You are on page 1of 30

BÍ MẬT TỪ LÒNG ĐẤT (tập 1): LỜI NGUYỆN CẦU Ở ĐỀN THÁNH

****************************

Bắt đầu từ series này, ad xin mạn phép xưng tôi cho dân dã. Trong series truyện này, chúng tôi sẽ công
bố những bí mật đã khám phá được về miền Bắc Việt Nam. Nó hé mở cho chúng ta, những người Việt
Nam hiện đại, những bí mật “động trời” tưởng như đã chôn vùi mãi mãi không một ai biết. Sau khi xem
hết những bí mật này, tôi tin rằng quý vị và các bạn sẽ có những cách nhìn mới mẻ hơn về quê hương xứ
sở và nguồn gốc người Việt chúng ta.

Từ post trước, tôi đã từng kể với các bạn câu chuyện đến huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, và tiếp xúc với
linh hồn “La tiên sinh” hồi tháng 5 năm 2020. Thực ra, với những người rành rẽ về lịch sử và biết nhiều
câu chuyện quá khứ thì không khó hiểu đối với cụ La Sơn Phu Tử, lúc còn tráng kiện thì làm quan cho
nhà Hậu Lê, nhìn thấy buổi nhiễu nhương chúa Trịnh hiếp đáp vua Lê, ăn chơi sa đọa, La Sơn Phu Tử
chán nản về quê dạy học, hơn 60 tuổi thì tràn trề giấc mộng anh hào bình sinh vì gặp đức Thái Tổ nhà
Tây Sơn (vua Quang Trung) là bậc anh dũng vừa là quân vương vừa là chiến tướng, nên hết lòng phò trợ,
đến năm 78 tuổi vẫn chống gậy giúp đỡ cho Mạt chúa Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản). Mặc dù hiệp
trợ cho nhà Tây Sơn, nhưng sau này Thế Tổ nhà Nguyễn (vua Gia Long) vẫn kính trọng không dám động
đến một sợi lông của cụ, xem cụ như là bậc ẩn sĩ chí hiền. Theo như linh hồn cụ La tiên sinh kể lại, lúc đó
trong triều đình Phú Xuân gièm pha về cụ rất dữ, đặc biệt là các ông đại thần như Lê Văn Duyệt và Lê
Chất đều khuyên Nguyễn Thế Tổ nên trừ họa tận gốc. Lê Chất từng là cựu tướng nhà Tây Sơn nên trong
tay hắn nắm rõ những “hồ sơ mật” về cụ La, hắn nói rằng:

- Nguyễn Thiếp là cựu thần nhà Lê nhưng không có lòng phò chúa cũ, lại manh tâm phù trợ cho giặc
ngụy Tây. Ngụy Huệ (chỉ vua Quang Trung) lúc còn sống rất trọng dụng hắn, đến tuổi kỳ lão đáng ra nên
biết an phận với mệnh trời song hắn không tri túc, lại ra bày kế cho ngụy Toản là con của kẻ nghịch tặc.
Cha con giặc ngụy tin dùng hắn, hắn nói gì cũng nghe, rõ ràng là đồng lõa với kẻ thù, nếu nay thánh
thượng dung tha cho loại người này, e rằng hắn khích động nhân sĩ Bắc Hà lỡ như khởi loạn thì sẽ không
hay. Thánh triều mới lập, lòng người chưa yên, đối với tên hủ nho gian đảng này nếu không đề phòng thì
không được. Chi bằng nhổ cỏ thì nhổ tận gốc, thần sẽ phái người đến thảo trang của hắn, ngầm cho
phục độc, hắn chết rồi thì hậu họa sẽ yên, không còn lo gì nữa.

Thế Tổ Gia Long nghe những lời nói đó không cho là phải. Ông ta nghĩ rằng thiên hạ vừa mới định, lòng
người còn nghi ngại về sự cai trị của triều đại mới, hơn nữa La Sơn Phu Tử là người rất có danh vọng đối
với nhân sĩ đất Bắc Hà, nếu sát hại ông ta thì sẽ gây hoang mang và phẫn oán cho người trong thiên hạ,
sẽ không ai muốn phục tùng cho một vương triều hà khắc hẹp hòi như vậy. Do đó, trái lại, Gia Long ngăn
cản Lê Chất, không cho gây tổn hại đến cụ La, còn cử người đến đưa chiếu thư an ủi cụ và ban thưởng
hậu lễ, ý không muốn làm kinh động lòng người. La Sơn Phu Tử vì khí tiết nên từ chối hết tất cả quà cáp
của triều đình Phú Xuân gửi đến, nhưng chiếu thư của Gia Long thì bắt buộc phải nhận, cụ biết rằng nếu
không quỳ nhận chiếu thư của tân triều đồng nghĩa là chống đối, tính mạng của cả nhà cũng khó bảo
toàn. Những ngày sau đó, La Sơn Phu Tử sống trong buồn bã và uất ức, trước khi mất cụ than thở một
câu:

- Ngày xưa Tô Đông Pha đời Tống kêu rằng đọc năm ngàn quyển sách mà không tìm được một kế cứu
dân. Nay lão phu làm thượng khách hai triều, trải lòng trung phò chúa, mưu hiếu hạnh đền ân cho bách
tính, vậy mà cũng nghẹn ngào như người thiên cổ, lặn hụp trong biển thánh hiền mà không tìm được
phương sách nào cứu dân đen ra khỏi hầm nạn. Tiên đế ân cần trọng đãi ta, nhưng ta hận không làm
được gì khi triều đình đã hư nát, bây giờ tuổi già sức yếu, đâu còn hơi mà lo cho quốc kế dân sinh. Giời
ơi... lão phu có nhắm mắt cũng không có mặt mũi nhìn bậc Tiên Thánh, càng không dám xuống hoàng
tuyền gặp Thái Tổ Vũ hoàng đế.

Đó là nội dung những gì linh hồn này “trút bầu,” chúng tôi là người hiện đại nên không hiểu lắm nỗi
niềm tâm sự của một người đã quá cố như ông. Có lẽ đó là sự xa cách giữa hai thế hệ, một thế hệ nhà
nho của thời phong kiến đã đi qua quá lâu, với thế hệ của tuổi trẻ 9X người Việt Nam hiện đại. Thực sự,
ngay cả thế hệ cha mẹ của chúng ta chắc gì chúng ta đã có sự đồng cảm thấu hiểu lẫn nhau, huống chi là
người đã cách ta những mấy trăm năm. Mọi lời an ủi chúng tôi dành cho linh hồn quá vãng dù chân
thành thế nào thì cũng chỉ là những lời gượng gạo. Sau này ngẫm lại, tôi hiểu rằng: La Sơn Phu Tử là một
nhà nho tiến bộ, chí lớn của cụ là muốn phò trợ cho một vị vua anh minh và thực hiện sự nghiệp cải cách
chấm dứt thời kỳ chiến tranh để đưa đất nước đến giai đoạn thái bình, mang lại cuộc sống ấm no cho
nhân dân. Cụ từng gửi gắm niềm hy vọng đó cho vua Quang Trung, nhưng thất vọng khi nhìn thấy đức
vua băng hà quá sớm mà con trai của vua lại bất tài, nhà Tây Sơn sụp đổ. Niềm uất hận của cụ trước khi
nhắm mắt không phải là nhà Nguyễn chiến thắng, cũng không phải sự đe dọa của tập đoàn cầm quyền
Phú Xuân, cụ đâu có sợ chết, cụ chỉ hận vì không thực hiện được hoài bão của mình mà đã sức tàn lực
kiệt, không “cứu dân đen ra khỏi hầm nạn” được thôi.

Đoạn thông tin trên là được linh hồn thuật lại, không được ghi lại trong chính sử, cho nên tôi nghĩ cần
cung cấp để cho bạn đọc vỡ lẽ một bí mật của quá khứ. Còn những thông tin khác, chúng tôi không tiện
nói thêm. Lần trở lại Hà Tĩnh này chúng tôi còn có một số việc khác cần làm. Chúng tôi dùng là “trở lại”
tức không phải mới đến đây lần đầu. Đúng vậy, lần đầu tiên đến đây là năm 2018, chúng tôi không phải
chỉ đi đến Hà Tĩnh mà còn đi tới Nghệ An, lên đỉnh đầu giáp ranh với tỉnh Thanh Hóa, nhưng vì một số
vấn đề như kinh phí mà chúng tôi không tiếp tục đi lên phía Bắc nữa mà mua vé xe trở về Sài Gòn. Lần
trở lại tháng 5 năm 2020 chỉ là để thăm viếng mộ của một người đàn ông mà chúng tôi gọi là “chú
Cường.” Cuối tháng 4 năm đó, sau khi đất nước đã giãn cách xã hội xong xuôi vì bệnh dịch Covid-19, thì
giữa tháng 5 đã phải tranh thủ ra đó, nếu chậm trễ để đến lúc dịch bệnh bùng phát trở lại thì chúng tôi
sẽ không còn cơ hội.

Trở lại năm 2018, đó chính là lần đầu tiên tôi đến Nghệ An và gặp gỡ chú Cường. Khoảng tháng 4 năm
đó, tôi có cùng một người bạn đến khúc Công viên Gia Định làm quen với một anh chàng tên là Khôi.
Quen một thời gian cho đến tháng 8, anh Khôi có giới thiệu tôi một người đã gần bước sang tuổi lão
niên đang sống tại đường Lê Đức Thọ, quận Gò Vấp, gọi là bác Lâm. Bác ấy là một người thích nghiên
cứu Đông–Tây, kiến thức rất nhiều, đặc biệt là thích tìm tòi về Huyền học và ưa thuật phong thủy.

Có một lần gọi riêng bác ra trò chuyện, bác giới thiệu với tôi rằng bản thân bác ngày xưa từng thụ giáo
với 7 người thầy thuở xưa là trí thức Sài Gòn một thời, trong đó có giáo sư kiêm linh mục Lương Kim
Định – một trí thức Công giáo sau này đã bỏ sang nước ngoài ẩn cư. Là học trò của Kim Định nhưng quan
điểm của bác phần nào đối lập với thầy mình, bác nói:

- Lương Kim Định là một trí thức lớn của chế độ cũ tại Sài Gòn, ông ta có tham vọng của một triết gia và
muốn vơ hết mọi thành tựu của thế giới về Việt Nam. Nhất là đối với Trung Quốc, ông ta viết sách nói
rằng tổ tiên người Việt Nam đã từng chiếm cứ toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, và chính người Việt cổ đã
xây dựng nền văn hóa lâu đời tại trung tâm Sơn Đông và sau này dời xuống dần dần đến khu vực Lương
Chử. Người Việt Nam là trùm của mọi phát minh, lửa cũng do người Việt Nam chế, phong tục, tập quán,
chữ viết, nhà cửa, thậm chí cả Nho giáo, Kinh Dịch v.v... cũng là của người Tàu học lại từ người Việt.
Người Việt mới là thủy tổ của Nho giáo, tức là Việt Nho, trọng tâm của nó là “triết lý an vi.” Ông ta thêu
dệt lên cả một pho lịch sử đầy huyền thoại và triết học ngụy biện. Người ta nói “đi xa tha hồ nói khoác,”
cái thời ăn lông ở lỗ tiền sử không có gì chép lại, cho nên muốn nói sao nói, muốn bịa sao bịa. Bác không
bao giờ đồng ý với lối vẽ vời của thầy mình. Đối với bác, nền văn hóa của Việt Nam và Trung Quốc là “đối
song,” chúng ta không hề làm chủ đất đai của họ bao giờ, Kinh Dịch và Nho giáo của Trung Quốc cũng
không phải là do người Việt Nam cổ đại sáng tạo ra. Tổ tiên chúng ta có những phát minh riêng của
mình, đó chỉ đối ứng với sự phát minh của người Tàu, chứ không phải người Tàu học lại của mình hay là
mình học lại của Tàu. Lối viết của ông Kim Định thật là “bất lương tri thức,” đưa cái tôi của dân tộc mình
lên làm “ông nội” các giống dân khác, thật không thể chấp nhận được...

Tôi bèn hỏi bác Lâm:

- Theo bác, bác nghĩ thế nào về nền văn minh cổ đại của tổ tiên người Việt?

Bác rung đùi và tự hào khoe rằng:

- Bác đây, thực nòi giống con Rồng cháu Tiên, chính hiệu Xích Long quốc, vi đạo Lạc Long Quân.

- Lạc Long Quân thì cháu biết, nhưng vì sao gọi là Xích Long quốc? – Tôi hỏi bác.

- Cháu đọc sách xưa, thấy người ta viết như vầy phải chăng: Thuở xưa, Lộc Tục là con thứ của Đế Minh,
vì không muốn tranh ngôi với anh là Đế Nghi nên chia đôi thiên hạ. Lộc Tục đi xuống phương Nam, xưng
hiệu Kinh Dương Vương, quốc hiệu Xích Quỷ. Chúng ta là nòi rồng tiên, tại sao lấy quốc hiệu Xích Quỷ
cho được? Xích Quỷ là con quỷ đỏ, đó là cách nói miệt thị của người phương Bắc, kỳ thực chẳng phải
Kinh Dương Vương xưng hiệu Xích Quỷ, mà chính là Xích Long. Đối với người Á Đông, rồng là linh vật,
không chỉ riêng xứ ta mà khắp nơi trên thế giới, mỗi dân tộc đều lấy con rồng làm biểu tượng của mình.
Tổ tiên của người Tàu vốn dĩ sống ở khu vực phù sa màu vàng của Hoàng Hà, do đó họ lấy Hoàng Long
(Rồng Vàng) làm biểu tượng. Tổ tiên của người Nhật ở phương Đông, ứng với màu trắng, do đó lấy Bạch
Long làm biểu tượng. Tổ tiên của người Ấn-độ ở phương Nam, có Ấn-độ dương bao phủ và huyền thoại
sông Hằng, rừng cây bao phủ nóng ẩm quanh năm, ứng với hành Mộc, do đó lấy Thanh Long làm biểu
tượng. Tổ tiên người châu Âu sống ở vùng đất đá khô cằn do dung nham núi lửa thời cổ đại bị tắt cô đặc
thành đất đai, chỉ phù hợp trồng cây ô-liu và các loại trái ăn quả, không phù hợp trồng lúa nước, họ cho
rằng loài rồng sinh ra từ nham thạch núi lửa nên có tính khí nóng nảy và hung ác, do đó biểu tượng của
họ là con Hắc Long. Tổ tiên của người Việt Nam ở xứ nóng, trồng lúa nước, giỏi y thuật, là con cháu của
Viêm Đế Thần Nông, dĩ nhiên lấy màu Đỏ làm chủ, cho nên biểu tượng phải là Xích Long. – Bác vỗ đùi
vừa nói vừa đắc chí tưởng như mình đã khám phá một điều không phải ai cũng biết.

Tôi ngờ ngợ hỏi bác:

- Cứ cho lời bác nói là đúng, vậy lấy gì làm bằng chứng?

- Không phải bác nói suông, có một bằng chứng này bác lấy làm ví dụ cho cháu hiểu. Cháu có biết đến
nhân vật Phan Xích Long hay không? – Bác quay lại hỏi tôi.

- Có biết, hình như là một anh hùng chống Pháp. Nhưng sự tích người ấy là thế nào cháu không rõ. – Tôi
đáp lại.

- Phan Xích Long thực ra tên gọi ở nhà là Lạc, lớn lên thì lấy tên là Phan Phát Sanh. Phan Phát Sanh là con
nhà một ông cảnh bị người Hoa ở Chợ Lớn, Sài Gòn. Năm 14 tuổi, Phan Phát Sanh không ở thành nữa
mà lui về vùng Thất Sơn, An Giang để tu đạo. Đến năm 16 tuổi thì ông ta phất cờ khởi nghĩa, tự xưng
ngôi vua và quyết liệt chống Pháp. Cháu không thấy lạ ư, một thằng bé 16 tuổi lấy đâu ra bản lĩnh mà
xưng vua chống Pháp? – Bác Lâm nhìn tôi với vẻ đánh đố.

Tôi ngồi ngẫm nghĩ suy đoán, kết nối lại thông tin bác vừa kể rồi chép miệng nói:

- Bác nói cậu ta lui về Thất Sơn. Nơi đó là vùng đất linh thiêng, có rất nhiều đạo phái đến đó tu luyện, có
thể cậu ta học được những thứ mà người ta gọi là “bùa phép,” rồi lấy khả năng đó để chiêu mộ quần
chúng chăng?

