You are on page 1of 53

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI CAO HỌC

MÔN: TRIẾT HỌC


Tổng quan triết học gồm các nội dung:

Chủ nghĩa
Phép biện chứng Các hình thái
Chủ nghĩa duy vật lịch
duy vật kinh tế xã hội
duy vật sử
biện chứng 2 nguyên lý (nguyên lý mối liên hệ - HTKTXH cộng sản
LLSX và QHSX
phổ biến; nguyên lý về sự phát triển) nguyên thủy  chiếm
3 quy luật (1- thống nhất và đấu hữu nô lệ  phong kiến
tranh giữa các mặt đối lập; 2 – quy  CN tư bản  cộng sản
CSHT và KTTT
Vật chất và luật lượng – chất; 3 – quy luật phủ chủ nghĩa
ý thức. định của phủ định). - Vận dụng lý luận về
MQH giữa 6 cặp phạm trù HTKTXH trong bối cảnh
vật chất và (chung-riêng; nguyên nhân-kết quả; VN hiện nay.
ý thức tất nhiên-ngẫu nhiên;nội dung-hình TTXH và YTXH
thức; bản chất-hiện tượng; khả
năng-hiện thực)

CÂU 1: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa DVBC về vật chất. Ý nghĩa phương pháp
luận.
Để làm rõ quan điểm của chủ nghĩa DVBC về vật chất, cần điểm lại các quan điểm về
vật chất trong lịch sử triết học trước Mác (thời kỳ cổ đại và cận đại).
Vật chất với tư cách là ptrù triết học đã có lsử khoảng 2500 năm. Vật chất là 1 trong
những ptrù cơ sở, nền tảng và rộng lớn nhất của triết học. Xung quanh vc luôn diễn ra sự đấu
tranh không khoan nhượng giữa CNDT và CNDV.
Chủ nghĩa duy tâm & tôn giáo:
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan (Beccơly, Đ.Hium): xem vật chất là tổ hợp, phức hợp
các cảm giác của con người.
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan (Platôn, Hêghen): cho rằng vật chất là sản phẩm
của ý niệm, ý niệm tuyệt đối (VD: ý niệm về căn nhà có trước căn nhà)
- Theo tôn giáo, vật chất là sản phẩm chủa Chúa, của Thượng đế.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác:
- CNDV thô sơ, chất phác (cổ đại): cyếu xphát từ sự qsát trtiếp để phỏng đoán nên
những ytố vật chất cụ thể là khởi nguyên của tg  xu hướng chung là đồng nhất
vật chất với vật thể cthể (Talét: vc=nước, Ácsimen: không khí, Lơxip&Đêmôcrít:
ng/tử, pĐông: thuyết ngũ hành).
- CNDV siêu hình, máy móc (cận đại): đồng nhất vật chất = ntử (khác với thời cổ
đại ở chỗ không còn là phỏng đoán mà đã có csở KH), đồng nhất vc = khối lượng
(kl là bất biến, ở đâu có kl ở đó có vật chất, do niềm tin vào các chân lý trong cơ
học cổ điển Newton)
Dưới ánh sáng của KH hiện đại, các quan điểm trên đây đều bộc lộ những sai lầm or hạn
chế nhất định but vẫn là cơ sở, nền tảng cho hình thành quan điểm về vật chất của CNDVBC.

1
Quan điểm về vật chất của CNDVBC
* Bối cảnh ra đời: cuối 19 đầu 20 trong khoa học diễn ra khủng hoảng vật liệu học
mà những thành tựu của nó đòi hỏi triết học phải có 1 cách nhìn mới sâu sắc hơn về thế giới
vật chất.

- 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X  đã khẳng định vật chất không chỉ tồn tại dưới
dạng vật thể mà còn dưới dạng trường  bác bỏ quan niệm đồng nhất vật chất với vật thể.

- 1896, Beccơren phát hiện ra hiện tương phóng xạ của ntử Uranium 235 và Rađi 
kđịnh ng.tử k phải là hạt vật chất nhỏ nhất  bác bỏ quan niệm đồng nhất vật chất với ntử

- 1897, Tônxơn phát hiện ra điện tử electron, là 1 trong những thành phần cấu tạo
nên ng.tử đã kđịnh lại lần nữa và bác bỏ quan niệm đồng nhất vật chất với ntử

- 1901, Kaufman đã cm khối lượng của ntử cũng biến đổi cùng với vtốc chuyển động
của điện tử, v tăng  m tăng => k.lượng k phải đại lượng bất biến đã bác bỏ quan niệm
đồng nhất vật chất với khối lượng.

Nội dung định nghĩa:


Lợi dụng những thành tựu trên của KHTN, các nhà triết học duy tâm đã tấn công vào
CNDVBC của Mác. Họ đã khẳng định vật chất bị mất đi, bị tiêu tan do đó CNDV không còn cơ
sở để tồn tại.

Trên cơ sở phân tích 1 cách sâu sắc các thành tựu KHTN, chống lại quan điểm duy tâm
siêu hình, kế thừa những quan điểm DVBC của Mác và Ănghen, Lênin đã khẳng định: không
phải vật chất bị mất đi mà chỉ giới hạn hiểu biết của con ng về vật chất bị mất đi mà thôi.

Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” Lênin đã đưa
ra 1 định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất: “Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép
lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

Phân tích định nghĩa vật chất của Lenin:


 Thứ nhất, vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ vật chất nói chung, tồn tại
vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra, không mất đi. Với tư cách là một phạm trù triết học,
vật chất không tồn tại 1 cách trực quan, cảm tính mà là sản phẩm khái quát của tư duy trừu
tượng. Do đó, không thể đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể của nó (vật thể).
Tuy nhiên, vật chất ko tồn tại tách rời với các sự vật cụ thể mà nó luôn hiện thân trong muôn
vàn các sự vật, hiện tượng của thế giới, từ vô cơ tới hữu cơ, từ vi mô tới vĩ mô, từ tự nhiên
tới xã hội. Còn khái niệm vật chất trong các khoa học cụ thể dùng để chỉ những đối tượng,
kết cấu vật chất cụ thể thì có giới hạn, có sinh ra rồi lại bị mất đi.
 Thứ hai, vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan. TTKQ là tất cả những gì có thuộc
tính tồn tại khách quan. Có nghĩa là tồn tại bên ngoài, độc lập với cảm giác, ý thức của con ng.
Đây là thuộc tính cơ bản của vật chất và là tiêu chuẩn để p/biệt vật chất với ý thức. Cái gì có
thuộc tính tồn tại khách quan là vật chất và ngược lại  phạm trù vật chất khái quát cái chung
về mặt tồn tại của mọi cái riêng với tư cách là các dạng cụ thể của vật chất.

2
 Thứ ba, vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, đc cảm giác của
chúng ta ghi chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác. Vật chất
tuy trừu tượng nhưng tồn tại dưới dạng những sự vật hiện tượng cụ thể, khi chúng tác động
lên các giác quan của con người thì được các giác quan này chép lại, chụp lại, phản ánh, từ
đó hình thành nên cảm giác. Từ đó cho thấy, con ng hoàn toàn có khả năng nhận thức được
thế giới vật chất.
 Thứ tư, vật chất tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác của con người, vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức.

TÓM LẠI, vật chất là cái tồn tại khách quan, bất kể cái tồn tại ấy con ng đã nhận thức đc
hay chưa nhận thức đc. Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con ng 1 khi trực tiếp or gián tiếp
tác động lên các cơ quan cảm giác. Cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của
VẬT CHẤT mà thôi.

 Ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa vật chất của Lenin:
1. Giải quyết được 2 mặt của vấn đề cơ bản của triết trên lập trường CNDVBC (2 mặt đó là
Bàn về mqh giữa vật chất và ý thức & về khả năng nhận thức của con người đối với thế giới
vì nó khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, khẳng định rằng
con người hoàn toàn có khả năng nhận thức thế giới vật chất).
2. Chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo về vật chất là sản phẩm của ý niệm
tuyệt đối hay sản phẩm của các đấng siêu nhiên.,
3. Chống lại quan điểm của CNDV tầm thường đã đồng nhất vật chất với ý thức và thuyết
bất khả tri đã phủ nhận khả năng nhận thức của con người đối với thế giới.
4. Khắc phục được tính chất siêu hình, máy móc của CNDV trong qniệm về vật chất của
CNDV trước Mác (CNDV trước Mác đã đồng nhất vật chất với vật thể hoặc 1 thuộc tính nào
đó của vật chất, chỉ nhìn thấy vai trò quyết định của vật chất đối ý thức mà ko thấy được sự
tác động trở lại của ý thức đối với vật chất).
5. Liên kết CNDVBC với CNDVLS thành 1 thể thống nhất, vì nó đã bao quát cả vật chất và ý
thức trong đời sống xã hội, đó là TTXH quyết định YTXH.
6. Mở đường cho các nhà KH đi sâu nghiên cứu, khám phá những kết cấu phức tạp của thế
giới vật chất, vì định nghĩa cho thấy tính vô tận của thế giới, thế giới là vô cùng vô tận không
điểm đầu cũng như không điểm kết thúc.

CÂU 2: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa DVBC về vận động. Nêu ý nghĩa pp luận.

Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm siêu hình về vận động
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: vận động là sản phẩm của cảm giác của con người.
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan: vận động là sản phẩm của ý niệm tuyệt đối.
- Theo tôn giáo: vận động là sản phẩm của Chúa, kết quả của cái hích của Chúa.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: vận động có nguyên nhân từ bên ngoài,
đó là kết quả của sự va chạm của các vật thể với nhau, chỉ thừa nhận 1 hình thức vận
động duy nhất là vận động cơ học, tức vận động dịch chuyển vị trí trong không gian.
Quan niệm đó là do ảnh hưởng của cơ học cổ điển Newton.
Ngoài ra: còn có quan niệm phủ nhận tính hiện thực của vận động.

3
Quan điểm của CNDVBC về vận động
Ăngghen viết:"Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn
tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và
mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy".
Theo quan điểm của triết học macxit, vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, là sự biến đổi
nói chung.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
- Vận động là thuộc tính cố hữu, hình thức tồn tại của vật chất. Nghĩa là vật chất tồn
tại bằng cách vận động và vận động bao giờ cũng là vận động vật chất. Chỉ thông qua vận
động thì vật chất mới biển hiện được sự tồn tại và các thuộc tính của mình.
- Theo quan điểm duy vật biện chứng, nguyên nhân vận động của vật chất là tự
thân vận động; bởi vì tất cả các dạng vật chất đều là một kết cấu vật chất bao gồm các yếu
tố, các mặt, các quá trình liên hệ, tác động qua lại với nhau. Chính sự tác động đó đã dẫn đến
sự biến đổi nói chung, tức là vận động. Quan điểm này đối lập với quan điểm duy tâm, siêu
hình về vận động đi tìm nguồn gốc của vận động ở thần linh hoặc ở chủ thể nhận thức.
- Vận động là tuyệt đối và vĩnh viễn, nên nó không do ai sáng tạo ra và cũng không
thể tiêu diệt được. Nguyên lý này được chứng minh bằng định luật bảo toàn và chuyển hoá
năng lượng.
Các hình thức vận động cơ bản của vật chất.
Dựa vào thành tựu của khoa học tự nhiên và triết học, lần đầu tiên Ăngghen đã phân
loại thành 5 hình thức vận động cơ bản của vật chất là:
- Vận động cơ học.
- Vận động vật lý.
- Vận động hoá học.
- Vận động sinh học.
- Vận động xã hội.
Hiện nay, với sự phát triển của KHTN hiện đại, các hình thức vận động trên không còn
phù hợp, nên ngta có thể chia ra thành 3 nhóm ht vận động là:
- Vận động trong giới tự nhiên
- Vận động trong giới TN hữu cơ
- Vận động trong XH loài người.

Những hình thức vận động trên quan hệ với nhau theo những nguyên tắc nhất định:
 Thứ nhất, giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, biểu hiện những
trình độ phát triển của các kết cấu vật chất.
 Thứ hai, các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động
thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn.
 Thứ ba, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau, nhưng
bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.
Bằng sự phân loại các hình thức vận động, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại
các khoa học, cho khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học. Đồng thời

4
còn chống lại một khuynh hướng sai lầm trong nhận thức là quy hình thức vận động cao
vào hình thức vận động thấp hơn.

Đặc điểm của vận động


 Vận động gắn liền với vật chất: không thể có vật chất không vận động và không thể có
vận động ở bên ngoài vật chất
 Vận động mang tính khách quan: vì nó là phương thức thức tồn tại của vật chất
 Vận động của vật chất là vận động tự thân: vì nó là kết quả của sự liên hệ, t/động qua
lại lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành sự vật hiện tượng.
 Vận động là tuyệt đối: số lượng vận động trong vũ trụ luôn luôn được bảo tồn. Hiện
tượng vận động này mất đi, sẽ được chuyển hóa thành hiện tượng vận động khác.
 Bên cạnh vận động là tuyệt đối còn có trạng thái đứng im tương đối, vận động trong
trạng thái cân bằng, ổn định.

Vận động và đứng im.


Theo Ăngghen, "đứng im tương đối của các vật thể... là điều kiện chủ yếu của sự phân
hoá của vật chất". Đó là sự ổn định, là sự bảo toàn tính quy định của các sự vật, hiện tượng.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là tuyệt đối, còn đứng im là tương đối, tạm
thời, thể hiện ở các điểm sau:
- Vật thể chỉ đứng im trong một quan hệ nhất định.
- Vật thể chỉ đứng im trong một hình thức vận động trong một lúc nào đó, chứ không
phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
- Đứng im là biểu hiện trạng thái vận động trong thăng bằng, ổn định tương đối.
- Vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định nào đó; còn vận
động nói chung thì làm cho tất cả không ngừng biến đổi.

Không gian và thời gian


- Không gian là hình thức tồn tại của vật chất, biểu hiện những thuộc tính như cùng
tồn tại và tách biệt, có kết cấu và quảng tính
- Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất bao gồm những thuộc tính như: Độ lâu của
sự biến đổi, trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái khác nhau trong thế
giới vật chất.
- Không gian và thời gian tồn tại trong sự liên hệ thống nhất với nhau và đều là hình
thức cơ bản của vật chất đang vận động. Quan điểm này đối lập với quan điểm duy tâm, siêu
hình tách rời không gian và thời gian với vật chất đang vận động.
Ví dụ: Niutơn coi không gian, thời gian là tuyệt đối, không biến đổi. Không gian như
cái hộp trống rỗng khổng lồ có thể xếp vào, lấy ra các sự vật; thời gian như dải băng được
trải ra một cách đều đặn.
Những phát minh trong toán học và vật lý học đã bác bỏ quan điểm trên. Hình học phi
Ơclít của Lôbasepxki, Riman; thuyết tương đối của Anhxtanh đã chứng minh rằng không gian
và thời gian có sự biến đổi cùng với sự vận động của vật chất. Khi vật thể vận động với tốc
độ gần bằng tốc độ ánh sáng thì kích thước của nó rút ngắn lại, thời gian trôi chậm đi.

5
Như vậy, không gian và thời gian có những tính chất sau:
1. Tính khách quan: Vì vật chất là thực tại khách quan nên không gian và thời gian là
những hình thức tồn tại của nó cũng tồn tại khách quan. Điều đó phủ nhận quan điểm của
chủ nghĩa duy tâm coi không gian, thời gian chỉ là sản phẩm của ý thức con người.
2. Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian.
3. Tính vĩnh cửu và vô tận.

 Ý nghĩa phương pháp luận


1. Vận động theo CNDVBC là cơ sở của sự phân ngành khoa học (mỗi KH nghiên cứu 1 hình
thức vận động nhất định)
2. Vì vận động của vật chất là vận động tự thân, do đó trong nthức và hoạt động thực tiễn,
chúng ta cần phải quán triệt quan điểm tự thân vận động. Quan điểm này đòi hỏi khi xem xét
các sự vật, hiện tượng, chúng ta cần xuất phát từ chính nó chứ ko đc áp đặt ý chí, ý muốn chủ
quan của mình vào trong sự vật, hiện tượng. Quan điểm tự thân vận động còn mang tính định
hướng cho phù hợp với ycầu, tiến bộ xã hội.
3. Chống lại tính chất sai lầm, phản động của Chủ nghĩa Đácuyn, xã hội đã bị tư sản lợi dụng
nhằm biện hộ cho tham vọng xâm lược và hiếu chiến.
4. Chống lại những tchất sai lầm trong thuyết Chết nhiệt của 1 số nhà KH tự nhiên cho rằng
đến 1 lúc nào đó vũ trụ sẽ trở nên lạnh ngắt, chấm dứt vận động.

CÂU 3: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa DVBC về ý thức. Mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận.

1. NGUỒN GỐC CỦA Ý THỨC:

 Nguồn gốc tự nhiên:


Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính phổ biến của vật chất – thuộc tính phản ánh – phát
triển thành. Bộ óc người là cơ quan phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người.
Khái niệm phản ánh: là sự tái tạo những đặc điểm, những thuộc tính của dạng vật chất
này ở dạng vật chất khác trong qúa trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là
thuộc tính của mọi dạng vật chất, cùng với sự phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính phản
ánh của nó cũng phát triển từ thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp. Các hthức phản ánh: phản
ánh vật lý, phản ánh hóa học, phản ánh sinh học, phản ánh đơn giản nhất là trả lời tính kích
thích, cảm ứng, phản xạ, tâm lý…
Trong đó ý thức là hình thức phản ánh năng động, sáng tạo và là hình thức phản ánh
cao nhất của thế giới vật chất, nhưng không phải có ở mọi dạng vật chất mà chỉ có ở tổ chức
cao là bộ não người. Mối quan hệ giữa con ng và thế giới xung quanh tạo ra quá trình trình
phản ánh năng động, sáng tạo đó.

