Professional Documents
Culture Documents
Betong Phun Shortcrete
Betong Phun Shortcrete
Bêtông phun
(Shortcrete)
Tác giả: Elwyn H. King,
Cộng tác viên chuyên môn chính (đã nghỉ hưu)
của tập đoàn Parsons Brinckerhoff Quade & Douglas, Inc.
Biên dịch: KS. CN. Nguyễn Đức Toản
Bài đã đăng trên Tạp chí Cầu Đường Việt Nam tháng 12 năm 2002
bong ra khi mới xuất hiện áp lực đá nhỏ, do đòi trong lỗ vữa đã được chứng minh trong địa tầng rất
hỏi phải phun thành các lớp mỏng vì có độ dính nặng, đá schist sericite (mica trắng chứa kali) đã
bám kém, và do co ngót quá nhiều gây bởi lượng mylonit hóa dẻo mềm, nơi mà hệ vì chống thép
dùng ximăng cao. Đã có một vài ứng dụng thành thông thường kết hợp với hệ thanh gia cố vượt
công được ghi nhận, như việc dùng nó kết hợp với trước (forepoling) bằng thép đã thất bại
neo bulông tại một hầm ở Mỹ năm 1952, và tại (Rabcewicz, 1964).
một hầm thứ hai do Keifer báo cáo năm 1966.
Năm 1967, một đoạn hầm được đào qua sỏi
Sự phát triển ở châu Âu phần lớn giống như tại chưa cố kết cho xe điện ngầm Milano (Italy), gây
lục địa Mỹ này, mặc dù các tài liệu của châu Âu đề lún bề mặt ít hơn so với đã xảy ra đối với một hầm
nghị chế độ kiểm soát chất lượng gắt gao hơn. Sau bên cạnh theo phương pháp khiên đào.
Thế chiến II, người ta tập trung vào phát triển hệ
thống ngầm như là một sự cần thiết kinh tế tại một Trong khi đó, sự phát triển song hành của kỹ
loạt các dự án thủy điện và kỹ thuật khác có liên thuật bêtông phun cũng diễn ra trên bán đảo
quan ở các quốc gia thuộc dãy Anpơ (Áo, Thụy Sĩ, Scandinavia. Những dự án lớn đầu tiên ở Thụy
và Bắc Italia) và Thụy Điển. Năm 1952, vữa phun Điển là tại các nhà máy thủy điện Holjes (1958-
được sử dụng thành công như một hệ chống và vỏ 60) và Lossens (1959-69), và ở Na Uy, tại nhà
hầm duy nhất cho các hầm áp lực và hầm không áp máy thủy điện Tokke (1963) (Karlsson and Fryk,
khi xây dựng hệ thống thủy điện Maggia của Thụy 1963). Xu hướng ở Thụy Điển là dùng bêtông
Sĩ. phun không có cốt thép, không có lưới thép, hay
các bộ phận chống đỡ hầm truyền thống khác.
Một vài năm sau người ta chứng kiến sự phát Khoảng năm 1965-66, Nhật Bản có vẻ cũng đã gia
triển của bêtông phun, hay "shotcrete". Các thiết bị nhập trào lưu, mặc dù có ít các báo cáo bằng tiếng
có khả năng phun cốt liệu 25mm được chế tạo, Anh về các kinh nghiệm đầu tiên của họ.
giúp cho có thể trộn ximăng với cốt liệu mà không
cần xử lý trước, và khiến cho có thể kiểm soát Bắc Mỹ tụt lại phía sau, có lẽ do họ có một
được khối lượng ximăng cần dùng. Loại phụ gia nguồn cung cấp khổng lồ về các vật liệu chống đỡ
cải thiện đông cứng và thúc đẩy ninh kết cũng ra thay thế có tính kinh tế. Kinh nghiệm đầu tiên về
đời, cho phép phun bêtông thành từng lớp dày, công trình ngầm có sử dụng bêtông phun cũng đã
trên những bề mặt ướt, và khống chế dòng nước để lại mối nghi ngờ chung trong giới kỹ sư và các
thấm khá lớn. nhà thầu về tính hoàn hảo của phương pháp, và
đến nay sự nghi ngờ vẫn tồn tại. Các ứng dụng
Ở Áo, các máy phun bêtông cốt liệu lớn được sớm của bêtông phun tại Bắc Mỹ gồm có Hầm
chế tạo, và chức năng của bêtông phun trong việc Đường sắt Quốc gia Canada (Mason, 1968), Hầm
hạn chế sự rão rời của đá không ổn định về hóa No.1 Tehachapi (Cecil, 1970), Hầm Balboa
học cũng như về cấu trúc đã được chứng minh tại (Blanck, 1969), và Hầm Lucky Friday (Miner và
dự án Prutz-Imst (1953-54) và tại Schwarzach Hendricks, 1969).
(Los Birql, 1955-58) (Rotter, 1960). Tính hiệu quả
của nó được thể hiện hơn nữa trong địa chất trượt Tóm lại, hiệu quả của bêtông phun chống lại sự
không đồng nhất không cố kết và trong đất ướt, phá hoại của đất đá đã được chứng minh trong rất
mềm tại Serra Ripoli và Monastero (Italy) (Zanon, nhiều điều kiện địa chất.