- Cháu chỉ nói đúng một phần thôi. Phan Phát Sanh thiệt ra rất kỳ tài, cậu ta không những được con
người ủng hộ, mà ngay cả quỷ thần nơi đó cũng ủng hộ. Nếu không có thế lực tâm linh âm thầm hộ trì,
cậu ta dù có trăm cái lưỡi cũng không thể thuyết phục quần chúng theo mình được. Một thằng nhóc
thiếu niên miệng còn hôi sữa, lấy đâu gan góc mà khiến mọi người phải quỳ lạy tuân theo. Bác nói cho
cháu biết, sư phụ của cậu Phan đó không phải là người mà là quỷ thần, cho nên cậu ta mới có bản lĩnh
phi thường. Cậu ta nhờ tâm linh mà biết được đời xưa thủy tổ Kinh Dương Vương lập quốc, không xưng
hiệu Xích Quỷ mà chính là Xích Long, nên mới lấy đó làm tên gọi cho mình. Năm mới 19 tuổi, cậu bé đó
đã huy động được đông đảo quần chúng khắp lục tỉnh Nam Kỳ, tự xưng là con rơi của vua Hàm Nghi, đặt
quốc hiệu là Đại Minh, lấy niên hiệu là Hồng Long. Hồng Long và Xích Long đều là một, chỉ cho con Rồng
Đỏ, đó chính là phù hiệu của Viêm Đế Thần Nông, minh chứng cho dòng dõi phương Nam của quốc tổ
Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân. Chỉ là thế lực tâm linh phù trợ cho cậu ta không mạnh, lại không
đúng với ý trời, kết quả là khởi nghĩa thất bại, các lãnh tụ nghĩa binh đều bị xử bắn.

- Nơi xử bắn nhà lãnh tụ Phan Xích Long nằm ở đâu nhỉ? – Tôi hỏi một câu ngoài lề vì có hơi thích thú tò
mò.

- Họ bị bắn tại Đồng Tập Trận, chỗ đó ngày nay chính là ngã sáu Công trường Dân chủ. Trước khi là
trường bắn thì nó là trường chém, vụ nổi loạn của Lê Văn Khôi thời vua Minh Mạng khi bị đàn áp đẫm
máu, hàng ngàn người cũng bị chém ngay tại đó... – Bác Lâm hớp một ngụm nước chanh đá rồi nói tiếp.

Tôi gật gật đầu, ngã sáu Công trường Dân chủ thì chắc ai cũng biết, nó giao giữa các đường Võ Thị Sáu,
Ba Tháng Hai, Lý Chính Thắng, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Phúc Nguyên và Cách Mạng Tháng Tám.
Nếu tôi nhớ không lầm, có người cũng từng nói với tôi rằng, những người bị tử hình ở khu vực này rất
đông, có lúc lên tới hàng vạn người xếp hàng dài với khoảng cách từ đường Võ Thị Sáu dọc đến đường
Ba Tháng Hai. Hiện nay, rất nhiều xe cộ đi lại trên giao lộ này, nhưng chắc chắn không mấy người biết
bên dưới nó đã chôn xác hàng nghìn hàng vạn đầu lâu suốt một thời gian dài, người dân thời đó còn gọi
nấm mồ tập thể này là Mả Ngụy, chỉ có những người có năng lực tâm linh khi đi ngang qua đây mới cảm
nhận được mùi tử khí...

Tôi nói với vẻ hơi chất vấn bác:

- Song bằng chứng bác đưa ra mập mờ quá? Khoảng cách của thời Phan Xích Long với thời Kinh Dương
Vương cách nhau hàng ngàn năm, làm sao lấy tên gọi của một cá nhân để suy diễn quốc hiệu thời cổ
đại?

- Lãnh thổ Việt Nam có hình chữ S, trong địa tướng đó là hình tướng của con rồng, con rồng đó lại nằm
giữa đảo Hải Nam và Biển Hồ tạo thành hình vẽ phân ranh giới âm dương trong thái cực, đó là ngụ ý Việt
Nam là vùng đất linh kiệt, là điểm hội tụ cho sự cân bằng của đất trời. Nước Tàu ngày xưa có Chu Dịch,
còn nước Nam ta ngày xưa có Hồng Bàng Dịch. Hồng Bàng Dịch là của đức Kinh Dương Vương và Lạc
Long Quân phát minh truyền trao lại, trong Kinh đồ của đức Kinh Dương Vương đã định rõ quốc thổ của
con cháu là hình chữ S rồi, đó chính là con rồng, cho nên mới gọi là Xích Long. Người phương Bắc khi
xâm lược Việt Nam vì muốn hạ thấp uy danh tổ tiên ta nên mới đổi Long thành Quỷ với nghĩa khinh
miệt. – Bác Lâm đáp.

- Nhưng lãnh thổ của người Việt ngày xưa đâu phải là toàn vẹn hình chữ S, miền Trung là đất của
Champa, Nam Bộ là nơi cư trú của người Khmer kia mà? – Tôi lấy làm thắc mắc.

Bác nói rằng:

- Lãnh thổ nước Nam ta đã được anh linh quốc tổ Kinh Dương Vương định sẵn rồi, các vua Lê chúa
Nguyễn sau này là người thực thi theo di chứng thôi. Nếu không phải tiền định thì làm sao người Việt ta
có thể sáp nhập lãnh thổ của họ vào mình. Điều đó trong bộ Hồng Bàng Dịch có nói rồi vậy.

- Hồng Bàng Dịch ư? Chu Dịch ít ra còn có sách lưu truyền, còn Hồng Bàng Dịch cháu chẳng thấy cuốn
sách nào cả, làm sao nói nó có thật và được lưu truyền đây? – Tôi lại nghi vấn.

- Hồng Bàng Dịch là tinh hoa của Bách Việt, nó hoàn toàn khác với Chu Dịch của người phương Bắc. Chu
Dịch chỉ có tám quẻ đơn, gọi là Bát Quái; Hồng Bàng Dịch thì có mười hai quẻ đơn, tức Thập Nhị Quái;
Bát Quái của Chu Dịch chia chẽ làm 64 hào, còn Thập Nhị Quái của Hồng Bàng Dịch chia chẽ ra 144 hào.
Hồng Bàng Dịch có nội dung chi tiết hơn Chu Dịch rất nhiều, nếu tinh thông nó thì sẽ nắm được huyền
cơ của vũ trụ vạn vật. Người Tàu ngày xưa nhờ Chu Dịch mà lập ra được môn Phong thủy coi nhà, môn
Bát trạch coi đất, môn Tử vi coi mệnh, môn Tử Bình coi số, Bát quái trận của Khổng Minh cũng là rút ra
từ Kinh Dịch v.v... Tiếc là Hồng Bàng Dịch của người Việt lại không được lưu truyền phổ biến, nếu không
thì người Việt Nam sẽ có một bí kíp cực kỳ minh triết hơn cả người Trung Quốc. Kỳ thực, Hồng Bàng Dịch
vẫn được lưu truyền trong mạch ngầm thôi. – Ông bác ung dung hạ hồi phân giải.

Tôi mới hỏi bác:

- Làm thế nào cháu mới có cơ hội để được biết về nó, và tận tường như những câu chuyện mà bác kể.

- Nếu vậy phải xem căn tính của cháu là người như thế nào? Nếu là người phù hợp, cháu chỉ cần đi ra
Đền Đức Thánh Trần, thắp hương trước anh linh của Võ Thánh, rồi khấn xin đức Kinh Dương Vương và
Lạc Long Quân hiển linh giúp cho cháu có cơ hội được học hỏi, thật sự kính cẩn thành tâm, các ngài sẽ
soi đường chỉ lối cho. – Bác Lâm ôn tồn nhắn nhủ.

Đối với tôi, đó là một lời khuyên “như không.” Tôi là một người nghiên cứu tâm linh, vốn không phải là
một con nhang tín đồ, giờ bác ấy lại khuyên tôi đi thắp hương Đền Trần, cầu cạnh đến sự dẫn dắt của cõi
vô hình ư? Dựa vào đâu để tôi tin chắc được. Ấy vậy mà khi về nhà suy nghĩ suốt 3 ngày liền, tôi vẫn trăn
trở về điều đó. Tôi thật sự muốn biết, muốn biết, rốt cuộc mớ huyền thoại đó đằng sau là gì? Đến ngày
thứ 4, tôi không chịu được nữa, tôi đã một mình đến Đền Trần. Không phải vì tin lời bác Lâm. Tôi rất
kính trọng tuổi tác, đức tính và hiểu biết của bác, nhưng tôi không đồng ý hoàn toàn với những kiến giải
của bác. Đúng là người trẻ bao giờ cũng cố chấp. Sự cố chấp đó có thể đưa họ vào nguy hiểm, nếu xui
xẻo thì mất mạng, còn như thành công thì họ sẽ “đào được kho báu,” nhưng nếu không có sự cố chấp
thích lao vào chốn nguy hiểm như vậy thì sẽ không bao giờ có sự tiến bộ “sóng sau vượt sóng trước.” Đó
là quy luật của sự phát triển. Tôi vẫn quyết định đến Đền Thánh Trần tọa lạc ở số 36 đường Võ Thị Sáu,
phường Tân Định, quận 1, Sài Gòn để thắp hương. Đến đó vào buổi trưa, tôi bước vào chánh điện để
quan sát. Bẵng một lúc thì tôi trở ra ngoài mua một thanh nhang rồi thắp ở bức tượng Trần Hưng Đạo ở
bên ngoài, rồi tiến vào trong thắp ở giữa chánh điện và phát lời nguyện ước của mình:

- Nếu anh linh hai đức Quốc tổ và đức Thánh Trần thực sự hiển thánh và chứng giám cho sự chân thành
của con, mong các vị sẽ soi đường cho con tìm thấy sự thật.

Chẳng có gì cả. Chỉ là nhang khói bốc lên nghi ngút. Tôi bước ra và ngắm nhìn bầu trời trong buổi nắng
gắt của mùa thu Sài Gòn. Có lẽ tôi đã ngây thơ chăng? Không, tôi không có manh mối gì cả, tôi cũng
không biết đường đi, chỉ có một lời khuyên duy nhất kêu tôi đến đây, và buộc tôi phải thử.

Và đúng thật. Có lẽ lời khuyên đó không lầm. Hoặc là do số phận của tôi may mắn. Dù sao thì những
điều tôi muốn khám phá, lúc đó tôi suy nghĩ:

- Cháu rất kính trọng bác Lâm. Nhưng cháu chỉ muốn đi tìm những bằng chứng để có thể sáng tỏ... rằng
bác đã sai bét...

Chuyện tiếp theo diễn ra như thế nào? Tôi sẽ đăng tiếp trong tập sau...

Bình Định, mùng 24 tháng Chạp năm Canh Tý

BÍ MẬT TỪ LÒNG ĐẤT (tập 2): NGHỆ AN – VÙNG ĐẤT ĐẦY MÊ HOẶC

****************************

Tháng 8 năm 2018 là thời điểm tôi gặp bác Lâm, và cũng là thời điểm tôi rời bỏ nghiệp nhà báo, và hoạt
động tự do. Tình hình diễn tiến đến tháng 10 năm đó, sau thời gian cầu nguyện ở Đền Thánh Trần thì tôi
được gặp một mối liên hệ quen biết ở quận 6 Sài Gòn, chị ấy là một người Hoa, và là một người có năng
lực ngoại cảm. Tình cờ là chị biết Page Quỷ học – Demonology mà tôi đã thành lập và tỏ vẻ hào hứng với
các nội dung trong đó, chị bảo nó rất lôi cuốn và không giống như một Page sưu tầm những thứ “tào
lao,” các thông tin kiến thức được đưa ra có đầu tư và thú vị. Khi hỏi tên thì được biết chị tên là Nga.
Trong một lần hẹn nhau trên một quán nước tại đường Nguyễn Thiện Thuật, quận 3, tôi có thử năng lực
của chị bằng cách đưa 1 chuỗi dây chuyền có hình tượng Phật “tí hon” cho chị xem. Chị nói rằng mình có
khả năng sờ vào đồ vật và cảm năng lượng từ trong đó, khi cầm thử chiếc dây chuyền được đưa một lát,
chị nói rằng:

- Tuyệt! Chị cảm nhận được một cội cây rất mát mẻ, có vẻ nó là cây Bồ-đề rất cao lớn. Dưới cội cây đó có
một buổi pháp sự, chị nhìn thấy những nhà sư Phật giáo. Họ đang tụng niệm dưới cây bằng những bài
kinh râm ran. Nhìn họ có vẻ như không phải người Việt Nam, họ không ăn mặc như nhà chùa thông
thường ở xứ mình, họ khoác y vàng và để hở vai phải. Chính giữa cội cây là một nhà sư già, vị đó đang
tắm cho chiếc dây chuyền mặt Phật ấy cùng nhiều sợi dây khác và niệm chú pháp vào đó. Có vẻ họ tụng
niệm khá lâu, liên tục trong nhiều ngày...

Tôi gật đầu. Kỳ thực, sợi dây chuyền đó trước đây tôi nhận được từ một vị sư tôi được gặp ở chùa Thiên
Hưng, huyện Tuy Phước, Bình Định. Vị sư ấy không sống ở ngôi chùa này mà sống ở bên Mỹ, ông trở về
Việt Nam để hóa duyên và trao đổi gặp gỡ với tôi tại đó. Sư có tặng cho tôi sợi dây chuyền này và nói nó
được truyền phép từ các nhà sư bên Thái-lan. Những gì chị Nga mô tả lại là năng lượng ký ức được hàm
chứa trong sợi dây chuyền, và chị ấy đã thuật lại gần như khá chính xác những gì mà tôi đã biết về nguồn
gốc của món đồ vật này. Có khá nhiều cách để kiểm tra khả năng của một người ngoại cảm, và ngoại
cảm cũng có nhiều loại khác nhau, ở đây năng lực của chị mạnh về ngoại cảm từ lòng bàn tay, chị cũng
có khả năng tiếp xúc với các linh hồn, tuy nhiên, điểm khác nhau giữa chị với các “thanh đồng” là chị
không bị nhập. Chị chỉ đơn thuần nghe họ nói và thuật lại, ngoài ra cơ thể chị vẫn bình thường và không
có dấu hiệu nhập xác gì cả. Đối với chị, nhập xác là một sự xúc phạm đối với thân thể và linh hồn của
mình, do đó chị kiên quyết không bao giờ để bất cứ linh hồn nào “mượn” cơ thể của mình dù là trong
phút chốc.

Sau đó, chúng tôi gặp thường xuyên hơn để trao đổi với nhau những đề tài về tâm linh. Một hôm, chị
hỏi tôi rằng tại sao không kiểm tra bằng cách đến một địa điểm tâm linh nào đó để thử kết nối. Tôi đồng
ý và tôi nghĩ cũng nên thử xem, thế là chúng tôi đã đi đến một số địa điểm đáng lưu tâm tại Sài Gòn.
Chẳng hạn, Thuận Kiều Plaza (thời điểm đó đã là The Garden Mall), nhưng cả tôi và chị đều cảm thấy
không nên bước vào, nó thật là “tà khí” tiềm ẩn trong một đô thị xinh đẹp; Miếu Nổi Gò Vấp, tức Phù
Châu miếu, đi thuyền đến đây, ngay lập tức chị bắt tín hiệu liên lạc ngay với một thực thể mà chị gọi đó
là “Long Mẫu,” nhưng tôi sẽ không kể câu chuyện này vì một số bí mật riêng tư; và kể cả ngôi nhà tôi
đang sống vào thời điểm đó, nó nằm tại khúc giao giữa Gò Vấp và Bình Thạnh.

Xin kể một chút về ngôi nhà này, đó là gia đình một người họ hàng mà tôi xin cư ngụ ở đây. Trước đây
tôi đã biết đây là một ngôi nhà “ma.” Nhưng chỉ đơn thuần là hồn ma của người đã khuất. Tôi đã sống ở
đó cả năm rồi, và chẳng có gì xảy ra đối với tôi cả. Cho đến khi mời chị vào, lại bắt đầu có cuộc hội thoại
liên lạc ở đây. Theo chị Nga kể lại, tổng cộng có 3 hồn ma trong ngôi nhà này:

- Có một người đàn ông, ông ấy không có đầu và đôi khi chiếc đầu lơ lửng hoặc có thể ráp vào cổ ông ấy.
Người đàn ông này nếu tính về tuổi tác chắc đáng tuổi ông nội hay ông cố đây. Ông ấy nói rằng tên khai
sinh của mình là Trần Văn Hòa, quê quán tại Tiền Giang, năm sinh vào khoảng 1915-16. Khi lớn lên ông
tham gia đi lính và đổi tên đăng ký nhập ngũ là Nguyễn Đình Chiến, và tham gia vào lực lượng quân Bình
Xuyên – tức là quân lực bảo an của Quốc gia Việt Nam thời ông “cựu hoàng” Bảo Đại. Lý do chết là bị
Việt Minh chặt đầu để trả thù. Ông bị giết khoảng năm 1954, thi thể mất đầu bị xếp lại theo hình chữ S
quay về bên phải. Do thời gian chết quá lâu, thi thể bị chôn vùi dưới đất sâu hơn 4m, vào thời điểm đó
khu đất này chỉ là đồng vắng, và bây giờ đã xây thành nhà cửa nhưng dường như lúc thi công người ta
đã quên không đào móng sâu hơn để khai quật cái xác này. Vị trí chôn thi thể của ông nằm ngay đối diện
nhà vệ sinh tầng trệt của ngôi nhà, đó cũng là nơi có lỗ thông gió thẳng lên tầng thượng, do đó hầu như
thời điểm ban đêm nào ông ấy cũng hiện về và bay lơ lửng trên lỗ thông gió này. Thậm chí ông ta có
nhìn vào phòng ngủ của tôi qua cửa sổ...