 Vai trò của bộ não người: Bộ não người là 1 tổ chức vật chất có kết cấu rất phức tạp
gồm các nơron thần kinh liên hệ với nhau, thực hiện chức năng thu nhận, xử lý, lưu giữ thông
tin… Bộ óc người có vai trò là cơ quan vật chất của ý thức, nếu óc bị hư hại thì ý thức bị rối
loạn, nếu bộ óc càng phát triển thì ý thức càng phát triển.

6
 Nếu không có sự tác động của TGKQ vào trong bộ não người thì sẽ không có ý thức.
Nếu không có bộ não người với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ không có ý
thức.

 Kết luận: Mọi dạng vật chất đều có thuộc tính phản ánh. Phản ánh là thuộc tính phổ
biến của vật chất. Trình độ phản ánh tùy thuộc vào trình độ tổ chức kết cấu của vật chất. Trđộ
tổ chức vật chất càng cao thì có đầy đủ các hthức phản ánh của các tổ chức vật chất có trình
độ thấp hơn. Tổ chức vật chất thấp thì không thể có hthức phản ánh vật chất của các tc vật
chất có trđộ cao hơn. Hthức phản ánh cao nhất là phản ánh năng động, sáng tạo: chỉ riêng có
ở 1 dạng vật chất có tổ chức cao nhất đó là bộ óc người.
 Bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não con người là nguồn
gốc tự nhiên của ý thức.

 Nguồn gốc xã hội:


Sự ra đời của ý thức gắn liền với hoạt động lao động và ngôn ngữ.

Lao động:
 Khái niệm: là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm
thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người.
 Lao động là nguồn gốc quyết định hình thành ý thức, bởi vì:
 Lao động tạo ra của cải, vật chất đảm bảo sự sinh tồn và phát triển của con người,
đồng thời làm thay đổi cấu trúc cơ thể con người, đặc biệt làm cho các khí quan và bộ não
người ngày càng hoàn thiện, phát triển. Nhờ vậy mà ý thức mới có thể nảy sinh.
 Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, làm nó bộc lộ
những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động hình thành nên những hiện tượng
nhất định, các hiện tượng ấy tác động vào não người, thông qua hoạt động của bộ não mà
hình thành nên ý thức.

 Sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông qua quá
trình lao động.

Ngôn ngữ:
 Là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Nhờ có ngôn ngữ thì ý thức mới
có thể tồn tại và thể hiện được. Mác khẳng định: ngôn ngữ là cái “vỏ vật chất” của tư duy, là
hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển.
 Nhờ có ngôn ngữ con người mới có thể suy nghĩ, khái quát hóa, trừu tượng hóa. Đây
cũng là công cụ để con người giao tiếp, trao đổi thông tin, tư tưởng cho nhau và cho các thế
hệ khác.

 Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của
ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội.

7
2. BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC:

Theo CNDVBC, dựa trên cơ sở lý luận phản ánh, khẳng định: Về bản chất, ý thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý
thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

 Thứ nhất, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
 Có nghĩa là nội dung của ý thức do thế giới khách quan quy định.
 Ý thức là hình ảnh tinh thần vì nó nằm trong bộ não của con người, không có tính vật
chất, gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có lựa
chọn. Ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ não con người.

 Thứ hai, ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới.


 Là sự phản ánh chủ động, có chọn lọc gắn liền với nhu cầu, mục đích của con ng.
 Là qúa trình xâm nhập của lý trí vào hthực, làm cho hthực bộc lộ các thuộc tính trên
cơ sở đó con ng nắm bắt được bản chất và quy luật của hiện thực.
 Tính năng động, sáng tạo của ý thức còn đc biểu hiện dưới dạng ý tưởng  cho dù
tồn tại dưới dạng nào thì bao giờ cũng phải dựa trên những tiền đề vật chất nhất định.

 Bản chất của ý thức có tính chất xã hội.


 Ý thức là ý thức của con người nằm trong các mối quan hệ xã hội đan xen chằng chịt,
gắn liền với bản chất xã hội của con người.
 Ý thức mang tính giai cấp, dân tộc  gắn liền với bản chất thời đại, chế độ xã hội, điều
kiện lịch dử nhất định.
 Là cơ sở để chống lại 1 quan điểm sai lầm cho rằng trong tương lai con ng sẽ tạo ra
những thế hệ người máy có ý thức như ý thức của con người.

 Tóm lại, Bản chất của ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau:
 Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh.
 Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần và cải biến mô hình
ấy cho phù hợp nhu cầu, mục đích của chủ thể.
 Chuyển nội dung tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình hiện thực hóa tư
tưởng (lựa chọn các phương pháp, phương thức để tác động vào hiện thực khách quan để
đạt mục đích).

3. Kết cấu của ý thức:

 Theo các yếu tố hợp thành (chiều ngang): Ý thức được cấu thành bởi các yếu tố tri
thức, tình cảm, ý chí… trong đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất.
 Tri thức: là toàn bộ hiểu biết của con người, kết quả của quá trình nhận thức, là sự
tái tạo hình ảnh của đối tượng nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ. Tri thức được phân
loại thành tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người. Căn cứ vào trình độ phát triển của
nhận thức, có tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý
luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,… Tri thức có vai trò là phương tiện tồn tại của ý

8
thức, là hạt nhân quy định nội dung của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Nhờ có
tri thức mà con người mới cải tạo được tự nhiên – xã hội.
 Tình cảm: là sự rung động biểu hiện thái độ của con người biểu hiện trong các mối
quan hệ, được hình thành tự sự khái quát các cảm xúc cụ thể của con người khi nhận được
sự tác động của ngoại cảnh.
 Ý chí: là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi người nhằm vượt qua các cản trở
trong quá trình thực hiện mục đích của bản thân. Nó giúp con người điều khiển, điều chỉnh
hành vi, tự làm chủ bản thân để thực hiện mục đích một cách tự giác, quyết đoán.

 Theo chiều sâu của nội tâm (chiều dọc): ý thức gồm tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
 Tự ý thức: là sự tự nhận thức của con người về bản thân của mình, trước hết là sự tự
nhận thức về những hành vi, tình cảm, tư tưởng, động cơ, lợi ích, địa vị,… của mình trong xã
hội.
 Tiềm thức: là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của
chủ thể, song lại liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý diễn ra dưới sự kiểm soát của
chủ thể ấy.
 Vô thức: là những trạng thái tâm lý không phải do lý trí điều khiển, đó là trạng thái
tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có
sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán
của lý trí.

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG
PHÁP LUẬN RÚT RA TỪ MỐI QUAN HỆ ĐÓ (**)
 Chủ nghĩa duy tâm: cho rằng ý thức là cái có trước, sinh ra và quyết định vật chất.
 Chủ nghĩa duy vật trước Mác: khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau. Tuy nhiên,
các nhà duy vật trước Mác chưa thấy được tính năng động, sáng tạo và sức mạnh cải tạo hiện
thức của ý thức. Còn các nhà duy vật tầm thường thì không thấy được sự khác biệt giữa vật
chất và ý thức, coi ý thức cũng là một dạng vật chất.
 Theo CNDVBC khẳng định rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý
thức, còn ý thức là sự phản ánh vật chất vào bên trong bộ óc con người.

 Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
Vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức.
 Vật chất có trước, ý thức có sau. Bởi ý thức là sản phẩm, là thuộc tính của một dạng
vật chất có tổ chức cao là bộ óc của con người nên chỉ khi có con người thì mới có ý thức.
Điều đó có nghĩa vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau.
 Vật chất là nguồn gốc của ý thức: ý thức được hình thành từ nguồn gốc tự nhiên (bộ
óc con người và thế giới khách quan tác động lên bộ óc) và nguồn gốc xã hội (lao động, ngôn
ngữ) đều là vật chất và những dạng thức tồn tại của nó. Do đó, vật chất là nguồn gốc của ý
thức.

9
 Vật chất quyết định nội dung của ý thức, bởi: ý thức chỉ là sự phản ánh của thế giới
vật chất, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cho nên nội dung của nó lệ thuộc vào
đối tượng phản ánh, tức thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định.
 Vật chất quyết định hình thức biểu hiện và mọi sự biến đổi của ý thức: mọi sự vận
động và các hình thức biểu hiện của ý thức đều bị các yếu tố của lĩnh vực vật chất quy định,
đó là các quy luật sinh học, quy luật khách quan của xã hội và môi trường sống,…
VD: liệu cơm gắp mắm; Có thực mới vực được đạo,…

 Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất
 Ý thức có thể tác động trở lại vật chất, nhưng tự bản thân ý thức không thể tác động
trở lại vật chất, sự tác động đó phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
 Sự tác động đó là một quá trình biện chứng, thông qua các khâu:
 Ý thức trang bị cho con người trì thức về đối tượng cần cái tạo, cần tác động,
tức thế giới khách quan.
 Trên cơ sở những tri thức đó, con người xác định mục tiêu, để ra phương
hướng, xây dụng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, phương tiện,... để thực hiện
mục tiêu của mình, chỉ biến hiện thực khách quan.
 Mức độ tác động trở lại của ý thức đối với vật chất tùy thuộc vào năng lực của con
người. Sự tác động đó có thể diễn ra theo hai hướng:
 Tích cực: Nếu con nguời nhận thức đúng, có trì thức khoa học, có ý chí,.. thì
hành động của con người phù hợp với quy luật khách quan, cải biển thể giới khách
quan theo hướng tích cực, có lợi cho con người.
 Tiêu cực: Nếu con người nhận thức sai, ý thức không phản ánh đúng hiện thực
khách quan,.. thì chắc chắn sẽ hành động không phù hợp với quy luật khách quan,
có tác dụng tiêu cực đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định
hành động của con người, quyết định sự đúng sai, thành bại của hoạt động thực tiễn.
VD1: Gv hiểu hoàn cảnh, khả năng HS  đưa ra biện pháp tạo đk cho HS học tốt hơn.
VD2: Vì không hiểu HS, nên một em học giỏi toán mà cho đi thi Văn thì kìm hãm sự phát triển.
Tuy nhiên, sự kìm hãm chỉ là tạm thời  ý thức cũ sẽ bị xóa bỏ thay thế = ý thức mới,
thúc đẩy vật chất phát triển.
VD: VN thắng các đế quốc hùng mạnh không phải bằng vũ khí, súng đạn… mà bằng
lòng yêu nước, tinh thần dân tộc,…

 Ý nghĩa phương pháp luận


Một là, phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan. Điều đó có
nghĩa, trong nhận thức và hành động, con người phải tôn trọng hiện thực khách quan, tuân
theo các quy luật khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan để đề ra các chủ trương, đường
lối; đồng thời, phảidựa trên cơ sở thực tế khách quan để kiểm nghiệm, đánh giá các chủ
trương, đường lối đó. Nói cách khác, chúng ta phải lấy thực tế khách quan lâm căn cứ cho
mọi hoạt động của mình.

10
Hai là, phát huy tính năng động chủ quan. Để phát huy tính năng động chủ quan,
đòi hỏi con nguời phải tôn trọng và biết làm chủ tri thức khoa học, truyền bá tri thức đó vào
trong quần chúng nhân dân để nó dẫn dắt quần chúng; đồng thời, đòi hỏi mỗi nguời phải biết
tự giác tu dưỡng, rên luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan tiến bộ và năng cao ý chí,
nghị lực trong hoạt động thực tiễn.
Nhận thức rõ vai trò tích cực của ý thức, của nhân tố chủ quan, Đảng ta đã xác định,
trong thời kỳ CNH-HĐH hiện nay, phải "lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ
bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, đồng thời phải “khơi dậy trong nhân dân lòng yêu
nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam.
- Phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, tức là khắc phục tình
trạng không tôn trọng quy luật khách quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy tình cảm làm
điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách,...
- Phải phòng, chống và khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thụ động và bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa, coi thường tri thức khoa học, coi thường lý luận trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn.

CÂU 4: Trình bày 2 nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nêu ý nghĩa pp luận.

1. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN


a. Quan điểm siêu hình về mối liên hệ
Xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái tách rời nhau, cô lập nhau, giữa chúng
không có mối quan hệ tác động quan lại lẫn nhau, nếu có thì chỉ là những mối liên hệ giản
đơn, hời hợt, bên ngoài  Quan điểm siêu hình chỉ thấy bộ phận mà không thấy toàn thể 
không thể vạch ra được bản chất của sự vật, hiện tượng.

b. Quan điểm của duy vật biện chứng về mối liên hệ


 Khái niệm: Liên hệ là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định, tác động qua lại và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành nên sự vật hiện tượng;
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau; giữa sự vật, hiện tượng với môi trường; mà trong đó
sự biến đổi của sự vật, hiện tượng này sẽ kéo theo sự biến đổi của sự vật hiện tượng khác.

 Vai trò: Phép BCDV khẳng định rằng sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu
hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính quy
luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân
chúng hoặc sự tác động của chúng với sự vật, hiện tượng khác. Ví dụ, chúng ta đánh giá sự
tồn tại, bản chất của một con người cụ thể thông qua mối liên hệ, sự tác động của con người
đối với người khác, đối với xã hội, tự nhiên thông qua hoạt động của chính người ấy.

 3 tính chất cơ bản của mối liên hệ:


 Tính khách quan: các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng luôn có tính khách quan.
Tính khách quan của chúng biểu hiện ở chỗ, các mối liên hệ là tự thân, vốn có của sự vật, hiện
tượng, gắn liền với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, không do ai sáng
tạo ra, cũng không do sự áp đặt chủ quan của con người. Chính con người dù muốn hay không

11
cũng luôn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng, của môi trường xung quanh, cũng như
các yếu tố ngay trong bản thân mình, và chỉ có con người mới tiếp nhận vô vàn quan hệ, mối
liên hệ chằng chịt.  Để nhận thức và cải tạo hiện thực, con người cần hiểu biết về các mối
liên hệ, vận dụng chúng và hoạt động của mình, phải giải quyết các mối liên hệ phù hợp với
nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của xã hội và bản thân con người.
 Tính phổ biến: các mối liên hệ này tồn tại ở mọi nơi, mọi chỗ, ở bất kỳ một sự vật,
hiện tượng nào trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài
những mối liên hệ. Bên cạnh đó, các mối liên hệ biểu hiện dưới các hình thức riêng biệt cụ
thể, khác nhau và biến đổi tùy theo điều kiện lịch sử - cụ thể nhất định. VD: mối liên hệ giữa
các bộ phận trong một tổ chức, tập thể; mối liên hệ giữa các quốc gia trong các mặt của đời
sống xã hội, hình thành các xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa mọi mặt đời sống xã hội…
 Tính đa dạng, phong phú: xuất phát từ tính đa dạng, muôn hình muôn vẻ của thế
giới vật chất. Tùy theo tính chất đa dạng hay phức tạp, phạm vị rộng/hẹp, mức độ nông/sâu,
vai trò trực tiếp hay gián tiếp… mà có thể khái quát thành các mối liên hệ khác nhau. Có rất
nhiều kiểu mối liên hệ, mỗi kiểu mối liên hệ có đặc riêng, vị trí, vai trò riêng đối với sự vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
 Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài: mối liên hệ bên trong là mối liên hệ
giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng/ mối liên hệ bên ngoài: giữa các sự
vật, hiện tượng với nhau. VD: mối liên hệ giữa các quốc gia là mối liên hệ bên ngoài.
 Mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản: mối liên hệ cơ bản quyết định đến sự
tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong từng giai đoạn nhất định; mối liên
hệ không cơ bản thì ngược lại, không quyết định mà chỉ ảnh hưởng… VD: giữa con người với
môi trường sống là mối liên hệ cơ bản; giữa con người với sông, núi là mối liên hệ không cơ
bản.
 Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu: mối liên hệ chủ yếu là những gì nổi bật,
hàng đầu, quyết định sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong từng giai
đoạn nhất định; mối liên hệ thứ yếu thì ngược lại, không quyết định mà chỉ ảnh hưởng… VD:
ở nhà đứa trẻ có mối liên hệ chủ yếu là gia đình, đi học là nhà trường… còn những mối liên
hệ khác lúc này là thứ yếu.
 Mối liên hệ bản chất và mối liên hệ hiện tượng (không bản chất): bản chất là bên
trong, tất nhiên, ổn định, quyết định; hiện tượng thì chỉ ảnh hưởng, không mang tính quyết
định…
 Mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên: tất nhiên là do nguyên nhân bên
trong, nhất định phải xảy ra, mang tính quyết định; ngẫu nhiên thì ngược lại, không do
nguyên nhân bên trong, có thể hoặc không thể xảy ra, không quyết định mà chỉ ảnh hưởng…
 Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp: có hay không có phần trung gian.
 Mối liên hệ bao quát chung toàn bộ thế giới và mối liên hệ bao quát 1 lĩnh vực hay 1 số
lĩnh vực thế giới.

Ý nghĩa phương pháp luận


Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần quán triệt
quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể.

