You are on page 1of 82

Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

ĐỀ TÀI: NGUỒN VỐN VÀ QUẢN LÝ NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG


THƯƠNG MẠI

LỜI MỞ ĐẦU

Ngân hàng thương mại (NHTM) là doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trong
lĩnh vực tiền tệ, tín dụng - Một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu và hữu hiệu của nền
kinh tế. Việc tạo lập, tổ chức và quản lý vốn của NHTM là một trong những vấn
đề được quan tâm hàng đầu không chỉ vì lợi ích riêng của bản thân các NHTM mà
còn vì sự phát triển chung của nền kinh tế.

Thực tiễn thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây đang
chứng kiến bước phát triển vượt bậc của các NHTM. Các NHTM không ngừng
tăng vốn, tăng dư nợ tín dụng, mở rộng mạng lưới chi nhánh hoạt động....nỗ lực
cải thiện tình hình hoạt động của bản thân để có thể đứng vững trước yêu cầu cấp
bách của đời sống kinh tế xã hội đất nước, trước sự cạnh tranh gay gắt của thị
trường trong nước và quốc tế. Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết đó, đặt ra cho
các NHTM là phải xây dựng các chiến lược tìm kiếm , huy động vốn đồng thời
phải quản lý chặt chẽ tình hình nguồn vốn nhằm tiếp tục duy trì củng cố và mở
rộng thị phần, nâng cao năng lực cạnh tranh và tiềm năng của ngân hàng.

Trong khuôn khổ đề tài “Nguồn vốn và quản lý nguồn vốn của Ngân hàng
thương mại ” xin giải quyết 3 vấn đề cơ bản. Chương thứ nhất trình bày lý luận về
Nguồn vốn và quản lý nguồn vốn trong hệ thống NHTM trên phương diện chung.
Chương thứ hai xem xét tình hình nguồn vốn của NHTM Việt Nam trong những

-1-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

năm gần đây và chương thứ ba dựa trên cơ sở thực trạng đã phân tích, từ đó đưa ra
các giải pháp nhằm tạo lập vốn và quản lý vốn cho NHTM một cách hiệu quả.

Trong quá trình viết, chắc chắn em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn nhằm giúp cho
đề án của em được hoàn thiện hơn.

-2-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

CHƯƠNG 1

NGUỒN VỐN VÀ QUẢN LÝ VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại

Nguồn vốn của ngân hàng thương mại là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân
hàng tạo lập, huy động được để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ ngân hàng.
Nguồn vốn của NHTM bao gồm: Vốn chủ sở hữu , Vốn huy động, Vốn đi vay và
một số vốn khác.

1.1.1. Vốn chủ sở hữu

* Khái niệm: Vốn chủ sở hữu (VCSH) hay còn gọi là vốn tự có là số vốn thuộc
quyền sở hữu của NHTM. Đó là nguồn tiền đóng góp chủ yếu bởi những người
chủ ngân hàng và nó còn được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi
nhuận giữ lại. Vốn chủ sở hữu của NH bao gồm nhiều loại khác nhau và được
phân thành vốn cấp 1 (vốn cơ bản) được xem là sức mạnh và tiềm lực thực sự của
ngân hàng ; Vốn cấp 2 (vốn bổ sung) được giới hạn tối đa bằng 100% vốn cấp 1.

1.1.1.1.Thành phần vốn chủ sở hữu

a) Vốn cấp 1

Vốn cấp 1 bao gồm:

 Vốn điều lệ (Satutory Capital)

- Đây là số vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ của mỗi
ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định, tức là
nguồn vốn này có thể do Nhà nước cấp hoặc huy động từ các cá nhân trong xã hội.

+ Nếu là NHTM Nhà nước, vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp khi thành lập.

-3-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

+ Nếu là NHTM Cổ phần, vốn điều lệ do sự đóng góp của các cổ đông dưới hình
thức phát hành cổ phiếu (Cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi vĩnh viễn)

+ Nếu là NH Liên doanh, vốn điều lệ là vốn đóng góp cổ phần của các ngân hàng
tham gia liên doanh.

+ Nếu là Chi nhánh NH nước ngoài hoạt động ở Việt Nam, vốn điều lệ là do NH
mẹ ở nước ngoài cấp.

- Không tính vào chỉ tiêu này số vốn đã được các chủ sở hữu cam kết nhưng chưa
cấp đủ, góp đủ.

- Vốn điều lệ nhiều hay ít phụ thuộc vào khả năng tài chính của các chủ sở hữu và
ý đồ thành lập NH với quy mô, phạm vi hoạt động khác nhau. Vốn điều lệ của mỗi
NH ít nhất phải bằng mức vốn pháp định, là số vốn do Chính phủ quy định trong
từng thời kỳ cho từng loại hình NH. Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng có
thể tăng thêm vốn điều lệ nhưng phải công bố công khai vốn điều lệ mới. Cụ thể
NHTM Cổ phần có thể phát hành thêm cổ phần, NHTM Nhà nước có thể xin cấp
thêm vốn Ngân sách để mở rộng quy mô hoạt động, chống đỡ rủi ro.

- Vốn điều lệ chủ yếu được dùng để mua sắm bất động sản, động sản, trang thiết
bị...cho hoạt động ngân hàng, ngoài ra còn được dùng để góp vốn liên doanh, cho
vay, mua cổ phần của công ty khác. Không được dùng vốn điều lệ đế chia lợi tức,
lập quỹ phúc lợi khen thưởng. Như vậy, đến khi ngân hàng hoạt động, vốn điều lệ
có thể đã nằm dưới dạng trụ sở, văn phòng, kho bãi, xe cộ, trang thiết bị, dự trữ
hay kí quỹ tại NHTW hoặc đầu tư vào một thương vụ nào đó....

 Các quỹ dự trữ (Reserve funds)

-Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm của
NHTM theo một tỷ lệ nhất định tùy theo luật lệ NH của mình nhằm mục đích tăng
cường vốn chủ sở hữu ban đầu.

-4-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

-Quỹ dự phòng tài chính: để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh
doanh của ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ.

-Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ: dùng để nghiên cứu , đào tạo và triển khai các
dịch vụ mới.

Quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ được trích lập từ lợi
nhuận sau thuế. Việc trích lập và sử dụng các quỹ này được thực hiện theo quy
định của Pháp luật trong từng thời kỳ.

 Lợi nhuận không chia

- Đối với các NHTM Cổ phần, lợi nhuận sau thuế sau khi bù đắp các khoản chi phí
đặc biệt, thường được chia làm hai phần: một phần chia cho các cổ đông theo giá
trị các cổ phần và một phần bổ sung vào vốn chủ sở hữu dưới tên gọi “Lợi nhuận
tích lũy lại”- Lợi nhuận không chia. Phần này bản chất thuộc sở hữu của các cổ
đông, song được vốn hóa nhằm mở rộng quy mô vốn chủ sở hữu. Lợi nhuận không
chia của tổ chức tín dụng cổ phần phải được Đại hội cổ đông thông qua.

- Đối với các NHTM Nhà nước, lợi nhuận sau thuế sau khi trừ thua lỗ (năm trước)
và các chi phí đặc biệt được trích bổ sung VCSH theo quy định của Nhà nước.

 Thặng dư Vốn cổ phần (Đ/v các NHTM Cổ phần)

Trong quá trình hoạt động, có thể thị giá cổ phiếu của ngân hàng lớn hơn mệnh
giá. Khi ngân hàng phát hành cổ phiếu mới, phần chênh lệch giữa thị giá và mệnh
giá được ghi lại dưới tên gọi thăng dư của vốn.

*Giới hạn khi xác định vốn tự có cấp 1: Vốn tự có cấp 1 phải trừ đi giá trị lợi thế
thương mại.

Lợi thế thương mại là phần chênh lệch lớn hơn giữa số tiền mua một tài sản tài
chính và giá trị sổ sách kế toán của tài sản tài chính đó. Tài sản tài chính này được
phản ánh đầy đủ trên bảng cân đối của tổ chức tín dụng.

-5-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Vốn cấp 1 được dùng làm căn cứ để xác định giới hạn mua cổ phiếu, đầu tư vào tài
sản cố định của Tổ chức Tín dụng.

b) Vốn cấp 2

Vốn cấp 2 bao gồm:

 Giá trị tăng thêm của tài sản cố định và giá trị tăng thêm của các loại
chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp) được định giá lại theo quy
định của Pháp luật

- Được tập hợp vào quỹ đánh giá lại.

- Do giá trị thị trường của Tài sản có thể thay đổi theo thời gian nên vốn do đánh
giá lại tài sản thường không ổn định, vì vậy các ngân hàng chỉ được tính vào vốn
cấp 2 một phần giá trị tăng thêm của tài sản. Cụ thể là chỉ lấy 50% phần giá trị
tăng thêm của TSCĐ và 40% phần giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu
tư được định giá lại theo quy định của pháp luật.

 Dự phòng chung

- Kinh doanh của NH luôn gắn liền với rủi ro. Do vậy, các ngân hàng đều trích lập
các khoản dự trữ nhằm bù đắp tổn thất. Dự phòng chung là khoản tiền được trích
lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại
nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của
NH khi chất lượng các khoản nợ suy giảm. Việc trích lập và sử dụng dự phòng
chung được thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo quy định hiện hành thì số
tiền dự phòng chung được tính vào vốn cấp 2 tối đa bằng 1,25% tổng tài sản “Có”
rủi ro.

- Nếu tổn thất thực của ngân hàng nhỏ hơn số trích lập thì vốn chủ sở hữu sẽ tăng
và ngược lại. Một số ngân hàng không hạch toán quỹ này vào vốn chủ sở hữu mà
vào các khoản nợ do nguồn gốc của quỹ là trích từ thu nhập trước thuế như một
khoản chi phí và khi cần sẽ được chi ra để bù đắp tổn thất.

-6-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

 Cổ phiếu ưu đãi có thời hạn, các trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành
cổ phiếu và một số công cụ nợ khác thỏa mãn yêu cầu do NHNN quy định.

- Đây thực chất là khoản nợ vốn dài hạn do các nhà đầu tư bên ngoài đóng góp. Vì
vậy các nhà quản lý ngân hàng chỉ được tính vào vốn cấp 2 khi các công cụ này
thỏa mãn các điều kiện do NHNN quy định về thời hạn, về đảm bảo của ngân hàng
phát hành, về điều chỉnh tăng lãi suất, về thanh toán nợ gốc và lãi.Cụ thể :

+ Trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành
thỏa mãn những điều kiện sau:

• Có kỳ hạn ban đầu, thời hạn còn lại trước khi chuyển đổi thành cổ phiếu
phổ thông tối thiểu là 5 năm.

• Không được đảm bảo bằng tài sản của chính tổ chức tín dụng.

• Tổ chức tín dụng không được mua lại theo đề nghị của người sở hữu
hoặc mua lại trên thị trường thứ cấp, hoặc tổ chức tín dụng chỉ được mua lại sau
khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.

• Tổ chức tín dụng được ngừng trả lãi và chuyển lãi lũy kế sang năm tiếp
theo nếu việc trả lãi dẫn đến kết quả kinh doanh trong năm bị lỗ.

• Trong trường hợp thanh lý tổ chức tín dụng, người sở hữu trái phiếu
chuyển đổi chỉ được thanh toán sau khi tổ chức tín dụng đã thanh toán cho tất cả
các chủ nợ có bảo đảm và không có bảo đảm khác.

• Việc điều chỉnh tăng lãi suất chỉ được thực hiện sau 5 năm kể từ ngày
phát hành và được điều chỉnh một lần trong suốt thời hạn trước khi chuyển đổi
thành cổ phiếu phổ thông.

-7-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

+ Các công cụ nợ khác thỏa mãn những điều kiện sau:

• Là khoản nợ mà chủ nợ là thứ cấp so với các chủ nợ khác: trong mọi
trường hợp, chủ nợ chỉ được thanh toán sau khi tổ chức tín dụng đã thanh toán cho
tất cả các chủ nợ có bảo đảm và không bảo đảm khác.

• Có kỳ hạn ban đầu tối thiểu trên 10 năm.

• Không được đảm bảo bằng tài sản của chính tổ chức tín dụng.

• Tổ chức tín dụng được ngừng trả lãi và chuyển lãi lũy kế sang năm tiếp
theo nếu việc trả lãi dẫn đến kết quả kinh doanh trong năm bị lỗ.

• Chủ nợ chỉ được tổ chức tín dụng trả nợ trước hạn sau khi được Ngân
hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.

• Việc điều chỉnh tăng lãi suất chỉ được thực hiện sau 5 năm kể từ ngày
ký kết hợp đồng và được điều chỉnh một lần trong suốt thời hạn của khoản vay.

- Việc gia tăng loại vốn này có nhiều ưu điểm đối với quản lý ngân hàng như
không làm thay đổi quyền kiểm soát, hạn chế giảm cổ tức......

* Tuy nhiên khi xác định tổng vốn tự có để tính tỷ lệ an toàn tối thiểu, các NHTM
phải khấu trừ khỏi vốn cấp 1 và vốn cấp 2 một số khoản mục như sau:

• Toàn bộ phần giá trị giảm đi của tài sản cố định

• Toàn bộ phần giá trị giảm đi của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ
phiếu đầu tư, vốn góp)

• Tổng số vốn của TCTD đầu tư vào TCTD khác dưới hình thức góp vốn,
mua cổ phần và tổng các khoản đầu tư dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần nhằm
nắm quyền kiểm soát vào các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm,
chứng khoán

-8-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

• Phần vượt mức vốn tự có của TCTD đối với khoản góp vốn, mua cổ
phần (Phần vượt mức 15% vốn tự có của TCTD đối với khoản góp vốn, mua cổ
phần của TCTD vào một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư và phần vượt
mức 40% vốn tự có của TCTD đối với tổng các khoản góp vốn, mua cổ phần của
TCTD vào các doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, ngoại trừ phần vượt mức
15% đã trừ khỏi vốn tự có nêu trên)

• Khoản lỗ kinh doanh (bao gồm cả những khoản lỗ luỹ kế).

1.1.1.2. Vai trò của vốn chủ sở hữu và các nhân tố ảnh hưởng vốn chủ sở hữu

a) Vai trò

Do tính chất đặc thù trong kinh doanh nên vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một tỷ
trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động của NHTM (khoảng < 10%). Song vốn
chủ sở hữu của ngân hàng lại đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân
hàng.

- VCSH tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động của ngân hàng.

+ Nó cung cấp nguồn lực ban đầu giúp NH mới thành lập hoạt động. Số
vốn này trước hết để mua sắm (thuê) trang thiết bị, văn phòng cần thiết cho quá
trình kinh doanh, phần còn lại tham gia vào quá trình kinh doanh của ngân hàng
như cho vay hoặc mua chứng khoán.

+ Nó cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các
hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình, công nghệ mới, trang thiết bị mới.
Khi NH phát triển, nó cần vốn bổ sung để thúc đẩy tăng trưởng và cạnh tranh tốt
với các ngân hàng khác thông qua dịch vụ mới và trang thiết bị mới.

- VCSH đóng vai trò là một tấm đệm giúp NHTM chống lại rủi ro trong quá trình
hoạt động. Khi cơ quan bảo hiểm tiền gửi thành lập, VCSH góp phần giảm bớt rủi
ro cho cơ quan bảo hiểm.

-9-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

- VCSH tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với người gửi tiền, chủ
nợ về sức mạnh tài chính của ngân hàng.

- VCSH là một trong những căn cứ góp phần điều chỉnh các hoạt động của NHTM

Rất nhiều quy định về hoạt động của NHTM của các nhà chức trách tiền tệ có liên
quan chặt chẽ với VCSH. Ví dụ như để đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh
doanh, các NHTM phải duy trì tỷ lệ an toàn tối thiểu là 8% giữa VCSH với tổng
tài sản có rủi ro ; những quy định khác như quy mô nguồn tiền gửi được tính theo
tỷ lệ VCSH , mức dư nợ cho vay tối đa đối với một khách hàng (theo quy định
hiện hành là 15 % VCSH của NH), nắm giữ cổ phiếu của công ty khác, mở chi
nhánh, mua sắm TSCĐ, thành lập công ty con....đều tính theo tỷ lệ VCSH. Như
vậy quy mô và cấu trúc hoạt động của NHTM được điều chỉnh theo VCSH .

b) Các nhân tố ảnh hưởng

- Chính sách của Chính phủ tác động trực tiếp đến quy mô và cấu trúc của nguồn
VCSH

Các NHTM phải điều chỉnh VCSH trong từng thời kỳ theo các quy định của
Chính phủ về vốn pháp định, các tỷ lệ trích quỹ dự trữ, lợi nhuận không chia.......

- Chính sách và kết quả kinh doanh của NHTM

Nếu ngân hàng làm ăn phát đạt và có chính sách gia tăng sức mạnh thì có thể sẽ
tăng VCSH thông qua phát hành thêm cổ phiếu hoặc tự tích lũy. Những ngân hàng
nhỏ, khả năng sinh lời thấp thì khả năng mở rộng VCSH cũng bị hạn chế.

1.1.2. Vốn huy động (Mobilized Capital)

1.1.2.1. Thành phần vốn huy động

Vốn huy động của NHTM dưới hình thức bằng tiền (nội tệ và ngoại tệ) và
bằng vàng được hình thành từ hai bộ phận: Vốn huy động từ tiền gửi và vốn huy
động thông qua phát hành chứng từ có giá.

-10-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

a)Vốn huy động từ tiền gửi

Các khoản tiền gủi là những giá trị tiền tệ mà NH nhận được từ các tổ chức
kinh tế-xã hội và các cá nhân trong nền kinh tế thông qua quá trình thực hiện các
nghiệp vụ huy động, thanh toán và các nghiệp vụ khác và được dùng để kinh
doanh. Bản chất của tiền gửi là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau mà ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu.

Để huy động vốn, các NHTM đã cung cấp rất nhiều loại tiền gửi khác nhau
cho khách hàng lựa chọn. Mỗi công cụ huy động tiền gửi mà NH đưa ra đều có
những điểm riêng nhằm làm cho chúng phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng
trong việc tiết kiệm và thực hiện thanh toán. Vốn tiền gửi của NHTM có thể huy
động từ các tổ chức kinh tế-xã hội, dân cư, ngân hàng và các tổ chức tín dụng
khác...Trong đó, nguồn tiền gửi từ các doạn nghiệp và dân cư là nguồn quan trọng
nhất vì nó là nguồn chủ yếu và mang tính chất lâu dài.

Thông thường tiền gửi NHTM được chia thành các loại sau:

 Tiền gửi không kỳ hạn

Ở Việt Nam, tiền gửi không kỳ hạn được hiểu là loại tiền gửi mà khách
hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải thực hiện theo yêu cầu này.
Tiền gửi không kỳ hạn bao gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn
thuần túy

• Tiền gửi thanh toán

Là loại tiền gửi được ký thác vào NH để thực hiện các khoản chi trả trong
hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Đây là một bộ phận tiền đang chờ
thanh toán mà không phải là tiền để dành, do vậy khách hàng gửi tiền không mất
quyền sử dụng số tiền này. Họ có thể rút ra, chuyển nhượng hoặc chi trả trong
thanh toán bất kỳ lúc nào. Trong việc sử dụng tiền gửi thanh toán, khách hàng
thường dùng các công cụ thanh toán để chi trả như sec, lệnh chuyển tiền....

-11-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

 Tài khoản tiền gửi thanh toán (Tài khoản giao dịch hoặc tài khoản sec)

Tài khoản này dư có, khách hàng chỉ được sử dụng trong phạm vi tiền
gửi của mình. Tài khoản sec hay tài khoản giao dịch hiện nay ở Việt Nam có hai
loại:

+ Tài khoản thanh toán dùng cho các tổ chức kinh tế-xã hội

+ Tài khoản thanh toán dùng cho cá nhân

 Tài khoản vãng lai

Tài khoản này có thể dư có hoặc dư nợ, nghĩa là khách hàng ngoài việc
sử dụng số tiền gửi của mình còn được dùng khoản tiền do ngân hàng cho vay
theo sự thỏa thuận trước giữa ngân hàng và khách hàng.