- Có hồn ma một người đàn bà, tên là Nguyễn Thị Thu Hương, người này sinh khoảng cuối thập niên 40
của thế kỷ trước, quê quán ở tỉnh Hòa Bình ngoài Bắc Bộ, gia đình thuộc diện di cư vào Nam gọi là
“người Bắc 1954.” Trong một tấn công bởi chiến tranh, người phụ nữ này vô tình lúc bỏ chạy giẫm phải
bom kích nổ tử vong tại chỗ, đó là năm 1972, và được chôn cất tại vị trí gần gầm cầu thang của ngôi nhà.

- Và cuối cùng là một bà cụ trạc gần 60 tuổi, điều lạ là bà ấy không muốn tiếp xúc với chúng tôi nhiều. Bà
cũng không khai tên, chỉ nói mình gọi là Bà Bảy. Bà chỉ nói mình từng là gia chủ cũ của ngôi nhà này
trước khi người gia chủ hiện tại dọn tới, và hình như nghề nghiệp mưu sinh của bà lúc sinh thời là thầy
xem bói.

Tất cả các trường hợp nêu trên cũng nhằm mục đích kiểm tra năng lực của chị Nga, sau đó, tôi thừa
nhận về khả năng của chị. Rất nhiều thông điệp và liên lạc được chị trung gian truyền đạt lại khá tỉ mỉ, và
chắc chắn chị không thể “bịa đặt” tất cả những thông tin đó mạch lạc và chớp nhoáng như vậy. Sau đó,
tôi nhớ ra lời nguyện cầu ở Đền Thánh hồi tháng trước và kể lại cho chị nghe, chị ngỏ ý cũng muốn đến
đó xem thế nào. Khi trở lại Đền Thánh Trần, chị và tôi đi dạo xung quanh và mang theo hương để thắp ở
các lư thờ trong đền, tôi hỏi chị có cảm nhận được gì không thì chị có vẻ lắc đầu, có vẻ như không có tín
hiệu gì, chúng tôi đành bước ra trước bức tượng Trần Hưng Đạo lớn để mặc niệm và cúi chào, sau đó
định quay người đi ra điểm gửi xe thì chợt chị Nga đứng phắt lại, chị vẫy tay tôi và nói:

- Ê, có, có ai đang nói với chị này...

Tôi thở phào. Vậy ra ở đây có thật. Một thực thể tâm linh đã cất tiếng với chúng tôi. Nhưng đó không
phải là Đức Thánh. Vị ấy nói rằng mình chỉ là một viên tướng sinh sau đẻ muộn so với thời Đức Thánh
Trần, sau khi mất thì được đức Trần thu nhận và thừa lệnh trấn giữ tại đền này. Thấy chị Nga cứ đăm
chiêu ra vẻ trầm tư, tôi hỏi chị thực thể ấy nói gì. Chị bảo rằng vị ấy đang nói là biết rằng chị là ai. Chị
cũng tò mò và hỏi xem liệu mình là ai, thực thể nói rằng đời trước chị từng là một người có phận sự và
phục vụ cho triều đại nhà Nguyễn. Chị quay lại và nói thêm với tôi:

- Ông ấy chế nhạo chị rằng, người của triều Nguyễn đến tìm triều Trần để làm gì? Không phải các người
nghĩ mình rất mạnh sao, đất cũ Đông Kinh của Trần triều các người còn nuốt hết, có gì không dám làm
mà tới đây cầu cạnh “ta.”

Tôi phì cười và nói với chị ấy:

- Vị thần tướng ấy không biết là triều Nguyễn đã không còn rồi à? Bây giờ đã là triều đại mới rồi, triều
đại dân chủ có tên là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Triều Nguyễn sớm đã cáo chung hơn tám
mươi năm rồi còn gì.

Chị ấy lại nói tiếp:

- Ông ấy bảo mình tới đây làm gì? Muốn xin xỏ gì? Hay là muốn phục hồi triều đại cũ? Nếu có thì bỏ ý
định ấy đi, triều đại nào là thời đại đó, hết thời rồi thì đừng mơ mộng nữa.

Tôi ngạc nhiên. Không phải vì thực thể này nói trúng phóc. Tôi đang thắc mắc là tại sao vị ấy có thể “hồ
đồ” như thế, trong khi bản thân nắm cương vị là người đại diện thay đức Thánh lắng nghe những lời cầu
nguyện của thập phương đến thắp hương khấn vái? Ý định của tôi đâu có liên quan gì đến triều Nguyễn?
Tôi có phải là người thời đó đâu? Tôi buộc miệng nói:

- Ngớ ngẩn thật, chưa chi ngài ấy đã “chụp mũ” mình rồi...

Chị Nga nắm tay tôi bóp lại ngụ ý bảo tôi ngưng, vì “ông ấy” đang lườm tôi kìa. Chị nói với tôi tiếp:

- Ông ấy hỏi hay là em tới đây để mượn binh? Nếu muốn mượn binh thì cũng được. Quanh khu vực này
chỉ có khoảng 1-2,000 âm binh mà thôi. Nhưng phải có hai điều kiện: một là trình bày lý do, nếu là vì
chuyện thiên kinh địa nghĩa thì ngài có thể đồng ý; hai là phải mời một người có mệnh tướng quân tới
đây thỉnh mời, ông nói “thằng nhãi thư sinh mặt trắng đó không có tư cách mời binh được đâu.”

Tôi có hơi buồn cười pha lẫn với bực bội, nhưng phải kiềm chế, tôi bình tĩnh hướng thẳng về bức tượng
vái ba lần, rồi ôn tồn nói:

- Dạ thưa tướng quân, tôi đến đây không phải là ôm mộng khôi phục nhà Nguyễn gì đó cả, cũng không
định chiêu binh mãi mã gì của ngài đâu. Thứ nhất tôi đến đây thắp hương khấn vái để tỏ lòng thành và
lưu luyến với một nơi tâm linh cổ kính. Tiếp theo là tôi muốn nhắc lại lời nguyện cầu cách đây một tháng
trước, tôi thành tâm khấn vái tại đây, không biết nó có thành tựu không?
Có lẽ “tướng quân” bị hố, nãy giờ vị ấy đoán trật lất cả, nên chị Nga quay sang nói với tôi:

- Ông ấy đang cười trừ và bảo “thằng thư sinh lắm mồm,” rồi dặn mình ở đây chờ, để ông đi vào lục soát
lại.

Tôi cũng chẳng biết “ngài” đi đâu, chị em chúng tôi bèn tìm một phiến ghế đá ngồi xuống đợi. Chị Nga
gục đầu xuống lấy tay xoa xoa ở ấn đường và hai huyệt thái dương, sau đó gương mặt chị bỗng bừng
sáng dậy và nói:

- Ông tướng trả lời rồi em ơi. Ông nói lời nguyện đó đã được đức Thánh chứng giám rồi. Em sẽ nhanh
chóng có cơ hội tìm ra mọi lời giải đáp thôi. Và ngài dặn chỉ trong vòng mười mươi ngày nữa em sẽ gặp
một số người từ ngoài Bắc vào, em nên ngỏ ý đi cùng họ, địa điểm nên đến là ở Nghệ An. Hãy chờ đợi,
ông ấy nói em là một người có ngộ tánh tốt, căn cơ hoàn toàn phù hợp, nếu đã phát lòng thành muốn
tìm về nguồn xưa cội cũ thì sẽ có thuận duyên đưa em đến thể nghiệm những sự như vậy. Em còn muốn
hỏi gì nữa không?

Tôi gật đầu và đứng lên chắp tay cúi xuống vái:

- Như vậy là đủ rồi. Không dám cầu gì hơn!

Xong xuôi, tôi bảo chị ra điểm gửi xe để đi về. Vừa lấy xe dắt ra hướng cổng, bỗng nhiên chị Nga quay
phắt lại chắp tay hướng về bức tượng và lâm râm nói thêm gì đó, bất chợt mặt chị tái ngắt rồi lủi thủi bỏ
đi ra ngoài. Tôi không hiểu gì cả, khởi động xe máy rồi chở chị ấy đi một quãng, tôi hỏi chị trong lúc đi
đường:

- Lúc nãy sao chị quay lại chắp tay trước tượng thế? Ngài ấy nói gì ư?

Chị Nga tỏ vẻ hơi xấu hổ và nói:

- Tại chị cũng có việc, chị chỉ xin ngài giúp đỡ chị một chút. Không ngờ vị tướng đó mắng chị là “Con nha
đầu kia, mi đến đây là cầu đạo hay để cầu tài!” Chị thẹn quá bỏ ra luôn không dám cầu xin nữa.

À, tôi hiểu ngay vấn đề. Thời điểm đó hoàn cảnh của chị Nga khá là khó khăn, lại bị mất việc làm, chật
vật lo lắng đủ mọi bề. Chị ấy thắc mắc rằng tại sao người khác cũng đến Đền Thánh cầu tài lộc có sao
đâu, vì sao lại chì chiết mình? Tôi an ủi với chị đôi lời, có thể chị đã có “tâm linh” khác phù hộ rồi, mất
việc này thì sẽ tìm được việc khác thôi, không cần phải cầu xin điều dĩ nhiên tương lai mình sẽ có. Chị ấy
gật gật miễn cưỡng cho qua. Không dè chỉ một tuần sau chị đã kiếm được việc làm mới rồi. Vậy thì lời tôi
khuyên kể như cũng không sai lắm.

Xin nói cho nhanh câu chuyện. Sau đó, quả nhiên có hai người quen, một người nữ quê ở Hà Tĩnh tên là
Dung, và một người nam quê ở Nghệ An tên là Hùng, hai người này tôi cũng có quen biết trên mạng xã
hội và thông qua Page. Nhân có việc ở Sài Gòn, họ vào gặp tôi và ngỏ lời muốn tôi đi một chuyến ra Bắc
Trung Bộ để “điền dã” phiêu lưu một chuyến. Vậy là duyên sự đã thành. Trước khi giã từ Sài Gòn, đêm
đó tôi có gặp lại chị Nga, giờ chị ấy đang làm nhân viên cho một công ty mới và đang rất bận rộn, đáng lẽ
ra phải đến 9 giờ 30 đêm mới nghỉ, song chị xin ra sớm để gặp tôi, trước khi chào từ biệt chị bỗng nhớ ra
một việc và dặn rằng:

- Chị quên mất! Hú hồn! Lúc trước đến Đền Trần, vị tướng đó có nhắn nhủ thêm với em là có đi về Nghệ
An thì tiện thể đến Tây Đô một chuyến, đến dâng hương cho miếu thờ vua nhà Lê. Tại ông nói rằng ông
vốn xưa là tướng nhà Lê hy sinh ngoài chiến trận, được đức Thánh Trần chiêu hồi làm thuộc hạ, bản thân
cũng là người nguyên quán ở đó, vì trọng nhiệm không rời khỏi đây được, muốn nhờ em nếu ra vùng đất
Tây Đô thì nhớ đến miếu vua Lê dâng hương, chỉ cần khấn tên Đền Trần ở xứ trong, tướng quân sẽ cảm
nhận được.

Tôi nghe xong thì ngờ ngợ một lát, Tây Đô là đâu? Nghĩ một hồi thì nhớ ra thành nhà Hồ, vậy có lẽ vị
tướng này muốn tôi đến Thanh Hóa rồi. Không sao cả! Tôi là người, vị ấy cũng từng là người, ai ai dù
sống hay đã khuất, nếu thực là người có tình có nghĩa, dẫu chết đi chỉ còn lại tinh thần và ký ức thì chẳng
một ai không nhung nhớ về quê cha đất tổ nơi mình đã từng sống với những hoài niệm của dĩ vãng xa
xưa. Tôi tin rằng khi đến đó dâng hương lên Thái miếu của các vua Lê và tưởng niệm đến vị tướng này,
ắt hẳn ông sẽ nhận được thông điệp. Là một linh thể thì ngài ấy không bị nhục thể làm trở ngại, hoàn
toàn có thể biết tôi đã đến Tây Đô thật hay chưa. Có gì lạ đâu?

Hãy lướt qua quá trình đi ra ngoài đó. Rốt cuộc, tôi đã mang hành lý đến địa điểm đầu tiên khi “thượng
Bắc,” đó là Bến Xe khách Hà Tĩnh ở số 15 đường Trần Phú. Từ đó, tôi cùng với hai người bạn đồng hành
bắt xe đến thị xã Hồng Lĩnh, nằm giáp với huyện Can Lộc. Thú vị là đêm đó, hai người bạn dắt tôi đến
một quán nước, Trà chanh F.A nằm ở số 09 Nguyễn Đổng Chi, cái tên thật chạm vào đáy lòng tôi khi đó
trong hoàn cảnh đúng là đang “F.A.” Hỏi hai anh chị về những người thầy tâm linh ở vùng đất này, họ kể
với tôi rằng trước đây một ông bác của họ có nhờ một ông thầy pháp, nghe nói đạo thuật rất giỏi, lại có
những biệt tài lạ. Xin lướt qua quá trình chúng tôi tìm hiểu như thế nào. Cuối cùng chúng tôi đã liên hệ
được với bác của anh Hùng và liên hệ với người thầy pháp kia, đó chính là “chú Cường” mà tôi đã nói.

Chú Cường hẹn chúng tôi tại một quán cà phê nằm trên đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, thị trấn Nghèn, huyện
Can Lộc. Đó là nơi đầu tiên mà tôi được gặp gỡ chú. Quá trình ở huyện Can Lộc và trải nghiệm với chú ở
đó cũng có những bí mật riêng không thuộc về series hôm nay tôi muốn kể, nên cũng xin lược bỏ. Sau
đó, bốn người chúng tôi bắt xe và lần này đến thành phố Vinh, Nghệ An. Suốt cả ngày hôm đó và một
ngày hôm sau, chúng tôi đã đi một vài điểm để tham quan và tôi đã ghi lại một số chi tiết đáng chú ý.
Nhìn ngắm tất cả, không sót cái nào, thậm chí chuyến xe chở chúng tôi băng qua một con đường mà bên
lề kia, dòng sông Lam cuồn cuộn chảy thật hùng vĩ. Chú Cường quay lại và nói với tôi một câu:

- Chú hay đi lại ở Hà Tĩnh, nhưng quê chú vốn ở Cao Sơn, Anh Sơn, Nghệ An đó. Dù đi đâu cũng phải
thừa nhận rằng, Nghệ An là một vùng đất đầy mê hoặc. Đời chú đã bôn ba đi bốc thuốc và hành đạo
khắp trong ngoài nước, nhưng mỗi năm chú luôn phải dành thời gian về thăm Nghệ An một lần.

Tôi mỉm cười không đáp lại. Đúng, Nghệ An đích xác là một vùng đất đầy mê hoặc. Nơi đây địa thế núi
sông trùng trùng đa sắc muôn dạng, phía tây thì có Anh Sơn và Kỳ Sơn là thế đất núi cao ôm lấy vùng
đồng bằng miền dưới, địa hình thấp xuống từ tây sang đông, các vùng Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành
thì bằng phẳng hơn. Đi lên vùng núi phía tây, núi rừng trùng điệp, linh khí tích tụ, quả có thể gọi xứ Nghệ
là chốn địa linh nhân kiệt chẳng sai. Đối với quan điểm của tôi, tại sao gọi là “địa linh nhân kiệt”? Thứ
nhất là nhìn vào địa lý, rõ ràng núi to, sông sâu, cây kỳ, đá lạ, cục diện phong thủy rất ư huyền diệu, khí
lưu u tịch. Nếu nhìn trên bản đồ Việt Nam là hình chữ S, nói theo ngôn ngữ của bác Lâm, nó tựa như
một con rồng thì Nghệ An chính là yết hầu của con rồng ấy. Chính yếu địa như vậy mới sản sinh phẩm
vật thì trù phú, con người thì kiệt hiệt, đời đời dễ sinh bậc anh hào cho nước nhà. Ngay như tôi vốn là
người quê ở Bình Định, chẳng liên quan gì đến xứ sở này, nhưng suốt mấy ngày qua quan sát thực sự
phải công nhận như thế. Và nói cho sâu xa hơn, tại sao “nhân kiệt” lại sản sinh nhiều ở đây? Trên
phương diện thuyết tái sinh, có người cho rằng chính vì những nơi “địa linh” thì có rất nhiều thực thể
tâm linh hoạt động ở đây, khi đến thời điểm thì họ chuyển thế thành người ngay tại khu vực này, do đó
mới “nhân kiệt.” OK! Dù giải thích theo thuyết nào cũng có sự hợp lý của nó… và cũng không ai có thể
phủ nhận lời tuyên bố chắc nịch của chú Cường được.

