
2-1979, ở Pò Tô (cạnh đường số 6), 17 đợt tiến công liên tiếp của địch đều bị bẻ gãy. Tới 3-3-
1979, cả trận địa pháo địch, gồm 4 giàn hỏa tiễn H12 ở Hội Luông đã bị ta phản pháo hủy diệt.
Ở Quảng Ninh, địch dùng 2 sư đoàn tiến công Thán Phún, Pò Hèn, Đồng Văn và pháo kích vào
thị xã Móng Cái. Nhưng tất cả đều bị đẩy lùi. Ở Pò Hèn, chỉ trong ngày đầu, chúng đã bị diệt 450
tên. Ở Thán Phún, chúng tiến công tám lần lên điểm cao 404 song lần nào cũng bị chặn đứng ở
chân điểm cao. Vì thế, đến ngày 19-2-1979, chúng đã phải co rút về bên kia biên giới.
Ở Hà Tuyên, khoảng 1 sư đoàn địch định đánh chiếm Đồng Văn-Mèo Vạc-Thanh Thủy, song bị
đánh trả mạnh nên không thực hiện được ý định, đành phải rút lui.

Trên toàn chiến trường biên giới, nơi nào quân TQ cũng bị đánh đau nên đến ngày 06/03/1979,
chúng buộc phải tính chuyện rút quân.
Không rút cũng không được, lúc này VN đã điều các sư đoàn thuộc 2 quân đoàn 2,3 ra phía Bắc.
Có những sư đoàn đi bằng máy bay bỏ hết trang bị cá nhân tại phía Nam, bay ra Bắc nhận lại
đầy đủ trang bị và lên thẳng biên giới. Các đơn vị thuộc quân đoàn 1 cũng đã áp sát tuyến đầu.
Nếu TQ không tuyên bố rút quân thì sẽ phải chịu " một bài học " còn nặng nề hơn nữa.

Đây là những lời tự thú của lính TQ :

Hoàng Tống Miên, thuộc trung đoàn 448, sư đoàn 150, quân đoàn 50 vào hỗ trợ cho đám quân
rút lui ở Cao Bằng, còn ghi trong cuốn sổ tay của y: “ Ngày 8-3-1979, đại đội tôi bị chết 6 (có đại
đội phó), bị thương 11; đại đội 6 chết 3, bị thương 9. Ngày 9-3-1979, đại đội 5 chống trả ba lần
phản kích của quân Việt Nam, bị thương vong 24 người; đại đội súng cối 82 bị thương 3 người;
đại đội 2 chết đại đội phó, bị thương 4. Sang ngày 10-3-1979, quân Việt Nam pháo kích đúng vào
sở chỉ huy. Đang mong rút thì sáng 11-3-1979, nhận được lệnh ngày mai rút. Mừng quá". Thế
nhưng, Hoàng Tống Miên đã mừng quá sớm! Vì đúng vào ngày 11-3-1979, cả trung đoàn của y
bị băm nát giữa lúc đang tiếp tục gây tội ác và bản thân y cũng bỏ xác trên trận địa.
Và đây nữa :
Lâm Phu Gia, đại đội trưởng, trong cánh quân TQ trên hướng Cao Bằng, bị ta bắt làm tù binh thú
nhận : " Tiến vào đất VN, chúng tôi đã rất thận trọng, nhưng trận đánh đã xảy ra ngay với chúng
tôi, một trận đánh ác liệt mà chúng tôi không lường trước được. Đại đội tôi có 113 người bị đánh
tan tác, tôi không sao tập hợp lại được". Một tù binh thuộc trung đoàn 448 khai : " Trung đoàn tôi
đến ngày 11 và 12/03/1979 mới bị đánh. Cán bộ đại đội, tiểu đội mỗi người chạy một ngả, vứt cả
súng đạn, chẳng ai chỉ huy ai. Bị thương vong nhiều cả ba tiểu đoàn chỉ còn là một mớ hỗn độn".
Trong cuốn nhật ký quân ta thu được trên xác Tạ Danh Cao, lính thông tin thuộc trung đoàn 495
trong quân đoàn tấn công vào Lạng Sơn, người ta đọc thấy những dòng sau : " Nhiệm vụ của
trung đoàn tôi là đánh luồn sâu để cắt đường rút của quân VN và bắt bằng được thật nhiều tù
binh. Tôi theo một tiểu đoàn bí mật thọc vào Nà Hồi thì gặp ngay hỏa lực ngầm của quân VN bắn
rất ác liệt vào toàn bộ đội hình, khiến một số bị thương vong ngay từ phút đầu. Tiểu đoàn ra lệnh
dùng B-40, ĐKZ tiêu diệt đối phương nhưng không được, đành để lại một trung đội kìm địch còn
tiểu đoàn thì vòng qua hướng khác. Đến điểm cao 348, chúng tôi lại gặp địch. Cả bốn đại đội đều
đánh mà không được. Đại đội 4, tiểu đoàn 2 vào đột phá cũng bị đẩy ra, còn một đại đội của
trung đoàn 3 mới đánh qua loa đã rút về phía sau... Ở điểm cao 339, chúng tôi vấp phải một đại
đội quân VN bố trí ở khu vực có nhiều hang đá nên rất khó đánh. Một chuyện đau đầu lạ lùng đã
xảy ra là đạn pháo của một đơn vị nào đó cứ rót vào đầu tiểu đoàn chúng tôi. Tiểu đoàn trưởng
Lý tức quá, yêu cầu báo cáo về trung đoàn song pháo vẫn cứ choảng vào trận địa chúng tôi.
Trong khi trung đoàn luôn luôn truy hỏi tại sao không chấp hành mệnh lệnh, thì pháo vẫn tiếp tục
nổ trên đầu, cả đơn vị tôi chẳng biết chui vào đâu, chết và bị thương đã tới một nửa. Binh lính
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
buồn bực, chỉ huy tức tối. Sau khi kiểm tra mới biết là chính pháo binh của ta bắn vào đầu quân
ta. Đến 18h, trung đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn tôi quay về...".

Số phận bi thảm của Hoàng Tống Miên, Tạ Danh Cao và Lâm Phu Gia phải chăng cũng là số
phận của đội quân Trung Quốc xâm lược:
-62.500 tên bị loại khỏi vòng chiến đấu (hơn 1/10 tổng số quân tham chiến), trung bình mỗi ngày
bị tiêu diệt hơn 2.000 tên.
-3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn bị tiêu diệt hoặc bị đánh thiệt hại nặng.
-550 xe quân sự (trong đó có 280 xe tăng-xe thiết giáp), 115 khẩu pháo và súng cối cỡ lớn bị phá
hủy.

Thử cái xem post bài được chưa, thấy báo Nga viết năm 1987 chúng ta bị rơi
một MIG 21 vì bay vươt qua biên giới, có ai biết vụ này không???

Bác tôi biết chuyện này..... Máy bay rơi trên lãnh thổ của ta. Nhưng phi công nhảy dù thì lại rơi
sang vùng Trung quốc chiếm giữ. Phi công bị bắt. Mãi sau này, đến năm 1993, khi hai nước bình
thường hoá, anh mới được trả về.

Những năm 89, 90 tôi vẫn nhớ Đài Tiếng nói Việt nam thường xuyên có bài kêu gọi phía Trung
quốc trao trả phi công Trần Tôn cho Việt nam vì anh bay lạc sang Trung quốc trong điều kiện thời
tiết xấu

Ngày đấy tôi cũng tin như thế.

Nói thêm về tên lửa Hồng Kỳ của Trung quốc:


Loại này bắt chiếc thiết kế Sam2, chúng viện trợ sang Việt nam những năm ta đánh Mỹ, nên ta
nắm khá rõ tính năng. Tên lửa chất lượng tồi, hay bị tai nạn khi phóng, hay bay không điều khiển
và rơi xuống đất, phá huỷ luôn cả cơ sở mà nó đáng lẽ phải bảo vệ an toàn khỏi không quân Mỹ.
Thế nên Quân chủng Không quân, một mặt vẫn cảm ơn sự giúp đỡ chí tình của các đồng chí

Trung quốc , một mặt điều tất cả các đơn vị có trang bị tên lửa Trung quốc lên vùng núi để
tránh tai nạn. Chuyện này do bác Năm, hiện làm bảo vệ ở trường Đại học Kinh tế quốc dân, từng
là Trung tá Tên lửa những năm chống Mỹ, kể với lớp bọn tôi hồi 1997, năm kỷ niệm 25 năm
Xmas bombing.

Bác ơi, thế này thì hoá ra bọn Trung quốc cũng không chết nhiều lắm đâu. Một ngày một đại đội
chết có 3 người thì không phải là nhiều lắm.

Bác cho em hỏi, thương vong có nghĩa là chết hay bao gồm cả chết và bị thương (bị loại khỏi
vòng chiến đấu)?

Ngày xưa thấy các cụ bảo ta bắn cháy nhiều máy bay địch lắm, em cứ hiểu là cháy tức là tiêu rồi,
hoá ra các cụ lại bảo là trong số đấy chỉ có một số ít là "rơi tại chỗ" là tiêu thôi. Có nghĩa là phần
nhiều bắn cháy nhưng không rơi, địch vẫn bay về nhà.

Ta thì cứ báo cáo số bắn cháy nghe cho nó oách. Phía mình bảo bắn cháy và rơi hơn 4000 máy
bay Mỹ. Mỹ bảo thực rơi có gần 1.500 chiếc. Chênh nhau đến hơn 2.000 chiếc thì quá nhiều.

Nhưng mà kể ra cũng có tác dụng tuyên truyền tốt. Không nói thể chẳng biết ai có đủ lòng tin để
chiến đấu đến ngày thắng lợi không?!

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Thế đơn vị của bác hy sinh bao nhiêu?

Đơn vị ông cậu em đánh ở Campuchia cứ 2 tháng phải bổ sung quân số một lần, thế nhưng đại
đội lúc thường chỉ có 30 tay súng vào mỗi thời điểm. Thương binh và chết nhiều lắm. Vậy thì
chẳng ở phía Bắc thì thế nào.

Em nghe nói thời đấy mình còn xài cả súng phun lửa của Liên Xô. Cứ gọi là. Như kiểu nướng
kiến ý. TQ mang 600k quân sang cơ mà, em nghĩ nó cũng phải thương vong nhiều lắm mới rút,
không thì nó còn tiến sâu nữa nếu như thương vong của bọn nó chỉ có khoảng 2000->3000 như
bọn nó nói. Con số này chắc phải nhân 20 lần lên (TQ với mình đều là những nước có truyền
thống nói giảm, nói tránh về sự thật)
Cái này muốn có số liệu chính thức chắc khó lắm.Chả thằng nào muốn lòi ra những thương vong
nghiêm trọng của mình đâu.

Nhìn những cái hố chôn tập thể của bọn khựa thì thấy rõ, nếu như thương vong ít vậy và với
nhân mạng bọn nó mang sang đông vậy sao không chôn cất tử tế cho lính của nó. ==> Bọn khựa
chết chắc chắn là cơ số. Đào hố chôn ko xuể nên mới phải chôn tập thể.....

Báo cáo bác ! " thương vong " có nghĩa là vừa " vong mạng " vừa " bị thương " bác ạ ! Vậy là bị
loại khỏi vòng chiến đấy.
Còn "Một ngày một đại đội chết có 3 người thì không phải là nhiều lắm." thì bác phải xem lại thời
điểm của những dòng ghi chép trên : ngày mà đại đội 6 chết 3 người ấy là ngày 8/03/1979, trước
đó 2 ngày tức 6/03/1979 TQ đã tuyên bố rút quân và quân đoàn 50 của Hoàng Tống Miên được
tung vào trận chỉ để yểm hộ cho tàn quân của các đơn vị khác rút lui mà thôi. Quân yểm hộ mà
còn " toi " như thế thì bọn đi trước húc đầu vào " ổ kiến lửa " còn " vong mạng " nhiều hơn nhiều
bác ơi !

Quân TQ bị thiệt hại nặng, nhưng VN cũng tổn thất đáng kể, đặc biệt là về cơ sở vật chất, tính
mạng dân thường :
Kể từ mờ sáng ngày 17/02/1979 khi quân TQ tràn sang VN đến lúc rút đi, bất cứ nơi nào quân "
Giải phóng TQ " đặt chân tới, nơi đó chỉ còn lại một cảnh hoang tàn, đổ nát. Quân TQ đốt phá tất
cả những gì nhìn thấy, không kể đó là kho tàng, nhà dân, trường học, cơ quan hay công trường.
Những gì có thể vơ vét được đều không được bỏ lại, từ máy móc, quặng mỏ, cho đến những đồ
dùng gia đình như hòm xiểng, chăn màn, quần áo.
Tại Phong Thổ { Lai Châu } quân TQ đã vét sạch một kho của cửa hàng bách hoá trị giá 50.000
đồng { Năm 1979 thì 50.000 đồng lớn lắm }. Không chỉ thế, quân TQ còn bắt trâu, bò, lợn gà,
thậm chí những nhà có cột, kèo, gỗ ván tốt đều bị dỡ ra chất lên ô-tô hoặc ngựa thồ chở về
nước.

Đi đôi với cướp bóc là tàn phá triệt để : Phố Lu { thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn } là một thị trấn có
5.000 dân, quân TQ chỉ đóng được ở đây có 3 ngày mà đã đốt trụi thị trấn này gồm 200 nóc nhà,
phá sập nhà ga, bưu điện, đốt kho lương thực. Trên đoạn đường sắt từ Phố Lu đến Phố Mới dài
hơn 30 km, thanh ray nào cũng bị phá đứt từng đoạn dài từ 25 đến 30 cm bằng những khối bộc
phá nhỏ. Cầu sắt Cam Đường - Phố Lu bị bộc phá đánh tung cả hai mấu cầu. Cách đánh phá
này rõ ràng là có nghiên cứu trước, cố tình gây khó khăn cho việc phục hồi sau này.
Ở thị trấn Sa Pa, một thị trấn nghỉ mát hoàn toàn không có bất cứ một công trình quân sự nào,
nhưng cũng bị huỷ diệt triệt để.
Quân TQ đặt mìn cho nổ tung tất cả từ các biệt thự, nhà an dưỡng, thậm chí cả đài tưởng niệm
liệt sĩ và trạm vật lý địa cầu vốn cung cấp thông tin khí tượng cho cả TQ.
Thị xã Cao Bằng xinh đẹp nằm trên bờ sông Hiến, sông Bằng bị tàn phá nặng nề nhất. Bệnh viện
đa khoa lớn nhất tỉnh chỉ còn là đống gạch vụn. Trường phổ thông cấp I-II do quỹ UNICEF xây
dựng chỉ còn trơ lại khung sắt cong queo. Thậm chí chúng còn thù ghét cả đến vật vô tri, vô giác
: đặt mìn đánh đỏ cột điện, dùng lê đâm thủng nồi nhôm, xoong chảo, lấy mã tấu rạch nát ghế

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
mây, đổ hàng thùng thìa nhôm của cửa hàng bách hoá ra đường rồi cho xe tăng nghiến nát.

Theo thống kê, chỉ trong 30 ngày quân TQ đã tàn phá ở 6 tỉnh biên giới như sau :
- Số thị xã bị huỷ diệt : 4/4
- Số xã bị phá huỷ : 320/320
- Diện tích nhà bị tàn phá ở các thị xã : 600.000 m2
- Số trường phổ thông các cấp bị phá : 735/904
- Số bệnh viện, bệnh xá bị phá huỷ : 428/430
- Số nông trường bị tàn phá và cướp bóc : 41/41
- Số lâm trường bị phá hoại : 38/42
- Số xí nghiệp, hầm mỏ bị phá và cướp đi : 81
- Số trâu bò, lợn bị giết và bị cướp : 400.000 con
- Diện tích hoa màu bị phá huỷ : 80.000 ha
Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân ở 6 tỉnh biên giới bị mất nhà cửa và tài sản, phương tiện
sinh sống.

Nhưng không chỉ có thế, quân TQ còn phá huỷ các di tích lịch sử, điển hình là di tích Pác Bó.
Kinh hoàng nhất là tàn sát và giết hại dân thường....

Chào Dongadoan, cậu ở 313 à. Tớ ở 314 đây. Sau bọn tớ là 33, sư đoàn 2 lần anh hùng đấy.
Hôm dẫn trinh sát họ đi, họ hỏi sao mình không lấy lại chỗ này, chỗ kia, tớ chỉ nói "mật" trên này
còn nhiều lắm, chờ các anh lên "húp", ngay sau hôm bàn giao, Tầu nó lên lấy mất 1 hầm, đặc
công phải lên lấy lại và phòng ngự, làm mất 1 đại trưởng đặc công. Đúng là mật để họ húp thật.
Ngay sau đó tớ ra quân và đơn vị san Yên Minh. Nghe đâu vẫn còn chịu vài trận pháo nữa trước
khi yên hẳn.

Chào bác ! em ở E212/ F313 nhưng em ở trên ấy hồi 88. Chẳng còn đánh nhau mấy nữa, chỉ
thỉnh thoảng cắc bụp vài phát ở Bốn hầm và Cô Ích, chỉ còn pháo thôi - pháo thì vô tư thưởng
thức. Lúc ấy chắc bác ra quân rồi.
Bây giờ nhiều lúc vẫn nhớ Làng Pinh, Nà Cáy ra phết, bác ạ !

TRẬN PHÒNG NGỰ Ở NÀ NÔI - BẢN THẤU (LẠNG SƠN)


của tiểu đoàn 5, trung đoàn 12, sư đoàn 3, quân đoàn 14, Quân khu 1.
Từ 17-2-1979 đến 22-2-1979.

Theo Kinh nghiệm chiến đấu ở biên giới phía bắc (đại đội - tiểu đoàn), NXB QĐND 1991.
Sách do Cục Huấn luyện chiến đấu, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam biên soạn.

ĐỊA HÌNH

Nơi tác chiến là vùng núi cách mốc 14-15 và biên giới Việt-Trung 2,5km về phía tây, cách thị trấn
Đồng Đăng 7km về phía tây bắc. Trong khu vực núi có độ cao trung bình 300-400m, phần lớn là
núi đất liên tiếp, một số núi đá ở phía đông và bắc.

Điểm cao 360 án ngữ trục đường từ biên giới ra đường 4A, khống chế trục đường đoạn tây và
nam Bản Thấu, trong tầm bắn hiệu quả của súng bộ binh (500-700m), thuận tiện cho ta dùng hoả
lực ngăn chặn địch.
Dãy 300 kéo dài từ Nà Nôi đến Nà Lanh án ngữ ngã tư đường 4A và đường vào xã Văn Thụ, có
thể khống chế 1-2km đường 4A chạy ngang trước mặt, bảo vệ được hai bên sườn và phía sau
điểm cao 360, có thể chặn địch đánh vào xã Văn Thụ để ra đường 1B và địch tiến công theo trục
đường 4A cả 2 phía từ Đồng Đăng lên Na Sầm và ngược lại.
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Các điểm cao 381, 340 Khéo Kha, bắc 308 có thể chặn địch vu hồi vào sườn tây bắc 360 và ngã
tư Nà Lanh và tiến từ Na Sầm về Đồng Đăng.

Đường 4A từ Đồng Đăng lên Văn Lãng trải nhựa xe cơ giới đi lại tót, đường từ mốc 15 qua Bản
Thấu ra đường 4A qua Nà Lanh và xã Văn Thụ ra đường 1B ở Lũng Uất là đường đất, xe cơ giới
cơ động khó khăn (nhất là từ Nà Lanh ra Lũng Uất). Cả 2 trục đường trên địch có thể dùng xe
tăng. Ngoài ra có nhiều đường mòn theo khe suối, khe núi, bộ binh tiện cơ động và bí mật. Sông
Hang Vai phía tây đường 4A nhêìu chỗ lội qua được, các suối khác nhỏ, ít nước cơ động không
ảnh hưởng.
Trong những ngày chiến đấu có gió mùa đông bắc kèm mưa, đường bị lầy lội, buổi sáng có
sương mù, quan sát hạn chế.

Tón lại, địa hình thuận lợi cho ta phòng ngự, có thể liên hoàn, đánh được địch tiến công trên
nhiều hướng và địch tiến công phải triển khai ở cánh đồng đánh lên điểm cao.

TÌNH HÌNH ĐỊCH

Đến 16-2, qua thông báo tiểu đoàn chỉ biết địch tập trung quân sát biên giới, làm đường, có thể
sẽ tấn công. Thông tin về lực lượng, công tác chuẩn bị của địch cấp trên chưa có thông báo mới
nên tiểu đoàn không nắm được.

TÌNH HÌNH TA

Tiểu đoàn 5 thuộc trung đoàn 12, sư đoàn 3 được chuyển vào hòng ngự ở Lạng Sơn từ tháng 7-
1978. Tiểu đoàn biên chế 3 đại đội bộ binh và 1 đại đội hoả lực. Quân số, trang bị tương đối đủ.
Cán bộ đại đội, tiểu đoàn đã qua chống Mĩ. Chiến sĩ nhập ngũ tháng 7-1978 chưa qua chiến đấu,
đã qua huấn luyện nhưng chất lượng còn thấp.
Tiểu đoàn đã làm hoàn chỉnh hệ thống công sự cho bộ binh và hoả lực. Mức độ vững chắc của
công sự không cao vì làm bằng gỗ đất, phổ biến chịu được đạn cối 82mm. Đã đào hào chống
tăng (khoảng 20m) hía đông bắc 360 và bố trí 2 bãi mìn phía tây mốc 14-15.
Ngoài cơ số đạn, lương thực thường xuyên, ở đại đội, tiểu đoàn có lượng dự trữ vật chất từ 7-15
ngày. Tiểu đoàn thường xuyên phái trinh sát, các toán tuần tiễu của 2 đại đội phía trước phối
hợp với dân quân và công an vũ trang bám nắm và sẵn sàng đánh địch.

Nhiệm vụ chiến đấu :


Tiểu đoàn được tăng cường 2 khẩu súng máy cao xạ 12,7mm phòng ngự trên hướng thứ yếu
của trung đoàn, từ 300 Bản Trang đến ngầm Kéo Kha, chiều sâu hết dãy 300 Nà Nôi (rộng
khoảng 4km, sâu khoảng 3km), ngăn chặn địch tiến công hướng mốc 14-15-Bản Thấu-Nà Lanh-
Văn Thụ, phối hợp với đơn vị bạn bảo vệ biên giới.
Đơn vị bạn trong khu vực có đồn công an vũ trang Bản Thấu và 1 trung đội dân quân.

Kế hoạch tác chiến :


- Hướng phòng ngự : hướng chủ yếu đông và đông bắc từ mốc 14-15 vào 360-Nà Lanh, hướng
thứ yếu tây bắc từ Văn Lãng-ngầm Kéo Kha-Nà Lanh.
- Đại đội 53 : tăng cường 2 khẩu 12,7mm và 1 khẩu ĐKZ hòng ngự trên hướng chủ yếu, bố trí ở
360-Nà Trang, trận địa cảnh giới ở nam ngã ba Bản Thấu.
- Đại đội 52 : phòng ngự trên hướng thứ yếu, bố trí ở 340, bắc 308, 381.
- Đại đội 51 : phòng ngự phía sau và là lực lượng cơ động của tiểu đoàn.
- Hoả lực tiểu đoàn gồm : trung đội cối 82mm (2 khẩu), trung đội 12,7mm (2 khẩu), 1 khẩu đội
ĐKZ do tiểu đoàn 5 chi viện chung, bố trí trận địa ở tây ngã tư Nà Lanh và 300 Nà Nôi.
- Vị trí chỉ huy tiểu đoàn ở tây nam Nà Lanh.
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Trong một tháng xâm lược VN, quân TQ đã gây ra những tội ác man rợ như cướp bóc, phá hoại
và tàn sát dân thường :
- Ngày 09/03/1979, 4 ngày sau khi TQ tuyên bố rút quân, tại hợp tác xã Hồng Ngọc, thuộc thôn
Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng, quân TQ đã dùng gậy tre, búa, dao
quắm, tiểu liên giết 43 người phần lớn là cụ già, phụ nữ và trẻ em. Phóng viên Ki-ta-ba-ra của
báo A-ca-ha-ta { Nhật Bản } sau khi đi thăm nơi này đã viết như sau :
Vùng này bị quân TQ chiếm đóng, nay đã trở thành đống gạch vụn. Tôi đã nhìn thấy nhiều hố
được đào rải rác khắp nơi. Trong những đống gạch vụn đó, người ta liên tiếp tìm thấy thi thể
những người bị quân TQ tàn sát. Nhìn xuống một cái giếng, nơi mà thi thể những người bị giết
hại đã bị ném xuống, tôi thấy nhiều xác trẻ em đầu cắm xuống bùn hoặc nằm ngửa tay chân
ngập trong nước. Tôi có thể đếm được 14 xác chết, chỉ nhìn thấy ở phía trên, chưa biết còn bao
nhiêu xác người bị lấp trong đó...
- Ông Đỗ Viết Phấn người xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, Lạng Sơn, thoát khỏi tay của quân TQ
kể lại :
Lần theo đường mòn, tôi chạy theo đồng bào sơ tán, đụng phải một tốp lính TQ tập kich, tôi bị
chúng bắt. Chúng trói chặt 2 tay tôi, chúng đóng đinh vào cây rồi băt tôi dựa vào đó. Lính TQ thi
nhau đánh tôi, sau đó tên phiên dịch nói :
- Mày hãy dẫn quân giải phóng TQ đến nơi bố trí của quân VN thì sẽ được sống !
Tôi không chịu, chúng dùng roi mây quất vào mặt hàng trăm lần làm tôi ngất đi, khi bị dẫn đến
Hin Phát gần Văn Lãng thì gặp bộ đội ta nổ súng, tôi chạy thoát. Tôi gặp lại 2 con và được biết
mẹ tôi đã bị quân TQ tròng dây vào cổ cho 2 tên kéo 2 đầu cho đến chết.

DIỄN BIẾN

Ngày 17-2-1979

04h30 : bộ phận tuần tiễu của đại đội 53 phát hiện bên kia mốc 15 có nhiều tiếng động và tiếng
người, anh em đang xác minh, chưa báo cáo thì khoảng 05h20, cùng với lúc phía Đồng Đăng có
nhiều tiếng súng, pháo cối địch bắn dồn dập sang ta từ hàng rào sát biên giới đến Nà Lầu, Bản
Thấu. Đồng thời địch dùng thuốc nổ phá hàng rào cho xe tăng, bộ binh vượt qua biên giới.
Vào thời điểm địch nổ súng, tiểu đoàn mất liên lạc với trung đoàn (đến 06h00 mới liên lạc được
nhưng trong ngày 17-2-1979 gần như chiến đấu độc lập vì sở chỉ huy trung đoàn cũng bị tấn
công).

05h30 : địch vượt biên giới ở mốc 14-15.


Tại mốc 15 khoảng 1 tiểu đoàn địch và xe tăng vừa vượt qua biên giới đã bị tổ tuần tiễu nổ súng
diệt một số tên, sau đó lui về Na Lầu. Địch triển khai thành 2 mũi, một mũi khoảng 1 đại đội cùng
xe tăng tiến vào Na Lầu để lên 460 (đông Bản Thấu), một mũi tiến theo đường để vào phía nam
Bản Thấu.
Tại mốc 14 khoảng 1 tiểu đoàn vượt biên giới, theo đường Nà Hán đánh vào phía bắc Bản Thấu.
Mũi này không gặp lực lượng ta ngăn chặn.
Địch tiến vào Nà Lầu bị tổ tuần tiễu và trinh sát tiểu đoàn gồm 6 đồng chí chặn đánh. Một số tên
bị diệt, phía sau địch triển khai đội hình, dùng hoả lực chế áp sau đó bộ binh xung phong. Tổ
tuần tiễu nổ súng ngăn chặn nhưng do địch đông và xung phong ào ạt nhiều mũi nên anh em
phải rút về Bản Thấu.
Trung đội ở trận địa cảnh giới lúc này đã chiếm lĩnh trận địa, kịp thời chặn được mũi tiến công
vào nam Bản Thấu. Toán tuần tiễu của ta bắn gần hết đạn đã phải lui về phía sau, một số chạy
sang cả trận địa đại đội 52 ở 381.
Trong lúc trận địa cảnh giới chiến đấu, đại đội 53 đã ra chiếm lĩnh trận địa, tiểu đoàn trưởng ở sở
chỉ huy nghe súng nổ nhiều, tuy không được báo cáo nhưng vẫn lệnh cho đại đội 51 phái 1 trung
đội và 1 khẩu ĐKZ ra tăng viện cho đại đội 53.
Đến 12h00 địch vẫn chưa vào được Bản Thấu.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
12h30 : hoả lực đi cùng của địch bắn chế áp vào đồn công an vũ trang Bản Thấu và trận địa
cảnh giới. Sau đó bộ binh xung phong. Lực lượng tăng viện, công an vũ trang, trung đội cảnh
giới và hoả lực đại đội 53, cối 82mm của tiểu đoàn đánh trả quyết liệt, bắn cháy 2 xe tăng, diệt
nhiều bộ binh, đẩy lui các đợt xung phong của địch.

14h00 : tiểu đoàn trưởng cho các đơn vị rút về trận địa cơ bản. Địch chiếm được Bản Thấu, đưa
thêm bộ binh, xe tăng và triển khai trận địa pháo ở đông Nà Lầu.

15h00 : hoả lực địch bắn mãnh liệt vào trận địa đại đội 53 ở 360 và đại đội 51 ở Nà Lanh. Sau đó
xe tăng địch theo đường dẫn bộ binh đánh vào 360 và 300 Nà Trang.
Trong lúc xe tăng địch tiến vào, cối 82mm của tiểu đoàn (đã cơ động lên tây nam 360) phối hợp
với các loại hoả lực của đại đội 53 ( kể cả 12,7mm) bắn tập trung mãnh liệt vào đội hình địch, bọ
binh của chúng phải dừng lại, 4 xe tăng đi trước vào đến chân điểm cao phía đông bắc gặp hào
chống tăng không tiến được. Ta dùng B41 và ĐKZ bắn cháy 1 xe tăng, 3 chiếc còn lại phải chạy
lùi, dùng pháo bắn vào trận địa ta.

16h00 - 22h00 : địch liên tiếp xung phong 2-3 lần đều bị ta đánh lui, hoả lực địch lại chế áp trận
địa đại đội 52, đòng thời bộ binh địch tiếp tục dồn lên bổ sung cho các phân đội phía trước bị tiêu
hao và bám được phía dưới chân mỏm bắc 360 đến đông bắc 300 Nà Trang, đào công sự.
Cối 82mm, 60mm của ta bắn chặn không cho địch vào thêm và mở rộng.

24h00 : sau một đợt hoả lực chế áp, một bộ phận địch khoảng 20-30 tên đột nhập được một
phần mỏm bắc 360. Súng cối của tiểu đoàn và hoả lực đại đội bắn chặn địch phát triển, các trung
đội giữ vững trận địa còn lại.
Sau khi nắm tình hình, tiểu đoàn trưởng quyết định dùng đại đội 51 và 53 phản kích khôi phục
trận địa.

Ngày 18-2-1979 :

Lực lượng phản kích cơ động của tiểu đoàn đã triển khai xong trước 05h30.

05h45 : hoả lực tiểu đoàn và đại đội 51, 52 bắn dồn dập vào đội hình địch trên mỏm bắc 360,
quanh chân điểm cao 300 Nà Trang và 360. Sau 10 phút, súng cối bắn ra ngã ba đến nam Bản
Thấu, chi viện bộ binh xung phong.
Đại đội 53 : 1 trung đội (chủ yếu) đánh từ phía tây bắc lên mỏm bắc 360, 1 trung đội theo đường
đông năm lên sườn đông bắc 360.
Đại đội 51 : 1 trung đội (chủ yếu) đánh theo sườn đông đến sườn bắc 300 Nà Trang, 1 trung đội
đánh theo sườn tây đến sườn bắc 300 Nà Trang, phối hợp với đại đội 53 diệt địch ở chân hai
điểm cao và hai bên trục đường.
Địch bị đánh bất ngờ, một số bị diệt, số còn lại từ mỏm bắc bỏ chạy xuống phía ngã ba. Một xe
tăng địch chạy lui bị tụt xuống mép đường, bọn lái xe mở cửa bỏ chạy (chiếc xe tăng vẫn đang
nổ máy, tiểu đoàn điện cấp trên xin người lái nhưng không có, sau phải phá). Pháo cối địch ở
Bản Thấu bắn vào trận địa ta cho bộ binh chúng rút chạy.
Sau 20 phút chiến đấu, ta khôi phục mỏm phía bắc, đánh bật địch ở chân các điểm cao.

Từ trưa 18-2-1979 đến 21-2-1979 :

Địch củng cố công sự ở Bản Thấu và một số điểm cao xung quanh, dùng pháo cối bắn vào trận
địa ta, phái trinh sát luồn vào Nà Lanh bị ta bắt sống 1 tên.
Tiểu đoàn 5 của ta trnah thủ củng cố trận địa, bổ sung đạn dược, giải quyết thương binh, tử sĩ.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com

Ngày 22-2-1979 :

05h30 : pháo cối địch ở Bản Thấu và Đồng Đăng bắn vào trận địa tiểu đoàn 5.

08h30 : địch tiến công từ 3 hướng :


- Khoảng 1 tiểu đoàn từ Bản Thấu đánh vào phía bắc và đông bắc 360, 300 Nà Trang.
- Khoảng 1 tiểu đoàn cùng xe tăng theo đường 4A từ Hang Chui đánh vào phía đông nam 300
Nà Noi và nam 300 Nà Trang.
- Khoảng 1 đại đội vu hồi theo đường hang Mới-Cốc Lĩnh đánh vào phía tây nam 300 Nà Noi
(phía sau đjai đội 51 và tiểu đoàn bộ).

Sau khi nắm tình hình, tiểu đoàn trưởng hạ quyết tâm diệt mũi vu hồi trước nên cho đại đội 51 và
53 tích cực ngăn chặn địch, đại đội 52 phái 1 trung đội cơ động xuống Nà Lanh đánh quân vu
hồi.
Đại đội 51 và 53 của ta đã đánh lui các đợt xung phong của địch trên 2 hướng Bản Thấu và Nà
Nôi, giữ vững trận địa. Cán bộ chiến sĩ cơ quan tiểu đoàn bộ cùng các phân đội trực thuộc chặn
đánh mũi vu hồi.
Cùng thời gian trên, 1 trung đội (10 đồng chí) của đại đội 52 do đại đội phó chỉ huy cơ động tới
tây bắc Nà Lanh, tiểu đoàn trưởng trực tiếp giao nhiệm vụ hiệp đồng sau đó chỉ huy hoả lực
12,7mm và cối chi viện trung đội của đại đội 52 xung phong. Địch bị đánh bất ngờ cả phía trước
và bên sườn, một số bị diệt, số còn lại bỏ chạy về Cốc Lĩnh ra đường 4A.

09h30 - 17h30 : sau khi không thực hiện được vu hồi, địch tập trung lực lượng mở nhiều đợt
xung phong lên 360 và 300 Nà Nôi-Nà Lanh. Đại đội 51 và 53 đã đánh lui các đợt xung phong
nhưng không đủ sức đánh bật địch khỏi chân các điểm cao.
Khảong 17h30 địch đột nhập được vào phía đông bắc 360 và 300 Nà Trang, đông 300 Nà Nôi-
Nà Lanh. Đại đội 51 và 12,7mm phải lui về phía trong ngăn chặn địch phát triển, súng cối 60mm
của 2 đại đội, cối 82mm của tiểu đoàn bắn chặn ngã ba Bản Thấu và đường 4A (đông 300 Nà
Lanh).

20h30 : đại đội 51 và 53 đã bị thương vong một số, đạn gần hết, sức chêín đấu giảm không đủ
sức giữ được lâu và phản kích. Cùng thời điểm, tiểu đoàn 4 và 6 ở Thâm Mô-339 (Đồng Đăng)
cũng bị địch đột nhập trận địa.
Trung đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn lui về tuyến phòng ngự mới ở tây bắc Lũng Uất cùng các đơn
vị khác giữ vùng núi đá Bình Trung.

22h00 : tiểu đoàn trưởng tổ chức và chỉ huy các đơn vị yểm hộ lẫn nhau lần lượt rời vị trí, đến
05h00 ngày 23-2-1979 đã về vị trí quy định an toàn.

KẾT QUẢ CHIẾN ĐẤU :

Trận ngày 17 và 18-2-1979, ta diệt 200 tên, bắn cháy 5 xe tăng, phá huỷ 1 xe tăng.
Trận ngày 22-2-1979 không thống kê được thương vong của địch.