Nhìn chung, lãi suất của loại tiền gửi thanh toán rất thấp thậm chí có
những tiền gửi ngân hàng không phải trả lãi. Do đó, nguồn vốn này giúp cho ngân
hàng hạ thấp giá mua vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh trong cho vay và đầu tư.

• Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy

Đây là loại tiền gửi thể hiện khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng,
họ gửi tiền vào ngân hàng không mang tính chất để thanh toán mà nhằm mục đích
an toàn tài sản, khi cần khách hàng đến ngân hàng rút tiền để chi tiêu.

Cũng giống như tiển gửi thanh toán, tiền gửi không kỳ hạn thuần túy có mức
lãi suất rất thấp

* Đối với tiền gửi không kỳ hạn, mặc dù việc gửi và rút tiền có thể thực hiện bất
kỳ lúc nào, ngân hàng khó xác định trước nhưng trên thực tế luôn có sự chênh lệch
về thời gian và số lượng giữa việc gửi và rút tiền, cho nên tại mỗi ngân hàng luôn
tồn tại một số dư tiền gửi không kỳ hạn và ngân hàng có thể sử dụng để cho vay
(chủ yếu vay ngắn hạn).

-12-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

 Tiền gửi có kỳ hạn

Đây là những khoản tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội có
thỏa thuận về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc, người gửi chỉ có thể rút tiền theo
thời hạn đã thỏa thuận. Nhưng trên thực tế, để thu hút loại tiền gửi này với kỳ hạn
dài, các NHTM thường cho phép rút tiền trước thời hạn nhưng khách hàng chỉ
được hưởng lãi suất không kỳ hạn hoặc hưởng mức lãi suất tương ứng theo loại kỳ
hạn nhất định do NHTM quy định. Tuy không thuận lợi cho người tiêu dùng bằng
hình thức tiền gửi thanh toán, song lãi suất của nó cao hơn.

Nguồn vốn này có độ ổn định cao, chiếm khoảng 40% tiền gửi, ngân hàng
chủ động trong quá trình sử dụng. Vì vậy, để có thể thu hút nhiều hơn loại tiền gửi
này các NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau, mỗi kỳ hạn có một
mức lãi suất tương ứng theo nguyên tắc kỳ hạn càng dài , lãi suất càng cao.

 Tiền gửi tiết kiệm

Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của NHTM . Tiền gửi tiết kiệm
thường là khoản thu nhập của dân cư tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng ngay gửi
vào ngân hàng. NHTM thường trả lãi cho tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất của
tiền gửi không kỳ hạn. Người gửi được giao cho một sổ tiết kiệm phục vụ cho việc
ghi ghi chép gửi và rút tiền. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng
và dịch vụ, song có thể dùng làm vật cầm cố hoặc được chiết khấu để vay vốn
ngân hàng.

Tiền gửi tiết kiệm bao gồm: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau.

Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn gồm hai loại:

-13-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

• Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn được hưởng lãi: Đối với loại này, NHTM
có thể áp dụng hình thức trả lãi trước hoặc trả theo định kỳ hoặc lãi trả cùng nợ
gốc

• Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn có lãi và thưởng: Đối với loại này, ngoài lãi
suất được hưởng người gửi còn được thưởng dưới hình thức bằng vàng, tiền hoặc
hiện vật khác nếu trúng thưởng.

Trên thực tế, tiền gửi tiết kiệm chiếm một tỷ trọng khá lớn (khoảng 1/4) trong
tổng vốn huy động của NHTM. Để khai thác nguồn vốn này, các ngân hàng luôn
chú trọng đến việc đa dạng hoá các hình thức huy động như: huy động bằng vàng,
huy động tiền gửi có đảm bảo vàng, tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm gửi một
nơi nhưng lĩnh nhiều nơi.....với lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.

 Tiền gửi khác

Ngoài các loại tiền gửi trên, tại các NHTM còn có một số khoản tiền gửi khác
như:

• Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác

• Tiền gửi của kho bạc Nhà nước

• Tiền gửi của các tổ chức đoàn thể xã hội

b)Vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá

Đây là phần vốn mà NHTM có được qua việc phát hành các giấy tờ có giá như
kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi.

Đối tượng mua kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi là các tổ
chức, cá nhân trong nền kinh tế, ngoài việc dùng số vốn nhàn rỗi hay phần thu

-14-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

nhập tạm thời chưa sử dụng đến để mua, trên thực tế đây còn là một kênh đầu tư
của người có vốn trong xã hội khi họ không có khả năng đầu tư trực tiếp. Các kỳ
phiếu, trái phiếu này có khả năng chuyển đổi dễ dàng ra tiền khi cần thiết bằng
cách mua bán, chuyển nhượng trên thị trường vốn hoặc chứng khoán tại NHTM.

Với cách huy động vốn này, NH có thể tập trung một khối lượng vốn lớn trong
thời gian ngắn và NH chủ động sử dụng. Cho nên hình thức này thường được thực
hiện khi ngân hàng đã tiếp nhận được những dự án vay vốn lớn với thời hạn giải
ngân nhanh của khách hàng hay sau khi đã cân đối giữa vốn và sử dụng vốn trong
toàn bộ hệ thống mà vẫn còn thiếu và phải được sự đồng ý của Thống đốc NHNN.

Tuy nhiên các khoản vay này thường không có đảm bảo. Những ngân hàng có
uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các NH nhỏ thường khó
vay mượn trực tiếp bằng cách này. Họ thường thông qua các NH đại lý hoặc được
bảo lãnh của NH đầu tư. Đối với khoản vay này, NH cần nghiên cứu kỹ thị trường
để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn
đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ ...cũng được các NH quan
tâm.

1.1.2.2. Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng vốn huy động

a) Vai trò

Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ vốn
kinh doanh (khoảng 80%) của NHTM . Đây là nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn
đến chi phí và khả năng mở rộng kinh doanh của NH. Nguồn vốn này có xu hướng
ngày càng gia tăng phù hợp với xu hướng tăng trưởng nhưng ổn định của nền kinh
tế, với việc gia tăng nhu cầu thanh toán của dân cư và với việc cải tiến nâng cao
chất lượng dịch vụ của NHTM .

b) Các nhân tố ảnh hưởng

 Nhân tố chủ quan

-15-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

• Chính sách lãi suất của NHTM

Như chúng ta đã biết, yếu tố quan trọng nhất giúp cho khách hàng gửi tiền tại
NH vì họ mong hưởng được một phần thu nhập từ khoản tiền gửi đó. Do đó,
Chính sách lãi suất của NHTM ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn của
họ. Tùy thuộc điều kiện hiện có của mỗi NH thì các NH đưa ra từng mức lãi suất
đối với từng loại hình tiền gửi làm sao có thể tạo nên tính hấp dẫn cho Khách
hàng, từ đó sẽ huy động nhiều hơn (Nếu các yếu tố khác như nhau).

• Chất lượng cung cấp dịch vụ của NHTM

Đây cũng là nhân tố không kém phần quan trọng, ảnh hưởng đến nguồn vốn
huy động của NHTM. Các tổ chức cũng như các cá nhân ngoài mục đích hưởng
lợi nhuận từ đồng tiền nhàn rỗi của mình, họ cũng muốn được hưởng lợi ích từ các
dịch vụ như dịch vụ thanh toán, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ thẻ sec, thẻ tín dụng,
tư vấn...Như vậy, những ngân hàng nào cung cấp những dịch vụ tốt hơn, tiện ích
hơn thì ngân hàng đó sẽ thu hút nhiều khách hàng và nhiều vốn hơn.

• VCSH của NHTM , ảnh hưởng tới uy tín của NHTM .

Sự an toàn và uy tín của NHTM cũng là những nhân tố quan trọng tạo lòng
tin đối với khách hàng, thu hút được nhiều lượng tiền gửi hơn.

• Ngoài các nhân tố trên thì còn có một số nhân tố khác ảnh hưởng đến
khả năng tăng trưởng nguồn vốn huy động của NHTM và cũng là yếu tố mà các
NH của các nước đang phát triển phải đặc biệt quan tâm đầu tư để rút ngắn khoảng
cách với các nước phát triển, tạo điều kiện trong việc thu hút vốn cũng như thực
hiện các dịch vụ ngân hàng. Đó là các nhân tố như mạng lưới huy động vốn, trình
độ công nghệ và cơ sở vật chất của NH, trình độ làm việc của cán bộ công nhân
viên ngân hàng.

 Nhân tố khách quan

-16-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

• Chính sách của NHTW đối với NHTM

Sự kiểm soát chặt chẽ bởi NHTW như chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá,
việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động gián tiếp đến nguồn vốn huy động của
NHTM.

+ Việc NHTW quy định khung lãi suất tiền gửi, hoặc là quy định tăng
hoặc hạ lãi suất sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thu hút vốn của NHTM.

+ Chính sách tỷ giá của NHTW cũng ảnh hưởng đến khả năng thu hút
vốn của NHTM vì chính sách tỷ giá liên quan đến tỷ lệ trượt giá của đồng tiền, do
đó sẽ ảnh hưởng đến lãi suất tiền gửi

...........

• Thông tin đại chúng

Đây là phương tiện để chuyển tải những thông tin về NH, thông tin về chính
sách lãi suất hay những tiện ích của NHTM đến mọi người. Tuy nhiên nó có thể
tác động tích cực hoặc cũng có thể tác động tiêu cực đến hoạt động của NH, qua
đó sẽ ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của nguồn vốn huy động.

• Những nhân tố liên quan đến dân cư: như thói quen chi tiêu của dân
chúng, trình độ văn hóa của dân cư, sự tin tưởng của người dân vào NH.......

1.1.3.Vốn vay (Borrowed Capital)

Trong quá trình kinh doanh của các NHTM có tình trạng tạm thời thừa vốn
hoặc thiếu vốn. Các NH sử dụng quan hệ vãng lai, vay và cho vay vốn để tận dụng
cơ hội kinh doanh hoặc bảo đảm khả năng thanh toán. NHTM có thể vay vốn ở
NHTM khác hoặc vay vốn ở NHTW.

1.1.3.1. Thành phần vốn vay

a) Vốn vay của Tổ chức tín dụng khác

-17-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Đây là nguồn các NHTM vay mượn lẫn nhau và vay của ác Tổ chức tín dụng
khác thông qua thị trường liên ngân hàng (Interbank Market). Quá trình vay mượn
phải đảm bảo các nguyên tắc:

• Các NH phải hoạt động hợp pháp

• Thực hiện việc cho vay và đi vay theo đúng hợp đồng tín dụng

• Vốn vay phải được đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố hoặc xin bảo lãnh
của NHTW.

Ngoài ra, NHTM trong nước có thể vay các NHTM nước ngoài.

b) Vốn vay của NHTW

Theo nguyên tắc NHTW là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế, vì vậy
sau khi các NHTM vay vốn từ các nguồn khác mà vẫn chưa đủ thì NHTM có thể
được NHTW cho vay vốn.

Ở Việt Nam hiện nay, NHNN cho các tổ chức tín dụng là ngân hàng vay vốn
ngắn hạn dưới hình thức tái cấp vốn theo các loại sau:

• Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng

• Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác

• Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác.

Ngoài ra, NHNN còn cho NHTM vay bổ sung vốn thiếu hụt trong thanh toán
bù trừ và trong trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận,
NHNN cho vay đối với NHTM tạm thời mất khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất
an toàn cho hệ thống.

1.1.3.2. Vai trò và nhân tố ảnh hưởng vốn vay

-18-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

a) Vai trò

Vốn vay của Tổ chức tín dụng khác và vay của NHTW thường chiếm tỷ trọng
không lớn trong tổng vốn kinh doanh của NHTM, nhưng nó có vị trí quan trọng
góp phần gia tăng nguồn vốn, mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Đặc biệt nó còn
có ý nghĩa trong việc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên và nâng cao hiệu
suất sử dụng vốn của NHTM.

b) Các nhân tố ảnh hưởng

• Chính sách tiền tệ từng thời kỳ

Khi mục tiêu của chính sách tiền tệ là mở rộng, việc vay NHNN sẽ trở nên dễ
dàng hơn đối với các NHTM nhờ lãi suất tái chiết khấu thấp. Ngược lại khi chính
sách tiền tệ thắt chặt được triển khai, NHNN sẽ tăng mức lãi suất tái chiết khấu để
hạn chế việc NHTM đến vay tiền

• Uy tín của NHTM

1.1.4. Các nguồn vốn khác

1.1.4.1. Vốn trong thanh toán

Vốn trong thanh toán là số vốn có được do ngân hàng làm trung gian thanh
toán trong nền kinh tế. Cụ thể:

- Số vốn trong thời gian đã trích khỏi tài khoản của người trả nhưng chưa chuyển
vào tài khoản của người hưởng do phải luân chuyển, xử lý chứng từ thanh toán.

- Số vốn trong thời gian khách hàng lưu ký tại NH nhưng chưa thanh toán trong
một số hình thức thanh toán như sec bảo chi, sec định mức, thư tín dụng (L/C), thẻ
tín dụng ký quỹ, các khoản tiền phong tỏa do NH chấp nhận hối phiếu thương
mại.....

Khi công nghệ thanh toán của NH ngày càng hiện đại, quy trình thủ tục thanh
toán được cải thiện thì thời gian của mỗi tài khoản thanh toán cũng giảm. Nhưng

-19-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

do ngày càng nhiều khách hàng mở tài khoản và khoản thanh toán được thực hiện
ngày càng tăng làm cho số vốn này có điều kiện gia tăng.

1.1.4.2. Vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ hoặc của các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội

Đây là nguồn vốn mà NH có được do làm đại lý nhận ủy thác của các tổ chức
trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư cho những chương trình, dự án. NH chỉ
đóng vai trò là trung gian hưởng phí. Trong thời gian vốn được NH tiếp nhận
nhưng chưa giải ngân hết theo kế hoạch, hoặc vốn cho vay đã thu hồi về nhưng
chưa đến hạn chuyển lại cho chủ đầu tư, NH có được nguồn vốn để kinh doanh.

Ngoài ra, NHTM còn làm đại lý bán cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh nghiệp
cũng như thu hộ lợi tức từ đầu tư chứng khoán cho khách hàng.....Những nghiệp
vụ này cũng tạo được thêm vốn cho NHTM.

* Đặc điểm: Nhìn chung, các nguồn vốn khác của NHTM thường không lớn, thời
gian sử dụng đôi khi rất ngắn nhưng điều đáng quan tâm là nguồn vốn này ngân
hàng không phải tốn kém chi phí huy động, lại có điều kiện phát triển các nghiệp
vụ và dịch vụ ngân hàng khác, phục vụ tốt nhất cho nhu cầu của khách hàng.

1.2.Quản lý nguồn vốn

1.2.1. Sự cần thiết phải quản lý nguồn vốn của NHTM

Quản lý nguồn vốn tức là quản lý tài sản nợ, nó cần thiết đối với bất kỳ đơn vị
kinh doanh nào. Quản lý nguồn vốn đối với NHTM nhằm mục đích:

- Khai thác tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội từ các tổ chức kinh tế và mọi
tầng lớp dân cư.

- Đảm bảo sự tăng trưởng nguồn vốn ổn định, bền vững, làm tiền đề cho việc nâng
cao thị phần, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu vốn cho khách hàng cả về số lượng, thời
hạn và lãi suất.

-20-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

- Đảm bảo khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.

1.2.2.Các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của NHTM

Các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD)
được thực hiện theo quy định của NHNN tại Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN

và Quyết định 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007. Đây là các chỉ tiêu bắt buộc
áp dụng đối với các NHTM Việt Nam. Để quản lý nguồn vốn một cách hiệu quả
các NHTM phải thường xuyên theo dõi, điều chỉnh các tỷ lệ này theo quy định của
pháp luật.

1.2.2.1.Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu

Tổng số vốn tự có

Hệ số an toàn vốn =

Tổng tài sản có (kể cả các cam kết ngoại bảng)

được điều chỉnh theo mức độ rủi ro

Trong đó:

Tổng tài sản có rủi ro quy đổi = (Tài sản có rủi ro nội bảng X hệ số rủi
ro) + (Tài sản có rủi ro ngoại bảng X hệ số rủi ro)

a)Tài sản "Có" nội bảng được phân nhóm theo các mức độ rủi ro như sau:

 Nhóm tài sản "Có" có hệ số rủi ro 0% gồm:

• Tiền mặt.

• Vàng.

• Tiền gửi bằng Đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng nhà nước đã
duy trì tại Ngân hàng chính sách xã hội theo Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày

-21-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

4/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính
sách khác.

• Các khoản cho vay bằng vốn tài trợ, ủy thác đầu tư theo các hợp đồng
ủy thác trong đó tổ chức tín dụng chỉ hưởng phí ủy thác và không chịu rủi ro.

• Các khoản phải đòi bằng Đồng Việt Nam đối với Chính phủ Việt
Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

• Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá do chính tổ chức
tín dụng phát hành.

• Các khoản phải đòi bằng Đồng Việt Nam được bảo đảm bằng giấy tờ
có giá do chính tổ chức tín dụng phát hành; Các khoản phải đòi được bảo đảm
hoàn toàn bằng tiền mặt, sổ tiết kiệm, tiền ký quỹ, giấy tờ có giá do Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành.

• Các khoản phải đòi đối với Chính phủ Trung ương, Ngân hàng
Trương ương các nước thuộc khối OECD.

• Các khoản phải đòi được bảo đảm bằng chứng khoán của Chính phủ
Trung ương các nước thuộc khối OECD hoặc được bảo lãnh bởi Chính phủ Trung
ương các nước thuộc khối OECD.

 Nhóm tài sản "Có" có hệ số rủi ro 20% gồm:

• Các khoản phải đòi đối với tổ chức tín dụng khác ở trong nước và
nước ngoài, đối với từng loại đồng tiền.

• Các khoản phải đòi đối với Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương; Các khoản phải đòi bằng ngoại tệ đối với Chính phủ Việt Nam,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

-22-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

• Các khoản phải đòi được bảo đảm bằng giấy tờ có giá do tổ chức tín
dụng khác thành lập tại Việt Nam phát hành.

• Các khoản phải đòi đối với tổ chức tài chính nhà nước; các khoản phải
đòi được bảo đảm bằng giấy tờ có giá do các tổ chức tài chính nhà nước phát hành.

• Kim loại quý (trừ vàng), đá quý.

• Tiền mặt đang trong quá trình thu.

• Các khoản phải đòi đối với các ngân hàng IBRD, IADB, ADB,
AFDB, EIB, EBRD và Các khoản phải đòi được các được các ngân hàng này bảo
lãnh hoặc được bảo đảm bằng chứng khoán do các ngân hàng này phát hành. Các
khoản phải đòi đối với các ngân hàng được thành lập ở các nước thuộc khối
OECD và các khoản phải đòi được bảo lãnh bởi các ngân hàng này.

• Các khoản phải đòi đối với các công ty chứng khoán được thành lập ở
các nước thuộc khối OECD có tuân thủ những thỏa thuận quản lý và giám sát về
vốn trên cơ sở rủi ro và những khoản phải đòi được các công ty này bảo lãnh.

• Các khoản phải đòi đối với các ngân hàng được thành lập ngoài các
nước thuộc khối OECD, có thời hạn còn lại dưới 1 năm và các khoản phải đòi có
thời hạn còn lại dưới 1 năm được các ngân hàng này bảo lãnh.

 Nhóm tài sản "Có" có hệ số rủi ro 50% gồm:

• Các khoản đầu tư cho dự án theo hợp đồng, quy định tại Nghị định số
79/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của
công ty tài chính.

• Các khoản phải đòi có bảo đảm bằng Bất động sản của bên vay.