12
 Quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể đặt ra các yêu cầu:

 Thứ 1, cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các
mặt, các yếu tố, các bộ phận hợp thành, cũng như mối liên hệ, sự tác động giữa sự vật đó với
các sự vật khác. Bên canh đó, cần xem xét sự vật, hiện tượng trong điều kiện lịch sử - cụ thể,
kể cả các khâu trung gian, trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định để có cái
nhìn chỉnh thể về sự vật, hiện tượng. VD: phải đánh giá con người toàn diện cả đức lẫn tài..
 Thứ 2, trong vô vàn các mối liên hệ ấy phải phân biệt được vai trò của chúng,
phải rút ra được đâu là mối liên hệ cơ bản, chủ yếu, xem xét sự vật, hiện tượng có trọng tâm,
trọng điểm. VD: HS giỏi toàn diện là giỏi tất cả các môn, nhưng không phải môn nào cũng
như nhau.
 Thứ 3, chống lại cách xem xét phiến diện, cào bằng, dàn trải. VD: chỉ đối mới
kinh tế mà không đổi mới ctrị, chỉ có đức mà không có tài…. Tránh rơi vào chủ nghĩa chiết
trung (chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ, kết hợp vô nguyên tắc mà không chỉ ra được
tính chỉnh thể...), chống lại thuật ngụy biện là quy cái thứ yếu thành cái chủ yếu, cái không
cơ bản thành cái cơ bản, đánh tráo khái niệm…

 Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến ở Việt Nam:


a. Quán triệt quan điểm toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay được tiến hành toàn diện trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội: Lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tinh
thần. Trong các lĩnh vực ấy, Đảng ta xác định lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng
là then chốt.
Mặt khác, trong từng lĩnh vực cũng cần phải quán triệt quan điểm toàn diện:
+ Trong lĩnh vực kinh tế, cần đổi mới mọi ngành, mọi khâu của hoạt động kinh tế: Đổi
mới lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, thương nghiệp,…; đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế; cơ cấu vùng kinh tế; cơ cấu thành phần kinh tế;… Đặc biệt, lấy đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế làm nền tảng, cốt lõi cho đổi mới các khâu, các mặt khác của hoạt động kinh tế, theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Trong lĩnh vực chính trị, cần phải đổi mới tất cả mọi mặt trong lĩnh vực chính trị,
như các tư tưởng, quan điểm chính trị, các tổ chức, thiết chế quyền lực, hệ thống luật pháp
và các chính sách,… Trong đó, cần chú ý khâu cơ bản là đổi mới hệ thống chính trị với ba bộ
phận cốt lõi là Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc; xác định rõ ràng, rành mạch chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ phận trong hệ thống chính trị, tránh sự chồng chéo giữa các
chức năng với nhau.
+ Trong lĩnh vực xã hội, cần phải đổi mới tất cả các mặt, các khâu trong lĩnh vực xã
hội, như các quan hệ giai cấp quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình,… Trong đó, cần chú trọng
giải quyết tốt mối quan hệ giai cấp, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, lấy đó là một trong những
động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

13
+ Trong lĩnh vực tinh thần, cần phải đổi mới toàn diện tất cả các mặt trong đời sống
tinh thần của xã hội. Trong đó tập trung vào những bộ phận cốt lõi, như văn hóa, giáo dục -
đào tạo, khoa học.
Quán triệt quan điểm toàn diện trong công cuộc đổi mới, chúng ta nhất định sẽ thực
thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

b. Quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường xã
hội chủ nghĩa.
Ngày nay, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Đảng đã đề ra đường lối xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn
lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải
thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường an ninh, quốc phòng;
bảo vệ và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Thực tiễn cho thấy con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không tuân theo những công
thức có sẵn, bất biến, mà chúng được vận dụng linh hoạt, mềm dẻo, luôn đổi mới để phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước và tình hình quốc tế trong từng giai đoạn. Con đường
của cách mạng Việt Nam được Đảng ta xác định là xây dựng và phát triển đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngày nay, tình hình thế giới vẫn diễn biến quanh co, phức tạp đặt ra nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn hết sức mới mẻ cần được giải quyết. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần nắm vững
phép biện chứng duy vật, mài sắc tư duy biện chứng, vận dụng các nguyên tắc phương pháp
luận của nó để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.

2. NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN

a. Quan điểm siêu hình sự phát triển


Phủ nhận sự phát triển, coi tất cả chất của sự vật không có sự thay đổi trong quá trình
tồn tại của chúng. Nếu có phát triển thì đó chỉ là sự thay đổi về lượng chứ không tác động về
chất. Sự phát triển diễn ra theo đường thẳng hoặc đường tròn khép kín. Sự phát triển chẳng
qua chỉ là sự vận động đi tới cõi chết mà thôi.

b. Quan điểm của duy vật biện chứng về sự phát triển


 Khái niệm: Phép BCDV sử dụng phạm trù “phát triển” để chỉ quá trình vận động
tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn
của sự vật, hiện tượng.
Cơ sở của nguyên lý này là quan niệm về vật chất vận động, theo đó, vật chất luôn
luôn vận động, không có vận động là không phải vận động của vật chất; vận động là thuộc
tính của sự vật, là phương thức tồn tại của vật chất.

14
Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động, phát triển, trong đó phát
triển được xem như là trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển sự
vật, hiện tượng chuyển hóa sang chất mới cao hơn, hoàn thiện hơn.
 Phương thức của sự phát triển là sự thay đổi về chất trên cơ sở những thay đổi về
lượng.
 Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là những mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn
bên trong sự vật, hiện tượng.
 Khuynh hướng củ sự phát triển diễn ra theo đường xoáy ốc.
Theo quan điểm của CNDVBC, sự phát triển là một hiện tượng phức tạp, vừa diễn ra
dần dần, vừa có những bước nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện
tượng mới về chất ra đời. Phát triển đi theo đường "xoáy ốc", cái mới dường như lặp lại một
số đặc trưng, đặc tính của cải cũ nhưng trên cơ sở mới cao hơn. Phát triển diễn ra quanh co,
phức tạp, có thể có những bước thụt lùi, song xu hướng chung là ngày càng tiến bộ.

 3 tính chất cơ bản của sự phát triển:


 Tính khách quan: Phát triển là hiện tượng có tính khách quan. Tính khách quan
được thể hiện ở chỗ, nó là hiện tượng vốn có của thế giới vật chất. Như đã biết, vận động là
phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính vốn có của vật chất. Phát triển là trường hợp
đặc biệt của vận động, là kết quả của vận động. Chính vì vậy, phát triển là hiện tượng khách
quan, tự thân, không phải do lực lượng bện ngoài, cũng không phải do ý muốn chủ quan của
con người tạo nên.
 Tính phổ biến: Phát triển còn có tính phổ biến. Nó diễn ra ở mọi lĩnh vực của thế
giới, trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào trong sự tồn tại của mình
cũng luôn vận động, phát triển, không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại mà lại đứng im, đứng
im chi là trạng thái tạm thời của sự vật, hiện tượng, là trường hợp riêng của vận động.
 Tính đa dạng, phong phú: mỗi sự vật, hiện tuợng có quả trình phát triển rất khác
nhau do tính đặc thù của chúng quyết định. Mặt khác, cùng một loại sự vật, hiện tượng song
trong các điều kiện không gian, thời gian khác nhau, môi trường khác nhau, sự phát triển
cũng diễn ra theo các hình thức khác nhau. Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong sự tác động
qua lại của các mối quan hệ phổ biến. Các xu hướng tác động khác nhau của các môi quan hệ
này cũng làm cho sự vật, hiện tượng phát triển theo các xử hướng khác nhau.

Dù biểu hiện cụ thể vô cùng đa dạng phong phú, khuynh hướng chung của sự vận
động, biến đổi của mọi sự vật trong thế giới vẫn là khuynh hướng đi lên.

Ý nghĩa phương pháp luận


Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần quán triệt
quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể để chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn của con người.

 Quan điểm toàn diện trong nhận thức và thực tiễn:


 Xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong các quá trình
phát sinh, phát triển trong sự vận động, biến đổi, chuyển hóa của chúng. Chúng ta không

15
chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại, mà phải thấy khuynh hướng phát triển trong tương lai.
Phải phân tích để làm rõ những biến đổi của sự vật, khái quát những hình thức biểu hiện của
sự biến đổi đó để tìm ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật đó.
 Phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tap, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm, tính
chất, hình thức khác nhau cho nên phải có sự phân tích cụ thể từng giai đoạn để tìm ra
những cách thức hoạt động, phương pháp tác động phù hợp nhằm thúc đẩy những
biến đổi có lợi và sự kim hãm những biến đổi có hại.
 Trong nhận thức, để phản ánh được sự vận động và phát triển của thế giới khách
quan, nội dung của các luận điểm khoa học không thể là bất biến. Nội dung của chúng cũng
thay đổi, phát triển. Vì vậy cần phải có cái nhìn mềm dẻo, linh hoạt trong việc xây dựng,
phát triển các khái niệm khoa học nhằm phản ánh sự phát triển của sự vật hiện tượng một
cách kịp thời.

 Để quán triệt quan điểm phát triển, chúng ta cần:

1) Khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, v.v.. trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn. Từ đó, cần có quan điểm đúng đắn trong nhận thức về cái
mới và tạo điều kiện cho sự khẳng định cái mới; có sự định hướng, niềm tin khoa
học vào những xu hướng phát triển tất yếu, hợp quy luật của hiện thực.

2) Cần có cái nhìn động, linh hoạt, tránh tuyệt đổi hóa một hiện tượng, một khuynh
hưởng nào đó.

3) Trong quá trình xây dựng các quyết sách và thực hiện các quyết sách phải tránh
các cách nhìn cực đoan cả tả khuynh và hữu huynh, cần nhận thức trạng thái
chín muồi của đối tượng mà xây dựng và thực hiện các quyết sách một cách hiệu
quả cho sự ra đời của cái mới.
 Quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn:
 Phải xem xét sự vật, hiện tượng trong không gian, thời gian cụ thể, trong những
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, tránh cách nhìn chung chung, trừu tượng. Trong các điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử - cụ thể khác nhau, thì các mối liên hệ và hình thức phát triển của sự vật,
hiện tượng cũng khác nhau, bởi vậy không chỉ nghiên cứu chúng trong suốt quá trình, mà
còn nghiên cứu chúng trong các không gian, thời gian, điều kiện hoàn cánh lịch sử - cụ thể
khác nhau đó. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể xem xét được sự vận động lịch sử phong
phú và đa dạng của sự vật, hiện tượng.
 Khi xem xét sự vật, hiện tượng chúng ta phải tái tạo lại được sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng qua những ngẫu nhiên lịch sử, qua những bước quanh co, vừa
phải mô tả được các sự kiện cụ thể theo trình tự nghiêm ngặt của sự vận động, phát triển của
nó, vừa phải vạch ra được cái lôgic của sự vận động.
 Khi đánh giá các luận điểm khoa học, chúng ta cần đặt nó trong điều kiện lịch sử -
cụ thể. Không có chân lý trừu tượng, chân lý bao giờ cũng cụ thể.
 Để quán triệt nguyên tắc này, chúng ta cần:

16
1) Đặt nó trong các điều kiện lịch sử - cụ thể, tránh rơi vào giáo điều, chung chung
thiếu cụ thể. Giáo điều là biểu hiện của sự sùng bài cái đã biết, xem nó là cái duy nhất,
và dem vận dụng rập khuôn cải đã có ấy vào các hoàn cảnh khác nhau. Nó cũng là sự
sùng bái các kiến thức sách vở không tính đến điều kiện thực tế khi áp dụng các kiến
thức này.
2) Chúng ta cũng cần chống lại thái độ tuyệt đối hóa cái cụ thể, xem nhẹ tiến trình
chung. Trong hoạt động vừa phải thấy cả quá trình vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng, cái logic vận động của chúng.
3) Trong hoạt động không được cứng nhắc, cần biết xử lý các tình huống linh hoạt,
căn cứ vào điều kiện cụ thể mà xây dựng, chỉnh sửa các quyết sách và thực hiện các
quyết sách cho phù hợp với thực tiễn.

CÂU 5: Trình bày những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nêu ý nghĩa
phương pháp luận.

Khái niệm chung về quy luật: Một cách khái quát có thể định nghĩa quy luật là những
mối liên hệ tất yếu, bản chất, phổ biến, lặp đi lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc
tính bên trong sự vật, hiện tượng hoặc giữa những sự vật, hiện tượng với nhau.

Phân loại quy luật:


 Căn cứ vào phạm vi tác động/mức độ phổ biến:
- Quy luật chung: tác động trong 1 số lĩnh vực các sự vật, hiện tượng; mỗi lĩnh vực là
các sự vật, hiện tượng thuộc cùng một loại. VD: quy luật trao đổi chất tác động trong cả thực
vật và động vật…
- Quy luật riêng: chỉ tác động trong 1 phạm vi nhất định của sự vật, hiện tượng. VD:
các quy luật cơ học tác động đến phạm vi vận động cơ giới của các vật thể như lực đẩy, quán
tính…
- Quy luật phổ biến: tác động trong mọi lĩnh vực, trong tất cả các sự vật, hiện tượng
tự nhiên, xã hội và tư duy, chi phối toàn bộ thế giới vật chất. Các quy luật của phép BCDV là
các quy luật chung nhất về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy,
chúng biểu hiện với tư cách là các quy luật phổ biến.

 Căn cứ vào lĩnh vực tác động:


- Quy luật tự nhiên: quy luật đồng hóa, dị hóa; lực hút – đẩy,…
- Quy luật xã hội: QHSX phù hợp với trình độ của LLSX…
- Quy luật tư duy: quy luật về sự hình thành khái niệm, về chân lý, quy luật từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn,…

1. QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ
THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI – Cách thức vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng

Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản của phép BCDV, vạch ra cách thức vận động và phát
triển của sự vật, hiện tượng.

17
1) CHẤT
 Khái niệm: Chất là một phạm trù triết học chỉ tính quy định vốn có của sự vật, là sự
thống nhất của các yếu tố, các thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải cái khác. Mỗi sự
vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ vậy, con
người mới có khả năng phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác.

VD: Con người khác động vật chính nhờ những thuộc tính vốn có tạo nên chất của con người
như: có khả năng chế tạo và sử dụng công cụ lao động, có khả năng tư duy,…

 Đặc điểm của chất: Chất mang tính khách quan; chất gắn liền với sự vật, chất là chất
của sự vật. Mỗi sự vật không chỉ có một chất mà có vô vàn chất.

a. Quan hệ giữa chất và thuộc tính của sự vật:


 Để xác định được chất của sự vật thì cần xác định được thuộc tính của nó. Thuộc tính
của sự vật là những tính chất, trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật,… là những cái vốn
có của sự vật, từ khi sự vật được sinh ra hoặc hình thành trong sự vận động và phát triển của
nó.
 Muốn xác định được thuộc tính của sự vật cần phải đặt sự vật trong mối liên hệ với
các sự vật khác. Mỗi sự vật đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản.
o Thuộc tính cơ bản là những thuộc tính quyết định chất của sự vật, nghĩa là khi
thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật thay đổi.
o Thuộc tính không cơ bản là những thuộc tính không quyết định chất của sự vật,
nghĩa là khi thuộc tính không cơ bản thay đổi thì chất của sự vật vẫn chưa thay đổi.
Tuy nhiên, sự phân chia thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản chỉ là tương
đối.

VD: Trong mối liên hệ dùng để uống nước, cái để ly là thuộc tính cơ bản. Trong mối liên hệ
với việc để chặn giấy, trọng lượng của cái ly là thuộc tính cơ bản. Ô tô trong mối liên hệ với
phương tiện di chuyển, thuộc tính cơ bản là động cơ, máy móc; trong mối liên hệ dùng để
trưng bày để trưng bày, quảng cáo, thuộc tính cơ bản là kiểu dáng, màu sơn…

 Tổng hợp các thuộc tính cơ bản là chất cơ bản. Chất cơ bản là 1 loại chất mà sự tồn tại
hoặc mất đi của nó báo hiệu sự tồn tại hoặc mất đi của sự vật.
 Tổng hợp các thuộc tính không cơ bản là chất không cơ bản. Chất không cơ bản là 1
loại chất mà sự tồn tại hoặc mất đi của nó không quyết định sự tồn tại hoặc mất đi của sự vật.
Sự phân biệt giữa chất cơ bản và chất không cơ bản cũng chỉ tương đối. (vd?)
 Mặt khác, mỗi thuộc tính lại được hình thành từ các đặc trưng về chất của nó, mỗi
thuộc tính lại đóng vai trò là 1 của sự vật  sự phân biệt giữa chất và thuộc tính cũng tương
đối. (VD?)

b. Quan hệ giữa chất và kết cấu của sự vật


 Chất biểu hiện tính toàn vẹn, tính chỉnh thể thống nhất của sự vật.

18
 Chất và sự vật gắn liền với nhau: Chất là chất của sự vật; còn sự vật tồn tại với tính
quy định về chất của nó.
 Chất của sự vật không chỉ được xác định bởi chất của các thuộc tính, mà còn được xác
định bởi phương thức liên kết giữa các thuộc tính cấu thành nó. Điều này có nghĩa các sự vật
được cấu thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng khác nhau. VD: kim cương và
than đều có cùng thành phần hóa học là carbon, nhưng do phương thức liên kết giữa các
nguyên tử carbon là khác nhau, vì thế chất của chúng hoàn toàn khác nhau. Kim cương rất
cứng còn than thì rất mềm.  Sự thay đổi về chất phụ thuộc vào cả sự thay đổi các yếu tố cấu
thành lẫn sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố ấy.