Và những ngày sắp tới đây, chúng tôi sẽ chứng kiến những điều “linh kiệt” và “quái dị” ở đây như thế
nào… hẹn quý vị và các bạn trong tập sau…

-----------------------------------------

P/s: Giờ thì các bạn đã thấm thía “ác mộng” cuối tháng Chạp năm Canh Tý mà ad dự đoán rồi đấy. Có
thể hậu quả của nó vẫn sẽ tiếp diễn trong suốt tháng Giêng này. Không sao, miễn mọi người tự giác và
đề phòng cao độ, thực hiện đúng và đủ các chỉ tiêu y tế là được. Thêm một cái Tết buồn, vì nhiều nơi sẽ
không bắn pháo hoa, không có du lịch, không có chơi xuân, không có tụ tập. Những lúc như vậy thì quý
vị mới thấy các Page như chúng tôi phát huy được hiệu quả của nó… Nhất là với các độc giả đang phải
chịu cách ly hoặc phải ở xa không về quê được vì dịch bệnh. Chúc mọi người đón xuân trên giường vui
vẻ!

Hình: sông Lam, Nghệ An

BÍ MẬT TỪ LÒNG ĐẤT (tập 3): BA VÙNG ĐẤT THIÊNG VÀ BÍ MẬT “CON ĐƯỜNG THÔNG ĐẾN ÂM PHỦ”

****************************

Miền Bắc Trung Bộ của Việt Nam, nhất là vùng Nghệ–Tĩnh, không những là yết hầu của nước ta, mà
đứng từ trên cao nhìn xuống và nhìn cho thật sâu xa, nó cũng chính là “cái họng” ranh giới giữa hai
luồng văn minh: Trung Hoa và Ấn-độ. Miền đất này tuy là “biên địa” so với đồng bằng Bắc Bộ, nhưng nó
chính là thành phần không thể tách rời khỏi miền Bắc, thậm chí ta có thể nói toàn bộ khu vực Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ chạy tới Hà Tĩnh chính là vùng lãnh thổ xa xưa mở cõi của người Việt cổ – tổ tiên người
Việt Nam hiện nay. Trước khi có chuyến Nghệ An với chú Cường như trước đã nói, tôi xin thuật lại câu
chuyện trước đó ở Hà Tĩnh mà đáng lý ban đầu tôi muốn giữ làm bí mật. Nhưng suy đi nghĩ lại, nó chính
là khởi đầu của chuỗi câu chuyện tôi muốn kể, do đó nếu thiếu nó thì độc giả sẽ không biết đầu đuôi câu
chuyện ra sao. Lúc đó, hỏi thăm về nhân thân của chú Cường, chú tiết lộ với tôi rằng chú vốn là người
Mường, quê ở Cao Sơn đất Nghệ. Khi mới nghe như vậy tôi ngạc nhiên hỏi chú:

- Chú là người dân tộc thiểu số mà có họ tên thật là “Kinh,” Kha Văn Cường. Cháu tưởng người miền núi
tên họ đều theo lối khác người Kinh chứ?

Chú bật cười và nói rằng:

- Nhập gia tùy tục, tên lúc nhỏ ở nhà muốn sao cũng được, nhưng đã ra ngoài đi học làm ăn thì tên tuổi
không nên quá dị hợm. Vả lại, người Mường với người Kinh cũng chỉ là một thôi. Chúng ta chỉ phân tách
ra hai dân tộc sau này, chứ ban đầu chúng ta là một mà.

Tôi gật đầu và thừa nhận điều chú nói, vì trước đó tôi cũng có biết kiến thức này rồi, nhưng ngạc nhiên
hơn là chú nói với tôi rằng:

- Mường và Kinh phân tộc chẳng qua là do hoàn cảnh. Tổ tiên chúng ta đều là người Lạc Việt, thờ Bà
Trời, từng là con dân thuở Hùng Vương. Người Kinh ở lại đồng bằng bị người phương Bắc đồng hóa lâu
ngày mới quên mất gốc cũ, chứ người Mường thì vẫn gìn giữ chưa phai đâu. Muốn đi tìm cội nguồn của
nước Việt thì phải định vị nó ở văn hóa của người Mường vậy đấy.
Tôi suy nghĩ một hồi và nói với chú:

- Văn hóa thời thượng cổ là nơi chứa đựng sinh lực của một dân tộc, buổi đầu bán khai các chủng họp
bầy với nhau tạo nên giống nòi chung, chắc chắn trong nếp sinh hoạt phải có trật tự xã hội, có nghi thức,
có hát lễ, có sử thi, có huyền thoại v.v… những thứ đó chính là cấu thành sơ khai của văn hóa. Nếu để ý
mới thấy, người Kinh không có sử thi, không có thần thoại sáng thế, không có hệ phả về các vị thần, các
huyền thoại truyền thuyết được lưu truyền đến nay chỉ là những câu chuyện rời rạc vô tổ chức vô hệ
thống.

Chú Cường khẳng định chắc nịch:

- Đó là bởi lẽ người Kinh ở dưới đồng bằng bị người Hán làm cho quên mất cội nguồn, cho nên mới
không biết gì về gốc tích đời xa xưa. Người Mường vì trú ẩn trên núi, không cam chịu bị đè nén dưới
chân người phương Bắc nên còn gìn giữ được một phần ký ức của cha ông, người Mường còn có sử thi
để truyền lại cho con cháu, tiêu biểu là bộ Đẻ Đất Đẻ Nước, người Mường nào cũng biết, trẻ con ai nấy
cũng thuộc làu. Pho sử thi ấy là kết tinh văn hóa của người Mường, cũng là nguồn mạch chứa đựng ký
ức chung của người Mường và người Kinh, vì chúng ta chung một nguồn gốc tổ tiên cả.

Nói xong chú lấy ra cho tôi xem một tập sách, chính là toàn văn bộ Đẻ Đất Đẻ Nước và kêu tôi đọc lên
cho mọi người cùng nghe. Tôi là một người miền xuôi nên thú thực không rành về cách đọc vần điệu của
sử thi như người miền núi được, giọng đọc có lúc bị trật khớp đi trật khớp lại, líu quíu lọng ngọng, chú
Cường phải đứng dậy không cần cầm cuốn sử thi lên vẫn có thể hát tiếp theo đoạn tôi vừa mới đọc, chú
múa những điệu khúc rất uyển chuyển lại pha thêm sự hào hùng, mô tả lại về đoạn Lang Cun Cần sai con
bọ hung đi xin lửa. Khi đó thần thái chú như một người khác, có khi nghiêm trang, có khi điệu đà, lúc thì
nóng nảy, lúc lại nhu mì, cử chỉ thái độ trăm phương biến hóa mỗi khi hóa thân thành bất cứ nhân vật
nào trong sử thi. Có đôi lúc chú rung lắc toàn thân và miệng ngước lên trời cất những tiếng “ơ hơ” rất cổ
quái ma mị, nó làm tôi liên tưởng đến các thầy đồng đang thực hiện nghi thức triệu hồi linh hồn nhập
thể vậy. Sau khi kết thúc buổi hát nói sử thi đầy hấp dẫn ấy với những tràng vỗ tay hoan hô, chú Cường
ngồi xuống và tiết lộ cho tôi biết rằng niềm đam mê sử thi đã cuộn chảy trong dòng máu của chú từ khi
còn trẻ. Chú bồi hồi tâm sự về quá khứ, chú là một cậu bé người Mường đam mê với việc học hành, từ
nhỏ đã được mẹ nắm tay đưa vào trường trong bản làng đi học đã là một cậu học sinh rất khá. Cho đến
cuối năm cấp hai, khi bà nội chú qua đời, bà nói rằng lúc bé đã từng vẽ lên người chú một hình xăm rất
kỳ quái. Đó là hình của hai đường xoắn một đen một đỏ, cuộn quanh một thứ quái dị có hình hai con
mắt hung dữ. Chính hình xăm quái đản đó đã là nỗi khổ của chú mỗi khi đến trường luôn bị bạn bè săm
soi, có người còn chế giễu nói chú là “mọi rợ” làm cho chú thuở ấy rất tức tối, có lúc không kìm được
còn quay ra đánh bạn. Nhưng rồi đến khi bà nội sắp qua đời, bà gọi chú đến gần và đưa tay áp vào hình
xăm trên người chú, bà niệm một câu chú bằng tiếng Mường cổ làm cho chú cảm thấy có một luồng
điện giật chạy khắp cơ thể, sau đó một cơn đau thấu trời quặn xé lấy ngực và lưng của chú. Trong cơn
đau đớn quằn quại, chú như nghe hai bên tai tiếng gầm rú vang vọng của một con thú dữ, nhưng nó
không giống với bất kỳ tiếng con mãnh thú nào trong rừng sâu tự nhiên, kể cả tiếng cọp hay tiếng beo.
Không phải. Chú nói rằng người nhà của chú rất khiếp vía khi thấy ngực và lưng chú ứa ra máu, chú ngã
quỵ xuống bất tỉnh bên cạnh di thể của bà nội cũng vừa trút hơi tàn.

Từ đó về sau, chú Cường như một người mất hồn, người ta nói rằng ban ngày chú vẫn tươi tỉnh hoạt
động như bao người bình thường, nhưng đêm tới người ta thấy chú đi lang thang một mình trên con
đường dốc núi, những lúc đó gương mặt chú như vô hồn và người ta nhìn thấy những những đốm sáng
trắng bay xung quanh chú. Hồi ức của chú nhớ lại rằng chú bị thôi thúc phải đi đến ngôi đền cổ nằm
trong rừng, chú đến đó vì những tiếng nói bắt chú phải làm vậy, chú đến trước cửa vào chính đền và quỳ
xuống ngoài sân, chú nghe những tiếng nói âm u từ bên trong ngôi đền cất ra, sau đó là những luồng
khói đen từ trong đó bốc ra bao quanh lấy thân xác của mình. Chú bắt đầu cảm thấy mất đi nhận thức,
đôi mắt đờ đẫn và ngủ thiếp luôn đến sáng. Cho đến năm 19 tuổi, chú bị một trận sốt nặng, suốt 40 ngày
mới khỏi, đến khi khỏi bệnh thì chú phát hiện ra mình có khả năng của một thầy đồng. Từ đó, chú
thường xuyên đến các nhà trong làng xã để chăm lo những phần về tâm linh trong đời sống của người
dân, và được những người thân thuộc tại quê nhà chú gọi “thằng Cả là đứa con của ma, ma bắt nó làm
thầy để giúp cho người, nó là người bắt nhịp cho người và các ma.” Như thế, chú trở thành một người
trung gian giữa nhân thế và cõi siêu hình, tuy nhiên, chú vẫn tiếp tục công việc đi học của mình cho đến
khi tốt nghiệp hệ Cao đẳng Văn hóa. Từ đó về sau, chú đi khắp nơi hành đạo và hóa thân thành một vị
thầy mo giỏi về phần cứu rỗi cho tâm linh của những người dân tộc thiểu số, dù cho đó là người Mường,
người Tày, người Thái, người H’Mông, người Sán Dìu hay người Hà Nhì, thậm chí là người Kinh, người
Lào. Chú đã đi vân du khắp nơi, đi đó đi đây, như gợn mây không ai trói buộc. Vì là một người có đào tạo
văn hóa, lúc nhỏ chú là một người rất đam mê với vốn tài sản văn hóa phong phú của dân tộc, chú luôn
cảm thấy rằng những người già cả, tổ tiên người Mường, và nhất là những linh hồn đã khuất, luôn chôn
giấu một thứ bí mật gì đó mà đã không truyền thừa lại cho thế hệ những người sau này. Mỗi lần hát nói
và đọc lại các văn thư, sử thi, văn hiến của cha ông mình, năng lực tâm linh của chú phát huy hơn hẳn
người thường đến mức người khác đọc vào chỉ xem chúng như những văn bản bình thường để trưng
bày trong các bảo tàng văn hóa dân tộc thiểu số, các học giả thì xem chúng như là tư liệu cần thiết để
nghiên cứu về văn hóa phong tục của người miền núi, còn riêng chú, chú cảm nhận được trường năng
lượng siêu thực tại mà những hàng chữ trong đó đang đánh thức nội tâm của mình. Trong lồng ngực của
chú luôn hằng thúc giục rằng: “Phải đi! Đến để mà thấy! Có một bí mật đang chờ mầy! Mầy ơi, mầy có
muốn biết phỏng?”

Niềm thôi thúc đó đã xúi chú cất bước lên đường để đi khắp nơi tìm kiếm. Rốt cuộc, bí mật đó là gì? Nó
nằm ở đâu? “Tôi phải đi đâu để tìm kiếm thứ bí mật mà lẽ ra tôi phải được biết.” Quả nhiên, từ một
nhân duyên đi giúp người ở Lào, chú đã có cơ hội quen biết với một số thành phần tâm linh ở đó, họ nói
chú rằng hãy trở về Việt Nam, địa điểm là tại huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, rồi chú sẽ tìm được manh
mối cho con đường khám phá bí mật của cuộc đời mình. Tiếng gọi “thiêng liêng” đã đưa chú đến một
địa điểm – dãy Nam Giới. Hãy chú ý đến tên gọi của dãy núi này? “Ranh giới phía Nam,” nó mang một
hàm ý rất cổ điển, đó là địa giới cuối cùng phân cách cộng đồng cư trú giữa người Việt cổ với người
Chăm, và cũng là một “ranh giới về văn hóa và tâm linh.” Vào một thời đại rất xưa về trước, nơi đây là
lằn ranh chỉ có núi non trùng trùng điệp điệp, sơn cầm lâm thú, rừng thiêng nước độc, không có bóng
người. Chú Cường nói rằng dãy Nam Giới từng có một cái tên chữ rất xinh đẹp mà người Kinh đã đặt cho
nó, núi Quỳnh Viên (瓊園山). Tên gọi này xuất hiện lần đầu tiên trong sách Lĩnh Nam Chích Quái của
Trần Thế Pháp đời nhà Trần, và tất nhiên danh xưng này phải tồn tại trước đó rất lâu. “Quỳnh Viên” tức
là Vườn Ngọc, vì trân cầm dị bảo ở quanh khu vực núi non này rất bao la phong phú, không thiếu gì
những thứ có giá trị nếu được đem ra khai thác và gia công tỉ mỉ. Ôi, quả thực, núi Quỳnh Viên này là
“địa đường” mà thần linh đã ban cho nước Việt! Chú reo lên. Từ núi Quỳnh Viên thông ra biển Thạch Hải
cũng không bao xa, nơi cửa biển được gọi là Cửa Sót. Do vị trí địa lý quá tuyệt đẹp nên hiện nay nó được
khai thác du lịch rất mạnh mẽ, bất kể là du lịch nghỉ mát hay là du lịch tâm linh. Song điều làm chú vừa
buồn cười vừa buồn bã là, hàng ngàn người đổ xô về đây, mang tiếng là “hâm mộ tâm linh,” nhưng
chẳng qua là đến đền Chiêu Trưng, đền Thánh Mẫu để cầu thần ban tài tiếp lộc. Tóm lại, chú bĩu môi và
chế giễu đám thập phương ấy là “lũ hám tiền cầu lợi,” ngoài ra chẳng biết tâm linh là “cái thứ chi đâu.”
Chú cũng chẳng quan tâm mấy đến việc đó, điều làm chú vui mừng là ông trời chẳng phụ lòng người,
cuối cùng chú đã bắt được “tín hiệu” ở nơi đây, những gì cần biết thì chú đã lần lần tìm ra manh mối...