 Nhóm tài sản "Có" có hệ số rủi ro 100% gồm:

-23-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

• Các khoản cấp vốn điều lệ cho các công ty trực thuộc không phải là tổ
chức tín dụng, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập.

• Các khoản đầu tư dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần vào các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế khác.

• Các khoản phải đòi đối với các ngân hàng được thành lập ở các nước
không thuộc khối OECD, có thời hạn còn lại từ 1 năm trở lên.

Các khoản phải đòi đối với chính quyền Trung ương của các nước không thuộc
khối OECD, trừ trường hợp cho vay bằng đồng bản tệ và nguồn cho vay cũng
bằng đồng bản tệ của các nước đó.

• Bất động sản, máy móc, thiết bị và tài sản cố định khác.

• Các khoản phải đòi khác

 Nhóm tài sản “Có” có hệ số rủi ro 150% gồm:

• Các khoản cho vay để đầu tư vào chứng khoán;

• Các khoản cho vay các công ty chứng khoán với mục đích kinh doanh,
mua bán chứng khoán.

• Các khoản cho vay các doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm
“quyền kiểm soát.”

b) Tài sản "Có" rủi ro của các cam kết ngoại bảng:

 Các cam kết bảo lãnh, tài trợ cho khách hàng:

* Hệ số chuyển đổi

• Hệ số chuyển đổi 100%: Các cam kết không thể hủy ngang, thay thế
hình thức cấp tín dụng trực tiếp, nhưng có mức độ rủi ro như cấp tín dụng trực
tiếp, gồm:

-24-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

 Bảo lãnh vay.

 Bảo lãnh thanh toán.

 Các khoản xác nhận thư tín dụng; Thư tín dụng dự phòng bảo lãnh
tài chính cho các khoản cho vay, phát hành chứng khoán; Các khoản chấp nhận
thanh toán bao gồm các khoản chấp nhận thanh toán dưới hình thức ký hậu, trừ
các khoản chấp nhận thanh toán hối phiếu.

• Hệ số chuyển đổi 50%: Các cam kết không thể hủy ngang đối với
trách nhiệm trả thay của tổ chức tín dụng, gồm:

 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng.

 Bảo lãnh dự thầu.

 Bảo lãnh khác.

 Thư tín dụng dự phòng ngoài thư tín dụng quy định tại mục trên

 Các cam kết khác có thời hạn ban đầu từ 1 năm trở lên.

• Hệ số chuyển đổi 20%: Các cam kết liên quan đến thương mại, gồm:

 Thư tín dụng không hủy ngang.

 Chấp nhận thanh toán hối phiếu thương mại ngắn hạn, có bảo đảm
bằng hàng hóa.

 Bảo lãnh giao hàng.

 Các cam kết khác liên quan đến thương mại.

• Hệ số chuyển đổi 0%:

 Thư tín dụng có thể hủy ngang.

-25-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

 Các cam kết có thể hủy ngang vô điều kiện khác, có thời hạn ban
đầu dưới 1 năm.

* Hệ số rủi ro

Hệ số rủi ro của giá trị các cam kết ngoại bảng sau khi chuyển đổi như sau:

• Hệ số rủi ro 0%: Các giá trị cam kết ngoại bảng được Chính phủ Việt
Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo lãnh hoặc được bảo đảm hoàn toàn bằng
tiền mặt, sổ tiết kiệm, tiền ký quỹ, giấy tờ có giá do Chính phủ, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam phát hành:

• Hệ số rủi ro 50%: Có tài sản bảo đảm bằng Bất động sản của bên vay

• Hệ số rủi ro 100%: Trường hợp khác

 Các hợp đồng giao dịch lãi suất và hợp đồng giao dịch ngoại tệ:

*Hệ số chuyển đổi:

• Hợp đồng giao dịch lãi suất:

 Có kỳ hạn ban đầu dưới 1 năm: 0,5%

 Có kỳ hạn ban đầu từ 1 năm đến dưới 2 năm: 1,0%

 Có kỳ hạn ban đầu từ 2 năm trở lên: 1,0% cho phần kỳ hạn dưới 2
năm cộng thêm (+) 1,0% cho mỗi năm tiếp theo.

• Hợp đồng giao dịch ngoại tệ:

 Có kỳ hạn ban đầu dưới 1 năm: 2,0%

 Có kỳ hạn ban đầu từ 1 năm đến dưới 2 năm: 5,0%

 Có kỳ hạn ban đầu từ 2 năm trở lên: 5,0% cho phần kỳ hạn dưới 2
năm cộng thêm (+) 3,0% cho mỗi năm tiếp theo.

-26-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

*Hệ số rủi ro: Hệ số rủi ro đối với giá trị các hợp đồng giao dịch lãi suất và
hợp đồng giao dịch ngoại tệ sau khi chuyển đổi nêu trên là 100%.

c) Theo quy định của NHNN Việt Nam các tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài
sản "Có" rủi ro. Hệ số này càng cao thì sức chịu đựng rủi ro của ngân hàng càng
lớn.

1.2.2.2. Giới hạn tín dụng đối với khách hàng.

a) Giới hạn cho vay, bảo lãnh:

 Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không
được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.

Tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách
hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức tín dụng.

 Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng
có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trong đó
mức cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định tại mục
trên.

Tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một nhóm
khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của tổ chức tín
dụng.

 Tổng dư nợ cho vay của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một
khách hàng tối đa không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài.

Tổng mức cho vay và bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối
với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng nước
ngoài.

-27-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Tổng dư nợ cho vay của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với nhóm
khách hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng nước
ngoài, trong đó mức cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15%
vốn tự có của ngân hàng nước ngoài.

Tổng mức cho vay và bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối
với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của
ngân hàng nước ngoài.

b) Giới hạn cho thuê tài chính:

 Tổng mức cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt
quá 30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính.

 Tổng mức cho thuê tài chính đối với một nhóm khách hàng có liên quan
không được vượt quá 80% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính, trong đó mức
cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định tại
mục trên.

c) Các giới hạn trên không áp dụng đối với trường hợp sau đây:

 Các khoản cho vay, cho thuê tài chính từ các nguồn vốn ủy thác của
Chính phủ, của các tổ chức khác.

 Các khoản cho vay đối với Chính phủ Việt Nam.

 Các khoản cho vay các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam, có
thời hạn dưới 1 năm.

 Các khoản cho vay có bảo đảm bằng trái phiếu Chính phủ hoặc trái phiếu
do Chính phủ các nước thuộc khối OECD phát hành.

 Các khoản cho vay có bảo đảm đầy đủ bằng tiền gửi, kể cả tiền gửi tiết
kiệm, tiền ký quỹ tại tổ chức tín dụng.

-28-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

 Các khoản cho vay có bảo đảm đầy đủ bằng chứng khoán nhận nợ do
chính tổ chức tín dụng phát hành.

 Các khoản cho vay vượt mức 15% vốn tự có đã được Thủ tướng Chính
phủ quyết định cụ thể; các khoản cho vay và bảo lãnh vượt mức 25% vốn tự có
của tổ chức tín dụng đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận trước bằng văn bản.

1.2.2.3. Tỷ lệ về khả năng chi trả

a) Tổ chức tín dụng phải thường xuyên đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả đối
với từng loại đồng tiền, vàng như sau:

 Tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản "Có" có thể thanh toán ngay và
các tài sản "Nợ" sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian 1 tháng tiếp theo.

 Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản "Có" có thể thanh toán ngay trong
khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo và tổng tài sản Nợ phải thanh toán
trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo.

b) Tài sản "Có" có thể thanh toán ngay bao gồm:

 Tiền mặt.

 Vàng.

 Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước.

 Số chênh lệch lớn hơn giữa tiền gửi không kỳ hạn tại tổ chức tín dụng
khác và tiền gửi không kỳ hạn nhận của tổ chức tín dụng đó.

 Tiền gửi có kỳ hạn tại tổ chức tín dụng khác đến hạn thanh toán.

 Các loại chứng khoán do Chính phủ Việt Nam phát hành hoặc được
Chính phủ Việt Nam bảo lãnh

 Các loại chứng khoán do Chính phủ các nước thuộc khối OECD phát
hành

-29-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

 Các loại chứng khoán do các ngân hàng của các nước thuộc khối OECD
phát hành.

 Các hối phiếu của bộ chứng từ thanh toán hàng xuất khẩu đã được ngân
hàng nước ngoài chấp nhận thanh toán, có thời hạn còn lại từ 01 tháng trở xuống:
100% số tiền ghi trên hối phiếu.

 80% các khoản cho vay có bảo đảm, cho thuê tài chính, sẽ đến hạn thanh
toán (gốc, lãi) trong thời gian 1 tháng.

 75% các khoản cho vay không có bảo đảm, đến hạn thanh toán.

 Các loại chứng khoán khác.

 Các khoản khác đến hạn phải thu.

c) Tài sản "Nợ" phải thanh toán bao gồm:

 Số chênh lệch lớn hơn giữa tiền gửi nhận của tổ chức tín dụng khác và
tiền gửi tại tổ chức tín dụng đó đến hạn thanh toán.

 15% tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức (trừ tiền gửi của tổ chức tín dụng
khác), cá nhân.

 Giá trị các cam kết cho vay của tổ chức tín dụng đến hạn thực hiện.

 Tất cả các tài sản "Nợ" khác sẽ đến hạn thanh toán.

1.2.2.4. Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn
và dài hạn

a) Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn tổ chức tín dụng được sử dụng để cho
vay trung hạn và dài hạn:

 Ngân hàng thương mại: 40%

 Tổ chức tín dụng khác: 30%

-30-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

b) Nguồn vốn ngắn hạn của tổ chức tín dụng được sử dụng để cho vay trung
hạn và dài hạn bao gồm:

 Tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn dưới 12 tháng của tổ chức (kể cả tổ
chức tín dụng khác), cá nhân.

 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn dưới 12 tháng của cá nhân.

 Nguồn vốn huy động dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn.

 Phần chênh lệch lớn hơn giữa số tiền vay của tổ chức tín dụng khác và
tiền cho tổ chức tín dụng đó vay có kỳ hạn dưới 12 tháng.

* Nếu Tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài
hạn cao hơn tỷ lệ quy định trên thì phải có văn bản đề nghị Ngân hàng Nhà nước
chấp thuận, trong đó nêu rõ lý do, tỷ lệ tối đa và các biện pháp quản lý đáp ứng
khả năng chi trả. Ngân hàng Nhà nước chỉ có thể xem xét, chấp thuận đề nghị nói
trên của tổ chức tín dụng đã tuân thủ các tỷ lệ khác về bảo đảm an toàn trong hoạt
động ngân hàng, có tỷ lệ nợ xấu (NPL) dưới 3% tổng dư nợ và có hệ thống quản lý
tài sản "Có", tài sản"Nợ" tốt.

1.2.2.5. Giới hạn góp vốn, mua cổ phần

a) Mức đầu tư vào một khoản đầu tư thương mại của tổ chức tín dụng tối đa
không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp, quỹ đầu tư hoặc 11% giá
trị dự án đầu tư.

b) Tổng mức đầu tư trong tất cả các khoản đầu tư thương mại của tổ chức tín
dụng không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của tổ chức tín dụng.

c) Tổ chức tín dụng đầu tư vào một khoản đầu tư thương mại vượt quá tỷ lệ
quy định ở mục a) thì phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận trước bằng văn
bản với điều kiện khoản đầu tư đó là hợp lý và tổ chức tín dụng đã chấp hành các

-31-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng, có tỷ lệ nợ xấu (NPL) từ 3% tổng dư nợ


trở xuống.

1.2.3.Quản lý vốn chủ sở hữu

Quản lý vốn chủ sở hữu thực chất là xác định qui mô và cấu trúc VCSH sao
cho phù hợp với yêu cầu kinh doanh, qui định của Luật pháp, đồng thời tìm các
biện pháp tăng VCSH một cách có hiệu quả trên quan điểm lợi ích của chủ sở hữu.

1.2.3.1. Xác định quy mô của VCSH (Vốn tự có)

* Ta có công thức xác định vốn tự có

Vốn tự có = Vốn tự có cấp 1 + Vốn tự có cấp 2

* Ta có công thức xác định vốn tự có để tính tỷ lệ an toàn tối thiểu:

Vốn tự có = Vốn tự có cấp 1 + Vốn tự có cấp 2 – Các khoản giảm trừ

Trong đó: Vốn tự có cấp 1, vốn tự có cấp 2 và các khoản giảm trừ đã được trình
bày ở mục 1.1.1.1.

1.2.3.2. Các biện pháp gia tăng VCSH

a) Phát hành cổ phiếu

Phát hành cổ phiếu là biện pháp dành riêng cho các ngân hàng thương mại cổ
phần. Biện pháp được các ngân hàng thương mại cổ phần sử dụng rất phổ biến
trong giai đoạn này để tăng vốn.

-32-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Có hai hình thức chủ yếu là phát hành cổ phiếu thường (cổ phiếu phổ thông)
hoặc cổ phiếu ưu đãi.

 Cổ phiếu thường(CP phổ thông): Là một loại chứng khoán được phát
hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích
hợp pháp của cổ đông thường đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần.
Cổ phiếu thường cho phép cổ đông thường được hưởng các quyền lợi đối với công
ty như quyền biểu quyết những vấn đề liên quan đến quản lý công ty, quyền được
hưởng cổ tức cao từ lợi nhuận sau thuế...

 Cổ phiếu ưu đãi: là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của cổ đông ưu
đãi đối với phần vốn góp vào công ty cổ phần; đồng thời cho phép cổ đông ưu đãi
được hưởng một số quyền ưu đãi lớn hơn so với các cổ đông thường như: ưu đãi
về cổ tức( nhận cổ tức theo mức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh
doanh,tích luỹ cổ tức...),chuyển đổi thành cổ phiếu thường (đối với cổ phiếu ưu
đãi chuyển đổi)...

Các ngân hàng cổ phần tuỳ thuộc vào nhu cầu cụ thể của mình mà có thể phát
hành thêm cổ phiếu thường hay cổ phiếu ưu đãi.

*Ưu điểm của biện pháp tăng vốn bằng cổ phiếu:

 Việc phát hành cổ phiếu vừa giúp các ngân hàng tăng quy mô vốn kinh
doanh dài hạn lại vừa giúp các ngân hàng tránh được nghĩa vụ nợ nần, không phải
lo việc trả vốn gốc và lãi.

 Khi sử dụng biện pháp này sẽ giúp các ngân hàng thương mại tăng quy
mô vốn chủ sở hữu do đó làm thay đổi kết cấu các loại vốn ( kết cấu giữa vốn chủ
sở hữu / nợ phải trả, vốn thường xuyên(dài hạn) / vốn tạm thời(ngắn hạn)...).Như
vậy, làm tăng độ vững chắc về tài chính của ngân hàng, tăng hệ số đảm bảo nợ,
tăng độ tín nhiệm của ngân hàng... từ đó giúp tăng khả năng vay vốn, huy động
vốn của ngân hàng trong tương lai.

-33-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

 Vì cổ phiếu đại diện cho quyền sở hữu của người nắm giữ cổ phiếu
trong ngân hàng và việc phân chia cổ tức cho cổ đông không phải là cố định mà
tuỳ thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng nên các ngân hàng thường có độ
chủ động cao hơn trong việc sử dụng vốn thu được do phát hành cổ phiếu.

*Nhược điểm của biện pháp tăng vốn bằng cổ phiếu:

 Việc phát hành cổ phiếu (đặc biệt là cổ phiếu thường) ra công chúng sẽ
làm tăng số cổ đông sở hữu ngân hàng và như vậy dẫn tới việc phân chia quyền
kiểm soát và quyền biểu quyết. Điều này dẫn đến bất lợi cho các cổ đông hiện
hành.

 Vì cổ phiếu liên quan đến cổ tức nên việc phát hành thêm cổ phiếu mới
ra công chúng đồng nghĩa với việc các cổ đông hiện hành sẽ phải chia sẻ một phần
lợi ích của mình với cổ đông mới. Để giảm thiểu nhược điểm này các ngân hàng
cần phải sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn tăng thêm do phát hành cổ phiếu,
tạo ra một tỉ suất lợi nhuận cao để đảm bảo việc chi trả cổ tức cho các cổ đông.

 Khác với các hình thức vay vốn thì lãi phải trả được tính vào chi phí khi
tính thuế thu nhập doanh nghiệp nên giảm được khoản thuế phải nộp cho nhà
nước, thì cổ tức chi trả cho cổ đông lại lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đặc điểm này sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sử dụng vốn cổ phiếu - yếu tố quan trọng mà các
ngân hàng phải cân nhắc khi lựa chọn các giải pháp tăng vốn.

b) Phát hành trái phiếu

Trái phiếu ngân hàng là chứng chỉ vay vốn do các ngân hàng phát hành, thể
hiện nghĩa vụ và sự cam kết của ngân hàng về thanh toán số lợi tức tiền vay cho
người nắm giữ trái phiếu vào những thời hạn đã xác định và hoàn trả khoản vay
ban đầu khi trái phiếu đáo hạn.

 Tăng vốn bằng cách phát hành trái phiếu dài hạn:

-34-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Đây là biện pháp hiệu quả để tăng cường năng lực tài chính của ngân hàng
đáp ứng những nhu cầu trước mắt, nhưng về bản chất đây chỉ là tăng vốn tự có
trên danh nghĩa, còn về lâu dài sẽ là một gánh nặng nợ nần, đồng thời chi phí vốn
cao sẽ làm suy giảm mức lợi nhuận của ngân hàng.

 Tăng vốn bằng phát hành trái phiếu chuyển đổi:

Trái phiếu chuyển đổi là trái phiếu có thể chuyển thành cổ phiếu thường vào
một thời điểm xác định trong tương lai.

Loại trái phiếu này vừa có đặc điểm của trái phiếu là được trả một mức lãi
suất cố định, nhưng mặt khác lại có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu thường
của ngân hàng và đây cũng chính là điểm hấp dẫn của trái phiếu chuyển đổi.

*Một số lợi điểm khi phát hành trái phiếu:

 Lãi suất (hay lợi tức) phải trả cho trái phiếu thường được cố định trước
và được tính vào chi phí kinh doanh của ngân hàng nên sẽ giúp các ngân hàng
giảm được một khoản thuế phải nộp đồng thời giúp nâng cao mức doanh lợi vốn
chủ sở hữu.

 Vì trái phiếu là chứng khoán nợ nên ngân hàng không phải phân chia
quyền kiểm soát cho các trái chủ ; số lượng cổ phiếu không tăng nên thu nhập trên
mỗi cổ phần được đảm bảo.

 Vì là nợ phải trả có kỳ hạn nên ngân hàng có thể thay đổi cơ cấu vốn
kinh doanh một cách linh hoạt, chủ động thông qua việc ngừng phát hành trái
phiếu hoặc mua lại các trái phiếu đang lưu hành.

 Khi phát hành trái phiếu chuyển đổi, ngân hàng có thể định một mức lãi
suất cố định thấp hơn của trái phiếu không có khả năng chuyển đổi.

*Một số nhược điểm khi phát hành trái phiếu:

-35-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

 Ngân hàng sẽ chịu sức ép về nợ nần, phải thanh toán các khoản nợ gốc
và lãi khi tới hạn

 Hệ số nợ của ngân hàng sẽ tăng lên khi phát hành thêm trái phiếu.

 Trái phiếu chuyển đổi cũng sẽ mang đến một số bất lợi có thể có cho
ngân hàng và các cổ đông của ngân hàng khi trái phiếu được chuyển đổi thành cổ
phiếu, vốn chủ sở hữu bị “pha loãng” do tăng số lượng cổ phiếu lưu hành, từ đó
gây ra sự thay đổi trong việc kiểm soát ngân hàng; nợ của ngân hàng giảm thông
qua chuyển đổi sẽ làm mất đi sự cân bằng của cán cân nợ-vốn.

c) Lợi nhuận giữ lại

Sau mỗi kỳ kinh doanh, số lợi nhuận thu được sau khi nộp thuế cho nhà nước
được phân chia một phần cho các chủ sở hữu dưới dạng cổ tức, một phần được giữ
lại tại ngân hàng để bổ xung vốn kinh doanh.