2) LƯỢNG
 Khái niệm: Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về
mặt số lượng, khối lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật,
cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ,
trình độ cao hay thấp, nhịp độ nhanh hay chậm… Bên cạnh đó, có những lượng biểu thị dưới
dạng trừu tượng và khái quát như trình độ nhận thức tri thức khoa học của một người, ý
thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,…
Trong thực tế, lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ
thể như vận tốc ánh sáng là 300.000km/s, một phân tử H2O được tạo thành từ 2 nguyên tử
Hidro và 1 nguyên tử Oxi,…

 Đặc điểm của lượng: Lượng của sự vật mang tính khách quan. Một sự vật có thể có
nhiều lượng khác nhau (con người có chiều cao, cân nặng, IQ,…).

 Sự phân biệt chất của sự vật cũng chỉ mang tính tương đối, điều này phụ thuộc
vào từng mối quan hệ cụ thể xác định. Có những thuộc tính trong mối quan hệ này là chất
cảu sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại. VD: số
lượng HS giỏi của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp học đó.  Lượng cụ thể quy
định thuần túy về lượng, song số lượng ấy cũng có thể quy định về chất cửa sự vật.

3) MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG VÀ SỰ THAY ĐỔI VỀ
CHẤT
Mỗi hiện tượng thống nhất hữu cơ của hai mặt chất và lượng, chúng tác động qua lại
lẫn nhau, quy định lẫn nhau. Sự thay lượng thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất của sự
vật quy định lẫn nhau theo phương thức nhất định dẫn đến sự biến đổi của sự vật.
Để thấy rõ phương thức thay đổi này, chúng ta cần làm rõ quan điểm biện chứng giữa
thay đổi lượng và thay đổi chất qua các phạm trù độ, điểm nút, bước nhảy.

 Độ là phạm triết học dùng khoảng giới hạn nhất định, ở đó sự thay đổi lượng
chưa dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất. Trong khoảng giới hạn của độ, hai mặt lượng và
chất tác động nhau, thống nhất với nhau làm cho vật vẫn còn là nó chứ chưa phải cái khác.

19
VD: Dưới áp suất bình thường của không khí, sự tăng hoặc giảm nhiệt độ trong khoảng
giới hạn đến 100 độ C, nước nguyên chất (H2O) vẫn trạng thái lỏng. Nếu nhiệt độ của
nước giảm xuống dưới 0 độ C thì nước sẽ chuyển sang thể rắn, còn nếu nhiệt độ của
nước trên 100 độ C thì nước sẽ chuyển dần sang trạng thái hơi (khí), nó đã thay đổi
về chất.

 Như vậy là sự thay đổi về lượng đến một thời điểm nhất định sẽ tạo ra sự
thay đổi về chất. Khi lượng của sự vật được tích luỹ vượt quá giới hạn nhất định gọi là
độ, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới ra đời thay thế chất cũ. Chất mới ấy tương ứng với
lượng mới tích luỹ được.

 Điểm nút là một phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà ở đó sự thay đổi
về lượng đã đủ làm thay đổi về chất. Sự vật tích luỹ đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho
chất mới của nó ra đời. Lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo
nên độ mới và điểm nút mới của sự vật ấy. Quá trình đó liên tiếp diễn ra trong sự vật và
vì thế sự vật luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại.

 Chất của sự vật thay đổi do sự thay đổi về lượng trước đó tạo ra gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự
thay đổi về lượng trước đó tạo ra.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của
một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển
liên tục của sự vật. Có thể nói, trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền để
cho sự liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.

Bước nhảy có nhiều hình thức, tính chất của các bước nhảy được quyết định bởi tính
chất của bản thân sự vật, bởi điều kiện trong đó diễn ra sự thay đổi về chất. Bước nhảy được
phân chia thành các loại cơ bản: bước nhảy đột biến và bước nhảy toàn bộ (theo thời gian
thay đổi của chất); bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ (theo quy mô thực hiện bước
nhảy); bước nhảy tự phát vaa2 bước nhảy tự giác.

 Sự tác động trở lại của chất đối với lượng: Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất
hiện khi sự thay đổi về lượng của nó đạt tới điểm nút. Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động
trở lại lượng đã thay đổi của sự vật, nó có thể làm thay đổi kết cẩu, quy mô, trình độ, nhịp
điệu của sự vật và phát triển của sự vật, tức là chất mới làm xuất hiện lượng mới.

VD1: nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc của các phân tử
nước tăng nhanh hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi cũng sẽ lớn hơn, tính
chất hoà tan một số chất tan của nó cũng sẽ khác đi...

VD2: Chất và lượng của HS phổ thông: thụ động, thiếu sáng tạo. Lên ĐH, chất
mới và lượng mới được hình thành  học tập tốt, có tri thức khoa học.

20
 Kết luận: Mọi sự vật, hiện tượng đều là sự thống nhất giữa lượng và chất. Sự thay đổi
dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự
vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới, quả trình
tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi và phát triển.

Từ sự phân tích trên đây có thể thấy: Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm
hai mặt: lượng và chất. Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, chất và lượng
đều biến đổi. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay
đổi căn bản về chất của sự vật. Khuôn khổ mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay
đổi về chất của sự vật, được gọi là độ.

Sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút sẽ dẫn tới sự ra đời của chất mới. Sự thống
nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Cứ như vậy, sự vận
động và phát triển của sự vật là không cùng. Do đó, sự vận động, biển đổi của các sự vật sẽ
hình thành một đường nút của những quan hệ về độ.

4) Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN

1. Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng điễn ra bằng cách tích luỹ dần
dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển biến về chất. Do
đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến chúng ta phải biết từng bước tích
luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Trong hoạt động của mình, ông cha ta
đã rút ra những tư tưởng sâu sắc như “tích tiểu thành đại", "năng nhặt, chặt bị", "góp gió
thành bão",.. Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những
việc làm bình thường của con người đó. Phương pháp này giúp chúng ta tránh được tư
tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nông, "đốt cháy giai đoạn" muốn thực hiện những bước
nhảy liên tục.

2. Khi sự thay đổi về lượng đã chín muồi, chúng ta cần tạo điều kiện để sự thay
đổi về chất được thực hiện, tránh tư tuởng báo thủ, trì trệ, "hữu khuynh", đồng thời
tránh tư tưởng siêu hình coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng. Vì sự thay
đổi về lượng và thay đổi về chất có mối quan hệ biện chứng với nhau, nên trong hoạt động
thực tiễn phải dựa trên việc hiểu biết đúng đắn vị trị, vai trò và ý nghĩa của mỗi loại thay
đổi nói trên. Trong sự phát triển xã hội, phải biết kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng
thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hoá sang thay đổi mang
tính cách mạng.

3. Trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần vận dụng linh hoạt các hình thức của
bước nhảy để trong những điều kiện cụ thể, chúng ta có thể lựa chọn bước nhảy phù hợp
đem lại hiệu quả cao nhất. Sự vận dụng linh hoạt đó sẽ tuỳ thuộc vào việc phân tích đúng
đắn những điều kiện khách quan và những nhân tố chủ quan cũng như sự hiểu biết sâu
sắc về quy luật này. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, trong điều kiện cụ thể hay quan hệ cụ

21
thể, chúng ta sẽ lựa chọn hình thức bước nhảy phù hợp để đạt tới kết quả mong muốn và
nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.

Sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành
sự vật, do đó, chúng ta cũng phải biết cách tác động vào phương thức liên kết các yếu tố
đó để làm thay đổi chất sự vật.

VD: Trên cơ sở hiểu biết đúng đắn về gen, con người có thể tác động vào phương
thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành gen làm cho gen biến đổi, hình thành các
chủng sinh vật có chất lượng cao hơn. Trong một tập thể, cơ chế quản lý, lãnh đạo
và quan hệ giữa các thành viên của tập thể ấy thay đổi tích cực có tính chất toàn
bộ thì sẽ làm cho tập thể đó vững mạnh.

2. QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP (QUY LUẬT
MÂU THUẪN) – Nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển; là hạt nhân của
PBCDV.

1) Một số khái niệm


 Mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt, khía cạnh có khuynh hướng biến đổi
trái ngược nhau. Mặt đối lập dùng để chỉ những yếu tố, thuộc tính cấu thành sự vật, sự vật,
hệ thống sự vật cấu thành hệ thống lớn hơn... với những đặc điểm, những thuộc tính quy
định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan, phổ biến
trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động
qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.

 Mâu thuẫn là sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập bên trong của sự vật hoặc
giữa các sự vật đối lập với nhau. Các mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau.
Mâu thuẫn có các tính chất:
- Tính khách quan: mâu thuẫn là cái vốn có của bản thân sự vật, hiện tượng chứ không
phải do sự áp đặt từ bên ngoài; bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều chứa đựng
mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác được hình thành.
- Tính phổ biến: mâu thuẫn có trong mọi sự vật, hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá
trình, có cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
- Tính đa dạng, phong phú: mâu thuẫn bên trông – mâu thuẫn bên ngoài, mâu thuẫn cơ
bản – mâu thuẫn không cơ bản, mâu thuẫn đối kháng – mâu thuẫn không đối kháng.
- Mâu thuẫn là một chủ thể trong đó 2 mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu
tranh với nhau.

2) Sự thống nhất của các mặt đối lập (**)


Sự thống nhất của các mặt đối lập thể hiện ở chỗ, chúng tồn tại trong sự nương tựa
lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau, làm tiền để cho nhau.
VD: Nguyên tử nào cũng có hạt mang diện tích dương, hạt mang diện tích âm, cơ thể
sinh vật nào cũng có đồng hoá và dị hoá... các mặt này cùng tồn tại trong một thể thống nhất.

22
Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, "đồng nhất" với
nhau. Xét về nguyên liệu cấu thành, cực bắc và cực nam của thanh nam châm hoàn toàn đồng
nhất. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến một
lúc nào đó, mặt đối lập này có thể chuyển hoá sang mặt đối lập kia khi xét về một vài đặc
trưng nào đó.

Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng.
Song, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển nhất định, ở đó
diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.

3) Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập


Các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà còn luôn đấu tranh với nhau, đó là sẽ tác
động qua lại theo xu hướng bài trừ lẫn nhau, phủ định lẫn nhau. Trong các sự vật khác
nhau, ở các giai đoạn khác nhau của mâu thuẫn, sự đấu tranh của các mặt đối lập cũng không
như nhau. Tính da dạng của hình thức đấu tranh giữa các mặt đối lập tuỳ thuộc vào tính chất
của các mặt đối lập cũng như mối quan hệ qua lại giữa chúng, phụ thuộc vào điều kiện trong
đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.

4) Mối quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập (**)
Với tư cách là hai trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại giữa hai mặt đối lập, sự
thống nhất và đấu tranh có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, sự thống nhất của các mặt
đối lập là tương đối, sự đấu tranh giữa các mật đối lập là tuyệt đối.
Tính tương đối của sự thống nhất có quan hệ hữu cơ với sự đứng im, sự ổn định tạm
thời của sự vật. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh có mối quan hệ gắn bó với tính tuyệt đối của
sự vận động và sự phát triển.
Khi xem xét mối quan hệ này, VI Lênin viết: "sự thống nhất (...) của các mặt đối lập là
có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập, bài trừ lẫn
nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối".

5) Mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển
Từ sự phân tích trên có thể khẳng định mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả sự thống
nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Trong đó, thống nhất là tương đối, tạm thời;
đấu tranh là tuyệt đối, vĩnh viễn. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là hai xu
hướng tác động lẫn nhau giữa hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn.

Phép biện chứng duy vật khẳng định đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định một
cách tất yếu, làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác
nhau căn bản, dần dần chúng xung đột nhau gay gắt và khi đủ điều kiện, chúng chuyển hóa
nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Cũng nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bởi thể
thống nhất mới, sự vật cũ mát đi, sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ. Sự phát triển của sự
vật diễn ra một cách thường xuyên như thế.

23
 Kết luận: Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, khuynh đối lập tạo mâu
thuẫn biện chứng trong bản thân nó, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn
gốc, động lực của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi, cái mới ra đời thay thế cái
cũ.

Ý nghĩa phương pháp luận

 Để hiểu đúng bản chất sự vật và tìm ra con đường đúng đắn để giải quyết mâu
thuẫn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển, chúng ta phải đi sâu phân tích mâu thuẫn của sự
vật, tức là phải tìm ra những mặt đối lập, những mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa
chúng. Khi phân tích mâu thuẫn phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, tức là quán triệt
quan điểm khách quan khi xem xét mâu thuẫn, VI Lênin viết: “Sự phản đối của cái đồng
nhất và sự nhận thức của các bộ phận của nó, đó là thực chất của phép biện chứng".
 Khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của mâu
thuẫn, đánh giá đúng vị trí, vai trò cũng như xu hướng tác động của các mặt đối lập, tức là
phải quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể trong việc xem xét mâu thuẫn. Chỉ có như thế
mới hiểu đúng được bản chất của mâu thuẫn, xu hướng vận động, phát triển của sự vật cũng
như các điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
 Phải xác định đúng phương thức, phương tiện và lực lượng phù hợp để giải quyết
mâu thuẫn của từng sự vật ở mỗi giai đoạn cụ thể, đồng thời phải chống cả hai biểu hiện sai
lầm, nóng vội, chủ quan duy ý chí và trì trệ, bảo thủ trong việc giải quyết mâu thuẫn.

3. QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH – Khuynh hướng của sự vận động, phát triển

Một số khái niệm


 Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác. Trong lịch sử triết học, các
trường phái triết học khác nhau có quan niệm khác nhau về sự phủ định.
- Triết học trước Mác: có quan điểm về vận động vòng tròn. Vận dụng vào đời sống xã hội,
theo quan điểm đó, khi đạt tới một trình độ phát triển nào đó, xã hội sẽ trở lại điểm xuất
phát, vòng phát triển mới lại bắt đầu.
- Triết học Phật giáo: lại quan niệm kiếp người tuân theo vòng luân hồi: “cát bụi lại trở về
cát bụi".
- Quan điểm siêu hình: coi sự phủ định là sự diệt vong hoàn toàn của cái cũ, sự phủ định
sạch trơn, chấm dứt hoàn toàn sự vận động và phát triển của sự vật. Họ tìm nguyên nhân
của sự phủ định ở bên ngoài sự vật, ở một lực lượng siêu nhiên nào đó.

Trên thực tế các quá trình phủ định diễn ra trong tự nhiên cũng như trong xã hội là
sự phủ định làm mất đi cái cũ và xuất hiện cải mới, tiến bộ hơn. Sự phủ định như vậy
là hình thức giải quyết những mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật. Sự phủ định là
nhân tố tất yếu của bất kỳ sự phát triển nào. Điều đó giải thích vì sao C.Mác đã khẳng định
rằng không lĩnh vực nào lại có được sự phát triển mà không có sự phủ định những hình thức
tồn tại trước đó của nó.

24
 Phép biện chứng duy vật xem xét sự phủ định từ lập trường biện chứng, theo đó,
phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng dể chỉ sự phủ định tự thân vừa kế
thừa vừa đổi mới, phát triển, là mắt khâu trong trình dẫn tới sự ra đời của cái mới,
tiến bộ hơn cái cũ.
 Phủ định biện chứng là quá trình vừa mang tính khách quan vừa mang tính thừa:
- Tính khách quan: thể hiện chỗ nguyên nhân của phủ định ngay trong bản thân sự
vật, do kết quả giải quyết các mâu thuẫn bên trong sự vật định. Hơn nữa phương thức phủ
định vật cũng không tuỳ thuộc muốn của con người. Mỗi vật phương thức phủ định riêng
thuộc vào chất mâu thuẫn phương thức giải quyết mâu thuẫn của bản thân vật. Như vậy phủ
định biện thực hiện nhờ việc giải quyết các mâu thuẫn bên trong sự vật. Chính này mà phủ
định biện chứng một tất yếu khách quan của sự vận động và phát triển.
- Tính kế thừa: Phủ định biện chứng không phải sự thủ tiêu, sự phá huỷ toàn cái bị
phủ định. Trái lại, để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện chứng bao hàm
trong đó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ định. định biện chứng, do
vậy, phủ định mang tính kế thừa. Như vậy, phủ định đồng thời cũng là khẳng định.

Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển
 Phủ định của phủ định dùng để chỉ một vòng khâu của sự phát triển, trong đó
diễn ra hai lần phủ định biện chứng, sự vật như quay lại cái cũ nhưng trên một trình độ cao
hơn.
- Sự phủ định lần thứ nhất được thực hiện một cách căn bản làm cho vật chuyển
thành đối lập của mình.
- Sự phủ định lần thứ hai sẽ ra đời một sự vật mới mang nhiều đặc trưng giống như
cái ban đầu, song, thực chất, không phải giống nguyên như cũ, mà dường như lặp lại cái cũ,
nhưng trên cơ sở cao hơn.
- Đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của
phủ định chính là sự phát triển dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao
hơn. Chỉ có thông qua phủ định của phủ định mới dẫn tới việc ra đời một sự vật mới, trong
đó có sự lặp lại một số đặc trưng cơ ban của cái xuất phát ban đầu, nhưng trên cơ sở cao hơn.
Sự phủ định của phủ định là sự kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là
điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển về sau, khái quát một chu kỳ phát triển đó
tạo thành nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định.
 Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định hiện chứng như trên đã
nói, là sự thống nhất giữa loại bỏ, kế thừa và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được
thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới. Do đó, sự phát triển thông qua những lần
phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng.
 Sự phát triển đi lên đó không phải diễn ra theo đường thắng, mà theo đường “xoáy
trôn ốc". Để cập tới con đường đó của sự phát triển biện chứng, Lênin viết: “Sự phát triển
hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ

25
cao hơn "phủ định của phủ định"; sự phát triển có thể nói theo đường trôn ốc chứ không
theo đường thẳng".
 Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đường "xoây trôn ốc" chính là hình
thức cho phép biểu đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng của quá trình phát triển biện chúng:
tính kế thin, tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính chất tiến lên của sự phát triển.
Mỗi vòng mới của đường "xoáy trôn ốc" thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển,
đồng thời dường như quay lại cái đã qua, dường như lặp lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của
các vòng thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.