Lần này khi gặp tôi là lúc chú sẽ trở lại núi Nam Giới lần thứ ba. Chú Cường đã đi quanh quanh khu vực
này khảo sát rất nhiều, chú còn xin tá túc lại ở các đền chùa quanh đó một thời gian và đi sâu vào những
khu rừng bạt ngàn, tiến vào trong hang động để mong bắt được “tín hiệu tâm linh.” Không hiểu sao
mình lại làm việc này! Chú thắc mắc lắm. Nhưng tiềm thức luôn thúc giục chú phải đến những nơi này.
Chuyến đi cùng chú đến Nam Giới lần này, chúng tôi đã chuẩn bị trước rồi, các dụng cụ cần thiết để đi
đường rừng cũng có đủ. Khi vào trong một động đá, chúng tôi bắt đầu chờ màn đêm buông xuống. Chất
một đống củi khô, chúng tôi nhóm lửa đốt ở bên ngoài cửa hang, chú Cường bắt đầu đi vào trong động
và chia cho chúng tôi những sợi dây đỏ và phân công nhiệm vụ. Chúng tôi từng người một cột những sợi
dây vào các phiến đá trong hang động, mỗi một mắt nối dây đều cắm ba cây nhang. Chú Cường lấy trong
túi áo ra một chiếc hộp, mở ra là một thứ màu đỏ choét. Tôi hỏi thứ đó là gì, chú bảo đó là một loại mực
đỏ pha với máu gà. Chú nhẹ nhàng cầm bút lông chấm lên mực và vẽ lên các mối nối những hình họa ký
tự rất lạ. Khoan đã! Tôi cảm thấy thật kỳ quặc. Tại sao lại đến đây? Rồi làm những việc này? Chú nói
rằng, hãy chờ đó đi, và đêm nay tôi sẽ hiểu.

Màn đêm buông xuống thật là khuya, ngoại trừ ánh lửa cháy bập bùng ngoài kia, trong hang hầu như tối
om như mực và gió rít từ ngoài thổi vào hang lạnh ngắt. Ôi! Tôi phải chờ đợi điều gì? Và đến bao giờ nó
mới xuất hiện? Đúng giữa đêm, bỗng nhiên nhiệt độ bắt đầu hạ xuống, lạnh buốt kinh khủng, tôi cảm
giác hơi lạnh không phải từ bên ngoài đi vào, mà giống như từ bên trong đi ra. Trước đó, chú Cường đã
châm một nén lửa ở bên ngoài và đem vào thắp lên tất cả những cây nhang ở các mối nối sợi chỉ đỏ
trong hang động. Dưới các mối nối đó đều buộc các chuông gió loại nhỏ, tới mười mấy cái chuông gió.
Những khoảnh khắc đầu chờ đợi chỉ nghe tiếng lanh canh nhẹ nhàng của những chiếc chuông vang hòa
theo cơn gió. Đến nửa đêm nay, nhiệt độ trong hang bắt đầu hạ thấp xuống, thấp xuống rõ rệt. Trời ơi,
chúng tôi đã mặc ba lớp áo khoác và trùm mền lên người, vẫn rét buốt, như muốn đóng băng lại. Vô lý
quá! Nhiệt độ ở đây dù lạnh như thế nào cũng thể lạnh rét đến mức như thế này. Gần như lúc tôi suýt
mất luôn nhận thức, chú Cường khẽ reo lên:

- Nó sắp tới rồi!

Gì thế? Một thứ ánh sáng. Ánh sáng màu đỏ. Phải, nhưng là một thứ màu đỏ rất đáng sợ! Nó không làm
cho mọi thứ ấm lên, mà ngược lại là càng lạnh đi. Tôi không tin nổi vào mắt mình. Chuyện này giống như
là thần thoại. Mọi người đều nhìn thấy trong ánh sáng màu đỏ sẫm ghê rợn đó, một thứ quái vật lù lù
bước ra. Chị Dung là phụ nữ nên quá yếu đuối, chị không chịu nổi và gục xuống bất tỉnh ngay lập tức. Nó
là một con quái vật dị dạng, thân hình như con nghê, nhưng cái đầu lại rất giống đầu của một đứa trẻ sơ
sinh, gồm có 3 chân: 2 chân trước và 1 chân sau. Nó không phải cụt 1 chân, mà chính xác phía sau chỉ có
1 chân ở giữa thôi. Rất nhiều mắt trên cơ thể nó. Những con mắt lồi sâu hoắm bên cạnh là những chiếc
lông tua tủa tỉa ra trông thật dễ sợ. Trên mặt nó là năm con mắt và một cái miệng phát ra những tiếng
khè khè. Lúc thứ quái dị đó xuất hiện, không khí xung quanh bốc lên một mùi rất hăng như lưu huỳnh,
thậm chí nồng hơn cả lưu huỳnh. Vừa lúc đó, chú Cường đứng phắt dậy và từ từ đi ra, đọc một tràng
những câu chú nghe không hiểu gì cả, chú rút trong áo ra một thanh gì đó rồi ném về phía con quái vật.
Tức thì những bó nhang kia phừng cháy lên thật to như ngọn đuốc, châm xuống những sợi chỉ. Nhưng
điều tôi cảm thấy rất phi lý là những sợi chỉ thay vì bị cháy đứt thì không... chúng phừng cháy lên và
quyện vào nhau thành chiếc vòng lửa. Sau đó con quái vật tiến về phía chiếc vòng lửa đó và... một tiếng
“bùng.” Thôi chết! Lưu huỳnh nổ ư? Tôi sợ tiếng nổ sẽ làm đá rơi xuống. Thật nguy hiểm, đá có thể đè
chết chúng tôi hoặc lấp cửa hang khiến chúng tôi chết ngạt mất. Tôi nằm sấp xuống trùm chiếc mền lại.
Tới đâu thì tới vậy. Mở mắt ra, chỉ thấy một màu tối om. Không có gì cả. Giống y như chưa hề có chuyện
gì xảy ra. Chẳng thấy lửa, cũng không có đá rơi, mọi thứ giống hệt như lúc ban đầu. Là ảo ảnh chăng?
Sao nó sống động thế?

Không. Chú Cường vẫn đứng đó, và bắt đầu run bần bật. Tôi chạy tới định đỡ lấy chú thì bất ngờ chú
túm cổ tôi lại quay sang với ánh mắt màu đỏ sáng bừng trong đêm. Một gương mặt với thần thái kinh dị,
chú quát lên một thứ tiếng mà tôi không hiểu:

- Da mà lau tay? Mày gáp bô khà đay! Ga...á...

Tiếng hét đó vang lên làm tôi hơi run rẩy. Bỗng chú nhắm mắt lại và quờ quạng như muốn kiềm lại thứ gì
đó. Chú vội vàng xông đến chiếc ba lô của mình định lấy một thứ gì đó ra. Chú nói với tôi:

- Nhanh, giúp một tay tí...

Tôi chạy đến mở chiếc hộp ra. Một lá bùa giấy đỏ. Tôi không suy nghĩ nhiều, lấy ra và ịn lên trán của chú.
Chú nói tôi mở cái bọc gói lại trong hộp ra. Đó là một miếng bùi nhùi nhìn như trầu têm. Chú bảo tôi nhai
vào mồm và sau đó nhổ lên mắt chú. Chú nhắm mắt lại. Chúng tôi gục trong đó và ngủ thiếp đi.

Đó quả là một đêm kỳ quái. Rốt cuộc mọi chuyện là gì? Tôi mở mắt dậy. Tất cả mọi người cũng từ từ tỉnh
dậy. Chú Cường mở mắt ra như không có chuyện gì cả. Tôi hỏi chú sự kiện nửa đêm vừa rồi là sao. Chú
nói rằng con quái vật đó thực ra chỉ là ảo ảnh, nhưng nó là thực thể có tồn tại. Tôi xin chú được giải thích
rõ hơn, và sau đó mới được biết rằng hình ảnh đêm qua chúng tôi nhìn thấy chỉ là sự khúc xạ phản chiếu
của một chiều không gian khác. Con quái vật kia thực ra không tồn tại trong hang động này, nó đang ở
trong một thế giới không thuộc về đây. Hang động này chỉ đóng vai trò như chiếc gương. Phải, không
gian trong hang này rất kỳ lạ. Chú quay sang nói với tôi rằng:

- Thứ quái vật đó, nó không thuộc về trần thế này. Nó đến từ NGỪM.

“Ngừm”? – Một khái niệm lạ lùng lần đầu tiên tôi mới được nghe. Đến bây giờ thì tôi đã biết, Ngừm là
một danh từ của người Việt cổ, nó có nghĩa tương tự như âm phủ, u minh giới, hay nôm na dễ hiểu hơn
là Địa ngục. Sau đó, những chuyện xảy ra còn thú vị hơn. Chúng tôi đã thắp một ngọn đèn dầu trong
hang, và chú Cường lấy ra một chiếc mai rùa. Chú nói đây là ma thuật của người cổ đại. Chú bắt đầu cầm
mai rùa và nhảy múa lắc lư như một thầy mo người dân tộc thứ thiệt, và lấy tro muối rải lên trên chiếc
mai rùa. Cầm chiếc mai lên và hơ trên lửa ngọn đèn dầu, trên đó bắt đầu xuất hiện những vết nứt.
Không. Không phải vết nứt. Đó là ký hiệu. Nó thoắt hiện rồi thoắt ẩn. Tôi hiểu rồi, chiếc mai rùa này chỉ
đóng vai trò giống như một bàn cầu cơ. Chú Cường muốn bắt liên lạc với “thế giới bên kia.” Chúng tôi đã
tiếp xúc với một thực thể có ý thức xuất hiện sau đó. Một linh hồn phải không? Cứ tạm gọi như thế. Nó
hỏi chúng tôi có thấy sợ về hình ảnh đã thấy đêm qua không. Linh hồn đó nói rằng ngay cả những hồn
ma khác cũng rất sợ con quái vật này, nó có thể ăn nuốt họ.

Linh hồn tiết lộ với chúng tôi rằng, không gian trong hang động này là chiếc gương phản chiếu lại các
chiều không gian không thuộc về thế giới vật lý. Con quái vật kia mặc dù chỉ là ảo ảnh, nhưng nó cũng
toát ra nguồn năng lượng tiêu cực của cõi âm dành cho những ai không thuộc về cõi chết mà lỡ nhìn
thấy hình dạng của nó. Không thể tin được. Linh hồn đó nói rằng, rất nhiều người ngày xưa từng đi vào
hang động này. Trong hang này chứa rất nhiều khí phốt-pho và các loại khí tự nhiên khác, khi tổng hợp
với nhau có thể phun ra các loại khói với những màu sắc kỳ lạ, và khi đó, chúng tụ lại với nhau thành một
màn ảnh lơ lửng trong không gian và bắt đầu phản chiếu những hình ảnh đến từ thế giới khác, đôi lúc nó
đã làm nhiều người thám hiểm khiếp sợ bỏ chạy khỏi hang động, thậm chí là gây thiệt mạng. Tại sao lại
có sự tồn tại của một không gian như thế này tại đây? Tôi đã đặt ra quá nhiều nghi vấn. Câu chuyện diễn
ra rất rườm rà, tôi chỉ có thể diễn dịch lại bằng đại ý những thông tin tôi đã thu thập được như sau:

Thuở xưa, người Việt cổ tin rằng có 3 vùng địa lý được xem là huyền bí, gắn liền với cái được gọi “thế
giới của người chết.” Một là vùng núi Tam Đảo, hai chính là núi Nam Giới này, và ba là một quần đảo gọi
là Đảo Ngọc nằm ngoài biển khơi. Người Việt cổ tin rằng Tam Đảo có một đỉnh núi thiêng, trên đó là con
đường đi xuống âm tào địa ngục, quan niệm này gần giống với thuyết Phong Đô Thái Sơn của người
Trung Hoa vậy. Trong quá khứ, tại vùng núi này có một ngôi cổ tự gọi là chùa Địa Ngục, nơi đây từng lưu
trữ các thư tịch của những nhà sư Phật giáo nói về những vị pháp sư thời cổ từng đến trấn phục ở vùng
đất này, và các vị đó đã nhìn thấy những hiện tượng của cõi âm xuất hiện tại vùng núi này. Các thư tịch
cổ này xuất hiện vào khoảng cuối đời nhà Hán, do các tăng sĩ Phật giáo ở tại Luy Lâu sưu tập, trong đó có
nói rằng vào thời xa xưa trên đỉnh núi của Tam Đảo có một tòa thành gọi là Nê-lê. Thành Nê-lê là cấm
địa mà con người không được đặt chân tới, và theo truyền thuyết, chỉ có một vị vua Hùng đã từng được
phép đi vào tòa thành này và trở ra an toàn. Linh hồn kể rằng, thành Nê-lê chính là cửa ngõ đi xuống Địa
ngục.

Còn núi Nam Giới được xem là hoang địa, thuở xưa bốn bề vắng vẻ, khiến con người lạc bước vào đây
cảm thấy kinh sợ, trong thần thoại của người Việt lẫn người Chăm thời thượng cổ, trên đỉnh núi Quỳnh
Viên (Nam Giới) có một thành phố được gọi là Chiềng Chạc. Chạc sau này được đọc là Chằn, là cách đọc
dân dã từ tiếng Phạn là Yaksa, tức là quỷ Dạ-xoa. Núi Quỳnh Viên là địa bàn của loài quỷ này, tuy nhiên,
phiên bản của quỷ Dạ-xoa của người Việt lại có phần rùng rợn hơn ở Ấn-độ. Dạ-xoa được mô tả là những
con quỷ có răng nanh, mắt đỏ, có sừng, cầm giáo, có cánh, thường bay liệng trên những ngọn núi cao để
bắt con người và động vật gần đó ăn thịt. Chính vì lý do này mà con người rất sợ và không dám đến gần
núi Quỳnh Viên, mãi cho đến thời hai vợ chồng Chử Đồng Tử và Tiên Dung chống gậy đến đó tu hành
mới dùng thần thông tiêu diệt con Vua Chạc (Dạ-xoa vương), thu phục đám Chạc con và lấy núi Quỳnh
Viên làm đạo tràng Phật giáo, từ đó người dân mới hết nạn tinh Chạc ăn thịt người. Ngoài ra, người Việt
cổ xưa tin rằng Chạc là những con quỷ binh ở dưới Địa ngục được vị chúa tể sai phái để hành hạ linh hồn
người chết phạm những tội ác về đạo đức lúc sinh thời, niềm tin này là rất bình thường so với các thần
thoại nhiều nơi trên thế giới.

Đảo Ngọc là một quần đảo ngoài biển khơi trong thần thoại, giống như người Hoa thuở xưa tin vào
truyền thuyết đảo Bồng Lai vậy. Tuy nhiên, Đảo Ngọc không được xem là tiên cảnh, mà người ta cho
rằng đó là điểm cuối cùng của trần gian, nếu ai cố gắng vượt qua Đảo Ngọc thì họ và chiếc thuyền của họ
sẽ bị rớt xuống Ngừm – tức u minh giới. Thực tế chính huyền thoại này được lan truyền rất rộng rãi
trong các cộng đồng người Việt cổ thời Hùng Vương, do đó, trái ngược với thành tựu đi biển và khám
phá đại dương của người Champa, người Việt cổ rất sợ biển và không dám đi thuyền quá xa. Đối với họ,
nơi an toàn nhất có thể đi ra ngoài biển là khu vực đảo Hải Nam (nay thuộc Trung Quốc), ngoài ra thì
không nên tiến ra hơn nữa. Người phương Bắc sau này tràn xuống phía nam và có nghe kể về huyền
thoại Đảo Ngọc, tuy nhiên họ bị nhầm lẫn đến nỗi cho rằng Đảo Ngọc là đảo Hải Nam nên có một thời kỳ
(hình như là thời Hán) họ lập một quận ở đảo Hải Nam gọi là quận Châu Nhai, tức là “chân trời bể ngọc.”
Kỳ thực không phải như vậy, Đảo Ngọc theo quan niệm của người Việt xưa còn xa hơn đảo Hải Nam và
nằm về phía dưới Hải Nam, nếu xét theo suy đoán địa lý thì tôi nghi ngờ rằng Đảo Ngọc trong truyền
thuyết có thể là ám chỉ cho một phần nào đó của quần đảo Hoàng Sa. Đây là một phát hiện rất thú vị
trong truyền thuyết của người Việt cổ. Sở dĩ gọi nó Đảo Ngọc không phải vì trên đảo có ngọc, mà châu
báu nằm ngay dưới lòng biển, tức là khi thuyền cập bến ở đảo thì phải sai thợ lặn sâu dưới đáy biển đảo
thì mới vớt được ngọc lên. Nhưng người Việt cổ cho rằng khả năng để vớt được ngọc lên là gần như
không thể, vì dưới đáy biển có rất nhiều những con quái vật Thuồng Luồng với hàm răng sắc nhọn sẽ xé
nát những kẻ nào dám lại gần những viên ngọc. Hơn nữa, dù vượt qua nanh vuốt của đám Thuồng
Luồng, thợ mò ngọc vẫn sẽ không sống sót được, vì vị trí của những viên ngọc kia cũng nằm ngay lằn
ranh giữa cõi sống và cõi chết, khi những người thợ chạm vào viên ngọc thì đồng nghĩa họ cũng sẽ bị lôi
xuống âm giới, thi thể của họ sẽ vỡ nát và họ sẽ trở thành linh hồn người chết. Nghĩa là vĩnh viễn không
thể mang ngọc trở về dương gian được nữa. Chỉ có duy nhất một người đã đi xuống đáy biển thành công
và thậm chí đã xông vào U minh giới (Ngừm) trở về mà không chết, đó chính là Gióng. Khoan! Tại sao lại
có Thánh Gióng ở đây? Câu chuyện của Gióng thì rất nổi tiếng, không người Việt Nam hiện đại nào
không biết là sau khi chiến thắng giặc Ân, Gióng đã lên Sóc Sơn lạy tạ quê hương và ngựa cùng người
bay lên trời. Nhưng tất cả chúng ta đều lầm. Câu chuyện về Gióng của người Việt cổ có nhiều điểm khác
hơn hẳn, thậm chí là có phần hậu truyện, vì họ xem Gióng là con người chứ không phải là thiên thần
thoắt ẩn thoắt hiện như cổ tích sau này thêu dệt.