Tỷ lệ phân chia cổ tức cho cổ đông và giữ lại để tăng vốn cho ngân hàng phụ
thuộc vào chính sách phân chia cổ tức của từng ngân hàng thương mại và đây là
một trong những chính sách tài chính quan trọng của các ngân hàng.

Việc giữ lại lợi nhuận để tăng vốn cho ngân hàng là hình thức tích luỹ vốn để
tái đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh được tất cả các ngân hàng thương mại áp
dụng. Tuy nhiên việc giữ lại nhiều hay ít, một phần hay toàn bộ lợi nhuận đòi hỏi
các ngân hàng cần phải có những tính toán sao cho hợp lý, phù hợp với mục tiêu
và kế hoạch của ngân hàng mình.

 Khi tỷ lệ lợi nhuận giữ lại ở mức cao sẽ càng đẩy mạnh quá trình tích
luỹ vốn và làm giảm yêu cầu huy động vốn từ bên ngoài; do đó làm giảm mức độ
phụ thuộc vào các nguồn cung cấp từ bên ngoài, dẫn đến giảm rủi ro tài chính cho
ngân hàng. Tuy nhiên, việc này dẫn đến làm giảm thu nhập của cổ đông, nếu kéo
dài sẽ ảnh hưởng tới giá của cổ phiếu cũng như lòng tin của các nhà đầu tư.

-36-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

 Ngược lại, khi tỷ lệ lợi nhuận giữ lại ở mức thấp do tỷ lệ chi trả cổ tức
cao sẽ dẫn đến tăng trưởng vốn chậm chạp, có thể làm giảm khả năng mở rộng tài
sản sinh lời, tăng rủi ro phá sản.

Vì vậy, nếu một ngân hàng có tỷ lệ lợi nhuận giữ lại để bổ sung vốn tự có ổn
định qua các năm và tương ứng với tốc độ tăng trưởng tài sản có thì chứng tỏ ngân
hàng đang có một sự phát triển ổn định, thể hiện mức độ ủng hộ cao của các cổ
đông đối với chính sách cổ tức của ban lãnh đạo ngân hàng.

d) Cổ phần hoá

Đây là biện pháp tăng vốn của các ngân hàng thương mại nhà nước. Thực
chất của việc cổ phần hoá là việc chuyển đổi hình thức sở hữu từ sở hữu nhà nước
sang cổ phần bằng biện pháp phát hành cổ phiếu.

Trong thời kỳ kinh tế ngày càng phát triển, vấn đề hội nhập càng ngày càng
trở nên cấp thiết hơn đòi hỏi các ngân hàng cần phải có một tiềm lực tài chính thật
lớn mạnh mà nếu chỉ trông chờ vào phần vốn cấp của nhà nước thì không đủ.

Khi cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước trở thành các ngân
hàng thương mại cổ phần nhà nước sẽ có rất nhiều lợi thế:

 Tăng quy mô vốn của ngân hàng lên và đa dạng thêm nhiều nguồn bổ
xung vốn như: Vốn của nhân dân, nhà đầu tư nước ngoài, các tập đoàn tài chính...

 Khi các nhà đầu tư nước ngoài, các tập đoàn tài chính lớn trở thành cổ
đông, các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước có thể được tiếp xúc với cách
thức quản lý mới, khoa học công nghệ mới...nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngân hàng.

Tuy trở thành ngân hàng thương mại cổ phần song lượng cổ phần bán ra tối
đa cho các nhà đầu tư là 49%, tức là nhà nước vẫn chiếm cổ phần cao hơn là 51%,
nên vẫn có thể kiểm soát hoạt động của ngân hàng theo chiến lược của mình.

-37-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

1.2.3.3. Hiệu quả sử dụng VCSH

a) Đo lường hiệu quả sử dụng VCSH

Hiệu quả sử dụng VCSH = Lợi nhuận sau thuế / VCSH

b) Các tỷ lệ liên quan VCSH

* Các tỷ lệ an toàn: Tiền gửi/VCSH; Dư nợ/VCSH; Dư nợ tối đa/VCSH;

VCSH/Tổng tài sản chuyển đổi theo hệ số rủi ro... Đã trình bày ở mục 1.2.2.

1.2.4.Quản lý vốn nợ (quản lý vốn huy động, vốn vay, và các vốn khác)

1.2.4.1.Quản lí qui mô và cơ cấu nợ

* Quản lí qui mô và cơ cấu nhằm đưa ra và thực hiện các biện pháp để gia tăng qui
mô và thay đổi cơ cấu một cách có hiệu quả nhất.

* Gia tăng nguồn theo chuẩn mực nào đó là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt
động của ngân hàng, là điều kiện để ngân hàng mở rộng qui mô hoạt động, nâng
cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn. Cơ cấu nợ ảnh hưởng tới cơ
cấu tài sản và quyết định chi phí của ngân hàng. Quản lí qui mô và cơ cấu nợ gồm
các nội dung:

+ Thống kê đầy đủ, kịp thời các thay đổi về các loại nguồn, tốc độ quay vòng
của mỗi loại.

+ Phân tích kỹ lưỡng các nhân tố gắn liền với thay đổi đó (các nhân tố ảnh
hưởng và bị ảnh hưởng)

+ Lập kế hoạch nguồn cho từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu sử dụng.

-38-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Công tác thống kê nguồn sẽ cho các nhà quản lí nghiên cứu mối quan hệ giữa
số lượng, cấu trúc nguồn với các nhân tố ảnh hưởng cũng như thấy được đặc tính
của thị trường nguồn của ngân hàng.

Trong điều kiện cụ thể, các nguồn của một ngân hàng có thể có tốc độ và qui
mô thay đổi khác nhau. Các ngân hàng lớn có qui mô nguồn lớn và tốc độ tăng
trưởng nguồn có thể không cao như các ngân hàng nhỏ. Những ngân hàng ở trung
tâm tiền tệ có cơ cấu nguồn khác với ngân hàng ở xa.

Những nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi qui mô và kết cấu của nguồn
tiền thường xuyên thay đổi và cần phải được nghiên cứu kĩ lưỡng. Đây là cơ sở để
ngân hàng đưa ra các quyết định phù hợp để thay đổi qui mô và kết cấu nguồn
tiền. Vào dịp gần Tết, qui mô của tiền gửi tiết kiệm có thể giảm xuống tương đối;
hoặc nếu ngân hàng phục vụ chủ yếu các doanh nghiệp xâu lắp, tiền gửi của họ
tăng giảm phụ thuộc nhiều vào mùa xây dựng. Từ đó, ngân hàng cần phân biệt các
loại khách hàng gắn với qui mô và tốc độ gia tăng của mỗi nguồn. Các khách
hàng, hoặc nhóm khách hàng có tiền gửi lớn cần được đặc biệt chú ý, các nhóm
khách hàng truyền thống, các nhóm khách hàng nhạy cảm với những thay đổi về
công nghệ, lãi suất và chất lượng dịch vụ kèm theo cần phải được nghiên cứu cụ
thể. Nhà quản lí cũng cần xem xét thị phần nguồn tiền của các ngân hàng khác trên
địa bàn và khả năng cạnh tranh của họ.

Kế hoạch nguồn cần được xây dựng cho từng giai đoạn, bao gồm kế hoạch gia
tăng qui mô của mỗi nguồn, nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư hoặc nhu cầu
chi trả cho các doanh nghiệp và dân chúng, khả năng thay đổi cơ cấu nguồn, hoặc
tìm kiếm nguồn mới. Kế hoạch nguồn được đặt trong kế hoạch sử dụng và lợi
nhuận kỳ vọng, bao gồm kế hoạch về lãi suất, mở chi nhánh hoặc điểm huy động,
loại nguồn, tiếp thị...

1.2.4.2.Quản lý lãi suất chi trả

-39-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

* Quản lý lãi suất của các khoản nợ là xác định các loại và cơ cấu lãi suất trả cho
các nguồn tiền khác nhau nhằm đảm bảo duy trì qui mô và kết cấu nguồn phù hợp
với yêu cầu sinh lợi của ngân hàng.

* Quản lý lãi suất của các khoản nợ là một bộ phận trong quản lí chi phí của ngân
hàng. Lãi suất chi trả càng cao càng có thể huy động được lớn, từ đó mà mở rộng
cho vay và đầu tư. Tuy nhiên, lãi suất cao làm gia tăng chi phí của ngân hàng và
nếu doanh thu không tăng kịp chi phí, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm tương ứng.
Vì vậy, quản lý lãi suất của nguồn vốn có liên quan chặt chẽ với quản lý lãi suất
cho vay và đầu tư của ngân hàng.

* Nội dung quản lý lãi suất:

+ Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất huy động.

+ Đa dạng hóa lãi suất

Lãi suất huy động gắn liền với mỗi loại sản phẩm của ngân hàng và với mỗi
ngân hàng. Lãi suất huy động thay đổi thường xuyên dưới ảnh hưởng của nhiều
nhân tố:

+ Khả năng tiết kiệm và gia tăng tiết kiệm của quốc gia

+ Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp, Nhà nước và hộ gia đình.

+ Tỷ lệ lạm phát.

+ Tỷ lệ sinh lời của các hoạt động đầu tư khác.

+ Trình độ phát triển của thị trường tài chính.

+ Khả năng sinh lời của ngân hàng.

+ Độ an toàn của các ngân hàng.

-40-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Trên cơ sở sự tác động của hàng loạt các yếu tố, hình thành nên lãi suất huy
động của ngân hàng thương mại. Lãi suất huy động tại mỗi ngân hàng được phân
biệt theo nhiều hình thức khác nhau:

+ Lãi suất phân biệt theo thời gian: Thời gian huy động càng dài thì lãi suất
càng cao.

+ Lãi suất phân biệt theo loại tiền.

+ Lãi suất phân biệt theo mục đích gửi, theo mục đích huy động.

+ Lãi suất phân biệt theo rủi ro của ngân hàng: Các ngân hàng nhỏ, hoặc ngân
hàng tư nhân lãi suất cao hơn các ngân hàng lớn hoặc ngân hàng của Nhà nước.

+ Lãi suất phân biệt theo các dịch vụ đi kèm, ví dụ như tiết kiệm có thưởng,
tiết kiệm bảo hiểm lãi suất thấp hơn tiết kiệm khác.

+ Lãi suất phân biệt theo qui mô...

Nhìn chung, tiện ích mà ngân hàng cung cấp cho người gửi tiền và người cho
vay càng cao thì lãi suất càng thấp. Một số nguồn tiền lãi suất ngân hàng trả bằng
không và người gửi phải trả chi phí để được hưởng tiện ích của ngân hàng. Có
nhiều mức lãi suất danh nghĩa khác nhau tuỳ theo tính chất của từng khoản nợ, đó
là các mức lãi suất cá biệt. Trong quá trình cạnh tranh để mở rộng nguồn tiền, các
ngân hàng đều cố gắng tạo ra các ưu thế của riêng m.nh trong đó có ưu thế về lãi
suất cạnh tranh. Một ngân hàng có thể đưa ra lãi suất danh nghĩa cao hơn các ngân
hàng khác, tức là đã tạo ra lãi suất cạnh tranh nhằm thu hút thêm nguồn tiền mới.
Tuy nhiên ngân hàng này cũng có thể tạo lãi suất cạnh tranh bằng các phương
pháp khác như trả lãi làm nhiều lần trong kỳ hoặc trả lãi trước.

Khi trả lãi nhiều lần trong kỳ, lãi suất tương đương (A) sẽ lớn hơn lãi suất
danh nghĩa mà ngân hàng cam kết trả.

A (còn được kí hiệu NEC) = (1+i/n)n – 1

-41-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Trong đó: i là lãi suất danh nghĩa trong kỳ; n là số lần trả lãi trong kỳ.

Khi trả lãi trước, lãi suất tương đương với trả lãi sau (B) cũng lớn hơn lãi suất
danh nghĩa trả trước:

B (còn được kí hiệu NEC) = i/(1-i)

Trong đó: i là lãi suất trả trước

Các ngân hàng thường sử dụng phương pháp trên trong điều kiện bị khống chế về
lãi suất tối đa, hoặc để thay đổi tạm thời qui mô của khoản mục chi phí trả lãi
trong kỳ.

Để phục vụ cho việc quản lý chi phí trả lãi và hoạch định các mức lãi suất cạnh
tranh (gồm lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay), các ngân hàng thường tính toán
lãi suất bình quân.

(1) Lãi suất bình quân của một nguồn hay một nhóm nguồn trong kỳ.

(2) Lãi suất bình quân của các nguồn phải trả lãi tại một thời điểm hoặc trong kỳ.
Lãi suất bình quân cho thấy xu hướng thay đổi lãi suất của nguồn, mức độ thay đổi
lãi suất mỗi nguồn, sự kết hợp giữa lãi suất cá biệt và tỷ trọng mỗi nguồn; nó cũng
cho thấy những nguồn đắt tương đối (lãi suất cá biệt > lãi suất bình quân) và các
nguồn rẻ tương đối (lãi suất cá biệt < lãi suất bình quân). Điều này rất có ý nghĩa
đối với hoạch định chiến lược nguồn vốn.

1.2.4.3.Quản lý kỳ hạn

* Quản lý kỳ hạn là xác định kỳ hạn của nguồn phù hợp với yêu cầu về kỳ hạn của
người sử dụng, đồng thời tạo sự ổn định của nguồn.

* Nội dung quản lý kỳ hạn:

+ Xác định kỳ hạn danh nghĩa của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng.

+ Xác định kỳ hạn thực của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng.

-42-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

+ Xem xét khả năng chuyển hoán kỳ hạn của nguồn.

* Kỳ hạn danh nghĩa

Nguồn huy động thường gắn liền với kỳ hạn nhất định, được ngân hàng tuyên
bố, đó là kỳ hạn danh nghĩa của nguồn. Ví dụ, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, 3
tháng, 6 tháng... Các kỳ hạn danh nghĩa thường gắn với một mức lãi suất nhất
định, theo xu hướng nguồn của kỳ hạn danh nghĩa càng dài thì lãi suất càng cao.
Trong trường hợp bình thường (không có khủng hoảng xảy ra) cũng có một số
người gửi rút tiền trước kỳ hạn, song nhìn chung người gửi đều cố gắng duy trì kỳ
hạn danh nghĩa để hưởng lãi suất ở mức cao nhất. Do vậy, kỳ hạn danh nghĩa là
một chỉ tiêu phản ánh tính ổn định của nguồn vốn.

Việc xác định kỳ hạn danh nghĩa có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của

ngân hàng. Kỳ hạn liên quan tới tính ổn định và vì vậy liên quan đến kỳ hạn của sử
dụng. Để cho vay và đầu tư dài hạn, ngân hàng cần có khả năng duy trì tính ổn
định của nguồn tiền. Mặt khác kỳ hạn liên quan tới chi phí: Các nguồn có tính ổn
định cao thường phải có chi phí duy trì cao. Quản lí kỳ hạn, vì vậy là một nội dung
đảm bảo an toàn và sinh lợi cho ngân hàng. Các nhân tố ảnh hưởng đến kỳ hạn
danh nghĩa là: Thu nhập; Ổn định vĩ mô; Khả năng chuyển đổi của giấy nợ; Kỳ
hạn cho vay và đầu tư...Trong đó, mức thu nhập của dân chúng là yếu tố quan
trọng. Các khoản tiền gửi và vay với kỳ hạn dài (trên 1 năm) thường là của dân cư.
Do vậy, khi thu nhập của dân cư thấp, mức tiết kiệm cũng thấp, hạn chế khả năng
cho vay và gửi ngân hàng với kỳ hạn dài. Lạm phát cao, tỷ giá biến động theo
hướng không có lợi cho người gửi nội tệ... đều hạn chế việc kéo dài kỳ hạn danh
nghĩa. Thị trường tài chính kém phát triển, khả năng chuyển đổi của các giấy nợ
thấp (tính thanh khoản của các giấy nợ thấp), việc phát hành giấy nợ với kỳ hạn
trên 1 năm rất khó khăn.

* Kỳ hạn thực tế

-43-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới kỳ hạn danh nghĩa tạo cơ sở để ngân
hàng đưa ra kỳ hạn huy động phù hợp với thị trường. Tuy nhiên, ngân hàng quan
tâm hơn tới kỳ hạn thực tế của nguồn tiền bởi nó liên quan chặt chẽ đến kỳ hạn các
khoản cho vay và đầu tư.

Kỳ hạn thực tế của khoản tiền gửi là thời gian mà khoản tiền tồn tại liên tục tại

một đơn vị ngân hàng. Các nhân tố ảnh hưởng đến kỳ hạn danh nghĩa đều tác động
đến kỳ hạn thực tế. Bên cạnh đó, nhu cầu chi tiêu đột xuất và lãi suất cạnh tranh
giữa các ngân hàng, lãi suất giữa các nguồn tiền khác nhau cũng ảnh hưởng lớn tới
kỳ hạn này. Sự thay đổi lãi suất sẽ gây ra sự dịch chuyển tiền gửi từ ngân hàng này
sang ngân hàng khác, từ kỳ hạn này sang kỳ hạn khác, từ loại tiền này sang loại
tiền khác, làm giảm kỳ hạn thực tế của loại tiền gửi.

Một nguồn tiền nào đó trong ngân hàng được tạo ra bởi sự tiếp nối liên tục
của các khoản huy động và đi vay. Do đó, một nguồn với kỳ hạn danh nghĩa là
ngắn hạn, có thể tồn tại liên tục trong nhiều năm, tức là nguồn có kỳ hạn thực tế là

trung và dài hạn. Phân tích và đo lường kỳ hạn thực tế của nguồn tiền là cơ sở để
ngân hàng quản lí thanh khoản, chuyển hoán kỳ hạn của nguồn, sử dụng các nguồn
có kỳ hạn ngắn để cho vay với kỳ hạn dài hơn.

Phương pháp cơ bản để phân tích kỳ hạn thực tế là dựa trên số liệu thống kê
để thấy sự biến động số dư của mỗi nguồn vốn, của nhóm nguồn, tìm số dư thấp
nhất trong quí, trong năm, trong nhiều năm và các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay
đổi, từ đó, người quản lý đo được kỳ hạn thực gắn liền với các số dư. Quản lý kỳ
hạn luôn gắn liền với quản lý lãi suất. Một sự gia tăng trong lãi suất nguồn, đều
liên quan tới không chỉ tăng qui mô của nguồn, mà còn tới tính ổn định của nguồn
giữa các ngân hàng, tính ổn định của nguồn trong từng ngân hàng. Lựa chọn cơ
cấu lãi suất sao cho vừa đảm bảo gia tăng tổng nguồn, tiết kiệm chi phí, lại vừa
tăng tính ổn định của nguồn là nội dung quản lí nguồn vốn của ngân hàng. Các
cách khác nhau để cải tiến sự ổn định của khoản nợ.

-44-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

+ Dựa vào loại những tiền gửi chủ yếu - tiền gửi giao dịch hoặc tiền tiết kiệm.
Mặc dù tiền gửi phải hoàn trả theo yêu cầu, song nó tương đối ổn định. Các ngân
hàng lớn ngày nay đang cố gắng tăng tiền gửi để giảm vay.

+ Xây dựng mối liên hệ với người gửi lớn sao cho họ tránh rút tiền gửi trong
lúc khủng hoảng.

+ Đa dạng hóa các nguồn tiền tức là huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Điều
này sẽ giảm sự phụ thuộc của ngân hàng vào một khách hàng.

+ Phát triển quản lý tài sản bên cạnh quản lí các khoản nợ.