VD: hạt thóc  lúa  hạt thóc; con gà  quả trứng  con gà

 Kết luận: Mọi sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động và phát triển của mình đều
phải trải qua một chuỗi các phủ định biện chứng, phủ định của phủ định nói lên một chu kỳ của
sự phát triển, theo đó sự vật mới dường như quay trở lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn về
chất, sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà theo đường "xoáy ốc".

Ý nghĩa phương pháp luận:

1) Giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng.
Sự phát triển không bao giờ diễn ra theo đường thẳng, mà quanh co, phức tạp phải trải qua
nhiều lần phủ định. Vì vậy, tránh thái độ phiến diện, đơn giản trong nhận thức đối tượng,
đặc biệt là các hiện tượng xã hội. Trong sự phát triển của xã hội loài người ở giai đoạn hiện
nay của thời đại, CNXH với tính cách một chế độ xã hội là cái mới. Sự khủng hoảng thoái trào
của CNXH hiện nay chỉ là một trạng thái tạm thời. Chúng ta có đủ căn cứ để khẳng định rằng
sớm hay muộn, chủ nghĩa xã hội sẽ được khôi phục, đuợc phát triển, và cuối cùng, sẽ thay
thế hoàn toàn chủ nghĩa tư bản. Những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới ở nước
ta, những vấn đề phát sinh trong CNTB hiện đại và tính bất lực của nó trong giải quyết các
vấn đề là cơ sở của niềm tin đó.
2) Trong quá trình phát triển luôn xuất hiện cái mới thay thế cho cái cũ, cái tiến bộ thay
thế cho cái lạc hậu, vì vậy phải có thái độ ủng hộ cái mới. Trong công tác chúng ta phải biết
phát hiện và quý trọng cái mới, phải tin tưởng vào tương lai phát triển của cái mới,
mặc dù lúc đầu nó còn yếu ớt, ít ỏi; phải ra sức bồi dưỡng, phát huy cái mới, tạo điều kiện
cho nó chiến thắng cái cũ.  Liên hệ với công tác phát triển, đào tạo con người, cán bộ, giáo
viên…
3) Chúng ta không được phép có thái độ phủ định sạch trơn mà phải biết kế thừa có chọn
lọc những tinh hoa của cái cũ. Bên cạnh việc chống thái độ hư vô chủ nghĩa, phủ định sạch
trơn quá khứ, chúng ta cũng phải khắc phục thái độ bảo thủ, khư khư giữ lại cả những
gì đã lỗi thời cản trở bước tiến của lịch sử. Quan điểm biện chứng duy vật về sự phát triển
đòi hỏi trong hoạt động lý luận và thực tiễn, chúng ta phải biết kế thừa có phê phán, có
chọn lọc những nhân tố tích cực của tư tưởng trước, của giai đoạn phát triển trước, của cái
bị phủ định nói chung, sử dụng như là tiền đề cho sự ra đời của cái mới.

26
Câu 6: Lý luận về nhận thức của CNDVBC. Nêu vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Nêu ý nghĩa pp luận.

1) Thực tiễn và các hình thức của thực tiễn

- Khái niệm: Thực tiễn là hoạt động vật chất, có mục đích, có tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tạo thế giới.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất của con người. Hoạt động của con người, cũng
như của con vật, có hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần. Hoạt động tinh thần là hoạt
động nhận thức. Ở con vật hoạt động nhận thức là hoạt động nhận thức cảm tính, còn ở con
người hoạt động nhận thức gồm cả hoạt động nhận thức cảm tính và hoạt động nhận thức lý
tính. Hoạt động nhận thức diễn ra bên trong bộ não; còn hoạt động vật chất là sự tác động
qua lại giữa chủ thể hoạt động với các đối tượng vật chất. Để tồn tại và phát triển, con người
phải có các hoạt động vật chất là ăn, mặc, ở, đi, quan sát, sinh con đẻ cái, lao động và nhiều
hoạt động khác. Con vật, đặc biệt là động vật bậc cao, cũng có một số hoạt động vật chất giống
con người; bởi vì nó cũng ăn, ở, đi, quan sát và sinh con đẻ cái. Tuy nhiên, hoạt động vật chất
của con vật thì không phải là hoạt động thực tiễn.

- Thực tiễn là hoạt động có mục đích của con người. Hoạt động vật chất của con vật
là hoạt động bản năng, không có mục đích; còn hoạt động vật chất của con người thì có mục
đích. Ví dụ, chỉ con người mới có mục đích khi ăn, khi mặc, khi ở, khi đi, khi nghe, khi nhìn
và khi sinh con đẻ cái.

- Thực tiễn là hoạt động có tính xã hội của con người. Con người không thể sống
tách rời xã hội; hoạt động thực tiễn của mỗi người không tách rời với hoạt động thực tiễn
của người khác. Khi hoạt động thực tiễn, con người có sự phối hợp của những người khác;
cần có tri thức mà tri thức lại là sản phẩm của xã hội. Ví dụ, nếu không có sự cộng tác của
những người khác thi một người không thể săn bắn, chăn nuôi, trồng trọt.

- Thực tiễn là hoạt động có tính lịch sử của con người. Bởi vì hoạt động thực tiễn
luôn biến đổi và phát triển. Ví dụ, cách thức trồng lúa và săn bắn của con người ngày càng
tiến bộ hơn nhờ công cụ sản xuất tốt hơn và hiểu biết sâu sắc hơn.

- Thực tiễn là hoạt động của con người nhằm cải tạo thế giới. Hoạt động vật chất
của con vật không có mục đích không nhằm cái tạo thế giới. Hoạt động vật chất của con người
có mục đích; mục đích đó là nhằm cải tạo thế giới; qua đó để thỏa mãn nhu cầu vật chất của
mình.

- Cần phân biệt thực tiễn với thực tế: Thực tế là thực tại khách quan bao gồm con
người và thế giới bên ngoài con người; còn thực tiễn là sự tác động qua lại của con người
với thế giới bên ngoài con người. Vi dụ, cái cốc là thực tế chứ không phải là thực tiễn, còn
hoạt động của con người làm ra cái cốc là thực tiễn.

- Thực tiễn có 3 hình thức cơ bản sau:

27
 Hoạt động sản xuất. Hoạt động này nhằm cải tạo tự nhiên, tạo ra các sản phẩm để
nuôi sống con người. Đây là hoạt động cơ bản nhất vì nếu ngừng sản xuất thì con
người sẽ không có cái để đáp ứng nhu cầu của mình. Ví dụ, hoạt động sản xuất của
công nhân, nông dân, ngư dân,..
 Hoạt động chính trị - xã hội. Hoạt động này nhằm thay đổi các quan hệ xã hội, các
chế độ xã hội. Ví dụ, hoạt động của nhà quản lý xã hội, bộ đội, công an, nhà giáo, nhà
văn, công chức, viên chức...

 Hoạt động thực nghiệm khoa học. Hoạt động này nhằm thay đổi những điều kiện
vật chất; qua đó tạo điều kiện để con người nhận thức thế giới dễ hơn. Ví dụ, hoạt
động quan sát, thí nghiệm của các nhà khoa học…

Ngoài 3 hình thức cơ bản đó, thực tiễn còn nhiều hình thức khác. Các hoạt động xã
hội của con người trong các lĩnh vực đạo đức, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo; các hoạt động
của con người như ăn, mặc, ở, đi lại, sinh con đẻ cái, giao tiếp cũng đều là hoạt động vật chất,
có mục đích, có tính lịch sử - xã hội và nhằm cải tạo thế giới. Các hoạt động đó được gọi là
những hình thức không cơ bản, vì chúng được hình thành trên cơ sở của những hình thức cơ
bản.

2) Nhận thức và các trình độ của nhận thức

Theo quan điểm của CNDVBC, nhận thức là hoạt động tích cực sáng tạo, phản ánh
thế giới vật chất vào trong bộ não người, trên cơ sở thực tiễn và mang tính biện chứng sâu
sắc.
Những nguyên tắc cơ bản của lý luận nhận thức DVBC:
o 1 là thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
o 2 là thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan.
o 3 là hoạt động nhận thức là 1 quá trình tích cực, tự giác, sáng tạo.
o 4 là coi thực tiễn là cơ sở, động lực, nội dung của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm
tra chân lý.

 Nhận thức có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự tồn tại và phát triển. Nếu nhận thức
đúng: thúc đẩy sự phát triển của con người và xã hội. Nếu sai  kìm hãm. Vì vậy nhận thức
về con ng, xh, cần phải hết sức cẩn trọng. VD:……
 Nhận thức sai lầm về tự nhiên còn sửa chữa được nhưng nhận thức về con người mà
sai lầm thì … đánh giá về con ng, về hs của mình 1 cách khách quan, không dán nhãn, định
kiến,…

Các trình độ của nhận thức:


Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức là một quá trình, đi từ
nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ
nhận thức lý luận; từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học.

28
3) Con đường của sự nhận thức chân lý

V.I.Lênin đã khái quát: Từ trực quan sinh động  tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng
 thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện
thực khách quan.

Giai đoạn từ trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) đến tư duy trừu tượng
(nhận thức lý tính)

Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính), là giai đoạn đầu, giai đoạn con người sử
dụng các giác quan để tiến hành phản ánh các sự vật khách quan  mới chỉ phản ánh được
cái hiện tượng, cái biểu hiện của sự vật cụ thể, cảm tính mà chưa phản ánh được cái bản chất,
quy luật, nguyên nhân của những hiện tượng đó. Nhận thức cảm tính bao gồm 3 hình thức
cơ bản: Cảm giác, tri giác và biểu tượng.
 Cảm giác là sự phản ánh những mặt, những thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện
tượng khi chúng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn
gốc của mọi sự hiểu biết.
 Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện
của sự vật khách quan, cụ thể, cảm tính, được hình thành trên cơ sở liên kết, tổng hợp
những cảm giác về sự vật.
 Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật khách quan vốn đã được phản ánh
bởi cảm giác và tri giác. Nó là hình thức phản ánh cao nhất, phức tạp nhất của giai đoạn
nhận thức cảm tính, đồng thời cũng là bước quá độ từ nhận thức cảm tính lên nhận thức
lý tính.
Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính): Nhận thức lý tính là giai đoạn phản ánh gián
tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật khách
quan. Đây là giai đoạn cao của quá trình nhận thức. Nhận thức lý tính được thực hiện thông
qua ba hình thức cơ bản: Khái niệm, phán đoán, suy lý (suy luận).
 Khái niệm là sự phản ánh những đặc tính bản chất, tất yếu của sự vật. Sự hình
thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, các thuộc
tính của sự vật hay một lớp các sự vật.
 Phán đoán là hình thức liên kết các khái niệm với nhau theo phương thức khẳng
định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức.
 Suy lý là hình thức liên kết các phán đoán, tuân theo những quy tắc lôgíc của
các loại hình suy luận, nhằm rút ra một phán đoán mới chứa đựng tri thức mới về sự vật.

Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là 2 giai đoạn, 2 cấp độ của một quá trình
nhận thức thống nhất, trong đó nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên, cấp độ thấp còn
nhận thức lý tính là giai đoạn tiếp theo, cấp độ cao của quá trình nhận thức.

Cả 2 bắt nguồn từ thực tiễn, đều lấy sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan làm
đối tượng, nội dung phản ánh. Giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau.

29
o NTCT là tiền đề, là điều kiện của NTLT.
o NTLT không thể thực hiện nếu thiếu những tri thức, những tài liệu cần thiết do
NTCT đưa lại. Ngược lại NTLT sau khi đã hình thành thì tác động trở lại NTCT, làm
cho nó nhạy bén hơn, chính xác hơn trong quá trình phản ánh hiện thực.
o Để xác định tính chân thực của tri thức thì nhận thức phải gắn với thực tiễn, dùng
thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo.

 Kết luận: Quy luật chung có tính chu kỳ của quá trình vận động, phát triển của nhận
thức là: Từ thực tiễn đến nhận thức - từ nhận thức trở về thực tiễn. Thực tiễn vừa là
điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc của một chu kỳ, quá trình này lặp đi lặp lại không
có điểm dừng cuối cùng. Trình độ của nhận thức và thực tiễn ở chu kỳ sau thường cao hơn
chu kỳ trước, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần tới những tri thức ngày càng đúng đắn
hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn về thực tại khách quan.

Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì quá trình nhận thức của con người được bắt đầu từ giai đoạn nhận thức cảm
tính, tức là phụ thuộc vào các cơ quan cảm giác của con người, đồng thời vì quá trình nhận
thức là một quá trình quanh co phức tạp, đi từ thấp đến cao, từ biết ít đến ngày càng đúng
đắn hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn về thực tại khách quan nên cần quán triệt quan điểm về
tính tương đối của nhận thức của con người trong quá trình phản ánh thực tế khách
quan.

- Quy luật chung của sự nhận thức cũng là một sự biểu hiện cụ thể, sinh động của
những quy luật chung trong phép biện chứng duy vật. Sự vận động của quy luật chung trong
quá trình vận động, phát triển nhận thức chính là quá trình con người, loài người ngày càng
tiến dần tới chân lý.

Tóm lại, thực tiễn vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc 1 chu kì của quá trình nhận
thức, đồng thời là điểm xuất phát của chu kỳ nhận thức tiếp theo.

Quá trình nhận thức đi từ trực quan sinh động  tư duy trừu tượng  thực tiễn, từ hiện
tượng  bản chất, từ chưa biết  biết, từ biết  biết bản chất, từ bản chất cấp 1  bản chất
cấp 2 …  vô tận (Lênin).

4) Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

Nhận thức quy luật của thế giới là điều kiện cần của thực tiễn; bởi vì nếu không có sự
hiểu biết về các quy luật của thế giới thì hoạt động của con người sẽ mù quáng như hoạt động
của động vật, mà hoạt động mù quáng thì không phải là thực tiễn. Nhưng ngược lại, thực tiễn
cũng có vai trò quan trọng đối với sự nhận thức các quy luật của thể giới. Vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức thể hiện chỗ, thực tiễn là cơ sở và động lực của nhận thức, là mục
đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý.

30
 Thực tiễn là cơ sở và động lực của nhận thức.
Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, chính yêu cầu của thực tiễn đã
buộc con người phải nhận thức thế giới. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và
khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức, không có thực tiễn thì không có nhận
thức.
Nhu cầu tất yếu khách quan của con người là giải thích và cải tạo thế giới đã buộc con
người phải tác động vào các sự vật hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác
động đó làm cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ, cung cấp
những tài liệu để con người có cơ sở nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất,
các quy luật vận động và phát triển của thế giới.
Ví dụ: do mùa màng bị sâu bệnh nên những người trồng lúa thấy cần có
thuốc trừ sâu; nhu cầu đó của người trồng lúa thúc đẩy các nhà khoa học
nghiên cứu để tìm ra thuốc trừ sâu. Nói rộng hơn, nếu không có sản xuất
nông nghiệp thì sẽ không cần có các trường đại học nông nghiệp, các viện
nghiên cứu nông nghiệp và các nhà khoa học nông nghiệp. Do đó sẽ không
có sự phát triển của khoa học nông nghiệp.
Nhờ hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng hoàn thiện, năng
lực tư duy lôgíc không ngừng được củng cố và phát triển, các phương tiện nhận thức ngày
càng tinh vi, hiện đại càng làm tăng thêm khả năng nhận thức của con người. Những phương
tiện nhận thức ấy không có sẵn trong tự nhiên mà được tạo ra nhờ hoạt động thực tiễn. Ví
dụ: nếu không có kính hiển vi thì con người không thể nhận thức được sâu sắc thể giới vi
mô.
Thực tiễn làm cho các giác quan của con người trở nên hoàn thiện hơn và cung cấp
cho con người những phương tiện để nhận thức. Ngay trong giai đoạn hình thành con người,
chính nhờ lao động loài vượn mới đi thẳng đứng được bằng hai chân và có bộ óc phát triển,
nhờ đó khả năng nhận thức thế giới phong phú hơn. Con người càng hoạt động nhiều thì giác
quan càng phát triển và nhận thức sâu sắc hơn.

 Thực tiễn là mục đích của nhận thức.


Con người nhận thức thế giới không chỉ để thỏa mãn trí tuệ mà để cải tạo thế giới và
phục vụ nhu cầu cuộc sống của mình. Vì vậy, thực tiễn là mục đích của nhận thức, của lý luận.
Tri thức thu nhận được trong quá trình nhận thức phải quay về phục vụ thực tiễn,
hướng dẫn, chỉ đạo và được tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Sự phát triển không ngừng
của nhận thức, của khoa học là để phục vụ sản xuất và đấu tranh cải tạo xã hội.
Thực tiễn thường xuyên vận động và phát triển nên nó đặt ra cho nhận thức những
nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng mới đòi hỏi con người không ngừng nhận thức thế giới.

 Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.


Thông qua thực tiễn kiểm nghiệm, con người sẽ xác nhận được tri thức là đúng hay
sai, đồng thời bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức từ đó nhận
thức của con người ngày càng đầy đủ, càng tiến gần đến bản chất của sự vật hơn.