CON ĐƯỜNG LỊCH SỬ HÀ NỘI – LẠNG SƠN

19-4-1979 – Thành phố Lạng Sơn vắng vẻ, bọn Trung Quốc rút đi đã phá hầu hết những tòa nhà
quan trọng. Chúng không chiếm được toàn bộ thành phố, và cũng chỉ vào được trong ba ngày,
ba ngày luôn luôn bị quân ta phản công, nhưng cũng đủ thì giờ để chúng biến Lạng Sơn thành
một nơi hoang tàn. Cảnh Lạng Sơn rất nên thơ với những hàng cây long não đã già, một khung

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
cảnh núi bao bọc, núi đá vôi dựng đứng với nhiều hang động, chen giữa những đồi đất đỏ thoải
mái; khắp nơi đồi nào cũng mang trên mình những vệt dài, như những mạchmáu, đó là những
chiến hào bà con đã đào từ mấy tháng nay.
Sông Kỳ Cùng nước trong xanh, hai bờ khá cao; chúng đã phá sập cầu ô tô và hỏa xa, đồng bào
phải gánh gồng lội qua sông, may mà chưa đến mùa mưa. Qua sông là phố Kỳ Lừa, và hai động
Tam Thanh Nhị Thanh; chúng cho bộc phá hang động, chỉ vì đây là những nơi mà nhân dân Việt
Nam thường nhắc nhỡ, còn về quân sự thì chẳng có ý nghĩa gì. Cũng như chúng đã phá tan di
tích Pác Bó. Nhớ lại chỉ thị của vua Minh cho Trương Phụ phải hủy sạch sách vở và các di tích
văn hóa để người Việt Nam quên hết cả nguồn gốc truyền thống dân tộc.
Qua bờ bắc sông Kỳ Cùng, đường xe lửa bị bóc, cầu cống sụp đổ, đường ô tô lâu lâu lại mang
những lỗ sâu hoắm do pháo gây ra. Hai bên đường một số thanh niên các bản làng đã trở về
chăm sóc đồng ruộng, người già và trẻ con còn phải ở lại dưới xuôi. Đồng Đăng: nhà ga và thị
trấn đầu tiên tiếp đón khách từ xa đến Việt Nam hay Việt kiều về nước bằng xe lửa. Nhà ga tan
tành, thị trấn hoàn toàn vắng người, từ đó đến biên giới là trận địa, là no man’s land.
Vào đồn công an vũ trang. Gọi là đồn, thực ra là nhà một đồng bào gia đình đã sơ tán. Chúng tôi
ngỏ ý muốn đến tận cửa quan Hữu Nghị quay phim. Nói đến mấy chữ Hữu Nghị quan chúng tôi
không khỏi trầm ngâm. Ngày xưa các hoàng đế Trung Quốc ngạo mạn gọi là Trấn Nam quan
(cửa đè phương Nam), từ hai nghìn năm đã bao lần các triều đại Trung Quốc cho quân qua đây
sang xâm lấn nước ta. Rồi cách mạng hai nước thành công, cửa ải đổi là Mục Nam quan (cửa
nhìn về phương Nam), rồi Hữu Nghị quan. Mới ngày nào đây đường ô tô xe lửa liên vận còn qua
lại như con thoi, nối liền Việt Nam và Trung Quốc, nối liền nước ta với các nước anh em.
Thế mà ngày nay ... anh em công an vũ trang bảo đoàn chúng tôi bỏ xe lần theo đường sắt đã bị
phá mà đi bộ tới biên giới. Một tiểu đội công an vũ trang đi trước vừa đi vừa dò mìn, vừa dò xem
bên kia có bắn sang không, sau đó mới cho đoàn quay phim bước tới. Chính tiểu đội nầy đêm
hôm trước đã dò khúc đường nầy rồi, các đồng chí về đồn chợp ngủ chốc lát lại được lệnh dẫn
chúng tôi đi. Phải dò thật kỹ, vì luôn luôn chúng cho bọn thám báo vượt biên đặt mìn tận đến
thành phố Lạng Sơn, hoặc bắn vào người đi qua; từ bên kia biên giới chúng cũng bắn sang. Bọn
thám báo là những người Hoa trước kia ở nước ta, quen thuộc đường sá, nói tiếng Việt rất sỏi,
chúng trà trộn vào bà con đi lại, hay đêm đêm luồn sang đặt mìn trên đường sá, vào các cơ
quan. Chỉ huy Trung Quốc sử dụng triệt để đội quân thứ năm nầy, xem nó là một vũ khí chiến
lược trong cuộc chiến tranh xâm lăng Việt Nam. Những người Hoa về nước được huấn luyện
thành những đội quân biệt kích, gọi là sơn cước, luồn qua đường núi đường rừng, đánh vào phía
sau các đồn biên phòng, đánh phá kho tàng cơ quan cầu cống, tung tin làm cho nhân dân hoang
mang; hướng dẫn cho quân Trung Quốc đánh vào những nơi hiểm yếu. Từ trước, trong các làng
xã, thị trấn, thành phố một bọn mật vụ người Hoa đã tổ chức một mạng lưới phá hoại, chuẩn bị
sẵn sàng đón “đại quân”. “Đại quân” tiến vào chúng đánh phá tiếp tay, rồi làm chỉ điểm hướng
dẫn quân xâm lược bắn giết đồng bào, đặc biệt giết cán bộ; người Hoa nào còn ở lại chúng buộc
làm chỉ điểm, không chịu chúng bắn tại chỗ.
Cách cửa quan vài trăm mét có thể thấy rõ lính Trung Quốc chĩa súng, và từ xa một vành rađa
quay không ngớt. Cảm giác đứng trước một bầy cú vọ trương mắt rình mồi. Nhớ lại năm 1967,
đến gần đây tôi ngỏ ý muốn qua cửa quan, các đồng chí địa phương bảo: đến đấy phiền lắm !
Họ sẽ mời vào, tặng anh một quyển sách đỏ, anh phải cảm ơn, chúng chụp ảnh anh cầm quyển
sách, rồi hôm sau đăng lên báo là cán bộ Việt Nam ca tụng Mao Chủ tịch và hoan nghênh đại
cách mạng văn hóa. Dĩ nhiên làkhông bao giờ ta tán thành cách mạng văn hóa, thực chất là một
cuộc tranh giành quyền bính trong nội bộ đảng Trung Quốc, dẫn đến giết hại nhau chết hàng
mấy triệu người. Không khí ở Hữu nghị quan đã lạnh nguội từ những năm ấy; sau đến Nixon qua
Bắc Kinh, tình hình càng căng, rồi từ 1975, chúng lâu lâu lại cho người xịch các mốc biên giới,
cho người cày lấn, sang ở lấn vào đất Việt Nam. Dân ta, lực lượng vũ trang của ta phải mời họ
trở về, lúc đầu còn đấu khẩu, sau đến đấu bằng tay chân, rồi gậy gộc, chúng cho côn đồ giết hại
cán bộ ta. Đâu có phải để thêm hai ba kilômét vào 10 triệu kilômét vuông của Trung Quốc ! Rồi
đến ngày 17-2.
Từ tặng quyển sách đỏ đến sẵn ssàng nhả đạn vào ai đến gần biên giới, thực chất chỉ là một
đường lối. Quyển sách đỏ không thành công, không tìm ra được một Pol Pot Việt Nam, chúng
phải cho “đại quân” vượt biên giới.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Quí mến anh em công an vũ trang quá ! Trên một tuyến biên giới 1.500 km, giữa rừng núi trập
trùng, leo đèo lội suối, thiếu nước uống, ăn củ rừng là chuyện thường, anh em phải ngày đêm
giữ sao cho chúng không xích được một mét biên giới, phải bảo vệ làng bản, phải đối đầu với
bọn thám báo, bọn sơn cước, và phải chịu những mũi tấn công đầu tiên của quân xâm lược.
Chúng rất căm ghét anh em, tìm hết cách tiêu diệt anh em. Đời đời nhớ ơn các anh !
Tôi về khách sạn nhân dân Lạng Sơn ngủ. Một nửa khách sạn bị đánh đổ, năm nửa còn lại, có
cảm tưởng không biết đổ lúc nào, trong lúc mình đang ngủ cũng nên. Đêm đêm nghe súng anh
em bảo vệ thành phố săn đuổi bọn thám báo. Sáng hôm sau từ giã Lạng Sơn; một phút ngừng
lại trước tấm biển nhỏ cắm ngay giữa đường phố, ghi tên anh phóng viên của Đảng Cộng sản
Nhật BảnTanako, bị bọn xâm lược bắn chết ngày 7-3, hoa chung quanh tấm biển vẫn tươi, đồng
bào hàng ngày không quên người đồng chí từ xa đến chiến đấu chung với chúng ta.
.....
Hà Nội, 22-4-1979
NGUYỄN KHẮC VIỆN

TRẬN PHÒNG NGỰ Ở ĐIỂM CAO 300 (HOÀNG LIÊN SƠN)


của đại đội 2, tiểu đoàn 1, trung đoàn 254 bộ đội địa phương Hoàng Liên Sơn.
Từ 18-2-1979 đến 18-2-1979.
(Nguồn : KNCĐ...).

ĐỊA HÌNH

Nơi chiến đấu là dãy điểm cao 300 cách biên giới Việt-Trung 1km về phía đông, cách thị xã Lào
Cai 7km về phía đông bắc.

Điểm cao 300 là nhánh núi đất về phía tây nam dãy 343, thấp dần về phía đông bắc tới bờ sông
Nam Chi Hồ, nơi có đường biên giới với Trung Quốc. Xung quanh 300 có nhiều mỏm liên quan
đến trận chiến gồm : phía bắc có 280A, 280B, tây bắc có 180A, 180B, 240, 254, tây nam có
280C. Trong số đó, mỏm 280C rộng hơn cả kéo dài và thấp dần về phía tây bắc.
Nhìn chung địa hình phía tây bắc xoải và rộng địch có thể vượt biên và triển khai lực lượng thuận
lợi. Tuy nhiên khi tấn công địch phải từ dưới thấp đánh lên, các mỏm gần nhau (khoảng 200m),
có yên ngựa nối liền, trong tầm bắn hiệu quả của súng bộ binh, cấu trúc trận địa phòng ngự có
thể chi viện lẫn nhau tốt. Mỏm 300 và ba mỏm 280 còn có thể khống chế phía tây, tây bắc là
hướng nhiều khả năng địch tấn công.
Xung quanh 300 là rừng cây to xen lẫn cây non, tầm nhìn hạn chế, sẵn vật liệu làm công sự.
Có một số đường mòn phía tây nam từ biên giới vào Na Quynh, Nậm Sưu.
Phía tây bắc có 2 suối nhỏ chảy về phía đường biên, tương đối kín đáo địch có thể lợi dụng bí
mật cơ động lực lượng tiếp cận trận địa ta. Phái tây nam 240, 254 là sông Nam Chi Hồ chảy từ
Trung Quốc sang Việt Nam nối với sông Hồng ở phía tây, độ dốc cao, địch ít khả năng vượt
sông.

TÌNH HÌNH ĐỊCH

Địch đối diện : cấp trên không thông báo nên đại đội không rõ lực lượng, phiên hiệu, chuẩn bị và
ý đồ của chúng.
Trước ngày 16-2-1979 : địch tiến hành bí mật gỡ mìn của ta ở tây bắc 254, một số lần tổ tuần tra
của ta phát hiện vài toán bộ binh địch vào trinh sát phía tây 254, ta nổ súng, địch chjay về bên kia
biên giới.

TÌNH HÌNH TA
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Đại đội 2 thuộc tiểu đoàn 1, trung đoàn 254 bộ đội địa phương Hoàng Liên Sơn cùng tiểu đoàn
phòng ngự ở khu vực Bản Quẩn-Bản Phiệt-300 từ tháng 11-1978. Quân số, trang bị của đại đội
tương đối đủ. Hầu hết chiến sĩ nhập ngũ tháng 4-1978.

Về huấn luyện : chiến sĩ chỉ học hết chương trình huấn luyện tân binh, học và tập theo phương
án phòng ngự của đại đội. Chất lượng huấn luyện chưa cao.
Trận địa : đã có đủ công sự và hầm ẩn nấp. Hào giao thông của trung đội phòng ngự hướng chủ
yếu ở sườn tây nam 280C đã nối liền các tổ và các tiểu đội sâu 1m, sườn phía đông mới sâu
0,4-0,6m. Các trung đội khác mới có một số đoạn hào nối các tổ.
Đại đội có 1 đài quan sát ở 280C, hàng ngày các trung đội phái 1 tổ tuần tiễu xung quanh phạm
vi phòng ngự. Đại đội liên lạc với tiểu đoàn bằng điện thoại, với các trung đội bằng liên lạc bộ.

Nhiệm vụ của đại đội 2 : được tăng cường 1 máy VTĐ và 1 điện thoại, được hoả lực tiểu đoàn
chi viện phòng ngự trên hướng thứ yếu của tiểu đoàn, ngăn chặn địch tấn công từ biên giới vào
hướng tây 300, sẵn sàng làm lực lượng cơ động cho tiểu đoàn.
Các đơn vị bạn : phía nam dọc theo đường 4D là hướng phòng ngự chủ yếu của tiểu đoàn, có
các đại đội 1, 3, 4 và chỉ huy tiểu đoàn. Phía bắc và đông bắc có tiểu đoàn 2 trung đoàn 254
phòng ngự ở Bản Lầu-312.

Kế hoạch của đại đội :


- Hướng phòng ngự : chủ yếu phía tây nam (từ Na Quynh lên), thứ yếu phía tây và tây bắc (từ
biên giới vào 280C, 254).
- Trung đội 2 tăng cường 1 khẩu B41, phòng ngự trên hướng chủ yếu ở 280C.
- Trung đội 3 phòng ngự trên hướng thứ yếu ở mỏm 180A tây bắc 280C và 240.
- Trung đội 1 thiếu 1 tiểu đội phòng ngư phía sau ở 300, 280B, sẵn sàng cơ động đánh địch ở tây
nam 280C.
- Tiểu đội 3 trung đội 1 là dự bị của đại đội, sẵn sàng đánh địch đột nhập và cơ động xử trí các
tình huống khác, bố trí ở sườn nam 280C.
- Hoả lực đại đội : 2 cối 60mm, 2 đại liên và 1 B41 bố trí ở sườn đông nam và tây nam 280C, chi
viện cho bộ binh.
- Vị trí chỉ huy đại đội ở 280C, trong đội hình trung đội 2.

DIỄN BIẾN
Đêm 16 rạng ngày 17-2-1979

Các tổ tuần tiễu phát hiện địch bí mật theo khe suối phía tây bắc vượt biên giới, một bộ phận đã
vào sương đông 254, một bộ phận vào phía đông bắc 280A.
Sau khi báo cáo tình hình, phán đoán hướng tiến công chủ yếu của địch, được tiểu đoàn trưởng
đồng ý, ngay trong đêm đại đội chuyển hướng phòng ngự chủ yếu sang phía đông bắc, điều
chỉnh đội hình và bổ sung nhiệm vụ :
- Trung đội 2 đưa tiểu đội 5 và 1 tổ của tiểu đội 6 sang sườn tây nam phòng ngự cùng tiểu đội 4
phòng ngự ở sườn đông bắc 280C, sẵn sàng đánh địch tấn công từ phía bắc và đông bắc tới.
- Trung đội 1 đưa thêm 2 tiểu đội để tiểu đội 1 đủ phòng ngự ở 280B, sẵn sàng đánh địch tấn
công từ 280A sang.
- Hoả lực đại đội : tiểu đội cối chuyển sang trận địa dự bị ở sườn tây nam 280C, tiểu đội đại liên
và B41 chuyển sang bố trí ở sườn đông bắc 280C chi viện cho bộ binh.

Ngày 17-2-1979

05h00 : trung đội 1 và 3 báo cáo phát hiện nhiều bộ binh địch ở 280A và 254. Sau khi báo cáo
tiểu đoàn, đại đội trưởng cho bắn 6 quả cối 60mm sang 280A nhưng không thấy địch phản ứng.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
05h10 - 05h30 : trời chưa sáng rõ địch đã nổ súng tấn công trận địa ta : 1 mũi khoảng 1 đại đội
từ 280A (hướng đông bắc) đánh vào mỏm 280B, 1 mũi khoảng 1 trung đội từ khe suối phía bắc
đánh lên 280C.
Sau khi nhận định tình hình, đại đội trưởng chỉ huy trung đội 1 và 2 nổ súng, lệnh cho đại liên,
súng cối 60mm bắn vào đội hình chủ yếu của địch ở 280A và khe suối phía bắc chi viện cho
trung đội 1 và 3.
Sau 20 phút chiến đấu, mũi tiến công phía bắc của địch bị trung đội 2 đánh lui. Mũi phía đông
bắc địch đông, xung phogn ào ạt, lực lượng ta ít, công sự sơ sài nên địch đột nhập được mỏm
280B và 300, tiểu đội 1 và 2 phải lui về sườn đông nam 280C ngăn chặn địch phát triển.
Địch cũng dừng lại. Đại đội trưởng điều chỉnh đội hình và điều 1 khẩu B41 ra cùng trung đội 1
chặn địch.

06h00 - 06h45 : pháo địch ở bên kia biên giới, cối 82mm, 60mm ở 280A bắn vào 280C. Sau đó
bộ binh xung phong (lần 2).
Một mũi khoảng 1 đại đội từ khe suối đánh lên sườn bẵc 280C. Một mũi khoảng 2 trung đội từ
300 đánh lên sườn đông bắc 280C.
Hướng tây bắc địch không xung phong, chỉ dùng hoả lực từ 254 bắn sang trận địa trung đội 3.
Cùng lúc này, đại đội mất liên lạc với tiểu đoàn. Đại đội trưởng chỉ huy trung đội 1 và 2 chiến
đấu, cho cối 60mm, 2 khẩu đại liên chi viện 2 trung đội.
Trung đội 1 và 2 đồng loạt nổ súng chặn đánh, cả hai phía địch không tiến lên được. Nắm thời
cơ, trung đội trưởng trung đội 1 chỉ huy hoả lực chi viện tiểu đội 2 xuất kích đánh vào sườn đội
hình địch ở đông bắc 280C.
Sau 30 phút chiến đấu, địch bị diệt một số, còn lại tháo chạy về 300 và 280. Phía sườn bắc 1 xạ
thủ đại liên của ta hy sinh, địch lên chiếm được một phần trận địa tiểu đội 4 (trung đội 2) và khẩu
đại liên 1.
Đại đội trưởng kịp thời chỉ huy trung đội 2 dùng hoả lực chặn địch phát triển, giữ vững trận địa
còn lại, cho cối 60mm bắn vào đội hình địch ở khe suối phía bắc, đại liên 2 (phái bên phải) bắn
chéo vào sườn bọn địch đang tiến vào giao thông hào của tiểu đội 4.
Trung đội trưởng trung đội 2 dùng tiểu đội 6 bố trí ở sườn tây nam vận động theo giao thông hào
phối hợp với 1 tổ của tiểu đội 5 phản kích.
Sau 15 phút chiến đấu, trung đội 2 chiếm lại trận địa. Địch bị diệt một số, phải bỏ xác lại, bọn còn
sống chạy xuống khe suối bị cối 60mm diệt thêm một số. Ta thu lại khẩu đại liên 1 và thu thêm 4
súng, 1 máy VTĐ 2W, một số mặt nạ phòng độc.

07h00 - 09h00 : địch không xung phong, dùng pháo bắn rải rác vào trận địa ta và tăng thêm quân
đi theo suối phía bắc sang 300, 280A, 280B.
Thời gian này đại đội trưởng tranh thủ cho đơn vị củng cố công sự. Đồng thời lệnh cho trung đội
3 cho tiểu đội 8 và 9 xuất kích phối hợp với một mũi của trung đội 2 đánh vào sườn đội hình địch
ở sườn bắc 280C. Ta chỉ diệt được một số tên, sau đó phải nhanh chóng lui về trận địa.

09h00 - 09h35 : sau một đợt pháo cối chế áp ngắn, bộ binh địch tấn công trên 3 hướng vào
280C (lần 3) : một mũi khoảng 1 trung đội từ 300 đánh vào sườn đông bắc, một mũi khoảng 1 đại
đội từ khe suối đánh lên sườn phía bắc, hai mũi lực lượng khoảng 1 đại đội từ 254 đánh vào tiểu
đội 8 (trung đội 3) và tiểu đội 6 (trung đội 2) ở sườn tây bắc.
Đại đội trưởng nắm được lực lượng địch tấn công trên các hướng, đã cho cối 60mm, đại liên bắn
vào mũi chủ yếu của địch ở sườn và khe suối phía bắc, tây bắc, chi viện cho trung đội 2 và 3.
Hướng trung đội 1 dùng hoả lực chặn địch đồng thời chi viện tiểu đội 2 xuất kích đánh vào sườn,
diệt một số tên, còn lại phải lui về 300.
Hướng trung đội 3 : cả 2 toán địch đánh vào tiểu đội 6 và 8 đều bị hoả lực ta chặn lại không tiến
được.
Hướng trung đội 2 : tiểu đội 4 và 5 đã tích cực ngăn chặn nhưng địch tiếp tục thay nhau xung
phong, đến 09h20 đột nhập được một phần trận địa tiểu đội 4 ở sườn phía bắc.
Đại đội trưởng cho đại liên và cối 60mm bắn chặn địch, dùng tiểu đội dự bị (4 đồng chí) phối hợp

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
với tiểu đội 5 và 6 phản kích (lần thứ 2). Đến 09h35 ta chiếm lại trận địa, địch tháo chạy bỏ lại
một số xác. Ta thu 6 súng.

10h00 - 16h00 : địch không tiến công, chỉ dùng pháo cối bắn vào trận địa ta. Đại đội tranh thủ
củng cố công sự, bổ sung đạn.
Sau 10 tiếng mất liên lạc, đến 16h00 tiểu đoàn thông báo bằng điện thoại các đại đọi 1, 3, 4 đã
lui về phòng ngự ở tuyến 2 lúc 13h00. Đại đội 2 tiếp tục phòng ngự đến khi có lệnh mới.

16h00 : pháo cối địch lại chế áp trận địa ta và bộ binh tấn công lần thứ 4 vào 280C.
Hướng đông bắc : một mũi khoảng 1 đại đội từ 300 đánh sang. Hướng tây nam, một mũi khoảng
2 trung đội luồn theo suối triển khai ở đông nam 240 đánh lên.
Đại đội trưởng cho cối 60mm, đại liên, M79 bắn vào đội hình chính của địch ở 300 chi viện trong
trung đội 1 và 2. Lệnh cho trung đội 1 dùng tiểu đội 2 và tiểu đội dự bị phối hợp xuất kích ra đánh
địch ở sườn đông bắc (300 sang), trung đội 3 cho tiểu đội 7 ở 240 xuất kích phối hợp với tiểu đội
6 (trung đội 2) đánh địch ở sườn tây nam. Trong thời gian này đại đội lại mất liên lạc với tiểu
đoàn.

16h30 : phía đông bắc, khoảng 10 tên địch đột nhập một đoạn hào của tiểu đội 1 trong lúc tiểu
đội 2 và tiểu đội dự bị chưa phản kích, nhưng được đại liên chi viện, trung đội trưởng đã chỉ huy
2 tiểu đội phản kích đánh bật địch.
Phía tây nam tiểu đội 6 và 7 diệt một số tên, còn lại bỏ chạy về khe suối phía tây nam.
Trên cả 2 hướng địch rút về các vị trí đã chiếm và ngừng tấn công.

Đêm 17 rạng ngày 18-2-1979 :

Đại đội trưởng rút trung đội 3 về phòng ngự ở sườn tây bắc 280C (như vậy cả đại đội phòng ngự
trên 1 mỏm) và chuẩn bị đánh địch hôm sau.

Ngày 18-2-1979 :

05h00 : địch dùng pháo cối bắn vào trận địa ta và triển khai tấn công lên 280C.
Mộ mũi khoảng 1 đại đội từ 254, 180B phía tây bắc đánh vào trung đội 3. Một mũi khoảng 1 trung
đội từ khe suối phía bắc đánh vào trung đội 2.
Lần này đại đội trưởng để địch đến cách trận địa 40-50m mới ra lệnh nổ súng, cối 60mm bắn vào
khe suối phía bắc, 2 đại liên chi viện bộ binh trên 2 hướng. Trung đội 3 cho tiểu đội 7 phối hợp tổ
của tiểu đội 9 xuất kích đánh vào sườn địch từ tây bắc vào.

05h20 : trên cả 2 hướng địch bị diệt một số, còn lại hải lui về các vị trí cũ. Cối 60mm, M79 của ta
bắn vào đội hình rút lui của địch. Địch dùng cối 82mm ở 280B bắn vào trận địa ta cho quân
chúng rút.

05h20 - 17h00 : địch không tấn công, chỉ dùng pháo cối bắn vào trận địa ta.
Lúc 17h00, sau đợt pháo bắn, bộ binh địch ở các hướng hò hét xung phong nhưng không tấn
công.

18h00 : đại đội nhận lệnh tổ chức lui về trận địa phòng ngự mới trong đội hình tiểu đoàn.

KẾT QUẢ CHIẾN ĐẤU

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Ta diệt khoảng hơn 100 tên địch, thu 10 súng AK và CKC, 1 máy VTĐ 2W, một số mặt nạ phòng
độc.
Bên ta hy sinh 8 đồng chí, bị thương 3 đồng chí.

TRẬN PHỤC KÍCH Ở NÀ CÁP (CAO BẰNG)


của đại đội 3, tiểu đoàn đặc công 45 của Bộ.
Ngày 10-3-1979.

(Nguồn : KNCĐ).

ĐỊA HÌNH

Nà Cáp là vùng núi nhưng độ cao thấp nằm bên trcụ đường số 3 ngoại vi thị xã Cao Bằng 2km
về hía tây bắc. Nơi phục kích ở độ cao 200m là đoạn đường đào nên có nhiều chỗ vách đường
tương đối cao, có thể bố trí hoả lực bắn xuống và khi chặn được đầu cuối đội hình thì địch khó
đối phó.
Xung quanh Nà Cá có một số nhà dân và một số cơ quan như trường Đảng, công ty cầu đường,
trạm máy kéo, lâm nghiệp... Nhà ở tập trung từ km3 đến km4, trồng nhiều cây ăn quả, kín đáo
địch khó quan sát, tiện cho bộ đội triển khai đội hình, giấu quân bí mật.
Đường số 3 từ thị xã chạy sát bờ nam sông Bằng Giang nối với đường 166 ở ngã ba Bản Lầy
lên Hoà An, Hà Quảng về phía tây bắc, từ ngã ba về phía tây nam là đường 3B qua Khâu Đồn về
Nguyên Bình, Bắc Kạn. Đoạn đường này ở giữa hai nơi địch chiếm giữ Khâu Đồn và thị xã nên
địch phải sử dụng để vận chuyển, cơ động... ta có điều kiện phục kích.
Sông Bằng Giang ở bắc đường 3, từ bờ sông đến đường trên đoạn Nà Duốc rộng khoảng 200m
đủ chiều sâu để ta bố trí đội hình.
Dân trong khu vực đã sơ tán. Ở Nà Tòng còn 25 dân quân và 2 cán bộ đoàn thanh niên ở lại
chiến đấu.

Tóm lại địa hình từ Nà Đuốc đến ngã ba Giang Cung (dài 2km, rộng 200m) có thể phục kích
thuận lợi, trong đó đoạn Nà Cầu đến ngã ba Gia Cung (1km) bất ngờ hơn cả vì gần đường và chỉ
cách thị xã 1,5km nên địch chủ quan song cần phải hết sức giữ bí mật khi chiễm lĩnh trận địa,
giấu quân và có biện pháp chặn địch tiếp viện.

TÌNH HÌNH ĐỊCH

Cuối tháng 2-1979, sau khi chiếm Khâu Đồn (cách thị xã 7km về phía tây) và thị xã, địch bị tiêu
hao lực lượng phải dừng lại củng cố, đồng thời đưa thê đội 2 vào để phát triển về phía đông và
đông bắc đánh chiếm Trùng Khánh, Quảng Hoà, Trà Lĩnh.
Hàng ngày địch dùng xe tải chở quân, để tiếp tế từ phía biên giới theo đường 166 vào Cao Bằng
và đồ vơ vét của ta chở về Trung Quốc. Xe đi theo đoàn từ 30-40 chiếc, có xe cảnh giới, tuần
tiễu đi trước, mỗi xe cách nhau 50-70m, tốc độ không lớn vì đường ngoằn ngoèo, không tổ chức
chốt đường, chưa bị đánh nên rất chủ quan.
Khi bị phục kích có khả năng địch từ thị xã ra tăng viện theo hai đường nam và bắc sông, từ
Khâu Đồn tới ít khả năng hơn. Ngoài ra còn dùng pháo cối bắn chặn khi ta lui quân.

TÌNH HÌNH TA

Tiểu đoàn đặc công 45 của Bộ biên chế, trang bị chưa đầy đủ đã chiến đấu một số trận từ tháng
2-1979, đạt hiệu suất cao. Tiểu đoàn đang chuẩn bị đánh địch ở thị xã Cao Bằng, Nguyên Bình
và trên trục đường 3B Cao Bằng-Nguyên Bình.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Ngày 8-3-1979 : tiểu đoàn được giao nhiệm vụ đến Bản Sắng cách Nà Cáp 8km về phía tây
nam, bắt liên lạc với dân quân, nắm tình hình tổ chức đánh địch.
Ngày 9-3-1979 : tiểu đoàn tiến hành cho bộ đội chuẩn bị ở vị trí tập kết còn cán bộ đi nghiên cứu
địa hình gồm tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng đại đội 1 và 3, 10 chiến sĩ, bảo vệ, thông tin.
12h00 : bộ binh đi trinh sát đến Nà Tòng, liên lạc với dân quân, nắm tình hình.
17h00 : lợi dụng trên đường không có địch, bộ phận trinh sát xuống đường nghiên cứu, xác định
kế hoạch chiến đấu đồng thời giao nhiệm vụ cho đại đội 3 (thiếu 1 trung đội) thực hiện trận đánh.
19h00 : bộ phận trinh sát về Nà Tòng, tiểu đoàn trưởng điện cho đơn vị hành quân từ Bản Sắng
lên Nà Tòng (6km).

Đại đội 3 thiếu 1 trung đội được giao nhiệm vụ phục kích cơ động trên đường số 3 từ km3 (tây
ngã ba Gia Cung) đến km4 (đông Nà Cá). Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, cơ động về Bản Sắng
nhận nhiệm vụ chiến đấu tiếp. Khi chiến đấu được hoả lực của 1 trung đội cối 82mm của tiểu
đoàn (bố trí ở điểm cao 313) bắn kiềm chế địch ở đồi Thiên Văn phía tây thị xã.
Trận địa phục kích : từ tây ngã ba Gia Cung đến trạm máy kéo, dài khoảng 1.000m đánh xe và
bộ binh địch cơ động trên đường 3 từ Khâu Đồn về Cao Bằng và ngược lại. Đoạn phục kích chủ
yếu từ đông công ty cầu đường đến tây nam trạm lâm nghiệp (700m). Chặn đầu wỏ ngã ba Gia
Cung, khoá đuôi ở đông trạm máy kéo.

Đội hình chiến đấu :


- Bộ phận chặn đầu : 1 tiểu đội do một trung đội phó chỉ huy bố trí ở bắc đường 3 (cách đường
10-15m).
- Bộ phận khoá đuôi : 1 tiểu đội do một trung đội phó chỉ huy bố trí ở bắc và nam đường 3.
- Bộ phận chủ yếu : 4 tiểu đội do đại đội trưởng trực tiếp chỉ huy bố trí ở bắc đường 3.
- Bộ phận đối diện : không tổ chức riêng mà do tổ bố trí phía nam đường của tiểu đội khoá đuôi
phụ trách.
- Chặn viện do 2 tiểu đội chặn đầu, khoá đuôi phụ trách.

DIỄN BIẾN (tham khảo thêm kí sự Luồn sâu đánh hiểm).

Ngày 10-3-1979

03h00 - 04h30 : đại đội 3 cơ động từ Nà Tòng vào triển khai chiếm lĩnh trận địa thuận lợi, giữ
được bí mật, an toàn. Sau khi vào vị trí, các bộ phận không đào công sự vì gần đường sợ lộ bí
mật, mà chỉ lợi dụng địa hình, địa vật làm vị trí bắn và ngụy trang kín đáo chờ địch.
Liên lạc giữa các bộ phận và với tiểu đoàn thông suốt (dùng VTĐ phát tín hiệu theo quy ước).

07h15 : 1 xe vận tải bịt kín mui từ Cao Bằng đi về hướng Khâu Đồn chạy qua trận địa không phát
hiện được ta bố trí.

08h30 : 8 xe vận tải từ phía Khâu Đồn chạy về Cao Bằng, trong đó có 3 xe chở mỗi xe 1 khẩu
14,5mm và 10 tên lính.
Ta không nổ súng vì lúc đó trời rất nhiều sương mù và VTĐ phát nhầm mật hiệu. Số xe trên chạy
thoát. Ta vẫn giữ được bí mật.

08h50 : nhiều tiếng động cơ từ phía Khâu Đồn tới, ít phút sau có 1 xe tải chở 14 tên lính chạy
vào, dừng lại kho của ta bên phía nam đường khuân đồ đạc. Sau đó 16 xe vận tải nữa tiến vào
trận địa. Mỗi xe cách nhau khoảng 60m, trong số đó có 10 xe chở đầy lính (khoảng hơn 200 tên),
2 xe chở 2 dàn H12, 1 xe thông tin và 3 xe chở đạn (tổng cộng 17 xe).
Sau khi báo cáo tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng lệnh cho các bộ phận giữ bí mật, sẵn sàng nổ
súng.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
08h55 : toàn bộ đoàn xe địch lọt vào trận địa, xe đầu đã tới gần ngã ba Gia Cung, đại đội trưởng
phát lệnh tấn công.
Các bộ phận đồng loạt nổ súng áp đảo quân địch. Ngay từ loạt đạn đầu, B40, B41 của ta bắn
cháy một số xe trong đó có xe đi đầu, đi cuối. Đoàn xe ùn lại, số bộ binh sống sót nhảy từ trên xe
xuống lúng túng tìm chỗ ẩn nấp, đội hình rối loạn không đối phó được.
Nắm thời cơ, đại đội trưởng ra lệnh dùng lựu đạn, thủ pháo và các loại hoả lực khác từ trên cao
bắn xuống lòng đường, nhiều xe bốc cháy, nhiều tên địch bị chết, bị thương.
Cùng thời gian trên, trung đội cối 82mm bố trí ở 313 bắn 150 phát kiềm chế quân địch ở đồi
Thiên Văn, diệt nhiều tên.

09h25 : ta xung phong xuống đường, phá huỷ nốt những xe còn lại và tiêu diệt những tên còn
chống cự. Sau 30 phút trận đánh kết thúc.

09h40 : đại đội 3 nhanh chóng rời khỏi trận địa về Nà Tòng, sau đó về Nà Sắng an toàn.

KẾT QUẢ CHIẾN ĐẤU

Ta diệt 300 tên địch (tính cả kết quả cối bắn vào đồi Thiên Văn), phá hủy 17 xe vận tải, 2 dàn
H12 cùng nhiều thiết bị thông tin, vũ khí bộ binh, đạn dược..., thu 1 khẩu AK.
Bên ta bị thương 2 đồng chí.
Tiêu thụ đạn dược : 17 viên đạn B40, B41; 320 quả lựu đạn và thủ pháo; 150 quả đạn cối 82mm;
1.500 viên đạn K56.

Ơi những cánh thiên thần...


Rạch bầu trời chớp lửa...

TRẬN PHỤC KÍCH Ở BẢN SẨY (CAO BẰNG)


của đại đội 10, tiểu đoàn 9, trung đoàn 81, sư đoàn 346 Quân khu 1.
Ngày 18-2-1979.

(Nguồn : KNCĐ).

ĐỊA HÌNH

Bản Sẩy thuộc xã Bế Triều huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng ở về phía đông bắc đường 166 (thị xã
Cao Bằng đi Hà Quảng), cách thị xã Cao Bằng 12km về phía tây bắc, cách biên giới Việt-Trung
và mốc 113 khoảng 30km về phía đông nam.

Bản Sẩy ở độ cao khoảng 240m, dài khoảng 600m, rộng khoảng 300m, có hai xóm : xóm 1 ở
giáp đường, xóm 2 cách xóm 1 khoảng 50-100m về phía bắc. Xung quanh các xóm có lũy tre
tương đối dày và kín đáo tiện giấu quân, giữ được bí mật, bất ngờ. B40, B41 và các loại hoả khí
khác có thể bắn xuống mặt đường, bộ binh xung phong ra đường hơi khó (vướng tre). Trong bản
nhà ở thưa, làm bằng gỗ và xây gạch, có vườn, cách nhau 50-70m, khi cần có thể chiến đấu
trong làng được. Phái bắc, tây và tây nam là cánh đồng lúa nước, bùn không sâu xe tăng vẫn đi
được, hpía đông và đông bắc là các đồi trồng dứa, dong... xa khoảng 1km là núi cao, rừng rậm
khi cần cơ động được kín đáo.

Đường 166 từ mốc 113 qua Hà Quảng, ngã ba Đôn, huyện lị Hoà An theo đường 3 về thị xã Cao
Bằng. Đường rộng 4-5m, trải đá dăm xe cơ giới đi lại thuận tiện, có một số đường mòn qua lại
giữa các bản.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Phía tây Bản Sẩy có sông Bằng Giang rộng 30-40m chảy theo hướng tây bắc-đông nam, đoạn
ngang Bản Sẩy cách đường 1km, bờ cao 2-3m, nước cạn qua lại dễ dàng. Hai suối phía tây bắc
và đông nam cách nhau 2km, rộng 6-7m, đoạn địa hình này có thể chứa 20-30 xe khi di chuyển,
nếu 2 cầu bị phá xe khó ra khỏi trận địa phục kích.

Dân cư chủ yếu là người Tày-Nùng, chỉ có dân quân ở lại còn đã sơ tán hết. Dân tốt, nhiệt tình
giúp đỡ bộ đội.

Tóm lại, đoạn đường Bản Sẩy-Mạ Quan có thể tổ chức phục kích đánh xe, khi cần thiết dựa vào
địa hình làng mạc chuyển vào phòng ngự ngăn chặn địch, tạo thời cơ cho lực lượng ở thị xã
chuẩn bị chiến đấu.

TÌNH HÌNH ĐỊCH

Sau khi chiếm Thông Nông (tây bắc thị xã 30km), Thạch An (đông nam thị xã 35km), để phối hợp
với các hướng Trà Lĩnh, Trùng Khánh, ngày 18-2-1979, 1 sư đoàn tăng cường địch có 1 phân
đội xe tăng phái đi trước từ Thông Nông tiến theo đường 166 về thị xã Cao Bằng. Ta không nắm
được ý định, lịch trình cụ thể.

TÌNH HÌNH TA

Đại đội 10 của tiểu đoàn 9, trung đoàn 81, sư đoàn 346 Quân khu 1 chuyển vào phòng ngự cuối
năm 1978. Đơn vị đã qua huấn luyện một số môn trong đó có chiến thuật phòng ngự.
Cán bộ đại đội và một số cán bộ trung đội đã qua chiến đấu. Chiến sĩ nhập ngũ năm 1977, 1978
chưa qua chiến đấu.
Tổ chức biên chế của đại đội tương đối đủ. Quân số tham gia chiến đấu có 100 đồng chí, ngoài
ra có đồng chí phó chính ủy trung đoàn, phó chính trị viên tiểu đoàn đi cùng.
Trang bị vũ khí có 1 khẩu ĐKZ 82mm, 1 khẩu cối 82mm, 2 khẩu cối 60mm, 12 khẩu B41, 1 khẩu
đại liên, 7 khẩu trung liên, 60 AK và 1 máy VTĐ.

Nhiệm vụ chiến đấu :


Ngày 17-2-1979, đại đội 10 đang phòng ngự ở đèo Mã Phục cách thị xã 11km về phía đông bắc.
22h00 cùng ngày được lệnh cơ động về xã Đức Long cách thị xã 20km về phía tây bắc ngăn
chặn địch từ Thông Nông tiến theo đường 166 về thị xã.
Sau khi nhận lệnh, đại đội tiến hành chuẩn bị và hành quân bằng 4 xe vận tải lúc 04h00 ngày 18-
2.
05h30 ngày 18-2-1979, xe đến Bản Vạn cách vị trí quy định 10km dừng lại nghỉ. cán bộ tranh thủ
hội ý xác định nơi sẽ chặn địch.
Trong lúc đang hội ý thì nghe tiếng súng phía tây bắc và thấy bộ binh địch xuất hiện cách khoảng
600-700m, sau khi trao đổi, đồng chí phó chính uỷ cho đơn vị quay lại chọn địa hình có lợi đánh
địch.
Xe về đến Bản Sẩy thấy địa hình có lợi, đồng chí phó chính ủy cho đại đội triển khai lực lượng.

Ý định chiến đấu :


- Trận địa phục kích : đoạn đường dọc theo xóm 1 dài 500-600m, chặn đầu ở đông nam xóm 1
(sát sông Bằng Giang), khoá đuôi ở cầu phía đông trạm xá. Đoạn chủ yếu giữa xóm 1 (200-
300m). Phục kích gần đường cách khoảng 15-20m.
- Bộ phận chặn đầu và bộ phận chủ yếu gồm trung đội 4 và 5 (trung đội 5 bố trí ở một nửa xóm 1
về phía thị xã, trung đội 4 ở nửa xóm còn lại).
- Bộ phận khoá đuôi, chặn địch đánh vào làng và cơ động : trung đội 6 bố trí ở phía tây bắc xóm
1 và 2.
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
- Hoả lực ĐKZ, cối, đại liên do đại đội nắm chi viện chung, bố trí phía sau giữa trung đội 4 và 6.
Đại đội trưởng đi cùng trung đội 4, phó chính trị viên đại đội đi cùng trung đội 5, đại đội phó đi
cùng trung đội 6.

DIỄN BIẾN (tham khảo thêm kí sự Trận đầu tiêu diệt xe tăng địch).

Ngày 18-2-1979

07h10 : đại đội vừa vào hết trong bản chưa triển khai xong thì có 4 xe tăng địch, mỗi xe chở
khoảng 10 tên lính đi cách nhau 50m chạy qua Bản Sẩy về phía Cao Bằng. Địch không phát hiện
ta bố trí ở đây mặc dù lúc đó cạnh đường còn 2 xe vận tải của ta chưa giấu kịp.

07h20 : đại đội triển khai xong đội hình. Cùng lúc đó có 3 xe tăng (cách tốp đi đầu 500-600m)
chở bộ binh tiến vào trận địa. Xe địch đến giữa trận địa, khoảng đầu đội hình trung đội 5, đại đội
trưởng ra lệnh nổ súng. B41 của 2 trung đội diệt ngay 3 xe tăng này, bộ binh trên xe bị trung liên,
AK tiêu diệt.
Các xe chạy sau tốp thứ hai dừng lại bên kia cầu, triển khai quanh trạm xá ở bên tây đường
dùng pháo trên xe và hoả lực bộ binh (ngồi trên xe) bắn mạnh vào luỹ tre và trong bản, sau đó
cho xe vừa chạy vừa bắn (mỗi xe cách nhau 50-60m) định vượt qua Bản Sẩy để tiến vào thị xã.
Trung đội 4 và 5 lợi dụng mô đất, khóm tre ẩn nấp để địch vượt qua cầu vào sâu trong trận địa
(gần hết phạm vi trung đội 4) mới nổ súng diệt tiếp 5 xe tăng này và số bộ binh trên xe. Trong
khoảng thời gian này không thấy 4 xe đi đầu quay lại.
Sau đợt chiến đấu, đại đội trưởng cho củng cố đội hình, giả quyết thương binh tử sĩ, bổ sung
đạn, sửa sang công sự.

14h00 : 4 xe tăng đi đầu lúc trước quay lại tiến vào trận địa.
Đại đội trưởng ra lệnh để xe lọt vào giữa trận địa trung đội 5 mới được nổ súng.
4 xe địch vừa đi vừa thăm dò thận trọng, đến 14h30 lọt vào trận địa trung đội 5. Đồng chí phó
chính trị viên đại đội ra lệnh nổ súng. B41của ta bắn trúng, cả 4 xe bốc cháy (1 xe do đồng chí
phó chính trị viên bắn). Số bộ binh trên xe nhảy xuống chống cự sau ít phút thì bị tiêu diệt.