1962). Trong những năm 1960-62, bêtông phun
của một trong hai hầm ôtô song song ở Planicia, Các dự án dùng bêtông phun đầu tiên đã sử
Venezuela, đã chặn đứng hay chống lại sự rão rời dụng quá trình trộn khô. Việc dùng bêtông phun
đất và giữ cho hố đào ổn định trong 12 tháng, trộn ướt bắt đầu giữa những năm 1960. Nghiên
trong khi đó tuyến hầm đôi khác được chống theo cứu sử dụng sợi thép trong bêtông phun bắt đầu
cách truyền thống đã gặp phải phá hoại cục bộ do cuối những năm 1970. Việc sử dụng đại trà bắt
tải trọng tăng dần (Rabcewicz, 1964). Tại dự án đầu vào đầu những năm 1980 và gia tăng chậm vì
kho trữ đã tháo nước Kaunertal (Áo) năm 1962-63, có nhiều vấn đề phải vượt qua và rồi sự chấp nhận
hiệu quả của bêtông phun kết hợp với neo bulông tăng lên. Động lực cho sự phát triển này có từ phía
Page 2 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
các nhà thầu và do có những vấn đề về lắp đặt các Sau đó có một đoạn đào thử dài 60m. Một dòng
lưới thép hàn. Sự phát hiện ra lợi ích của việc cho nước xuất hiện trong khối cuội kết làm trôi ra một
thêm bọt Silic đioxit (silica fume) vào hỗn hợp loạt sỏi cuội và theo sau là sự chảy nhỏ giọt nước
bêtông phun là vào năm 1983. Trong vòng ba năm, đứt quãng. Sau khi phun 30 phút, bêtông bắt đầu
sử dụng đại trà bắt đầu và tăng triển vững chắc. dính bám vào đất. Theo sau đoạn đào thử nghiệm,
công việc đi vào quỹ đạo, với việc khoan các chu
kỳ có 110 lỗ mìn, chiều dài 3m; nổ mìn; phun một
lớp bêtông dày 5cm lên vòm sau khi nổ mìn 45
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ XÂY DỰNG phút và phun từ một sàn di dộng vươn qua đống đá
thải, tiếp tục phun lớp bêtông đó cho tới đủ chiều
Các trường hợp cụ thể hầu như luôn luôn được dày 15cm trong chu kỳ xúc dọn đá thải; sau đó
phân tích kỹ. Những trường hợp nói tới sau đây, phun bêtông cho tường hầm tới chiều dày 10cm
được chọn trong vô số công trình đã hoàn thành, trong chu kỳ khoan tiếp theo.
sẽ đại diện như là những mốc lớn hay chứng minh
tính chất đa dụng của bêtông phun.
Page 3 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
sườn vòm nghiêng và phun bêtông sớm để tránh sự Chuyển vị lệch đáng kể theo phương ngang có
yếu đi của đá. Phải công nhận rằng các lớp sét thể xảy ra giữa các tường và đỉnh vòm, ước tính từ
mỏng, bùn, và mica có thể gây ra sự dính bám tồi 10 đến 20 cm. Nó có thể xảy ra ngay phía dưới
của bêtông, và rằng ứng suất ngang lớn có thể sinh mặt dưới của vòm phẳng theo mặt phẳng tựa yếu
ra các vụ trượt mặt phẳng xếp lớp, đặc biệt là tại nhất. Việc phun bêtông ban đầu được tiếp tục,
hoặc gần cao độ vòm mái và vòm đáy. vượt qua chỗ nối đỉnh vòm - cánh vòm. Việc tập
trung ứng suất trong lớp ban đầu của đỉnh vòm đủ
Việc đào buồng ngầm bắt đầu từ gương lò đỉnh để phá hỏng cục bộ bêtông phun tại sườn vòm.
trung tâm có nhịp mái phẳng 8m. Theo sau là các Các vùng bị phá hoại được bỏ đi và thay thế nếu
vết cắt rạch bên cho và dưới các sườn vòm 450 tại cần thiết trước khi phun lớp bêtông hoàn thiện.
các Gian Biến thế và Gian Máy. Phần còn lại của Việc làm vỏ hầm hoàn thiện cho mái vòm được lui
Gian Máy được đào theo một loạt chín bậc thềm lại cho tới khi đào xong 6 trong số 9 bậc thềm
có bề dày lớn nhất 3.6m. Các gian hầm khác cần nhằm cho phép hầu hết chuyển vị chênh lệch kết
đào số bậc thang ít hơn. Các thanh thép ¿25mm thúc. Một đường xoi liên tục được để lại trong lớp
được dùng để gia cố đá; các bulông neo đầu tiên này, kéo dài 30 cm về mỗi phía của mối nối. Việc
dài 6m, sau đó là 3m. Sơ đồ neo trên mái nói trát kẽ hở chỉ được thực hiện khi vỏ tường hầm đã
chung là 1.2m x 1.2m áp dụng cho cả hai loại neo. xong và mọi chuyển vị đã kết thúc.
Sơ đồ neo trên tường chủ yếu là 1.5m x 1.5m,
cũng với hai loại chiều dài neo và các thanh neo
được đặt xiên góc lên hay xuống (khoảng 300)
theo các hàng so le nhau theo chiều đứng. Hầm Đường bộ Du Toitskloof. Các đặc điểm
đáng giá của hầm này là việc dùng phương pháp
Thường thì lắp đặt neo tiến hành trước phun đóng băng để ổn định hóa ban đầu cho một phần
bêtông. Tuy nhiên, lớp bêtông đầu tiên đã phải duy chiều dài của nó, và việc phun bêtông lên tường
trì trong vòng 7.6m kể từ gương đào và phải phun đất đã đóng băng để làm vỏ hầm vĩnh cửu. Hầm
trong vòng 48 giờ sau khi đào. Lớp bêtông ban đầu dài 4km và nằm cách khoảng 64km về phía đông
mỏng 5cm sẽ tăng tới 9cm. Nó được gia cường và Capetown, Nam Phi.
chứa 2.75% chất tăng đông cứng (theo khối lượng
ximăng). Lớp ấy có thể không dính bám nếu lượng Gần như 150m phía tây của đường hầm là đào
phụ gia ít hơn, và bất kỳ lượng lớn hơn đáng kể qua đá cứng mà không có biến cố gì xảy ra, toàn
nào cũng có thể gây suy giảm cường độ tới hạn. bộ hầu như là đá granit; chiều dày lớp đất phủ lớn
Cường độ quy định tại 28 ngày tuổi là 300 kg/cm2. nhất là 730m phía trên nóc hầm sau khi đào có
nhịp là 12.8m. Phần hầm phía tây đang xét đến ở
Bản mặt của neo có một "con nhện" đặc biệt đây có mặt gương là đá granit bão hòa, hoàn toàn
cấu tạo từ 4 thanh thép mềm (thép cácbon thấp) phá hoại dài hơn 120m, phần còn lại là các mặt
No.3 dài 1.2m liên kết hàn. Các chân chìa được để gương xen kẽ giữa granit phân hủy, phong hóa và
hướng xuống dưới nhằm tránh hiệu ứng màn chắn nguyên trạng. Lớp phủ dày 7.6m tại cổng hầm,
khi phun lớp bêtông đầu tiên. Lưới thép hàn hở tăng lên tương đối đều đặn tới hơn 49m ở cuối
(20x20cm @ 3.0 kg/m2) được đặt giữa các lớp đoạn hầm địa chất yếu. Mực nước ngầm tự nhiên
bêtông ban đầu và cuối cùng, và các chân nhện tăng từ cao độ nóc hang khoảng 12.2m tại cổng
được uốn cong để đi song song theo các lớp phun. hầm tới khoảng 45.7m tại cuối đoạn hầm
(Lawrence, 1982).