31
5) Ý nghĩa phương pháp luận

Thứ nhất, vì thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức cho nên khi nhận thức chúng
ta phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên các căn cứ thực tiễn (chứ không phải trước hết xuất
phát từ các lý thuyết, lý luận). Từ các căn cứ thực tiễn, bằng cách phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa, trừu tượng hóa, mới có thể hình thành nên những tri thức khoa học về đối tượng
nghiên cứu. Mặc dù một số tri thức có thể được hình thành bằng con đường suy luận diễn
dịch từ những trí thức chung đã có, nhưng những tri thức chung ấy suy cho cũng cũng được
hình thành từ thực tiễn.

Để có được các căn cứ thực tiễn cần thiết cho nhận thức khoa học thi chúng ta cần
tiến hành hoạt động thực tiễn và phải coi trọng việc tổng kết thực tiễn.

Ví dụ, để xây dựng một chính sách mới nhằm phát triển đất nước ta thì
trước hết phải căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước ta (chứ không phải căn
cứ vào một học thuyết dù đã áp dụng thành công ở nước khác); hơn nữa chúng
ta phải thận trọng tiến hành thí điểm, thi nghiệm, thực nghiệm, đồng thời phải
có những hội nghị đánh giá, tổng kết về mặt thực tiễn.

Trên thực tế, một số chính sách được đề xuất do thiếu cân cứ thực tiến nên khi áp
dụng đã gây ra những hậu quả tiêu cực. Chúng ta cần chống bệnh giáo điều. Đây là bệnh
coi thường căn cứ thực tiễn, áp dụng máy móc lý thuyết đã có và chú trọng diễn giải những
điều có trong sách vở.

Khi nhận thức, trước hết phải dựa trên các căn cứ thực tiễn; nhưng chúng ta cần
chống bệnh kinh nghiệm. Bởi vì, bệnh kinh nghiệm là tuyệt đối hóa tri thức kinh
nghiệm, coi thường tri thức lý luận. Người mắc bệnh này thì thường thỏa mãn với tri thức
kinh nghiệm của mình; họ ngại học tập khoa học - kỹ thuật; coi thường tri thức khoa học, và
tầm nhìn hạn chế.

Thứ hai, vì thực tiễn là mục đích của nhận thức nên khi tiến hành nghiên cứu một vấn
đề nào đó thì chúng ta cần phải xác định rõ việc nghiên cứu vấn đề ấy có nhằm mục đích
phục vụ cuộc sống của con người hay không? Đối với những vấn đề mà việc nghiên cứu
tiêu tốn nguồn lực lớn thì mục đích nghiên cứu phục vụ cuộc sống của con người càng cần
phải được xác định rõ. Trên thực tế, một số đề tài nghiên cứu không có ý nghĩa thực tiễn vì
nó nghiên cứu cải mà cuộc sống không cần. Trong chương tình giáo dục và đào tạo, nhiều
môn học được đặt ra không giá trị thực tiễn, nên nhiều người sau khi học xong không tìm
được việc làm phù hợp.

Thứ ba, vì thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý cho nên khi đánh giá sự đúng sai của
một quan điểm nào đó thì cần phải dựa vào tiêu chuẩn thực tiễn (chứ không dựa vào
ý kiến của bất kỳ người nào và cũng không dựa vào nguyện vọng chủ quan của chúng
ta).

32
Trong việc quản lý xã hội, muốn biết một chính sách được đề xuất là đúng hay sai, thi
cần phải căn cứ vào hiệu quả kinh tế - xã hội của việc thực hiện chính sách ấy. Một chính sách
chỉ được công nhận là đúng khi việc thực hiện nó thực sự mang lại hiệu quả kinh tế xã hội
cao hơn. Trước khi thực hiện rộng rãi một chính sách nào đó, chúng ta cần phải thận trọng
tiến hành thử nghiệm. Nếu kết quả thử nghiệm cho thấy thực sự có hiệu quả thì mới mở rộng
việc thực hiện chính sách ấy; còn nếu kết quả thử nghiệm cho thấy không có hiệu quá, thì
kiên quyết không thực hiện hoặc chưa thực hiện. Một chính sách tuy ở giai đoạn này là đúng,
nhưng có thể ở giai đoạn khác là sai lầm, lạc hậu. Vì vậy, việc tiếp tục thực hiện hay không
thực hiện những chính sách đã từng được thực tiễn xác nhận là đúng cần phải căn cứ vào
hiệu quả kinh tế - xã hội của chúng trong từng giai đoạn cụ thể mà quyết định; nghĩa là
phải luôn luôn căn cứ vào tiêu chuẩn thực tiễn mới để điều chỉnh các chính sách đang
thực hiện.

CÂU 7: Trình bày quy luật QHSX phù hợp với LLSX. Đảng CSVN đã vận dụng quy luật
này ở nước ta như thế nào hiện nay?

1. Sản xuất vật chất – cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội

Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội
bao gồm: Sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá
trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất - cơ
sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.

Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự
nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu
cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội.

Sản xuất vật chất là hoạt động có tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính
sáng tạo.
Vai trò của sản xuất vật chất sự tồn tại, phát triển của xã hội:
- Nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội.
- Hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người.
- Cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.

Ý nghĩa phương pháp luận

- Để giải thích và giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì cần phải tìm
nguyên nhân cuối cùng là từ tình trạng phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội đó.
- “Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: Loài vật
may lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản xuất”. (F.Engels).

2. Phương thức sản xuất

PTSX: là cách thức con người thực hiện quá trình lao động sản xuất ở những giai đoạn
lịch sử nhất định của xã hội loài người. Là sự thống nhất giữa 2 thành tố LLSX & QHSX.

33
 PTSX là một chỉnh thể thống nhất bởi 2 yếu tố: nội dung của quá trình SX (LLSX) và
hình thức của quá trình SX (QHSX).
 PTSX quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất XH.
 Trong các XH có giai cấp, PTSX quyết định kết cấu giai cấp, vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch
sử của các giai cấp, tương quan lực lượng giữa các giai cấp.

 Quyết định lịch sử phát triển của XH loài người là lịch sử nối tiếp nhau của các PTSX từ thấp
đến cao: Công xã nguyên thủy  Chiếm hữu nô lệ  Phong kiến  TBCN  XHCN  CSCN.

3. Lực lượng sản xuất


- LLSX: Lực lượng sản xuất là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản
xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biến
các đối tượng trong quá trình sản xuất vật chất, tức là tạo ra năng lực thực tiễn làm biến
đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
- LLSX bao gồm các thành phần: (1) NLĐ với năng lực kỹ năng, tri thức,… của mình và
(2) các TLSX nhất định như: ĐTLĐ, CCLĐ, các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất,… Trong
đó NLĐ là nhân tố có tính quyết định còn trong các nhân tố của TLSX thì CCLĐ đóng
vai trò quan trọng hàng đầu.
- Người lao động là nhân tố chủ yếu, hàng đầu của lực lượng sản xuất, bởi vì:
o Công cụ lao động dù hiện đại đến đâu cũng phải thông qua con nguời mới tác
động được vào giới tự nhiên (cụ thể là vào đối tượng lao động) để tạo ra của cải vật chất.
o Mặt khác, trong quá trình sản xuất, con người không chỉ sử dụng công cụ lao động,
mà còn chế tạo, cải tiến bổ sung và hoàn thiện các công cụ lao động nhằm không ngừng nâng
cao năng suất lao động xã hội.
o Trí tuệ của con người là sản phẩm nhiên của lao động. Trải qua quả trình phát
triển người, trí tuệ hình thành và phát triển cùng với lao động làm cho lao động ngày càng
có hàm lượng trí tuệ cao hơn. Chính hàm lượng trí tuệ này trong lao động, nhất trong điều
kiện học công nghệ hiện nay, làm người thành nguồn lực cơ bản và vô tận của sản xuất.
- Tư liệu sản xuất bao gồm công cụ lao động (và các tư liệu phụ trợ) và đối tượng lao
động (một phận của tự nhiên).
o Công cụ lao động, theo F.Engels là “khí quan của bộ óc con người”, là “sức mạnh
của tri thức đã được vật thể hóa” có tác dụng “nối dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ
của con người, yếu tố động nhất và cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất.
o Trình độ phát triển của tư liệu sản xuất (chủ yếu là công cụ lao động) là thước đo
trình độ chinh phục tự nhiên của con người, thước đo sự phát triển của sản xuất, tiêu chuẩn
để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế, kỹ thuật trong lịch sử xã hội.
o Đối tượng lao động là 1 bộ phận của tự nhiên được đưa vào sản xuất (chỉ 1 bộ
phận của tự nhiên được đưa vào sản xuất, được con người sử dụng mới là đối tượng lao động
trực tiếp và trở thành 1 bộ phận của lực lượng sản xuất). Con người không chỉ tìm trong tự
nhiên những đối tượng lao động có sẵn, mà còn sáng tạo ra chính đối tượng lao động.

 Công cụ lao động và đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của quả trình lao động
sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Chúng là hai thành phần của tư liệu sản xuất.

34
Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, cùng với sự phát triển của sản xuất, khoa học
ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Khoa học đã phát triển đến mức trở thành
nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và trong đời sống. K.Marx dự
kiến rằng khoa học trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”, “lực lượng sản xuất độc lập”.
Quả thật, ngày nay khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, những thành tựu của
khoa học được ứng dụng nhanh chóng, rộng rãi vào sản xuất, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ
sản xuất phát triển. Có thể coi khoa học là “yếu tố thứ ba”, cùng với tư liệu sản xuất và con
người tạo thành lực lượng sản xuất.

Ý nghĩa phương pháp luận

Vì nguồn gốc sâu xa của mọi sự vận động, phát triển của xã hội là từ sự phát triển của
lực lượng sản xuất nên cần nâng cao trình độ, tay nghề cho người lao động, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất,…
Tóm lại, Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở những yếu tố cơ bản sau đây:
Thứ 1, trình độ trí tuệ, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm của người lao động
Thứ 2, trình độ ứng dụng các thành tựu của khoa học và sản xuất
Thứ 3, trình độ tổ chức, quản lý sản xuất
Thứ 4: trình độ phân công lao động
Thứ 5: trình độ của các công cụ lao động
4. Khái niệm và kết cấu của QHSX
Khái niệm và kết cấu của quan hệ sản xuất

- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và
tái sản xuất xã hội).

- Quan hệ sản xuất bao gồm:


+ Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
+ Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất.
+ Quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
- Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất và là cơ sở sâu xa của đời
sống tinh thần xã hội. Ba mặt hợp thành quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau, tạo thành
một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng
sản xuất trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định.

- Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất. Trong các hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đã từng trải qua, lịch sử đã
được chứng kiến sự tồn tại của hai loại hình thức sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất: Sở
hữu tư nhân và sở hữu công cộng.

Vai trò của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển xã hội

- Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người ta, dù muốn hay không cũng
buộc phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định với nhau. Những quan hệ này mang

35
tính tất yếu và không phụ thuộc vào ý muốn của ai cả. Đó chính là những quan hệ sản xuất.
Cố nhiên quan hệ sản xuất là do con người tạo ra, song nó tuân theo những quy luật tất yếu,
khách quan của sự vận động của đời sống xã hội.

- Trong các hình thái kinh tế - xã hội xác định, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
luôn có vai trò quyết định đối với tất cả các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ về tổ chức, quản
lý quá trình sản xuất có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và
xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể. Còn các quan hệ phân phối sản phẩm lao động, mặc
dù bị phụ thuộc vào các quan hệ sở hữu và quan hệ tổ chức quản lý quá trình sản xuất, song
do có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người, nên các quan hệ phân phối là
“chất xúc tác” của các quá trình kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và
nhịp điệu của sự sản xuất, làm năng động toàn bộ đời sống kinh tế xã hội; hoặc trong trường
hợp ngược lại, nó có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội.

- Quan hệ sản xuất còn là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các hình thái kinh tế - xã
hội khác nhau.

Ý nghĩa phương pháp luận

Muốn nhận thức đúng đắn đời sống xã hội, phải phân tích một các sâu sắc các mặt của
đời sống xã hội và các mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng, đặc biệt phải xuất phát từ những
quan hệ sản xuất hiện thực.

5. Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX (biện chứng giữa LLSX
và QHSX) (**)

Nội dung quy luật: LLSX và QHSX là hai mặt của một PTSX, chúng tồn tại không tách rời
nhau và có tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng tạo thành quy luật cơ bản của sự
vận động, phát triển của xã hội. Nó bao gồm các nội dung chính sau:

 Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX:


 Thỏa mãn nhu cầu tiết kiệm thời gian và giảm bớt sự tiêu hao năng lượng thần
kinh, cơ bắp => CCLĐ phát triển. Đồng thời với quá trình ấy, NLĐ càng phát triển về trình độ,
chuyên môn. Do đó LLSX trở thành yếu tố năng động nhất, thường xuyên biến đổi, còn QHSX
thì mang tính ổn định hơn.
 Khi LLSX phát triển đến trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn với QHSX cũ, QHSX cũ trở
thành chướng ngại vật cản trở sự phát triển của LLSX => mâu thuẫn cần giải quyết bằng cách:
QHSX cũ bị xóa bỏ và được thay thế bằng 1 QHSX mới cho phù hợp với trình độ phát triển
của LLSX và PTSX mới ra đời. Cứ như vậy, do sự tác động của đã làm cho lịch sử phát triển
loài người là lịch sử nối tiếp nhau của các PTSX từ thấp đến cao.
 MQH giữa LLSX và QHSX trong lòng PTSX được biểu hiện về mặt XH là mth gcấp:
giữa giai cấp bị trị, tiêu biểu cho LLSX tiến bộ, đại diện cho PTSX mới với giai cấp thống trị,
tiêu biểu cho những QHSX đã lỗi thời nhưng vẫn thống trị. Những mâu thuẫn này được giải
quyết thông qua các cuộc đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
Tóm lại: LLSX như thế nào thì quyết định QHSX tương ứng. LLSX phát triển đến trđộ
nào thì QHSX cũng phải phát triển phù hợp với LLSX mới.

36
 Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX
 QHSX quan điểm mục đích của quá trình sản xuất => ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
ích, lòng nhiệt tình, khả năng sáng tạo các công cụ lao động => thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát triển của LLSX.
 Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì thúc đẩy LLSX phát triển.
Ngược lại, nếu QHSX không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì kìm hãm LLSX phát
triển. Nhưng, sự kìm hãm ấy cũng chỉ mang tính tạm thời vì sự vật bao giờ cũng vận động
theo quy luật khách quan vốn có của nó cho nên nếu QHSX không phù hợp thì sẽ bị xóa bỏ
hoặc được thay thế bằng QHSX mới.
Sự tác động trở lại của QHSX đối LLSX thể hiện ở cả 3 mặt của QHSX (QH sở hữu đối với
tư liệu sản xuất; Quan hệ trong tổ chức và quản lý quá trình sản xuất; Quan hệ trong phân
phối kết quả của quá trình sản xuất).

 Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quy luật cơ bản, phổ biến
của xã hội, chi phối sự phát triển lịch sử xã hội trong mọi giai đoạn phát triển: sự thay thế các
chế độ xã hội trong lịch sử (từ chế độ công xã nguyên thủy cho đến chế độ xã hội chủ nghĩa)
đều do quy luật này chi phối và quyết định.

 Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất
- Trong giai đoạn cuối mỗi phương thức sản xuất, khi lực lượng sản xuất đã thay đổi
về chất, mâu thuần gay gắt với quan hệ sản xuất, thì cần phải tiến hành cách mạng xã hội để
thiết lập một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Trong quá trình xây dựng xã hội mới, vì lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản
xuất; do vậy, muốn phát triển kinh tế - xã hội thì trước hết phải phát triển lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối, tác động mạnh mẽ trở lại lực lượng
sản xuất, nên cần thiết phải kịp thời phát hiện và điều chỉnh những yếu tố không phù hợp
trong quan hệ sản xuất theo nguyên tắc: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.

Sự vận dụng qui luật này ở nước ta hiện nay


Trước đổi mới (trước năm 1986, trước Đại hội VI của Đảng)

Lực lượng sản xuất chủ yếu là thủ công, thấp kém; Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
trong đó hai hình thức sở hữu cơ bản nhất là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Các hình
thức sở hữu này vượt quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất.

- Kết quả: Quan hệ sản xuất kim hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất --> sản xuất trì
trệ.

Sau đổi mới:


- Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với nhiều hình thức sở
hữu khác nhau. Điều này đã tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Nghĩa là chúng

37
ta đang tiến tới chỗ tạo lập sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản
xuất.
- Hiện nay, hai nhiệm vụ quan trọng nhất có tính quyết dịnh đối với sự phát triển của xã
hội ta là:
+ Thứ nhất: Đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Một trong những mục
tiêu cơ bản của quá trình đó là xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại (đặc biệt là tư liệu sản
xuất và con người).
+ Thứ hai: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới: Về
quan hệ sở hữu; Về quan hệ tổ chức quản lý; Về quan hệ phân phối.
Nghĩa là đổi mới quan hệ sản xuất, tạo sự phù hợp của nó với lực lượng sản xuất
nhằm khai thác mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của đất nước tham gia vào phát triển lực lượng
sản xuất.
 Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phải thấy được tầm quan trọng của quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất trong
quan hệ sản xuất, nhưng không được tuyệt đối hoá nó. Một khi quan hệ sản xuất được thiết
lập thì cần phải quan tâm thực sự đến việc củng cố, hoàn thiện quan hệ tổ chức, quản lý sản
xuất, phải tìm ra những hình thức quản lý đa dạng để có thể sử dụng có hiệu quả sức lao
động, tư liệu sản xuất, nguồn vốn đất đai, tài nguyên.
- Khi tiến hành hoạt động sản xuất, cùng với việc coi trọng quan hệ sở hữu và quan
hệ tổ chức, quản lý sản xuất, không thể không tính đến quan hệ phân phối sản phẩm, tức là
phải quan tâm thoả đáng đến những nhu cầu, lợi ích đa dạng và cụ thể của người lao động.
Phải thực hiện quan hệ phân phối công bằng, đủ sức kích thích, tạo động lực cho người lao
động tích cực sản xuất, kinh doanh.