15h00 : trận đánh kết thúc.

KẾT QUẢ CHIẾN ĐẤU

Ta diệt 150 tên địch, bắn cháy 12 xe tăng, thu 1 đại liên, 3 AK cùng một số đạn, khí tài khác.
Bên ta hy sinh 4 đồng chí, bị thương 12 đồng chí.

Bộ phận địch bị tiêu diệt trong trận chiến đấu này là đại đội 6 thuộc trung đoàn xe tăng của quân
đoàn 42, cùng một số bộ binh, công binh hộ tống. Phía TQ cũng đã phải thừa nhận trận phục
kích đã gây thiệt hại nặng nề cho chúng (theo www.china-defense.com).

Chắc là kết quả thương vong hai bên đúng vì ta có điều kiện đếm xác địch.

chiangshan à, tớ có suy nghĩ hay là ta chỉ ghi tên địa danh viết tắt, hoặc A1, A2, ...Bởi vì nếu

mình ghi chi tiết quá, thám báo của Tàu trong ttvnol này nó copy được thì bỏ xừ . Nó cứ tập
hợp dần từng trận này là nghiên cứu ra được cách đánh cơ bản và sở trường của ta thì phiền.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Nó nắm được rồi thì sẽ muốn sang lần nữa lắm đấy.

Tết vừa rồi có bài báo nói về lãnh đạo nhà nước đi chúc Tết người Hoa cho biết có đến hơn 1
triệu người Hoa ở Việt nam mình đấy. Trong số này có rất nhiều người có quan hệ huyết thống
với người Hoa ở nước khác, như ở Nam Trung quốc, Sinh, Malay, Thai, Anh, Mỹ. Số này chẳng
tin được đâu.

Chỗ tớ có mấy Việt nam sang học tự túc, hỏi ra hoá ra cũng là người tàu. Lúc đầu có biết đâu,
mình bảo họ vào ttvnol. Đến khi thấy chúng nó phàn nàn diễn đàn quá anti-china thì mình mới
biết. Chúng nó chửi CP mình đuổi ông bà nó về TQ 30 năm về trước.

Xin hỏi mấy bác cựu binh, phaphai và dongadoan, tại sao diệt nhiều địch như vậy mà lại chỉ thu
có 3 AK ?

Thấy nhiều người ở quê lên biên giới chiến đấu ngày trước kể ngày đó lắm lúc tàu cũng ba thằng
mới 1 thằng có súng. Ra trận thằng sau nhặt súng của thằng trước bị thương vong mà đánh tiếp.
Hai bác từng giữ chốt, không biết có thấy thực sự như vậy không?

Cám ơn bác đã nhắc nhở, quả là em sơ suất thật, quên không nghĩ đến điều này.
Thực ra, cũng vì em thấy tài liệu này giống như để tham khảo thôi, không phải để huấn luyện
trực tiếp. Tìm đọc nó trong thư viện (dân sự) không khó khăn gì. Vả lại, phần tổng kết rút kinh
nghiệm trận đánh... em đã bỏ đi không post lên rồi.
Có mấy sơ đồ chiến sự, trong đấy có 1 cái về khu vực đỉnh 1509, em định post nhưng để cho
chắc sẽ thôi vậy.

Bác spirou, RW nếu thấy có gì không ổn xin cứ tùy ý chỉnh sửa.

Vụ "nạn kiều" năm 78, không biết cụ thể nhưng em tin chắc có bàn tay của CP TQ. Hồi đấy ở
gần nhà bà em (ở HN), Hoa kiều chiếm khách sạn, dùng cọc màn đánh bị thương mấy anh dân
phòng và công an khu vực.

Quân TQ cũng có truyền thống giống quân ta là : không để mất vũ khí, khí tài trong chiến đấu.
Còn cụ thể trong trận đánh mà chiangshan kể thì đây chỉ tính số súng còn sử dụng được, chưa
kể số bị hỏng, bị phá huỷ { từng ấy quả B-40/41 và lựu đạn mà tương vào thì còn gì nữa }.
Hồi 79 thế nào thì không biết, chứ hồi 88-89 tớ ở trên ấy lính Tàu trang bị khá lắm, gì chứ hậu
cần thì ăn đứt ta rồi.
Cái này bác phaphai thêm vào nhé !

TRẬN PHÒNG NGỰ Ở NHẠC SƠN


của tiểu đoàn 3, trung đoàn 192 bộ đội địa phương Hoàng Liên Sơn.
Từ 17-2 đến 18-2-1979.
(Nguồn : KNCĐ).

ĐỊA HÌNH

Nơi chiến đấu là vùng núi phía tây thị xã Lào Cai, giáp phía nam biên giới Việt-Trung, cách từ
0,2-3km. Núi có độ cao 200mgồm nhiều mỏm, khoảng cách các mỏm trong tầm bắn của súng bộ
binh.
Phía bắc và đông bắc có các mỏm 140A, 140B, 160, phía tây bắc có dãy 167, 240, phía trong có
các dãy 225, 200, 212, 269 có nhiều mỏm. Địa hình ở đây thuận lợi cho ta tổ chức phòng ngự,
địch khó tấn công hay vượt sông. Có vài điểm thuận lợi cho địch triển khai.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Sông Hồng rộng 150-200m, sâu 2m là chướng ngại vật thiên nhiên cho ta, địch chỉ có thể vượt
sông ở vài đoạn, ta có điều kiện dùng hoả lực tiêu diệt.
Đường 4D, địch có thể dùng xe tăng thọc sâu chia cắt quân ta.

TÌNH HÌNH ĐỊCH

Địch đối diện là quân đoàn 13 và sư đoàn Sơn cước (?).


Trước ngày 17-2-1979, địch nhiều lần cho thám báo vượt sông sang trinh sát khu vực thị xã và
các dãy Nhạc Sơn, tổ chức bắn tỉa, đào công sự trên các điểm cao phía bắc thị trấn Hồ Khẩu. Bố
trí cụ thể ta không nắm được.
Tình hình chuẩn bị tiến công của địch cấp trên chưa có thông báo nên tiểu đoàn chưa nắm được.

TÌNH HÌNH TA

Tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 192 bộ đội địa phương Hoàng Liên Sơn, mới thành lập ngày 27-7-
1978.
Quân số, biên chế 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội hoả lực.
Cán bộ trung đội trở lên và một số tiểu đội trưởng đã qua chiến đấu, trình độ và tư tưởng còn
hạn chế. Chiến sĩ nhập ngũ tháng 8-1978 chưa qua chiến đấu, trình độ chưa đáp ứng yêu cầu.
Vũ khí trang bị tương đối đầy đủ, cối 82mm, súng 12,7mm. Đạn dự trữ 2-3 cơ số. Lương thực dự
trữ 1 tháng.
Trận địa có công sự đầy đủ nhưng độ vững chắc chưa cao vì làm bằng gỗ đất.

Tiểu đoàn 3, được hoả lực trung đoàn chi viện có nhiệm vụ phòng ngự ở 140A, 140B, 160, 200,
phối hợp với dân quân tự vệ bảo vệ thị xã, dẹp bạo loạn trong khu vực.
- Đại đội 9 tăng cường 1 ĐKZ 82mm, 1 máy VTĐ phòng ngự hướng chủ yếu, bố trí ở 160 và
cảnh giới ở đông bắc 167.
- Đại đội 11 tăng cường 1 ĐKZ 82mm, 1 máy VTĐ, phòng ngự hướng thứ yếu, bố trí ở 140A,
140B.
- Đại đội 10 phòng ngự phía sau và làm lực lượng cơ động, bố trí sau 200, cảnh giới ở mỏm 1
đông nam 255.
- Đại đội hoả lực gồm 2 cối 82mm và 1 khẩu 12,7mm ở 140A; 2 cối 82mm và 1 khẩu 12,7mm ở
mỏm 6 dãy 200.

DIỄN BIẾN

Ngày 17-2-1979

05h00 - 08h10 : lúc 05h00 pháo cối địch bắn chuẩn bị vào 160, 140A, 140B, 200. Bộ binh địch
thực hành vượt sông Hồng trên 2 bến : hướng thứ yếu 1 tiểu đoàn bộ binh vượt ở bắc 167,
hướng chủ yếu 2 tiểu đoàn bộ binh vượt ở bắc 240, hướng này ta không phát hiện.
Ý định của địch : hướng thứ yếu đánh chiếm 167, trận địa cảnh giới và 160, hướng chủ yếu theo
đường Bát Xát-Lào Cai đánh chiếm 255, bất ngờ đánh lên 200 là trận địa phía sau của ta.
Khi địch đã qua sông tiến vào trận địa, hoả lực địch bắn mạnh vào đội hình địch, đồng thời trung
đội 1 của đại đội 9 phối hợp với tự vệ thị xã nổ súng chặn địch đánh vào trận địa cảnh giới ở
sườn đông 167. Đến 07h00, trung đội 1 rút về 160, địch chiếm được 167, tổ chức đánh sang 160
từ 07h30 đến 08h10 đều bị đại đội 9 đánh lui, phải xuống chân điểm cao củng cố.
Trong thời gian trên, hướng thứ 2 của địch chiếm 255 đang triển khai đánh lên 200.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
09h00 - 10h00 : địch trên hướng thứ yếu không chiếm được 160, chỉ để lại 1 bộ phận kiềm chế,
còn lại phối hợp với hướng chủ yếu từ phía bắc từ phía bắc đánh lên mỏm 1 dãy 200, còn
hướng chủ yếu từ phía tây bắc đánh lên mỏm 2, 3 dãy 200.
Cả 2 hướng bị tổ cảnh giới và trung đội 1 của đại đội 10 đánh lui đợt xung phong đầu tiên, nhưng
tổ cảnh giới ở mỏm 1 phải lui về sau. Đến 09h30 địch xung phong lần thứ hai lên mỏm 2-3 dãy
200 nhưng vẫn bị đánh lui.
Cùng thời gian trên, đại đội 9 cho 1 tiểu đội bộ binh do 1 trung đội trưởng chỉ huy xuất kích ra
phía tây nam đánh vào sườn bộ phận địch đang tiến lên mỏm 1 dãy 200, diệt một số tên, số còn
lại phải rút chạy.
Sau khi phát hiện ý định địch tậ trung chiếm 200, tiểu đoàn trưởng cho đại đội 10 cơ động 1 trung
đội ở mỏm 4-5 của 200 ra tăng cường mỏm 2-3.

10h00 - 14h30 : địch xung phong lần thứ 3, bị ta đánh lui.


Lúc này xe tăng địch đã qua sông, theo đường Bát Xát tiến vào trận địa ta phối hợp với bộ binh
xung phong lần thứ tư. Đại đội 10 dùng cối bắn vào bọn bộ binh, ĐKZ ở 140A cơ động sang
sườn tây phối hợp với 3 tổ bộ binh mang B41 xuất kích. Ta đánh lui đợt xung phong thứ tư của
địch, bắn cháy 6 xe tăng và bắn hỏng 1 chiếc, diệt nhiều bộ binh.
Sau 5 giờ chiến đấu, 2 trung đội của đại đội 10 bị thương vong, sức chiến đấu giảm. Đại đội cho
trung đội còn lại ra tăng cường.

15h00 : sau khi tăng quân, địch triển khai 3 mũi từ tây bắc đánh lên mỏm 2-3 của 200. Được hoả
lực tiểu đoàn và đại đội bạn chi viện, đại đội 10 đã đánh lui đợt xung phong thwú năm.

17h00 - 17h30 : một bộ phận địch chiếm được đoạn hào vòng ngoài phía tây mỏm 2, ta lui về giữ
mỏm 3. Lợi dụng lúc đại đội 10 chưa kịp tổ chức hoả lực ngăn chặn và phản kích, lúc 17h10 cả 2
toán địch cùng tràn sang mỏm 3. Đại đội 3 tích cực ngăn chặn nhưng lực lượng bị tổn thất,
không giữ được phải lui về mỏm 4-5. Địch chiếm mỏm 2-3 lúc 17h30 và dừng lại củng cố, ngừng
tấn công.
Như vậy sau 1 ngày chiến đấu với 1 trung đoàn địch, ta mất 1 trận địa cảnh giới của đại dội 9 và
1 điểm tựa trung đội của đại đội 10 ở phía sau. Đại đội 11 gần như chưa chiến đấu.
Địch đã tiến được 4km và đã thực hiện được ý định chia cắt phòng ngự của tiểu đoàn.

21h00 - 23h00 : tiểu đoàn được tăng cường 44 dân quân và 44 tự vệ thị xã. Sau khi đánh giá
tình hình, tiểu đoàn trưởng xác định phải giữ 200 và điều chỉnh đội hình :
Đại đội 10 : 1 trung đội (14 người) và 2 tiểu đội dân quân (28 người) ở mỏm 4-5 dãy 200; 1 tiểu
đội (4 người) cùng 1 tiểu đội dân quân và 1 khẩu 12,7mm ở 269. Lực lượng còn lại của đại đội
10 và dân quân bố trí ở mỏm 7-8-9 dãy 200.
Đại đội 9 rút khỏi 160 về phòng ngự cùng đại đội 11 ở 140A, 140B.

Ngày 18-2-1979

05h30 - 07h30 : địch tiếp tục tấn công. Một mũi từ mỏm 2-3 đánh sang mỏm 4-5, một mũi từ 255
tiến sang 212 đánh vào 269, một mũi từ đường 160 đánh lên 160.
Ta đánh trả quyết liệt, đánh lui đợt xung phong đầu tiên của địch. Bộ binh lui ra, dùng pháo cối
bắn vào trận địa ta. Riêng 160 ta đã rút nên địch chiếm dễ dàng.

08h00 - 09h00 : địch tấn công lần 2 vào 269, 200, 140B.
Đại đội 10 và dân quân ở mỏm 4-5 đánh chặn, nhưng do địch đông, xung phong ào ạt nên bộ
phận này phải lui về mỏm 7-8, địch chiếm được mỏm 4-5.
Bộ phận phòng ngự 269 chỉ ngăn chặn được một thời gian thì địch đột nhập một phần trận địa, ta
vẫn giữ nửa phía đông nam.
Ở 140B, đại đội 11 đánh lui các đợt xung phong của địch, giữ vững trận địa.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
12h00 : hướng đại đội 10 đã mất gần hết trận địa, đại đội 9 và 11 vẫn giữ được nhưng tiểu đoàn
đã bị chia cắt.
Tiểu đoàn trưởng quyết định cho đại đội 9 và 11 rút về Vị Kim, tiểu đoàn bộ rút về Nam Cường,
chỉ để lại một bộ phận đại đội 10 và dân quân chặn địch bảo đảm cho tiểu đoàn lui quân gồm : 1
tiểu đội (6 người) và 2 khẩu cối 82mm và 25 dân quân ở mỏm 7-8 dãy 200. Một tổ 4 người và 1
khẩu 12,7mm cùng 1 tiểu đội dân quân ở 269, do 1 trợ lý tham mưu tiểu đoàn chỉ huy.

13h00 - 16h00 : địch tiếp tục tấn công. Ta đánh lui các đợt xung phong thứ ba và thứ tư của
địch. Đến lần thứ năm, địch chiếm được 269. Mỏm 7-8 dãy 200 ta vẫn giữ được, đến 16h00 mới
rời trận địa.

KẾT QUẢ CHIẾN ĐẤU

Trong 2 ngày tiểu đoàn 3 (thực chất 2 đại đội chiến đấu) đã ngăn chặn hướng tiến công của 1
trung đoàn địch, bắn cháy và bắn hỏng 7 xe tăng, diệt vài trăm bộ binh, hạn chế tốc độ tiến công
thị xã Lào Cai của địch.
Số tổn thất của ta không thống kê được.

Tuy nhiên, vì nhiều lí do khách quan và chủ quan nên tiểu đoàn đã không hoàn thành nhiệm vụ.

Giai đoạn chiến tranh sau 79 :

Trước khi bùng nổ trở lại năm 1984, trước đó năm 1981 còn diễn ra một số cuộc giao tranh, lực
lượng TQ tham gia trận chiến ở Gao Lin Shan là trung đoàn biên phòng 15 và sư đoàn bộ binh
42 quân đoàn 14, ở Fa Car Shan là sư đoàn 3 biên phòng tỉnh Quảng Tây (theo www.orbat.com).
Phía VN cũng ghi nhận xung đột giai đoạn này ở Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn. Đặc biệt, trong
đó có dải bình độ 400 ở Cao Lộc (Lạng Sơn) đã bị quân TQ chiếm đóng từ 1981-1997 (nguồn :
Ngoại giao Việt Nam). Nhưng nói chung xung đột năm 1981 không lớn.

Ngày 28-4-1984, quân đội Trung Quốc tấn công đánh chiếm đỉnh 1509 (Lão Sơn)
Giai đoạn tấn công gồm sư đoàn 40 quân đoàn 14 đánh chiếm Lao Shan (Lão Sơn), trung đoàn
122 sư đoàn 41 quân đoàn 14 đánh chiếm Hu Dong Shan, sư đoàn 31 quân đoàn 11 đánh chiếm
Jer Yan Shan (Giả Âm Sơn?).
Từ đỉnh 1509 (nằm ngay trên đường biên), TQ theo sống núi lấn dần xuống các bình độ phía
dưới, cũng như nhiều điểm tựa xung quanh.
Ở Hà Tuyên đã diễn ra nhiều trận giành giật quyết liệt, nhất là ở 1509 và núi Bạc (Giả Âm Sơn).

Các đơn vị TQ tham chiến giai đoạn 1984-1988 (nguồn : www.china-defense.com).

Đại quân khu Côn Minh :

- Sư đoàn bộ binh 31 (quân đoàn 11).


- Sư đoàn bộ binh 32 (quân đoàn 11).
- Sư đoàn bộ binh 40 (quân đoàn 14).
- Sư đoàn bộ binh 41 (quân đoàn 14), gồm trung đoàn bộ binh 122, 123 và trung đoàn biên
phòng 15.
- Sư đoàn pháo binh số 4, ĐQK Côn Minh.

Thời gian tham chiến : tháng 4-1984 đến tháng 4-1985.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Thiệt hại : 766 chết (gồm cả công nhân dân sự ?).
Trong đó :
- Cao điểm Lao Shan và Ba Li He Dong Shan : 651 chết.
- Cao điểm Zheyin Shan : 115 chết.
- Trận ngày 12-7 : trung đoàn 119 và 122 thiệt hại 61 chết.
- Trung đoàn 118 : 198 chết.
- Trung đoàn 96 : 41 chết, 298 bị thương.

Đại quân khu Nam Kinh :

- Sư đoàn bộ binh số 1 (quân đoàn 1).


- Sư đoàn bộ binh 36 (quân đoàn 12).
- Sư đoàn pháo binh số 3, ĐQK Phúc Châu.
- Sư đoàn pháo binh số 9, ĐQK Nam Kinh.

Thời gian tham chiến : tháng 12-1984 đến tháng 5-1985.

Thiệt hại : 404 chết.


Trong đó :
- Sư đoàn bộ binh số 1 : 359 chết.
- Sư đoàn bộ binh 36 : 38 chết.
- Sư đoàn pháo binh số 9 : 7 chết.

Đại quân khu Tế Nam :

- Sư đoàn bộ binh 138 (quân đoàn 46).


- Sư đoàn bộ binh 199 (quân đoàn 67), được tăng cường trung đoàn 598 sư đoàn bộ binh 200.
- Sư đoàn pháo binh 12, ĐQK Tế Nam.

Thời gian tham chiến : tháng 5-1985 đến tháng 4-1986.

Thiệt hại : không rõ tổng số.


- Trung đoàn 199 thiệt hại 300 thương vong từ 30-5 đến 11-6-1985.
- Trung đoàn 595 thiệt hại 120 chết và 1 bị bắt (ngày 2-12-1985).
- Trung đoàn 597 thiệt hại hơn 20 chết trong trận tấn công cao điểm 405.

Đại quân khu Lan Châu :

- Sư đoàn bộ binh 61 (quân đoàn 21).


- Sư đoàn bộ binh 139 (quân đoàn 47), được tăng cường trung đoàn 421 sư đoàn bộ binh 141.
- Lữ đoàn pháo binh số 1, ĐQK Lan Châu.

Thời gian tham chiến : tháng 4-1986 đến tháng 4-1987.

Thiệt hại : 164 chết, 962 bị thương.

Đại quân khu Bắc Kinh :

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
- Sư đoàn bộ binh 79 (quân đoàn 27), được tăng cường trung đoàn 241 sư đoàn bộ binh 81.
- Sư đoàn bộ binh 80 (quân đoàn 27).
- Sư đoàn pháo binh 14 (gồm trung đoàn pháo binh 10 và 37), ĐQK Bắc Kinh.

Thời gian tham chiến : tháng 4-1987 đến tháng 4-1988.

Thiệt hại : 63 chết, 172 bị thương.

Đại quân khu Thành Đô :

- Sư đoàn bộ binh 37 (quân đoàn 13).


- Sư đoàn bộ binh 38 (thiếu trung đoàn114) (quân đoàn 13).

Thời gian tham chiến : tháng 4-1988 đến tháng 10-1989.

Thiệt hại : không rõ.

Lực lượng trinh sát và đặc nhiệm :

Tháng 12-1984 đến tháng 5-1985 :

- Đơn vị trinh sát số 1 thuộc quân đoàn 20, ĐQK Vũ Hán.


- Đơn vị trinh sát số 2 thuộc quân đoàn 43, ĐQK Quảng Châu.
- Đơn vị trinh sát số 3 thuộc quân đoàn 50, ĐQK Thành Đô.
- Đơn vị trinh sát số 4 thuộc quân đoàn 54, ĐQK Vũ Hán.
- Đơn vị trinh sát số 5 thuộc quân đoàn 55, ĐQK Thành Đô.

Thiệt hại : 6 chết, 9 bị thương.

Tháng 5-1985 đến tháng 6-1986 :

- Đơn vị trinh sát số 6 thuộc quân đoàn 46, ĐQK Tế Nam.


- Đơn vị trinh sát số 7 thuộc lữ đoàn 44, quân đoàn đổ bộ đường không số 15.

Tháng 9-1985 đến tháng 7-1986 :

- Đơn vị trinh sát số 8, ĐQK Tân Cương.


- Đơn vị trinh sát số 9 thuộc quân đoàn 19, ĐQK Lan Châu.
- Đơn vị trinh sát số 10 thuộc quân đoàn 21, ĐQK Lan Châu.

Thiệt hại : 21 chết.


Trong đó 20 chết trong trận tấn công cao điểm 1828 đêm 18-3-1986.

Tháng 9-1986 đến tháng 12-1987 :

- Đơn vị trinh sát số 11 thuộc quân đoàn 24, phân khu Bắc Kinh và Thiên Tân, ĐQK Bắc Kinh.
- Đơn vị trinh sát số 12 thuộc quân đoàn 38, ĐQK Bắc Kinh.

Thiệt hại : 7 chết, 1 mất tích.


2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Tháng 12-1987 đến tháng 1-1989 :

- Đơn vị trinh sát số 13 thuộc quân đoàn 16, ĐQK Thẩm Dương.
- Đơn vị trinh sát số 14 thuộc quân đoàn 40, ĐQK Thẩm Dương.
- Đơn vị trinh sát số 15 thuộc quân đoàn 64, ĐQK Thẩm Dương.

Thiệt hại : gần 20 chết.

-------------------------------------
Khi em nói dải bình độ 400 bị TQ chiếm từ 1981-1997 không có nghĩa là nó được trao trả năm
1997. Mà là đến thời điểm cuốn NGVN xuất bản năm 1997 thì nó vẫn bị chiếm.

Năm 1995, lớp bọn mình đi huấn luyện quân sự, các giáo viên luôn lấy các chiến dịch phòng ngự
chống lấn chiếm và chiến dịch tái chiếm dãy bình độ 400 làm ví dụ của bài giảng.

10 năm rồi không còn nhớ rõ nữa, nhưng giáo viên (Trung tá) giảng là ta bắn vào đấy tổng cộng
20 vạn quả đạn pháo và cối các loại, hy sinh hàng nghìn chiến sỹ. Nhưng khi sinh viên vặn hỏi có
lấy lại được không thì thầy giáo không trả lời.

Trong một bài giảng có một trận đánh như sau:

Ta bắn chuẩn cực kỳ dữ dội, sau đó bộ binh tràn lên không gặp sức chống cự. Bộ phận tấn công
đã điện về Sư đoàn là hoàn thành nhiệm vụ, vì bộ đội đã "bu" gần hết xung quanh đỉnh.

Thế nhưng đúng lúc ấy địch phản pháo đột ngột. THeo bản năng, bộ đội ta ào ạt nhảy vội xuống
hào để tránh thương vong. Nhưng lúc này mới biết toàn bộ chiến hào đã bị gài mìn. Bộ đội ta
trúng mìn liên tục, thương vong nặng. Số còn lại do dự còn trên mặt đất chưa dám xuống hào
cũng bị pháo bắn hất tung, nên đành phải nhảy tiếp xuống dưới hào, nhưng cố chọn chỗ nào mìn
đã nổ (nơi thương binh tử sỹ vẫn đang vật vã).

Sau hơn 1 phút pháo bắn, địch trú sẵn ở các địa đạo bố trí dưới chiến hào bật nắp nhô lên, dùng
súng trung liên quét dọc theo đội hình ẩn nấp của ta làm toàn bộ các chiến sỹ hy sinh. Riêng trận
này mất hơn 300 người.

Pháo ta bắn phản pháo không có tác dụng. Chỉ có một số rất ít chiến sỹ chạy thoát về tuyến sau.

Chiến thắng dễ dàng chỉ cần chủ quan sơ hở một trận là mất đất. Mà người T chỉ cần thế thôi, họ
mất cái họ thừa nhất (người) và giành được cái ta quý nhất.
Mà nói chung đánh nhau kiểu này (đánh lấn, nhùng nhằng) thì ta chỉ có thiệt. Cũng như vậy với
biển.
Vậy thì giải pháp lâu dài và bền vững là gì?

Tui cũng băn khoăn một vấn đề nữa: Thuyền tiềm lực ngày càng mạnh, nuôi quân 3 năm dùng
quân một ngày. Tiền mua súng ống vũ khí tỷ lệ với tốc độ phát triển kinh tế. Vậy nên nhân dân
Thuyền thì chắc cũng muốn hòa bình nhưng lãnh đạo thì không. Và nước nào sẽ là nơi để họ ra
oai với thế giới trong thời gian tới? (cái này theo tôi là chắc chắn, chỉ có là thời điểm nào thôi) Sẽ
là nước yếu nhất trong mắt xích các lân cận. Và sau đó thì phản ứng của Nam Cực tiên ông thì
ra sao?

Các bác cho ý kiến nhé.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
TRẬN PHÒNG NGỰ Ở BÌNH ĐỘ 1100 (VỊ XUYÊN - HÀ TUYÊN)
của đại đội 2, tiểu đoàn 1, trung đoàn 2, sư đoàn 3, quân đoàn 14 Quân khu 1.
Ngày 2-12-1985.
(Nguồn : KNCĐ).

ĐỊA HÌNH

Nơi xảy ra chiến đấu là bình độ 1100 nằm trên dãy núi đất 1509, cách đỉnh 1,5km. Giữa bình độ
1100 và 1000 là mỏm 1050. Phía tây bắc bình độ 1100, cách 50m là đồi tiền tiêu, chỉ cách địch
100m là nơi hai bên thường tranh chấp, bên trái đồi tiền tiêu là đồi chè địch có thể đánh vào
sườn trái trận địa.
Ngang với đồi chè, cách 800m về phía tây, giữa bình độ 1200 và 1100 là đồi Không Tên, có thể
ngăn chặn địch vu hồi vào sườn trái hoặc luồn vào phía sau.
Trong khu vực pháo hai bên bắn phá nhiều nên bề mặt đất tơi vụn, chỉ còn ít cây cối.
Hàng ngày thường có sương mù từ chiều đến 7-8 giờ sáng, hôm tác chiến có sương mù cả
ngày.

TÌNH HÌNH ĐỊCH

Tháng 4-1984, sau khi chiếm 1509 và 722, địch tiếp tục lấn sang đất ta đến bình độ 1200 phải
dừng lại, xây dựng trận địa phòng ngự tiếp xúc với ta.
Địch thường xuyên bắn pháo, tung biệt kích, thám báo sang trinh sát trận địa ta. Ngày 30-5-1985
địch bắn hàng ngàn quả đạn pháo trong suốt 24 tiếng và cho 1 trung đoàn bộ binh từ đỉnh 1509
đánh xuống 1100, bản Nậm Ngặt, đồi Không tên nhưng bị ta đánh thiệt hại nặng, phải chạy về
1509.
Từ 11-6 đến 7-10-1985 địch thường xuyên bắn phá, dùng cả đạn hoá học và nhiều lần tấn công
cả ban ngày và ban đêm nhưng đều bị ta đánh lui.
Mùa khô năm 1985, lực lượng địch vào thay phiên. Phòng ngự ở 1509 là trung đoàn 603, sư
đoàn 201, quân đoàn 67 Đại quân khu Tế Nam. Địch tổ chức đánh lấn trên toàn tuyến nhằm cải
thiện thế trận, phá thế xen kẽ, lấn dũi trên hướng Nậm Ngặt của ta.
Cuối tháng 11-1985 địch tăng cường bắn phá, trinh sát. Trong 4 ngày từ 28-11 đến 1-12-1985
địch bắn 3.000 viên đạn pháo và hoả tiễn vào khu núi đá phía đông và khu núi đất. Riêng 1100
ngày 28-11-1985 địch bắn 300 viên, ngày 29-11 và 30-11 mỗi ngày bắn 100 viên. Ngày 1-12-
1985 địch không bắn vào 1100.

TÌNH HÌNH TA

Trận địa ta ở 1100 và 1050 có hầm kèo bằng gỗ và bê tông, chịu được đạn cối 120mm. Hệ thống
công sự, giao thông hào, chiến hào đảm bảo tốt cho chiến đấu. Hào cơ động giữa các trung đội
và về tiểu đoàn đảm bảo đi lại thuận tiện trong mọi tình huống. Giữa 1100 và 1050 có một đường
hào đi lại, cấu trúc đặc biệt để ngăn chặn địch phát triển (đặc biệt thế nào thì không nói được hè
hè).
Hệ thống vật cản là các bãi mìn chống bộ binh trên hướng đồi tiền tiêu, nhưng địch bắn phá đã
làm mất tác dụng.Tháng 2-1985, cấp trên tăng cường trung đoàn 2, sư đoàn 3 cho mặt trận.
Ngày 22-4-1985 thay phiên phòng ngự, lấy phiên hiệu là trung đoàn 981, sư đoàn 356 Quân khu
2.
Tiểu đoàn 1 được lệnh hòng ngự hướng núi đất xã Thanh Đức, phía tây Thanh Thủy.

Đại đội 2, tiểu đoàn 1 tham gia chiến đấu với quân số 80 người. Vũ khí có 2 khẩu cối 60mm, 2
khẩu đại liên, 9 khẩu trung liên, 6 khẩu B40 và B41, 2 khẩu M79, còn lại là AK. Được tăng cường
1 khẩu cối 60mm và 1 khẩu 12,7mm.
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Chiến sĩ đa số nhập ngũ năm 1983, 1984, một số năm 1981.
Cán bộ chiến sĩ được huấn luyện tốt, tinh thần, quyết tâm cao, đã nắm được nhiệm vụ, phương
án chiến đấu và đã có kinh nghiệm sau gần một năm phòng ngự.
Sau đợt chiến đấu ngày 7-10-1985 đại đội 2 vào phòng ngự ở 1100, 1050 thay đại đội 1.
Một trung đội và 1 đại liên ở đồi tiền tiêu và Gò chè.
Hai trung đội và 2 khẩu cối 60mm phòng ngự phía sau ở 1100.
Một trung đội và 1 cối 60mm, 1 khẩu 12,7mm, 1 đại liên phòng ngự ở 1050 và làm lực lượng cơ
động.

Đơn vị bạn trong khu vực : bên phải là đại đội 5, tiểu đoàn 5, trung đoàn 153 ở trận địa lấn dũi
bản Nậm Ngặt, bên trái alf đại đội 3 ở đồi Không Tên, phía sau là đại đội 1 thiếu ở bình độ 1000
đến 900.
Trong chiến đấu đơn vị được hoả lực tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn và tiểu đoàn 1, 2 và trung
đoàn 153 chi viện gồm : 2 tiểu đoàn pháo 76,2mm và 122mm gồm 18 khẩu, 2 đại đội cối
106,7mm và 120mm gồm 4 khẩu; 2 đại đội và 1 trung đội cối 82mm gồm 10 khẩu. Ngoài ra có
pháo binh quân khu.

DIỄN BIẾN

Từ 28-11-1985 đến 1-12-1985

Pháo địch bắn phá. Đại đội đôn đốc các phân đội tăng cường cảnh giới, ẩn nấp bảo vệ lực
lượng, sửa chữa công sự. Sẵn sàng chiến đấu.

Ngày 2-12-1985

Địch tiến công trên cả 3 khu vực : Pha Hán, đông bắc 685 (khu núi đá) và bắc Thanh Đức (khu
núi đất).

03h00 : bộ phận trực chiến ban đêm (50% quân số) ở đồi tiền tiêu và gò chè nghe tiếng động
trước tiền duyên, dùng cối 60mm và M79 bắn vào những nơi đó. ĐỊch không phản ứng.

04h00 : bộ đội ra vị trí trực chiến 100%.

06h30 : trời vẫn còn sương mù dày đặc, tầm quan sát hạn chế nhưng pháo cối địch bắt đầu bắn
chuẩn bị trên toàn hướng phòng ngự của trung đoàn. Riêng phạm vi từ bình độ 1100 đến 700
địch bắn 20.000 viên đạn pháo cối trong 2 giờ. Nhiều công sự của ta bị sụt lở.
Trong lúc pháo bắn chuẩn bị, 2 tiểu đoàn bộ binh địch từ 1509 triển khai tấn công :
Hướng chủ yếu : mũi 1 khoảng 1 tiểu đoàn từ 1200 theo sống núi đánh xuống đồi tiền tiêu, mũi 2
khoảng 1 đại đội tăng cường từ sườn tây đánh gò chè.
Hướng vu hồi : mũi 3 khoảng 1 đại đội tăng cường theo sườn đông bắc (tây Nậm Ngặt) đánh vào
1050 cắt phía sau 1100.
Hướng phối hợp : 1 mũi khoảng 1 đại đội từ hía bắc đánh xuống trận địa lấn dũi của đại đội 5 ở
Nậm Ngặt, 1 mũi khoảng 1 đại đội từ tây 1400 đánh xuống đồi Không tên. 2 mũi này bị ta đánh
lui.
Từ lúc pháo bắn, tuy bị mất liên lạc với phân đội phòng ngự nhưng trung đoàn phán đoán địch
tấn công nên đã cho súng cối bắn chặn trước tiền duyên 1100, gò chè, bắc Nậm Ngặt và vào
trận địa địch ở 1200 đến 1300 và 1509, đồng thời báo cáo sư đoàn, đề nghị pháo binh sẵn sàng
chi viện.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
08h30 : cuối giai đoạn pháo bắn chuẩn bị, địch bắn đạn nổ không mảnh vào 1100 từ 7-10 phút
(từ 1050 xuống vẫn bắn đạn sát thương). Đồng thời bộ binh của hai mũi hướng chủ yếu nhanh
chóng tiếp cận trận địa ta, chiến sĩ cảnh giới không phát hiện nên bộ đội vẫn ở trong hầm tránh
pháo. Khi đã vào sát chiến hào, cùng một lúc địch xung phong bất ngờ và đột nhập trận địa. Đồi
tiền tiêu và 1100 ta bị hy sinh 2 và bị thương 7 đồng chí. Gò chè hy sinh 7 đồng chí, chỉ còn 2
đồng chí chiến đấu.
Sau khi đột nhập, địch phát triển đánh vào bên trong. Mũi 1 chia làm 2 bộ phận đánh sang sườn
đông và lên đỉnh nơi bố trí đại liên. Mũi 2 chia làm 2 bộ phận đánh vào sườn tây nơi có hầm chỉ
huy đại đội và bọc phía nam 1100.
Lúc này pháo cối ta vẫn bắn chặn trước tiền duyên và trên đỉnh 1509. Đại đội trưởng đang ở đồi
tiền tiêu thấy địch đã kịp thời báo cáo tiểu đoàn đồng thời ra lệnh cho bộ đội chiến đấu.
Trung đoàn nắm được tình hình đã tập trung toàn bộ súng cối của trung đoàn, tiểu đoàn 1, tiểu
đoàn 5 trung đoàn 153 (sắp vào thay phiên) bắn mãnh liệt bao bọc quanh tiền duyên từ tây gò
chè đến đông 1050, yêu cầu pháo sư đoàn và quân khu bắn từ bình độ 1200 trở lên. Hoả lực ta
từ cối 82mm trở lên bắn cách mép hào 100m, cối 60mm bắn sát mép hào rất chính xác đã chia
cắt lực lượng địch phía sau, cô lập bọn đã đột nhập trận địa.
Bên trong điểm tựa, bộ đội ta chiếm giữ các cửa hầm đánh địch. Mũi 1 nhiều tên bị diệt, số còn
lại không phát triển được. Mũi 2, một toán 7-8 tên mang bộc phá tới gần hầm đại đội trưởng,
chiến sĩ trong hầm phát hiện, dùng lựu đạn tiêu diệt. Cùng lúc đó, đại liên và 12,7mm của ta ở
1050 bắn mãnh liệt vào đội hình địch diệt nhiều tên, số còn sống phải chạy trở ra (1 tên bị
thương nằm sát mép hào phía tây, chiến sĩ ta kéo xuống một lcú sau thì chết).
Pháo cối của ta vẫn bắn chặn địch. Tiểu đoàn và trung đoàn đã điều động lực lượng lên tăng
viện : đại đội 1 (thiếu 1 trung đội) tăng cường 1 trung đội của đại đội 6 (lên tăng cường cho tiểu
đoàn 1 từ lúc pháo địch bắn chuẩn bị) lên 1050 thực hành phản kích sang 1100. Bộ phận phản
kích triển khai thành 3 mũi phối hợp với đại đội 2 đánh bật quân địch ra khỏi trận địa, lúc tháo
chạy địch phải bỏ lại nhiều xác.
Sau khi khôi phục trận địa, đại đội 2 được tăng cường trung đội của đại đội 6 tiếp tục phòng ngự
ở 1100, còn đại đội 1 (thiếu 1 trung đội) phòng ngự ở 1050.
Trong lúc đại đội 1 phản kích, trung đoàn điều đại đội 6 (thiếu 1 trung đội) tăng cường cho tiểu
đoàn 1 bố trí ở bình đọ 900-1000 làm lực lượng cơ động và điều 1 trung đội của đại đội 7 lên bố
trí ở trận địa đại đội 6, sẵn sàng tăng cường cho tiểu đoàn 1.

09h00 - 13h40 : địch tổ chức 4 lần xung phong, mỗi lần cách nhau từ 1 giờ đến 1 giờ 30 phút.
Trước khi xung phong địch dùng pháo cối bắn chế áp và vẫn chia làm 3 mũi như lần một. Cả 4
lần địch đều bị lực lượng ta, có pháo cối chi viện đánh ngay trước trận địa không để vào gần
chiến hào. Chúng chỉ kịp lấy xác đồng bọn rồi rút ngay.

15h00 : sau lần xung phong thứ 5 bị ta đánh lui, địch phải rút về 1509 và ngừng bắn pháo.
Ban đêm địch bắn 43 quả pháo sáng để thu dọn chiến trường. Đại đội 1 ra thay phiên cho đại đội
2.

KẾT QUẢ CHIẾN ĐẤU

Ta diệt 170 tên, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn và 1 đại đội của trung đoàn 603 địch, thu một số
vũ khí, quân trang. Địch bỏ lại 30 xác trước chiến hào tiền duyên, 7 xác trong trận địa và trên nóc
hầm đại đội trưởng.

Bên ta hy sinh 11 đồng chí, bị thương 21 đồng chí.