1.2.4.4. Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn

Đối với nhiều ngân hàng, phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn đang trở
thành trọng tâm quản lý nguồn vốn. Tính thanh khoản của nguồn vốn được đo
bằng khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới với chi phí và thời gian nhỏ nhất. Nhiều
ngân hàng lớn, do thực hiện chuyển hoán kỳ hạn của nguồn (nguồn với kỳ hạn
ngắn được chuyển sang đầu tư hoặc cho vay với kỳ hạn dài hơn) và duy trì tỷ lệ dự
trữ thấp, rất quan tâm tới khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới để đáp ứng nhu cầu
thanh khoản, đặc biệt là các nguồn trong ngắn hạn.

Tính thanh khoản của nguồn tuỳ thuộc rất lớn vào thị trường nợ của mỗi ngân
hàng và chính sách tiền tệ đang được vận hành. Nhìn chung các ngân hàng lớn, có
nhiều chi nhánh và gần các trung tâm tiền tệ có nhiều khả năng tìm kiếm các
nguồn nhanh chóng hơn là các ngân hàng nhỏ, ít chi nhánh và ở xa. Hơn nữa, sự
phát triển của các công cụ nợ sẽ cho phép các ngân hàng có nhiều cơ hội tiếp xúc
với các nguồn. Do vậy tại các nước mà thị trường nợ kém phát triển, tính thanh
khoản của nguồn vốn của các ngân hàng cũng bị giảm thấp.

Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn bắt đầu từ việc phân tích thị trường
nguồn vốn của mỗi ngân hàng để thấy đặc điểm của mỗi nguồn (như qui mô, tốc

-45-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

độ tăng trưởng, vòng quay, lãi suất và sự biến đổi của lãi suất, tỷ trọng thị trường
của ngân hàng so với các tổ chức tín dụng khác...). Ngân hàng cần tập trung phân
tích nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước và từ các tổ chức tín dụng khác. Các
nguồn này tuy ngắn hạn song có thể có được trong thời gian ngắn, nhằm đáp ứng
nhu cầu thanh khoản trong ngắn hạn. Các nguồn mà ngân hàng có ưu thế cũng cần
được xem xét.

1.2.4.5. Phát triển các công cụ nợ mới

Lịch sử phát triển của các ngân hàng cũng là lịch sử phát triển các công cụ
nợ. Bên cạnh vay ngân hàng Nhà nước và vay trên thị trường liên ngân hàng trong
nước, các ngân hàng đang vươn tay tới thị trường liên ngân hàng quốc tế. Nhiều
ngân hàng đang phát triển và sử dụng các chứng chỉ tiền gửi, các hợp đồng mua
bán lại, các giấy nợ ngân hàng. Cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng
và giữa các tổ chức ngân hàng và phi ngân hàng, cách mạng công nghệ đang làm
cho thị trường tài chính liên tục phát triển và tạo ra các sản phẩm mới.

Trong quá trình phát triển và hội nhập, thị trường các công cụ nợ của các ngân
hàng thương mại Việt Nam đang có những bước tiến quan trọng. Các công cụ nợ
truyền thống đang được mở rộng: Tiền gửi thanh toán đang được khuếch trương,
hướng tới mục tiêu là các tầng lớp dân cư. Mở rộng qui mô, kéo dài kỳ hạn, đa
dạng hóa các loại tiền gửi tiết kiệm nhằm huy động mọi nguồn tiền nhàn rỗi trong
dân cư đang là hoạt động trọng tâm của ngân hàng. Dân chúng đã biết đến ngân
hàng như là nơi đảm bảo an toàn và sinh lợi cho các khoản tiền tiết kiệm của họ.
Ngoài loại hình tiết kiệm ngắn hạn bằng nội tệ truyền thống, các ngân hàng thương
mại Việt Nam đã đưa ra các loại tiền gửi bằng ngoại tệ hoặc đảm bảo bằng ngoại
tệ, tiền gửi trên 12 tháng. Bên cạnh huy động tiết kiệm, nhiều ngân hàng đã phát
hành kỳ phiếu, trái phiếu (có loại có thể chuyển đổi), tạo công cụ nợ mới, làm
phong phú thị trường nguồn vốn của các ngân hàng.

-46-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

-47-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

CHƯƠNG 2

TÌNH HÌNH NGUỒN VỐN CỦA NHTM VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY

Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua gần 20 năm đổi mới và phát
triển từ hệ thống ngân hàng 1 cấp sang hệ thống ngân hàng 2 cấp, đến nay đã
khẳng định được sự phát triển vượt bậc. Từ năm 2007, Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO), điều này đã tạo môi
trường thuận lợi cho hệ thống ngân hàng Việt Nam đẩy nhanh tiến trình cải cách,
đổi mới và phát triển.Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó, thì vẫn có những
thách thức không nhỏ do hội nhập kinh tế mang lại mà hệ thống ngân hàng Việt
Nam sẽ phải đối mặt.

Tính đến năm 2008, hệ thống ngân hàng nước ta có 5 NHTM Nhà nước
(Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long, Ngân
hàng phát triển Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam), 37 NHTM
Cổ phần, 37 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 6 ngân hàng liên doanh, 6 công ty
tài chính và 10 công ty cho thuê tài chính, 926 tổ chức tín dụng nhân dân và 46
văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài. Nếu so với cách đây hơn chục
năm thì đây quả là một sự trưởng thành vượt bậc.

2.1.Tình hình vốn chủ sở hữu của NHTM Việt Nam trong những năm gần
đây.

Trên con đường hội nhập toàn cầu cùng với những mục tiêu và thách thức
mà nền kinh tế Việt Nam đặt ra, các NHTM không ngừng đẩy mạnh việc gia tăng

quy mô nguồn Vốn chủ sở hữu.

-48-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

2.1.1.Tình hình vốn chủ sở hữu của NHTM Việt Nam trước khi gia nhập WTO

Trong những năm 2003-2006, khi Nhà nước vẫn đang từng bước thỏa thuận
với các nước trong Tổ chức Thương Mại Thế Giới về việc Việt Nam gia nhập
WTO, thì các Ngân hàng Việt Nam cũng từng bước thay đổi mình để chuẩn bị cho
quá trình Việt Nam hội nhập. Cụ thể là tổng vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam
không ngừng gia tăng, NHTM NN sau nhiều lần bổ sung vốn đã nâng tổng vốn
chủ sở hữu của 5 NHTM NN ( NH ngoại thương, NH công thương, NH đầu tư và
phát triển nông thôn, NH đầu tư và phát triển Việt Nam, NH phát triển nhà đồng
bằng sông Cửu Long) lên 18.470 tỷ đồng, gấp 3 lần so với thời điểm cuối năm
2000. Thực hiện các bước cổ phần hóa, cuối năm 2005, Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam đã phát hành thành công trái phiếu, huy động được 1.385 tỉ đồng tăng
vốn điều lệ mà ngân sách nhà nước không phải cấp thêm vốn cho ngân hàng này.
Đầu tháng 5-2006, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã phát hành trái
phiếu tăng vốn hơn 2.200 tỉ đồng cũng không chờ vào nguồn ngân sách nhà nước.
Vốn điều lệ của NHTMCP được gia tăng đáng kể từ lợi nhuận giữ lại, sáp nhập,
các quỹ bổ sung vốn điều lệ, phát hành thêm cổ phiếu… Tính đến 7-2006, ước tính
các NHTM cổ phần đã huy động thêm được trên 10.000 tỉ đồng tăng vốn điều lệ từ
đó giúp tổng vốn điều lệ NHTM CP đến cuối năm 2005 tăng gấp 5 lần so với năm
2000. Bên cạnh việc phát hành cổ phiếu huy động của các cá nhân và tổ chức ở
trong nước, thì còn có khối lượng lớn vốn của người Việt Nam ở nước ngoài
chuyển về cho người thân trong nước mua cổ phiếu ngân hàng. Đặc biệt nhiều
ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài đã mua cổ phần của 4 NHTM cổ phần
Việt Nam, đó là ANZ, Standard Chartered Bank, Hongkong and Shanghai
Bangking Coporation, OCBC, IFC,... Việc phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ
chẳng những nâng cao năng lực tài chính, mà còn là điều kiện để tăng cường huy
động vốn trên thị trường để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các thành phần kinh tế.

-49-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Dựa trên các số liệu thống kê của cơ quan quản lý, ta có bảng số liệu tổng hợp sau
về quy mô vốn tự có và tổng tài sản có của hệ thống ngân hàng thương mại VN
trước khi ra nhập WTO như sau (Đơn vị: nghìn tỷ đồng)

Q4/2003 Q4/2004 Q4/2005 Q2/2006

Vốn tự có 26 32 43 49

Tổng tài sản 539.42 672.27 841.488 944.123

Bảng 1

Từ bảng số liệu ta có các biểu đồ như sau:

Hình 1

-50-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Như vậy nhìn trực quan vào biểu đồ 1 ta có thể thấy từ năm 2003 đến năm
2006, hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam đã có sự tăng trưởng khá và ổn
định về quy mô vốn tự có (Từ 26000 tỷ đồng năm 2003 đã tăng thành 49000 tỷ

đồng vào quý 2/2006)

Hình 2

Nguồn:www.div.gov.vn/Bulletin/VN/2007/1/Ban_ve_tang_von_tu_co.pdf

Tỷ trọng vốn tự có / tổng tài sản của các ngân hàng thương mại nhìn chung
còn thấp chỉ đạt trên dưới 5%. Để đảm bảo hiệu quả sử dụng các nguồn vốn và
đảm bảo phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh thì các ngân hàng thương mại nên
tăng tỷ lệ này nên khoảng từ 8% - 10 % là hợp lý.

2.1.2. Tình hình vốn chủ sở hữu của NHTM Việt Nam sau khi gia nhập WTO

Hoạt động của các ngân hàng sau hai năm gia nhập WTO vẫn diễn biến
bình thường, ngoại trừ sự tăng trưởng khá nhanh của mỗi ngân hàng. Điều này
dường như khác so với dự báo về những thuận lợi và thách thức sau khi Việt Nam
là thành viên chính thức của WTO. Nhưng trên thực tế, trong chiều sâu của sự
biến chuyển nội tại, các ngân hàng đang có sự chuyển mình rất lớn.

-51-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

• Năm 2007

Độ sâu tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) đã tăng rất đáng
kể, thể hiện ở các chỉ số tổng tiền gửi/GDP và tổng dư nợ/GDP ngày càng tăng.
Nếu năm 2006 tổng tiền gửi/GDP là 78,4% so với mức 66,7% năm 2005 (tăng
khoảng 12%), tín dụng/GDP tăng khoảng 5% thì năm 2007 tốc độ tăng này đã
mạnh hơn nhiều, chỉ số tăng lần lượt là khoảng 92,4% và 84,6%.

Xét về năng lực tài chính thể hiện ở quy mô vốn điều lệ, cũng có tốc độ
tăng nhanh hơn năm 2006 (năm 2006 vốn điều lệ của hệ thống ngân hàng tăng
44% so với năm 2005, thì năm 2007 tăng 54% so với 2006, nhất là khối NHTM
nhà nước tăng 59%, vượt xa con số 2% của năm 2006 so với 2005). Các chi nhánh
ngân hàng nước ngoài cũng có sự tăng trưởng nhanh về quy mô vốn, tài sản có
trong năm 2007, đưa thị phần tín dụng và huy động năm 2007 tăng khoảng 0,4%
so với năm 2006, trong khi thời điểm trước năm 2006 thị phần của khối này hầu
như không thay đổi. Như vậy, trong năm 2007 tất cả các ngân hàng thương mại
đều xây dựng cho mình một kế hoạch tăng vốn cụ thể và đã đạt được những thành
công nhất định.

Sau đây là một bảng tổng hợp các thông số về tình hình tăng vốn tự có của
một số ngân hàng tiêu biểu trong năm. Các số liệu trong bảng thống kê từ các báo
cáo tài chính của các ngân hàng công bố. (Đơn vị: nghìn tỷ đồng)

-52-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Vốn tự
Vốn tự có/Nợ
Tổng Tài sản Vốn tự có có/Tổng tài Nợ phải trả
phải trả(%)
Ngân hàng sản (%)

12/06 12/07 12/06 12/07 12/06 12/07 12/06 12/07 12/06 12/07

Agribank 238.5 321.5 2.56 10.45 1.07 3.25 235.94 311.1 1.08 3.36

Vietcombank 166.9 196.1 11.12 12.98 6.66 6.62 155.78 183.1 7.14 7.09

BIDV 161.2 204.5 7.55 11.63 4.68 5.69 153.65 192.8 4.91 6.03

Vietinbank 135.4 175 5.61 10.2 4.14 5.83 129.8 164.8 4.32 6.19

ACB 44.6 85.4 1.69 6.25 3.79 7.32 42.91 79.15 3.93 7.89

Sacombank 24.8 64.6 2.8 5.6 11.29 8.67 22 59 12.72 9.49

Eximbank 18.3 33.7 1.95 6.3 10.66 18.69 16.35 27.4 11.92 23

Techcombank 17.32 39.56 1.76 3.57 10.16 9.02 15.56 36 11.31 9.92

VIB 16.5 39.3 1.19 2.18 7.21 5.55 15.31 37.12 7.77 5.87

Bảng 2

Từ bảng số liệu trên ta có các biểu đồ sau:

-53-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Tăng trưởng vốn tự có của các ngân hàng năm


2007
Nghìn tỷ đồng
14

12

10

8 vốn tự có Dec-06
vốn tự có Dec-07
6

0 Ngân hàng
V

nk
k

nk

Ex ank

co n k

B
nk
et ba n

S a AC

VI
ba
ba

a
ba

BI

b
Te imb

m
ri

in

m
m
Ag

et
co

co
Vi

ch
Vi

Hình 3

Từ biểu đồ trên, ta thấy trong số 9 ngân hàng thì trong năm 2006 mới chỉ có
ngân hàng Vietcombank có số vốn tự có trên 10 nghìn tỷ đồng (11.12 nghìn tỷ)
nhưng đến năm 2007 thì đã có 4 ngân hàng có số vốn tự có trên 10 nghìn tỷ đồng
đó là: Agribank (10.45 nghìn tỷ), Vietcombank (12.98 nghìn tỷ), BIDV(11.63
nghìn tỷ) và Vietinbank(10.2 nghìn tỷ).

Trong 9 ngân hàng trên thì Agribank dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng vốn
(trên 300% từ 2.56 nghìn tỷ lên 10.45 nghìn tỷ), tiếp đó là ACB( 270%),
Eximbank(223%), Techcombank(102.8%), Sacombank (100%)...

-54-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

% Vốn tự có/Tổng tài sản(%)


20
18
16
14 Vốn tự có/Tổng tài
12 sản (%) Dec-06
10 Vốn tự có/Tổng tài
8 sản (%) Dec-07
6
4
2
0

nk
nk

k
nk

k
k

T Ex an
Ngân hàng
tin V

om CB

om an
om n

IB
ba
ba

ba
ie ID
tc a

V
hc b
ie r ib

ac A
B

ec im
V Ag

Hình 4

%
Vốn tự có/ nợ phải trả(% )
25

20
Vốn tự có/Nợ phải
trả(%) Dec-06
15
Vốn tự có/Nợ phải
trả(%) Dec-07
10

0
Ngân Hàng
nk
nk

nk
nk
om nk

k
ie D V

IB
hc an

ba
ba

ba
ac C
ba
ie iba

V
I

b
A

m
B

m
tin

m
gr

o
o

xi
A

tc

E
V

ec
S
V

-55-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Hình 5

Qua hai biểu đồ trên ta thấy tỷ trọng vốn tự có/ tổng tài sản và vốn tự có
/nợ phải trả của các ngân hàng là khá đồng đều khoảng từ 6%-12%. Cá biệt có
Agribank, hai tỷ lệ này là khá thấp chưa đạt đến 5%, và ngân hàng Eximbank có tỷ
lệ khá cao(vốn tự có/tổng tài sản 2007 là trên 18%;vốn tự có/ nợ phải trả 2007
khoảng 23%).

• Năm 2008

Từ giữa tháng 2/2008 đến nay, do diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô và hoạt
động ngân hàng có nhiều khó khăn hơn trước, lạm phát tăng cao, thanh khoản của
nhiều NHTM bị ảnh hưởng, lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay tăng gấp khoảng 2
lần so với trước đó, giá cổ phiếu giảm mạnh, thị trường chứng khoán điều chỉnh
sâu và kéo dài, nên nhiều NHTMCP gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên vẫn có
nhiều ngân hàng do lịch sử phát triển, có thương hiệu, năng lực quản trị điều hành
tốt, chiến lược kinh doanh rõ ràng và phù hợp, biết tận dụng các điều kiện thuận
lợi đã đạt mức vốn gấp 3 – 5 lần vốn quy định cho năm 2008 và công bố kế hoạch
sẽ đạt mức vốn cũng gấp 3-4 lần quy định cho năm 2010.

Đứng trước thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam đang bội thực
nguồn cung, là một định chế tài chính chuyên nghiệp, các ngân hàng chắc chắn
không thể không lường trước được những khó khăn và rủi ro có thể gặp khi quyết
định tăng vốn trong giai đoạn này. Thế nhưng, chúng ta có thể thấy, hệ thống ngân
hàng Việt Nam hiện nay tăng trưởng rất nhanh về số lượng, song các ngân hàng có
vốn điều lệ trên 2.000 chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn. Trong khi đó vốn điều lệ là
một trong những yếu tố rất quan trọng cho thấy sức mạnh về vốn của một ngân
hàng. Hội nhập và cạnh tranh với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam tất yếu dẫn tới nhu cầu tăng vốn điều lệ bên cạnh các biện pháp nâng cao
chất lượng dịch vụ và nguồn nhân lực. Bên cạnh đó việc Ngân hàng Nhà nước quy

-56-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

định mức vốn pháp định của hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần ở mức
1.000 tỷ đồng và sắp tới sẽ tăng lên 3.000 tỷ đồng cũng khiến cho các Ngân hàng
Thương mại phải tự xây dựng cho mình một kế hoạch tăng dần mức vốn điều lệ
một cách hợp lý.

Mới đây NHTM cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) đã tăng vốn
điều lệ từ 2.524 tỷ đồng lên 3.165 tỷ đồng. Đây là đợt tăng vốn lần thứ 2 của
Techcombank trong năm 2008. Việc tăng vốn đợt 2 này là kết quả của việc phát
hành thêm 5% cổ phần bán cho cổ đông chiến lược Tập đoàn ngân hàng HSBC,
tương đương 20.895.550 cổ phần, đã nâng tỷ tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần của đối tác
này lên 20%. Tính đến hết tháng 8/2008, Techcombank đạt tổng tài sản hơn
53.000 tỷ đồng. Hay cũng gần đây là kế hoạch tăng vốn từ 2.800 tỷ đồng lên 7.400
tỷ đồng của Eximbank trình Đại hội cổ đông thông qua.

Trước đó, NHTM cổ phần Sài Gòn Thương tín (Sacombank) cũng đã hoàn
thành đợt tăng vốn điều lệ từ 4.449 tỷ đồng lên 5.116 tỷ đồng, bằng việc chia cổ
tức năm 2007 bằng cổ phiếu cho cổ đông với tỷ lệ 15%. Số cổ phiếu tăng thêm này
đã được đăng ký giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
từ tháng 8/2008. Tuy nhiên tính đến thời điểm này, quy mô vốn điều lệ lớn nhất có
lẽ thuộc về NHTM cổ phần Á châu (ACB). Giữa tháng 9/2008, ACB đã thông báo
chốt danh sách để tăng vốn điều lệ từ 2.630 tỷ đồng lên 5.805 tỷ đồng bằng việc
chia cổ tức năm 2007 cho cổ đông với tỷ lệ 55%. Tiếp đó, từ ngày 17/9/2008,
ACB cũng chính thức chuyển đổi số trái phiếu được phát hành ngày 16/10/2006
thời hạn 5 năm sẽ được chuyển đổi thành cổ phiếu với tỷ lệ 1:100, tức là 1 trái
phiếu mệnh giá 1 triệu đồng được chuyển đổi thành 100 cổ phiếu phổ thông mệnh
giá 10.000 đồng. Số lượng trái phiếu chuyển đổi đợt này là 550.023 trái phiếu
thành 55 triệu cổ phiếu, tương đương 550,023 tỷ đồng. Theo đó vốn điều lệ của
ACB sẽ tăng tiếp từ 5.805 tỷ đồng lên 6.355 tỷ đồng.