CÂU 8: Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT. Đảng CSVN đã vận dụng
quy luật này ở nước ta như thế nào hiện nay?

1) Khái niệm, kết cấu của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

 Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp lại thành cơ cấu kinh tế của
xã hội. Trong đó bao gồm:
- Quan hệ sản xuất thống trị, phản ánh bản chất của xã hội.
- Quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội trước (quan hệ sản xuất không thống trị).
- Quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội mới, phản ánh tính đa dạng, phong của xã hội.

VD: Cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản được tạo nên từ quan hệ sản xuất CNTB,
bên cạnh đó còn có sự tham gia của quan hệ sản xuất tàn dư của các xã hội cũ
(phong kiến) và quan hệ sản xuất mới (chủ nghĩa xã hội) tồn tại dưới dạng mầm
mống.

Trong một cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế, nhiều kiểu quan hệ sản xuất thì
những quan hệ sản xuất đang thống trị trong xã hội đó bao giờ cũng giữ vai trò chủ

38
đạo, quyết định và đặc trưng. Quan hệ sản xuất thống trị đó chi phối các thành phần kinh
tế và các kiểu quan hệ sản xuất khác.

VD: Yếu tố giữ vai trò chủ dạo, quyết định và đặc trưng cho cơ sở hạ tầng của
CNTB là quan hệ sản xuất TBCN, là thành phần kinh tế tư bản tư nhân.

Trong một xã hội có các giai cấp đối kháng, tính chất giai cấp của cơ sở hạ tầng là
do kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột
giai cấp bắt nguồn ngay trong cơ sở hạ tầng.

Như vậy, xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức
phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan
hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó hình
thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.

 Kiến trúc thượng tầng (cấu trúc luật pháp – chính trị của xã hội): là toàn bộ những
quan điểm, tư tưởng xã hội (hình thái ý thức xã hội) cùng những thiết chế chính trị - xã
hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định.

Như vậy, kiến trúc thượng tầng được tạo thành bởi:

 Hệ thống các quan điểm, tư tưởng (các hình thái ý thức xã hội) gồm hình thái
ý thức chính trị, pháp quyền, tôn giáo, đạo đức, triết học, nghệ thuật,

 Những thiết chế chính trị - xã hội tương ứng, như nhà nước, đảng phái, giáo
hội, các đoàn thể xã hội,… được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.

Cũng có thể diễn đạt cấu trúc của kiến trúc thuờng tầng như sau:

Kiến trúc thượng tầng = Ý thức xã hội + Thiết chế tương ứng
Chính trị Nhà nước, đảng phái
Pháp luật Tòa án
Tôn giáo Giáo hội
…… ……

Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng,
nhưng chúng không tồn tại tách rời nhau mà liên hệ qua lại, tác động lần nhau, đều nảy sinh
và phản ánh cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau với cơ sở hạ
tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng; các yếu
tố còn lại như như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với cơ sở hạ tầng (chịu
sự tác động của cơ sở hạ tầng thông qua những yếu tố trung gian như nhà nước để tham gia
việc bảo vệ, duy trì cơ sở kinh tế.

39
Trong các yếu tố tạo thành kiến trúc thượng tầng, yếu tố chính trị (gồm ý thức
chính trị, các chính đảng và cơ bản nhất là nhà nước) có vai trò quan trọng nhất, chi phối
các yếu tố còn lại trong kiến trúc thượng tầng. Do vậy, mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng còn được gọi là mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Chính trị
là biểu hiện tập trung của kinh tế.

2) Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng (quan hệ
giữa kinh tế và chính trị)

Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất trong một hình thái kinh
tế - xã hội. Trong mối quan hệ giữa chúng, cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến
trúc thượng tầng; đồng thời kiến trúc thượng tầng có vai trò độc lập tương đối.

a. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng

Thứ nhất, mỗi cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương
ứng, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó. Chủ nghĩa duy vật khẳng định rằng, tính chất của
cơ sở hạ tầng như thế nào thì tính chất của kiến trúc thượng tầng cũng như vậy. Theo đó,
mỗi một hình thái kinh tế - xã hội đều có kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng của riêng
mình (tính lịch sử - cụ thể của kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng), giữa chúng có mối
quan hệ biện chứng với nhau; trong đó, cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến trúc
thượng tầng.

VD: Cơ sở hạ tầng của CNTB (dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về
tư liệu sản xuất, do thành phần kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa giữ vai trò
chủ đạo) sản sinh ra kiến trúc thượng tầng của chủ nghĩa tư bản (với các
chính đảng và nhà nước tư sản giữ vai trò chủ đạo), Kiến trúc thuợng tầng
này bảo vệ cơ sở hạ tầng của CNTB.

Thứ hai, kiến trúc thượng tầng lệ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quy
định. Giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị mặt chính trị và đời
sống tinh thần của xã hội. Nên mọi nhà nước trong lịch sử đều là quyền lực của giai cấp có
sức mạnh kinh tế. Cụ thể, trong lịch sử xã hội loài người: Các giai cấp chủ nô, địa chủ phong
kiển, tu sản đều là những giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất, tức thống trị về mặt kinh tế, đồng
thời cũng giữ vai trò thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần.

Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực
chính trị tư tưởng, cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng
trong đời sống kinh tế. VD: Các cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân trong CNTB
chính là biểu hiện của tình trạng họ bị áp bức, bóc lột về kinh tế. Hay nói cách khác, chính
tình trạng áp bức bóc lột trong nền kinh tế chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến cuộc đấu tranh giai
cấp của công nhân chống lại tư sản.

40
Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào
cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.

Thứ ba, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng
thay đổi theo.
- Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hinh thái kinh tế - xã hội
này sang hình thái kinh tế - xã hội khác (giai đoạn cách mạng), mà còn diễn ra ngay trong
bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội cụ thể.
- Xét đến cùng, nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và do đó, kéo
theo sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Có thể diễn đạt quá trình này như sau: lực lượng sản xuất biến đổi  cơ sở hạ tầng biến đổi
 kiến trúc thượng tầng biến đổi. Nghĩa là lực lượng sản xuất trực tiếp làm biển đối cơ sở
hạ tầng, đến lượt nó, cơ sở hạ tầng biển đổi lại làm cho kiến trúc thượng tầng cũng biến đổi
theo.
- Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất
phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng
với sự thay đổi cơ sở hạ tầng, như chính trị, pháp luật,.. Song, cũng có những yếu tố thay đổi
chậm chạp, như tôn giáo, nghệ thuật,...; hoặc có những yếu tổ vẫn được kế thừa trong xã hội
mới.

VD: Vào nửa sau thế kỷ XVIII, xã hội Pháp và các nước Tây Âu do kiến trúc
thượng tầng phong kiến thống trị, trong khi quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã hình thành trong chế độ phong kiến đó. Do vậy, khi cách mạng tư
sản thành công, giai cấp tư sản chỉ tiến hành củng cố quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa với tích cách là quan hệ sản xuất thống trị.

- Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua
cách mạng xã hội.

b. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Tuy khẳng định cơ sở hạ tầng có vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng,
song chủ nghĩa Mác Lênin cũng nhấn mạnh tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của
kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.

Thứ nhất, tính độc lập tương đối của kiến trúc thượng tầng.
Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố và các lĩnh vực của nó có tính
độc lập tương đối. Sự phụ thuộc của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng
thường không trực trực tiếp và không giản đơn.

Bản thân các yếu tố, các bộ phận hợp thành của kiến trúc thượng tầng có sự tác
động qua lại lẫn nhau.

41
Thứ hai, sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
- Kiến trúc thượng tầng không phải là sản phẩm thụ động của cơ sở hạ tầng, mà
chúng có khả năng tác động trở lại rất mạnh mẽ đổi với cơ cấu kinh tế của xã hội.
- Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ
tầng. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ
tầng, bởi vì nó là thiết chế duy nhất có sức mạnh kinh tế (quyền lực nhà nước là quyền lực
của giai cấp thống trị về kinh tế) và bộ máy thống trị để tác động đến cơ sở hạ tầng.
- Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng, như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật, v.v... cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi
phối, thuờng là chúng tác động đến cơ sở hạ tầng thông qua nhà nước.
- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng khiến cơ sở hạ tầng
sinh ra nó được củng cố, duy trì và phát triển; do đó, làm cho địa vị của giai cấp thống trị
trong kinh tế càng trở nên vững chắc.
- Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, nó chi phối và trong nhiều trường hợp,
quyết định khả năng tác động của các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng đến toàn bộ
đời sống xã hội nói chung và đến cơ sở hạ tầng nói riêng.

VD: Đường lối chính trị của các đảng, nhà nước tư sản đều tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp tư nhân (thành phần kinh tế tư bản tư nhân) phát
triển, khi kinh tế tư bản tư nhân phát triển sẽ tạo điều kiện cho quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa được củng cổ, tăng cường, qua đó, địa vị thống trị của
giai cấp tư sản cũng được củng cố.

- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều:
 Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì
nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.
 Nếu tác động ngược lại, nó sẽ kim hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.

c. Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam


Trước đổi mới, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về việc cải
tạo, thực chất là xóa bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa tỏ ra không phù hợp với
các quy luật kinh tế khách quan, dẫn dến kim hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện chủ trương đối mới đất nước, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, chủ trương này phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan, nên đã thúc
đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Về chủ trương, chính sách tác động tới cơ sở hạ tầng trong giai đoạn đổi mới, Đảng ta
khẳng định:
 Chuyển đổi nền kinh tế với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang nền kinh tế
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng
xã hội chủ nghĩa.
 Phát triển nguồn lực con người, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước coi
đó là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ. Quá trình phát triển lực lượng sản xuất hiện

42
đại gắn liền với quá trình xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu,
quản lý và phân phối.
 Xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý để quản lý nền kinh tế thị trường, vận
động phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Về xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đảng ta khắng định:
Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tường, kim chi nam cho
mọi hành động Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công
nhân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lành đạo. Các tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị nhằm
phục vụ con người, thực hiện lợi ích và quyền lực thuộc về nhân dân. Hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nuớc, các tổ chức chính trị - xã hội,
đoàn thể của nhân dân. Trong đó, Đảng đóng vai trò lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ.
 Để thiết lập một kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng, Đảng ta chủ trương
không ngừng đổi mới hệ thống chính trị nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, xây dụng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức
quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.

3) Ý nghĩa phương pháp luận

 Trong nhận thức và hành động, phải thấy được vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng
đối với kiến trúc thượng tầng, của kinh tế đối với chính trị. Những thay đổi trong kinh tế là
cơ sở của những thay đổi trong chính trị. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa yếu tố kinh
tế, vì nếu tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế sẽ rơi vào chủ nghĩa duy kinh tế - chủ nghĩa duy
vật tầm thường, coi kinh tế là thi cá, chính trị là số không.
 Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần phải nhận thức rõ vai trò to lớn của chính
trị với kinh tế, song không thể tuyệt đối hóa vai trò của chính trị với kinh tế, nếu tuyệt đối
hóa sẽ rơi vào chủ nghĩa duy ý chí.

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI


LÀ MỘT QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ - TỰ NHIÊN

1. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội


Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng
để chỉ xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng lên trên những quan hệ sản xuất ấy.

2. Cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội:


Hình thái kinh tế xã hội là một xã hội cụ thể có kết cấu phức tạp, trong đó những mặt
cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt
đó đều có vai trò nhất định và tác động đến các mặt khác tạo nên sự vận động và phát triển
xã hội.

43
 Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã
hội. Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội xét đến cùng là do lực lượng
sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp
nhau từ thấp đến cao thể hiện tính liên tục trong sự phát triển của xã hội.
 Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản, quyết định tất cả các mối quan hệ xã
hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác. Mỗi
một hình thái kinh tế xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng, tương ứng với một trình
độ nhất định của lực lượng sản xuất.
 Những quan hệ sản xuất của mỗi xã hội cụ thể hợp thành cơ sở hạ tầng, trên đó
hình thành nên kiến trúc thượng tầng của xã hội, mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ duy
trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng cũ.
 Ngoài những yếu tố cơ bản trên còn có những quan hệ khác như quan hệ dân tộc,
quan hệ gia đình v.v…

3. Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên
Vì: sự vận động và phát triển của các HTKTXH tuân theo quy luật khách quan  tất
yếu  xu hướng  đây là 1 trong những cơ sở để phân biệt quan niệm duy vật về lịch sử
của triết học Mác với quan niệm duy tâm về lịch sử của triết học trước Mác.

Từ chính sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành nên HTKTXH
tạo thành các quy luật khách quan chi phối sự vận động, phát triển của các HTKTXH.

Trong các quy luật khách quan thì quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX
đóng vai trò quan trọng nhất. Nó vừa phản ánh tính liên tục lẫn tính gián đoạn trong sự
vận động và phát triển của các HTKTXH. Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của
các HTKTXH đó chính là LLSX vì LLSX mang tính khách qunan (tùy thuộc vào năng lực thực
tiễn của con ng và trình độ LLSX đã đc tạo ra bởi các thế hệ trước) dẫn đến QHSX cũng mang
tính khách quan (vì QHSX phải phù hợp với trình độ LLSX)  LLSX phát triển đến 1 trình độ
nhất định  QHSX mới được sinh ra, tạo thành CSHT mới cùng KTTT tương ứng và tác động
đến mọi mặt củađời sống xã hội phát triển, xã hội phát triển đến trình độ mới cao hơn.

Ngoài các quy luật khách quan trên đây, những yếu tố khác cũng đóng vtrò hết sức
quan trọng đối sự vận động phát triển HTKTXH  tạo nên bức tranh hết sức đa dạng, phức
tạp trong sự vận động phát triển HTKTXH tạo nên sự phát triển không đồng đều nhau giữa
các quốc gia. Cùng 1 thời điểm có thể tồn tại nhiều HTKTXH khác nhau trên thế giới. Nhưng
vì có mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau cùng với tính năng động, sáng ạo của nhân tố
con ng mà quốc gia này có thể… vì vậy trong quá trình phát triển của mình, có quốc gia có
thể bỏ qua 1 hoặc 1 số HTKTXH  Sự phát triển của các HTKTXH là 1 quá trình lịc sử - tự
nhên bao gồm cả sự phát triển tuần tự hoặc không tuần tự qua các HTKTXH. Điều đó tùy
thuộc vào từng điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia.  Chính vì vậy vận dụng quan điểm
lịch sử - tự nhiên phải gắn liền với quan điểm lịch sử-cụ thể (không thể rập khuôn, máy móc).

44
Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế xã hội
Lý luận hình thái kinh tế xã hội là hạt nhân của chủ nghĩa duy vật lịch sử cung cấp một
phương pháp luận khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội:
o Muốn giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội phải xuất phát từ bản thân thực
trạng phát triển của nền sản xuất xã hội. Đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương thức
sản xuất của xã hội với cốt lõi của nó là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.
o Muốn giải thích chính xác đời sống xã hội cần phải xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện
thực của xã hội để tiến hành phân tích các phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật, văn
hóa, khoa học…) của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
o Muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã
hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật phát triển của xã hội.

Ví dụ về quan điểm lịch sử - tự nhiên trong quá trình xây dựng XHCN ở Việt Nam
VN bỏ qua chế độ TBCN để đi lên CNXH được hiểu như sau:
Chúng ta chỉ bỏ qua CNTB chỉ với tính cách là 1 HTKTXH, 1 chế độ xh. Tức là chúng
ta k tạo ra 1 hệ thống ctrị trong đó thiểu số bóc lột đa số.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện.
Đường lối đó đã từng bước đi vào cuộc sống thể hiện sinh động trên tất cả các mặt và thu
được những kết quả bước đầu rất quan trọng.
Thực hiện công cuộc đổi mới là một quá trình vừa làm vừa học vừa rút kinh nghiệm,
bởi vì chưa bao giờ có sẵn mô hình để căn cứ vào đó mà chủ động vạch ra một chương trình
đổi mới cụ thể, chi tiết trên từng lĩnh vực.
Việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là:

Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa:
- Từ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội chúng ta nhận thức được các quy luật vận
động và phát triển xã hội, về tính tất yếu của sự thay thế hình thái kinh tế xã hội cũ bằng hình
thái kinh tế xã hội cao hơn, về xu thế tất yếu của sự ra đời của hình thái cộng sản chủ nghĩa,
mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
- Thực tế của sự hình thành, phát triển chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô với mô hình kế
hoạch hóa tập trung và cả sự khủng hoảng của mô hình kinh tế này đã giúp chúng ta nhận
thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta, Đảng ta khẳng định độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến
lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.
- Mục tiêu của chúng ta là: “xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
- “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua vực xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân

45
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
- “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về
chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp cho nên phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu
tranh giữa cái mới và cái cũ”. (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. 2001, tr.84, 85)

Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
- Trong quá trình xây dựng xã hội ở nước ta, “Đảng và nhà nước ta chủ trương thực
hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (sđd, tr.86)
- “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc” (Sđd, tr.87)
- Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù
hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của
lực lượng ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định: “Mục đích của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên
cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”.
CNH - HĐH với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
- Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao
động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của chúng ta là một nền đại công nghiệp. Chính
vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công
nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy. Phát huy những lợi thế đất nước,
tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến
hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục
và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.