Tiêu thụ đạn dược :
Đạn pháo các loại : 2.350 viên. Cối 106,7mm và 120mm : 1.120 viên. Cối 82mm : 3.400 viên. Cối
60mm : 990 viên. Lựu đạn : 1.000 quả.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Cám ơn Chiangshan, nhờ tài liệu của cậu mà tớ biết được mình đã đánh nhau với bọn nào, hồi
đó Quân khu chỉ thông báo tình hình phía Tầu đến cấp quân đoàn thôi, còn thỉnh thoảng bắt
được sóng của bọn tầu trong bộ đàm thì (mấy con Hoa kiều) nó hỏi đơn vị mình rõ đến tiêu đoàn
(Hồi đó muốn biết đơn vị sắp làm gì cứ hỏi mấy bà hàng nước). Nhưng chắc cũng như phía mình
phiên hiệu quân Tầu khi vào đánh nhau cũng đều thay đổi. Chắc là bác Chiangshan đọc trong
các tài liệu tập huấn, nếu bác có thời gian tìm hiểu, nên xem thêm tài liệu lịch sử của các sư
đoàn F313, F314, F33 (ngoài ra còn có F320-chỉ khoảng độ 1 tuần ở L. P. thôi), thì có thể biết
được phiên hiệu thực của các đơn vị tham gia mặt trận Vị Xuyên trong những năm 1983-1995
(tiểu đoàn tớ hồi đó nhận 685 và các bình độ 400-bốn hầm-L. P. là cứ và kho của E-1509 cho
đến lúc tớ ra quân, vẫn do lính Tầu chiếm ).

Đúng là cả ta và Tầu mỗi khi thay quân đơn vị mới đều sử dụng phiên hiệu giả. Em xem trên
forum của bọn Tàu, đến tận bây giờ tài liệu chúng nó vẫn chỉ biết được phiên hiệu giả, bên ta giữ
bí mật giỏi thật !
Bác phaphai ở đấy từ năm 83 chắc biết rõ mấy trận đầu tiên trên đỉnh 1509 chứ ạ. Bọn Tầu bảo
là ngày 12-7-1984 ta dùng 6 trung đoàn của 316 và 356 đánh 1 trung đoàn phòng ngự Tầu ở
1509 thất bại, bỏ lại 3.700 xác ! Em không tin mấy.

TRẬN PHÒNG NGỰ Ở PHA HÁN (HÀ TUYÊN)


của đại đội 5, tiểu đoàn 3, trung đoàn 2, sư đoàn 328 Đặc khu Quảng Ninh.
Từ 23-9-1985 đến 26-9-1985.
(Nguồn : KNCĐ)

ĐỊA HÌNH

Nơi xảy ra chiến đấu chính ở bình độ 400-500 bên phía sườn đông nam điểm cao 1310, xã Minh
Tân, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên. Nơi đây là núi đá, độ dốc 35-40 độ, phía bắc toàn là đá, độ
dốc lớn hơn, khó làm công sự. Phía nam có một số lèn đá xen lẫn đất, cấu trúc công sự được.
Trong khu này có nhiều hang hốc tự nhiên, có thể cải tạo thành công sự. Phía tây và tây nam
giáp sông L địa hình trống trải, bị hoả lực địch khống chế.
Nơi phòng ngự ở thấp hơn địch, địch quan sát rõ trận địa ta.

TÌNH HÌNH ĐỊCH

Địch đối diện là một bộ phận thuộc quân đoàn 14. Từ tháng 4-1984 địch lấn sang ta, bố trí ở A5,
M13, A6, A7, Z1, Z2... xây dựng thành các điểm tựa có công sự vững chắc (các tên này là mật
danh do bộ đội đặt, không có trên bản đồ).
Hàng ngày pháo cối bắn không thành quy luật sang phía ta.
Bố trí phòng ngự cụ thể, công tác chuẩn bị tấn công của địch ta chưa nắm được.

TÌNH HÌNH TA

Trung đoàn 2, sư đoàn 328 Đặc khu Quảng Ninh vào thay phiên phòng ngự từ tháng 4-1985, lấy
phiên hiệu trung đoàn 983, sư đoàn 314.

Đại đội 5, tiểu đoàn 5 trước khi vào phòng ngự đã được củng cố, huấn luyện bổ súng. Biên chế 3
trung đội bộ binh và 2 tiểu đội hoả lực. Quân số các trung đội từ 21-23 người.
Riêng trung đội 1 có 21 người (trung đội trưởng,tiểu đội 1 : 5 người, tiểu đội 2 : 8 người, tiểu đội
3 : 7 người) được tăng cường 1 y tá, 1 thông tin, 8 xạ thủ M79, cối, đại liên và có 2 đại đội hó đi

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
cùng. Tổng quân số 33 người.
Trang bị của đại đội thiếu và chưa đồng bộ.
Công sự : chịu được đạn pháo 122mm, có một số hầm bê tông và giao thông hào về phía sau.
Vật cản : bãi mìn chống bộ binh ở phía bắc trung đội 1.
Đơn vị bạn : bên phải ở bình độ 600-700 là đại đội 6, chếch về bên phải phía sau là đại đội 7.
Bên trái là các đơn vị thuộc sư đoàn 313.

Nhiệm vụ :
Đại đội 5 được tăng cường 1 khẩu 12,7mm, 1 ĐKZ 82mm và hoả lực cấp trên chi viện, phòng
ngự hướng thứ yếu ở bình độ 400-50, ngăn chặn địch tấn công từ A5, A6, A7.
- Trung đội 1 tăng cường 1 M79, 1 đại liên, 1 khẩu cối 60mm, 1 máy VTĐ 2W phòng ngự hướng
chủ yếu ở bình độ 400-500.
- Trung đội 2 và 3 phòng ngự phía sau (500-600m) ở bình độ 300-500.
- Hoả lực gồm ĐKZ, súng 12,7mm, đại liên, cối 60mm đi cùng trung đội 2, 3 do đại đội nắm chi
viện chung.

DIỄN BIẾN

Từ 13-9 đến 22-9-1985

Pháo địch ở Na Ma, Ma Tiên, cối phía sau M13 bắn phá thường xuyên cả ngày đêm vào trận địa
phòng ngự tiểu đoàn và sở chỉ huy trung đoàn.
Riêng trận địa trung đội 1 (đại đội 5) từ 18-9 đến 22-9 địch dùng pháo bắn thẳng, cối 100mm và
160mm, pháo lựu bắn đạn khoan tập trung vào các ổ chiến đấu ở tiền duyên và đường hào cơ
động về phía sau nhằm phá huỷ công sự, sát thương lực lượng ta, chặn đường tiếp tế và gây
tâm lý căng thẳng cho bộ đội.
Bộ binh địch ở A5, A6, A7, Z1, Z2, M13 củng cố công sự, ban đêm bắn súng, ném lựu đạn voà
những nơi nghi ngờ.
Chiều 22-9-1985, vận tải trung đoàn đưa gỗ lên, địch dùng pháo 85mm bắn, ta hy sinh 8 đồng
chí và bị thương 16 đồng chí.

Ngày 23-9-1985

Pháo địch bắn cầm canh vào đại đội 5, đại liên, 12,7mm ở M13, A7 bắn nhiều vào trận địa tiểu
đội 1 và 3.

04h30 : pháo địch bắn dồn dập vào trung đội 2, 3 và đường hào từ đại đội lên trung đội 1.
Trong khi đó bộ binh địch bí mật tiế cân trận địa trung đội 1, khắc phục mìn ta không phát hiện.

04h45 : trên hướng tiểu đội 3, một chiến sĩ đi lấy nước về bị địch bám theo nhưng không biết. Tại
vị trí gác, đồng chí Xá phát hiện nhiều bóng người. Hỏi người lấy nước biết không ai đi cùng nên
đồng chí Xá khẳng định là địch, ra hiệu cho đồng chí lấy nước nằm xuống và ném lựu đạn về
phía các bóng đen. Lựu đạn nổ và không thấy tên nào nữa. Nghe tiếng nổ, đồng chí Minh tiểu
đội trưởng chỉ huy tiểu đội ra chiếm lĩnh công sự, bắn 5 viện đạn vạch đường về hướng đại đội,
tiểu đoàn báo cáo địch tấn công.
Cùng lúc đó, pháo cối địch bắn sâu vào trận địa phía sau và sở chỉ huy trung đoàn. Đại liên,
12,7mm, ĐKZ, pháo bắn thẳng ở đường biên bắn vào trung đội 1. Trên hướng tây bắc tiểu đội 1
và 3 đã thấy địch triển khai trước tiền duyên.
Tại hang chỉ huy số 13, đồng chí Sơn y tá gác nghe tiếng súng phía tiểu đội 3 và đạn vạch
đường đã báo cáo đồng chí Thu đại đội phó. Đồng chí Thu báo động cho các bộ phận phía sau,
cho bắn 10 quả đạn cói 60mm trước trận địa tiểu đội 3, phái đồng chí Thái trung đội trưởng lên
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
chỉ huy tiểu đội 1 và cho liên lạc bắn 5 phát đạn vạch đường về hướng đại đội 6 thông báo địch
tiến công.

05h05 - 06h00 : bộ binh địch xung phong.


Hướng thứ nhất phía tiểu đội 3 khoảng 1 đại đội đánh vào khu bắc : 2 trung đội đánh hang số 2
và vu hồi chia cắt nơi tiếp giáp khu bắc và khu nam, 1 trung đội đánh vào công sự số 1.
Hướng thứ hai phía tiểu đội 1 khoảng 1 đại đội đánh vào khu nam : 1 trung đội đánh vào hố gác
và công sự số 7, 2 trung đội đánh vào công sự đại liên số 10 và vu hồi chia cắt phía sau, đánh
vào trận địa cối 60mm, ngăn chặn đường cơ động từ đại đội ra.
Các tiểu đội đã ra vị trí chiến đấu. Cối 82mm, 60mm bắn vào phía trước tiền duyên chi viện trung
đội 1. Pháo binh bắn vào A5-Z2.
Hướng tiểu đội 3 : ngăn chặn được các mũi xung phong, diệt nhiều tên. Đến 06h00 tiểu đội hy
sinh 3 đồng chí, địch ào lên bám sát công sự số 1 và cửa hang số 2. Chiến sĩ ta lợi dụng ngách
đá bắn chặn, yểm hộ nhau lui về giữ các hang phía sau.
Hướng tiểu đội 1 và khẩu đội đại liên, địch vào sát hố gác phía trước trận địa, ta lui về công sự
bắn chặn. Tiểu đội trưởng hy sinh. Trung đội trưởng cử tiểu đội trưởng tiểu đội 2 lên thay và cho
người về hang 13 báo cáo, đại đội hó cho cối 60mm bắn chi viện.
Sau khi chiếm hố gác, địch đưa ĐKZ, B41 bắn vào công sự 7 và trận địa đại liên 10. Lúc 06h00,
tiểu đội 1 hy sinh 2 và bị thương 3 đồng chí, khẩu đội đại liên hy sinh 3 đồng chí. Số còn lại phải
yểm hộ nhau lui về giữ hang 8 chặn địch. Địch chiếm được công sự 7 và 10.
Hướng khẩu đội cối 60mm : chiến sĩ thấy trước chiến hào có người đã báo cáo, đại đội phó
chính trị kiểm tra biết rõ là địch đã ra lệnh nổ súng chiến đấu. Lúc này địch đã áp sát trận địa, sau
ít phút đánh trả ta hy sinh2 và bị thương 2 đồng chí, còn lại phải lui về hang chỉ huy 13. Địch tràn
lên chiếm được trận địa cối lúc 06h00, một bộ phận địch chốt lại trên một đoạn hào từ đại đội ra
trung đội 1, cắt dây điện thoại.
Phía tiểu đội 2 : đồng chí đại đội phó chỉ huy anh em ngăn chặn được địch phát triển, giữ vững
trận địa.

Tóm lại đến 06h00 địch đã đột nhập trên cả 3 hướng, chiếm khu bắc công sự 1 và hang 2, khu
nam công sự 7, 10 và trận địa cối 60mm, một đoạn hào về đại đội. Ta hy sinh 12 và bị thương 5
đồng chí, mất 1 đại liên và 1 cối 60mm, đạn dược tiêu hao nhiều.
Tiểu đội 1 còn 2 đồng chí, tiểu đội 3 còn 4 đồng chí, tiểu đội 2 còn 8 đồng chí, và một số cán bộ
trung, đại đội, y tá, thông tin. Tổng cộng trên dưới 20 người (trong đó một số bị thương) đã lui về
giữ các cửa hang chặn địch. Cùng lúc này bị mất liên lạc với đại đôi.

07h30 : pháo cối địch bắn chi viện cho bộ binh chúng đánh bên trong cứ điểm.
Trên khu bắc, địch bám vào hang 3, 4 và cho một mũi đánh sang tiểu đội 2 ở hang 14, 15.
Tiểu đội 3 vẫn ngoan cường chặn địch. Sau 2 giờ chiến đấu bị hy sinh thêm 1 đồng chí, 3 anh
em còn lại đều bị thương vẫn dùng M79 và lựu đạn đánh trả, đạn ít, địch đông nên phải yểm họ
nhau lui về phía tiểu đội 2.
Trên khu nam địch tập trung B41, đại liên bắn mạnh vào hang 8, bộ binh từ 2 phía đánh tới. Tiểu
đội 1 còn 2 đồng chí vẫn chiến đấu đến 07h45 lui về hang 13 cùng tiểu đội 2 và chỉ huy đại đội
chiến đấu.

08h00 : địch chiếm hang 8, một bộ phận phát triển đánh hang 13 phối hợp với một bộ phận từ
trận địa cối đánh lên.
Tại hang 13 còn 2 cán bộ đại đội và 4 chiến sĩ. Địch bắn B41, AK, ném lựu đạn kết hợp gọi hàng.
Ta chống trả quyết liệt. Địch không vào được nhưng vây chặt bên ngoài. Đại đội phó quyết định
phá vây rút về hang 14 cố thủ. Hai cán bộ đại đội vượt trước sang được hang 14, còn 4 chiến sĩ
không sang được. Sau đó địch dùng bộc phá đánh sập cửa hang, 4 đồng chí này hy sinh.
Trung đội 1 chỉ còn giữ được hang 14 do 5 đồng chí tiểu đội 2 và cán bộ đại đội cố thủ. Vài chiến
sĩ tiểu đội 1 và 3 còn lại lợi dụng ngách đá ẩn nấp chờ trời tối rút.
Sau khi cơ bản chiếm được mục tiêu, pháo địch bắn thưa dần và rút bớt bộ binh.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
11h30 : địch đánh hang 14. Ta đánh trả. Đồng thời sư đoàn bắn 3 phát B72 xung quanh hang,
buộc địch phải lui về.
Pháo cối ta vẫn bắn vào trước trận địa trung đội 1 và vào A5-M13-A6.

19h00 : số anh em tiểu đội 3 về đại đội báo cáo. Đại đội trưởng báo cáo trên và đề nghị pháo cối
bắn trùm lên vị trí yểm hộ cho quân ta rút. Lợi dụng kết quả pháo cối bắn, số anh em còn lại đã
rút về được.

Ngày 24-9-1985

Sau khi chiếm điểm tựa, lực lượng địch bố trí phòng ngự khoảng 1 đại đội : khu bắc trước đây
tiểu đội 3 giữ có khoảng 2 trung đội, khu nam trước đây tiểu đội 1, 2 giữ có 1 trung đội.
Đại đội 5 được tăng cường 1 trung đội của đại đội 10 được lệnh phản kích, có hoả lực cấp trên
chi viện gồm 2 đại đội cối 120mm và 160mm, 1 đại đội pháo 85mm, 2 tiểu đoàn háo 105mm và
122mm.
Bộ phận chủ yếu có 13 đồng chí do tiểu đoàn phó chỉ huy, đánh hang 13, 8.
Bộ phận thứ yếu 1 có 1 đồng chí do đại đội trưởng chỉ huy đánh hang 14, 15, chặn địch từ khu
bắc phản kích.
Bộ phận thứ yếu 2 có 7 đồng chí do trung đội trưởng trung đội 1 chỉ huy đánh công sự 10, 7.
Bộ phận dự bị có 1 trung đội của đại đội 10 (tiểu đoàn 6).
Bộ phận hoả lực gồm 1 cối 60mm và 1 đại liên.

24h00 : đại đội hoàn tất công tác chuẩn bị.

Ngày 25-9-1985

03h00 : các bộ phận vào chiếm lĩnh vị trí triển khai. Đến 04h23 hoàn tất.

05h00 : hoả lực chi viện bắt đầu bắn, bộ binh còn cách địch 200m. Tiểu đoàn hó cho các bộ
phận vào tiếp, còn cách trận địa cối cũ 50m không còn giữ được bí mật nên đã nổ súng tấn công.

06h00 :
Bộ phận chủ yếu chiếm được trận địa cối cũ, phát triển chiếm hang 13.
Bộ phận thứ yếu 1 chiếm được hang 14.
Bộ phận thứ yếu 2 tiến qua vọng gác phía tây nam không thấy địch đã vào đánh chiếm được
công sự 10.
3 mũi bị hoả lực địch ngăn chặn, chưa phát triển được.

06h10 :
Đại liên, ĐKZ địch bắn ngăn chặn ta, đồng thời lực lượng tại chỗ chia làm 3 mũi phản kích.
Ta dựa vào khu vực đã chiếm đánh trả và gọi pháo cối bắn trùm lên đội hình địch. Quân phản
kích phải chạy về A5 và hướng đông bắc.
Hoả lực ta chuyển sang các mục tiêu ở đường biên và bắn vào khu bắc kiềm chế địch. Các bộ
phận phát triển : bộ phận chủ yếu chiếm hang 12, chi viện thứ yếu 2 chiếm hầm9, 7, hang 8, thứ
yếu 1 chiếm hang 15, chiếm đầu đoạn hào ngang giáp khu bắc chặn địch phản kích sang.

08h00 : ta chiếm lại khu nam, hy sinh 4 và bị thương 7 đồng chí.

08h00 - 10h00 : địch dùng pháo cối bắn và cho 1 tiểu đoàn vận động từ A5, A6 xuống bình độ
500 (khu bắc).
Đại đội 5 củng cố công sự, sẵn sàng chiến đấu, lùng sục các hang hốc và đề nghị tăng cường

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
lực lượng để hôm sau đánh tiếp. Pháo 2 bên vẫn bắn cầm canh. Đại đội 5 thỉnh thoảng bắn sang
khu bắc kiềm chế địch.

20h00 : trung đoàn ra lệnh cho đại đội 10 chiếm khu bắc trong đêm. Ta tổ chức trinh sát nhưng
gặp định gác không vào sâu được. Tiểu đoàn 5 đề nghị sáng 26-9 tấn công.
Pháo ta vẫn kiềm chế vị trí địch dọc đường biên.

Ngày 26-9-1985

04h03 : trinh sát trung đoàn lên nắm lại tình hình địch, nhưng địch đã rút lúc 03h00 mà tiểu đoàn
5 không biết do bộ phận thu tin kĩ thuật báo chậm.
Sau khi kiểm tra, tiểu đoàn cho lực lượng vào phòng ngự lại.

KẾT QUẢ

Ngày 23-9-1985 : ta diệt 100 tên địch. Bên ta hy sinh 17 và bị thương 8 đồng chí, mất 1 đại liên
và 1 cối 60mm.

Ngày 26-9-1985 : ta diệt 100 tên địch, thu 2 AK, 300 viên đạn K56, 34 viên đạn B41 và ĐKZ, 40
quả lựu đạn, 15kg thuốc nổ, 10 xẻng bộ binh, 2 bộ quân phục. Bên ta hy sinh 4 và bị thương 7
đồng chí.

Mạn phép bác phaphai em copy bài bác sang đây cho nó sinh động

Từ nãy đọc chủ đề này thấy nói nhiều đến Trận Lão Sơn ngày 28 tháng 4 năm 1984 tại Hà
Giang!
Không hiểu Lão Sơn có phải là Cao điểm 1509 không? Thời gian đó tôi cũng đang đánh nhau ở
đó, nhưng không bao giờ được nghe đến Lão Sơn. Không biết thông tin từ phía nào nhưng
những năm đó đánh nhau thì cứ 3 lính tầu 1 khẩu CKC với 2 ba lô lựu đạn. Ngoài trận trên đỉnh
1509 mà sau đó ta mất, các trận khác ít khi tập trung được quá 1 trung đội để tấn công vì địa
hình vùng Hà Giang rất hiểm trở, nhiều mìn và cả phía ta lẫn phía Tầu đều nhiều pháo. Pháo nói
chuyền nhiều hơn ngưòi. Một chiến dịch mà chết đến trăm người thì bọn tớ tải thương và tử sỹ sẽ
chết trước.
Lại nói đến pháo Tầu. Đúng là trước đây (trong kháng chiến chống Pháp), pháo binh Việt Nam
phải học của Tầu. Trước khi vào đánh nhau cũng nghe nói nhiều đến tài thiện xạ của pháo binh
Tầu, nhưng chỉ vài lần chạy pháo bắng thẳng (85mm) của Tầu ở đoạn đường phản gương
(khoảng hơn 2 cây số) mà không hề hấn gì thì chẳng còn tin những lời bình nữa. Dẫn chứng là
đoạn đường từ km3 Hà Giang đến gần Làng P dài gần 18 km rất nhiều đoạn thẳng tăp, xe ta vẫn
chạy cả ban ngày và ban đêm vẫn thắp đèn nhưng cả mấy năm tớ ở trên đấy không có một xe
nào bị pháo Tầu bắn hỏng cả (toàn bộ dẫy Bình độ 800 và 1250 bên kia biên giới là các trận địa
pháo TTầu). Có hôm từ trên đồi thấy 2 trận địa pháo Tầu bắn từ 6 giờ sáng đến gần 6 giời tối vào
trận địa 105 dưói chân đồi bên bờ sông Lô, tớ nghĩ chắc sẽ không còn khẩu pháo nào nguyên
vẹn, vì hàng ngày đi qua thấy hội pháo thủ thời sau này lười lắm, không như các anh thời đánh
Mỹ, nắp hầm pháo nổi đắp đát dầy chưa quá 1 gang tay. Nhưng chiều tối xuống hỏi thăm thì thấy
các khẩu pháo còn nguyên, hố đạn chi chít: Hỏi được nghe trả lời "1 ông bị thương, 1 khẩu pháo
hỏng nghẹ". Hàng ngày chỉ thấy khổ cho các rừng cây và nương chè của dân chịu trận pháo Tầu
(báo chí hồi ấy thưòng đưa tin - Hôm nay phía Trung Quốc pháo kích hơn 10.000 quả đạn... - Tụi
tớ không đến được nhưng chắc không sai lắm đâu. Nhưng trên ấy lính ta quen rồi nên chết thêm
1 người cũng không dễ lắm đâu (có thời gian tớ cũng đã phải nằm trong hang phẫu để thống kê
thương binh, tử sỹ)!!

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Pháo binh Tầu tại các khu vực dọc biên giới sino-VN còn có lợi thế là từ cuối những năm 60'''' khi
lính Tầu sang làm đường đã đo đạc tọa độ từng vị trí (không biết người Tầu đã có âm mưu từ lúc
nào).
Tư liệu do bạn huyphuc1981_nb đưa ra: "Trận đó xảy ra vùng suối Vị Thuỷ, nơi có điạ thế thuận
lợi cho Tầu nhất biên giới " chưa hoàn toàn chính xác: Suối đó là suối Thanh Thủy, nhưng nếu đó
là trận đánh trên Cao điểm 1509 thì còn cách suối Thanh Thủy khá xa. Lợi thế trên đó không phải
là do địa hình, mà là do đường giao thông từ Hà Nội lên (ngay cả bây giờ cũng vẫn là vấn đề
lớn). Còn về địa hình thì lính ta lợi thế hơn nhiều do thông tạo và không ngờ nghệch như lính Tầu
(ít nhất cũng trong những năm ấy).

"Quy mô và phạm vi của chiến cuộc 84-85 tuy nhỏ hơn 79 nhưng không kém phần khốc liệt. Tẹo
nữa thì đã có tổng động viên roài "
Cái ông vothuong_81 này thông tin chẳng chính xác gì cả. Đấy chưa phải là 1 cuộc chiến tranh,
chỉ là 1 cuộc xung đột biên giới "cứa cho VN chảy máu" là câu nói của phía Tầu. Sẽ không bao
giờ có tổng động viên, tớ học đại học xong vẫn đi lính là do nghĩa vụ. Từ HGiang về đến HN
khoảng gần 300 cây đi từ 6 giờ sáng đến tận gần 6 giời sáng hôm sau trên xe khách hồi bấy giờ
vì vậy hồi năm 1979 phía bên này tương đối bình yên do khả năng tiến thẳng về HN của Tầu
không thể có!
Còn đặc công, ở đâu không biết chứ ở trên ấy có bao giờ họ đi đến hơn 1 trung đội, thỉnh thoảng
họ cũng có những trận rất hay vì thế bọn Tầu rất tức. Nhưng đổi nhau là các giàn H12 khi thấp
thoáng bóng áo dù. Nhưng cũng không chỉ áo dù đâu mà cả áo chít be (áo sỹ quan), ngay cả khi
thấy lính tóc ngắn (trong quân đội không được để tóc dài-nhưng lính ở lâu trên chốt sẽ không cắt
tóc) cũng đều bị dọa bằng hàng giờ đạn pháo.
Lính thì lúc nào chả như nhau. Đang là thanh niên, xa gia đình... hàng tuần về thị xã HGiang nộp
báo cáo, bao giờ tớ cũng có quả "cầu bi" của đặc công, mặc dù lệnh của Quân khu, lính từ trên
chốt về thị xã không được mang lựu đạn trên người!
Lại nói đến tóc dài: lính ta tại khu vực Thanh Thủy kể cả sỹ quan đều để tóc dài, mặc quần đùi
(mùa đông hay mùa hè đều vậy) để đi lại, leo dốc không vướng víu, cổ, tay đều đeo vòng nhôm
tự làm lấy từ vỏ đạn. Vì vậy chính hôm đổi tiền mới (đổi tiền năm 1985) đơn vị đã bắt được 1
thám báo Tầu vì nó mặc một bộ Tô Châu mới cứng, tóc cắt ngắn rất chỉnh tề làm cho đám lính ta
nghi ngay. (Khu trên ấy mặc dù hầm ta-Tầu chỉ cách nhau 1 tầm đá ném nhưng ít thám báo do
mìn dầy đặc, chỉ cần bước ra khỏi lối mòn vào chỗ có cỏ là dính mìn cóc rồi).
Còn cuộc xung đột biên giới ấy thì tớ là người được tham gia. Ý đồ cao hơn của cấp trên thì
không biết nhưng được chứng kiến những gì diễn ra hàng ngày trong thời gian ấy (nhập nhũ 9/83
ra quân 12/85 trừ 3 tháng huấn luyện).
Lính ta đánh nhau đoàng hoàng lắm chứ không lèm nhèm như phía Tầu đâu. Không mất công tổ
chức bao nhiêu đài phát thanh ca ngợi TQTH vĩ đại để nhét vài viên thuốc vào trong cái nút phíc,
gài quả lựu đạn vào trong gói hàng thả trôi trên sông... để hại mấy người thuyền chài...Tính gan
dạ của lính VN thì phía Tầu cũng phẩi công nhận.
Nếu ai bây giờ lên Thanh Thủy, nhìn qua sông Lô là dãy 1250, trên sườn hồi ấy là các khẩu "cao
xạ" 37, 12''''6 và DKZ để bắn rượt đuổi lính vận tải gạo, đạn vào hàng Dơi. Nhưng bọn này cũng
ít khi bị dính ở đấy lắm, trừ các cậu dát quá không dám chạy nữa làm mục tiêu chết cho pháo
phòng không nó ngắm bắn.
(Ai lên đó, ngang qua Thanh Thủy hòn núi đá tay trái là Điểm cao 685, nừa phía này lính ta, nửa
phía kia hầm Tầu, còn hòn núi đá trước mặt bị lính Tầu chiếm hoàn toàn.
Trước khi ngoặt hồi ấy còn có xác 1 chiếc xe tăng và 1 chiếc zill 3 cầu của ta bị bắn hỏng từ 1979
là chỗ tụi này tập kết trước khi chuẩn bị chạy đến tận cầu "khỉ" qua suối Thanh Thủy để vào hang
Giơi. Cánh đồng trước mặt rộng cũng khoảng 1 km. Nếu bị cối nó bắn thì phải vừa chạy vừa đếm
để nằm xuống trước khi loạt cối tiếp nổ. Khu vực đó được gọi là cối xay thịt vì trừ các ngày 2-9, 1-
10... lúc nào cũng ầm ầm của tiếng đạn nổ, nằm phía ngoài hang Giơi nhìm lên vách đá trông
như hàn điện do mảnh đạn văng vào vách đá tóe lửa ra.
Như vậy đấy, để hiểu là cái trận gì đó mà phía Tầu nói nhiều về "chiến thắng" thật sự nó như thế
nào.
Cậu vo_thuong_81 vẫn chưa hiểu thật đâu: Thực sự trên mặt trận Vị Xuyên 83-85 chỉ nằm trọn

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
trong thung lũng Thanh Thủy thôi. Vì đến đầu năm 85 điểm cao 1509 đã bị Tầu chiếm mất rồi.
Chắc bây giờ cũng không còn là bí mật, xung quanh cao điểm 685 chỉ có khoảng 2 đại đội thiếu
của tiểu đoàn tớ. Ban đầu bọn tớ lên làm đơn vị tăng cường, sau đó trung đoàn tiếp quản từ đơn
vị bạn, nhưng lực lượng phía trên chỉ có vậy, do vậy không thể có chuyện các gia đình... Cũng có
một số đơn vị khác (không kể pháo binh) như công binh... từ HN lên và các cậu ấy số không may
ở khu vục được bọn tớ coi là an toàn nhưng vẫn dính pháo.
Nếu nói đến tính ác liệt thì mật độ pháo đối với 1 diện tích hẹp như vậy nhiều người đã tham gia
mặt trận Quảng Trị năm 1972 cũng nói là chưa hơn.
Nhưng cuộc sống của lính trên ấy tuy ác liệt nhưng cũng rất vui: các đồi chè sau khi bị pháo bắn
như được đốn đao tha hồ nhặt đọt theo công thức "2 tôm 1 tép" và ngồi sao chè bằng tay, vì thế
ở HGiang mà nói đến chè chốt thì không ai không biết. Lính gọi là chè mật chuột, nước pha xong
cắm tăm xuống không được mà vẫn xanh ngắt. Đi đào ong đất, tổ chức không kém chuẩn bị
chiếm lại 1 hầm của Tầu....
Chỉ buồn nhất là những lúc về Thị xã hồi ấy chỉ nghe các bài hát "tết này con không về", "rừng lá
xanh"...

Năm 88 em ở đó thì quãng đường nguy hiểm này đã được đào một đường hào, có tên là "
Đường hào mùa xuân ". Hồi ấy nó không bắn bằng 37mm với DKZ đâu, toàn 12,7mm với CKC
Sniper thôi. Lúc ấy em không dám mặc áo chít gấu toàn mặc áo lính, vì Tàu tuyên bố " Đổi một
xe đạn lấy một sĩ quan VN cũng đổi ".

"Trung đoàn 2, sư đoàn 328 Đặc khu Quảng Ninh vào thay phiên phòng ngự từ tháng 4-1985, lấy
phiên hiệu trung đoàn 983, sư đoàn 314.
Đại đội 5, tiểu đoàn 5 trước khi vào phòng ngự đã được củng cố, huấn luyện bổ súng. Biên chế 3
trung đội bộ binh và 2 tiểu đội hoả lực."
Đây có thể là đơn vị tớ, nhưng Quảng Ninh là cái thời rất xa trước đó vì từ hồi dưới Bắc Quang
nó đã là 314 và thuộc QK II(83 là lúc phần lớn bọn tớ nhập ngũ, không biết lúc đặt tên có còn ý
nghĩa khác không). Nhưng địa điểm và một số thông tin chưa chính xác. Nhũng chỗ ấy không
giáp Sông Lô và quân số được bổ sung không phải là trước khi vào phòng ngự-bọn tớ nhận
quân từ Quảng trị, Sóc Sơn và Hà Nam Ninh (hồi ấy) từ hồi đầu năm. Khi vào, như đã nói ở trên
bọn tớ chỉ là quân tăng cường cho 313, ngay khi vào tiểu đoàn đã là thê đội dự bị cho 1 E khác
là lính Hải Phòng (cũng là dự bị của 313) tấn công 4 hầm. Trận ấy không thành công, nhưng
cũng không mất nhiều người lắm (tuần ấy tớ bị phái xuống nằm trong hang phẫu). Sau khi E
chính thức vào bọn tớ mới tiếp quản của 313 và sau này giao cho 33 từ Cam-Pu-Chia về (không
biết có phải phiên hiệu thật không). Ngay từ đầu năm bọn tớ còn được nghe là tháng 10 năm ấy
sẽ được ra, vì vậy đi đâu cũng nói "bao giờ cho đến tháng 10... như tên 1 bộ phim hồi ấy.

Còn một chuyện này nữa, khẩu cối 61 hỏng là do lính ta, không hiểu sao, lính của đơn vị tớ được
huấn luyện rất kỹ, 1 băng AK, đứa nào cũng bắn được đủ 16 loạt không tắc cú mà không phải để
ý gì, thế mà lại đút đạn ngược đầu (và tất nhiên 2 cậu ấy hy sinh. Bây giờ cái quả đồi (phía bên
trái đường sau khi đi qua 1 cái cầu nhỏ ngay trước khi đi vào TX HG -hồi đó, bây giờ nó nằm
trong TX và quả đồi đã bị đào mất 1 nửa) là nghĩa trang của ĐV tớ. Khi ra quân, tớ cũng có bảo
bác lái xe ca dừng lại để xuống thắp hương cho các bạn đồng đội. Bây giờ các gia đình liệt sỹ đã
lên đưa họ về quê hết rồi.

Đoạn đường mà Dongadoan nói đến tụi này gọi là đoạn mặt gương, 12 ly 8 hay DK-37 từ 1250
đều không bắng được đến đấy, từ trên đi xuống phía bên trái là mấy hầm pháo bắn thẳng của
mình. Ngày xưa là 76 ly 2 sau đó mình thay bằng thằng "giơ cao đấm khẽ" 82 mm (tiếng đề pa
rất to nhưng bên kia chỉ nghe bụp một cái thôi). Còn đối diện (vì thế gọi là mặt gương) cũng là
các lỗ pháo bắng thẳng của Tầu (trông chỉ là các chấm đen đen thôi). Trên đấy ở các phía khác
chắc cũng có dùng súng bắng tỉa, nhưng ở phía này mà thấy được miệng hầm thì pháo bắng
thẳng nó nói chuyện trước (chạy ở đoạn mặt gưong ấy thỉnh thoảng cũng có 1 cái hầm ếch
nhưng không ai dám chui vào vì 82 bên kia cũng được sử dụng để bắng tỉa-đã 1 lần đưa công

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
văn mình đã phải chạy như vậy vì bắt đầu xuống nó đang bắn đạn khoan, nhưng được một lúc
thấy khói đùm trên mặt đường chỉ còn cách vừa chạy vừa nằm như qua cánh đồng Hang Giơi.
bữa đó hội sỹ quan trung đoàn bộ chạy ra đón họ chỉ trách tại sao liều vậy).

Nhưng em cũng hơi băn khoăn thấy bác bảo pháo tàu bắn không xuất sắc lắm. Ông chú ruột em
đi hậu cần QK 2 trên Hoàng Liên Sơn nói chỗ ông ấy lộ ra mục tiêu nào là pháo nó xơi chính xác
luôn, mà thường chỉ tốn vài ba viên đạn (chắc nó bắn thẳng?). Đêm tối đất tàu đường xá, xe cộ
đi lại sáng trưng, còn bên mình thì tịnh không một đốm sáng vì sợ pháo dập. Đến cái xe bò dùng
để kéo hàng, hở ra cái nào chưa nguỵ trang kịp, là y rằng quay đi quay lại đã thấy đạn pháo nổ
đến đùng một cái đi tiêu luôn.

Trong thư viện quốc gia hà nội có một cuốn lịch sử trung đoàn pháo gì gì đấy, có từ thời đánh
Mỹ. Trong chương nói về đánh tàu thì thấy ngắn tủn có chục trang, kể về một trận tập kích pháo
chính xác vào sư đoàn bộ của quân Tàu đóng ở lưng chừng núi. Sau đó ta khẩn trương sơ tán
pháo. Pháo ta vừa lui ra ra được 100m thì hố pháo bị trúng đạn chính xác luôn. Trên đường kéo
pháo ra cũng bị địch bắn chặn quyết liệt. Nhưng cũng may địch bắn đón, theo toạ độ tính trước
mà chưa quan sát được thực tế lui pháo của ta nên pháo ta không bị thiệt hại.

Trong chương này có nói đến tinh thần bộ đội trước đó nói chung đánh giá pháo ta "lép vế" với
pháo tàu. Nhưng Trung đoàn qua trận đánh này đã củng cố lại niềm tin vào sức chiến đấu của
pháo binh ta.

TRẬN TIẾN CÔNG A6b (VỊ XUYÊN - HÀ TUYÊN)


của đại đội 5, tiểu đoàn 5, trung đoàn 567, sư đoàn 322, quân đoàn 26 Quân khu 1.
Ngày 31-5-1985.
(Nguồn : KNCĐ).

ĐỊA HÌNH

Mỏm A6 thuộc sườn đông dãy núi đá 400 (cao khoảng 200m), cách biên giới Việt Trung (mốc
12-13) khoảng 1,5km về phía đông nam.
Tiếp giáp về phía đông A6 có đồi đá Pháp; từ đông bắc sang tây bắc có đồi Đài, đồi Cô X, đồi
chuối, đồi Cây Khô, mỏm A5, A23; phía tây mỏm A22 (A6 cách các mỏm trên khoảng 200-300m);
phía nam có hang Gió (cách 200m), hang Dơi, hang Mán, hang Làng Lò (500-100m) thuận lợi
cho giấu quân.
Mỏm A6 là núi đá tai mèo không liền khối, rộng 70m, dài 130m, phía đông và tây dốc gần như
thẳng đứng, phía nam và bắc dốc thoài. Từ sườn nam sang tây bắc dốc thẳng đứng hình thành 2
tầng, khó phát triển khi tấn công (phải đi vòng sang đông nam). A6 gồm 2 mỏm, nối với nhau
bằng một yên ngựa thấp, địch chiếm A6b, ta chiếm A6a cao hơn không đáng kể. Cây cối đã bị
pháo 2 bên bắn trụi.

TÌNH HÌNH ĐỊCH

Từ tháng 4-1984 địch tiếp tục mở rộng phạm vi lấn chiếm sang đất ta nhưng bị chặn lại ở khu
vực bắc suối Thanh Thuỷ.
Phòng ngự trực tiếp tiếp xúc với ta ở A6b-A5-đồi Chuối-Cây Khô là tiểu đoàn 2 và ở 400-233 là
tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 595 sư 199, quân đoàn 67 Đại quân khu Tế Nam của TQ. Sư đoàn
199 vào thay phiên từ 18-5-1985 vẫn lấy phiên hiệu đơn vị phòng ngự cũ là sư đoàn 40 quân
đoàn 14 Đại quân khu Tế Nam.
Địch bố trí phòng ngự ở A6b như sau :
Phía nam : ổ số 1 có 3-4 tên. Ổ số 2 có 4-6 tên. Ữ số 3 có 3-4 tên, có 1 trung liên.
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Phía bắc và đông bắc : ổ số 4 có 7-10 tên, trang bị 1 trung liên, 1 đại liên, 3 khẩu B41, 2 giá H12
ứng dụng mỗi giá 2 ống, 1 máy VTĐ, 1 ống nhòm hồng ngoại. Ữ số 5 có 4-5 tên, trang bị 1 trung
liên, 1 khẩu B41, 1 giá H12 ứng dụng 2 ống. Ữ số 6 có 7-10 tên là sở chỉ huy đại đội, có 3 máy
VTĐ, 1 ĐT.
Phía bắc và phía tây : ổ số 7 có 3-4 tên, trang bị 1 cối 60mm. Ữ số 8 có 4-5 tên. Ữ số 10 có 2-3
tên.
Trên đỉnh có ổ số 9, có 4-5 tên, trang bị 1 đại liên có tầm kiểm soát rộng, 1 B41. Ữ số 3 và 4 là ổ
cảnh giới.
Tổng cộng địch có 40-55 tên, trang bị 2 đại liên, 4 trung liên, 5 B41, 3 giá H12 ứng dụng 6 ống.
Mỗi ổ ngoài trang bị AK còn có hàng trăm lựu đạn, mìn, mặt nạ phòng độc, thiết bị thông tin...
Công sự của địch là bao cát hoặc xếp đá cao khoảng 0,4m, khoét lỗ bắn và thả lựu đạn. Bên
ngoài công sự buộc lựu đạn giật nổ. Trước công sự 8-10m địch cài mìn ĐH dưới đất, trên cây,
trên nhũ đá... phía tiếp xúc với ta gài mìn đè nổ và vướng nổ chống bộ binh cả loại chế sẵn và
ứng dụng (nhét 6 thỏi TNT vào ống bơ và gắn bộ phận gây nổ).
Ban ngày địch hạn chế đi lại (có lúc phải bò), ban đêm phái 3 tổ cảnh giới ra phía tiếp xúc với ta,
tung thám báo, biệt kích, tiếp tế cho A6b.
Trong quá trình chiếm đóng địch bị ta bắn tỉa, tập kích nên tinh thần binh lính đã xuống thấp.