Lớp hoàn thiện (nhỏ nhất 5cm) có nhiều vấn đề
hơn so với lớp ban đầu vì ở lớp này không cho Một hầm thăm dò 10m2 được đào toàn chiều dài
phép dùng phụ gia thúc đẩy ninh kết. Kết quả là khoảng 36.6m cách tim hầm tương lai năm 1979
các lớp dưới phải giới hạn chiều dày ở 2.5cm trên để xác định chi tiết các điều kiện địa chất. Có rất
phần đỉnh vì nếu lớp ban đầu dày hơn có thể nhiều vấn đề khi đào qua đá granit phân hủy nằm
không kịp đông cứng để dính bám. Đôi khi, có thể dưới mực nước ngầm tại khu vực cổng hầm, bao
cần tới 4 lớp, tất cả đều được thực hiện trong một gồm các chỗ đất sụt và không thể chống giữ đất
thao tác toàn bộ như nhau. bằng vòm thép và ván chắn. Đã phải dùng phương
Page 4 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
pháp đóng băng đất cục bộ để ổn định hóa đường Anpơ, và lớp cuối cùng 10cm lại có lưới thép nặng
hầm nhỏ bé này. uốn cong trước.Việc buộc các lưới thép khá là khó
khăn.
Một việc làm thử mang tính lý thuyết được tiến
hành trong giai đoạn đấu thầu bởi nhà thắng thầu
đã chỉ ra rằng một lớp bêtông phun dày 5cm phun
ở nhiệt độ 1000F (37.80C) lên một bề mặt bảo Hầm Eo biển Anh (English Channel Tunnel)
dưỡng ở -40F (-200C) có thể có nhiệt độ 320F
(00C) trong vòng 5 giờ. Tương tự, một lớp 10cm Việc đào các buồng ngầm giao nhau lớn được
có thể mất 10 giờ, và lớp 20cm mất 40 giờ. Một mô tả trong Chương 7 phần "Các Phương pháp
thử nghiệm hiện trường với một mô hình đoạn Đào". Bêtông phun đã được dùng để làm ổn định
hầm ngắn có kích thước thật, đắp đằng sau là đá các hang nhỏ bằng máy đào hầm kiểu cắt gọt và
granit rã rời xáo trộn, duy trì tại -200C có khí nitơ tiếp đến là các phần mở rộng tới kích thước thiết
dạng khí trong các ống lồng làm lạnh, cũng chứng kế.
tỏ một kết quả làm nản lòng, bởi vì tiêu chuẩn
cường độ nén 280 kg/cm2 không thể đạt được, cho
dù sử dụng hỗn hợp trộn khô hay ướt và đã đáp
Hầm Hồ Treo (Hanging Lake Tunnels)
ứng đúng tiêu chuẩn.
Cũng được đề cập trong cùng phần của Chương
May thay, nhiệt độ dự kiến và các vấn đề về
7, neo đá và bêtông phun được sử dụng để chống
cường độ đã không thành hiện thực khi thi công
đỡ ban đầu cho các hầm khoan-nổ phá này. Những
thực tế, và cường độ bêtông yêu cầu luôn luôn đạt
hầm khác xây dựng gần đây có dùng bêtông phun
được. Có một số lý do giải thích cho điều này. Lớp
và neo bulông làm kết cấu chống đỡ gồm có Hầm
granit xáo trộn phía sau hiển nhiên là chứa nhiều
Đường bộ Trans-Koolau trên tuyến Liên bang H-3
nước hơn vật liệu thật tại chỗ, gây ra độ lạnh tổng
trên đảo Hawaii và Hầm Đường bộ Cumberland
thể nhiều hơn; nước biển chứ không phải nitơ
Gap cho Dịch vụ Công viên Quốc gia ở
được dùng như là tác nhân làm lạnh trong hầm
Tennessee. Cả ba hầm đều dùng sợi thép và
thực, và tỷ số giữa năng lực làm lạnh và năng lực
microsilica làm cốt cho bêtông phun và được thiết
sinh nhiệt của bêtông phun là hoàn toàn khác nhau
kế bởi cùng một hãng.
đối với hai loại tác nhân. Một lượng ximăng cao
hơn 10% (450 kg/m3) được dùng trong hầm thực
so với đoạn hầm thử nghiệm, và bề mặt đào bắt
đầu ấm lên ngay sau khi đào xong. Cuối cùng, giá
trị cách nhiệt của bêtông phun là khá cao do đó lớp
đầu tiên hy sinh 5cm đã cho phép các lớp còn lại 2. BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG
được bảo dưỡng ở nhiệt độ gần với nhiệt độ trong
hầm.
Những phần mở rộng cho các hốc khoan dài Một số tiêu chuẩn ASTM, khi được trích dẫn,
7.6m được đặt cách nhau 30m. Tại đó vòng đóng sẽ góp phần đáng kể vào việc đảm bảo chất lượng
băng có bề rộng tối thiểu 2m. Chiều dày vỏ hầm vật liệu, cung cấp các phương pháp thí nghiệm tiêu
yêu cầu là 66cm trong khoảng dài 7.6m gần cổng chuẩn hóa, và quyết định các đặc tính độ bền của
hầm, và dày 46cm tại các chỗ khác. Đoạn cổng thành phẩm. Chúng được liệt kê dưới đây để tiện
hầm có các vì chống thép chữ H 75x75 mm cách cho việc tham chiếu có viết tắt sau này và sẽ được
nhau 1m; đoạn điển hình có các vòm chống kiểu thảo luận khi nào thích hợp. Một vài tài liệu của
Anpơ nhỏ hơn (mặt cắt hình chuông) đặt cách Viện Bê tông Mỹ (ACI) cũng có ích và cũng được
quãng tương tự. Bêtông của đoạn điển hình được liệt kê.