Đối với người hiện đại chúng ta, huyền thoại về ba miền đất thiêng này quả là đáng buồn cười. Nó chẳng
khoa học một chút nào. Chẳng có nhà thám hiểm nào đến núi Nam Giới, Tam Đảo, hay vượt biển ra
Hoàng Sa mà trông thấy “âm phủ” bao giờ. Nhưng thưa quý vị và các bạn, đó là thế giới quan thần thoại
của tổ tiên chúng ta thời cổ đại. Chúng ta có thể không tin, nhưng phải tôn trọng thần thoại chứ, vì nó là
di sản văn hóa tinh thần. Tôi tin rằng những thông tin này sẽ rất bổ ích cho các nhà nghiên cứu về văn
hóa cổ đại, về nhân loại học và các khoa nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn khác. Điều tôi cảm thấy
rất thú vị, mặc dù người Trung Quốc hiện nay cố gắng vạch ra “đường chín đoạn lưỡi bò” và tuyên bố
Hoàng Sa – Trường Sa là hải đảo có giá trị lịch sử không thể chối cãi đối với họ, nhưng họ lại không trưng
ra được một bằng chứng nào thuyết phục, thậm chí họ ngụy biện trong rằng trong các pho sách thần
thoại cổ đại của họ có nhắc tới quần đảo này. Nhưng không. Hoàng Sa từ lâu đã đi vào thần thoại Việt
Nam, và mặc dù thời xa xưa người ta cho rằng đó là một địa điểm quái gở không nên đến gần, nhưng
một khi đã nhắc đến nó tức là cha ông ta đã biết đến sự tồn tại của nó. Một khi Hoàng Sa đã gắn bó với
văn hóa huyền thoại của người Việt cổ, và dĩ nhiên người anh hùng truyền thuyết Gióng đã đặt chân lên
quần đảo này, tức là Hoàng Sa thực sự được quan tâm trong văn hóa của những cư dân bình nguyên Bắc
Bộ.

Tuy nhiên, nghi vấn lớn nhất mà chúng ta cần đặt ra là? Tại sao các câu chuyện thần thoại như trên, nếu
chúng từng phổ biến trong cộng đồng người Việt cổ, vậy lý do gì đã khiến chúng thất truyền đến mức
ngày nay không còn một ai ở Việt Nam biết đến sự tồn tại của nó? Nói “không còn một ai” thì có vẻ hơi
nói quá, nhưng nó cho chúng ta thấy một báo động không thể cho qua lơ là: người Việt chúng ta hiện
nay đã làm gì, tại sao chúng ta không được biết gì về văn hóa tín ngưỡng và đời sống tinh thần của tổ
tiên chúng ta hàng ngàn năm trước?

Câu hỏi này chính là đề tài mà tôi muốn vén màn bí mật trong cuộc điều tra siêu nhiên này: Sự tiếp xúc
với các linh hồn của người Việt cổ. Và toàn bộ pho văn hiến đồ sộ của thời thượng cổ được hé mở,
những bí mật từ lòng đất đang trỗi dậy và kể lại cho người sống biết tất cả những câu chuyện chấn động
lòng người đã từng xảy ra cách đây hàng nghìn năm về trước. Lẽ dĩ nhiên, tất cả những bí mật đó đã bị
chôn vùi dưới lòng đất là do hàng loạt những biến cố lịch sử khiến cho thế hệ hậu duệ sống trên mảnh
đất này hoàn toàn quên lãng mất ký ức của tổ tiên họ.
Cuối cùng, đằng sau những huyền thoại đã kể trên thực sự có tồn tại một “quy luật siêu nhiên” có thực:
trên khắp lãnh thổ Việt Nam, thực sự có tồn tại những con đường chạy dọc từ Nam chí Bắc, chúng vừa là
“mạng mạch” bảo vệ cho sinh khí của mảnh đất này, vừa là những con đường thông lộ đưa con người
kết nối với thế giới siêu hình. Liệu tôi có suy đoán hơi quá không? Biết đâu, tại một nơi vắng vẻ trên dãy
núi Nam Giới, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh này, có một vị trí nào đó chính là “Âm Dương lộ” – cánh
cổng đi thông giữa thế giới vật lý và thế giới siêu hình. Nếu đúng là như vậy, thì giả thiết ở trên đỉnh núi
Tam Đảo và ở một hòn đảo nào đó tại Hoàng Sa cũng rất có khả năng.

Và những khoảng thời gian sau đây thôi, những thông điệp mà chúng tôi nghe được, tin chắc rằng sẽ
làm cho bất cứ ai nghe thấy đều há mồm trợn mắt... Xin mời quý vị bình tâm, chờ tiếp tập sau!

BÍ MẬT TỪ LÒNG ĐẤT (tập 4): ĐÊM KINH HOÀNG TRONG HANG ĐỘNG NÚI NAM GIỚI

****************************

Trong một hang động trên dãy núi Nam Giới, cuối cùng chúng tôi đã tiếp xúc với hai linh hồn, họ giao
tiếp với chúng tôi thông qua mai rùa là “vật dẫn” và thông qua chú Cường, là một thầy đồng đã có khả
năng thấu thị và thấu thính đối với tiếng nói của họ. Tuy nhiên, cuộc va chạm “interview” này không hề
suôn sẻ một mạch như quý vị tưởng, nó rất khó khăn. Phần lớn là ngay cả chú Cường cũng không hiểu
nhiều từ ngữ mà họ nói, gần 90% là không hiểu gì hết. Các linh hồn nói bằng một thứ ngôn ngữ cổ đại
mà không ai hiểu được. Các ký tự hiện lên mai rùa cũng vô ích, chúng tôi chẳng hiểu gì cả, nó nghuệch
ngoạc giống như những hình vẽ bông đùa của những đứa trẻ nghịch ngợm cầm cây gỗ khắc bậy bạ lên
nền đất vậy. Một lúc sau, chú Cường bỗng nói:

- Họ bảo chú, hình như bằng tiếng Mường cổ, họ nói chú có thể bắt nhịp giao tiếp với họ thông qua
“thần giao cách cảm,” một dạng cảm biến xuyên ngôn ngữ. Nhưng họ nói phải rửa tai và mắt bằng một
thứ nước trong hang động này.

Vừa nói xong, chúng tôi nhìn thấy một tia sáng chiếu vào một nơi đằng kia. Ô, có vẻ như là ban ngày,
ánh mặt trời xuyên lọt qua một cái lỗ bé tí trong hang. Ánh sáng như một đường chỉ thẳng vào một hốc
đá. Chú Cường từ từ đi tới, chỗ hốc đá liên tục rỉ ra một thứ nước trong vắt. Chú giơ tay hứng lấy, và nói
với tôi mau lấy cho chú một cái ống trúc. Chú lấy cái ống trúc hứng lấy nước, tay bịt một đầu, đưa nhẹ
vào tai và nhỏ dần dần mỗi bên, sau đó lấy hai tay hứng nước và rửa lên mắt. Tôi sốt ruột và hỏi:

- Có cảm thấy gì không?

Chú lắc đầu. Không nghe ngóng được gì cả. Sau đó bỗng nhiên chú cảm thấy đau buốt. Trời ơi! Cơn đau
xé quằn quại, hai tai chú nhức đến nỗi ù ù và ré lên những tiếng rè rè y như cái máy cát-sét bị mất sóng
vậy. Hai mắt chú đau đớn kinh khủng. Từ hai hốc mắt chảy ra một chất dịch màu vàng. Chú gục xuống,
và ngất lịm luôn. Anh Hùng sợ hãi, anh đứng dậy và nói:

- Phải đưa ngay anh đó vào trạm xá dưới núi thôi!

Tôi nắm tay anh ấy lại và ngăn:

- Đừng! Hãy tin họ đi. Chú Cường không sao đâu...

Ba người thức canh một người bất tỉnh, chúng tôi dùng bánh mì nướng là lương khô kèm với nước suối
cho đỡ đói. Ban ngày cũng dần dần qua đi, màn đêm lại sắp buông xuống. Chú Cường từ từ tỉnh dậy.
Mọi người thật mừng rỡ. Loạng choạng một hồi, chú quờ quạng trong không khí và la lên một cách rối
trí:

- Ô cứt mẹ rồi! Tôi không nhìn thấy gì hết. Tôi bị mù rồi.

Chúng tôi chạy đến đỡ anh lại. Chị Dung buồn bã nói:

- Phải làm sao bây giờ?

Không. Chú đang nghe. Chú nghe gì đó. Đôi tai chú vẩy vẩy nhè nhẹ. Đôi tai của chú này thật thú vị, nó
biết cử động nhẹ y như tai thỏ ấy. Chú Cường khẽ reo lên mừng rỡ:

- Hê, tôi đã cảm được rồi. Nó không giống tai nghe giọng nói. Nó giống như tín hiệu từ đâu đó truyền vô
não bộ của tôi. Nãy giờ tôi nhận được nhiều thông tin lắm. Thông tin liên tục. Trời ơi!...

Chú quay người lại và hét lên một tràng “Á” rồi lùi người lại suýt ngã xuống, chú hét lên:

- Chúng nó kìa! Ghê quá... ghê quá...

Chúng tôi lại gần đỡ chú và hỏi “Ghê thế nào?” Chú nói rằng phía trước chúng tôi là hình ảnh của hai linh
hồn. Họ không mặc gì trên người cả, toàn thân là màu đỏ, nhất là cái miệng há ra đỏ như chậu máu, hai
con ngươi vàng có tròng đỏ, tóc lõa xõa màu xanh than. Chú mô tả như vậy. Nhìn họ rất hung dữ. Nhưng
chú bỗng bình tĩnh lại, không sợ nữa, chú cất tiếng:

- Họ bảo tôi rằng họ không phải là người, họ là hai con tinh Chạc. Nhưng họ đã từng được con người thu
phục, từng phục vụ cho con người. Chủ nhân của họ là một vị thầy mo đã qua đời từ rất lâu... cách đây
hai nghìn ba trăm năm trước. Phải không ta?... Linh hồn của vị thầy mo đã yên nghỉ và không muốn tiếp
xúc với người trần thế nào nữa.

Sau đó chú im lặng một hồi. Tôi chờ giây lát rồi hỏi chú thế nào. Chú nói:

- Họ bảo chúng ta đến đây để làm gì? Chú đã giải thích nguyện vọng của chú và của Sang. Họ trả lời rằng
họ không hoan nghênh cho người trần thế biết. Họ muốn thử chúng ta...

Chú nói với tôi, tôi cần phải chứng minh cho họ biết. Tối nay, dị ảnh của con quái vật mình nghê đầu em
bé kia sẽ tái hiện. Tôi hãy ngồi yên trên con đường hang này và chờ đợi nó. Đây là thử thách để họ muốn
khảo xét ý đồ của chúng tôi. 12 giờ đêm, quả nhiên, ánh sáng màu đỏ chết chóc lại hắt lên vách tường
đá hang động. Thứ quái gở đó lại xuất hiện, cùng với tiếng kêu của nó truyền tới the thé, một thứ tiếng
kinh khủng mà tôi nghĩ sẽ không có bất kỳ người đang sống nào muốn nghe thấy. Nhưng thật khốn khổ,
bài kiểm tra của tôi là phải ngồi yên chịu đựng sự giày vò đó, và cảm giác cực kỳ nguy hiểm. Tiếng kêu
của con quái vật này y như sự hòa âm của tiếng con cọp (hay là con mèo nhỉ?) con mới đẻ vài ngày với
tiếng của một đứa bé sơ sinh vậy, nhưng ở cường độ âm thanh to hơn. Tôi không hiểu vì sao mình có
thể cương quyết như vậy, thú thực, khi hình ảnh kinh dị đó tiến lại tới gần tôi, thân hình nó to khủng
khiếp, cao như cái nóc nhà, và những con mắt đen không có con ngươi nhìn tôi chằm chằm, miệng thì há
ra đen như mực. Nhìn vô miệng nó, tôi cảm giác như mình nhìn thấy những hàng người lúc nhúc lẫy vẫy
trong đó. Thân thể những người này như bám chặt vào trong khoang miệng của nó. Tôi bắt đầu không
chỉ nghe tiếng kêu của nó mà còn nghe những tiếng la hét của người trong miệng nó vọng ra. Hình ảnh
con quái vật đã chạm tới gần tôi. Gương mặt kinh dị của nó ghé lại gần và ngửi ngửi, hai mắt không hề
chớp. Nó thét tiếng kêu lên gớm ghiếc đến điếc tai. Chết, tôi vãi đái ra hết cả quần. Thực sự với tần suất
âm thanh như vậy, bạn không thể kìm nén được bản thân đâu. Bạn sẽ đái ra quần thật. Tôi đành nhắm
mắt lại và cố gắng nghĩ đến ước nguyện của mình. Lúc đó thì con quái vật nhảy vồ vào chụp lấy tôi...

Tôi không biết mình đã bất tỉnh hay còn tỉnh táo. Chỉ cảm thấy mình rất vô thức. Có ai đó lay người tôi.
Tôi mở mắt dậy. Chú Cường và mọi người đang đến gần lay tôi. Tôi không hề ngã gục, tôi vẫn ngồi yên
trong tư thế như ban đầu. Thì ra, tất cả dị ảnh mà tôi đã chứng kiến vẫn là ảo. Con quái vật đó không hề
xuất hiện thật ở đây, chỉ là sự tái hiện hình ảnh của nó ở một nơi khác. Họ muốn tôi trải qua cuộc khảo
nghiệm bằng thử thách với ảo ảnh này. Nói thực, nó cực kỳ sống động và “phê đến rụng rời,” nó còn
đỉnh hơn cả trải nghiệm khám phá kinh dị trong nhà game 4D nữa. Khi vào cuộc chơi này, bạn sẽ trải qua
cảm giác kinh sợ y như thật. Và tôi nói thẳng, nó sợ hơn xem phim kinh dị nhiều, vì đây là trải nghiệm
“ảo như thật” mà tôi cam đoan rằng những ai yếu tinh thần và có tiền sử bệnh tim khẳng định họ sẽ đột
tử ngay tại chỗ. Trời ơi, tại sao lại thử thách nghị lực của tôi bằng bài kiểm tra quái đản này? Chú Cường
vỗ vai tôi và bảo:

- Họ đang vỗ tay khâm phục cháu đấy. Cháu rất cừ. Làm sao cháu có thể chịu đựng được hay vậy? Chú
và các anh chị đứng núp bên trong nhìn thấy còn rợn da gà, sợ thật chứ đếch đùa.

Hai linh hồn kia bắt đầu có niềm tin và bội phục chúng tôi. Họ bắt đầu kể cho chúng tôi nghe nhiều hơn.
Nhờ đó tôi mới biết được huyền thoại về ba địa danh “tử thần” của người Việt cổ đại: núi Nam Giới,
đỉnh Tam Đảo và Đảo Ngọc. Trong cuộc đối thoại với họ, chú Cường là người đứng ra làm vai trò trung
gian, vì chỉ có chú mới thông linh được với họ. Những gì cần hiển thị bằng ký tự, họ sẽ cho hiện lên mai
rùa. Vì mắt của chú đã được rửa, chú có thể nhìn và nhận được thông tin. Nói ra thật lạ, bạn có tin
không? Đó là sự giao thiệp không phải bằng ngôn ngữ, vượt lên khỏi lằn ranh của ngôn ngữ và chữ viết,
sự kết nối bằng sóng điện, giống như gửi máy fax vậy. Chỉ có điều thông tin bây giờ không phải truyền
lên cỗ máy, nó truyền trực tiếp vào não người.