TÌNH HÌNH TA

Trung đoàn 567, sư đoàn 322 vào thay phiên từ 4-4-1985, lấy phiên hiệu trung đoàn 982, sư
đoàn 313.
Phía ta, phòng ngự ở đồi Pháp, đồi Cô X, đồi Đài, A6a, 200, A21 tiếp xúc với địch là tiểu đoàn 4
và 6 của trung đoàn 567, sư đoàn 322, quân đoàn 26 Quân khu 1, tiểu đoàn 5 là lực lượng cơ
động.
Để thực hiện đánh chiếm A6b, ta đã huấn luyện đại đội 4 tiểu đoàn 5. Nhưng từ 4 đến 7-5-1985,
địch tấn công lấn chiếm trận địa ta, đại đội 4 được đưa vào phòng ngự. Nhiệm vụ được trao cho
đại đội 6, trong quá trình triển khai, đại đội 6 gặp nhiều khó khăn, quyết tâm không cao, một số
chiến sĩ bỏ ngũ... vì vậy cuối cùng nhiệm vụ đánh chiếm và chốt giữ lại A6b được giao cho đại
đội 5.

Đại đội 5 tham gia chiến đấu 83 đồng chí (3 trung đội + 2 cối 60mm) trên tổng số 111 người, đại
đội huấn luyện khá, quyết tâm cao, đoàn kết và kỉ luật tốt.
Đại đội 5 được tăng cường 1 phân đội trinh sát, 1 tiểu đội công binh, 1 tổ hoá học (4 người với
32 quả đạn M72 cháy), 1 tiểu đội vô tuyến điện có nhiệm vụ đánh chiếm A6b và chốt lại.
Nhiệm vụ :
Trung đội 1 : 21 đồng chí, tăng cường 3 công binh, 3 trinh sát, 2 hoá học, 2 thông tin (cộng 31
người), trang bị 5 B41, 1 B40, 2 M72, 27 AK, 6 quả MĐH10, 6 ống bộc phá. Chia làm 6 tổ (1 tổ
dự bị) đánh từ hướng đông nam diệt ổ số 4, 5, phát triển diệt ổ 6, 9, chiếm sườn đông bắc A6b,
chặn quân phản kích từ đồi Cây Khô và A5.
Trung đội 2 : 17 đồng chí, tăng cường 3 công binh, 3 trinh sát, 2 hoá học, 2 thông tin (cộng 27
người), trang bị 2 B41, 1 B40, 2 M72, 12 AK, 4 quả MĐH10. Chia làm 2 tổ đánh từ nam tây nam
diệt ổ 1, 2, 3, phối hợp với trung đội 3 diệt ổ 7, 8, chiếm sườn tây nam A6b, chặn quân phản kích
từ A22 (400).
Trung đội 3 (thiếu tiểu đội 9) : 14 đồng chí, tăng cường 3 công binh, 3 trinh sát, 2 thông tin (cộng
22 người), trang bị 3 B41, 9AK, 4 quả MĐH10. Chia làm 2 tổ, đánh từ tây bắc diệt ổ 7, 8, chiếm
sườn bắc và tây bắc A6b, chặn quân phản kích từ A5, A22, A23.
Tiểu đội 9 : 13 đồng chí, tăng cường 2 thông tin (cộng 15 người), trang bị 1 B41, 1 B40, 8 AK bố
trí ở phía đông A6a làm dự bị.
Đạn dược : B41 7 viên/khẩu, M72 8 viên/khẩu, AK 150 viên/khẩu, mỗi chiến sĩ trang bị 6 thủ
pháo và 20 lựu đạn.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Hoả lực yểm trợ của tiểu đoàn 4 và 6 từ 5 điểm tựa xung quanh có nhiệm vụ kiềm chế đồi Chuối,
Cây khô, A22, A23 gồm : 9 cối 60mm, 3 khẩu ĐKZ82, 17 B41, 4 khẩu 12,7mm, 3 khẩu MK19, 1
đại liên.
Hoả lực của cấp trên có : 20 súng cối 82mm của trung đoàn 567, 6 khẩu pháo 76,2mm, 19 khẩu
pháo 105mm và 122mm.
Đại đội 6 tiểu đoàn 4 đảm nhiệm vận tải đạn, gạo, nước và thương binh tử sĩ.
Đại đội 11 tiểu đoàn 6 đảm nhiệm chuyển gỗ, bao cát làm công sự.

DIỄN BIẾN

Ngày 22-5-1985

Đại đội 5 vào tập kết ở hang Làng Lò cách A6b 1km.

Ngày 28 và 29/5/1985

Đại đội 5 triển khai ở A6a, hang Gió, Cây si, A21 đúng kế hoạch, an toàn. Trong quá trình trinh
sát ta phát hiện thêm ổ số 10. Trong ngày hôm đó, tiểu đoàn 4 dùng ĐKZ bắn sang 400 diệt 6
công sự và 1 tổ cảnh giới của địch.

Ngày 30/5/1985

Địch ở A6b bắn súng cối sang A6a làm ta hy sinh 1 và bị thương 2 đồng chí. Mũi chủ yếu trung
đội 1 phải dồn lực lượng lại thành 5 tổ (1 tổ dự bị).

24h00 : đại đội trưởng kiểm tra các bộ phận lần cuối và báo cáo với tiểu đoàn.

Ngày 31/5/1985

03h00 : đại đội 5 bắt đầu chiếm lĩnh trận địa.

04h45 : ta hoàn tất việc chiếm lĩnh trận địa, chậm 30 phút so với kế hoạch do trung đội 3 vướng
bãi mìn phải đi vòng.
Trung đội 1 cách bãi MĐH của địch 10m, 2 tổ cách địch 40m.
Trung đội 2 bố trí hàng dọc cách địch 20m.
Trung đội 3 bố trí hàng dọc cách địch 70m.

04h47 : trung đoàn phát lệnh bằng VTĐ, hoả lực của ta bắn xuống các điểm tựa của địch.
Từ A21, ĐKZ của ta bắn vào ổ số 8 làm chuẩn cho trung đội 3. Cối 60mm từ đồi Cây Gạo bắn
xuống 400, A6b, đồi Cây Khô, đồi Chuối. Cối 82mm tây 673 (trận địa Phong Lan) bắn vào đồi
Cây Khô 1 quả đạn sáng làm hiệu lệnh
Địch bị bất ngờ không phán đoán được ý định của ta nên không phản ứng được gì.
Trên các hướng ta dùng B40, B41, M72 bắn vào các mục tiêu mở đường.

04h55 : Ta xung phong.

Hướng trung đội 1, MĐH không nổ. Ta dùng 5 ống bộc phá đánh để mở đường. Do sót mìn, khi
xung phong có 1 đồng chí bị thương.
Hai toán địch cảnh giới bên ngoài không còn. Tổ 1 đi đầu đánh ổ số 4, địch ném lựu đạn ra, ta
tung thủ pháo vào, sau 5 phút chiếm được tầng trên. 3 tên địch nằm chết ngoài công sự. Ta đánh
tiếp xuống tầng dưới, diệt 3 tên và bắt sống 1 tên, thu 3 khẩu B41 và 1 máy VTĐ, 1 ống nhòm

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
hồng ngoại. Tổ 3 đánh ổ số 5. Sau khi B41 bắn sập kè đá, trung đội trưởng chỉ huy đánh lướt
qua dùng B41 yểm trợ cho tổ 2 đồng chí Tuyến và Quang theo hào đá dùng thủ pháo đánh tiếp ổ
số 9. Đồng chí Quang chiếm được khẩu đại liên bắn truy theo bọn địch đang chạy về ổ số 6.
Địch ở đồi cây Khô bắn cối 60mm chặn ta. Lúc này ta chưa chiếm được ổ số 6 và 8, địch từ đó
phản kích lên ổ số 9, tổ 2 người của ta phải rút về ổ số 5.
Sau khi chiếm lại ổ số 9, địch chia làm 2 mũi, mỗi mũi nửa tiểu đội tập trung phản kích 4 lần vào
ổ số 4, 5 đều bị ta dùng lựu đạn đánh lui.

Hướng trung đội 2, sau khi MĐH nổ, ta xung phong không ai bị thương vong. Đồng chí Thêm
dùng B41 bắn vào ổ số 2. Địch ở 400 dùng ĐKZ bắn tới, đồng chí này hy sinh. Tiểu đội trưởng
Kha lên thay bắn tiếp cũng bị trúng đạn hy sinh.
Sau khi diệt toán cảnh giới, đánh chiếm được ổ số 3. Ta dùng B41, B40 bắn tiếp vào ổ số 1, 2
chi viện cho bộ binh đánh vào. Khi sục vào không còn địch.
Liên lạc với đại đội trưởng bị gián đoạn. Đồng chí Thu đại đội phó chính trị phán đoán trung đội 1
gặp khó khăn lệnh cho trung đội 2 để một bộ phận giữ khu đã chiếm, còn lại phát triển lên bình
độ trên nhưng gặp vách đá và mìn không đi được. Lực lượng trung đội 2 chuyển sang hỗ trợ
trung đội 1 và 3.

Hướng trung đội 3, MĐH không nổ. Ta dùng B41 bắn vào bãi mìn để mở đường. Khi xung phong
mìn nổ làm đồng chí Khánh trung đội phó 3 chiến sĩ bị thương (sau đó 2 đồng chí hy sinh).
Lúc xung phong chia làm 2 mũi cùng đánh ổ số 8 và 10. Chiếm được ổ số 10 trước còn ổ số 8 vì
vách đá cao không lên được. Bị mất liên lạc với đại đội trưởng, đồng chí Khiêm đại đội phó ra
lệnh cho trung đội 3 để lại một tổ giữ ổ số 10 số còn lại chuyển sang hướng ổ số 4 (trung đội 1
đã chiếm) để đánh tiếp sang ổ số 8.

05h15 : đại đội 5 đã làm chủ ổ số 1, 2, 3, 4, 5, 10, địch còn cố thủ chống cự ở ổ số 6, 7, 8, 9.
Đại đội trưởng quay về ổ số 4 báo cáo tiểu đoàn và điều lực lượng vào đánh tiếp. Chiến sĩ ta
xuống báo trong ổ số 6 địch đang gọi điện.
Sau khi B41 bắn, tổ 4 do đại đội phó Khiêm chỉ huy đánh ổ số 6, tổ 5 đánh ổ số 9 và 8. 5 phút
sau ta chiếm được. Địch nằm chết quanh các hốc đá. Ữ số 6 còn 2 xác chết và nhiều vũng máu,
3 máy VTĐ vẫn có tiếng nói. Bọn còn sống chạy về A5.
Trong khi ta tấn công, địch ở ổ số 7 bỏ chạy ta không biết. Đến 5h35 ta vào chiếm nốt ổ số 7.
Trận đánh chiếm A6b kết thúc. Ta nhanh chóng triển khai phòng ngự.

7h00 : pháo địch bắn trùm lên A6b, địch tổ chức tấn công Cô X, đồi Đài.

07h30 - 21h00 : địch từ A5 và A23 theo 2 hướng 5 lần tấn công A6b. Mỗi hướng từng đại đội
địch thay phiên nhau xung phong liên tục.
Từ 1-6 đến 3-6-1985 địch tấn công tiếp 7 lần nữa.
Các đợt xung phong đều bị đại đội 5 (ngày 31-5 và 1-6) và đại đội 7 (ngày 2 và 3-6) đẩy lui. Hoả
lực ta phát hiện sớm đánh nhiều lần vào quân địch khi chúng đang tập kết hoặc cơ động. Các
toán vào gần được bị bộ binh ta đánh lui.

Đêm 1/6/1985 đại đội 5 bàn giao trận địa cho đại đội 7 tiểu đoàn 4.

KẾT QUẢ CHIẾN ĐẤU

- Trận tấn công A6b (31-5-1985):


Địch bỏ lại 25 xác. Đài quan sát của ta còn phát hiện ở hướng đồi Cây Khô địch khiêng ra 28
cáng.
Ta : hy sinh 4 và bị thương 15 đồng chí. Ta bắt 1 tù binh, thu 1 đại liên, 2 trung liên, 3 súng B41,
4 AK, 3000 lựu đạn, nhiều đạn AK, B41, 4 máy VTĐ, 1 điện thoại, 1 ống nhòm hồng ngoại.
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
- Trận chống địch phản kích (31-5 đến 1-6-1985) : đại đội 5 hy sinh 13 đồng chí và bị thương 24
đồng chí. Không thống kê được số thiệt hại của địch.
- Tiêu thụ đạn dược (trong cả 2 trận):
M72 : 32 quả; B40, B41 : 280 quả.
Bộc phá ống : 8 ống; MĐH10 : 8 quả.
Thủ pháo : 65 quả; lựu đạn : không thống kê được.
Cối 60mm : 5000 viên, cối 82mm : 5200 viên.
ĐKZ : 70 viên, đạn pháo : 5920 viên.
12,7mm : 4000 viên; K56 : 9000 viên; Đại liên : 9000 viên.

Riêng trong trận tấn công bắn 500 viên đạn cối 82mm, 98 viên đạn 76,2mm, 494 viên đạn
105mm và 122mm.

Đúng là pháo nói chuyện nhiều hơn người thật !

Trong trận chiếm A6B sáng 31-5, theo phía ta, địch bỏ lại 25 xác chết và bị bắt 1 tên; ta hy sinh
4, bị thương 15. Theo phía TQ, ngoài 211 (A6B) ta còn tấn công vào các điểm 140, 142, 156,
166 thất bại, thiệt hại hơn 300 người (?!), đây là chiến dịch phản kích mang tên N-1 của trung
đoàn 982. Điểm cao 211 ta chiếm được 2 vị trí TQ trên đó, vị trí thứ 3 địch vẫn giữ được (?!). ,
điểm cao 156 ta chiếm được nhưng địch rút xuống hầm và phản kích chiếm lại. Trong tất cả các
trận trên TQ chết 21, bị thương 81, bị bắt 1.

A6b, vị trí 1 và 2 do ta chiếm.


(Có lẽ hơi khó tin là suốt thời gian dài như vậy ta không chiếm nốt được vị trí 3, hoặc địch còn
giữ được như thế mà không phản kích chiếm lại được. Chưa kể tiếp tế cho số quân trên đó).

Sau đó quân TQ nhiều lần phản kích chiếm lại A6B, nhưng đều bị quân ta đánh lui.
Theo phía ta, từ 1 đến 3-6-1985, ta hy sinh 13, bị thương 24, không rõ số thương vong của địch.
Theo phía TQ thì địch mở nhiều đợt phản kích trong 44 ngày, dùng cả đặc nhiệm nhưng đều thất
bại và bị thiệt hại nặng, từ 1 đến 11-6-1985 quân TQ bị chết 120 tên, bị thương một số lớn. Trung
đoàn 595 (sư đoàn 199, quân đoàn 67) TQ bị tê liệt. Phía VN cũng nhiều lần tiến công và bị chết
hơn 300 người (?). Ngày 8-9-1985, TQ chiếm lại A6B chỉ với 1 chết, 3 bị thương (?). Trong suốt
11 tháng chiếm đóng, sư đoàn 199 bị chết hơn 300 tên.

Trận đánh chiếm và phòng ngự A6b là một trận đánh xuất sắc, gây cho địch nhiều thiệt hại, được
phía ta đánh giá cao và bản thân TQ cũng tốn khá nhiều giấy mực về trận đánh.

Lính TQ bị thương trong trận đánh ở A6b.

Các mốc giao tranh chính, nhờ bác phaphai kiểm tra hộ. Do TQ đưa ra :

12/7/1984
20-21/12/1984
15/1/1985
8/3/1985
19-20/7/1985
23/9/1985
28/1/1986
19/10/1986
6/1/1987
23/4/1987

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Bác phaphai có biết tổn thất của phía ta là bao nhiêu không. Bọn TQ nhận chết 3.000 quân và
tuyên bố VN chết 18.000, thậm chí 42.000 !
Hồi trước em xem TV thấy nói nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Vị Xuyên có 1.700 mộ. Có lẽ phía ta hy
sinh khoảng 2.000.

Một số nguồn nước ngoài cho rằng số tử vong của 2 bên từ 1.000-3.000.

Chú này nhảy vào công sự của ta, vừa được chụp ảnh xong thì 1 phút sau được bộ đội ta cho
một phát, chết luôn tại chỗ !

"Bất chấp đạn pháo VN, các thành viên đội biệt kích xúm lại quanh người đồng đội đã anh dũng
ngã xuống..." - bọn Tầu chú thích thế. Còn nói ngắn gọn là đi kéo xác chú vừa bị bắn chết về !

Một trong 2 người đó là anh người làng em, tên là Nhân. Chắc là lúc ác liệt quá nên vội vàng
thành ra...
Bác ở HN thì hôm nào mời bác đi uống bia. Ông anh họ em cũng ở trên chốt hồi ấy, nhập ngũ
cùng đợt với anh Nhân, rất tha thiết gặp lại bạn chiến đấu cũ.
PM cho em nếu bác rảnh nhé.

Tại ku Răng Đốm chỉ coi trong fas - chứ nhớ có lần cái vụ tàu phun lửa zippo teo có nói đến cái
phóng lựu này - nhưng hình như không có nói đến model - ku MK 19 phóng lựu ít được nhắc đến
vì nó là vũ khí dành cho hai quân - thường được đặt trên Tuần Giang Đỉnh - mẽo - RCP hay
Riverine Craft Patrol - hay các Giang Tốc Đỉnh - PBR- Patrol Boat Riverine - Trong mấy web mẽo
nói về CTVN - có nhắc đến MK 18 rồi MK19 - trang bị cho tàu cao tốc của SEAL tại VN - hay
trang bị cho các Giang đỉnh mẽo ở đồng bằng sông Cửu Long .

Vô : http://www.riverinesailor.com/Weaponry.htm nói về tụi MOBILE RIVERINE FORCE - TASK


FORCE 117 ở Kiên Giang nè .

còn TASK FORCE 116 thì ở Bình Thủy - Cần Thơ - theo cách phân bố của River Patrol Force thì
:

River Division 51 Can Tho/Binh Thuy


River Division 52 Sa Dec (later Vinh Long)
River Division 53 My Tho
River Division 54 Nha Be River
Division 55 Danang

Kiếm thêm nè : http://www.mrfa.org - đủ đồ chơi hết - có luôn vụ Vũng Rô với TASK FORCE 115

Trở lại con MK 19 này - như vậy là chứng tỏ nó có mặt ở sẵn nhà mình - nên chắc là chuyển lên
phía bắc sau này cũng là điều dễ hiểu

Gửi Chianghan: "Bác phaphai có biết tổn thất của phía ta là bao nhiêu không. Bọn TQ nhận chết
3.000 quân và tuyên bố VN chết 18.000, thậm chí 42.000 !"
Con số thật không bao giờ được biết, dù bên nào đi nữa, nhưng chỉ có 1 thông tin duy nhất là
thời gian đó ta không bao giờ có đủ tưng ấy quân trên Vị Xuyên để mà chết đâu!!!!

Về vũ khí trên Vi Xuyên hình như tâ có BKĐ (hình như 1 ngựa chỉ chở được 1 quả), pháo 122
(qua đầu bọn tớ nổ thêm 1 cái trước khi chui xuống đất), BM13 (quay đít lại hướng biên giới, xe
nào bắng xong chạy ngay để hậu quả cho tụi lính xung quanh-tiêng kêu như hồi 1972 B52 ở Hà
Nội). Mỗi MK (chiến dịch), nếu không phải tham gia trực tiếp tụi này chuẩn bị đón xem vì còn đẹp
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
hơn cả pháo hoa ở Hà Nội bây giờ! nhưng chỉ sau gần 1 giờ là chui vào hầm cho nhanh để tránh
phản pháo từ phía Tầu!

Thiệt hại của phía ta có thể tính đơn giản như tớ đã nói, quả đồi bên trái qua cái cầu Hà Giang
(hhòi đó là trước khi đi vào TX), bây giờ đã bị bạt đi 1 nửa (có thể bạt đi 1 nửa) là nghĩat trang
của đơn vị tớ (tính sơ sơ đi, các mộ có thể cách nhau bao nhiêu và nếu có phủ kín cái quả đồi
con con đó cũng có thể làm được bao nhiêu mộ!).

Quên mất, về vũ khí hồi đó ta cũng có thử AT1 hay AT2 gì đó (tên lửa dòng dây định để phá các
trận địa bắn thẳng của pháo tầu), nhưng tụi điều khiển chúng hèn quá, vừa bắn đã lủi ngay vào
hầm tên lửa mất điều khiển không thể bắn trúng được,sau thôi không sử dụng nữa!

Tớ không phải là pháo binh nên không thạo lắm, thấy nói là BM 13, giàn phóng là các thanh sắt
như trong ảnh đặt trên xe GRAD, nhưng quả đạn dài gần hết giàn phóng chứ không ngắn như
vậy đâu. Xe đỗ thành hàng ở con đường song song với đường HG-Thanh Thủy, quay đít lại phía
mặt trận, xe nào bắn xong đi ngay. Các xe giàn phóng đi được một lúc pháo Tầu mới bắn trả lại.
Tớ cũng không biết Tầu hồi ấy có rada hay không, nhưng hình như các trận địa 130 và 122 ở
dọc đưòng đi (các trận địa 82 ở gần hơn) không bao giờ bị hỏng pháo cả. Cũng giống như hồi
đánh Mỹ, một trận địa chính, có kèm theo mấy trận địa giả. Khi ta bắn pháo thấy lửa chớp ở mọi
nơi. Còn xe chở đạn và thực phẩm vào L. P. chạy ngày không nói, chạy đêm đều bật đèn pha (tớ
thỉnh thoảng vẫn phải theo xe ra và về từ TX HG). Thỉnh thoảng cũng có lính ở trên xe bị chết
hoặc bị thương do mảnh đạn pháo nhưng cả thời gian tớ ở trên ấy không có xe nào bị bắn hỏng
cả. Về sau mấy cậu ra quân sau nói có 1 xe chở thịt hộp, chắc lái xe mới, bị pháo bắn đuổi, chui
xuống gầm cầu trốn, xe mới bị bắn hỏng! Dọc đường từ cây số 3 đến tận gần L. P. chỉ có mấy
cây gạo và cây sữa là còn sống, những cũng hầu như công còn một cành lá nào. Ở khu vực ấy
cũng không có 1 cái nhà dân nào vì đã bị bắn cháy hết. Nhưng hồi năm ngoái xem trên TV thấy
ca ngợi xã ấy (hình như tên là Quyết Tiến, hay cái gì Tiến ấy) được khen ngợi là làm kinh tế giỏi!

Tớ có thể mô tả cái giàn phóng đó vì trước khi lên chốt, đơn vị nằm chờ ở Xã Tân Tiến (nằm
cạnh HG), trưóc khi bắn các xe pháo đỗ ở trong thôn, chập tối mới bò ra con đường ấy, bắn
xong đi ngay. Bọn tớ hay ra đấy hái ra dớn, thấy xe tên lửa ra là phải chạy về ngay để chui vào
hầm vì ngay sau đó là Tầu phản pháo. Còn BKĐ (không biết tên thật của nó là gì) thì quả đạn rất
to, lúc bay lên như một cái thuyền lửa, nổ phía bên kia rất to. Cối 160, quả đạn nặng gần 50 kg,
hố to như hố bom B52. Bọn tớ trên đỉnh núi đá đạn rơi sát bên nghe tiếng đuôi nó lắc hút-hút và
nổ dưới chân núi như bom. Trên ấy, pháo mình bắt sát hầm mình, Tầu chỉ dám bắn xa vị trí lính
Tầu thôi, còn gần chúng chỉ dám dùng cối. Nhưng thỉnh thoảng tụi lính pháo binh cũng bị phạt,
phải lên vác bê tông xây dựng hầm pháo bắn thẳng vì bảo quản vũ khí tồi, liều phóng ẩm pháo
hụt tầm rơi cả vào hầm mình (miệng hầm mình hưóng về phía HG.)

Trước có chủ đề về radar pháo binh rồi, nhưng chắc ở box KTQS bị khoá.

Nguyên lý của radar phản pháo là nhanh chóng xác định được toạ độ của pháo bên kia. Muốn
vậy rada quét liên tục vào hướng có khả năng bị bắn tạo nên một màng điện từ. Khi đạn pháo đối
phương xuyên vào màng điện từ thì active hệ thống theo dõi quỹ đạo, từ đó tính được điểm xuất
phát của quả đạn tức là trận địa pháo bên kia.

Để radar phát hiện được thì đạn phải bay bổng lên hình vòng cung. Còn đạn bắn thẳng khó bị
phát hiện, phải dùng trinh sát.

Công nghệ này đòi hỏi kỹ thuật radar kết hợp với máy tính. Bao giờ nước Nam ta là được đây!

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Xin kể lại câu chuyện được nghe của một vị tiền bối kể lại về mặt trận Vị Xuyên, trận đánh đồi
852:
Khựa chiếm được đồi 852, bố trí công sự cực kỳ vững chắc. Kinh nghiệm của Khựa trong chiến
tranh Triều Tiên về đào địa đạo là thiên hạ vô địch. Đồi 852 có ý nghĩa như một cái chốt trên toàn
trận địa, nên Trung Quốc lựa chọn các thành phần rất tinh nhuệ lên giữ chốt. Trong suốt 3 ngày,
Việt Nam dùng phi pháo bắn gần như huỷ diệt trận địa rồi cho bộ binh xung phong, lên lần nào
chết lần ấy, thương vong gần 200 người mà không chiếm được đồi.
Đêm thứ 3, thay đổi cách đánh, đưa một đại đội đặc công bí mật tiếp cận trận địa, có vị tiền bối
mà tôi nhắc đến tham gia. Lần này, lực lượng TQ đóng chốt tưởng Việt Nam hoặc đã nản, hoặc
nếu có đánh thì cũng như những lần trước, dùng hoả lực chế áp rồi mới tấn công. Trong đêm, đại
đội đặc công có 82 người tiếp cận mục tiêu rồi tấn công trận địa, hầu hết là bằng vũ khí lạnh. Lúc
nhẩy vào chiến hào địch, có 5 người vướng mìn chết ngay trước khi xâm nhập, trận tấn công gần
như bị lộ, nhưng cũng đã có hơn 30 người lọt được vào tuyến chiến hào một, số còn lại bị bắn
chặn thương vong thêm một số và sau đó buộc phải rút. Lúc đó, Trung Quốc chưa phát hiện ra
lực lượng Việt Nam đã thâm nhập tuyến chiến hào đầu tiên, vì tất cả những thằng trực vị trí đều
bị giết bằng dao, đến lúc toán đặc công toả ra các vị trí khác thì lính Trung Quốc mới phát hiện
ra. Đặc công Việt Nam dùng lựu đạn và thuốc nổ TNT ném vào các hầm chỉ huy và tập trung
quân, và dùng dao cận chiến diệt số lính Trung Quốc ngoài các đường hào. Lính Trung Quốc
bắn loạn xạ tứ phía, hầu hết nấp trong hầm bắn mà không giám xông ra ngoài, vì thế phần lớn bị
diệt bằng thuốc nổ. Khoảng 45 phút thì hầu hết lính TQ bị giết sạch, bắt được 18 tù binh trong đó
có thằng tiểu đoàn trưởng. Thằng này khoảng 40 tuổi, rất giỏi võ tàu, biết tiếng Việt, sau đó thách
đặc công ta đánh nhau tay đôi. Nó giết được 3 đặc công Việt Nam trước khi bị người thứ 4 đâm
trúng tim. Sau về tổng kết trận này, ngoài số bị thương vì mìn và phi pháo ngoài trận địa, số lọt
vào trận địa chỉ bị chết có 4 người, thì có 3 người bị thằng TQ này giết. Chỉ huy đại đội sau đó
được thưởng huân chương nhưng cũng bị kỷ luật vì vô tổ chức, thí mạng lính.

Còn BKĐ (không biết tên thật của nó là gì) thì quả đạn rất to, lúc bay lên như một cái thuyền lửa,
nổ phía bên kia rất to
----------------------------------------------------------------

Nó là đạn ĐKB thì đúng hơn BKĐ bác ạ ! nó còn được gọi là " Phóng bom " hồi mới đưa vào sử
dụng { khoảng năm 72-73 gì đấy }.
Hoá ra bác đã từng ở cây số 3 à ? trước khi lên chốt, cứ của trung đoàn em ở đấy đó. Được
nghe pháo, xem truyền đơn của TQ lần đầu tiên cũng ở đấy. Hồi ấy mới lên nghe pháo bắn chui
tọt vào hầm, đến lúc nhìn ra thấy mọi người vẫn đi lại bình thường mới biết là pháo truyền đơn.
Bị mấy tay cùng Ban cười thối mũi, xấu hổ chết được. Sau nghe mãi thành quen, đến lúc lên
chốt không có tiếng pháo cầm canh thì lại không ngủ được. Còn nhớ mãi tờ truyền đơn nó bắn
sang trước khi trung đoàn lên chốt, nó in ba thứ tiếng TQ, Kinh, tiếng dân tộc { quên mất là dân
tộc gì - nhưng gần đấy chỉ có mấy bản người Tày }, nội dung là : Tạm biệt B25, kính chào B16,
còn số đạn rỉ này để phần B13 { Giữ chốt trước B13 của mình là B16, trước nữa là B25 mà }.

Nó doạ lính B13 mình đấy mà. Với lại B13 vốn là sư chủ lực thiện chiến của QK nhị, hồi năm 84
chính B13 đã áp dụng thành công chiến thuật : dùng hoả lực mạnh chống chiến thuật biển người
của TQ, sau đợt ấy sư trưởng Đ.T.TR được phong anh hùng lần thứ 2.

"Xin kể lại câu chuyện được nghe của một vị tiền bối kể lại về mặt trận Vị Xuyên, trận đánh đồi
852"
Hồi ở trên đó cũng có biết mấy lần về các trận đánh của đặc công (bọn Tầu rất ghết mầu áo rằn),
có 1 trận họ luồn sâu vào đất Tầu, đánh xong luồn đường khác trở về, nhưng không biết giết
được bọn nào mà chỉ nói trước các hầm đều phơi áo may ô, chắc là bọn sỹ quan cấp to. Còn
trận sau là lúc tớ vừa ra quân, còn ở ngoài TX HG. Ngay hôm quân 33 vừa lên tiếp quản thay
bọn tớ (đã kể về lúc dẫn trinh sát họ đi -có mời họ lên húp mật ong trên 685), đã bị Tầu tấn công
lấy mất 1 hầm, đặc công phải lên lấy lại nhưng bàn giao cho 33 xong họ lại bỏ mất, đặc công

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
phải phòng ngự giữ hầm và vì không thạo phòng ngự bằng lính bộ binh nên đã mất 1 đại đội
trưỏng - chắc là cái vụ này đấy!

Gửi Dongadoan: "Với lại B13 vốn là sư chủ lực thiện chiến của QK nhị"
Tớ không nói cậu đâu, nhưng không biết cậu có nghe đến 982 không? Chính 313 của các cậu
làm mất 1509, 982 (E thôi) họ lên lấy lại đưọc, cũng như trận tớ vừa tả đặc công ở trên, bàn giao
lại cho 313, vòng được khác (đi sâu vào đất TQ) về đến nơi đã thấy lính đơn vị 313 nhận bàn
giao ở TX rồi. Hình như Tâu nó lên lấy lại không thấy bóng một anh lính VN nào, mặc dù nó cũng
sợ chần pháo gần 1 ngày trước khi lên. Từ đó 1509 bị chiếm cho đến lúc tớ ra quân. Thực ra
cũng thông cảm cho lính 313 hồi đấy. Nhiều ông đi nghĩa vụ (3 năm) mà ở đã 7 năm trên đó rồi!
(nhưng những ai xem thông tin ở đâu nói lính VN chết nhiều ở 1509 thì không có đâu - tớ khẳng
định lại lần nữa, hồi ấy ta chẳng có đủ nhiều quân trên các điểm cao ấy để mà chết như vậy đâu
- mà ở đây nói F hay E thì chỉ là đơn vị thuộc E hay F thôi, ai đã từng ở trên ấy mới thấy là chuẩn
bị lực lượng, hậu cần ở cái khu vực ấy khó thế nào rồi, còn phía Tầu thì nó làm ngay đường xe ô
tô ngầm lên thẳng trên 1509).

em là lính mới do chưa biết chỗ viết bài trả lời nó nằm ở đâu nên cứ quote đại 1 bài của mọi
người để viết

mọi người cho em hỏi là khi china đánh VN thì có nge chú em kể lại là mình có dùng đến điện và
dùng súng gây mê hàng loạt của LX để trị thằng tàu này,ai biết về chuyện thì hãy post lên cho
em biết với

Cái ấy thì công nhận rồi, nhưng đánh nhau phải có thắng có thua chứ bác ! Bác không tính cho
chúng em những khi ở Bốn hầm, Không tên chỉ có một b tăng cường một khẩu 14,5mm 2 nòng
mà đuổi chạy tán loạn cả mấy e Tàu ư ? Sau đợt ấy ông Trì nhà em chả được phong anh hùng
lần 2 đấy thôi. Năm ấy { 1984 } em không ở đấy, vì năm 88 em mới học xong và về đơn vị nhưng
trong phòng truyền thống f, e đều có kể về chiến thắng f357 { không biết có chính xác không ? }
của đại quân khu BK mà.

Tở đã nói rồi còn gì, không trách cậu, mà cũng không trách 313. Họ nói 313 đã được hứa sẽ
được đổi, nhưng mãi không đổi, chắc vì vậy lính mới bỏ chốt. Đầu năm 85 họ cũng nói tháng 10
bọn tớ được xuống nhưng tớ ở trên đó đến gần hết tháng 12. Hồi mới lên, đến trận địa bắn
thẳng (đầu tiên là 76 ly 2, sau là 82 (các cậu nói 85) gặp mấy cậu pháo thủ của 313 đã ở lính 7
năm (nghĩa vụ chỉ có 3 năm)!
Những năm đó, trên hầm thì tiếng súng nổ ầm ầm, nhưng dưói TX thì xe cúp chạy ầm ầm và các
quán cà phê mờ vẫn nhạc vàng, đèn mầu nhấp nháy. Sư tương phản quá lớn, không như thời
đánh Mỹ, đâu đâu cũng đều đồng cam cộng khổ!

Đại quân khu Bắc Kinh :


- Sư đoàn bộ binh 79 (quân đoàn 27), được tăng cường trung đoàn 241 sư đoàn bộ binh 81.
- Sư đoàn bộ binh 80 (quân đoàn 27).
- Sư đoàn pháo binh 14 (gồm trung đoàn pháo binh 10 và 37), ĐQK Bắc Kinh.
Thời gian tham chiến : tháng 4-1987 đến tháng 4-1988.
Thiệt hại : 63 chết, 172 bị thương.

Theo www.china-defense.com thì giai đoạn 1984-1985 chỉ có quân của ĐQK Côn Minh và Nam
Kinh tham chiến (bọn này thì đúng là bị thiệt hại rất nặng). Có lẽ F357-ĐQKBK (?) chỉ là phiên
hiệu giả.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com

Cách tính phiên hiệu đơn vị chủ lực TQ khá đơn giản . Lấy số hiệu quân/sư đoàn x3, rồi -0,
1, 2 ra số hiệu sư/trung đoàn.

Bác phaphai, dongadoan có biết bây giờ đỉnh 1509 do ta hay TQ kiểm soát không ?

Chả như các bác , " nói có sách , mách có chứng " , em được nghe mấy mẩu chuyện về bọn Tàu
cũng post lên đây .
Em có nghe kể , hồi Tàu đánh ta năm 79 , chúng nó dùng chiến thuật " biển người " , quân ta đã
làm nhiễm điện một khúc sông ( cái này là LX cung cấp ) , chúng nó ( chủ yếu là dân binh ) chết
như rạ . Còn việc đại liên bắn đỏ nòng là chuyện không hiếm . Bọn khốn này toàn xua dân binh
lên trước làm bia cho ta bắn ( tốn đạn ) , quân chính quy đi sau cùng . Như thế thì việc chúng nó
" thương " mạng dân ta mới là lạ đấy , hình như Lỗ Tấn có tổng hợp lại là " Lịch sử Trung Hoa
chỉ thấy ăn thịt người và ăn thịt người " ( không nhớ nguyên văn ) . Chúng nó tiến vào đất ta , ăn
cướp từng cái cuốc cái xẻng , giết người thì khỏi nói .
Việc quan hệ giữa ta với nó thể hiện " bằng mặt mà không bằng lòng " từ giữa những năm 60 cơ
. Tuy nhiên nó không thể không viện trợ cho ta đánh Mỹ , thứ nhất là như thế ta mới thành phên
giậu cho nó được , tiếp nữa là nó cũng đang cần được sự hỗ trợ từ khối XHCN nên đây là một
sự thể hiện . Ta thì không có lý do gì để từ chối nhỉ ?
Hồi 67 hay 68 gì đấy , nó có đòi ta trả lại các khoản viện trợ lương thực mà nó đã cho ta . Lúc ấy
, ta cũng đang thiếu nhiều nhưng cụ Hồ cũng ra lệnh chuyển số gạo mà Liên Xô việc trợ vừa
chuyển đến lên phía bắc . Trên mỗi ô tô , cụ cho một băng rôn đề : " Đồng bào Việt Nam thắt

lưng buộc bụng trả nợ cho các đồng chí Trung Quốc anh em ! " . Sau nó lấy một ít , chắc
thấy ôi mặt quá nên thôi .
Cũng thời gian đấy , bọn nó cho đúc một bức tượng Mao rõ to ở gần cửa khẩu của ta . Cái
tượng này , Mao lại chỉ thẳng về phía VN , oai lắm ! Nhưng ta cũng cho làm một tấm bảng ,

thẳng theo hướng tay chỉ của Mao , đề : " Không có gì quí hơn đọc lập tự do ! " . Cuối cùng

cái tượng cũng bị dỡ đi ( chắc nấu ra làm đạn pháo , em đoán thế , ).
Em cũng có một cuốn về các gương chiến đấu , có cả của cuộc chiến chống Khựa nữa , tìm
được em gõ lên sau .
Mà sao ta không hỏi chuyện mấy cậu bên box Hà Giang , Lạng Sơn , ... nhỉ ?

TRUNG ĐỘI ÉN VÀ ĐƯỜNG DÂY THÔNG TIN

Nguyễn Trung Kiên, ghi theo lời kể của Lưu Xuân Én, dân tộc Tày, trung đội trưởng thuộc đại đội
7, tiểu đoàn 26, trung đoàn 604 bộ đội thông tin.

Sáng sớm ngày 17-2-1979, từ sở chỉ huy đoàn H68 pháo binh, qua máy điện thoại Én nhận
được lệnh của đồng chí Quắc, trung đoàn trưởng trung đoàn thông tin 604 :
- Đồng chí có nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh của trung đoàn : đại đội 7 nhanh chóng triển khai
và củng cố 2 đường dây theo phương án 2.
Bọn bành trướng Bắc Kinh đã nổ súng xâm lược nước ta. Những loạt đạn pháo dồn dập từ biên
giới vọng lại. "Phải truyền đjat lệnh của trung đoàn tới đại đội thật nhanh và chính xác !". Nghĩ
vậy, Én bước vội ra khỏi gian nhà nhỏ của sở chỉ huy trung đoàn, rẽ chéo theo sườn đồi ra
đường. Én chạy. Quãng đường từ sở chỉ huy đoàn H68 về đại đội chỉ có 2km mà sao lúc đó Ém
thấy dài thế. Khẩu AK đập đập bên sườn, tay Én ghìm chặt đầu súng. Như thế sẽ giảm tốc độ
chạy, Én luồn dây súng qua đầu, đặt khẩu AK lên vai, như thế chạy nhanh hơn mà...
Én được giao nhiệm vụ tổ chức trung đội 3 và một số đồng chí thuộc trung đội 4 làm đường dây

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
tới đoàn H54. Én thấy trách nhiệm với mình lớn quá.
Tuyến đường dây do Én phụ trách cũng không dài lắm đâu, chỉ khoảng 15km thôi. Nhưng rải dây
và bảo đảm thông tin trên địa hình rừng núi, sông suối, sườn đồi và vách đá chênh vênh, lại thực
hiện trong một thời gian gấp như thế là phải cố gắng nhiều lắm đấy. "Đúng 11 giờ đêm 17-2
đường dây phải thông suốt". Đó là nhiệm vụ của trên giao cho Én và đồng đội.
Trong đêm tối kéo dây, mọi người lần theo từng mét đường, vượt qua những lũng đồi, con suối,
lùm cây, men theo những vách đá. Làm việc khẩn trương lắm. Như là chống bão ấy mà. Đêm
càng về khuya đường dây càng được anh em kéo dài... Những mét dây cuối cùng đã được mắc
xong. Thế là tuyến đường dây được hoàn thành trước thời gian quy định. Mấy anh em xúm lại
ôm lấy nhau. Vui quá.