phun làm 4 lớp, lớp đầu tiên 5cm chứa một lưới
thép nhẹ (lưới thép hàn), một lớp 10cm có lưới
nặng uốn cong trước, lớp 20cm có vòm thép kiểu
Page 5 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
Các Tiêu chuẩn của Hội Thử nghiệm và Vật 506.1R Báo cáo hiện trạng về Bêtông
liệu Mỹ (ASTM) phun Cốt Sợi thép
Các tiêu chuẩn sau đây giúp đảm bảo chất 506.3R Hướng dẫn về Chứng chỉ cấp
lượng của nguyên liệu (sáu tiêu chuẩn nổi tiếng cho Công nhân phun Bêtông
cho bêtông và thép không nêu ở đây):
544.2R Đo lường các Tính chất của
A820 Sợi thép cho Bêtông Cốt Sợi thép Bêtông Cốt Sợi thép
C1018 Độ bền dai chống Uốn và Cường độ Chỉ dùng một loại ximăng cho một dự án
của Bêtông Cốt Sợi thép có Vết nứt-Đầu tiên để tránh sự lẫn lộn do vận chuyển.
(Dùng Dầm với Ba Điểm Chất tải)
Các cỡ hạt nghiền mịn hơn của Loại 1
C1102 Thời gian Ninh kết của Hồ Ximăng được ưa dùng
Portland Chứa Phụ gia Tăng Đông cứng cho
Bêtông phun Loại 2 bình thường thì không cần thiết cho
bêtông phun khi nhiệt thủy hóa thấp nhưng
C1116 Tiêu chuẩn kỹ thuật về Bêtông Cốt có thể dùng nếu cần có tính kháng sunfat
Sợi thép và Bêtông phun vừa phải.
C1117 Thời gian Ninh kết của Hỗn hợp Loại 3 (để có cường độ cao sớm) nói chung
Bêtông phun thử bằng Độ kháng Xuyên không được khuyến cáo. Sự bắt đầu và kết
thúc ninh kết được thúc đẩy thường đòi hỏi
C1140 Chuẩn bị và Thử các Mẫu lấy từ Tấm tại những vùng ẩm ướt và ở phía trên đầu
Mẫu thử Bêtông phun hơn khả năng của bản thân Loại 3. Nhiều
loại phụ gia thúc đẩy đông cứng không
tương hợp với Loại 3.
Các Ấn phẩm của Viện Bêtông Mỹ (ACI) Loại 4, sản xuất nhằm sinh ít nhiệt thủy
hóa trong bêtông khối lớn (nhờ ninh kết từ
506R-90 Chỉ dẫn về Bêtông Phun từ), không phù hợp với bêtông phun.
506.2 Tiêu chuẩn kỹ thuật về Vật liệu,
Cấp phối, và Phun Bêtông phun
Page 6 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
Loại 5 chấp nhận được khi cần có tính không có microsililca, thường quy định 2% (theo
chống sunfat cao. khối lượng ximăng) như là lượng dùng tối thiểu để
có tính năng đạt yêu cầu; có thể cần tới 5% đối với
vòm hầm; tối đa không được vượt quá 8% ngay cả
dưới điều kiện đất rất ướt. Các lớp bêtông bổ sung
Cốt liệu sẽ đòi hỏi ít phụ gia tăng cứng hơn do có bề mặt
phun tốt hơn và độ ẩm bề mặt đã giảm đi. Một vấn
Các cốt liệu phải có cấp phối đều và có độ bền. đề hay gặp phải khi dùng số phần trăm phụ gia cao
Cấp phối ACI 506-2 No.2 là thông dụng nhất là sự suy giảm cường độ trong tương lai xa. Khi
trong ứng dụng công trình ngầm bình thường. Cấp microsilica là một phần không thể thiếu trong hỗn
phối No.1 là chấp nhận được đối với lớp phun làm hợp, các lượng phần trăm nói trên sẽ được giảm đi
nhẵn; Cấp phối No.3 cũng có thể chấp nhận, đặc đáng kể; chất thúc đẩy ninh kết không được dùng
biệt khi cần có các lớp dày hơn, hoặc khi nó được cho các bề mặt gần như thẳng đứng sau khi phun
dùng giống như bêtông thường. lớp ban đầu, và có thể không cần sau đó nữa, phụ
thuộc vào chất nền. Lớn hơn 2% rất hiếm khi cần
Các cấp phối ACI 506-2 được thể hiện trong
thiết cho vòm hầm. Một vấn đề khác của chất tăng
Bảng 12-1 và vẽ như hình 12-1.
đông cứng là tính ăn da, nó làm sạm da. Điều này
Một loại vật liệu minh họa đơn giản cho cốt đặc biệt đúng trong giai đoạn trước đây, khi chất
liệu nhỏ là "cát bêtông" với cấp phối đã điều tăng đông cứng dạng bột được đong đếm bằng
chỉnh. Chú ý Bảng 12-1 rằng 70 đến 85% của tổng xẻng gỗ xúc đầy! Ký ức khó chịu này vẫn còn
lượng cốt liệu thông thường đều là cốt liệu nhỏ. được đề cập tới trong các quy trình. Một chất thúc
Một cốt liệu thô sắc thì được ưa chuộng hơn, song đẩy ninh kết dạng lỏng không ăn da dựa trên silica
cốt liệu tròn cũng chấp nhận được. Cốt liệu có tính (silic đioxyt) đã được chế tạo, và việc sử dụng nó
chất phản ứng không được phép sử dụng. đang tăng lên nhanh chóng. Các loại chất tăng
đông cứng không ăn da khác cũng đang được phát
triển.