Họ đã kể cho chúng tôi nhiều hơn. Nhưng họ cũng nói rằng, muốn biết nhiều hơn sự thật về bí mật của
người Việt cổ, hãy lên một vùng núi nằm ở Nghệ An. Huyệt mạch của cõi âm chạy dọc khắp đất nước
này, tuy Nam Giới sơn là một “điểm giao âm dương lộ” để kết thông với thế giới bên kia, nhưng muốn
gặp những linh hồn Việt cổ thì có một điểm tụ hội đặc biệt tại Nghệ An. Hãy đến đó, chúng tôi sẽ biết
nhiều hơn...

Và đương nhiên, tôi phải đi thay quần rồi. Không khí rất lạnh. Không thể mặc chiếc quần ướt sũng vì
nước tiểu này được, tôi sẽ bị cảm. Câu chuyện mà chúng tôi đã giao tiếp với hai linh hồn tinh Chạc trong
động này xin được phép không kể trong ngữ cảnh này, mà sẽ được ghép chung với câu chuyện khi chúng
tôi khám phá ở Nghệ An, để đảm bảo tính liền mạch. Nếu như kể ngang ở đây mà không có bối cảnh gốc
thì quý độc giả sẽ không hiểu chúng tôi đang kể cái gì. Tiếp theo, hãy để hoàn cảnh câu chuyện chạy
theo tiếp cuộc phiêu lưu của chúng tôi đến Nghệ An...

Kết thúc cuộc giao tiếp trên hang động ở núi Nam Giới, Hà Tĩnh, khi chúng tôi hỏi đến một câu hỏi bí mật
thuộc về điều cấm của hai linh hồn. Họ im lặng không trả lời. Sau đó có một tiếng hét vang dậy làm kinh
động tất cả. Ôi hỏng, hang động bị rớt đá xuống. Chúng tôi nhanh chóng thu dọn và tháo chạy ngay ra
cửa hang. Một số đồ đạc bị vứt lại luôn, thà giữ mạng chứ không giữ của. Ba người đàn ông chạy thoát
ra cửa hang an toàn, còn chị Dung thì bị thương, một phiến đá đè lên chân chị ấy và đập vào cột sống.
Không được rồi. Chú Cường lôi chị ra và lấy vải cầm máu cho chị. Anh Hùng phóng nhanh xuống dưới núi
để gọi cứu hộ. Chúng tôi chỉ dám khai với đội cứu hộ và cảnh sát là chúng tôi cắm trại ở đây sơ ý hang
động bị đổ đá. Chị Dung đành ở lại một trạm y tế ở Thạch Thất để băng bó và được chuyển lên thành
phố Hà Tĩnh để chăm sóc tĩnh dưỡng. Ba người đàn ông lại tiếp tục lên xe đi Nghệ An.

P/s: Tôi hy vọng sẽ có một fan nào đó vẽ giúp tôi hình con quái vật theo những gì đã mô tả. =))) Bên dưới
chỉ là hình minh họa...

BÍ MẬT TỪ LÒNG ĐẤT (tập 5): BUỔI TRỪ TÀ KINH DỊ CHO MỘT KẺ CUỒNG TÍN

****************************

Đến Nghệ An, địa điểm đầu tiên mà chúng tôi dừng lại là một quán cafe tại thành phố Vinh. Tốt rồi, tối
nay chúng tôi phải nghỉ chân tại đâu đây? Quanh đi quẩn lại, nếu chạy về quê của chú Cường thì không
phải nằm ở thành phố này, không tiện lắm. Anh Hùng nói rằng có thể dẫn chúng tôi đến Nhà thờ Cầu
Rầm xin nghỉ qua đêm thử xem. Nói về thân thế anh Hùng cũng là một chuyện hy hữu. Anh sinh ra trong
một gia đình Công giáo “đạo dòng,” nhiều đời là tín đồ trung kiên của đạo. Nhưng, anh ta là một tín đồ
“lạc giáo.” Anh không tin vào giáo lý của Thánh Kinh, nghi ngờ sự tính hiện thực của Thiên Chúa. Có thể
nói từ lâu, trong lòng anh đã bỏ đạo lâu rồi, “con chiên” chỉ là lớp áo che phủ bề ngoài. Thế nhưng gia
đình anh có quan hệ rất tốt với giáo xứ ở Nhà thờ Cầu Rầm, thế nên anh tin có thể giúp chúng tôi xin
được nghỉ qua đêm tại Nhà thờ. Chú Cường rất vui vẻ đồng ý và nói:

- Năng lượng tâm linh trong Nhà thờ phát ra rất sạch. Anh đến các nhà thờ cảm nhận, trường năng
lượng tỏa ra từ công năng của các tín đồ Công giáo có màu trắng trong, rất tinh khiết. Có thể xin nhờ
trường năng lượng này để gột sạch âm khí vừa qua bọn mình ở Hà Tĩnh.

Tất nhiên là chúng tôi đồng tình đi đến đó. Nhà thờ này rất đẹp, có lịch sử đã hơn 100 năm rồi. Bỏ qua
những chi tiết rườm rà và buồn cười khi chúng tôi mới đến đây. Kết quả, chúng tôi cũng được phép trú
chân tại đây bởi vị linh mục chánh xứ tốt bụng. Đêm đó, trú lại trong căn phòng khách, có hai giáo sinh
đến ghi nhận danh sách chúng tôi đến đây lưu trú, và họ yêu cầu chúng tôi xuất trình chứng minh nhân
dân để tiện cần báo cáo cho cơ quan chức năng địa phương. Lược qua hết những chi tiết này đi. Đêm
đó, chúng tôi ra ngoài để đi ăn và trở về Nhà thờ. Anh Hùng không đi chung, chỉ có tôi và chú Cường ra
ngoài thôi. Khi trở về, chúng tôi thấy anh đang nói chuyện với một người thanh niên. Qua giới thiệu thì
tôi được biết cậu thanh niên ấy tên là Nghĩa, là một hướng đạo sinh phục vụ các công tác trong nhà thờ.
Cậu quen biết với anh Hùng từ nhỏ, nhưng trái với anh Hùng, cậu là một con chiên ngoan đạo. Thì ra do
là chỗ quen thân, anh Hùng có buộc miệng kể những điều chúng tôi vừa trải qua ở Hà Tĩnh. Cậu ta không
nói không rằng gì cả, bình tĩnh ngồi nghe những câu chuyện mà anh Hùng kể lại. Sau khi thấy tôi và chú
Cường bước vào, anh Hùng đứng lên giới thiệu và có ý muốn nói chúng tôi đã cùng nhau chứng kiến và
có thể kể thêm nếu anh thích. Nhưng không. Anh Nghĩa nghiêm sắc mặt lại và buông những lời “giáo
huấn” ngược lại anh Hùng. Tất nhiên khá nặng lời, và đại ý anh ta phê phán Hùng là một kẻ “không
ngoan đạo,” không vâng phục luật lệ của Chúa, dám tự tác đi cùng với những người ngoại giáo để kết nối
với những thứ hắc ám không nên đến gần. Anh ta còn mỉa mai rằng:

- Tìm kiếm những tri thức nằm ngoài sự phụng vụ đức Chúa Trời là đi vào con đường của ma quỷ. Các
người càng tò mò thì chỉ tổ trúng kế của Satan và bè lũ của nó thôi. Hãy sớm mà ăn năn trước Thiên
Chúa, tôi nghĩ các người cần tha thiết sám hối tội lỗi vượt phép của mình đi. Chẳng lẽ các người không
biết như vậy là phạm vào sự ngu ngốc rất lớn hay sao?

Hùng im lặng. Có vẻ anh ấy muốn cãi lại, nhưng vì có chúng tôi nên anh không muốn đôi co. Anh Nghĩa
không dừng lại đó mà ghé lại gần anh Hùng nói:
- Hãy dừng lại những việc dư thừa dốt nát này đi. Nếu không các anh sẽ bán linh hồn của mình cho quỷ
dữ mất thôi. Các anh tưởng chúng nó là bạn để chia sẻ cho các anh những gì các anh muốn biết à?

Vâng. Lần này chúng tôi đã chạm đến một thử thách khác, nó đến từ quan điểm của Thiên Chúa giáo.
Anh Nghĩa im lặng nhìn chúng tôi một hồi nữa với ánh mắt dò xét, song thái độ có vẻ không được tôn
trọng cho lắm, rồi quay người bỏ đi. Kệ thôi. Chúng tôi không quan tâm đến cách ứng xử của Ki-tô hữu
đâu. Họ ngoan ngoãn và tôn sùng trong nền đạo lý của họ. Tôi là một nhà Quỷ học tự phong, nhưng trên
hết tôi không phải là một tín đồ Ki-tô. Quan điểm về Quỷ học của tôi tách biệt ra hẳn phạm vi của Thần
học, tôi đứng trên quan điểm của một người tâm linh phi tôn giáo (non-religions spiritualist), do đó Quỷ
học của tôi là Quỷ học Phi-tôn-giáo, không phải là Quỷ học Ki-tô giáo. Vì không đặt tín lý trên Thần học
nên tôi không giới hạn mình ở những khuôn phép và cấm kỵ của họ.

Đêm đó, chúng tôi nghỉ lại ở phòng khách trong khuôn viên Nhà thờ. Chú Cường đang xếp bằng để hấp
thụ năng lượng trong Nhà thờ. Chú nói nó thật tuyệt vời, vì chú cảm thấy rất sảng khoái. Vâng, bất cứ
một nền tâm linh nào cũng có giá trị của riêng nó, và đối với nền tâm linh Thiên Chúa giáo nó rất hay ở
chỗ sản xuất những nguồn năng lượng cực kỳ thanh khiết. Tôi hỏi chú có cảm nhận được linh hồn trong
Nhà thờ này không. Chú nói rằng có, nhiều chứ không ít đâu. Nhưng có vẻ những linh hồn này cũng là tín
đồ Ki-tô, họ rất nghiêm trang và xếp với nhau thành những vòng tròn đi lượn trên không trung của Nhà
thờ này, họ liên tục nhận nguồn năng lượng của những tín đồ trần thế và tái tạo lại chúng để phân phát
trở lại môi trường. Nhờ đó mà Nhà thờ này có một trường năng lượng tâm linh khá mạnh bảo vệ cho
môi trường ở đây rất bình an, những ai đến đây dù với mục đích gì cũng sẽ cảm thấy khá thanh thản.
Chúng có tác dụng như một loại thuốc giảm đau có thể chữa trị những tổn thương về tâm hồn, và tôi nói
thật, nếu những nguồn năng lượng này được nhân rộng hơn và phát tán ra môi trường dân cư xã hội
ngoài kia thì nó có thể có một số lợi ích không ngờ một cách vô hình trung, chẳng hạn làm giảm thiểu tỷ
lệ tội phạm, giúp trẻ em ngoan hơn, ổn định nhịp tim của những người có tiền sử bệnh tật v.v… Đây
chính là một số lợi ích của trường năng lượng tâm linh Ki-tô giáo mà tôi thấy các cơ sở tôn giáo khác
chưa chắc đã bằng. Tôi là người ngoài, đứng khách quan, bao nhiêu năm đi điều tra và chiêm nghiệm
tâm linh, đối với các tôn giáo, điều gì hay ở họ thì phải khen công khai, điều gì chưa hay thì nhẹ nhàng
ghi nhận nhưng không đả kích. Công việc của một nhà Quỷ học cũng phải công tâm như một nhà khoa
học vậy, chỉ suy xét và nghiên cứu dựa trên lý trí và trực giác với niềm tin vào lẽ phải, không bao giờ có
chuyện bất đồng quan điểm thì mạt sát bôi nhọ phe khác. Đó không phải là tư cách chân chính của một
nhà nghiên cứu khoa học, dù đó là khoa học tâm linh.

Đương nhiên, những linh hồn vần lượn trên không trung Nhà thờ ấy rất thanh sạch, chú Cường nói rằng
trông họ dịu dàng như những thiên sứ vậy, không hề gây ra một tiếng động nào hết. Nên nhớ rằng, với
những thầy pháp đã khai thính đối với âm giới, họ có thể nghe được những tiếng động của các hồn ma –
là những tần số tiếng động mà tai người thường không bao giờ nghe được. Nhưng ngay cả chú Cường cố
hết sức cũng không thể nghe được tiếng động của họ. Các linh hồn này yên ắng và thanh tịnh đến đáng
khâm phục, họ yên tịnh tuyệt đối và chỉ đi nhẹ nhàng với nhau thành những vòng tròn và tạo ra kết giới
tâm linh cho khu vực Nhà thờ. Tuy nhiên, cuối cùng chú cũng nghe thấy được tiếng động khe khẽ từ họ.
Thì ra, có một thực thể siêu nhiên lạ đã xâm nhập đến đây. Đó là vị tinh Chạc mà chúng tôi đã gặp gỡ
trong hang động ở núi Nam Giới. Vị ấy vẫn đi theo chúng tôi và có vẻ muốn chỉ đường. Các linh hồn sùng
đạo kia có vẻ hơi ngạc nhiên vì một thực thể lạ dám ngang nhiên đi lại vào “thánh địa” mà không hề hấn
với kết giới do họ tạo ra. Nhưng họ không làm ầm ĩ, họ tiếp tục im lặng rồi “nắm tay nhau” thành vòng
tròn và phát kết giới mạnh hơn, đồng thời gửi thông điệp đến vị tinh Chạc kia với nội dung là “Hãy đi đi,
ra khỏi đây.” Chú Cường kết nối với vị tinh Chạc và truyền ý: “Không sao chứ?”
Vị tinh Chạc kia truyền tin rằng: Không hề gì! Năng lượng của đám linh hồn đó không là gì so với ta.
Chúng chưa đủ tuổi để đuổi ta đi đâu. Nhưng ta đến đây không phải để đắc tội với họ, ta chỉ muốn báo
tin cho mấy người thôi. (Lưu ý: tôi không dùng là “nói” mà dùng là “truyền tin,” vì đây là giao tiếp bằng ý,
truyền đạt bằng sóng trường, không phải nói năng bằng âm thanh, và cũng chỉ có chú Cường tiếp nhận
được thôi.)

Tôi và anh Hùng ngồi trên giường tiếp tục nghe chú Cường nhận thông tin và nói lại, vị tinh Chạc nói rằng
ra vùng ngoại ô cách thành phố Vinh khoảng 3800 sải chân hướng tây bắc tính từ bảng địa giới thành
phố, chúng tôi sẽ đến địa điểm có một linh hồn dẫn đường khác. “Sải chân”? Tôi chẳng hiểu đơn vị đó có
thể quy đổi bằng bao nhiêu mét nữa. Tôi tặc lưỡi và tiếc nuối, giá như vị tinh Chạc kia có thể học kiến
thức hiện đại và quy đổi giúp thì hay biết mấy. Một sải chân thì chắc chắn không thể bằng một mét
được, nó cùng lắm là dao động trung bình khoảng 0,35m thôi, nếu vậy thì tầm hơn 1,3km. Ồ, không xa
lắm. Kể cho quý độc giả thì nhanh đấy, nhưng để ước lượng chúng tôi đã phải mò mẫm tính cả đêm,
thậm chí anh Hùng phải làm mẫu xoạc chân mấy lần suýt sái xương giò luôn.

Sáng hôm sau, chúng tôi vào chào cảm tạ và từ biệt đức cha chánh xứ để lên đường. Để thử sức trai
cường tráng và vận động trong thời tiết lạnh lẽo, chúng tôi quyết định cuốc bộ đến địa điểm gần tới. Lúc
đó chỉ mới 6:30 sáng thôi, nhưng người nào người nấy cũng tràn trề sức sống. Thời tiết ở Vinh vào mùa
đông này rét lắm, những cơn gió lạnh cứ tát vô mặt, làm sao mà buồn ngủ nổi. Cuốc bộ đến gần trưa,
chúng tôi đã đến địa điểm đã hướng dẫn. Trên đường đi, chú Cường vẫn nhận được thông điệp từ tinh
Chạc. Thì ra là một ngôi miếu hoang trên đồi nhỏ. Tại đây, chúng tôi rút ra bảy cái nến để thắp lửa lên.
Gió cứ rít qua khe lỗ nên chúng tôi phải xê dịch đồ vật lấp vào để chắn gió. Chú Cường lấy trong hộp thứ
mực đỏ nhớt pha máu kia, và vẽ lên xung quanh vị trí những chiếc nến thành một hình tròn, bên trong là
họa tiết khá kỳ lạ. Một vòng tròn ma thuật. Chú nghe theo truyền tin từ bên kia, bắt đầu đọc theo,
những câu chú bằng ngôn ngữ rất lạ mà tôi không thể hiểu được. Điều đáng tiếc là lúc đó tôi không kịp
dùng điện thoại ghi âm lại được nên bây giờ không thể nhớ mà viết ra lời khấn đọc của chú được.