46
Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời
sống xã hội:
- Gắn với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống
chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân;
phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân
tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu:
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Ý nghĩa to lớn và quá trình bền vững của học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã
hội
o Học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội đã vạch ra nguồn gốc, động lực
bên trong của sự phát triển xã hội, vạch ra cơ sở và những nguyên nhân xuất hiện và biến
đổi của các hiện tượng xã hội, làm cho xã hội học trở thành một khoa học thật sự, khắc phục
quan điểm duy tâm về lịch sử.
o Là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận để nghiên cứu các hiện tượng xã hội.
o Là cơ sở lý luận cho việc xác định đường lối cách mạng của các Đảng Cộng sản.
o Là cơ sở lý luận để phê phán các quan điểm phi mác-xít trong việc phân kỳ sự phát
triển của xã hội.

CÂU 9: Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Nêu ý
nghĩa phương pháp luận.

1) Tồn tại xã hội và ý thức xã hội

 Tồn tại xã hội: dùng để chỉ toàn bộ sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt
vật chất của xã hội. Tồn tại xã hội bao gồm phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên
– hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số,… trong đó phương thức sản xuất vật chất là
yếu tố quan trọng, cơ bản nhất.

 Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ các quan
điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, .. của cộng đồng xã hội nảy sinh từ tồn tại
xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
- Lưu ý: Ý thức xã hội và ý thức cá nhân có sự thống nhất nhưng không đồng nhất. Ý thức
cá nhân không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến của một
cộng đồng xã hội nhất định.

47
- Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái khác
nhau phản án tồn tại xã hội bằng những phương thức khác nhau. Có thể phân chia ý thức xã
hội thành các dạng:
 Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo
đức, tôn giáo, ý thức thẩm mĩ, ý thức triết học…
 Theo trình độ phản ánh: ý thức xã hội thông thường, ý thức lý luận.

o Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người
được hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hằng ngày, chưa được hệ thống
hóa, khái quát hóa. Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt của
cuộc sống hàng ngày của con người, thường xuyên chi phối cuộc sống.
o Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật.
Ý thức lý luận có khả năng phản ánh 1 cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối
liên hệ bản chất của sự vật, hiện tượng, đạt đến trình độ cao và mang tính hệ thống tạo thành
hệ tư tưởng.

 Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội:


o Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán... của con
người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của
đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó. Tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực
tiếp điều kiện sinh sống hàng ngày của con người, là sự phản ánh có tính chất tự phát,
thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội.
o Khác với tâm lý xã hội, hệ tư tưởng là trình độ cao của ý thức xã hội, nó được hình
thành khi con người nhận thức sâu sắc hơn về những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình...
Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội. Hệ tư tưởng là nhận
thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống, những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học,
đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo), kết quả của sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội.
Hệ tư tưởng được hình thành một cách tự giác, nghĩa là được tạo ra bởi các nhà tư tưởng
của những giai cấp nhất định và được truyền bá trong xã hội.
o Cần phải phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học: Hệ tư
tưởng khoa học phản ảnh chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất của xã hội. Hệ tư
tưởng không khoa học tuy cũng phân ảnh các mối quan hệ vật chất của xã hội, nhưng dưới
một hình thức sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc.

Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phần
ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối liên hệ, tác động qua lại với
nhau. Chúng có một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội
tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây trở ngại cho sự hình thành, sự truyền bá, sự tiếp thu của con
người đối với hệ tư tưởng nhất định.

Mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ tư tưởng (đặc biệt là tư tưởng khoa học, tiến bộ) với
tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc sống hết sức sinh động và phong phú sẽ giúp cho hệ tư tưởng

48
xã hội, cho lý luận bớt xơ cứng, bớt sai lầm. Trái lại, hệ tư tưởng, lý luận xã hội gia tăng yếu
tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều
hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội. Hệ tư tuờng phản khoa học, phản động
kích thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển.

Tóm lại, hệ tư tưởng xã hội liên hệ hữu cơ với tâm lý xã hội, chịu sự tác động của tâm lý xã
hội, nhưng nó không phải đơn giản “sự cô đặc” của tâm lý xã hội.

2) Tính giai cấp của ý thức xã hội


Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những hoạt vật chất khác nhau, những lợi
ich khác nhau do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy định, ý thức xã hội của giai cấp có nội
dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.

- Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm tâm trạng, thói quen riêng, có
thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hoặc tập đoàn xã hội khác.
- Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc hơn
nhiều. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có những quan điểm tư tưởng hoặc
những hệ tư tưởng đối lập nhau: tư tưởng của giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, của giai
cấp thống trị và giai cấp bị trị. Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư
tưởng của giai cấp thông trị về kinh tế và chính trị ở thời đại đó.

 Trong điều kiện xã hội ngày nay, cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnhh vực ý thức hệ vẫn
đang tiếp tục diễn ra. Trước những khó khăn và thử thách trên con đường phát triển của chủ
nghĩa xã hội, các thế lực thủ địch đang ra sức tiến công vào chủ nghĩa Mác-Lênin, muốn phủ
nhận, xóa bỏ nó. Do vậy, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin trong điều kiện thế giới
ngày nay là một nhiệm vụ quan trọng. Đó là cuộc đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam và nhân dân tiến bộ trên thế giới nói chung.

3) Mối quan hệ giữa biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

a. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, phụ
thuộc vào tồn tại xã hội. VD: các tác phẩm văn học, nghệ thuật phản ánh đời sống vật chất
của xã hội.
Mỗi khi tồn tại xã hội thay đổi, nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì sớm hay
muộn những tư tưởng, lý luận về xã hội, những quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo đức,
văn hóa, triết học… tất yếu sẽ thay đổi. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, ta sẽ thấy có những
lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau là do những điều kiện khác nhau của đời sống
vật chất quyết định.
Không phải bất kì tư tưởng nào cũng phản ánh trực tiếp những quan hệ kinh tế của
thời đại mà xét đến cùng thì chỉ những quan hệ kinh tế mới được phản ánh trong các tư
tưởng ấy.

49
VD: Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết
sức thấp kém, mọi người còn sống chung, làm chung và hưởng chung nên
chưa có quan niệm về tư hữu, chưa có ý thức về bóc lột. Nhưng khi chế độ
công xã nguyên thủy tan rã, chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia giàu
nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người cũng biến đổi căn bản; nảy
sinh và phát triển tư tưởng tư hữu, ăn bám, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân, …

b. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

 Thứ nhất, YTXH thường lạc hậu hơn TTXH


Trong nhiều trường hợp YTXH có thể tồn tại lâu dài ngay cả khi TTXH đã thay đổi (vd:
phong tục, tập quán…). Điều đó là do YTXH là sự phản ánh TTXH nên nói chung TTXH phải
biến đổi trước rồi YTXH mới biến đổi theo, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập
quán và do tính lạc hậu, bảo thủ củamột số hiện tượng YTXH, do bản thân YTXH gắn liền với
lợi ích củacác giai cấp nhất định nên thường những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các
giai cấp phản tiến bộ, phản cách mạng duy trì để bảo vệ lợi ích của mình.

 Thứ hai, YTXH có thể vượt trước TTXH


Những tư tưởng khoa học, tiên tiến có thể vượt trước TTXH, dự báo được tương lai
và có tác dụng chỉ đạo hoạt động. Tuy nhiên tư tưởng khoa học tiên tiến ấy không thoát ly
TTXH mà suy đến cùng khả năng vượt trước của YTXH vẫn phụ thuộc TTXH.

 Thứ ba, YTXH có tính kế thừa trong sự phát triển của nó


Vì YTXH không xuất hiện từ mảnh đất trống không mà trên cơ cở kế thừa những quá
trình của YTXH của các thời đại trước, nên khi giải thích một tư tưởng nào đó không chỉ dựa
vào những quan hệ kinh tế hiện có mà cần phải chú ý đến cả các tư tưởng trước đó.

VD: Pháp ở thế kỷ 18 có nền kinh tế phát triển kém hơn Anh nhưng tư tưởng
lại tân tiến hơn; nước Đức ở thế kỷ 19 lạc hậu hơn Anh, Pháp về kinh tế nhưng
có trình độ cao hơn về triết học.

Trong xã hội có giai cấp thì tính chất kế thừa của YTXH có tính giai cấp, giai cấp tiên
tiến kế thừa những tư tưởng tiến bộ, giai cấp lỗi thời thì kế thừa những tư tưởng phản tiến
bộ.

 Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Mỗi hình thái YTXH có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một
cách trực tiếp từ TTXH mà phải trong sự tác động qua lại giữa các hình thái với nhau.

Tùy từng điều kiện lịch sử có những hình thái YTXH nào đó nổi lên hàng đầu, chi phối
và tác động đến các hình thái khác nhau.

50
VD: Ở Hy Lạp cổ đại – triết học, nghệ thuật; ở Tây Âu trung cổ - Tôn giáo;
ở thời Phục hưng – văn học, ở Pháp cuối thế kỷ 18 và Đức cuối thế kỷ 19 –
Triết, Văn học là công cụ để tuyên truyền tư tưởng chính trị tiên tiến.

Trong các hình thái thì ý thức chính trị có vai trò quan trọng chi phối các hình thái xã
hội trong mọi thời đại và dân tộc. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho các
hình thái ý thức xã hội khác phát triển theo chiều hướng tiến bộ.

 Thứ năm, sự tác động trở lại của YTXH với TTXH

Đây là một biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối của YTXH. YTXH tiến bộ,
cách mạng thúc đẩy TTXH phát triển, ngược lại YTXH lạc hậu, phản cách mạng thì kìm hãm
sự phát triển của TTXH.

Vai trò của YTXH đối với TTXH, hay mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát
triển xã hội phụ thuộc vào:
 Những điều kiện lịch sử cụ thể
 Tính chất của các mối quan hệ kinh tế làm nảy sinh tư tưởng
 Sứ mệnh lịch sử của giai cấp giương cao ngọn cờ tư tưởng
 Mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với nhu cầu phát triển xã hội
 Mức độ thâm nhập tư tưởng vào quần chúng.

4) Ý nghĩa phương pháp luận


Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai mặt thống nhất hiện chứng của đời sống xã hội.
Do vậy, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên
cả hai phương diện này của đời sống xã hội.

Đồng thời, cần phải thấy rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để
thay đổi ý thức xã hội; rằng, không chỉ những biển đổi trong đời sống tinh thần của xã hội,
mà cả những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định, cũng có
thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội. Cần tôn trọng các tư tưởng
tiến bộ, khoa học, các mạng. Chống lại tư tưởng phản tiến bộ, phản khoa học, phản cách mạng.

Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận này trong công cuộc đổi mới đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Một mặt, chúng ta phải ra sức xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi trọng cuộc đấu tranh
trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã
hội đối với quả trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường dịnh hướng xã hoi chù
nghĩa, đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, phải tránh tái phạm sai
lầm chủ quan duy ý chí trong xây dựng và phát triển văn hóa, xây dựng và phát triển con
người Việt Nam.

51
Không được tuyệt đối hóa TTXH và YTXH vì nếu tuyệt đối hóa TTXH sẽ rơi vào chủ
nghĩa duy vật tầm thường, còn tuyệt đối hóa YTXH sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan.

CÂU 10: Trình bày quan điểm của triết học Mác-Lenin về con người.

Quan niệm về con người trong Triết học trước Mác:


Theo triết học phương Đông: nghiên cứu con ng chủ yếu từ quan hệ giữa ng với ng,
thể hiện tính chất nhân văn, nhân đạo, vì vậy quan điểm này được coi là có tính hướng nội,
hướng vào bên trong con ng, tìm sức mạnh từ chính bản thân con người.
Theo triết học phương Tây: nghiên cứu con ng chủ yếu đề cập đến mqh giữa con ng
với giới tự nhiên, thể hiện tính triết học hướng ngoại, tìm sức mạnh của con người qua khả
năng chinh phục giới tự nhiên.
Quan niệm trong Triết học Mác-Lenin về bản chất của con người.
Vị trí vấn đề con ng trong Tr iết học: “Vấn đề con ng là 1 trong những vấn đề trọng tâm của
việc ncứu TH nói chung, THMLN nói riêng. TH MLN xuất phát từ con người, vì mục đích con
ng, vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người và xã hội loài người”. Điều đó chứng tỏ TH
MLN là 1 học thuyết nhân đạo, mang tính nhân văn sâu sắc. Theo đó, quan điểm cơ bản của
THMLN về bản chất con người chỉ rõ:
o Con người là 1 thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội
Trong sự tồn tại của mình, bất kì con ng nào cũng đều chịu sự chi phối của hệ thống
các quy luật sau đây:
1. Quy luật sinh vật học: Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp
cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hoá...
quy định phương diện sinh học của con người.
2. Quy luật tâm lý ý thức: hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con
người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí…
3. Quy luật xã hội: quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Các quy luật trên đây tác động đến con ng trong sự liên hệ, tđộng qua lại lẫn nhau để
hthành nên: Bản chất con ng là 1 thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội.
Do sự tác động của các QLSVH và các QLTLYT đã hthành cái sinh vật trong con ng. Cái
SV dùng để chỉ cái tất yếu, khách quan cần phải có, cần phải diễn ra trong mỗi con ng, kể cả
cấu tạo giải phẫu, nhờ đó con ng mới tồn tại và hoạt động. Dưới góc độ này con ng đc hiểu là
1 bộ phận giới tự nhiên, là sp cao nhất trong quá trình phát triển giới tự nhiên.
Tuy nhiên, cái sinh vật ko tồn tại 1 cách chung chung trừu tượng mà được cụ thể hóa
thôngqua các nhu cầu tự nhiên của con ng mà nhu cầu của con ng thì hết sức đa dạng. Trong
đó nhu cầu cao nhất là nhu cầu tồn tại, để thỏa mãn những nhu cầu ấy con ng phải lao động.
Chính lđ là hđ bản chất người, là hđ chủ động, stạo, có mục đích, hthành nên pdiện XH trong
con ng. Bởi vì: (1) LĐ là nguồn gốc sâu xa của sự chuyển biến từ vượn thành người, từ tâm
lý động vật thành ythức ng. (2) LĐ là nguồn gốc của mọi văn minh vc và tt. Thông qua lao
động con người tác động vào giới tự nhiên, cải tạo nó để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao
của mình. Như vậy, con ng vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử. HĐ vừa là phương

52
thức tồn tại của conn g vừa là đk của mọi sự biến đổi xh. (3) Thông qua lđ hthành các quan
hệ xã hội, những năng lực, thuộc tính xh trong con ng.
Chính vì vậy, MÁC khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hòa các mối quan hệ xã hội”
Trong luận điểm trên “trong tính hiện thực của nó” là cái SV trong con ng, vế sau là cái
XH trong con ng. Trong đó cái SV là tiền đề, cái XH mang tính quyết định. Tiền đề vì: nhờ cái
SV mà con ng mới tồn tại. Qđịnh vì: nếu không có cái XH thì con ng mới chỉ thể hiện mình là
1 SV mà thôi.
Nhưng mặt khác, cái SV không tồn tại 1 cách thuần túy, tự nó, mà đã bị cái XH quy định,
bị XH hóa và mang tính XH. Hơn nữa, nhu cầu tự nhiên luôn biến đổi nhu cầu XH cũng biến
đổi theo. Vì vậy bản chất con người bất biến mà cũng bđổi cùng với sự ptr của xh. Trên thực
tế, ncầu của con ng thường lớn hơn so với lợi ích mà xh đáp ứng Do đó, để giải quyết nó
đã hthành nên đời sống nội tâm trong mỗi con ng, buộc con ng phải day dứt, dằn vặt, giằng
xé để điều chỉnh các hhành vi trong đời sống để hoàn thiện bản chất của mình.

 Tóm lại, bản chất con người là thế thống nhất giữa cái sinh học và cái xã hội, chúng ta
không được tuyệt đối hóa mà phải xem xét chúng trong sự thống nhất với nhau.

Luận điểm “Con ng vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử”
Không có giới tự nhiên, không có lịch sử thì không có sự tồn tại của con người, vì vậy
con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song điều làm
con ng khác hẳn về chất với con vật đó là con ng luôn là chủ thể của lịch sử xã hội. Loài vật
chỉ tồn tại dựa vào những điều kiện có sẵn của giới tự nhiên, còn con ng thông qua hđ của
mình không chỉ t/động vào tự nhiên, còn cải biến, làm phong phú thêm giới tự nhiên, thúc
đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Do đó ko có hđ của con ng thì cũng không tồn
tại quy luật xã hội cũng như tất cả lịch sử loài ng. Con ng là sp của ls đồng thời là chủ thể
sáng tạo ra lịch sử của chính mình thông qua quá trình cải biến tự nhiên.

 Vận dụng quan điểm của THMLN về con người trong bối cảnh Việt Nam hiện nay:
- Xem trọng cả phần xã hội lẫn tự nhiên trong conng, chăm sóc đời sống tinh thần, vật chất…
- Đánh giá con ng 1 cách toàn diện, chú trọng phát triển nguồn nhân lực…
- Xây dựng con ng VN phát triển toàn diện, giáo dục con ng hướng đến vừa “hồng” vừa
“chuyên”, phát huy nhân tố con ng trong sự nghiệp CNH-HĐH và xây dựng XHCN…
- Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh
ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên
và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có
tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận
hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác
nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất
trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất.
Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào
của lịch sử xã hội loài người.

53

You might also like