Professional Documents
Culture Documents
1
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
2
Báo cáo số 151/BC-BTP ngày 15 tháng 7 năm 2013 của Bộ Tư pháp về Tổng kết thi hành Bộ Luật Dân sự năm
2005.
Tại bản án lệ số: 05/2016/AL ngày 06/02/2019 về tranh chấp di sản thừa kế
của Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, nội dung bản
án như sau: Bà Thưởng, bà Xuân và ông Trải là anh em ruột. Cha mẹ của họ là cụ Hưng
(chết năm 1978) và cụ Ngự (chết năm 1992) để lại di sản thừa kế là Căn nhà 263 và không có
di chúc. Tuy nhiên, bà Thưởng, Xuân và ông Trải không chia di sản thừa kế. Ông Trải có vợ
là bà Tư (chết năm 1980) và 03 người con chung, trong đó có chị Phượng. Sau khi cụ Hưng,
cụ Ngự và bà Tư chết, chị Phượng tiếp tục quản lý và sử dụng Căn nhà 263. Trong quá trình
quản lý, chị Phượng đã nhiều lần sửa chữa, tôn tạo Căn nhà này. Ngày 18/7/2008, bà
Thưởng và bà Xuân khởi kiện ông Trải, chị Phượng yêu cầu Tòa án chia thừa kế Căn nhà
theo quy định và buộc chị Phượng trả lại Căn nhà. Chị Phượng không đồng ý với các yêu cầu
của bà Thưởng, bà Xuân vì cho rằng thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đã hết.
Bản án sơ thẩm ra quyết định: (1) Xác định nhà đất tại 263 Trần Bình Trọng là di
sản thừa kế của 12 cụ Nguyễn Văn Hưng, cụ Lê Thị Ngự; mỗi kỷ phần thừa kế được hưởng là
10.655.687.000: 6 = 1.775.947.800 đồng. (2) Buộc mẹ con chị Phượng và bà Tư giao lại nhà
đất tranh chấp cho bà Thưởng, bà Xuân.
Theo tòa phúc thẩm,