Page 7 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
dẻo, độ bền dai, và cường độ dư thường được đáp thận trọng đặc biệt khi dùng đến giới hạn biên trên
ứng nhờ đưa các mẩu ngắn, mỏng của dây thép do silica có xu hướng tăng co ngót và, do đó, tăng
hoặc thép lá vào hỗn hợp. Khi yêu cầu chủ yếu là khả năng nứt. Các yêu cầu chính đối với
giảm tính thấm bằng cách hạn chế số lượng và microsilica là (ASTM C1240):
chiều rộng khe nứt co ngót, thì có thể dùng sợi
polypropylene, khi có thể để đáp ứng các yêu cầu 1. Lượng SiO2, nhỏ nhất là 80% (chứ không
về độ bền và ứng suất dư. phải 85% như trong các quy trình hiện tại)
Có bốn loại sợi thép: dây thép kéo nguội, thép 2. Lượng sót trên sàng No. 325, nhỏ nhất là
tấm cắt rời, thép tách nhờ nấu chảy, và các loại 10%
khác (ASTM-C820). Chỉ có hai loại đầu được xem
là thích hợp cho bêtông phun làm công trình ngầm. 3. Mất mát do đốt cháy lớn nhất 2%
Ban đầu, có hai nhân tố làm chậm sự ứng dụng 4. Độ ẩm lớn nhất 3%
thành công của sợi thép. "Sự làm tổ chim" hoặc
"sự vón thành cục tròn" của các sợi thép rất hay 5. Kiểm soát nhỏ nhất 85%, chỉ số hoạt tính
xảy ra, và sợi thép có xu hướng bị lôi ra khỏi pozzolan tăng ninh kết với ximăng Portland
bêtông mà không đạt được hiệu quả mong muốn tại 7 ngày
khi xảy ra nứt. Trục trặc thứ nhất được giải quyết
6. Độ hấp thụ đun sôi lớn nhất 6% trên mẫu
bằng cách giữ cho tỷ số hình dạng (chiều dài chia
bêtông phun
cho đường kính hiệu dụng danh nghĩa) trong phạm
vi rạch ròi từ 40 đến 80; gần đây, các sợi có độ dài Bụi tro được dùng thay cho ximăng trong
từ 20 đến 40mm. Sức kháng tốt chống lại sự tuột bêtông có tác dụng tốt. Nó cũng có thể dùng trong
sợi thép nhận được bằng cách tạo gờ cho nó, có bêtông phun cho công trình trên mặt đất khi không
thể bằng sự chồn hay uốn các đầu sợi thép, hay đòi hỏi phải ninh kết nhanh. Tuy nhiên, đối với
bằng cách gấp nếp hoặc tạo các sọc dọc theo chiều ngầm dưới đất, tính hay thay đổi và tác động xấu
dài sợi. có thể của nó đối với sự đông cứng khiến người ta
không muốn khuyến cáo sử dụng nó.
Sự quy định sợi thép bằng số kilôgam trên mét
khối là không hợp lý do có những khác nhau lớn "Tính dính" của bêtông phun có được nhờ
về các tính chất kỹ thuật của các loại sợi. Tiêu microsilica có một giá trị đặc biệt đối với tất cả
chuẩn kỹ thuật về tính năng - quy định độ mềm các lớp trên trần và ít nhất là đối với lớp đầu tiên
dẻo (độ bền dai) và các yêu cầu về ứng suất dư - sẽ trên tường khi đá gốc có tính ẩm ướt cố hữu bởi
phải được áp dụng. các dòng nước cục bộ.
Page 8 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
Page 9 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
nhiều mẫu hình trụ có tuổi như vậy không được bơm được), hay ít hơn (hoặc có thể nhiều hơn) đối
đưa ra. với đợt trộn đầu tiên của bêtông trộn khô do những
điều chỉnh yêu cầu bởi lượng nước có trên bề mặt
Độ bền liên kết rất khó quy định do sự khác cần phun. Thử nghiệm trong giai đoạn làm thử tại
nhau lớn giữa hỗn hợp khô và ướt. Sự liên kết ở hiện trường có thể cho ta một số chỉ dẫn về những
đây không phải là với cốt thép, như trong bêtông thay đổi.
thường, mà là liên kết giữa các lớp bêtông phun
liên tiếp nhau để đảm bảo rằng tất cả các lớp thực Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng,
hiện chức năng một cách trọn vẹn về mặt cường công nhân thực hiện việc phun là nhân tố kiểm
độ. Dữ liệu thì sơ sài, nhưng theo ACI 506R, khi soát cuối cùng về chất lượng bêtông phun. Hầu hết
đo sức chống cắt nó sẽ thay đổi từ 8 đến 12% thời gian anh ta làm việc dưới những điều kiện rất
cường độ nén đối với hỗn hợp khô, nhưng chỉ một khó khăn, đặc biệt là trong những hầm nhỏ; kỹ
nửa cỡ đó đối với hỗn hợp ướt. Khi một lớp mới thuật phun của anh ta sẽ quyết định độ chặt, độ
được phun trong vòng 24 giờ của lớp cũ, độ bền dính bám, và chất lượng. Dù sao, sản phẩm tại chỗ
liên kết thường không phải là một vấn đề. cuối cùng nói chung sẽ nằm trong những giới hạn
chấp nhận được.
Cường độ uốn của bêtông phun thường trong
khoảng 10 tới 28 ngày bằng độ 15 đến 20% cường
độ nén. Do đó, hiện tượng bêtông phun "xanh"
(nghĩa là "non", "tươi", hoặc đã bảo dưỡng một
phần) có tính dễ uốn hơn khi tuổi còn thấp và sẽ
dão ra, rồi mất mát cường độ, cần phải được ngiên 5. TRỘN ƯỚT HAY TRỘN KHÔ?
cứu về mặt định tính.