Khoảng 1 giờ sáng 18-2-1979, Én đang ngủ, chắc là ngủ say lắm. Hai đêm thiếu ngủ mà. Bỗng
đồng chí Thạch đại đội trưởng gọi Én dậy bảo là đường dây H54 bị mất liên lạc. Én đề nghị đại
đội cho Én đi cùng đồng chí Dần đại đội phó ra tuyến cùng các chiến sĩ sửa dây.
Anh Dần và Én đi xe đạp. Chiếc xe của đại đội đã dùng lâu rồi nhưng vẫn còn chắc chắn. Hai
anh em thay nhau lai. Anh Dần đạp khoẻ lắm. Nhiều lần lên dốc, dốc cũng cao đấy, Én định nhảy
xuống chạy theo xe nhưng anh Dần bảo "Cứ ngồi yên, đạp xe cho nhanh !". Én ngồi thật sát lưng
anh Dần để xe đỡ nặng. Khẩu AK nằm gọn trên vai trái, lắp đầy băng đạn. Đi được gần nửa
đường, bỗng Én áp hẳn má phải vào lưng anh Dần và nói với anh một câu thật vui. Lúc đó Én
mới biết áo anh Dần đã ướt đẫm mồ hôi từ lúc nào.
Én cùng tổ 7 lên tuyến kiểm tra và sửa dây. trời tối, anh em lần từng mét dây, khi qua suối, qua
lũng, lúc vượt sườn đồi, men theo vách đá... Lạ thật. Không thấy chỗ đứt. Hay là máy hỏng và
dường dây vẫn tốt. Anh em bảo nhau phải thận trọng, tỉ mỉ kiểm tra từng mét dây, từng chỗ
ngoặt.
- Đây rồi Én ơi ! - Thắng như reo khẽ, gọi Én.
Én quay lại. Đúng đây rồi. Thì ra kẻ địch xảo quyệt, lắm mưu nhiều kế là thế : chúng cắt hẳn một
đoạn dây dài bằng một gang tay, bỏ đi. Thay vào đó cũng bằng một đoạn dây điện nhưng không
có ruột, chỉ có vỏ nhựa, nó nối lại rất kín đáo, khó phát hiện đấy.
Khi Én cùng anh em sửa xong đường dây, trời đã hửng sáng rồi. Những loạt pháo đã gầm vang
trời và tiếng súng các loại vọng tới dồn dập như thúc vào vách núi.

Ngày 19-2-1979, đồng chí Thạch bảo Én bàn giao đường dây H54 cho đơn vị bạn. Trung đội Én
nhận nhiệm vụ mới là bám theo sở chỉ huy trung đoàn H18. Đây là một đơn vị bộ binh cơ động
đánh địch tại hướng đông bắc quốc lộ 7.
Khoảng 3 giờ sáng ngày 20-2, đồng chí chủ nhiệm chính trị trung đoàn H18 điện cho Én biết sở
chỉ huy trung đoàn chuẩn bị thay đổi vị trí. Én cử 2 đồng chí đi đón người của trung đoàn theo
quy định. Nhưng đã gần sáng rồi Én vẫn chưa nhận được tin 2 đồng chí đi tiền trạm. Hay có
chuyện gì đã xảy ra ? Én nóng ruột quá. Én quay điện về đại đội hỏi vịt rí mới của đơn vị H18.
Giọng nói của đồng chí Nhất chính trị viên phó đại đội vang lên trong máy :
- Bằng mọi giá các đồng chí phải bám được sở chỉ huy trung đoàn.
Én cử tiếp 2 đồng chí đi tìm sở chỉ huy trung đoàn, đồng thời tổ chức các tổ tiếp tục thu dây từ
tổng đài Kánhh Thượng về trại A, và từ trại C về nơi quy định.
Trời đã sáng hẳn. Tiếng pháo lớn và các loại súng của địch bắn phá và của ta đánh trả dồn dập,
âm vang cả khu rừng. Lúc đó 10 cuộn dây từ trại C lên sở chỉ huy trung đoàn H18 đã nằm gọn
trong khu vực chiến sự ác liệt. Én quyết định cùng 2 đồng chí lên tuyến thu dây. Khi Én thu được
2 cuộn thì pháo 130mm, cối 82mm, H12 của địch bắn rất mạnh. Những mảnh đạn pháo cắm vào
đất, đập vào vách đá chan chát.
- Nằm xuống, lăn sang phải ! - Én thét lên.
Thắng lăn luôn mấy vòng. Khi lưng vừa chạm vào vách đá thì cũng là lúc quả đạn pháo địch nổ
ngay cạnh chỗ Thắng vừa đứng. Thật may là Thắng đã kịp lăn ngoăt vào góc đường gấp khúc
gần như hình thước thợ nên không việc gì. Cứ như vậy, với những quả đạn pháo bắn vào khu
vực đang thu dây thì Én và anh em lại lợi dụng địa hình nằm tránh, còn những dàn H12 bắn quá
tầm thì anh em vẫn thu và cuộn dây bằng những động tác thành thạo của chiến sĩ thông tin. Thế
là 8 cuộn dây đã nằm gọn trên vai 3 người. 2 cuộn bị đứt, nát quá nhiều vì pháo địch phải bỏ lại.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Én cùng đồng đội khoác dây và phương tiện nhanh chóng vượt khỏi vạt đồi yên ngựa, luồn theo
thung lũng đi về phía sở chỉ huy trung đoàn H18. Lúc đó bộ binh địch cách Én và đồng đội gần
1km.
Trung đội Én hành quân gấp về làng Đo. Tối đó Én cùng 8 đồng chí mang đầy đủ phương tiện
thông tin đi về hướng làng Lượt. Cũng lcú này, đồng chí Quang chính trị viên đại đội và đồng chí
Khán liên lạc đang đi tìm Én.
Sau khi anh Quang và Én nắm chắc vị trí và hướng triển khai mạng thông tin của sở chỉ huy
trung đoàn H18, Én quay lại tổ chức trung đội khẩn trương rải dây, mắc máy. Lúc đó đã 11 giờ
đêm rồi. Thắng leo lên một phiến đá to và cao, đặt dây vào một cái gạc hai rồi nâng cao dây luồn
qua phía trong một cành cây to. Thắng nói với Én, giọng có vẻ thách thức :
- Mắc dây như thế này, bọn thám báo có cắt cũng còn phải ốm xương !
Đêm đã khuya lắm rồi. Núi rừng tĩnh mịch vô cùng. Chỉ một tiếng chim kêu rất nhỏ thôi cũng
nghe rõ mà...
Ở khu vực Khe Dùng, nơi sở chỉ huy trung đoàn đang đóng cũng là nơi chiến sự đang diễn ra ác
liệt. Để bảo đảm tốt cho công tác chỉ huy chiến đấu, kịp thời tổ chức lực lượng cơ động diệt địch,
sở chỉ huy cần thay đổi vị trí kịp thời những khi cần thiết. Lúc đầu ở Khe Dùng, sau đó về làng
Lượt, rồi về làng Đo, làng Có. Mỗi lần sở chỉ huy trung đoàn thay đổi vị trí là một lần thử thách
tinh thần và sức lực hoàn thành nhiệm vụ của trung đội Én đấy.
Khối lượng dây thu vào nhiều lắm rồi. Mỗi đồng chí đã mang tới 4 cuộn. Anh em đã nhiều đêm
mất ngủ, nhiều bữa không ăn. Khi hành quân cơ động có đồng chí đã mang vác tới 60kg đấy.
Nhiều lúc Én mệt quá không bước nổi cái chân nữa. Nhưng lạ thật, bụng đói mà vẫn vui được,
nhiều người mệt mà vẫn nói đùa được. Vừa làm, anh em vừa động viên nhau mà.

Ban chỉ huy tiểu đoàn 26 chuyển về làng Gạo. Đồng chí Thuật chính trị viên tiểu đoàn nhắc lại
nhiệm vụ của trung đội Én là phải luôn bám chắc sở chỉ huy đoàn H18.
Tối 24-2, pháo địch bắn dữ dội vào quanh khu vực trung đoàn. Đường dây đứt liên tục, có giờ
đứt tới 4 lần. Đến 12 giờ đêm hôm đó, sở chỉ huy trung đoàn cơ động vào Cốc San. Én kịp thời
tổ chức trung đội làm nhanh đường dây và hoàn thành lúc 4 giờ sáng ngày 25-2. Ngày hôm đó
pháo địch bắn vào khu vực làng Có và Cốc San nhiều lắm. Bọn giặc tinh thật, Én chắc là có thám
báo chỉ điểm thôi. Nhưng rừng núi nhiều nên khó nhìn thấy nó lắm. "Đoành, đoành...", Én nghe
những tiếng đạn pháo gầm réo, nổ vang đến kinh tai. Những mảnh đạn pháo đập vào vách đá rồi
văng ra rơi tõm xuống dòng suối.
Đường dây lúc này bị đứt nhiều rồi. Nhưng bộ đội mình vẫn dũng cảm, chẳng ngại nguy hiểm,
không sợ hy sinh, kiên quyết nối lại đường dây. Đơn vị không ai bỏ nhiệm vụ đâu.
Én đang tìm một đầu dây bị đứt để nổi lại, bỗng nghe Hùng gọi :
- Én ơi - Hùng chạy lại gần, nói nhỏ hơn - có 3 bóng người vừa đi qua đây. Họ không nhìn ra
chúng mình. Tớ nghi là thám báo hay trinh sát của địch.
Én dừng tay, gọi Thắng lại nối tiếp dây. Én và Hùng quay lại chỗ đó. Hùng bảo Én đi rẽ lối tắt qua
một lũng hẹp đón đường thì có thể gặp.
- Ai, đứng lại ?
Én giật mình. Lần này thì 1 trong 3 cái bóng người lạ ấy lại nhìn thấy Én và Hùng trước. Họ vừa
hô, vừa chĩa súng về phía Én. Tiếng mở khoá an toàn và tiếng lên đạn kêu lách cách. Én vội hô :
- Ta đây, đừng bắn !
Ngón tay trỏ của Én đã đặt vào cò súng AK lúc nào không biết. Én đã sẵn sàng nổ súng. Én
không hô là tôi đâu. Kinh nghiệm của bộ đội mình đấy. Hô "ta đây" rồi "đừng bắn" là rất an toàn
khi gặp bộ đội mình, và nếu gặp địch thì cũng dễ xử trí mà (không hiểu ?). Bọn Trung Quốc nó có
thám báo, biệt kích dẫn đường, chỉ điểm. Chúng lại còn đóng giả bộ đội mình nữa.
Sau khi 2 bên nhận ra nhau, anh em mừng quá. Một trong 3 người lạ mặt ôm luôn Én và Hùng.
Ôm chặt lắm, báng súng AK đập mạnh vào hông Én, đau đấy. Thì ra họ là chiến sĩ trinh sát của
đoàn H18 đi nắm tình hình địch. Trung đoàn đang tổ chức một lực lượng vòng phía trái Cốc San,
bất ngờ đánh tạt sườn địch. Thế là én nghĩ ngay đến đường dây của trung đội, rất có thể bị hư
hỏng vì chiến sự và phải thay đổi đường dây theo yêu cầu chiến đấu.
Đúng như dự đoán của Én đấy. Khoảng 7 giờ tối ngày 25-2 đường dây của trung đội đã nằm trên
tuyến tiếp giáp giữa bộ binh ta và bộ binh địch. "Bằng mọi giá phải bám được sở chỉ huy trung

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
đoàn, bảo đảm thông tin chỉ huy của quân khu". Đó là mệnh lệnh chiến đấu của tiểu đoàn, trung
đoàn và cũng là quyết tâm bám dây, bám máy của trung đội Én mà. Én định giải quyết bằng cách
cho đường dây vượt qua phía sau làng Cung, kéo về trạm 12, cách đường đi Lu khoảng 4km.
Nhưng sau khi nắm tình hình, Én được dân quân làng Cung cho biết hướng mắc dây sẽ gặp 2
bãi mìn lớn của một đơn vị công binh của ta. Khó quá. Én gọi điện hỏi ban chỉ huy đại đội. Anh
Dần đồng ý với Én. Én hội ý các cán bộ tiểu đội rồi cử người đi gặp công binh để nắm rõ hướng
rải dây vòng tránh bãi mìn.
Trời đã gần sáng rồi mà đường dây vẫn chưa xong. Bọn giặc thường đánh lớn khi trời sáng. Én
lo lắm. Én không sợ chết đâu. Chỉ nghĩ khi địch đánh mà đường dây thông tin lại chưa xong thì
Én buồn lắm.
Én đang cùng Thắng giở nhanh một cuộn dây thì những loạt đạn pháo địch đã nổ rồi. Sáng hôm
ấy, chúng đánh sớm thế. Én không ngờ hôm ấy địch lại bắn pháo vào tuyến đường day của
trung đội. Chúng bắn nhiều quá. Những tiếng nổ của pháo 130mm, cối 82mm, H12 mỗi lúc một
dồn dập. Én ù cả tai. Những mảnh đạn cày tung đất đồi, những cành cây bị chém đứt tả tơi. Mấy
cây chuối rừng gục đổ. Thắng bị thương mất rồi. Một mảnh đạn pháo đã găm đúng đùi phải, máu
ra nhiều lắm. Én vội xé áo lót băng cho Thắng rồi cõng Thắng tạt ngang sườn đồi trồng chè, rẽ
xuống phía ngoặt của thung lung. Én bảo : "Thắng nằm nghỉ tạm đây. Đường dây gần hoàn
thành rồi, chốc nữa mình lại ngay mà !". Én trở lại tuyến dây, bỗng nghe tiếng gọi lại :
- Anh Én, nguy hiểm đó !
Én vòng lại chỗ mấy chiến sĩ, nói với anh em : "Các đồng chí ạ, chúng ta kiên quyết hoàn thành
đường dây càng nhanh càng tốt. Hiện nay các chiến sĩ ta đang anh dũng đánh địch trên các
điểm cao. Có những đồng chí đã anh dũng hy sinh. Chúng ta hãy xứng đáng là chiến sĩ thông tin
trong chiến đấu !".
Ờ, không hiểu vì sao lúc đó Én lại nói được những câu như thế !

Sau khi đánh thắng giặc Trung Quốc, anh Quang bảo Én báo cáo thành tích của trung đội. Én
thấy khó quá.
Én lấy quyển sổ nhật kí, giở ra xem. Quyển sổ đã mất bài, nhàu nát lắm rồi. Nhiều ngày Én
không ghi. Én nhẩm tính, cộng thử. Sợ sai nhiều, Én hỏi anh em trong trung đội, các thủ trưởng
đjai đội. Cuối cùng Én báo cáo : từ 17-2 đến 7-3, trung đội Én đã rải và thu dây bằng 280km, sửa
140 lần đường dây bị đứt, bị chập do pháo địch bắn và bọn thám báo phá hoại. Còn thành tích
của Én chỉ có ít thôi. Nhiều người mới làm được mà. Anhe m trong đơn vị hăng hái, dũng cảm.
Én lại được thủ trưởng trung đoàn, tiểu đoàn và ban chỉ huy đại đội động viên và giúp đỡ nhiều
đấy.
Én không biết kể chuyện đâu. Chiều qua cô giáo Hoàng Bích Xuân nói với Én : "Chú Én hôm nào
kể chuyện chiến đấu cho các cháu học sinh nghe nhé !". Én chỉ cười và bảo : "Cô giáo à, Én kể
chuyện không vui đâu. Các cháu thích nghe chuyện cầm súng bắn giặc cơ. Én chỉ đi rải dây điện
thoại thôi, các cháu học sinh cũng làm dược mà !".

Không được đụng tới Việt Nam, NXB QĐND 1979.

Những nghi vấn về "pháo 37 nòng" trong CTBG

Pháo / súng nhiều nòng được thiết kế với mục đích tăng cao vận tốc bắn và giảm độ nóng của
nòng súng. Khẩu súng nhiều nòng đầu tiên do Gattling chế tạo ra.

Pháo / súng nhiều nòng có nhiều cỡ nòng, có 3 loại súng nhiều nòng dùng đạn súng bộ binh hiện
đại:
1. Mini-minigun 6 nòng 5.56 mm, dùng đạn 5.56 X 45 NATO.
2. Minigun 6 nòng, 7.62 mm, dùng đạn 7.62 X 51 NATO
3. Súng 4 nòng của Liên Xô cũ, dùng đạn 7.62 X 54 mm

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Súng nhiều nòng phát huy tác dụng chủ yếu trên máy bay hoặc tàu thuỷ, lý do:
- Xạ trường rộng --> cần vận tốc bắn cao
- Di chuyển với vận tốc cao, nếu đứng tại chỗ thì cũng trong trạng thái cân bằng động ( dập dềnh
) --> cần vận tốc bắn cao để tăng sác xuất trúng đạn
- Khả năng cơ động tốt với tải trọng lớn ---> có thể chở nhiều đạn .

Do đó không có nhiều lý do để bộ binh xài súng nhiều nòng. Thực tế , phần lớn các xe chiến đấu
đều chỉ trang bị súng 1 nòng, trừ xe tải vũ trang trong CTVN có trang bị minigun để chống chiến
tranh du kích, cái này từ từ sẽ post lên. ( cái này là xe tải chất súng lên thùng sau, hoặc chất 1
con M113 hỏng lên thùng sau, kụ AKM chắc chắn biết )

Trong CTBG phía bắc, việc tiếp tế hết sức khó khăn bởi nhiều lý do: địch đánh bất ngờ, cường
độ cao, phía ta chủ yếu là dân quân, tự vệ và biên phòng. Như vậy, riêng có đủ đạn để tiếp tế
cho một khẩu đại liên 1 nòng hay không cũng là một vấn đề lớn, chứ đừng nói đến 4 nòng, 6
nòng, hay 37 nòng.

Súng nhiều nòng, do khối lượng lớn, lại cồng kềnh, nên việc để nó xuất hiện trên một chốt / điểm
cao nào đó cũng là vấn đề thứ hai .

Nghi vấn thứ ba về việc xuất hiện của súng nhiều nòng ( bắn thẳng ) là , với chiến tranh diễn ra
chủ yếu trên chiến hào, một ổ hoả lực mạnh có thể đứng nguyên một chỗ mà bắn là bao lâu ?
ngay DKZ hay B40 bắn xong một phát là phải di chuyển vị trí ngay, nếu đứng yên khó lòng bắn
tiếp phát nữa mà pháo thủ không sao. Trong khi đó, súng nhiều nòng không thể cơ động bằng bộ
binh do khối lượng nặng và cồng kềnh,

Nghi vấn thứ tư là, với điều kiện xạ trường như trong CTBG, liệu một khẩu nhiều nòng có phát
huy tác dụng như một khẩu 1 nòng không ?

Với những nghi vấn trên, tôi xin phép đặt một dấu hỏi vào việc sử dụng súng nhiều nòng trong
CTBG, chứ chưa nói đến súng bao nhiêu nòng ( à, mà súng kíp 2 nòng thì các đ/c trừ ra nhá ).

Vậy, nếu súng 37 nòng có thật, thì chỉ có thể là súng bắn cầu vồng, chở và tác xạ trên xe cơ giới
, sử dụng từ xa ( chứ ko fải từ chiến hào ). Kết luận lại, nó chính là xe phóng pháo phản lực.

Đây là cái xe gun-truck, tức là xe tải gắn súng máy, sử dụng trong CTVN.
Người ta lấy một cái xe tải, bọc thép cho buồng lái, chất bao cát lên thùng xe, sau đó lắp lên
thùng xe 4-6 khẩu súng máy, bao gồm:

- Minigun M134, 6 nòng 7.62mm


- M2 HB 12.7mm
- M60 7.62mm

Trong hình phía trên, chiếc xe này được trang bị 2 khẩu M2 ( hướng ra phía đầu xe và cuối xe )
và 2 khẩu minigun ( hướng ra 2 bên hông xe ). Có tất cả 3 loại gun truck
1. thùng xe + bao cát + súng máy
2. tháo bỏ thùng xe và lắp hệ thống phòng không gồm 4 khẩu M2 HB vào
3. Tháo bỏ thùng xe và đặt một sát xi M113 cũ lên ( bỏ xích, bỏ máy , có thể là tận dụng một
chiếc M113 cũ hỏng ). Trên M113 có sẵn 2 M60 và 1 M2 có khiên thép chắn đạn.

Mình nhớ khi anh bạn mình chiến đấu ở đấy kể chuyện được súng 37 nòng hỗ trợ, mình cứ
tưởng súng cao xạ 37 ly hỏi đi hỏi lại, nhưng anh ấy khẳng định là súng 37 nòng. Đã nghi hay là

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
pháo phản lực, nhưng vì từ trước đến nay biết mỗi dàn pháo phản lực 40 nòng nên không luận
ra được.

Một phần nữa là theo anh ấy kể, ta bắn trực xạ, địch bị đạn bắn tung hết cả lên, rồi các cánh
quân dạt hết sang cả một bên như đồng lúa bị gió thổi. Nói thế thì bố ai mà luận ra được là pháo
phản lực được.

Nhưng mà hai bác Chuông nguyện và bác Phaphai có thông tin gì không cho bọn em biết với !

Giàn Rocket NDL-40 Của Indo dùng rocket 70mm loại dùng trên trực thăng có 40 ống phóng có
thể bắn trực xạ . bắn cầu vòng tầm 6Km . giàn rocket LAU-3 dùng rocket Hydre-70 trước đây Mỹ
gắn trên trực thăng trong chiến tranh VN có mấy loại khác nhau gồm 32 ống phóng , 19 ống
phóng và 7 ống phóng . Nếu Ta tận dụng vũ khí Mỹ để lại ghép chung giàn 32 với giàn 7 ống vậy
ta đã được giàn 37 ống phóng và rocket 70mm của trực thăng chuyên cho bắn trực xạ hơn là
bắn cầu vồng . ( Đây chỉ là suy đoán cá nhânTôi thôi ) . Giàn LAU của mỹ hình dáng tròn quay
trông giống hệt cây súng nhiều nòng .
Link của LAU-3 , Hydra-70mm

Buồn ngủ quá nên cộng 32 với 7 thành 37 heheeee....có lẽ để dể ghép người ta lấy đi 2 ống từ
giàn 32 như vậy mới ra 37 nòng ??? Các giàn rocket trực thăng của Nga thì ra sao ? Bác nào
rành vũ khí Nga xem thử .

Các ống rocket còn cồng kềnh và nặng hơn súng nhiều nòng, việc tiếp tế cho nó cũng khó khăn,
và việc bắn từ chiến hào là không thể , vì rocket khi bắn từ máy bay được ngắm bằng máy ngắm
quang học, bắn bằng điện và không điều khiển được đường ngắm. Muốn điều khiển đường
ngắm thì xạ thủ trên phi cơ phải chỉnh phi cơ ngắm vào mục tiêu . Các ống rocket có thể bắn
theo loạt hoặc bắn một lúc cả dàn, nhưng khi bắn xong nạp lại cũng rất mệt chứ không đơn giản,
việc di chuyển rocket dưới chiến hào cũng khó khăn, hơn nữa việc chiến đấu dưới chiến hào
chật chội, trên các điểm cao cũng chật chội nốt không đủ khoảng cách an toàn cho luồng lửa
phản lực phụt ra.
Các ống rocket này, cũng như súng nhiều nòng được thiết kế làm vũ khí tấn công dành riêng cho
máy bay, tàu chiến nên người sáng tạo nhất cũng không nghĩ ra việc lôi nó xuống chiến hào làm
vũ khí vòng thủ đâu.

" Cao bành trướng " được đồn là toàn nấu bằng xương bánh chè của Bành trướng !? Cái này có
vẻ không đáng tin cho lắm.
Còn phòng tuyến hai là tuyến phòng thủ chiến lược được xây dựng dọc theo sông Cầu { gần
trùng khít với chiến tuyến Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt }. Ngày ấy { 1979 } các cơ quan đều
phải cử người đi tham gia.

Ở trong nam có thời dân quân tự vệ toàn dùng đồ mẽo, từ AR15 đến M60. Bây giờ thì ít hơn rùi.
Nghe nói ta vẫn còn có vài xưởng sản xuất M16A1 đến bây giờ vẫn còn chạy. Nhưng không biết
có làm ra được gì không

Phòng tuyến sông Cầu bắt đầu được thiết lập ngày 15-3-1979. Lúc đó dân Hà Nội hơn 30.000
người (đoàn Nguyễn Huệ) được điều đến để xây dựng tuyến phòng thủ.
Ở gần chỗ nhà em hồi ấy người ta cũng cho dựng chiến lũy. Cẩu đến cả mấy khối bêtông để làm
lô cốt.
Papa em thì đi lĩnh vũ khí về huấn luyện cho cơ quan cùng với mấy ông cựu binh.

NHỮNG CHIẾN SĨ PÒ HÈN

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Huy Khoát

Từ Ban chỉ huy công an nhân dân vũ trang tỉnh, Tảo đi thẳng về đồn biên phòng Pò Hèn, nơi anh
được cử làm chính trị viên. Chỉ huy trưởng tiểu khu 76 tiễn anh đến tận cửa rừng, vẻ mặt đăm
chiêu, tư lự, ông xiết chặt tay Tảo căn dặn : "Phải tìm ra được cách đánh tốt nhất, diệt được
nhiều địch, giữ được đất, bảo vệ được dân và không bị tiêu hao lực lượng". Suốt chặng đường
dài 25 cây số, tảo luôn nghĩ tới điều đó. Hơn 2 năm qua lăn lộn khắp biên giới Tây Nam, quần
nhau với bọn phản động Căm-pu-chia khi hoạt động ở rừng núi, lúc trong đầm lầy... Tảo và đơn
vị của anh luôn tìm ra cách đánh thích hợp. Nay được điều về biên giới phía Bắc, đương đầu
thực sự với bọn giặc Trung Quốc có biết bao mưu ma chước quỷ, đòi hỏi anh phải suy nghĩ để
tìm ra cách đánh mới.
Mãi 3 giờ chiều Tảo mới tới đồn. Đồng chí trực ban niềm nở mời anh vào hầm ban chỉ huy. Đồn
trưởng đi họp vắng, chỉ có đồn phó Đỗ Sĩ Hoạ ở nhà. Hoạ có vóc người đậm chắc, nước da
ngăm đen. Từ đài quan sát trên đồi Quế, anh vừa về tới hầm thì gặp Tảo. Ánh mắt ngời lên niềm
hân hoan. Hoạ xiết chặt tay anh, cười :
- Anh về thật đúng lúc. Từ hôm trên tỉnh điện xuống, chúng tôi mong anh quá. Mấy ngày nay tình
hình biên giới căng thẳng lắm, rất có thể bọn Trung Quốc gây chuyện đánh lớn. Vất vả đấy anh
ạ.
Mới gặp Hoạ lần đầu mà tảo thấy như đã quen từ lâu. Tảo hơn Hoạ đến sáu bảy tuổi, người cao
như cột buồm, vào nhà hầm cứ phải cúi lom khom, tính tình điềm đạm chín chắn. Anh thả ba lô
xuống chiếc phản gỗ kê sát vách hầm, lấy điếu cày tra một mồi thuốc rõ to, đĩnh đạc châm lửa rít,
ngửa cổ nhả khói rồi chậm rãi nói :
- Tôi mới về chưa nắm được nhiều tình hình nên sẽ bàn với anh từng việc cụ thể. Bây giờ anh
cho tôi đi quan sát trận địa và thăm anh em chiến sĩ.
Sau khi nhờ đồng chí công vụ lo thu xế việc ăn ở, Hoạ dẫn chính trị viên đi. Hoàng hôn buông
nhẹ nhàng. làn sương mỏng đã choàng xuống núi Pa-nai. "Nếu chiến sự xảy ra, địch sẽ tràn
sang rất đông. Nên lập tuyến phòng thủ nhiều lớp để hỗ trợ nhau. Muốn lấy ít thắng nhiều phải
tìm ra cách đánh hiệu quả cao nhất, phải đấu dũng và đấu trí...", bỗng Hoạ nhớ lại những kỉ niệm
về chuỗi ngày chiến đấu giữ thành cổ Quảng Trị. Bom đạn như mưa trút, tai điếc đặc, lăn lộn
trong khói lửa và máu hàng tháng trời nhưng không ai có một ý nghĩ nào khác là quyết đánh và
quyết thắng.
Hai người đi qua thị trấn Pò Hèn. Hương quế lan bay, trùm toả, vây bọc lấy họ. Bao mồ hôi công
sức của nhân dân góp lại mới xây dựng nên cơ ngơi này : bệnh viện, cửa hàng bách hoá, trường
học, trụ sở ủy ban, lâm trường bộ... tất cả còn tươi màu ngói mới. Nó là nơi để bà conc ác dân
tộc về đây tụ hội, trao đổi kinh tế và văn hoá.
Dòng sông Ka-loonh nước trong vắt soi rõ cả đáy, nhấp nhô những tảng đá lớn đen trũi như lưng
trâu. Chiếc cầu bắc ngang sông láng xi măng phẳng mịn có 13 hàng cọc tiêu hai bên nhịp. Hàng
cọc thứ 7 ở giữa. Hoạ nói với Tảo :
- Mỗi lần đại diện đồn biên phòng Trung Quốc sang làm việc với ta, khi về, họ cố ý bắt tay chúng
tôi ở hàng cột số 1 này, với dụng tâm định chiếm cả dòng sông Ka-loong.
Tảo khẽ gật đầu, vẻ tư lự. Họ bước lên trạm kiểm soát. Trước cửa trạm là một bồn hoa trồng đủ
cả hồng, huệ, cúc... Một chiến sĩ đang tưới cho những khóm đồng tiền, lay dơn, ngân nga hát :
"Tuổi trẻ giữ gìn biên cương
Biên giới là quê hương..."
Người chiến sĩ ngẩng đầu lên chào. Hoạ bắt tay anh ta, quay lại giới thiệu với Tảo :
- Đây là đồng chí Lượng thuộc đội kiểm soát hành chính - thường trực cửa khẩu.
Tảo cười. Lượng thu dọn mấy thứ rồi cùng hai người chỉ huy về chốt đồi A.
- Đồng chí Lượng làm việc ở trạm kiểm soát lâu chưa ?
- Báo cáo thủ trưởng, tôi mới từ đội công tác vận động quần chúng chuyển về.
- Đồng chí có nhận xét gì khi ở mỗi nhiệm vụ công tác ?
- Thưa thủ trưởng, tôi có nhiều nhận xét, nhiều kỉ niệm lắm. Nhưng điều mà toi rút ra một cách
chắc chắn khi làm công tác cơ sở là đồng bào ta yêu nước và tin tưởng tuyệt đối ở Đảng. Còn từ
khi về trạm kiểm soát cửa khẩu này tôi thấy rằng bọn Trung Quốc luôn nuôi dưỡng thủ đoạn để

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
tiến hành xâm lược ta. Tôi có thể kể để thủ trưởng nghe rất nhiều về dã tâm của họ.
Tảo gật đầu. Bỗng anh đập nhẹ vào vai Lượng chỉ xuống chân đồi. Ở đấy có một cô gái mặc
quần đen, áo quân phục cũ đứng, vẻ như chờ đợi ai. Lượng cố dấu một nụ cười kín đáo. Họ đi
về phía ấy. Tới gần, nhận ra người quen, đồn phó Hoạ cười vui vẻ :
- Kìa, chào cô Chiêm ! Chờ Lượng hả ? (Cô gái đỏ mặt bẽn lẽn cúi xuống). Hàng hoá đưa lên đã
phân phối xong chưa ?
- dạ xong rồi ạ.
Hoạ quay lại giới thiệu với Tảo :
- Đây là cô Chiêm, nhân viên cửa hàng bách hoá dưới thị trấn, con dâu của đồn ta đấy anh ạ.
Mọi việc ở đồn cô ấy đều tham gia như một chiến sĩ trong biên chế. Còn chú rể thì... đây - anh
đập mạnh vào vai Lượng khiến cậu chàng thẹn, mặt cứ đỏ chín như trái cam Bố Hạ - Trai Xuân
Hào, gái Bình Ngọc, đẹ đôi quá phải không anh ?
Tảo vẫn mỉm cười :
- Chúc hai bạn hạnh phúc, công tác và chiến đấu tốt.
Để chữa thẹn, Chiêm nói với Hoạ :
- Báo cáo thủ trưởng em lên xin thêm vũ khí.
- Ờ nhỉ - Hoạ cảm thấy có lỗi khi điều đề xuất chính đáng đó của Chiêm đã mấy hôm nay mà anh
quên. Hoạ hất hàm bảo Lượng - Cậu lo liệu việc đó giúp cô Chiêm nhé.
...

Tảo và Hoạ đã đi vào sâu trong đường hầm. Cùng đi còn có Lãm, tiểu đội trưởng. Hầm xuyên
núi đào theo kiểu thợ mỏ, đến đâu dựng cột, đặt giầm, chèn thật chắc mới đào tiếp. Tảo lay từng
cột tỏ ý hài lòng.
Ba người đến một ngách hào trên chốt đồi A thì gặp Lượng. Bên anh là 2 bố con ông già người
Dao : cụ Đường Dĩ Tắc và anh Đường Chống Quay. Ông già từ chỗ sơ tán về thị trấn mua muối
rẽ vào đây thăm con - anh là tự vệ lâm trường - biết sắp đánh nhau với Trung Quốc, ông nằng
nặc đòi ở lại chiến đấu. Nói thế nào cũng không nghe.
- Bố còn nhớ con không ? - Đồn phó Hoạ cầm bàn tay to, chai sần của ông lão hỏi.
- Ồ, cán bộ đã lên nhà tao, đã sống với người Dao, tao không quên đâu vớ.
Tảo đặt tay lên khẩu súng trung liên và nâng mấy băng đạn sạch bóng ngắm nghía rồi hỏi Quay :
- Súng tốt không ?
Quay cười :
- Ò không biết đâu. Người bắn tốt, súng tốt, người bắn không tốt, súng không tốt mà.
- Thế đồng chí Quay bắn có tốt không ?
- Không con thú nào chạy thoát trước cái súng của mình đâu. Thằng giặc chạy đến trước cái
súng này cũng chết như con thú thôi, chết nhiều nữa vớ.
- Làm thế nào để nó chết nhiều ?
- Ồ, phải nấp cho kín, phải khôn hơn nó, bắn nó bất ngờ, lừa nó vào bẫy chông, bẫy mìn... nhiều
cách lắm mà.
Tảo và Hoạ xiết chặt tay ông già và anh thanh niên người Dao. Các anh đã đi hầu khắp các trận
địa phòng ngự. Chỗ nào chiến sĩ và đồng bào ta cũng bình tĩnh sẵn sàng chiến đấu.

Ngày 17-2-1979, lúc ấy khoảng 5 giờ sáng. Sương mù dày đặc, gió lạnh hun hút. Hạ sĩ Nguyễn
Thế Điều gác ca cuối cùng, súng trong tay, anh thận trọng đi về phía bờ sông Ka-loong, mắt
chăm chú nhìn, tai lắng nghe. Từ phía bên kia xuất hiện những âm thanh lạ, dấu hiệu của một
cuộc điều quân. Bằng phản xạ rất nhạy, Điều biết chuyện gì sắp xảy ra. Anh bắn luôn 3 phát
pháo hiệu báo động. Hàng tuần lễ nay các chiến sĩ công an vũ trang Pò Hèn ăn ngủ tại chiến
hào. Một phút sau họ đã ở thế sẵn sàng chiến đấu. Từ phía đồn biên phòng của địch, 2 phát
pháo hiệu xanh vút lên. Lập tức cối 120mm, 82mm, 60mm... đặt từ đất Trung Quốc điên cuồng
nã đạn sang trận địa ta và các khu vực xung quanh đồn. Tiếng nổ dữ dội trùm lên nhau, đất giật
liên hồi và lửa khói mù mịt. Nửa giờ sau trời sáng hẳn, bộ binh địch bắt đầu tấn công. Chúng chia
làm 3 cánh quân tràn sang đất ta. Cánh thứ nhất gồm 1 tiểu đoàn vượt mốc 12 chia làm 3 mũi,
thọc sâu đánh úp ta từ bên phải và phía sau đồn. Cánh thứ hai gồm 1 tiểu đoàn tràn qua eo suối
Tài Thồng Thình chia làm 2 mũi, một đánh lên cao điểm đồi Quế và một vào cổng đồn. Cánh thứ

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
ba gồm 2 tiểu đoàn tràn qua cầu Cửa Khẩu chia làm 3 mũi đánh trực diện. Tất cả các mũi đều có
chó chiến đấu và nhiều loại súng bộ binh. Đương đầu với 4 tiểu đoàn địch có pháo các cỡ yểm
trợ, phía ta chỉ vẻn vẹn 61 tay súng (Đây có lẽ chỉ tính riêng quân số của đồn biên phòng, nhưng
lực lượng dân quân tự vệ chắc cũng không ít). Biết chắc cuộc chiến đấu ác liệt nhưng cán bộ
chiến sĩ ta đều rất bình tĩnh, quyết tâm chiến đấu tới cùng. Phía cổng đồn, địch cậy có pháo yểm
hộ, quân đông hò hét tràn lên. Khổng Tiến Dũng mới nhập ngũ 8 tháng, nép mình trong một
ngách hào bên phải. Chếch về phía trái là Túc. Dũng và Túc cùng quê vốn là bạn thân từ khi học
lớp 1, cùng đi công an vũ trang một ngày và cùng được về đồn biên phòng này. Hai chàng lính
trẻ ấy vốn vui tính, lém lỉnh và rất thương nhau. Một củ sắn nướng bẻ làm đôi, bánh xà phòng
chia mỗi đứa một nửa, thư nhà, kể cả thư người yêu gửi tới đọc chung...

Túc nháy mắt với Dũng chỉ về phía địch rồi dơ hai ngón tay lên móc vào nhau. Dũng cười, móc
tay gật đầu đáp lại. Một loạt đạn đại liên quét tới cắm phầm phập vào mép chiến hào trước mặt
Dũng làm tung đất, bụi mù. Địch đã tới sát hàng rào thứ nhất cách chiến hào của ta không đầy
50m. Tốp đi đầu có 5 tên và 1 con chó chiến đấu. Chuyên hướng nòng khẩu AK lấy đường
ngắm. 3 viên bay đi. Con chó rú lên giãy giụa rồi nằm im. Dũng và Túc bắn từng loạt tiếp theo,
nhiều tên giặc gục tại chỗ. Từ đồi Quế, khẩu đại liên trong tay Hà quét dữ dội hất địch xuống.
Hoả lực của ta từ bên trái cổng đồn đồng loạt nổ phối hợp kẹp địch vào giữa. Những tên sống
sót chạy xuống vạt ruộng thấp gần đó. Đấy chính là bãi chông mìn. Những tiếng nổ nối tiếp nhau.
Giặc bị nhử vào "trận địa chết" của ta. Nhiều tên giãy đành đạch tên hàng chục mũi chông xiên
qua ngực hoặc bị mìn xé xác.

Đồn phó Hoạ đang chỉ huy mũi chính diện. Để mở đường cho bộ binh tiến, địch tập trung các loại
hoả lực cối 82mm, cối 60mm, ĐKZ, B40... dội bão lửa vào đồn. Một tên giặc đang ghếchd dầu
khẩu B41 lên mô đá. Chuyên chỉ cho Quảng, 2 người cùng bắn. Tên giặc chết đè lên súng. Thấy
chúng dồn lại phía ngã ba, Hoạ nghĩ ngay ra cách đánh mới : tập kích bất ngờ...
Công sự do Hoạ thiết kế có một hệ thống hầm ngầm luồn ra ngoài hàng rào. Cuộc chiến đấu giữ
thành cổ Quảng Trị giúp anh có bài học kinh nghiệm đó : phải cơ động bí mật ngay trong tuyến
phòng thủ. Hoạ trao đổi cách đánh với Mật và Chuyên. Kế hoạch được thực hiện ngay. Chuyên
điều hoả lực áp đảo địch phía bên phải, thu hút chú ý của chúng. Trong khi đó Mật dẫn một tổ
mang AK và nhiều lựu đạn luồn hầm ngầm hướng về phía trái. Một phút sau, bọn địch kinh
hoàng khi trong lòng đất, ngay sát đội hình chúng, hàng chục họng súng đồng loạt quét và lựu
đạn từng chùm ném vào nổ dữ dội. Tên chỉ huy còn đang ngơ ngác chưa kịp hiểu đối phương từ
đâu xuất hiện đã bị bắn chết. Tung hoành phá tan đội hình tấn công của địch xong, đội quân từ
dưới lòng đất chui lên ấy lại mau chóng biến nhanh vào lòng đất.