-57-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Từ nay đến ngày 31/12/2008 còn không xa nữa, trong khi một số NHTM cổ
phần đã dễ dàng vượt mức vốn quy định cho năm 2010, nhưng không ít NHTM cổ
phần mới đạt khoảng 50% mức vốn pháp định quy định vào năm 2008.

Một số NHTM cổ phần quy mô nhỏ, NHTM cổ phần mới ra khỏi tình hình
khó khăn cách đây không lâu và NHTM cổ phần mới chuyển từ mô hình NHTM
cổ phần nông thôn lên NHTM cổ phần đô thị cho đến giữa tháng 9/2008, số vốn
công bố vẫn còn thấp hơn quy định.

NHTM cổ phần Đại Á có nguồn thặng dư vốn là 130 tỷ đồng, đang làm thủ
tục phát hành chia cho cổ đông hiện hữu, cùng với kênh phát hành khác, vốn của
ngân hàng này sẽ sớm đạt được 1.000 tỷ đồng trong thời gian ngắn. NHTM cổ
phần Kiên Long có 2 cổ đông chiến lược trong nước là ACB và Saigon Tourist,
cùng với các cổ đông khác đang làm thủ tục tăng vốn với dự kiến sẽ hoàn thành
trong tháng 11/2008.

Các NHTM cổ phần khác, như: Gia Định, Thái Bình Dương, Đệ Nhất,...
cũng đã có kế hoặch cụ thể về phát hành cổ phiếu cho các cổ đông để hoàn thành
mức vốn 1.000 tỷ đồng trước 31/12/2008.

Xét chi tiết kế hoạch tăng vốn điều lệ của một số ngân hàng thương mại, có
thể nhận thấy rằng các ngân hàng đều tăng vốn có lộ trình nhất định và sử dụng cả
hai phương thức tăng vốn là phát hành thêm cổ phiếu kết hợp với việc sử dụng
nguồn thặng dư phát hành cổ phần của năm trước, giảm khối lượng cung hàng ra
thị trường trong thời điểm này. Điển hình như Eximbank, với kế hoạch tăng vốn
rất lớn: từ 2.800 tỷ lên 7.400 tỷ đồng, nhưng lộ trình được chia thành 2 giai đoạn :
giai đoạn đầu tăng lên 4.425 tỷ đồng trong đó 386.7 tỷ đồng chia cổ tức bằng cổ
phiếu, 1.106 tỷ đồng nhận vốn góp từ Tập đoàn Sumitomo và các quỹ đầu tư nước
ngoài khác; giai đoạn sau dự tính là tháng 11/2008 sẽ tăng thêm 2.975 tỷ đồng lấy
từ nguồn vốn thặng dư.

-58-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Tại TP.HCM, trung tâm kinh tế, tài chính - tiền tệ lớn nhất và sôi động nhất
cả nước tính đến đầu năm 2008, nguồn vốn tự có của các ngân hàng thương mại
trên địa bàn thành phố đạt gần 28.230 tỷ đồng, tăng hơn 90% so với cùng kỳ năm
trước. Riêng vốn điều lệ của các ngân hàng chiếm trên 23.000 tỷ đồng, tăng gần
77% so với năm trước.

Về tỷ lệ an toàn vốn, trước năm 2006, hệ số an toàn vốn của các NHTM
nhà nước đều không đạt mức yêu cầu 8%, tuy nhiên đến nay đều đã đạt trên mức
quy định. Đối với các NHTM cổ phần, hệ thống an toàn vốn đều vượt tỷ lệ quy
định, thậm chí có nhiều ngân hàng có hệ thống an toàn vốn lên đến trên 20%.
Ngoài việc tăng quy mô vốn, nhiều ngân hàng còn đẩy mạnh việc thực hiện cơ cấu
lại tài chính như tăng vốn tự có, xử lý nợ xấu, cơ cấu lại tổ chức và hoạt động.
Việc tuân thủ các quy định đảm bảo an toàn, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi
ro cùng với việc tăng vốn chủ sở hữu đã giúp các NHTM giải quyết triệt để vấn đề
nợ xấu phát sinh từ nhiều năm trước, chất lượng tài sản được cải thiện đáng kể. Cụ
thể, tỷ lệ nợ xấu / tổng dư nợ của khối NHTM cổ phần dưới 1%, của các NHTM
nhà nước dưới 5%.

Như vậy trong những năm gần đây, cùng với tốc độ phát triển kinh tế mạnh
mẽ, các NHTM Việt Nam đang cố gắng tăng nguồn vốn tự có để nâng cao năng
lực cạnh tranh trên thị trường song đến nay hệ thống ngân hàng vẫn được đánh giá
là đang ở giai đoạn đầu, năng lực tài chính của nhiều NHTM Việt Nam còn yếu,
nợ quá hạn cao và nhiều rủi ro. Nhóm 5 NHTM quốc doanh hiện chiếm thị phần
lớn trong hệ thống ngân hàng với khoảng gần 70% tổng nguồn vốn huy động và
thị phần tín dụng, nhưng tổng số vốn tự có chỉ khoảng 2,5 tỷ USD (tương đương
với một ngân hàng nhỏ trong khu vực). Với tỷ lệ vốn tự có thấp, rõ ràng khả năng
cạnh tranh của các NHTM quốc doanh - vốn được coi là xương sống của hệ thống
NHTM Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn khi hội nhập theo lộ trình đã cam kết.

-59-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Hơn nữa, theo cam kết khi gia nhập WTO, về hình thức hiện diện của các
tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam, kể từ ngày 1.4.2007, ngoài các hình
thức văn phòng đại diện, chi nhánh, ngân hàng liên doanh, các tổ chức tín dụng
nước ngoài sẽ được phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.
Việc tham gia thị trường của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài có thể làm thay
đổi bức tranh về thị phần hoạt động ngân hàng tại Việt Nam trong thời gian tới,
bởi ngân hàng 100% vốn nước ngoài được hưởng đối xử quốc gia đầy đủ như các
NHTM Việt Nam. Điều này có nghĩa là, ngân hàng 100% vốn nước ngoài có điều
kiện để phát triển cả dịch vụ ngân hàng bán buôn, bán lẻ, đa dạng hoá các sản
phẩm dịch vụ tài chính, tham gia vào quá trình mua/bán, sáp nhập ngân hàng. Hiện
tại, hình thức ngân hàng 100% vốn nước ngoài có 2 ngân hàng đã được chấp thuận
thành lập về mặt nguyên tắc và đang chờ giấy phép hoạt động là HSBC và
Standard Chartered Bank. Đây thực sự sẽ là những nhân tố mới trên thị trường
ngân hàng tài chính Việt Nam, hứa hẹn một cuộc cạnh tranh gay gắt với các
NHTM trong nước.

Về việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần, tổng số cổ phần được phép
nắm giữ bởi các thể nhân nước ngoài tại mỗi NHTM cổ phần của Việt Nam hiện
tại không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng (trừ khi có những quy
định khác của cơ quan có thẩm quyền). Trên thực tế, các ngân hàng nước ngoài đã
mua cổ phần tại một số NHTM cổ phần Việt Nam và trở thành đối tác chiến lược
của các ngân hàng này. Như vậy, các ngân hàng nước ngoài có thể lựa chọn các
cách thức tiếp cận thị trường khác nhau, qua đó tạo sức ép cạnh tranh với các
NHTM Việt Nam tuỳ theo loại hình hoạt động. Có thể thấy rằng, sức ép cạnh tranh
lên hệ thống NHTM Việt Nam là rất lớn. Nhất là khi các ngân hàng nước ngoài
với sức mạnh tài chính, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm hoạt động trên thế giới
đang tích cực chuẩn bị cho cuộc đua giành thị phần tại Việt Nam.

-60-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Tuy nhiên, ưu thế của các ngân hàng Việt Nam so với các ngân hàng nước
ngoài là có được mạng lưới chi nhánh rộng khắp các tỉnh/thành phố trong cả nước,
có được mối quan hệ truyền thống với khách hàng qua nhiều năm và sự hiểu biết
một cách cụ thể khả năng, yêu cầu của khách hàng và những vấn đề văn hoá,
phong tục mà các ngân hàng nước ngoài chưa thể có được trong quan hệ với khách
hàng bản địa. Ngoài ra, hiện nay các NHTM Việt Nam đang tích cực triển khai đề
án tái cơ cấu lại và cổ phần hoá 5 NHTM nhà nước. Nếu thực hiện thành công
chương trình tái cơ cấu và cổ phần hoá này thì năng lực cạnh tranh của các
NHTM trong nước sẽ được tăng lên đáng kể.

2.2.Tình hình vốn huy động của NHTM Việt Nam trong những năm gần đây

Nhìn chung, vốn huy động của NHTM Việt Nam trong một số năm gần đây
có xu hướng tăng mạnh cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hằng năm. Tuy nhiên
trong từng thời kì tốc độ tăng trưởng vốn huy động lại khác nhau, phụ thuộc nhiều
vào nguồn lực cũng như tình hình thực tế của thị trường Việt Nam.

*Xét trong 5 năm từ năm 2000-2005 tổng nguồn vốn huy động của các NHTM
và tổ chức tín dụng toàn quốc đạt tốc độ tăng khoảng 20% - 25%/năm, gấp hơn 3
lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Cụ thể năm 2000 vốn huy động của hệ thống ngân
hàng tăng 26,5% so với năm trước, năm 2001 tăng 25,53%, năm 2002 tăng 17,7%,
năm 2003 tăng 24,94%, năm 2004 tăng 30,39%, năm 2005 tăng 18% và 6 tháng
đầu năm 2006 tăng hơn 12%.

*Tính đến hết tháng 8/2006, ở cả hai thành phố lớn nhất cả nước là Hà Nội và
Tp.HCM, vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đều
tăng cao so với cùng kỳ nhiều năm và có tốc độ tăng trước sự ngỡ ngàng của chính
giới kinh doanh tiền tệ.

Tại Tp.HCM, đến hết tháng 8, tổng số dư vốn huy động của hệ thống ngân
hàng thương mại và tổ chức tín dụng đạt 238.916 tỷ đồng, tăng 26,5%.

-61-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Tại Hà Nội, cũng tính đến hết tháng 8, các ngân hàng thương mại và tổ
chức tín dụng trên địa bàn có số dư vốn huy động đạt 214.224 tỷ đồng, tăng gần
22,3% so với thời điểm 31/12/2005.

Tại nhiều tỉnh và thành phố khác trong 8 tháng năm 2006 cũng diễn ra tình
trạng tương tự, vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng
tăng trưởng nhanh và vượt xa dự đoán từ đầu năm 2006.

* Năm 2007 : phân tích các dòng vốn chu chuyển qua hệ thống ngân hàng cả
năm cho thấy, tốc độ tăng trưởng của các dòng vốn này đạt mức cao nhất từ
trước tới nay và vượt xa dự báo từ đầu năm của các nhà quản lý và quản trị
ngân hàng. Đây là những diễn biến tích cực và rất đáng mừng của nền kinh tế -
dấu hiệu nền kinh tế tiếp tục trong xu hướng đi lên ở thời điểm hiện tại cũng như
trung và dài hạn. Đồng thời, cũng cho thấy hiệu quả đổi mới, nâng cao năng lực
cạnh tranh của các ngân hàng thương mại (NHTM) và tổ chức tín dụng trong cả
nước sau hơn 1 năm gia nhập WTO. Vốn huy động trong xã hội có tốc độ tăng
trưởng rất lớn. Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tổng nguồn vốn huy động của
các NHTM và tổ chức tín dụng trong cả nước tính đến hết 31/12/2007 tăng tới
36,5%, một số ước gấp hơn 3,5 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là tốc độ tăng
trưởng lớn nhất từ gần 20 năm đổi mới hoạt động ngân hàng cho đến nay.

Tốc độ tăng trưởng đó cũng cho thấy tiềm lực về vốn trong dân, trong xã
hội rất lớn, hoạt động NH đổi mới mạnh mẽ tạo lòng tin cho khách hàng, cho
người gửi tiền, dịch vụ phát triển đa dạng. Đồng thời cũng cho thấy, người dân
ngày càng có thói quen gửi tiền vào NH vừa hưởng lãi, vừa an toàn.

Tại TP.HCM, trung tâm kinh tế, tài chính - tiền tệ lớn nhất và sôi động nhất
cả nước, đến hết tháng 12/2007, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ
chức tín dụng trên địa bàn đạt 442.530 tỷ đồng, tăng 55% so với cuối năm 2006.
Đây cũng là mức tăng lớn nhất từ trước tới nay. Trong đó, vốn huy động bằng nội
tệ đạt 327.792 tỷ đồng, vốn huy động ngoại tệ quy đổi đạt 114.738 tỷ đồng, chiếm

-62-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

gần 26,0%.Tại thời điểm này, do tỷ giá ổn định, người gửi tiền thích gửi bằng nội
tệ hơn vì lãi suất tiền gửi cùng kỳ hạn của nội tệ cao gấp 2 lần tiền gửi ngoại tệ.
Phân theo đối tượng khách hàng và hình thức huy động thì tiền gửi tiết kiệm của
dân cư đạt 169.298 tỷ đồng, tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế và cá nhân
đạt 245.965 tỷ đồng, phát hành giấy tờ có giá đạt 27.267 tỷ đồng. Diễn biến đó cho
thấy tiềm năng vốn trong dân, trong xã hội ở khu vực TP HCM có thể huy động
được lớn tới mức độ nào.

Tại Hà Nội, nơi tập trung hội sở và đầu mối của 4 NHTM Nhà nước,
8 NHTM cổ phần và có số đông các NH khác, quy mô vốn huy động và dư nợ cho
vay cũng diễn ra tương tự. Tính đến hết 31/12/2007, tổng nguồn vốn huy động của
các NHTM và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội tăng 36,12% so với
cuối năm 2006. Còn số liệu thống kê cụ thể ở thời điểm sớm hơn cho hay, tính đến
hết tháng 10/2007, đạt 326.624 tỷ đồng, tăng 34,54% so với cuối năm 2006, đây là
mức tăng lớn nhất trong nhiều năm. Tính đến hết năm 2007, nhiều NHTM cổ phần
có tốc độ tăng trưởng vốn huy động tới 70% đến hơn 100% so với cuối năm trước.
Đây là mức độ tăng trưởng cao hết sức “ngoạn mục” ngoài dự kiến từ đầu năm của
hầu hết các nhà quản trị NH và cổ đông của các NH. Nếu phân tích theo đối tượng
khách hàng gửi tiền tại các NH trên địa bàn Hà Nội, thì đến hết tháng 10/2007,
tiền gửi dân cư đạt 140.310 tỷ đồng, tăng 31,01% và tiền gửi của các tổ chức kinh
tế đạt 186.314 tỷ đồng, tăng 37,33% so với cuối năm trước. Phân theo tiền tệ, vốn
huy động nội tệ đạt 236.180 tỷ đồng, tăng 39,05% và vốn huy động ngoại tệ đạt
90.444 tỷ đồng, tăng 24,05% so với cuối năm trước. Nguyên nhân vốn huy động
nội tệ tăng cao hơn vốn huy động ngoại tệ ở Hà Nội cũng giống như ở TP Hồ Chí
Minh.

Vốn huy động tăng nhanh một mặt phản ánh nền kinh tế Việt Nam đang rất
sôi động, hiệu quả kinh doanh của nền kinh tế ngày càng nâng cao một cách bền
vững. Mặt khác cũng phản ánh thu nhập của người dân, của các DN cũng nâng

-63-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

cao. Trong số nguồn thu nhập đó có khối lượng đáng kể là kiều hối, tiền của người
Việt Nam ở nước ngoài chuyển về.

Tại Đà Nẵng, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM cũng gia tăng
mạnh mẽ. Dưới đây là bảng số liệu cho thấy rõ sự gia tăng đó

Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007

Tổng nguồn
vốn huy
6.290 7.770 9.405 11.768 17.974
động (tỷ
đồng)

Tăng so với
kỳ trước (tỷ -- 1.480 1.635 2.363 6.206
đồng)

Tốc độ tăng
-- 23,53 21,04 25,12 52,74
(%)

Bảng 3

Tổng nguồn vốn huy động của các NHTM trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
giai đoạn 2003 - 2007

ĐVT: tỷ đồng, %

* Năm 2008

Quý I/2008, kinh tế Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng khá (GDP đạt
7,4%) và được đánh giá là nền kinh tế có triển vọng cao, có sức hút đối với nhà
đầu tư nước ngoài với 5 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp. Tuy nhiên ở một số lĩnh vực

-64-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

như chứng khoán, tiền tệ, bất động sản đang có dấu hiệu bất ổn, bởi vì từ đầu năm
2008 đến nay, diễn biến kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước có rất nhiều bất lợi cho
hoạt động ngân hàng. Đặc biệt là lạm phát tăng cao nhất trong khoảng 15 năm qua.
Chỉ số giá tiêu dùng – CPI ở nước ta trong 6 tháng đầu năm 2008 tăng lên 18,44%.
Chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất huy động vốn Đồng Việt Nam lên tới 18% -
19%/năm, USD lên tới 7,0 – 8,0%/năm và lãi suất cho vay tăng cao tới 21%/năm,
tín dụng bị kiềm chế. Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ biến động mạnh và
diễn biến phức tạp. Giá vàng thế giới và trong nước tăng cao nhất từ trước tới nay,
lên 19,35 triệu đồng/lượng. Thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh. Đặc biệt
trong một số thời điểm thanh khoản của một số NHTM cổ phần căng thẳng, vốn
khả dụng thiếu, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng bình quân trên 20%/năm, cá
biệt có một số thời điểm lên tới 30% thậm chí hơn 40%/năm.

Hoạt động trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động, các ngân hàng
thương mại (NHTM) đã gặp không ít khó khăn do sự tác động từ nhiều phía như:
môi trường kinh tế vĩ mô, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp v.v.
Trong đó sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong huy động vốn diễn ra khá gay
gắt. Có thời gian, tỷ lệ dư nợ cho vay của một số NHTM cổ phần bằng 1,4%
nguồn vốn huy động. Trước áp lực phải huy động đủ vốn cho kinh doanh nhiều
ngân hàng (chủ yếu là ngân hàng cổ phần) đua tranh tăng lãi suất huy động vốn,
đồng thời áp dụng nhiều hình thức khuyến mại, tặng quà,… để thu hút khách hàng.