Page 10 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
điều kiện địa chất. Tại hội nghị năm 1991 của ủy nước/ximăng (N/X) của sản phẩm. Các thiết bị
ban bêtông phun của Hiệp hội Xây dựng Hầm hiện nay có thể phun được cỡ cốt liệu lớn nhất là
Quốc tế (ITA), các văn kiện và thảo luận cho thấy 20mm. Hơn nữa, những phương pháp thành công
rằng, Na Uy khi đó hầu như chỉ sử dụng hỗn hợp đã được phát minh để đưa các phụ gia tác dụng-
ướt mà thôi và Thụy Điển sử dụng hỗn hợp ướt nhanh tới ống dẫn. Việc bơm bêtông có độ sụt bé
nhiều gấp ba lần hỗn hợp khô. Cả hai quốc gia chủ thường là một vấn đề, và do vậy một lượng nước
yếu dùng chiều dày tổng cộng từ 10 tới 20cm. Mặt nhiều hơn yêu cầu một chút được sử dụng. Nhờ
khác, Đức lại hầu như chỉ sử dụng hỗn hợp trộn dùng phụ gia tăng ninh kết, bêtông như vậy có thể
khô, và Áo định hướng mạnh mẽ tới sử dụng được tạo ra để dính bám vào mặt trần, nhưng
bêtông trộn khô. Hai nước này cũng sử dụng chiều thường thì cường độ cao nhất có thể chịu thiệt.
dày vỏ hầm từ 20 đến 40 cm, về cơ bản có các Tuy nhiên, phương pháp này cho thấy rằng khá
kích thước giống như vỏ hầm bêtông thường. thuận tiện khi sử dụng với những công nhân kém
lành nghề, đặc biệt là trong những công trình có
Na Uy và Thụy Điển được chú ý vì ưu thế của không gian hạn chế trong các hầm mỏ, mà đa số
họ về địa chất đá tốt. Bởi thế vỏ hầm mỏng và các trong chúng nói chung là khô.
chất tăng đông cứng số lượng không đổi là một hệ
quả tự nhiên, đặc biệt là vì kết cấu chống đỡ nhanh
và nặng nề không phải là một vấn đề lớn. Nước
Đức đã sử dụng bêtông phun phần lớn trong các Bảng 12-2. So sánh các Quá trình Trộn-Ướt và
loại đá mềm hơn và đất yếu. Nước Áo, với nhiều Trộn-Khô
hầm qua dãy Anpơ của mình, đã phải chiến đấu
với cả dãy núi đá và các điều kiện đất yếu. Trong Quá trình trộn Ướt Quá trình trộn Khô
địa chất khó khăn, đào hầm theo lối từng phần
1. Nước trộn được kiểm 1. Kiểm soát tức thời
gương đào thường thích hợp và dẫn đến khối
soát tại thiết bị vận lượng nước và độ linh
lượng bêtông phun nhỏ và ứng dụng thường xuyên chuyển và có thể đo động của hỗn hợp tại
hơn. Các bậc thềm ngắn điển hình cho NATM đòi lường chính xác. đầu vòi phun để đáp
hỏi bêtông tạm thời khá lớn cũng như việc phá bỏ ứng các điều kiện hiện
nó. Khoảng thời gian càng ngắn, bêtông phun càng trường khác nhau.
đạt cường độ thấp và việc phá vỡ và dời chuyển nó
càng dễ. 2. Đảm bảo tốt hơn rằng 2. Phù hợp tốt hơn khi
nước được trộn kỹ với phun hỗn hợp chứa cốt
Có những khác nhau và những ưu điểm nhất các thành phần khác. liệu nhẹ, các vật liệu
định của bêtông trộn ướt và trộn khô, ngay cả khi chịu nhiệt và bêtông
sản phẩm cuối cùng có thể gần giống nhau (xem phun đòi hỏi cường độ
sớm.
Bảng 12-2). Kết luận chung không thể chối cãi là 3. Có thể sử dụng hỗn
cả hai quá trình trộn đều có vị trí thích đáng của nó hợp trộn sẵn khối lượng 3. Đầu tư thiết bị ít hơn.
trong xây dựng ngầm. Loại này hay loại kia, do lớn.
đó, không thể bị loại trừ một cách tùy tiện khỏi các
tài liệu hợp đồng. 4. Cân đong chính xác
hơn. 4. Vận tốc va chạm lớn
hơn; dính bám tốt hơn.
Page 11 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
thao tác phun. mặt hoàn toàn sạch, và không có các hốc nhỏ bề
mặt của vật liệu kém (giống như sữa ximăng), một
7. Có thể cho phép cuốn thiết bị làm ẩm/rửa bằng nước áp lực-thấp có thể
7. Dễ phun mặt trần hơn.
khí. được dùng với mục đích tiết kiệm thời gian.
8. Có thể đạt cường độ
8. Có thể có năng suất
cao hơn. Một ngoại lệ với mô tả trên đây đôi khi xảy ra
lớn hơn.
trong một môi trường làm hầm có đất sét. Trong
trường hợp này, một họng phun chỉ dùng khí có
thể là cần thiết nhằm tránh để lại một màng mỏng
Quá trình trộn khô của vật liệu ngăn cản-dính bám. Các họng phun
chỉ dùng khí cũng thích hợp nếu vật liệu của bề
Bêtông phun trộn khô bao gồm một hỗn hợp mặt phun xuống cấp nhanh chóng khi có nước xâm
của cốt liệu ẩm và ximăng nạp vào một máy phun, nhập.
đưa vào một luồng khí với tốc độ đồng đều để đi
qua một ống dẫn tới vòi phun. Nước thủy hóa
được cho vào tại vòi phun trước khi phụt vào mặt
đất. Nước được kiểm soát bằng tay, cho phép điều Chuẩn bị Cốt liệu Trộn-Khô
chỉnh để thay đổi độ ướt của bề mặt cần phun.
Khi dự trữ cốt liệu trộn khô tại hiện trường, cần
Thêm phụ gia dạng bột vào hỗn hợp khô trong khi
phải bảo vệ nó khỏi các yếu tố như mưa, tuyết,
nó được nạp vào máy phun. Nếu là dạng lỏng, phụ
băng... Việc dự trữ theo nhóm kích cỡ hạt cần phải
gia được trộn với nước trước khi nước bơm tới vòi
tránh sự chia tách theo kích thước dưới tiêu chuẩn.
phun.
Tốt nhất, phải duy trì độ ẩm cho cốt liệu từ 3 đến
6% (cơ bản là bão hòa). Độ ẩm bé hơn sẽ hấp thụ
quá nhiều nước hoà trộn; nếu lớn hơn sẽ tạo ra tỷ
lệ N/X quá cao. Khi sử dụng các bao vật liệu khô
tiêu chuẩn đóng gói sẵn, cần phải đưa vật liệu qua
6. CHUẨN BỊ, TRỘN, PHUN, VÀ BẢO một thiết bị gây ẩm trước ngay trước khi đưa vào
DƯỠNG "thùng" để có được điều kiện ẩm 3 - 6%.