Bị thất bại nặng, địch thu quân ra xa và lập tức các cỡ pháo của chúng lại điên cuồng dội xuống
khắp trận địa. Lửa khói bao trùm tất cả. Nửa giờ sau địch tổ chức đợt tiến công thứ hai. Lần này
chúng tăng cường lực lượng đánh thọc câu cánh phải và áp đảo mãnh liệt cao điểm đồi Quế
hòng vây bọc, cô lập đồn với phía sau. Tiểu đội Lãm và Lượng phải đương đầu với lực lượng
địch đông gấp bội. Lượng nhào tới vịt rí từng chiến sĩ động viên. Anh nhìn sang phía giữa đồn.
Cuộc chiến đấu ở đó đang diễn ra ác liệt, súng các cỡ nổ liên hồi. Lượng biết dưới đó có Hồng
Chiêm của anh. Một quả cối nổ rất gần hất Lượng ngã dúi. Ngồi dậy, Lượng thấy một toán địch
đang nối nhau tiến về phía trái. Anh vẫy tay gọi 2 chiến sĩ theo mình. Họ lăn xuống một khe cạn,
nấp sau những bụi cây sa mộc ken dầy và ràng ràng um tùm, mau chóng bí mật đến đón đầu.
Cự ly chỉ độ 7m. "Bắn !". Tiếp theo tiếng Lượng hô, cả 3 khẩu AK cùng nhả đạn. Bọn địch chết
quá nửa, số còn lại hốt hoảng chạy ngược trở lại. Chúng điều quân tăng cường cho mũi này,
hình thành 2 gọng kìm vây bọc. Khẩu trung liên của Đường Chống Quay bắn trả dữ dội, nhiều
lần hất địch khỏi mép chiến hào. Một khẩu trung liên của địch bên mô đá phía trái xả đạn về phía
Quay. Lương ôm súng vào bụng lăn xuống. Anh ném lền 2 quả lựu đạn. Hoả lực địch câm bặt.
Bỗng Lượng lảo đảo ôm ngực quằn quại. Máu đỏ loang áo. Cụ Đường Dĩ Tắc chồm tới bế
Lượng vào hầm. Lượng hy sinh. Cụ già người Dao khóc nấc lên rồi khẽ đặt anh xuống, vớ lấy
khẩu AK chạy ra chiến hào chặn địch.
Đồi Quế là cao điểm rất lợi hại, địch tập trung pháo cối nã đạn xuống đồng thời tổ chức bộ binh
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
tấn công lên. Khẩu đại liên của Hà bắn rất dữ dội. Bọn giặc lần lượt chết gục trước mũi súng của
anh. Một tên liều chết bò lên. Lợi dụng mô đá, nó kê khẩu B40 phóng đạn tới. Khẩu đại liên lật
nghiêng, Hà bị thương nặng, tóc cháy xém, da mặt bỏng sạm. Lợi dụng thời cơ, địch tràn lên.
Tình hình hết sức nguy ngập. Hoạ lập tức điều tổ của Chuyên tới yểm hộ nhưng không kịp. Địch
chỉ còn cách Hà khoảng 5m, bỗng vô cùng bất ngờ, anh vùng dậy vớ lấy khẩu đại liên, nghiến
răng xiết cò. Bọn giặc chết chồng lên nhau, số sống sót chạy tán loạn. Phía trước mặt đồn, cuộc
chiến đấu diễn ra ác liệt hơn. Địch tăng quân tiếp viện, tập trung hoả lực bắn như đổ đạn vào các
chốt của ta.
Một tốp 5 tên địch xông vào chiến hào. Hoạ quay nòng AK quét tới, 3 thằng chết, 2 thằng sống
sót nhảy vào một ngách khác quăng lựu đạn đến. Khói trùm lên. Hoạ gục xuống. Chuyên lao tới
bắn chết 2 tên địch. Anh ôm lấy đồn phó. Hoạ nhìn Chuyên :"Để tôi nằm lại đây. Phải chiến đấu
đến cùng. Xin chào...". Hoạ hy sinh. Chuyên đặt Hoạ xuống, lấy chiếc mũ mềm đính quân hiệu
đậy lên mặt anh rồi vùng dậy hô lớn :
- Trả thù cho thủ trưởng Hoạ, bắn !
Hồng Chiêm một mình một mũi chặn địch. Khẩu súng của Chiêm hết đạn. Chị ném nó vào góc
hào, cúi xuống lấy khẩu AK của Mừng bắn tiếp. Một viên đạn xuyên qua cánh tay trái, Chiêm kẹp
súng vào nách phải nghiến răng bóp cò. Xác giặc đổ trước mặt chị. Khẩu AK thứ hai lại hết đạn.
Chiêm quật gãy súng rồi lấy khẩu súng ngắn của Hoạ tiếp tục chiến đấu. Giữa lúc ấy Khổng Tiến
Dũng từ đồi Quế chạy xuống. Thấy máu chảy ướt đẫm vai áo Chiêm, Dũng xé áo định băng lại
cho chị. Nhưng Chiêm xua tay gạt đi :"Băng cho đồng chí Mừng trước...". Nói ròi Chiêm chạy ra
ngách hào ném 2 quả lựu đạn vào tốp địch đang tràn lên. Mừng bị thương vào ngực, bụng, máu
ra nhiều, thiếp đi. Một khẩu đại liên xối đạn về phía Hồng Chiêm. Địch lại xông đến. Từ chiếc loa
rất to đặt bên kia cầu Cửa Khẩu, tiếng một tên người Việt gốc Hoa gào lên :
- Hỡi cán bộ và binh lính công an Việt Nam, các anh đã bị bao vây, mau mau hạ vũ khí đầu hàng
!
Đúng là giọng tên Phúc Phàn. Hắn đã từng sống ở Pò Hèn nhiều năm, được đồng bào ta đùm
bọc, giờ đây lại giở giọng phản phúc. Lập tức Khoát quát trả :
- Chúng tao không bao giờ đầu hàng. Chúng tao quyết chiến đấu đến cùng !
Một tràng đại liên từ phía ta quạt sang, chiếc loa vỡ tan.

Phía bên phải đồn, dưới sự chỉ huy của chính trị viên Tảo, cuộc chiến đấu mỗi lúc một quyết liệt.
Được sự yểm hộ của pháo, bộ binh địch tràn vào được nhà ban chỉ huy. Lò, xạ thủ B40 bị
thương gãy chân trái, gục xuống. Khổng Tiến Dũng chạy tới định lấy súng của Lò bắn địch,
nhưng Lò không chịu :
- Để tớ bắn, cậu chưa bắn quen B40.
Anh cố lấy sức đứng dậy bằng chân phải, nghiêng đầu ngắm và bóp cò. Quả đạn đỏ lừ lao ra.
Bọn địch trong nhà ban chỉ huy chết hết. Một tốp 5 tên xông vào nhà bếp. Lập tức Vang ném vào
đó 2 quả lựu đạn diệt 3 tên, 2 tên sống sót chạy ra bị Dũng dùng AK diệt nốt.
Chính trị viên Tảo hoàn toàn mất liên lạc với đồi Quế giữa lúc ở đó cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt.
Lá quế khô gặp lửa bốc cháy khói mù mịt, địch hò nhau tràn lên áp sát hàng rào. Chí ra lệnh
điểm hảo. Những tiếng nổ nối nhau. Một dãy mìn định hướng cùng nổ. Xác chúng tung lên cùng
với đất đá.
Khổng Tiến Dũng theo chiến hào chạy ngược về cổng đồn. Lúc này 2 cánh quân địch sáp nhập
được với nhau tấn công. Anh lắp 1 băng AK mới lấy được của địch vào súng bắn từng loạt mở
đường chạy tới chỗ Quảng. Không biết Quảng đã bị thương tới lần thứ mấy, máu me đầy người,
một tay gãy nát nằm gục bên chiến hào. Dũng nhào tới ôm Quảng rồi xé áo băng cho anh.
Quảng lắc đầu nhìn Dũng, nói trong hơi thở :
- Dũng ơi, cầm lấy khẩu AK của Quảng. Giết hết chúng nó đi...
Nói tới đó anh tắt thở. Dũng nghẹn ngào :
- Quảng, Quảng ơi...
Dũng đặt Quảng xuống, vuốt mắt cho anh rồi đứng dậy. Một viên đạn bay sát đầu hất tung chiếc
mũ mềm của Dũng xuống hào. Anh nhìn lên. Địch xông tới ngay trước mặt. Dũng xiết cò khẩu
AK của Quảng. Tên đi đầu chết sấp dưới chân anh. Bọn địch tràn vào chiến hào. Một tên xông
tới đâm Dũng, anh né tránh. Từ phía sau Cờ xốc lê vào lưng, nó chết ngay. Bốn năm tên nữa

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
xông đến. Dũng quát to :
- Anh Cờ, nó đâm đấy !
Cờ né đầu tránh mũi lê của một tên từ thành chiến hào phóng xuống, đồng thời rất nhanh anh
nắm tay nó kéo mạnh. Nó lộn cổ xuống. Bằng miếng võ điêu luyện anh đấm nó gục tại chỗ.
Thằng thứ hai xông tới đâm. Anh gạt được lê nó sang bên, đá móc. Nó gục tiếp. Từ ngách hào
gần đấy, một tên khác bắn sang. Máu vọt ra từ ngực. Cờ hy sinh. Căm quá, Dũng quét gần hết
băng AK, giết chết nó và 2 tên gần đấy. Khi quay lại đã thấy một tên phóng lê tới. Dũng gạt
nhanh và đánh báng súng vào hạ bộ, nó ngã gục. Bên trái năm bảy tên xông đến. Dũng nghiến
răng quét hết băng AK, ném liền 2 quả lựu đạn rồi vọt khỏi hào sang một ngách hầm khác chạy
về phía cổng đồn.

Cuộc tấn công thứ 5 bị bẻ gãy. Địch thổi còi thu quân lùi ra xa và gọi pháo bắn cấp tập vào trận
địa thật dữ dội để chuẩn bị cho những cuộc tấn công khác.

Những chiến sĩ tiền tiêu, NXB Thanh niên 1979.

Chào các bác. Em bị ốm, nằm bẹp, nay mới được góp chuyện.
Em không rõ pháo 37 nòng trên thế nào. Miêu tả là địch tung lên thì chắc là giàn phòng ĐKB.
Cùng thời điểm ta thửa của LX ĐKB hồi chống Mỹ, nhà ta cũng tự chế giàn phóng tương tự . Bác
Hồ đã cùng xem bắn thử hai thứ này trước khi trang bị. Giàn phóng của ta (em quên tên rùi, bác
nào nhớ và biết rõ tả lại) có tính năng tồi hơn ĐKB Liên Xô nên ít thấy được sử dụng.
Hồi em tốt nghiệp, có lập trình tính cho ông bạn ở HVKTQS một giàn phóng nhỏ. Nhưng đây là
giàn phóng rất nhỏ, đạn chính là lựu đạn mỏ vịt. Chuyện hài hước không thể tưởng. Phương
trình tính toán thuốc nổ còn lại của Mỹ không có,tính chất thuốc nổ được đo trong bom thí
nghiệm một cách rất ẩu, mà thuốc nổ cũng quá hạn, tính năng không ổn định. Phương trình
chung (thuật phóng) thì không thể làm kịp trong giới hạn một đồ án tốt nghiệp, em sử dụng lại
của gã Nguyễn Học Dân, con ma buôn máy tính cũ, hắn giả tưởng thuốc nổ Liên Xô và áp suất
trên mặt cắt bằng nhau. Nhưng cấu tạo súng lại là loại khí động, lợi thế là 2 tuye đổi chiều khí
thoát, mặc định lại có áp suất trong một mặt cắt rất khác nhau, sự chênh lệch này tạo lợi thế so
với thuật phóng khác. (Đây là nguyên lý Maniman, Thuỵ Điển, thuốc phóng được đốt trong buồng
đốt, tăng tốc qua tuye giữa, thổi thẳng vào đuôi đầu đạn, giảm tốc và quay ngược lại, thoát về
sau qua tuye thoát để giảm giật, thuật phóng này có lợi điểm là áp suất ở đuôi đầu đạn cao, nòng
ngắn mà vẫn hiệu quả)
Thế mà thằng cha Hồng (hồi đó hắn hướng dẫn 15 thằng tốt nghiệp một lúc để đủ số lượng làm

giáo sư . Bọn em biết rằng không thể tính được trong điều kiện như vậy nên chế tạo kết
quả giả và vẽ đồ thị (ngon, giờ ông bạn em trong Sài Gòn khá rùi). 10 quả lựu đạn xếp hàng dọc
trong nòng, em cười baỏ là tốc độ rất khác nhau do ra khỏi nòng không cùng lúc, sơ sơ lựu đạn
trải thành một hàng dọc (nếu bắn được). Các bác bít không, cha Hồng đem thiết kế í chế tạo thử

, kết quả: phát đầu tiên thổi tung cả giàn .

Quay về chuyện "hậu 79" đến năm 1988-1989, lúc đó 325 trực chốt Vị Xuyên. Lính chủ yếu là
nhập ngũ 1985-1987 Thanh Hoá, Huế, Hà Nội. Điểm cao của ta ở dưới, lính Tầu có thể thấy ta
ăn cơm với gì cơ. Tầu 3 tháng thay quân 1 lần, ta bộ binh thì 6 tháng, các lính khác không có
hạn đổi quân chính xác. Lúc này là thời điểm khó khăn nhất với quân đội, sĩ quan xin ra quân
hàng loạt. Xã hội ở trong gia đoạn cực nghèo mà lại bắt đầu phân hoá. Chỉ tội những thằng giầu
lên hồi ấy hầu hết là buôn lậu, trộm cắp..v..v nay hầu hết số giầu lên đó chẳng ra sao, nhưng ảnh
hưởng tinh thần lúc đó mạnh. Ở gần điểm cao 1500, điểm cao 2000 là trung đoàn 95, vừa lên thì
Tầu ra oai bắn cháy sạch nhà chỉ huy, ông Trần Xuân Loạn (quê Thái Bình, sau trận này được
tiên 2 bước từ trung đoàn trường lên sư phó rồi sư trưởng 325) ra lệnh nhân số đạn pháo của
Tầu lên gấp 3 rồi cũng bắn trả vào nhà chỉ huy nó, thế là nó thôi. Được vài tháng, Tầu thay quân,

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Tầu mới có một thằng râu quai nón rất to, cứ mỗi sáng tập thể dục bằng cách quăng sang ta mấy
quả lựu đạn lớn (hai bên cách nhau 40 mét), có hôm cơm vừa dọn ra thì bụi phủ kín, lính ta tức
quá, thế là sáng hôm sau, thằng chả vừa ưỡn người ra quăng lựu đạn thì ăn trọn một quả M79
vào bụng, quả lựu đạn của nó nổ tiếp bụi mù một góc. Lính ta và Tầu chung một đường tiếp
nước dọc một khe suối sâu, Tầu bắn vào đấy rồi nghỉ, ta cũng vậy, thay nhau nghỉ để lính có
nước ăn. Bọn mới lên cử thám báo ra chặn, ta không tiếp được nước một lần, liền bắn cầm canh
vào khe ấy, thế là nó phải nghỉ pháo vài hôm (như là biết lỗi). Trước khi về, ông anh em kỷ niệm
một cái thắt lưng Tầu (ông ấy bò sang ăn trộm, bị kỷ luật, nhưng hồi đó lính đã qua chiến đấu rất
thương nhau nên không có hậu quả lớn). Cứ mỗi lần thay quân lại như vậy, Tầu mới lên thì hung
hăng, cuối đợt thì thay lựu đạn bằng thuốc lá ném sang mời nhau.
Tầu như vậy, nó quá ức vì vụ 79, tìm trăm phương ngàn kế để bõ tức (nước lớn gì mà đê tiện).
Như 1984, 1985, nó dùng cỡ 3 quân đoàn tràn sang cố chiếm giữ một vài điểm cao của ta để
"thắng lợi"(năm 1984, cả sư đoàn của nó được hỗ trợ bằng vũ khí hiện đại nhất nó có, tấn công
một đại đội của ta rồi viết trong sử Tầu: "vượt qua 10 cứ điểm Việt Nam"). Nội bộ, nó gào lên với
dân Tầu và Quốc Tế : "đây là các điểm cao chiến lược cực quan trọng". Nó giải thích: "làm Việt
Nam chảy máu" bằng chiến tranh lâu dài. Nhưng kết quả, chính lính Tầu "chảu máu" như vậy.
Trong những năm tháng khó khăn nhất, tinh thần lính ta xuống thấp nhất, nhưng lính ta lúc đó lại
hiểu ra thế nào là phận người lính, cái nợ non sông phải trả nơi biên cương. Ý thức bảo vệ biên
giới hình thành rõ ràng thay cho những câu sáo rỗng "quyền và nghĩ vụ" của bọn chuột hậu
phương. Trong khi đó, hầu hết các vùng đất Tầu đã cử thanh niên đến đây, chúng nhanh chóng
hiểu ra một cuộc chiến chán đời, chỉ ba tháng để chúng hiểu được những gì mà hậu phương
chúng hô hào, chúng biến thành những kẻ gượng gạo thực hiện nhiệm vụ phi lý phi nghĩa, chúng
trở về và truyền rộng rãi sự rệu rã của tinh thần quân giải phóng Tầu. Năm đó, điện ảnh quân đội
Tầu thực hiện một bộ phim về Vị Xuyên, bộ phim ngu ngốc thô thiển như tinh thần những kẻ gây
chiến hồi đó. Trong phim, đặc công Việt Nam rất dũng cảm thiện chiến, nhưng làm tình như gà
(???? ), và cuối cùng bại trận !!!!!. Bộ phim được công chiếu và lần đầu tiên, hiếm hoi, bị phản đối
quyết liệt, như là một biểu tượng của thô thiển, dốt nát, cuồng vọng hiếu chiến, đê hèn trong thất
bại. Sau đó, báo quân đội Tầu lại đăng ảnh cùng bài viết về một "anh hùng", các lính Tầu xếp
hàng chào bà mẹ lên thăm con trên chốt, thì con bà đã chết gục lên khẩu ĐKZ, bài ảnh này lại
nhận được phản đối, phản đối một cách nhẹ nhàng nhưng rất quyết liệt. Ngoài nước Tầu, bài
báo được trính dẫn rộng rãi như biểu tượng cho thái độ cố gượng chiến tranh của Tầu, cuộc
chiến tranh mà những người gây ra và thực hiện đã kiên cường, bền bỉ, quyết liệt làm mất niềm
tin của dân Tầu với quân đội của họ.

Cái giàn đó nhà ta đặt tên là A-12, là Ka-chiu-sa tháo rời để mang vác, tầm bắn 9.600m. Sau có
ĐKB của Nga bắn 10.800m nên ít sử dụng (ĐKB hay ĐKZB nghĩa là ĐKZ chiến đấu ở B - miền
Nam).
Em nghĩ ĐKB cồng kềnh như thế, nếu ghép 37 nòng thì tốn quá nhiều mà rất khó tiếp đạn, di
chuyển... Vả lại mấy loại hoả tiễn như ĐKB, BM21 đều có tầm bắn lớn, chắc nhà ta sẽ dùng yểm
trợ từ xa chứ không bắn trực tiếp.

Một số tính năng của BM1-GRAD


Tính năng kỹ thuật
Cỡ đạn, mm 122
Chiều dài hỏa tiễn, mm 2870
Trọng lượng, kg 56,4-66
Trọng lượng phần đầu đạn, kg 6,4
Trọng lượng xe, kg 13700
Tầm bắn Min, m 5000
Tầm bắn Max, m 20380
Độ chính xác (độ phân tán), m 90
Số ống dẫn hướng ( số nòng) 40
Thời gian chuẩn bị để chiến đấu, phút 3,5
Thời gian nạp đạn, phút ( trường hợp dùng hệ thống xe nâng để nạp theo bloc) 5

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Công suất động cơ, sức ngựa 180
Vận tốc hành quân Max, km/h (theo đường nhựa) 85
Quãng đường, km 1040
Số bánh xe 6х6
Năm chính thức đưa vào sử dụng trong quân đội 1963

Ở các nước Ả rập, châu Mỹ La Tinh, Châu Á, tùy theo điều kiện địa phương và sử dụng hệ thống
này có cải tiến. Phần bệ phóng số ống phóng có thể xuống đến 30 ống. Phần xe có thể sử dụng
các loại xe khác nhau từ ZIL-131 đến xe ISUZU của Nhật Bản. Hệ thống này đã được sử dụng
thành công trong thập kỷ 70-80 tại nhiều điểm trên thế giới : Á, Phi, Mỹ La-Tinh.
Các dạng đầu đạn sử dụng cho BM1-GRAD
1- Đầu đạn nổ sát thương ( văng ) : 9M21OF
2- Đầu đạn nổ sát thương ( văng ) : 9M28OF hoặc 9M22U
3- Complex 7 đầu đạn để tạo nhiễu Radio 9M519-1 ….7
4- Đầu đạn với catxet 3M16 để rải mìn sát thương bộ binh từ xa.
5- Đầu đạn với catxet 9M28K để rải mìn chống tăng từ xa.

Còn phòng tuyến 2 là nơi tập trung hoả lực mạnh nhất lúc bấy giờ, các bác nhà mình chỉ chờ cho
TQ vào đến phòng tuyến 2 sẽ xử . nhưng TQ ko tấn công vào sâu được , có những điểm mình
còn đấnh thọc hẳn qua biên giới, tiểu đoàn của ông bác em còn đánh sang đất TQ mấy ngày
liền, đến khi thấy nó có nhiều bật lửa và phích nước quá mới biết là sang đất TQ

Pháo phản lực giàn phóng nhiều ống ghép lại đối với lính VN thì không có gì lạ hết . Nó quá quen
thuộc từ vài chục năm rồi . Súng có đến 37 nòng bắn trực xạ thì chưa ai trong chúng ta tìm được
bằng chứng cụ thể . Nhưng súng 7 nòng thì đã có đây . 7 súng phóng lựu 62mm ghép lại với
nhau . Đủ nhẹ để khiêng vác . Đủ mạnh để bắn áp đảo bộ binh .

Sao bác không hỏi luôn ông ấy ở đơn vị nào và đánh nhau ở mặt trận nào.
Ngoại giao Việt Nam công nhận quân ta đã phản kích đánh vào 2 thành phố biên giới của TQ là
Malypo (đối diện với Hà Giang) và Ninh Minh (đối diện với Lạng Sơn). Đặc công chắc cũng
không thiếu.
Kí sự sư đoàn 338 cũng có nói về chuyện sư đoàn này đánh sang diệt 1 căn cứ TQ.

Nhưng theo em thì chắc là pháo cao xạ 37mm vì trong tập ký sự "Chiến hào biên giới" (cả thơ cả
ký) có 1 chuyện kể về một tiểu đoàn pháo cao xạ phòng không 37mm được bố trí gần biên giới
để đón lõng máy bay địch nhưng chưa thấy máy bay đâu thì đã thấy xe tăng mang ngôi sao "bát
nhất" xông tới, thế là pháo thủ lẫn chỉ huy nhảy xuống chiến hào dùng sung bộ binh đánh địch.
Về sau quân Tàu đông quá tràn lên, chỉ huy đành cho sử dụng pháo cao xạ 37mm hạ nòng bắn
trực xạ. Trong đó cũng miêu tả cảnh quân TQ khiếp sợ như thế nào khi gặp lưới lửa khủng khiếp
này. Bác nào có tập ký sự này thì post lại cho em xem với, lâu quá em quên phéng mất rồi

Thực hiện phương châm tác chiến "Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng" trong cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Xuân 1975, cán bộ, chiến sĩ phòng quân giới và cán bộ, công nhân các xưởng
quân giới miền Nam (gọi tắt là Quân giới Miền) cũng "thần tốc" cải tiến vũ khí trong biên chế
nhằm tăng cường hoả lực cho các đơn vị chiến đấu.
*Lắp súng đại liên K.57 lên xe bọc thép K.63. Xe bọc thép K63 (do Trung Quốc chế tạo) bố trí
một khẩu 12,7mm lên phía trước, nhưng bị hạn chế góc tà. Khắc phục nhược điểm đó, cán bộ kỹ
thuật phòng quân giới cùng cán bộ, công nhân xưởng OX.1 đã "thần tốc" nghiên cứu thiết kế giá
và khoét một lỗ ở phía trước mũi xe để lắp thêm súng đại liên K57. Súng được bố trí để có thể
bắn được mục tiêu từ 7m trở ra. Hai bên thành xe được mở thêm nhiều lỗ nhỏ để bộ binh ngồi
trên xe có thể bắn được tiểu liên AK và ném lựu đạn ra ngoài. Sau khi cải tiến và thử nghiệm, xe
bọc thép K63 được đưa đi chiến đấu ngay.
*Đưa súng ĐKZ lên xe M113. Để tăng thêm hoả lực chiến đấu cho bộ đội ta, cán bộ, công nhân

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
xưởng OX.1 đã thử nghiệm thành công việc lắp súng ĐKZ lên xe M113 do ta thu được của địch.
Súng được đặt ở vị trí thuận lợi để xạ thủ có thể nạp đạn và ngắm bắn dễ dàng, không ảnh
hưởng đến các hoạt động khác trong xe. Xe M113 lắp súng ĐKZ-75mm có khả năng đánh trả xe
M113 và tăng M41 hoặc tiến công các cứ điểm, lô cốt kiên cố của địch.
*Cải tiến phương pháp đúc thuốc sản xuất bộc phá phá rào. Đây là sáng kiến của Z24, đưa năng
suất làm việc của 12 ngày bằng cả tháng trước đó. Sau 20 ngày liên tục sản xuất, với nỗ lực cao
độ của toàn thể cán bộ, công nhân từ cơ quan đến công xưởng, ngày 26-4-1975, sản phẩm cuối
cùng của kế hoạch đột xuất đã xuất xưởng gửi ra mặt trận. Đợt sản xuất cao điểm của Quân giới
B2 kết thúc thắng lợi với 6.809 quả bộc phá phá rào và 3.621 quả MĐH-10 được xuất xưởng.

Việt nam giỏi quá

Topic này tớ không bỏ sót một bài nào hoặc các topic liên quan đên tẩn nhau với tầu. Đọc xong
những bài đó tớ cảm thấy rất sướng, nhất là những chuyện kể có thêm gia vị của bác Cao Sơn.
Hôm qua tớ đem những chuyện oanh liệt ra kể với một bác là lính động viên cũng đi đánh tầu ở
những năm đó. Bác ấy nghe xong rồi chậc lưỡi - Đấy là ở đâu chứ ở chỗ anh làm gì có, bọn tầu
nó bắn dập dập cả ngày quân mình không dám thò đầu ra chỉ đến khi nào tiếp tế lương thực mới
tìm cách chui ra còn không thì ở trong hang hết. 6 tháng thay quân một lần nên những anh cũ
người xanh lét, như chết rồi có khi còn phải dìu do ở trong hang quá lâu. Bác ấy còn kể nhiều
anh quân ta rất liều, lên của hầm giao lưu với lính tầu, ném đồ cho nhau, đến khi thấy nó chuẩn

bị bắn pháo thì lính ta chui vào hầm . Bác còn nói - lính Hà Nội những năm đó lên rất nhiều
nhưng con số chết và bị thương lại ít hơn các tỉnh khác.
Tớ nghe bác ấy kể mà ngao ngán quá - xin hỏi các bác đã từng đi lính có thực sự có những

chuyện đó không nhẩy

Trận đánh này, sau đó tài liệu tổng kết của ta đánh giá nguyên nhân chính dẫn đến không hoàn
thành nhiệm vụ là do sai lầm trong phán đoán và chỉ huy của tiểu đoàn trưởng.
Tiểu đoàn đã bố trí rất cứng, với 2 đại đội phía trước trên hướng mà bác huyphuc nói, bờ sông
dốc và chật hẹp, địch rất khó vượt sông và có vượt được cũng rất khó khăn trong việc triển khai
tấn công. Nhưng lại để hở sườn. Thực tế quân Tầu không dại gì chọn một địa điểm bất lợi như
vậy để vượt sông. Chúng đã chọn hướng khác, ở đây bờ sông bằng phẳng và rộng hơn. ĐỊch đổ
bộ không gặp sự ngăn cản nào của ta rồi chọc thẳng vào tuyến sau của tiểu đoàn (1 đại đội), bỏ
qua những điểm tựa phía trước.
Trong quá trình chiến đấu tiểu đoàn trưởng xử trí kém linh hoạt. 2 đại đội phía trước mới đánh
một vài trận đã vội vã cho rút bỏ vị trí. Trong khi đó, đại đội kia, lực lượng đã mỏng lại bị phân tán
và thương vong vẫn để nguyên vị trí, phải liên tục chiến đấu với số quân địch đông từ 3-4 lần
(cấp tiểu đoàn) mà không nhận được bất kì chi viện nào.
Kết quả là ngày hôm sau, khi đại đội này đã kiệt sức, địch không khó khăn để chiếm trận địa.
Tiểu đoàn của ta phải bỏ chốt trong điều kiện còn sung sức, 2 đại đội gần như nguyên vẹn và 88
dân quân tự vệ mới tăng cường.

àh các bác ơi nhắc đến bác Cao Sơn em mới nhớ là có được post laịh bài của bác Cao sơn ko vì
chuyện của bác ấy cũng hay , ngày xưa nó gây sốc bên LSVH vì chuyện bác ấy kể rất mộc mạc
và rất chất lính , nhất là mấy đoạn 5 ngày lạc sang đất tầu , hay có đoạn nói : đi ! mình còn trẻ
chưa có vợ con gì , nếu có chết thì cũng chết vì quên hương , có bác còn bảo đọc đến đoạn đó
thấy khoé mắt cay cay , bác nào có thời gian thì post lại bài đó đi nếu ko vài hôm nữa em hết bận
là em biên tập lại bài của bác CAo Sơn ngày xưa đó

Thằng em sinh năm 79 nhờ bác Trường Sơn và các đàn anh phân tích một chút , tại sao trong
chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, lực lượng tình báo ta dự đóan chính xác giờ xuất kích cũng
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
như ngày tiến công của B52 tại Guam, Utapao, ... mà chúng ta nhiều nơi vẫn bị bất ngờ trong
những ngày đầu của năm 79, thậm chí địch và ta gần như đối mặt với nhau.

Tôi đươc một bác an ninh kề là hồi đó mình có được một điệp viên của ta bao chính xác ngày
giờ, nhưng tin này ko đc đánh gia cao vì ông này là người Việt gốc Hoa.

Theo bác, việc trục xuất Hoa kiều tuy có tiêu cực xong mặt tích cực về an ninh và chính trị trong
thời điểm bất khả kháng, đằng nào cũng phải cầm súng tay bo với Tàu ( cái này của cụ Lê
Duẩn). Hày mà xem ra bọn Tàu nó gài vào mình đông hơn mình gài vào nó phải ko các pác

Tôi tổng kết qua chiến tranh năm 79 có bổ xung thêm vai trò của ông anh Cả với mục đích xem
là lúc đó ta nhận được vũ khí gì, pháo 37 nòng hay là loại khác.
26 năm trước đây, tháng 3 năm 1979 kết thúc cuộc chiến kéo dài hơn 1 tháng giữa Việt nam và
Trung quồc. Hai đất nước châu Á này có chung một đường lối, nhưng lại chênh lệch nhau về
tiềm lực kinh tế, quốc phòng, về dân số và diện tích lãnh thổ. Trong cuộc chiến tranh này Trung
quốc đã bị thua. Đạo quân khoảng 600 000 quân của Quân đội Giải phóng Nhân dân TQ mất
62.5 ngàn người bị tử trận, khoảng 280 xe bọc thép và xe tăng, 118 pháo và vũ khí nặng.
Nguyên nhân để Trung quốc thực hiện “Đòn phản công” Việt nam là tháng 12 /1978, tâp đoàn
quân 120 nghìn bộ đội Việt nam tấn công vào Căm- Pu –Chia nơi mà dân tộc Căm-Pu –Chia bị
diệt chủng bởi chế độ Pôn Pôn. Ở đây tôi không phân tích nguyên nhân xâu xa của cuộc chiến
tranh này, nhưng đứng trên quan điểm tình hình thế giới hiện nay thì cũng phải Tự Hào rằng Việt
nam chúng ta cũng sử dụng sức mạnh quân đội can thiệp ra nước ngoài để Bảo vệ Quyền lợi
của Tổ Quốc, bỏ qua Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc, không khác gì Mỹ bây giờ. Có điều là
Việt nam làm điều này vào năm 1979, còn Mỹ thì vào năm 2002 đối với IRAQ và tính chất cuộc
chiến có khác nhau. Đối với Việt nam là nhằm bảo vệ quyên lợi Tổ Quốc và công dân Việt nam (
Việt kiều) ở nước ngoài đồng tiêu diệt chế độ diệt chủng Pôn-Pôn, cứu nhân dân Căm-Pu-Chia.
Trung quốc với nhà „kiến trúc sư“ là Đặng Tiểu Bình ủng hộ tích cực chế độ Khơ-Me đỏ đã quyết
định “Dạy cho Việt nam một bài học”, trong khi 85% lực lượng quân đội Việt nam đang ở Căm-
Pu-Chia.
Rạng sang ngày 17/2/1979, 7 cánh quân của Quân Đội giải phóng nhân dân Trung quốc sau 30-
40 phút của hỏa lực pháo binh dọn đường đã tấn công đồng loạt phòng tuyến của Quân Đội
Nhân Dân Việt nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc. Cần phải nói thêm rằng, Đặng Tiểu Bình
lúc này kiêm giữ chức Tổng Chỉ huy của Bộ tổng Tham mưu quân đội Quân Đội giải phóng nhân
dân Trung quốc. Hướng tấn công thứ nhất bao gồm 2 cánh quân, tấn công vào hướng Cao
Bằng. Mũi tấn công chính bao gồm 5 cánh quân đánh vào phía Đông –Bắc thị xã Lạng Sơn, cách
Hà Nội chỉ có 141 km. Một mũi nữa tấn công vào hướng Tây –Bắc, thị xã Lai Châu. Chống lại tập
đoàn quân hùng hậu này của Quân Đội Giải Phóng Nhân dân Trung Quốc chỉ có 01 sư đoàn
chính qui của Việt nam, 01 sư đoàn bộ đội địa phương, lực lượng Biênphòng, dân quân và du
kích. Chiến thuật chính trong tác chiên quân sự của quân đội Giải phóng Nhân dân Trung quốc
lúc bấy giờ là chiến thuật “Biển người”, không khác nhau xa bao nhiêu với chiến tranh Triều Tiên.
Phản ứng của Moscow lúc đó gần như tức thời dựa trên cơ sở hiệp ước hợp tác toàn diện Việt-
Xô 03/11/1978. Moscow đã đặt quân khu Viễn Đông và quân khu Si-Bê-Ri trong tình trạng báo
chiến đấu. Quân đội Xô- Viết với khoảng 250.000 người và 25 đơn vị cơ giới có không quân yểm
hộ bắt đầu tập trung (mobilized and concentrated) dọc biên giới phía bắc Xô- Trung phía
Manchuria ( Mãn Châu-lý), gây áp lực đe dọa tấn công Trung Quôc,nếu Trung quốc không rút
khỏi Việt nam.
Bộ tổng tham mưu Xô-Viết đã thành lập ngay nhóm tác chiến gồm 20 các chuyên gia quân sự và
cố vấn cho các binh chủng khác nhau. Chỉ huy nhóm tác chiến là tướng dầy dạn kinh nghiệm
Genady Obaturov (Геннадий Обатуров). Sáng ngày 18/02/1979 nhóm này đã đến Hà nội và
nghe báo cáo và làm việc với Đại Tướng Lê Trọng Tấn và Bộ trưởng bộ quốc phòng Văn Tiến
Dũng về tình hình măt trận Cuối cùng thì Genady Obaturov cũng gặp được trực tiếp với Tổng Bí
Thư Lê Duẩn, một việc mà không phải đơn giản lúc bấy giờ, và thuyết phục được việc chuyển
quân khẩn cấp từ Căm-Pu-Chia về theo đường xe lửa và cầu hàng không AN-12 (được thành
lập khẩn cấp). Sau đó đưa ra việc thành lập đường viện trợ cho Việt nam hệ thống tên lửa mặt
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
đất BМ-21 (Grad) . Ngày 5/03/1978 Bắc Kinh tuyên bố bắt đầu rút quân hạn chế và dần dần khỏi
Việt nam. Nhưng các hoạt đông quân sự chính chỉ kết thúc vào ngày 18/03/1979. Việt nam mất
hơn 45. 000 ngôi nhà, 900 trường học, 428 bệnh viện và các trung tâm y tế, 25 hầm mỏ, 55 xí
nghiệp và nhà máy.
Về mặt quân sự, trong chiến tranh 79 Trung quốc thua Việt nam , nhưng lại thu được nhiều „Lợi
Lộc“ và chiến thắng trên nhiều „Mặt Trận“ khác. Ở đây tôi chỉ đề cập đến vấn đề quân sự thuần
túy. Đó là sau cuộc chiến tranh này Trung Quốc cũng rút nhiều kinh nghiệm, quyết định thực hiện
công cuộc cải cách và hiện đại hóa quân đội.
PS: Nếu không đúng chủ đề thi steppy phiền MOD xóa giùm. Cám ơn !!
Cám ơn bạn kqndvn đã cho tôi cảm hứng viết bài !!!

....cuối năm 1977, trên tuyến biên giới Việt - Trung đã xảy ra một số việc phức tạp về chủ quyền
lãnh thổ quốc gia. Tỉnh ủy Lai Châu theo dõi chặt chẽ tình hình, chủ trương giải quyết mềm dẻo
và linh hoạt; sao cho vừa đảm bảo chủ quyền biên giới, vừa giữ được mối quan hệ hữu nghị
giữa hai Nhà nước. Bên cạnh những thắng lợi trên các mặt kinh tế - xã hội, an ninh - quốc
phòng, về công tác xây dựng Đảng, củng cố chính quyền cũng như các đoàn thể quần chúng;
Đảng bộ cũng nhận thấy những khó khăn, tồn tại cần có biện pháp khắc phục kịp thời, đó là: Hệ
thống quản lý và chỉ đạo của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể từ trên xuống cơ sở
chưa thực mạnh; chưa đề ra được phương hướng sản xuất, cơ cấu kinh tế của từng vùng; một
bộ phận quần chúng nhân dân ý thức làm chủ chưa cao; một số ngành chưa phát huy được
những thế mạnh sở trường...

Cuối năm 1978, tình hình biên giới các tỉnh phía Bắc nói chung và Lai Châu nói riêng, ngày càng
trở nên căng thẳng; phía Trung Quốc ráo riết đẩy mạnh các hoạt động quân sự ở biên giới. Song
song với hành động quân sự, họ còn phát động một cuộc chiến tranh tâm lý, tìm mọi cách chia rẽ
nội bộ ta, chia rẽ nhân dân các dân tộc. Trước tình hình trên, Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo thành
lập các đội công tác ở 23 xã biên giới Việt - Trung, thuộc 3 huyện: Phong Thổ, Sìn Hồ, Mường
Tè và một số xã nội địa có vị trí đặc biệt quan trọng; xây dựng phương án cụ thể phòng chống
bạo loạn, xưng vua, nổi phỉ và chủ động đối phó với mọi tình huống xấu nhất. Cũng trong năm
1978, Trung ương tăng cường cho Lai Châu 610 cán bộ, gồm những cán bộ của quân đội, của
các ngành Trung ương và một số tỉnh bạn. Đi đôi với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên
giới, tỉnh chỉ đạo các huyện tiếp tục phát triển hơn nữa về kinh tế - văn hóa - xã hội; phát động
phong trào: "Quyết thắng Đông - Xuân, toàn dân quân sự hóa". Tính đến tháng 12/1978, toàn
tỉnh có 11 nghìn cán bộ chiến sỹ thuộc lực lượng quân chính quy, 38 nghìn người thuộc
lực lượng dân quân tự vệ. Ởcác xã, các công - nông - lâm trường, xí nghiệp đều thành lập
3 lực lượng với hàng chục nghìn người tham gia và được trang bị các loại vũ khí chiến
đấu. Theo sự chỉ đạo của tỉnh, các đơn vị vào cuộc với những đóng góp và quyết tâm cao nhất
của ngành mình, để làm tốt công tác hậu cần khi chiến sự xảy ra.