Theo nhận định của các NH, để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát ngay
từ đầu năm 2008, NHNN đã buộc phải mạnh tay siết chặt tiền tệ bằng cách tăng dự
trữ bắt buộc, phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu lãi suất 7,8%/năm với hình thức
bắt buộc phải mua đối với các TCTD theo mức phân bổ cụ thể mà thời điểm mua
là ngày 17-3-2008. Tuy nhiên, các biện pháp này đã khiến nhiều NH rơi vào cảnh
thiếu vốn, để có đủ vốn mua tín phiếu của NHNN phát hành, một số NH buộc phải
vay lại trên thị trường liên NH, nhân cơ hội này một số NH còn vốn đã đẩy LS vay

-65-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

trên thị trường liên NH có lúc lên trên 30%/năm. Do không chịu nổi mức LS vay
quá cao cùng với yếu tố thời gian phải mua tính phiếu cận kề, các NH đành phải
tăng LS để huy động tiền gửi (ngoài ra các NH còn vay ở các NH khác còn ở mức
LS thấp) và lập tức cuộc đua tăng LS giữa các NH diễn ra. Vào thời điểm đó có
NHTM cổ phần đã áp dụng mức lãi suất 12%/năm đối với loại kỳ hạn 3 tháng;
12,6%/năm đối với loại kỳ hạn 6 tháng và 13,8%/năm đối với loại kỳ hạn 12
tháng. Nguyên nhân của cú sốc này còn là do một số ngân hàng thương mại
(NHTM) thiếu thanh khoản, do không điều chỉnh kịp thời kế hoạch kinh doanh
trước dấu hiệu thắt chặt chính sách tiền tệ của NHNN từ giữa năm 2007 nên vẫn
tiếp tục mở rộng tín dụng, vượt khả năng huy động vốn của mình. Theo thống kê
sơ bộ của các NHTM CP, trong vòng chưa tròn 1 tháng kể từ khi các NH “phát
pháo” tăng LS, đến nay vốn huy động của các NH này đã tăng lên đáng kể. Cụ thể,
trong vòng 15 ngày (từ ngày 12 đến 27-2-2008), NHTM CP Đông Á đã huy động
được trên 100 tỷ đồng tiền gửi tiết kiệm, đây là con số mà NH này cần trung bình
từ 3 - 5 tháng mới huy động được. Cùng lúc đó, NHTM CP SHB đã huy động
được trên 73 tỷ đồng chỉ trong vòng 6 ngày (từ ngày 21 đến 27-2-2008) sau khi
tung ra chương trình LS siêu hấp dẫn và trong vòng chưa đầy 3 giờ đồng hồ sáng
ngày 28-2, SHB đã huy động được trên 2 tỷ đồng. Dù không công bố cụ thể với
báo chí về mức vốn huy động được, song một cán bộ NHTM CP Sacombank cũng
thừa nhận, NH này đã huy động một số vốn rất cao so với trước đó.

Tuy nhiên, đến tháng 3/2008 Ông Bùi Tín Nghị, Phó tổng giám đốc Ngân
hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB), cho hay, lượng vốn huy động từ dân cư tại hầu hết
nhà băng đều rất hạn chế, do người dân nhìn vào tỷ lệ lạm phát cao và nguy cơ lãi
suất thực âm. Vì thế, theo ông Nghị, với lãi suất 12%/năm, gửi tiền vào ngân hàng
không còn là một kênh hấp dẫn đối với người có tiền nhàn rỗi. Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam (Vietcombank) tính đến 31/3/2008 có tổng nguồn vốn đạt
195.587 tỷ đồng (kể cả ngoại tệ quy đổi), giảm 0,3% so với cuối năm 2007.
Vietcombank là ngân hàng thương mại Nhà nước rất có uy tín và thương hiệu

-66-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

hàng đầu trên thị trường, đặc biệt là thế mạnh về huy động vốn ngoại tệ, đã kịp
thời tăng lãi suất huy động vốn VND lên 12%/năm ngang bằng với các ngân hàng
thương mại khác khi thị trường tiền tệ nóng lên và cũng nghiêm túc thực hiện cam
kết trần lãi suất tối đa 11%/năm theo cam kết của các ngân hàng thương mại thành
viên do Hiệp hội Ngân hàng chủ trì. Thế nhưng vốn huy động của Vietcombank lại
giảm gần 600 tỷ đồng trong 3 tháng đầu năm 2008 đã thực sự cho thấy diễn biến
đáng lo ngại. Tình cảnh của một ngân hàng thương mại Nhà nước khác có quy mô
nguồn vốn và cho vay dẫn đầu toàn ngành ngân hàng, chiếm 27% - 30% thị phần
hai mảng này của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong cả nước cũng
diễn ra tương tự.

Trước sức ép lạm phát lên cao và tình trạng thiếu vốn trầm trọng, ngày
16/5/2008, NHNN công bố bỏ quy định khống chế mức trần lãi suất huy động
12%/năm, thay vào đó là cơ chế điều hành lãi suất mới, quy định lãi suất cho vay
không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố là 12%/năm tại thời điểm
đó; đến ngày 11/6/2008, mức lãi suất cơ bản được nâng lên là 14%/năm. Việc thay
đổi cơ chế lãi suất như vậy, cùng với một số giải pháp khác như tăng cường công
tác thanh tra, giám sát hoạt động của các NHTM nhằm nâng cao ý thức tuân thủ
phát luật và giảm rủi ro đạo đức của các NHTM; thực hiện điều tiết linh hoạt vốn
khả dụng qua nghiệp vụ thị trường mở và nghiệp vụ tái cấp vốn, tái chiết khấu
nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản cho các NHTM; điều chỉnh tỷ giá chính thức
và nâng biên độ tỷ giá; hạn chế đối tượng vay ngoại tệ… Sau những động thái
chính sách đó, đến nay thị trường đã có những phản ứng theo chiều hướng tích
cực, lãi suất thực dương dần được cải thiện; chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và
tỷ giá không chính thức dần được thu hẹp; tốc độ tăng của lạm phát và thâm hụt
thương mại tháng 6 giảm hơn tháng 5... Cụ thể, lãi suất trên thị trường liên ngân
hàng ở mức tương đối ổn định từ những ngày cuối tháng 5 đến nay xoay quanh
mức 18 - 19%/năm đối với kỳ hạn 7 - 14 ngày; Lãi suất huy động vốn bằng VND
của các NHTM cũng có sự gia tăng mạnh. Đối với kỳ hạn 3 tháng, lãi suất huy

-67-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

động phổ biến trên thị trường tăng từ mức 7,5 - 8%/năm cuối năm 2007 lên đến
mức 17,5%/năm trong tháng 6/2008 (chỉ có một vài ngân hàng nhỏ nâng mức lãi
suất lên 19%/năm).Tháng 4 và 5/2008 do nhu cầu các ngân hàng đã đẩy lãi suất
huy động USD lên mức rất cao (từ 6,2%-8,5%/năm). Vốn khả dụng của các
NHTM xét trên toàn hệ thống luôn ở trạng thái cân bằng, số ngày dự trữ vượt đã
tăng dần lên trong tháng; tín dụng cho vay giảm mạnh so với 4 tháng đầu năm, đặc
biệt là trong tháng 6. Các NHTM đã có những động thái thắt chặt các điều kiện
vay vốn để đảm bảo chất lượng tín dụng khi lãi suất tăng cao, đồng thời quan tâm
đến quản lý thanh khoản.

Kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm: NHTM cổ phần Á Châu – ACB
tiếp tục dẫn đầu toàn khối. Đến hết tháng 6/2008 đạt tổng tài sản 102.639 tỷ đồng,
số dư vốn huy động đạt 90.345 tỷ đồng, dư nợ cho vay đạt 41.897 tỷ đồng, tỷ lệ an
toàn vốn đạt 14% so với mức tối thiểu quy định của NHNN là 8%, tỷ lệ nợ quá
hạn dưới 0,4%, tỷ lệ nợ xấu dưới 0,1% và lợi nhuận trước thuế đạt hơn 1.000 tỷ
đồng. Mức lợi nhuận này của ACB thật ấn tượng, bởi vì so với Ngân hàng Đầu tư
& Phát triển Việt Nam quy mô kinh doanh gấp hơn 2 lần ACB, nhưng lợi nhuận 6
tháng đầu năm 2008 chỉ đạt 604 tỷ đồng.

Đứng thứ hai trong khối phải kể đến NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín.
Trong 6 tháng đầu năm 2008, lợi nhuận của Sacombank đạt hơn 754 tỷ đồng, tăng
23% so với cùng kỳ này năm 2007. Hiện nay Sacombank đang là NHTM cổ phần
có mạng lưới hoạt động rộng nhất nước, với 225 điểm giao dịch. Sacombank cũng
là NHTM Việt Nam đầu tiên được Ngân hàng Nhà nước cấp phép mở chi nhánh
tại Campuchia và Lào.

Tiếp đến là Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á, NHTM cổ phần quân
đội, NHTM cổ phần quốc tế, NHTM cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam, NHTM
cổ phần Đông Nam Á....Các ngân hàng này đều có kết quả kinh doanh bằng hoặc
vượt so với kế hoạch năm.

-68-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Tốc độ huy động vốn của các NHTM tương đối tốt trong tháng 9 đầu
tháng 10. Huy động vốn của các TCTD đến ngày 30/9/2008 tăng 10,71% so với
cuối năm 2007. Cũng tính đến ngày 30/9/2008, tổng huy động vốn của 16
NHTM trên địa bàn Tp.HCM đạt gần 272.000 tỷ đồng, tăng 23% so với đầu
năm; cho vay đạt trên 192.000 tỷ đồng, tăng 9,7%. Thông tin trên được đưa ra
tại cuộc họp giao ban mới đây giữa Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với các ngân
hàng thương mại (NHTM) trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh. Ông Hồ Hữu Hạnh-Giám
đốc NHNN Chi nhánh Tp.Hồ Chí Minh cho biết, sau khi có quyết định mới liên
quan đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam (giữ nguyên lãi suất
cơ bản, tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc) thì lãi suất huy động bình quân của
các NHTM trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh đã giảm xuống còn 17,4-18,7%/năm,
trước đó là 17,8-19%/năm. Tính đến ngày 30/9/2008, tổng huy động vốn của 16
NHTM đạt gần 272.000 tỷ đồng, tăng 23% so với đầu năm; cho vay đạt trên
192.000 tỷ đồng, tăng 9,7%. Từ tháng 5/2008 đến nay, các NHTM liên tục điều
chỉnh giảm sử dụng vốn trên thị trường liên ngân hàng. Đặc biệt, từ khi NHNN
quy định lãi suất tối đa trên thị trường liên ngân hàng không quá 21%/năm thì lãi
suất trên thị trường này đã giảm mạnh. Đến 30/9/2008, lãi suất VND kỳ hạn qua
đêm là 11,97%/năm, 1 tuần là 13,34%/năm, 2 tuần là 14,72%/năm, 1 tháng
16,68%/năm, 3 tháng 18,33%/năm, 6 tháng là 17,05%/năm và 1 năm là
14,18%/năm.

Cũng trong thời gian này, tại các tổ chức tín dụng, vốn huy động USD
đang tăng nhanh hơn vốn huy động tiền Việt Nam bởi lãi suất USD vẫn hấp
dẫn và tâm lý lo ngại lạm phát vẫn còn. Tính đến hết tháng 8/2008, ước tính
tổng số dư vốn huy động trên địa bàn Hà Nội của các ngân hàng thương mại
(NHTM) và tổ chức tín dụng (TCTD) đạt 388.000 tỷ đồng, tăng 2,1% so với cuối
năm 2007. Đây có thể là mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ trong nhiều năm gần
đây. Xét về cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền tệ, thì vốn huy động ngoại tệ tăng rất
mạnh, tới 26,57% so với cuối năm 2007, trong khi đó số dư tiền gửi nội tệ lại giảm

-69-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

6% so với cuối năm 2007. Xét về cơ cấu nguồn vốn theo đối tượng khách hàng thì
số dư tiền gửi của các tổ chức tại các NHTM lại giảm 3% so với cuối năm 2007.
Tại nhiều thành phố lớn khác cũng có tình trạng diễn ra tương tự, vốn huy động
bằng ngoại tệ tăng nhanh hơn vốn huy động nội tệ của NHTM. Tại một số NHTM
quy mô lớn, việc huy động vốn cũng nằm trong xu hướng chung nói trên. Cũng do
diễn biến nói trên nên trong một số thời điểm thanh khoản vốn nội tệ tại các
NHTM trở nên khan hiếm, thậm chí cá biệt có thời điểm căng thẳng, mặc dù thời
gian gần đây tình hình đã được cải thiện rõ rệt. Hiện nay nhiều NHTM đang điều
chỉnh giảm nhẹ lãi suất huy động vốn nội tệ và USD, nhưng nhìn chung lãi suất
USD vẫn hấp dẫn và tâm lý lo ngại lạm phát vẫn còn, do đó xu hướng tiền gửi
USD vẫn tăng cao hơn so với VNĐ tiếp tục diễn ra.

Vào những tháng cuối năm 2008, lạm phát đang có xu hướng giảm. Cung -
cầu vốn hiện nay đảo chiều có biểu hiện dư cung. Thể hiện vốn khả dụng của các
NHTM tương đối dồi dào tại tất cả các ngân hàng. Khoảng hai tháng 9,10 lượng
vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại bắt đầu có dấu hiệu dư thừa, từ
30.000 tỷ đồng lên 40.000 tỷ đồng và gần đây là khoảng 50.000 tỷ đồng. Con số
này cũng đã được Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) khẳng định vào
cuối tháng 10 vừa qua. Ngoài 50.000 tỷ đồng nói trên, lượng vốn khả dụng của các
ngân hàng còn được tiếp thêm từ 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc giải phóng
trước hạn. Lãi suất huy động bắt đầu giảm dần. Ngày 10/10/2008, Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) điều chỉnh giảm lãi suất huy động đối với VND
và USD. Lãi suất huy động vốn tối đa chính thức áp dụng từ ngày 10/10/2008 của
BIDV là từ 3,6%/năm đến 17,3%/năm đối với tiền VND và 1,25% đến 4,9%/năm
đối với USD áp dụng cho từ không kỳ hạn đến dưới 2 năm. Cũng trong ngày
10/10, lãi suất huy động VND của NHTMCP Ngoài Quốc doanh (VPBank) giảm
khá mạnh như: 1 tháng tiết kiệm rút gốc linh hoạt VND từ 16,7%/năm xuống còn
15,7%/năm; 3 tháng rút gốc linh hoạt từ 16,9%/năm xuống còn 16,10%/năm; kỳ
hạn 12 tháng rút gốc linh hoạt từ 16,8%/năm xuống còn 15,5%/năm. Tại

-70-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

NHTMCP An Bình ngày 9/10 cũng điều chỉnh hạ lãi suất huy động VND với các
mức: 1 tháng: 17,6%/năm; 2 tháng: 17,8%/năm; 12 tháng: 17,5%/năm; 60 tháng
còn: 14%/năm…

Có nhiều nguyên nhân khiến các NHTM liên tục hạ LS huy động tiền
đồng trong thời gian qua, nhưng có nguyên nhân là sự dè dặt tăng trưởng tín
dụng trong giai đoạn hiện nay. Rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường…
do lạm phát trong nước cao, ảnh hưởng khủng hoảng tài chính Mỹ làm khả năng
trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các NH không muốn đẩy mạnh cho vay mà
chú trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động.

Trong tháng 12 tới, mặc dù nhu cầu vốn cuối năm theo quy luật bao giờ
cũng tăng cao, nhưng nếu tình hình chứng khoán và bất động sản vẫn ảm đạm như
hiện nay, thì dòng tiền vẫn vào ngân hàng mà không còn kênh đầu tư khác. Vì vậy,
LS huy động có thể vẫn tiếp tục giảm.

2.3.Tình hình vốn vay của NHTM Việt Nam trong năm 2008

Như đã đề cập ở phần tình hình vốn huy động, vào đầu năm 2008 để có đủ
vốn mua tín phiếu của NHNN phát hành, một số NH buộc phải vay lại trên thị
trường liên NH, nhân cơ hội này một số NH còn vốn đã đẩy LS vay trên thị trường
liên NH có lúc lên trên 30%/năm. Nguồn vốn vay trên thị trường liên ngân hàng
của các NHTM trong giai đoạn này gia tăng khá mạnh. Điển hình như trong tổng
nguồn vốn huy động và đi vay của SHB là 9.177 tỷ đồng, thì vốn đi vay trên thị
trường liên ngân hàng đã chiếm tới 77,3%. Mặc dù tại thời điểm này SHB có số dư
tiền gửi tại Tổ chức tín dụng khác là 5.383 tỷ đồng, tính bù trừ đi thì SHB vẫn có
số chênh lệch đi vay trên thị trường liên ngân hàng tới gần 1.700 tỷ đồng. Tuy
nhiên nhiều NHTM CP đã chủ quan khi theo đuổi mục tiêu lợi nhuận trong ngắn
hạn thông qua nguồn vốn liên ngân hàng để cho vay dài hạn, trong khi chưa chú
trọng đến việc phát hành trái phiếu. Điều này đã dẫn đến khó khăn thanh khoản
trong toàn hệ thống NHTM trong 6 tháng đầu năm 2008 khi Ngân hàng Nhà nước

-71-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

(NHNN) thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ nhằm giảm lượng tiền trong lưu
thông để kiềm chế lạm phát như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% từ
ngày 1/2/2008; yêu cầu các NHTM phải mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc,
với lãi suất cố định 7,8%, kỳ hạn 1 năm trước ngày 17/3/2008 và không được sử
dụng trong giao dịch tái cấp vốn trên thị trường liên ngân hàng (lãi suất tín phiếu
này được điều chỉnh tăng lên 13% kể từ ngày 1/7/2008). Trong khi đó, các nhà
băng thiếu vốn cũng không thể trông chờ vào nguồn vốn vay trên thị trường liên
ngân hàng, bởi lãi luôn ở mức cao. Một nguồn tin cho hay, hiện chỉ còn Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) có vốn khả dụng để cho vay trên thị
trường liên ngân hàng. Những ngân hàng trước đây cung cấp vốn nay cũng hết
nguồn, bởi Ngân hàng Nhà nước đang rút 52.000 tỷ đồng tiền gửi của Kho bạc
Nhà nước tại các nhà băng về.

Ngày 13-5-2008 Ngân hàng Nhà nước vừa yêu cầu các ngân hàng thương
mại cần chủ động cân đối nguồn vốn, tích cực tham gia nghiệp vụ thị trường mở
tại Ngân hàng Nhà nước và các hình thức huy động vốn khác để đảm bảo khả năng
thanh khoản. Đây là nội dung quan trọng trong văn bản mới nhất mà Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước gửi các ngân hàng thương mại, chi nhánh Ngân hàng Nhà
nước tỉnh, thành phố nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản của các ngân hàng
thương mại. Theo Ngân hàng Nhà nước, trong trường hợp ngân hàng thực sự khó
khăn về vốn khả dụng nhưng không có đủ giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn tham gia
nghiệp vụ thị trường mở hoặc tham gia nhưng không trúng thầu thì cần có văn bản
đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét cho vay tái cấp vốn. Ngoài ra, nhằm tiếp tục
hỗ trợ thanh toán cho các ngân hàng thương mại và ổn định thị trường, Ngân hàng
Nhà nước thực hiện thêm các phiên chào mua giấy tờ có giá trên thị trường mở với
khối lượng 7.000-10.000 tỷ đồng/phiên (kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 15%/năm).

Ngoài nguồn vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và vay NHNN, các
NHTM đang tích cực tìm kiếm các nguồn vốn ngoại. Cụ thể, Ngày 2/7/2008, tại

-72-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Hà Nội, NHTMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB) đã ký hợp đồng vay vốn trị giá
100 triệu USD với Ngân hàng Intesa Sanpaolo (Italia). Chủ tịch Hội đồng quản trị
VCB Nguyễn Hòa Bình cho biết, khoản vay trong 3 năm này sẽ góp phần bổ sung
nguồn vốn ngoại tệ trung hạn đáng kể, phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh và
tăng trưởng của VCB. Đại diện của Intesa Sanpaolo nhấn mạnh, hợp đồng này còn
mang ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy mối quan hệ thương mại giữa Italia
và Việt Nam thông qua việc tài trợ cho các doanh nghiệp Italia thâm nhập thị
trường Việt Nam.

Như vậy, tính trong năm 2008, quy mô và tốc độ tăng trưởng của nguồn
vốn vay ở các NHTM đã tăng lên đáng kể so với những năm trước. Nó góp phần
ổn định nguồn vốn chung, tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động một cách hiệu
quả trước tình trạng khó khăn ngày nay.