Sự dính bám tốt vào đất bằng lớp phun ban đầu Ở đây giả thiết rằng cả cường độ sớm cho ổn
và tính liên kết tốt giữa các lớp kế tiếp sau là định hóa ban đầu và tính chống thấm lâu dài lớn
những điều kiện tiên quyết của thứ bêtông phun có nhất đều được yêu cầu và rằng sợi thép và
chất lượng. Bề mặt được phun cần phải sạch và microsilica là cần thiết. Các thành phần của hỗn
ẩm, nhưng không được ướt, ngay trước lúc phun. hợp đã được thảo luận trên đây, trong phần "3. Các
Điều này đạt được tốt nhất bằng một máy xịt khí- vật liệu".
nước kết hợp áp lực cao, sử dụng với một vòi phun
dài dạng ống xịt được giữ tương đối sát bề mặt. Chỉ dẫn tốt nhất cho sự cân đong ban đầu là
Chỉ rửa bề mặt với nước phun qua vòi phun bêtông kinh nghiệm tại từng địa phương; sau đó được bổ
là chưa đủ và không chấp nhận được. sung bằng quy trình kỹ thuật thông thường cần
thiết và thí nghiệm đặc biệt. Khi chưa có sẵn kinh
Việc làm sạch tương tự là cần thiết khi một nghiệm như vậy, hỗn hợp khô trộn thử ban đầu có
khoảng thời gian đáng kể (24 giờ) đã trôi qua giữa thể lấy xấp xỉ như sau:
các đợt phun, hay khi công việc tại gương đào đã
làm sinh ra các kết bám (gồm cả bụi) lên bề mặt
bêtông. Đối với những thời đoạn ngắn hơn, một bề
Page 12 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
Ximăng 397 kg/cm3 ống dẫn vào đầu phun, do đó khống chế dòng vật
liệu để chúng được trộn lâu hơn trong ống. Ngày
Bọt Silica 53 kg/cm3 nay, vành gom nước được gắn lùi xa hơn, phần
phía trong buồng trộn được cải tiến để hoà trộn tốt
Cốt liệu Nhỏ 1156 kg/cm3 hơn, v.v... Một số vòi phun có hai vành gom nước
riêng biệt.
Nước 160 kg/cm3
Page 13 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
Page 14 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
chấp nhận bằng trộn thử hiện trường phù hợp với
các thủ tục thí nghiệm hiện trường, và đáp ứng các
kết quả yêu cầu. Các thí nghiệm đặc biệt
Thí nghiệm bêtông phun là một quá trình ba- Khi cần có độ chống thấm cao, cần phải thử
phần. Giai đoạn thứ nhất, kiểm tra tính tương nghiệm tính hiệu quả của hỗn hợp thiết kế theo
thích, yêu cầu trước khi các vật liệu đề nghị và như tiêu chuẩn ASTM C642 sử dụng giá trị hấp
nguồn của chúng được chấp thuận. Tính tương hợp thụ đun sôi lớn nhất là 6%.
giữa ximăng-phụ gia là quan trọng nhất. Phải tuân
theo tiêu chuẩn ASTM C1102. Tương tự, sự tương Độ bền dai là một chỉ báo về khả năng hấp thu
hợp của toàn bộ hỗn hợp và cấp phối phải được năng lượng của bê tông phun khi uốn. Cường độ
thiết lập bằng cách tuân thủ nhiều yêu cầu, với hỗn chống uốn của bê tông phun có cốt sợi thép được
hợp đề nghị được chuẩn bị, bảo dưỡng, và thử xác định từ đồ thị của số liệu đường cong chất tải -
trong phòng thí nghiệm. uốn nhận được từ Phương pháp Thí nghiệm Tiêu
chuẩn ASTM C1018-89 đối với một dầm thử. Độ
Giai đoạn thứ hai, trộn thử tại hiện trường, bắt bền được thể hiện bằng một diện tích nằm dưới
đầu khi hoàn tất giai đoạn một. Vật liệu lấy từ đường cong chất tải uốn từ gốc của nó tới tiêu
nguồn hợp lệ phải được kết hợp theo hỗn hợp đã chuẩn uốn lựa chọn.
chấp thuận nhờ thiết bị sẽ dùng trong tương lai,
sau đó phun bởi một công nhân lành nghề vào một Chỉ riêng các chỉ số độ bền không chỉ ra được
cái hộp có cỡ thích hợp, được treo cả ở vị trí thẳng cường độ của bê tông còn lại bao nhiêu sau một độ
đứng và trên đầu. Phải sử dụng thiết bị vòi phun có uốn cho trước. Do đó, việc thêm vào quy trình kỹ
điều khiển từ xa như đã đề nghị. (Sau đó, cần theo thuật các yêu cầu về cường độ dự trữ là cần thiết
thủ tục tiến hành để cấp chứng chỉ cho công nhân để chỉ ra đượccần bao nhiêu năng lực dự trữ đối
phun). Sau khi bảo dưỡng theo đúng cách thức đề với dự án đang thi công. Hệ số ứng suất dư (Rx,y)
nghị áp dụng cho công trình thực, cần phải khoan được tính toán như là hiệu số giữa hai giá trị độ
lấy mẫu và chế tạo dầm thử, sau đó thí nghiệm. bền (Ix, Iy) nhân với một hằng số thích hợp.
Giai đoạn ba, thí nghiệm trong khi thi công, có Về mặt lý thuyết, một vật liệu dầm có một ứng
ba phần. Đầu tiên, cần lặp lại quá trình trộn thử tại xử đàn hồi hoàn hảo cho tới khi xuất hiện vết nứt
hiện trường ngay tại gương đào trong khi phun đầu tiên và sau đó có một ứng xử dẻo hoàn toàn sẽ
bêtông thực sự theo yêu cầu của Tư vấn. Thứ hai, có một giá trị I5 là 5, I10 là 10, v.v... Các năng
khoan lấy mẫu từ khối bêtông phun tại chỗ, cách lượng tương ứng là gấp 3.0 lần giá trị đó khi có vết
quãng theo như đã định trước. Mục đích trước hết nứt đầu tiên đối với I5, 5.5 lần đối với I10, v.v...
của những việc này là nhằm kiểm tra chiều dày và Trước đây, người ta chỉ đưa ra các giá trị I5 và I10.