Bằng thiện chí hòa bình, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã làm tất cả những gì có thể
nhằm tránh một cuộc xung đột biên giới. Nhưng "cây muốn lặng, gió không đừng", ngày
17/2/1979 Trung Quốc đã vô cớ phát động một cuộc tấn công quân sự nhằm vào 6 tỉnh biên giới
phía Bắc Việt Nam, trong đó có Lai Châu. Đáp lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, thực hiện
mệnh lệnh chiến đấu của Bộ Quốc phòng và Quân khu II; quân và dân Lai Châu đã phát huy
truyền thống yêu nước kết hợp với chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đoàn kết một lòng, tiến hành
những trận đánh trả ngoan cường bảo vệ toàn vẹn chủ quyền đất nước. Sau 23 ngày đêm chiến
đấu vô cùng dũng cảm và mưu trí, chúng ta đã buộc quân địch phải rút chạy về bên kia biên giới.
Để ghi nhận thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu của các địa phương, Chính phủ đã tặng
thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì cho quân và dân Lai Châu; tặng Huân chương
Kháng chiến hạng Nhất cho quân và dân huyện Phong Thổ, hạng Nhì cho huyện Sìn Hồ và
hạng Ba cho huyện Mường Tè. Ngoài ra, còn hàng chục đơn vị vũ trang và cá nhân trong
tỉnh được tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân", cùng nhiều tặng
thưởng Huân, Huy chương các loại.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Hi các Bác ,
Liệu có phải loại này là lọai các bác đang cần tìm không? Tớ phải nhờ mãi mấy thằng bạn tớ ở
Nga mới tìm được cái này đấy. Có thể bộ đội ta dùng thêm lọai nào nữa của Tầu chăng??
đây là loại súng 9K132" GRAD -P" loại một nòng để vận chuyển bằng sức người dùng chủ yếu
cho lối đánh du kich. Được thiết kế tại Liên xô theo yêu cầu đặc biệt của chính phủ ta năm 1965.
Ban đầu đưa ra 02 phương án thiết kế. 1-đặt trên xe GAZ-69, 2- mang vác được bằng bộ binh,
nhưng chính phủ ta đặt đặt sự chọn vào phương án 2. Năm 1966 GRAD -P được đưa vào sản
xuất hàng loạt. Năm 1968 chính bộ đội đã dùng lọai súng này để nã đạn vào sân bay Tân Sơn
Nhất. Ngoài quân đội ta ra, thì súng GRAD -P được quân tình nguyện Cu-Ba sử dụng tại châu
Phi, và các chiến binh Palestine sử dụng để thực hiện các vụ oanh tạc người Do thái. Quân đội
Liên-Xô không dùng loại súng này. Ưu điểm lớn nhất của GRAD -P là tính ổn định và độ bền.
Đặc tính kỹ thuật: 9K132 "GRAD-P"
1- Cỡ đạn: 122 mm thuộc đạn hoả tiễn phản lực.
2- Tổ bắn 4 người
3- khối lượng: 55 kg
4- Kích thước khi triển khai chiến đấu:
dài 2500 mm, rộng 1500 mm, cao 2500mm
5- Khối lượng đạn: 46 kg
6- Vận tốc bắn 1 viên / 1 phút
7- Tầm bắn Max: 10,8 km/

Khẩu ĐKZ-B mà bác steppy post ở trên dài gấp đôi khẩu ĐKZ-C mà tớ post. Đây là những thông
số của ĐKZ-C :
Pháo phản lực mang vác do LX cải tiến từ mẫu ĐKZ-B theo yêu cầu của VN. Gồm :
- Thiết bị phóng : 9P-132M
- Nặng : 51 kg
- Dài : 1250mm
- Dùng đạn : 9M-22M1kiểu phá mảnh {có vòng đen để phân biệt với đạn ĐKZ-B}, nặng 47,8kg
- Tầm bắn : 9000m {có vòng cản}, hoặc 15000m {không có vòng cản}
Được quân giới VN cải tiến thành các kiểu : ĐC-1, ĐC-2, ĐC-30, C-20...có uy lực lớn hơn.

Anh hùng liệt sĩ Trần Trọng Thường

Đồng chí Trần Trọng Thường sinh năm 1958. Sinh quán tại xã Thanh Sơn, huyện Thanh Hà.
Dân tộc Kinh. Nhập ngũ tháng 6 năm 1977. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hy sinh ngày 3
tháng 3 năm 1979 tại Đồng Đăng, tỉnh Lạng Sơn, khi đó đồng chí là tiểu đội trưởng, đại đội 51,
tiểu đoàn 5, trung đoàn 2, sư đoàn 3 Quân khu 1.

Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc tháng 2 năm 1979, Trần Trọng Thường chỉ huy
tiểu đội, chiến đấu cực kỳ dũng cảm diệt hàng trăm tên địch, riêng đồng chí 47 tên, thu 1 súng.
Từ ngày 17 dến 23 tháng 2 năm 1979, đơn vị đồng chí chiến đấu ở phía tây bắc Đồng Đăng, tỉnh
Lạng Sơn. Mặc dù quân số địch đông gấp bội, lại có pháo binh yểm trợ, đánh phá ác liệt, mở
nhiều đợt tấn công vào trận địa của ta, Trần Trọng Trường vẫn bình tĩnh chờ địch đến gần mới
nổ súng, diệt 7 tên và chỉ huy tiểu đội diệt nhiều tên khác. Từ 25 đến 28, địch lại tổ chức một lực
lượng lớn đánh vào trận địa của đơn vị, đồng chí đã động viên đơn vị giữ vững tinh thần chiến
đấu, đánh lui các cuộc tiến công của địch, tiêu diệt nhiều sinh lực, riêng đồng chí diệt 39 tên.
Ngày 2 tháng 3, quá trình chiến đấu hết đạn, đồng chí dũng cảm xông lên dùng báng súng đánh
chết 1 tên. Ngày 3 tháng 3, trong lúc dẫn đầu một đơn vị chiến đấu, đồng chí bị trúng đạn của
địch đã anh dũng hy sinh. Đồng chí được tặng thưởng một Huân chương quân công hạng III.
Ngày 20 tháng 12 năm 1979, Trần Trọng Thường được Chủ tịch nước cộng hoà XHCN Việt Nam
truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Xuân Kim

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Đồng chí Nguyễn Xuân Kim sinh năm 1952, sinh quán tại xã Lạc Long, huyện Kinh Môn. Dân tộc
Kinh. Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Hy sinh ngày 17 tháng 2 năm 1979 tại mặt trận phía
Bắc, khi đó đồng chí là thượng sĩ, quyền đại đội trưởng đại đội 6, tiểu đoàn 2, trung đoàn 192 bộ
đội địa phương Hoàng Liên Sơn, Quân Khu 2.

Từ tháng 6 năm 1972 đến tháng 4 năm 1975, đồng chí chiến đấu ở chiến trường Trị- Thiên, lập
nhiều thành tích xuất sắc. Tháng 2 năm 1979, đơn vị đồng chí được giao nhiệm vụ giữ chốt Cốc
San ở huyện Bát Sát, tỉnh Lào Cai. Ngày 17 tháng 2, địch cho một tiểu đoàn có pháo binh, xe
tăng yểm trợ, chia làm nhiều mũi, từ nhiều hướng đánh phá ác liệt vào trận địa của ta, Nguyễn
Xuân Kim vẫn bình tĩnh chỉ huy đơn vị, chờ địch đến gần mới nổ súng, tiêu diệt nhiều tên địch.
Đồng chí bị thương lần thứ nhất, tự băng bó, tiệp tục chiến đấu. Bị thương lần thứ hai, đồng chí
bị ngất, khi tỉnh lại, đồng chí tiếp tục chỉ huy đơn vị, tổ chức lực lượng đánh vào sườn và phía
sau lưng địch. Bị thương lần thứ ba, do vết thương quá nặng, bị ngất nhiều lần, nhưng mỗi lần
tỉnh lại, đồng chỉ vẫn chỉ huy đơn vị chiến đấu. Khi thấy địch đến gần, đồng chí mang hết sức còn
lại, gượng dậy, dùng lựu đạn, tiểu liên AK đánh thẳng vào đội hình địch. Trong trận chiến đấu
này, đơn vị đồng chí đã bẻ gẫy 8 đợt tiến công của địch, diệt trên 200 tên, riêng đồng chí diệt 60
tên. Nguyễn Xuân Kim đã khi sinh sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đồng chí được thưởng
một Huân chương quân công hạng III, một Huân chương chiến công hạng II, 2 lần được tặng
Danh hiệu dũng sĩ. Ngày 20 tháng 12 năm 1979, đồng chí được Chủ tịch nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam truy tăng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Anh hùng liệt sĩ Phạm Xuân Huân

Đồng chí Phạm Xuân Huân sinh năm 1948. Sinh quán tại xã Việt Hoà, huyện Cẩm Giàng, nay
thuộc phường Cẩm Thượng, thành phố Hải Dương. Dân tộc Kinh. Nhập ngũ tháng 4 năm 1968.
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hy sinh ngày 28 tháng 2 năm 1979 tại biên giới phía Bắc,
khi đó đồng chí là trung uý, đại đội trưởng đại đội 10, tiểu đoàn 6, trung đoàn 148, sư đoàn 316
Quân khu 2. (Không rõ đây là F316 được QĐ3 phối thuộc cho QK2, hay F316A mà các tư liệu TQ
đã nói đến. Xin nhờ những bác có khả năng kiểm tra hộ).

Từ năm 1968 đến năm 1975, Phạm Xuân Huân tham gia chiến đấu ở chiến trường Lào, sau đó
là chiến trường miền Nam, lập nhiều thành tích xuất sắc. Tháng 2 năm 1979, trong cuộc chiến
đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, đồng chí chỉ huy đơn vị diệt 250 tên địch, riêng đồng chí diệt 45
tên.

Ngày 22 tháng 2 năm 1979, địch huy động số quân khá đông, có pháo binh yểm trợ, đánh phá
vào trận địa của đơn vị, Phạm Xuân Huân vẫn bình tĩnh, chỉ huy mưu trí, linh hoạt, vừa đánh địch
phía chính diện, vừa đánh bên sườn và sau lưng, đơn vị đồng chí tiêu diệt hàng trăm tên địch,
đánh lui nhiều đợt tiến công, giữ vững trận địa

Đến ngày 23 tháng 9 năm 1979, địch huy động một tiểu đoàn, có pháo binh yểm trợ, đánh vào
trận địa của đồng chí, Phạm Xuân Huân, bình tĩnh, dũng cảm, chỉ huy đơn vị chiến đấu quyết liệt,
giành giật từng mét giao thông hào, từng công sự chiến đấu, khi hết đạn, đồng chí đã dùng dao
găm đánh giáp lá cà. Trong trận này, đồng chí diệt 45 tên địch.

Ngày 28 tháng 2, năm 1979, sau nhiều lần thất bại nặng nề, địch huy động một lực lượng lớn,
chia làm nhiều hướng, nhiều mũi đánh vào trận địa ta. Đồng chí chỉ huy đơn vị chiến đấu suốt từ
sáng đến chiều, đánh lui nhiều đợt tiến công của địch và anh dũng hy sinh, sau khi hoàn thành
nhiệm vụ.

Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương quân công hạng III, 3 Huân chương chiến công
hạng III và một danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Ngày 20 tháng 12 năm 1979, Phạm Xuân Huân đã được Chủ tịch Nước cộng hoà XHCN Việt
Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Anh hùng liệt sĩ Đỗ Chu Bỉ

Đồng chí Đỗ Chu Bỉ sinh năm 1952. Dân tộc Kinh. Sinh quán tại xã An Lâm, huyện Nam Sách.
Nhập ngũ....... Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Hy sinh ngày 1 tháng 3 năm 1979

Khi tuyên dương anh hùng, đồng chí ở đại đội 6 công an vũ trang tỉnh Quảng Ninh. Ngày 1 tháng
3 năm 1979, Đỗ Chu Bỉ trực tiếp chỉ huy giữ chốt A1, vị trí án ngữ tuyến đầu, cách biên giới
300m, cách đồn biên phòng Hoành Mô 400m. Ở vị trí quan trọng như vậy, để chiếm vị trí chốt
A1, địch đã tập trung pháo binh các loại, bắn liên tiếp suốt 1 tiếng đồng hồ. Pháo vừa dứt, 4 tiểu
đoàn địch ào ạt xông lên. Trong tình huống đó, Đỗ Chu Bỉ vẫn bình tĩnh chờ cho địch đến gần rồi
mới hạ lệnh cho đơn vị đồng loạt nổ súng, bắn mãnh liệt vào đội hình của địch, hàng chục tên bị
tiêu diệt, sau đó tiếp tục đánh bại hàng chục lần tiến công của địch. Bị thất bại nặng nề, chúng lùi
lại cho pháo binh bắn cấp tập vào trận địa, khi pháo chuyển làn, bộ binh lại ào ạt xông lên. Lần
này chúng chiếm được giao thông hào bên phải chốt, Đỗ Chu Bỉ vẫn bình tĩnh chỉ huy phân đội
dùng lưỡi lê, lựu đạn, báng súng đánh giáp lá cà, đẩy địch ra khỏi chiến hào. Sau thất bại của 2
lần tiến công, địch tăng viện một tiểu đoàn, chia thành 2 mũi: Một mũi đánh đồn biên phòng
Hoành Mô, một mũi đánh chốt A1. Đỗ Chu Bỉ chỉ huy cả đơn vị đánh địch cả hai hướng, diệt 20
tên. Đồng chí bị thương vào tay, vào sườn, vẫn không rời trận địa. Cuộc chiến đấu kéo dài, ngày
càng ác liệt, trời lại mưa, chiến hào lầy lội, đồng chí tổ chức đưa thương binh, tử sĩ sang chốt A2,
tiếp tục bảo vệ chốt A1. Địch liên tiếp phản công, đồng chí vẫn bình tĩnh chỉ huy đơn vị chiến đấu
và đã hy sinh tại mặt trận.Với thành tích chiến đấu liên tục, ngoan cường, dũng cảm, đồng chí
cùng đơn vị lập công xuất sắc, được truy tặng Huân chương chiên công hạng nhât và thăng
quân hàm trung uý. Ngày 19 tháng 12, năm 1979, Đỗ Chu Bỉ được Chủ tịch nước cộng hoà
XHCN Việt Nam truy tăng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Quên mình vì đồng đội


Lâm Phương

Trên biên giới phía bắc năm ấy, ở hướng Lào Cai, những người lính tự vệ địa chất sát cánh cùng
bộ đội, dân quân và bà con các dân tộc, kiên cường bảo vệ từng tấc đất biên cương. Và có một
người con của địa chất đã ngã xuống, hy sinh thân mình để cứu đồng đội. Đó là Anh hùng liệt sĩ
Nguyễn Bá Lại. Anh Trần Dự, kỹ sư địa chất, bạn chiến đấu của người anh hùng kể : "Những
ngày cuối năm 1978 đầu 1979, tiểu đoàn tự vệ địa chất được lệnh tăng cường luyện tập, đào
hào đào công sự chiến đấu. Khi đó, tôi là khẩu đội trưởng đại liên, anh Nguyễn Bá Lại là trung
đội trưởng tự vệ kỹ thuật. Rạng sáng ngày 17-2, chúng tôi chuẩn bị thay ca trực chiến, bỗng đất
trời như vỡ ra trong tiếng nổ của các loại vũ khí. Cuộc chiến bắt đầu. Anh Nguyễn Bá Lại có vị trí
chỉ huy chiến đấu trong một hầm chữ A trong có 6 người (2 nữ tự vệ). Tôi cũng ở trong số đó vì
không kịp chạy về khẩu đội nên nhập luôn vào đây. Chúng tôi đã chống trả được các đợt tấn
công của đối phương cho đến 14 giờ ngày hôm đó. Mắt như mờ đi, tai ù và miệng thì đắng ngắt
vì khói súng. Bất ngờ, một quả lựu đạn của đối phương “đánh lỗ đáo” đúng vào hầm. Rất nhanh,
anh Nguyễn Bá Lại nằm đè lên và một tiếng nổ nhức óc. Tôi đứng cạnh, bị ngã xuống và ngất đi.
(Tham khảo kí sự Người kĩ sư địa chất đánh giặc). Tỉnh lại, mới hay 6 người đã được anh Lại
cứu sống.Anh Dự ngừng lời, cố nén xúc động và mắt thì hoe đỏ". Tôi hỏi : "6 người đó giờ ở
đâu?", anh Dự kể tiếp : "Ngoài tôi ra, là Chu Bá Đảng, kỹ sư địa vật lý, nay đã nghỉ hưu ở Hà
Tây. Phạm Viết Hùng, trung cấp địa vật lý, chiến sĩ thi đua toàn quốc, nghỉ hưu ở Phủ Lý, Hà
Nam. Kiều Như Thiện, trung cấp địa vật lý, nghỉ hưu ở Phú Thọ. Nguyễn Thị Nhuần, trung cấp
họa đồ, nghỉ hưu cùng quê anh Hùng. Nguyễn Thị Sang, trung cấp địa vật lý, nay ở Phổ Yên,
Thái Nguyên". - Khi đó anh Lại đã có gia đình chưa ? - Có rồi, vợ anh là Nguyễn Thị Hồng, quê ở
Thụỵ Trình, Thái Thụỵ, Thái Bình. Lúc đó, anh chị đã có một cháu gái 3 tuổi, chị là giáo viên cấp
2 dạy ở xã và cháu trai ngày ấy mới 2 tháng tuổi, nay học Trường đại học Mỏ-địa chất để nối

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
nghiệp bố. Anh Lại khi đó đã có giấy nghỉ phép, nhưng xảy ra chiến sự, anh chiến đấu rồi hy sinh
nên chưa biết mặt con trai. Hằng năm, ngày giỗ anh, chúng tôi vẫn thắp hương tưởng nhớ.
Chúng tôi như được sinh ra lần thứ hai vậy. Tôi thường về thăm quê anh. Thời gian càng lùi xa,
chúng tôi càng thấy hành động của anh thật anh hùng (anh được tuyên dương Anh hùng LLVT
nhân dân năm 1996). Và thật đúng phẩm chất con người anh trước đó-sinh ra trong một gia đình
cách mạng (có chị và anh hy sinh trong kháng chiến) được đào tạo ở nước ngoài. Khi về nước,
anh đã tình nguyện lên Tây Bắc, vượt mọi khó khăn thiếu thốn, vừa làm, vừa học, tranh thủ dạy
văn hóa, ngoại ngữ cho đồng nghiệp. Anh trưởng thành rất nhanh, là Trưởng phòng kỹ thuật trẻ,
là bí thư chi đoàn và 4 năm liền là Chiến sĩ thi đua”. Bây giờ, trên con đường vào mỏ đồng Sinh
Quyền, mỏ đồng lớn nhất của nước ta, nơi năm xưa anh Nguyễn Bá Lại chiến đấu và hy sinh, có
một tấm bia tưởng niệm các liệt sĩ là những cán bộ, công nhân Liên đoàn địa chất Tây Bắc đã
ngã xuống trong sự nghiệp điều tra thăm dò địa chất và bảo vệ mỏ. Trong danh sách này, có tên
anh hùng-liệt sĩ Nguyễn Bá Lại. Tại quê hương, tên anh đã được đặt cho những cánh đồng,
những con đường, đội thiếu niên, cho trường học. Anh sống mãi với quê lúa Thái Bình, sống mãi
trong lòng những người địa chất Việt Nam.

Anh hùng Đào Văn Quân

Đồng chí Đào Văn Quân sinh năm 1950. Sinh quán tại xã Cộng Lạc, huyện Tứ Kỳ. Dân tộc Kinh.
Nhập ngũ tháng 2 năm 1971. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam,

Khi tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung uý chính trị viên bộ đội đặc công, tiểu đoàn 45 Bộ
tư lệnh đặc công. Từ năm 1972-1974, đồng chí chiến đấu ở chiến trường Trị - Thiên, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao. Năm 1979, trong cuộc chiếu đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, đồng
chí cùng đại đội trưởng chỉ huy đơn vị chiến đấu rất dũng cảm, mưu trí, có nhiều cách đánh táo
bạo, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Đại đội của đồng chí đã tiêu diệt 640 tên địch, phá huỷ 18 xe, 2
dàn hoả tiễn, 5 tấn đạn, 1 khẩu đại liên. Riêng đồng chí Quân đã diệt 90 tên địch, bắt sống 1 tên,
phá huỷ 1 dàn hoả tiễn H12, bắn cháy 8 xe quân sự, thu 1 súng. Ngày 21 tháng 3 năm 1979, đơn
vị đồng chí trên đường hành quân vào thị xã Cao Bằng, bị địch phục kích, địch tập trung hoả lực
bắn ác liệt vào đội hình của ta. Trong tình huống bị động, đồng chí rất bình tĩnh, động viên đồng
đội, nhanh chóng tổ chức đội hình chiến đấu, đánh địch liên tục suốt từ sáng đến chiều, diệt 130
tên, bắt sống 4 tên, phá huỷ 1 đại liên. Trong trận này, riêng Đào Văn Quân diệt 10 tên, bắt sống
1 tên, phá huỷ một đại liên, thu một súng. Ngày 18 tháng 3 năm 1979, sau 2 ngày kiên trì bí mật
phục kích một đoàn xe 18 chiếc, chở đầy lính lọt vào trận địa phục kích của đơn vị. Khi nổ súng,
đồng chí đã nhanh chóng diệt chiếc xe đi đầu, cả đoàn xe ùn lại, Đào Văn Quân cùng đại đội
trưởng chỉ huy đơn vị đánh mãnh liệt vào đội hình địch. Bị tấn công bất ngờ và thương vong lớn,
địch hốt hoảng bỏ chạy, đơn vị đồng chí đã nhanh chóng truy kích, diệt hoàn toàn đoàn xe 18
chiếc, phá 2 giàn hoả tiễn H12, diệt 50 tên (Tham khảo kí sự Luồn sâu đánh hiểm). Đồng chí
được thưởng 1 Huân chương quân công hạng III. Ngày 20 tháng 12 năm 1979, được Chủ tịch
nước cộng hoà XHCN Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Tôi đọc trên trang nhà medal of hornor thấy nhiều chú lính Mỹ cũng hy sinh giống như thế này và
được truy tặng. Nhưng không biết từ khi nào, sau khi đào công sự, lính Mỹ bao giờ cũng đào
thêm một cái lỗ con , rộng bằng nửa cái mũ sắt, sâu bằng chiều dài khẩu súng trường ở ngay
giữa công sự. Khi có lựu đạn lẳng vào công sự, chú lính nào nhanh chân đá được quả lựu đạn
xuống lỗ thì thương vong giảm hẳn. Không biết bộ đội mình có đào cái lỗ chống lựu đạn như thế
không ?

Em thử lập 1 danh sách các đơn vị của ta trong chiến dịch tháng 2-1979, dưới đây là những đơn
vị đã được thẩm định chắc chắn 100% là có tham gia chiến đấu. Những bác nào có điều kiện xin
kiểm tra và bổ sung hộ.

Đơn vị / Mặt trận / Thời gian tham chiến

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Sư đoàn bộ binh 3 / Lạng Sơn / 17-2-1979.
Sư đoàn bộ binh 311 / Cao Bằng / (?)
Sư đoàn bộ binh 316 / Hoàng Liên Sơn (?) / 17-2-1979 (?).
Sư đoàn bộ binh 323 / Quảng Ninh / (?)
Sư đoàn bộ binh 328 / Quảng Ninh / (?)
Sư đoàn bộ binh 325B / Quảng Ninh / 17-2-1979 (?).
Sư đoàn bộ binh 338 / Lạng Sơn (?) / 17-2-1979.
Sư đoàn bộ binh 346 / Cao Bằng / 17-2-1979.
Sư đoàn công binh 334 / Hoàng Liên Sơn / (?).
...

Trung đoàn biên phòng 12 / Lạng Sơn / 17-2-1979.


Trung đoàn biên phòng 16 / Hoàng Liên Sơn / 17-2-1979.
Trung đoàn bộ binh 42 sư đoàn bộ binh 327 / Lạng Sơn / 28-2-1979.
Trung đoàn bộ binh 4 sư đoàn bộ binh 337 / Lạng Sơn / 28-2-1979.
Trung đoàn bộ binh 52 sư đoàn bộ binh 337 / Lạng Sơn / 28-2-1979.
Trung đoàn bộ binh 43 / Quảng Ninh / 17-2-1979.
Trung đoàn bộ binh 192 / Hoàng Liên Sơn / 17-2-1979.
Trung đoàn bộ binh 254 / Hoàng Liên Sơn /17-2-1979.
Trung đoàn bộ binh 218 / Hoàng Liên Sơn / 17-2-1979.
Trung đoàn bộ binh 741 / Hoàng Liên Sơn / 17-2-1979.
Trung đoàn bộ binh 567 / Cao Bằng / 17-2-1979.
Trung đoàn bộ binh 852 / Cao Bằng / (?)
Trung đoàn bộ binh 196 / Lạng Sơn (?) / (?).
Trung đoàn công binh 245 / Hoàng Liên Sơn / (?).
Trung đoàn pháo binh 166 / Lạng Sơn / (?).
Trung đoàn pháo binh 268 / Hoàng Liên Sơn/ 17-2-1979
Trung đoàn cao xạ 272 / Lạng Sơn / (?).
Trung đoàn thông tin 604 / Hoàng Liên Sơn / 17-2-1979.
...

Tiểu đoàn 1 trung đoàn bộ binh 197 Bắc Thái / Lạng Sơn / 23-2-1979.
Tiểu đoàn 2 Sình Hồ / Lai Châu / 17-2-1979.
Tiểu đoàn 3 Mường Khương / Hoàng Liên Sơn / 17-2-1979.
Tiểu đoàn địa phương 124 / Lạng Sơn (?) / (?).
Tiểu đoàn địa phương 125 / Lạng Sơn (?) / (?).
Tiểu đoàn địa phương 131 / Lạng Sơn (?) / (?).
Tiểu đoàn địa phương thị xã Lạng Sơn / Lạng Sơn / 17-2-1979.
Tiểu đoàn địa phương Cao Lộc / Lạng Sơn / 17-2-1979.
Tiểu đoàn địa phương Văn Lãng / Lạng Sơn / 17-2-1979.
Tiểu đoàn đặc công 45 / Cao Bằng / 17-2-1979.
Tiểu đoàn tự vệ gang thép / Cao Bằng / 17-2-1979.
Tiểu đoàn tự vệ địa chất / Hoàng Liên Sơn / 17-2-1979.
Tiểu đoàn lựu pháo 122mm sư đoàn 320B / 11/3/1979.
...

Đại đội 5 thiết giáp K63 / Lạng Sơn / 2-3-1979.


63 đồn biên phòng dọc biên giới (quân số từ đại đội thiếu đến đại đội).
...

Ghi chú : gọi là sư đoàn nhưng có thể chỉ có một bộ phận của sư đoàn đó tham chiến. Ngoài ra
có những sư đoàn mới không được biên chế đủ quân số và trang bị, chỉ có từ 1-2 trung đoàn bộ
binh trong đội hình.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
Ngoài ra :
- Các đồn biên phòng, các đơn vị công an vũ trang, dân quân, tự vệ các bản làng, xã, huyện, thị
xã, thị trấn, nông trường, lâm trường, xí nghiệp... thuộc 6 tỉnh biên giới.
- Các đơn vị tuyến sau ra tăng cường, ví dụ như các tiểu đoàn địa phương huyện Gia Lâm, Đông
Anh, Thanh Trì, Từ Liêm (Hà Nội) được đưa lên Lạng Sơn, có thể đã tham chiến hoặc chỉ làm dự
bị.

Thú vị thật.
Hôm nay, em đọc lại quyển Sư đoàn 10 và phát hiện ra là từ sau 1975, sư đoàn 316 không còn
nằm trong đội hình Quân đoàn 3 (thay vào là sư đoàn 31). Như vậy có khả năng 316 đã được
điều lên phía bắc.

Như vậy, sư đoàn 316a mà TQ nói có thể là sư đoàn 316 "thật", có thể là đơn vị khác (sư đoàn
313 chẳng hạn, theo lời bác dongadoan, 313 ở Lào Cai và trong chiến dịch 1979 cũng bị tổn
thất).

Tớ cám phục bác quá, một mình bác giũa bầy sói mà bác chiến đấu vô cùng dũng cảm. Nhất là
quả "VN assaulted, Chinese body left behind" . Tớ đăng ký acc định vào giúp sức nhưng
chiến trường đã bình yên trở lại. À bác Spirous co bài thơ của Lý Thường Kiệt= tiếng Hán ko,
nêu có thi Post lên cho anh em lam vũ khí khi cần thiết. Phải kêu gọi anh em vào hợp sức mỗi khi
"Tổ Quốc lâm nguy ", bọn nó đông quá đánh một mình không lại.


Thần

南國山河南帝居
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
絕然定分在天書
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
如何逆鹵來侵犯
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
汝等行看取敗虛
Nhữ đẳng hành khán thủ bại hư

Dịch thơ (Khuyết danh)


Thần

Sông núi nước Nam vua Nam ở


Rành rành đã định ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời

Trên forum china-defense.com có số liệu thương vong này của TQ (dẫn lại từ 1 forum khác ,
Tầu có đến cả trăm forum về chiến tranh với VN).

Tổng quân số tham gia : 558.952 người.


Tổng thiệt hại : 34.551 người.
Trong đó :
* Thiệt hại trong chiến đấu : 32.355 người.
2006 Allrights reseved by Rosea
HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
- Chết : 7.814.
- Bị thương : 23.586.
- Mất tích : 955.
* Thiệt hại không trong chiến đấu : 2.196 người.
- Bệnh tật : 1.348.
- Chết vì tai nạn : 61.
- Bị thương vì tai nạn : 787.

Sơ sơ ra là quân đội TQ có khoảng 8.830 chết và 24.373 bị thương. Cao hơn gấp rưỡi con số
mà TQ chính thức thừa nhận.

Tớ đang ôn thi, mà cứ ngó thấy bọn tàu vỗ ngực xưng Middle Kingdom- Trung Nguyên là tức nổ
đom đóm rồi, phải viết bài chửi. Anh em ta đông đông thì họp nhau lập thành group lấy tên là Đại
Việt- Great Viet cho oai.

Tôi ủng hộ bác Spirou, thấy tụi nó cứ Tàu, Ấn chửi nhau rồi đem Việt vô làm "ví dụ" so sánh, xâm
lược này nọ mà tức wá. Bị cái các forum này phải có group mới cãi được, xin vô box Ý thì tụi nó
kh cho, chẳng lẽ vô box Tàu, nick tui là vietbỉd, nhân topic này muốn kêu gọi anh em biết IT lập
group VN với.

Nó đây mấy bác:

http://www.network54.com/Forum/242808

Nick tớ là dongda, name là Quang Trung rồi, nhanh tay lẹ chân . Bây giờ bọn Tàu đang bị
vây đánh ở chủ đề : Chinese vice premier cancels meeting with Japan''s Koizumi & JSDF will
station F15 to Okinawa in 2008 against China''s threat.

Lẽ ra tớ đã viết thêm vài bài ủng hộ NB rồi, ai dè anh em cùng chí hướng như Ấn Độ, Mỹ, Nhật
Bản từ chống Tàu quay ra chửi commie. Thế là tớ đành đánh bài chuồn

Hiện tại trên những đỉnh đồi ở huyện Sóc Sơn-Hà Nội vẫn còn tồn tại những hệ thống công sự
như thế này. Tớ đã có dạo đi hái sim ở trên đó thế nên mới biết được sự tồn tại của hệ thống
giao thông hào này. Phải nói là tốn rất nhiều công sức vì đất đồi rất rắn. Mà giao thông hào thì
chạy qua cả đỉnh quả đồi , và sâu lút đầu người. (tớ chỉ có đi chơi thôi mà lên được tới đỉnh đồi
thì thở không ra hơi).

Nick của tôi bên ấy cũng giống bên này Phudongthienvuong . Các Bác vào đang ký thử xem sao
. Bọn Tầu bên ấy cũng đông và thâm hiểm lắm chúng ta vào đông hổ trợ nhau . To Bác Spirou
Tôi mới dẫn chúng vào cái bẩy sino-vietnam border conflict . Cái bẫy ấy tôi thấy anh em mình
trên này có nhiềi tài liệu và hình ảnh ác chiến lắm . Chúng đang re-rising military power là sự thật
ta không thể cải được . Nhưng chúng đua vũ trang cho dân tầu nghèo kiết xác và nuôi cho béo
mập nền công nghiệp quốc phòng Nga và châu âu cũng là sự thật . Dù thắng hay không có cơ
hội để chưởi bọn Middle kingdom bành trướng bá quyền vẫn thấy khoái các Bác ạ hihihi.....

"nhân tiện nói với các bác là em cũng có nick ở trong cái diễn đàn gì đó

http://www.network54.com

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
hehe nick của em là king_simba pass là 2002q1 , tại em có tiếng ANh kém nên bác nào giỏi cứ
lấy nick đó chửi chết bà chúng nó đi"

Chuối thế, anh tạo ra cái forum dùng nick của em nhưng đến khi cần các pw no gửi vào email thi
không check được thế là xong phim.

Có ai cho mượn cái nick vào chọc ngoáy cái. Làm cái chủ đề "China - A giant with the AQ
thought" để chọc cho mấy chú khựa một cái

Các anh ở đây cứ đánh/táng cho Tàu hết quả này đến quả khác...kinh khủng nhỉ.Chỉ sợ một
ngày nào đó...các anh đi làm về trên chiếc xe ccfs hay hongqi gì đó,lúc đó vợ đang coi phim
chưởng trên CCTV,con thì đang học thêm tiếng Hoa,về nhà biếu ba mẹ một gói đông trùng hạ

thảo,rồi kéo cái ghế made in China ra,mở máy tính Lenovo lên rồi post bài tiếp...
Các anh ơi,năm 1979 -> 2005 là 26 năm rồi,TQ a-qui là TQ trước năm 80,TQ bây giờ thiếu gì
hình nè http://www.skyscrapercity.com/forumdisplay.php?f=403 .....

Người Việt Nam chúng ta không sợ chiến tranh nhưng cái chính vẫn là yêu hoà bình.Chiến thắng
trong CTBG thật oai hùng và vinh quang,và chủ đề này đươc mở ra để chúng ta không lãng quên
nó.Các anh cứ tranh cãi với mấy thằng Tàu trên net54 tiếp đi,tôi hoan nghênh vì vấn đề ở đây là
sự thật lịch sử thôi ta đã thắng phải thuyết phục họ là ta thắng thế thôi.
Nhưng post rồi tự hoan hô tự tuyên dương là ta đã đánh được nó một quả roài ôi sướng quá
rằng Vn ta thể nào cũng hơn mấy thằng mắt lép đó......tệ hơn là chọc ngoáy thì liệu có sôvanh,có
AQ quá không?
Nên làm cho xã hội Vn này ngày một tốt hơn thì hay hơn.
Tôi ở www.skyscrapercity.com cũng đang có flame war chống một anh ba Tàu nè,hehe Trung-
Việt đánh lộn bao gờ cũng vui cả,cảnh giác nhưng đửng nuôi dưỡng lòng hận thù,hận thù nhưng
đừng trở nên hiếu chiến

To Quang Trung,Dong Da,Sat That,ChiLang,Hoang...I''ve read all your posts against


chinese.YOU ARE REAL VIETNAMESE . Con cháu chúng ta sau này có còn được ăn cơm
Việt,ở đất Việt...hay không là nhờ những con người Việt Nam như các bạn.I love YOU.
To Excuter : Chắc chắn là người Việt Nam nào cũng vẫn còn phải nghiến răng căm giận bọn giặc
Tầu đã xâm phạm lãnh hải và giết bà con ngư dân ta đầu năm nay chứ ?
Như một bạn đã nói :đối với TQ, chúng ta cần ngủ mở cả hai mắt ,Excuter à !

đất nước đang cần nững thanh niên có cái tay, có khối óc và có lòng yêu nước!cHúng ta có thể
xài hàng china, chúng ta có thể xem phim china nhưng tinh thần vẫn là tinh thần Việt, bản sắc
Việt và ý chí quyết tâm thay hàng china bằng hàng việt Nam!Vì đất nước tiến lên anh em!

Vâng,TQ sẽ áp dụng chính sách ru ngủ rất nguy hiểm....nhưng đối với một số....họ sẽ cảnh
giác...chúng sẽ làm họ thức đến mệt phờ ra...sau đó bán cho cái giường

Đừng để TQ nhìn ta bằng con mắt khinh thường,nói ta là chỉ giỏi khôn lỏi...bạn hiều ý tôi
chứ....điểm yếu lớn của bọn Tàu lại chính là sự thâm hiểm của nó,cái mà cộng đồng thế giới ghét
chúng....vì vậy đừng cãi nhau tay đôi với chúng,đừng cho mọi người hiểu nhầm là ta rốt cuộc chỉ
là cùng một bọn hiếu chiến như chúng.okeeê.

Có thể đây là cảnh trao trả tù binh 2 bên.


- Trong cái ảnh thứ nhất, chú này đầu quấn băng, và ở trên có cái cờ trắng (hoặc cờ chữ thập

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^
hoanghai.dang@gmail.com – hoanghai85lc@yahoo.com
đỏ).
- Nếu nhập ngũ không thể tổ chức bôi bác đến mức cho lính đứng thay quần áo ngay giữa

đường, nhất là phía xa xa có mấy cô gái đứng


- Mấy anh lính VN có thể là bộ phận làm nhiệm vụ trao trả tù binh nên đeo băng chữ thập đỏ
(bình thường lính quân y VN chỉ đeo thêm túi thuốc, không đeo băng).
- Trong ảnh hai, có thể là trang phục mà VN cấp cho tù binh khi trao trả nên có mũ cối (để ý là chỉ
có 1 chú chịu đội). Mặt mũi đám này trông đều cau có, khổ sở

Về trường hợp máy bay VN bị TQ bắn rơi trong chiến tranh biên giới.

14h15 ngày 5-10-1987, chiếc MiG-21P làm nhiệm vụ trinh sát do thượng úy (?) Trần Tôn lái khi
bay trên vùng trời Quảng Tây đã bị 3 tên lửa đất đối không địch bắn trúng. Anh nhảy dù được
nhưng lại bị lính biên phòng TQ bắt giữ.

Dây là thời kỳ cả hai bên đều tiến hành nhiều hoạt động trinh sát vào sâu lãnh thổ đối phương,
cả trên không, trên biển và trên bộ. Theo một nguồn tin chưa kiểm chứng, trong những năm này,
không quân VN đã nhiều lần dùng Su-22 tấn công các vị trí của TQ dọc biên giới.

Bác Phù Đổng hơi lo lắng quá, đây là thời kỳ 2 nước trong tình trạng chiến tranh và chiến sự vẫn
diễn ra ở biên giới. Nhất là TQ còn đang lấn chiếm vào đất ta ở rất nhiều nơi thì việc VN tung
máy bay trinh sát, kể cả có chủ động đánh sang đất TQ cũng là hành động tự vệ bình thường.
Dùng không quân chiến đấu thì cũng như dùng pháo binh bắn trả lại pháo Tầu thôi.
Con WZ-5 em post ở trên ấy, chính trên trang www.sinodefence.com của TQ cũng công nhận là
đã dùng nó để do thám trên không phận VN mà !

Một trường hợp tương tự nhưng diễn ra trước đó (theo lời kể của 1 số thành viên TTVN ở các
topic khác) :

Tháng 8-1978, một máy bay tiêm kích J-6 (Chicom MiG-19) của không quân TQ đã xâm nhập
sâu vào lãnh thổ VN ở khu vực Xuân Thủy, Nam Định. Chiếc J-6 đã bị 2 chiếc MiG của không
quân VN truy đuổi và bắn rơi tại chỗ trước sự chứng kiến của nhân dân trong khu vực.
Viên phi công TQ bị tiêu diệt, xác được trao trả cho phía TQ.

2006 Allrights reseved by Rosea


HD300306010 http:// hoanghai.net.ms

You might also like