2.3.Tình hình các nguồn vốn khác của NHTM Việt Nam

Khi nhu cầu vốn của nền kinh tế đang tăng lên, các ngân hàng (NH) phải nỗ
lực tìm kiếm nguồn cung vốn để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu này. Bên cạnh
các kênh huy động vốn truyền thống, kênh cung ứng vốn từ các dự án ủy thác với
các tổ chức nước ngoài cũng đang được các NH để ý và chú trọng phát triển.

Theo đánh giá của các NH thì nguồn vốn từ các dự án ủy thác đều là các
nguồn vốn trung và dài hạn với lãi suất thấp và ưu đãi. Mỗi dự án nhằm hỗ trợ các
lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, với mục đích chung là phục vụ các lĩnh vực
trọng điểm nhằm phát triển nền kinh tế.Việc năng động tham gia các dự án này sẽ
giúp các NH tiếp cận được nguồn cung vốn với lãi suất ưu đãi để đáp ứng nhu cầu
vốn của khách hàng và nền kinh tế. Mặt khác, việc được một định chế tài chính
nước ngoài lựa chọn giải ngân chocác dự án thể hiện sự tín nhiệm của các tổ chức
quốc tế đối với các NH trong nước, qua đó có thể giúp họ nâng cao chất lượng
dịch vụ và tăng uy tín của mình đối với xã hội. Đồng thời, thông qua các dự án ủy
thác này, các NH cũng có thể tận dụng để bán chéo các sản phẩm, dịch vụ tín dụng

-73-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

cho NH khác.Vì vậy trong một số năm gần đây, các NHTM Việt Nam đang đẩy
mạnh huy động nguồn vốn này.

Theo bà Lưu Thị Ánh Xuân- Phó Tổng giám đốc- NH TMCP Kỹ Thương
Việt Nam (Techcombank), hiện nay, các dự án ủy thác với các tổ chức nước ngoài
là một trong những kênh cung ứng vốn quan trọng và cần thiết để ngân hàng đẩy
mạnh hỗ trợ các khách hàng là khối DN vừa và nhỏ. Bà Xuân cũng cho biết, từ
năm 2002, Techcombank đã được NH Phát triển Châu Á (ADB) chọn là NH giải
ngân trong các chương trình tài trợ xuất nhập khẩu. Techcombank cũng là NH
năng động trong dự án RDF2 với WB về phát triển nông thôn với hạn mức 70 tỷ
đồng cho DN vừa và nhỏ. Sau thành công của các dự án này, Techcombank đã
được dự án SMDF – Quỹ Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ do Chính phủ Việt
Nam và Cộng đồng Châu Âu tài trợ - lựa chọn là một trong 4 ngân hàng Việt Nam
làm trung gian cho vay có kỳ hạn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổng giá trị
tín dụng cấp cho các NH trong suốt thời gian hoạt động của dự án lên đến 320 tỷ
đồng. Đặc biệt, NH này đã được ADB và NH Nhà nước VN lựa chọn tham gia dự
án tài chính nhà ở cho người có thu nhập thấp (dự án HFF) với hạn mức 15 tỷ
đồng từ năm 2006 và hiện nay ngân hàng đang nỗ lực đẩy mạnh giải ngân theo dự
án này. Năm 2007, Techcombank cũng bắt đầu tham gia vào các dự án “thân thiện
với môi trường” thông qua các dự án nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư cho
công nghệ sạch như dự án SECO và dự án PECSME. Các dự án ủy thác là một
kênh dẫn vốn mới mà các NH sẽ tiếp tục quan tâm và đẩy mạnh trong bối cảnh
hiện nay. Sự tham gia tích cực của NH trong các dự án này sẽ tạo thành một kênh
dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, đồng thời, nhờ các dự án này, các ngân hàng
sẽ có thể khẳng định nỗ lực của mình vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung
và nỗ lực phục vụ khách hàng nói riêng.

-74-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG TRƯỞNG NGUỒN VỐN CỦA NHTM VIỆT
NAM

Có thể nhận thấy rằng, để hội nhập thành công thì cải cách hệ thống ngân
hàng là vấn đề then chốt. Chỉ có đổi mới toàn diện theo các chuẩn mực hoạt động
của ngân hàng quốc tế mới đảm bảo hệ thống các ngân hàng Việt Nam cạnh tranh
thành công với các ngân hàng nước ngoài. Việt Nam cần phải xây dựng một hệ
thống ngân hàng có uy tín, khả năng cạnh tranh cao, hoạt động có hiệu quả và an
toàn để huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội, mở rộng đầu tư, đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế.Trong đó, vấn đề tăng trưởng nguồn vốn ổn định, bền
vững là yêu cầu bức thiết đối với các NHTM Việt Nam trong hiện tại và cả lâu dài.
Bởi lẽ, dù sự điều hòa vốn rất nhanh nhạy, hiệu quả trong hệ thống NHTM, nhưng
hiện tốc độ tăng trưởng nguồn vốn chưa tương ứng với mức tăng trưởng dư nợ cho
vay đã tạo nên áp lực đối với các NHTM Việt Nam. Hơn thế nữa theo dự đoán của
các nhà chức trách trong thời gian sắp tới, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn phải
tiếp tục vượt qua nhiều thách thức, khó khăn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay,
kinh tế suy giảm, khó khăn tác động còn lớn hơn. Do đó, các NHTM Việt Nam
cần phải xây dựng cho mình một lộ trình tăng vốn hợp lý để đảm bảo cung ứng đủ
vốn cho thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh với nhau.

Dưới đây là một số giải pháp tăng trưởng nguồn vốn cho các ngân hàng
thương mại Việt Nam :

3.1. Thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động vốn trong đó lấy chính sách

khách hàng làm trọng tâm.

Để tăng trưởng nguồn vốn, đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện đồng bộ nhiều
giải pháp huy động vốn như: đa dạng hóa sản phẩm, lãi suất huy động; cung cấp
sản phẩm trọn gói; tăng cường công tác tiếp thị, chăm sóc khách hàng v.v. Tuy

-75-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

nhiên trong điều kiện hiện tại, ngân hàng bị khống chế mức trần lãi suất, chi phí
khuyến mại áp dụng trong huy động vốn phải tính đủ trong lãi suất, ngân hàng nào
cũng có khuyến mại, nên chính sách lãi suất, khuyến mãi không còn là lợi thế cạnh
tranh để thu hút khách hàng.

Hơn nữa trong ngắn hạn, việc đưa ra một sản phẩm huy động vốn mới còn
phải chịu độ trễ nhất định về thời gian. Nhưng nếu không huy động đủ vốn sẽ làm
giảm khả năng mở rộng tín dụng và quan trọng hơn là khả năng cân đối nguồn vốn
kinh doanh. Do đó, việc thực hiện tốt chính sách khách hàng là một trong những
giải pháp hữu hiệu.

Chiến lược khách hàng được xem như là quá trình hoạch định và tổ chức
thực hiện những hoạt động nhằm duy trì và phát triển mạng lưới khách hàng trên
cơ sở thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu của khách hàng, mục tiêu duy trì phối hợp
giữa khả năng của ngân hàng với điều kiện thị trường. Thực hiện tốt chính sách
khách hàng không chỉ giữ chân và thu hút khách hàng mà còn tạo ưu thế cho ngân
hàng trong cạnh tranh khi có được sự trung thành của khách hàng. Chính sách
khách hàng cần phải vượt lên trên tập quán kiểu bán hàng là xong mà còn phải biết
lắng nghe và chiếm lĩnh trái tim người tiêu dùng, để xây dựng mối quan hệ gắn bó
có chiều sâu giữa ngân hàng và khách hàng. “Nghe” là để biết khách hàng cần gì
và thái độ như thế nào để rút ngắn khoảng cách giữa nhu cầu và sản phẩm, dịch vụ
do ngân hàng cung cấp. Và bằng chính chất lượng của sản phẩm, dịch vụ và một
thái độ phục vụ tốt, sẵn sàng đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu, ngân hàng sẽ
nhận được sự ủng hộ và lòng trung thành của khách hàng.

Để thực hiện chiến lược khách hàng thành công, trước hết, phải phân nhóm
để xác định rõ đối tượng khách hàng và có giải pháp phù hợp.

* Đối với khách hàng là doanh nghiệp (DN): ngoài số dư tiền gửi lớn, lãi
suất phải trả thường thấp hơn các hình thức huy động khác, ngân hàng còn có thể
tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong khâu thanh toán. Tuy nhiên, trong thời gian

-76-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

qua, ưu thế lãi suất thấp, lượng vốn lớn của DN trong cơ cấu nguồn vốn ngân hàng
không còn phổ biến. Khi đa số DN chia nhỏ số dư tiền gửi ở nhiều ngân hàng, đề
nghị được hưởng mức lãi suất như các hình thức huy động khác, thậm chí một số
DN yêu cầu ngân hàng để được hưởng lãi suất cao hơn khi có số dư lớn. Chưa kể
việc hàng loạt các tập đoàn kinh tế lớn, các tổng công ty cũng thành lập ngân hàng
cổ phần và chuyển phần tiển gửi trước đây tại các NHTM về ngân hàng mình. Nên
dù phải tiếp tục thực hiện tốt chính sách khách hàng đối với DN như chính sách về
lãi suất, một số loại phí v.v cũng cần thấy rằng nguồn tiền gửi từ DN sẽ khó duy trì
ở số dư lớn, lãi suất thấp và kỳ hạn dài. Điều này thể hiện rõ khi có sự dịch chuyển
nguồn vốn DN từ ngân hàng này sang ngân hàng khác trong thời gian qua nếu có
sự khác nhau về mức lãi suất, một số chính sách khách hàng khác hay có một
NHTM cổ phần ra đời từ một tập đoàn, tổng công ty.

* Đối với nguồn tiền gửi từ dân cư: khi nền kinh tế phát triển, thu nhập của
các tầng lớp dân cư tăng lên, người dân có điều kiện tích lũy nhiều hơn nên ngân
hàng cần đưa ra các sản phẩm phù hợp nhằm huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi
này.

Thứ hai: duy trì mối quan hệ lâu bền với khách hàng. Điều này sẽ giúp
ngân hàng rất nhiều. Vừa tiết kiệm chi phí thẩm định khi khách hàng có nhu cầu
vay căn cứ vào số dư tài khoản tiền gửi; vừa nâng cao khả năng thu hút khách
hàng mới thông qua mối quan hệ hay “lời giới thiệu” từ chính khách hàng của
mình. Hơn nữa, do là khách hàng truyền thống của ngân hàng nên việc đàm phán
về lãi suất, chính sách phí v.v sẽ dễ dàng hơn khi có sự thay đổi hoặc trong cạnh
tranh.

Kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu đầu tư ngày càng tăng, cùng với sự
cạnh tranh từ các kênh đầu tư như chứng khoán, bất động sản, vàng …đã tác động
không tốt đến nguồn vốn huy động của các MHTM. Để đáp ứng nhu cầu vốn phục
vụ các mục tiêu phát triển kinh tế đòi hỏi ngân hàng phải khai thác và quản trị tốt

-77-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

nguồn vốn. Trong các giải pháp huy động vốn ngoài lãi suất, việc thực hiện tốt
chính sách khách hàng kết hợp với mở rộng mạng lưới hoạt động; triển khai các
đại lý chứng khoán, bảo hiểm nhằm thu hút nguồn tiền gửi thanh toán, tiền gửi
giao dịch; Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền nhằm phát huy tối đa uy tín
của một NHTM lớn v.v sẽ là giải pháp hữu hiệu, nhất là trong điều kiện nền kinh
tế có nhiều biến động, sự cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tín dụng trong huy
động vốn như hiện nay

3.2. Tăng cường bổ sung thêm vốn chủ sở hữu và vốn khả dụng của ngân
hàng thương mại Việt Nam, tăng cường xử lý nợ quá hạn.

Tăng cường bổ sung thêm vốn chủ sở hữu và vốn khả dụng cho các NHTM
quốc doanh để mở rộng tín dụng, tạo điều kiện cơ cấu lại sở hữu vốn của các
NHTM cổ phần để tăng vốn điều lệ. Giải pháp này giúp trực tiếp tăng khả năng tài
chính cho các ngân hàng gặp khó khăn.

Để thực hiện điều đó, các NHTM cần phối kết hợp các biện pháp tăng vốn
(phát hành cổ phiếu, trái phiếu..) một cách hiệu quả, phù hợp với tình hình của mỗi
ngân hàng trong từng giai đoạn nhằm phát huy tối đa ưu điểm của các biện pháp
này và hạn chế các nhược điểm của từng biện pháp. Ngoài ra, việc cho phép các
nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng thương mại trong nước (tối
đa 30%) cũng góp phần tăng nhanh vốn điều lệ của các NHTMCP VN.

Sau mỗi lần tăng vốn cần sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn bổ sung,
kết hợp với việc cải cách ngân hàng theo hướng nâng cao năng lực quản trị điều
hành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng lực cạnh tranh cho ngân
hàng...làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng dẫn đến tăng thêm vốn từ lợi nhuận giữ
lại.

Tuy nhiên, Ngân hàng thương mại cổ phần cũng giống như các chủ thế phát
hành khác, việc nâng vốn điều lệ phải được kiểm soát chặt chẽ, thậm chí còn chặt
chẽ hơn những doanh nghiệp khác vì vai trò và ảnh hưởng to lớn của chủ thể này

-78-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

trong nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt đối với nguồn vốn nước ngoài trong NHTM
Việt Nam cần có những biện pháp theo dõi cụ thể, rõ ràng để tránh tình trạng xấu
có thể xảy ra. Bên cạnh đó, Ngân hàng muốn tăng vốn, phải giải trình được cụ thể
về nhu cầu sử dụng vốn, nhu cầu mở rộng cho vay, nhu cầu mở rộng phạm vi kinh
doanh, nhu cầu mở rộng địa bàn kinh doanh…

Cần tăng cường xử lý nợ quá hạn của các NHTM để giải toả ngay nguồn
vốn ngay trong bản thân ngân hàng. Phân loại nợ quá hạn của các NHTM, nếu do
cơ chế để lại thì không để các NHTM phải gánh chịu, mà chuyển sang Bộ Tài
chính. Nếu nợ quá hạn do bản thân NHTM gây ra thì đương nhiên ngân hàng phải
chịu, song cần phải có sự hỗ trợ của các ngành ban để có thể thúc đẩy quá trình
phát lại tài sản thế chấp để thu hồi nợ, mua bán nợ giữa các ngân hàng… Cần
nghiên cứu sớm thành lập các công ty mua bán nợ để giải quyết các khoản nợ quá
hạn cho NHTM

3.3. Không ngừng hoàn thiện các tiện ích về công nghệ ngân hàng để phục vụ
người gửi tiền một cách tốt nhất trên cơ sở đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật tại
ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng và mở rộng các dịch vụ mới.

Hiện nay Ngân hàng thương maị Việt Nam nên tiếp tục duy trì, hoàn thiện
và mở rộng các ứng dụng tin học như kế toán giao dịch, thanh toán quốc tế, thông
tin quản lý để phục vụ hiệu quả hơn cho hoạt động kinh doanh. Từng bước nghiên
cứu ứng dụng các giải pháp công nghệ mới, các dịch vụ ngân hàng mới dựa trên
nền tảng công nghệ hiện đại. Mặt khác với các dịch vụ mới đưa vào áp dụng như
thẻ thanh toán, thẻ rút tiền tự động cần hoàn thiện hơn nữa chất lượng và khả năng
quản lý các dịch vụ đó. Giảm thiểu tình trạng tắc nghẽn trong việc rút tiền ở các
máy rút tiền tự động, sai lệch trong công nghệ chuyển tiền và thanh toán tìên như
hiện nay. Từ đó tạo tâm lý an toàn cho người gửi tiền, góp phần nâng cao năng lực
vốn cho các NHTM.

3.4. Tăng cường công tác đào tạo đội ngũ nhân viên ngân hàng.

-79-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

Để tăng truởng nguồn vốn có hiệu quả, một giải pháp không kém phần
quan trọng đó là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng, đào tạo
và đào tạo lại cán bộ, đảm bảo thực hiện tốt các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại; tiêu
chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất là những cán bộ
thanh tra giám sát, cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế, cán bộ sử
dụng và vận hành công nghệ mới. Nếu làm được những điều đó, hệ thống NHTM
Việt Nam sẽ vận hành một cách trơn tru hơn, nâng cao uy tín trong xã hội.

3.5. Hoàn thiện khung Pháp lý để các ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn.
Đồng thời cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn của NHNN với các TCTD khác để hệ
thống ngân hàng hoạt động được trong sạch và lành mạnh hơn, đúng như những gì
mà Đảng và Nhà nước đã kỳ vọng trong thời gian qua.

3.6. Tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các tổ chức tài
chính quốc tế để đổi mới và nâng cao năng lực vốn cũng như chất lượng hoạt
động, năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam.

-80-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

LỜI KẾT

Những vấn đề liên quan đến quản lý nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Việt Nam là một phạm trù rất rộng, ngân hàng có thể dùng nhiều biện pháp tùy
theo điều kiện có thể thực hiện được. Tuy nhiên, mỗi ngân hàng là một tế bào của
nền kinh tế – tài chính, do đó nó sẽ không thể tránh khỏi sự chi phối bởi môi
trường xung quanh, cũng như sự chi phối của chính hiện trạng nền kinh tế đó. Một
nền kinh tế phát triển, khoẻ mạnh, thì hệ thống ngân hàng cũng sẽ có những bước
tiến mới để phù hợp với sự đi lên đó, thực sự là chỗ dựa vững chắc cho nền kinh
tế. Còn ngược lại, không thể nào có được một hệ thống ngân hàng tiên tiến, vững
mạnh khi nền kinh tế yếu kém, chậm phát triển, do đó hệ thống tài chính – tiền tệ
sẽ không đáp ứng được cho nhu cầu của nền kinh tế, dẫn đến những kết quả tiêu
cực trong tương lai.

Do việc nghiên cứu về hệ thống ngân hàng thương mại là rất sâu rộng và
phức tap, hơn nữa với giới hạn trong khuôn khổ một đề án và giới hạn trong kiến
thức của em; nên em chỉ đề cập được tới một số vấn đề chính yếu của vấn đề này.
Nếu có thể ở một số đề án sau em sẽ tiếp tục nghiên cứu. Em rất mong được các
thầy cô góp ý phê bình để những bài viết sau đạt chất lượng tốt hơn. Em xin chân
thành cảm ơn.

-81-
Đề án Tài chính - Tiền tệ Mạc Nguyên Đoan Hạnh

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1/ PGS.TS.Phan Thị Thu Hà (Chủ biên), 2006, Giáo trình Ngân hàng thương

mại, NXB Thống Kê.

2/ PGS. TS Nguyễn Thị Mùi (Chủ biên), 2006, Giáo trình Quản trị Ngân hàng
thương mại, NXB Tài chính.

3/ GS.TS. Lê Văn Tư (Chủ biên), 2000, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB
Thống kê.

4/ TS. Nguyễn Hữu Tài (Chủ biên), 2002, Giáo trình Lí thuyết Tài chính tiền tệ,
NXB Thống kê.

5/ Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng

6/ Tài liệu từ Internet:

Ngân hàng nhà nước Việt Nam- www.saga.com.vn

Diễn đàn Doanh nghiệp điện tử - www.DDDN.com

Báo điện tử - thời báo kinh tế Việt Nam – www.vneconomy.com

Tin tức kiểm toán – www.kiemtoan.com.vn

Tạp chí kế toán – www.tapchiketoan.info

Đầu tư chứng khoán – www.vir.vom.vn

Tài chính doanh nghiệp – www.businessedge.com.vn

Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam – www.Vietcombank.com.vn

Ngân hàng Đầu tư và phát triển – www.BIDV.com.vn

Công ty chứng khoán ngân hàng Đầu tư – www.bsc.com.vn

Thị trường 24h – www.thitruong24h.com.vn

-82-

You might also like