độ kết dính; tuy nhiên, cũng cần phải thử cường độ Ngày nay, các giá trị I30 cũng được sử dụng và
nén. Phần thứ ba là sự kiểm tra toàn bộ bêtông đổ đang nghiên cứu dùng I50. Hệ số ứng suất dư lý
tại chỗ. Ngoài việc kiểm tra bằng mắt để biết các thuyết cho R10,30 là 100. Tiêu chuẩn ASTM
khuyết tật, phải kiểm tra độ âm vang của bêtông C1116-89 cung cấp một chỉ dẫn về các chỉ số độ
tại nhiều vị trí bằng cách dùng búa địa chất hoặc bền đối với các cấp tính năng tương đối (xem
một búa tương tự gõ vào bề mặt. Bêtông kết dính Bảng 12-3). Chú ý rằng cấp IV không thể đạt được
tốt và chất lượng cao sẽ gây nên một âm thanh với loại sợi thép hiện nay.
trong, rõ, vang vọng riêng biệt. Bêtông phân lớp
hay có lỗ rỗng bên trong sẽ cho ta một âm thanh
lộp bộp hay ốm ốm, rỗng. Nếu nghe lộp bộp, vùng
đó cần được kiểm tra lại kỹ lưỡng và xác định
tương đối biên giới. Sau đó cần khoan lấy mẫu và
kiểm tra. Bêtông bị khuyết tật cần phải phá bỏ và
thay thế bằng bê tông khác có chất lượng.
Page 15 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
sự tăng có được bởi các gấp nếp đối với các vòm
bản thép mỏng nhẵn.
8. NHỮNG XEM XÉT KHI THIẾT KẾ
Với các trần phẳng, không được phép sử dụng
đơn độc bêtông phun. Ít nhất cũng phải có sự neo
bulông tối thiểu để đảm bảo chống lại một mặt
Thảo luận cho tới điểm này đã tập trung về vấn phẳng phân lớp yếu không dự kiến tới. Ngoài ra,
đề bêtông phun là gì và làm thế nào để chế tạo nó. sự dính bám có thể không đủ một cách cục bộ.
Lý luận và các bước thiết kế tổng quát đã được nói Một sự sụt ban đầu sẽ không có tác dụng bảo vệ
tới trong các Chương 5, 6, và 7. Chiều dày bêtông, khỏi sự bong tróc liên tiếp hay sự uốn thứ cấp trừ
dựa trên phương pháp kinh nghiệm và dựa vào các phi được neo giữ bởi bulông.
công trình đã hoàn thành, đã được thảo luận trong
Chương 7. Bêtông phun có thể được dùng với sự tin tưởng
trong nhiều điều kiện đất yếu. Đất sét cứng vừa là
Trong hầm xuyên đá, thường sử dụng kết hợp một ví dụ. Mặc dù bị chất tải tới gần cường độ
bêtông phun và bulông neo đá để gia cường cho không nở hông của nó, sự bao nén khối đất nhờ có
đá. Chỉ trong rất ít trường hợp (ví dụ, tính chống một vòng bêtông phun sớm sẽ giúp phục hồi lại
thấm là yêu cầu chính, sự bảo vệ đất khỏi bị rã ra, hầu như tất cả cường độ ban đầu.
và trong đá cứng nơi có thể đảm bảo sự dính bám
tốt) thì mới có thể dùng đơn độc bêtông phun. Phương pháp Làm hầm Mới của nước Áo
Ngược lại, bêtông phun thường xuyên không phù (NATM) và kỹ thuật quan trắc của nó đã có thành
hợp trong các hầm đào bằng máy khoan hầm TBM công tốt trong địa chất khó khăn. Các hầm tiết diện
(đã lưu ý trong Chương 7). Trong những trường nhỏ riêng biệt có thể giảm đi về kích thước cho tới
hợp khác, bêtông phun và bulông bổ sung cho khi một lượng bêtông phun hợp lý tạo ra được một
nhau. (Trong thuật ngữ châu Âu, bulông (bolt) có gương mở ổn định.
thể được gọi là neo (anchor), một thuật ngữ có
tính mô tả tốt hơn tới mức độ mà bêtông phun Các gương mở lò sau đó có thể được mở rộng
được đề cập). hay tổ hợp lại bằng cách phun thêm bêtông ngay
lập tức sau khi tạo ra được gương đào lớn hơn.
Khi các thanh neo chốt (dowels) quả thật tạo ra Việc này tạo ra các tường và vòm bêtông chiều
sự neo giữ và bêtông phun chủ yếu là làm việc hai dày quá lớn, nhưng quan trọng hơn, nó lại tạo nên
chiều, thì bêtông có thể được thiết kế theo kiểu được một đường hầm hoàn chỉnh.
hẫng ra từ một gối neo, như là một tấm bản gối lên
bốn neo tại bốn góc, v.v... Tuy nhiên, tính dính Những đất nén ép và đất trương nở không bị
bám vào đá và tác dụng như một dầm của tổ hợp khống chế bởi vỏ bêtông phun, ít nhất là không
bêtông-đá cũng cần phải được xem xét, nếu không cho tới khi các bulông neo dài và thời gian đã giúp
sẽ sinh ra một chiều dày bêtông quá lớn. Nhu cầu ổn định hóa được khối đất. Một số dự án đã dùng
khiến bulông làm việc như là các neo bêtông sẽ các rãnh khía cắt vào bêtông để cho phép sự biến
giảm đi nhanh chóng khi "tấm bản" trở nên cong; dạng có kiểm soát được tiếp tục diễn ra.
dầm tổ hợp thậm chí trở nên hiệu quả hơn, và các
bulông neo sẽ có tác dụng nhiều hơn là chức năng
thật sự của chúng, nghĩa là, nén ép bao bọc đá để
đá chống lại được nhiều hơn sự biến dạng đất hoặc
sự hội tụ phát sinh do đào mở gương.
Page 16 of 17
Nguyễn Đức Toản, HaiVan Tunnels, December - 2002
Page 17 of 17