Đó là một nghi thức triệu hồi ngắn gọn. Lời chú mà tinh Chạc truyền đến cho chú như một sự giới thiệu
đối với linh hồn hiện diện tại đây. Chú Cường mô tả rằng linh hồn đó giống như một bà già, hai con mắt
rất to như cú vọ, tóc bạc, có răng nanh và bà ta xưng rằng mình đã tồn tại suốt hàng nghìn năm rồi. Ngôi
miếu hoang này ngày xưa được dựng lên để thờ bà ta. Nhưng qua thời gian nó đã hoang phế như thế
này. Chẳng sao cả, vì bà ấy cũng không có nhu cầu cho con người thờ cúng mình. Cuộc giao tiếp với linh
hồn cụ bà này đang tiến triển, bà ấy vừa gật đầu đồng ý thì có một chuyện không ngờ xảy ra… Tiếng đạp
từ bên ngoài vào. Chúng tôi giật nảy mình quay lại. Có người tiến vào bên trong. Đó là Nghĩa. Tại sao cậu
ta lại ở đây?

Thì ra, đêm qua khi anh Hùng lỡ miệng vì sung sướng kể cho cậu ta. Cậu ta đã ghim chuyện này và cho
rằng hành động của chúng tôi là sai trái, do đó cậu đã báo cáo chuyện này cho một linh mục vừa mới du
học về ở bên Vatican biết. Cậu ta có dụng ý muốn theo dõi chúng tôi để biết chúng tôi định làm “chuyện
ngu xuẩn” gì nữa, theo cách cậu ta nghĩ. Cậu Nghĩa muốn ngăn cản chúng tôi lại. Cậu ta lần theo chúng
tôi từ sáng đến giờ, hóa ra chúng tôi đã đi cuốc bộ say sưa với câu chuyện của mình mà không biết có kẻ
bám đuôi theo sau. Anh ta nhảy bổ vào và nói với chúng tôi, cũng vẫn bằng thái độ và ngôn luận như
đêm qua. Anh Nghĩa kết tội chúng tôi, ngón tay chỉ về phía anh Hùng, với vẻ khinh miệt và xỉa xói, cho
rằng anh Hùng đã hùa theo chúng tôi làm việc xằng bậy và báng bổ đức tin (đương nhiên Nghĩa không
nhìn thấy linh hồn đang có mặt ở đó). Anh lập tức nhảy bổ vào đạp đổ hết nến và lấy gót giày giẫm lên
những hình vẽ bằng mực đỏ. Tất nhiên tôi không phải đang kể tiểu thuyết nên sẽ không gạch đầu dòng
viết những lời nói của anh ta cho nặng phần kịch tính đâu, vì đó chỉ là những lời mạt sát đầy nhảm nhí.
Đúng là một con chiên khờ khạo và dại dột nhưng làm ra vẻ ta đây cao đạo. Anh ta liên tục bắt dấu
thánh và cất tiếng cầu:

- Chúa ơi, xin Ngài tha thứ cho vì họ không biết những việc họ đang làm. Amen! Các người điên rồ lắm,
làm chuyện mê tín cầu quỷ để làm gì? Các người tôn thờ quỷ quái hả. Nhân danh Thiên Chúa, không làm
gì có quỷ ma nào ở đây cho các người cầu khấn đâu.

Chú Cường nhìn anh Nghĩa với vẻ lạnh lùng, chú lại gần và nói với cậu ta:

- Cậu muốn tận mắt nhìn thấy mới tin à! Tôi cho cậu toại nguyện…

Chú lấy hai ngón tay đã trét mực quét lên mắt anh Nghĩa rất nhanh khiến cậu ta không kịp trở tay, rồi
chú giật vai cậu ta quay lại. Cậu Nghĩa hoảng hồn hét lên:

- Trời ơi, quỷ… quỷ…

Tôi biết cậu ta đã nhìn thấy người đàn bà đó. Nghĩa lập tức rút trong túi áo tượng Chúa thánh giá và lấy
một lọ nước thánh ra, vội vàng rắc vào dị ảnh đó một cách vồ vập và liên tục hét lên run rẩy:

- Nhân danh Chúa Jesus Ki-tô, tao ra lệnh cho con quỷ cái này cút về địa ngục đi… Cút đi… đi…

Bà ta vẫn đứng trơ trơ đó. Chú Cường kể là sau đó bà ta mở trừng hai mắt lên, nó hung dữ y như mắt cá
sấu vồ mồi vậy, cái miệng nhe răng nanh của bà ta há ra to và gào thét lên một tràng xé gió. Tất nhiên tôi
không nghe được, nhưng chú Cường và Nghĩa đều nghe thấy. Nghĩa hoảng hồn quỵ xuống đất làm rơi vỡ
luôn lọ nước thánh, tượng Chúa thánh giá cũng buông khỏi tay đứt làm đôi nửa. Một vết cào xé rách
lồng ngực phía trước của cậu ta, Nghĩa rú lên đau đớn. Cậu ta bị ám rồi, vì đã dám chọc giận linh hồn. Bà
ta liên tục giáng những cơn hành hạ như điên làm cho Nghĩa không ngừng rên la cầu cứu:

- Chúa ơi, cứu con… Chúa ơi, cứu con… Chết tôi rồi đau quá…

Chẳng biết đây là bi kịch hay hài kịch nữa. Chú Cường liền bắt ấn thi pháp và truyền thông điệp xin linh
hồn mụ bà tha cho cậu Nghĩa. Nhưng không. Bà ta điên cuồng giáng sự trừng phạt xuống và không có ý
buông tha cho Nghĩa. Máu trên cơ thể cậu ta bắt đầu tuôn ra, thật kinh dị. Chú Cường hét lên bảo anh
Hùng chạy tới cõng cậu này, chúng tôi lập tức chạy xuống đồi và nhanh chóng vẫy tay quá giang một
chiếc xe chở hàng. Địa điểm cần tới là giáo xứ Nhà thờ Cầu Rầm. Trên đường đi, chú Cường hỏi anh
Nghĩa có thể liên lạc với ai tại nhà thờ để xin giúp đỡ hay không. Anh Nghĩa cho chúng tôi số điện thoại
của vị linh mục mà anh ta mách lẻo đêm qua. Chúng tôi xin phép giấu tên vị linh mục ấy, chỉ xin được gọi
bằng một cái tên giả là Cha Minh. Cha Minh lập tức lái xe ô-tô ra bên ngoài nhà thờ và đón ngay chúng
tôi vào bên trong. Sau khi nghe sơ qua câu chuyện, Cha Minh kêu đưa Nghĩa đến Nhà Nguyện. Ở đó, Cha
bắt đầu làm phép bí tích và đọc kinh làm “lễ trừ tà” cho Nghĩa. Nhưng dường như vô dụng, Nghĩa vẫn
không ngừng hét lên đau đớn, đến tôi nghe cũng thấy thốn tim, cậu ta đang chảy máu ra kìa. Chú Cường
bình tĩnh nói với vị linh mục:

- Thưa Cha, nếu có thể, xin cho con được giúp cho cậu Nghĩa này.

Cha Minh nghe xong đành gật đầu và nói:

- Cực chẳng đã, tôi nghĩ mình không giải quyết được. Nó quá sức tôi thật…
Chú Cường bèn lấy trong ba-lô ra cái hộp đựng một loại mỡ và chạy tới nắm lấy Nghĩa, chú thoa mỡ lên
vết thương đầu tiên trên ngực cậu, miệng không ngừng đọc những câu chú lạ và dùng tay thọc vào trong
vết thương. Chú từ từ móc ra một thứ dị vật. Trông nó giống như móng vuốt của một loài dã thú nào đó.
Chú quỳ xuống và tiếp tục phát những tiếng lạ, mấy lần quỳ sụp xuống có vẻ như đang van xin ai đó.
Cuối cùng Nghĩa nằm vật ra và ói ra mật xanh. Có vẻ nguy hiểm đã qua. Mụ bà ấy đã trừng phạt “tên tiểu
tử” ấy đủ rồi và chịu tha cho.

Nguyên buổi chiều hôm đó, chúng tôi ngồi lại để trò chuyện một chút với vị linh mục. Là một người từng
sang Vatican nghiên cứu Thần học và có biết qua thuật trừ tà, Cha Minh là một người điềm đạm, có
chiều sâu, hiểu biết rộng chứ không ngông cuồng cực đoan như cậu Nghĩa. Cha thừa nhận rằng, cả vùng
địa lý từ phương Đông lẫn phương Tây luôn tồn tại những lực lượng tâm linh bí ẩn và đa dạng, rất nhiều
điều không nằm trong ghi chép của Thánh Kinh, và luôn thách thức quyền uy cùng sự nhẫn nại của Giáo
hội Roma. Trong lịch sử truyền giáo, Giáo hội đã đụng chạm với rất nhiều các vụ án siêu nhiên vĩnh viễn
không có lời giải đáp, và những gì thu thập được đều được lưu trữ trong Thư viện của Giáo hội. Các tư
liệu và hiện vật về những sinh vật siêu nhiên huyền bí luôn nằm ở khu vực cấm và không phải tu sĩ nào
cũng được phép bước vào. Khi sang truyền giáo ở Á Đông, Giáo hội càng phải thận trọng hơn, vì đây là
miền đất mới lạ mà vốn dĩ thập tự giá của Giáo hội từ xưa vốn chưa cắm sẵn nền tảng. Do đó, các linh
mục càng phải học tập nhiều kinh nghiệm của các thầy pháp trừ tà ở đây hơn, và họ cũng không dám
ngạo nghễ đến mức “ta đây là bố thiên hạ” đâu. Có một vị tu nữ chứng kiến trong Nhà nguyện đã thắc
mắc:

- Con quỷ có vẻ không sợ hãi khi Cha và chúng con nhân danh đức Chúa Jesus…

Tôi buồn cười lỡ miệng một câu:

- Tất nhiên rồi! Chúa Jesus chỉ mới xuất hiện có hai nghìn năm thôi. Con quỷ này tuổi thọ càng dài hơn
ngài ấy mà…

- Nhưng Chúa Ngôi Hai bản thể là Thiên Chúa Ngôi Nhất sáng tạo trời đất, đâu phải chỉ là hai nghìn
năm… - Vị tu nữ ấy có vẻ phủ nhận.

Vâng, đó là theo thuyết Ba Ngôi của họ. Còn thực tế thế nào thì chỉ có người đã trải qua mới biết. Chúng
tôi cũng không muốn đào sâu vào vết nhạy cảm này. Tuy nhiên, qua cuộc trò chuyện với Cha Minh,
chúng tôi cảm thấy kính trọng nhân cách và tri kiến của ông. Có lẽ, Giáo hội Công giáo cần có những
nhân tài truyền giáo như vậy hơn trong tiến trình truyền đạo của mình ở phương Đông. Chúng tôi cũng
không muốn tiết lộ nhiều về cuộc hội thoại này, vì nó không liên quan đến mạch truyện và chỉ gây thêm
rườm rà. Cuối cùng, vị linh mục có mời chúng tôi nghỉ lại thêm một đêm ở Nhà thờ, nhưng chúng tôi
khéo léo từ chối. Chúng tôi quyết định khởi hành ngay đêm đó.

Chú Cường kêu với chúng tôi:

- Đi nhanh thôi! Mụ bà đang chờ chúng ta bên ngoài Nhà thờ đấy…

BÍ MẬT TỪ LÒNG ĐẤT (tập 6): CỬU VĨ HỒ LY VÀ CỬA ĐỊA NGỤC

****************************

Sau khi rời khỏi Nhà thờ Cầu Rầm, chúng tôi bắt xe để đi thăm thú một số nơi, tạm không thể tiết lộ đó
là những nơi nào, chỉ cho biết chúng nằm dọc theo sông Lam. Ngồi trên chiếc ô-tô Toyota Proace đi dọc
trên con sông và ngắm nhìn tất cả quang cảnh hùng vĩ của xứ Nghệ, tôi vừa bồi hồi xúc động nhưng cũng
đọng trong lòng rất nhiều lo lắng. Tôi nhớ lại lời nói của vị linh mục ở giáo xứ, Cha Minh:

- Hãy cẩn thận tiếp xúc với mọi linh hồn, dù đó là ma quỷ hay thánh thần. Đạo lý của Ki-tô chỉ chấp nhận
dựa vào đấng Chân thần Jehovah và Con Một của Ngài là đức Jesus Ki-tô, chúng tôi rất sợ phải tiếp xúc
với những linh thể thuộc bên ngoài. Bất cứ bí mật gì muốn được khám phá đều phải trả giá rất đắt, các
cậu nghĩ mình có đủ bản lĩnh để đánh đổi hay không? Nếu không dám liều lĩnh thì tốt nhất không nên
dại dột… Kiến thức huyền bí tuy rất hay, nhưng nó nguy hiểm giống như đào vàng trên miệng núi lửa
đang sắp sửa bùng nổ vậy… Xin hãy nhớ lời tôi khuyên!

Một số lần tôi cũng hơi lưỡng lự và có ý thoái chí, vì tôi sợ mọi người sẽ gặp nguy hiểm. Có mấy lần khi
tôi bộc bạch, chú Cường vẫn kiên trì và nói rằng:

- Đời người chỉ có mấy mươi năm, nếu không dành sự ngắn ngủi đó để tìm kiếm điều mình cần biết thì
quả là phí phạm. Không có làn sóng trước thì sẽ không có làn sóng sau. Dĩ nhiên, không có thành quả
nào mà không trả giá, không có khám phá nào mà không có hy sinh. Nếu cứ bo bo cầu an trong cái vỏ
mai cũ thì sẽ không bao giờ khai thác được gì. Những con người vĩ đại là những người dám hy sinh, nhờ
đó mà những thành quả của họ sẽ được người khác biết đến...

Chú đưa cho chúng tôi, mỗi người cầm một loại rượu thuốc trên tay và nói:

- Rượu thuốc này thường được các thầy mo trên mường ủ chế và sử dụng chuyên để giữ khí ấm trong
cơ thể và ngăn ngừa khi tiếp xúc với âm khí. Trên hành trình của chúng ta sẽ phải đồng hành với rất
nhiều các linh thể mang âm khí rất nặng, nếu không dùng rượu này để giữ gìn thì sức khỏe và tinh khí
của các cậu sẽ hư hao, lâu dần sẽ không sống thọ được. Hãy giữ lấy mà dùng!

Khoảng đêm ngày thứ hai sau khi rời khỏi Nhà thờ Cầu Rầm, chúng tôi đã đến huyện Đô Lương, dự định
là sẽ tiến lên huyện Anh Sơn theo như linh hồn mụ bà đã chỉ dẫn. Tối hôm đó tấp vào xã Yên Sơn, chúng
tôi bước lên thang đá dẫn đến chùa Phúc Mỹ. Ngôi chùa này lúc đó chưa có sư trụ trì được bổ nhiệm
đến, chỉ có một vị thầy già tạm trú trong chùa, gọi là thầy Thông. Chúng tôi xin tá túc tại chùa và nhận
ngay sự đồng ý từ thầy, vì trong chùa khá hiu quạnh.

Sau khi dùng bữa cơm chay đạm bạc tại chùa, đêm đó chúng tôi cùng hàn huyên với vị thầy chùa khá
lâu. Thầy Thông là một người đã trạc hơn 60, am hiểu nhiều về Phật pháp cũng như kiến thức thế tục,
nói chuyện đông chuyện tây, thầy trông sắc mặt của chú Cường và chợt nói rằng nó có vẻ khá âm u, khí
lưu chạy trật nhịp, nhìn trông có vẻ như có âm khí, cứ như có “người âm” đi theo ám chú vậy. Vừa nói
xong thì bỗng nhiên các tiếng chuông trong chùa đồng loạt vang đổ rất to, giữa lúc 10 giờ đêm, chuông
gió, linh lạc, chuông gõ đồng thời đánh lên “boong boong.” Thầy Thông mỉm cười và nói:

- Thì ra là thật vậy. Thiện tai! Là vị nào có mặt ở chốn nầy thế?

Vừa nói thầy rút ra trong tay áo một cái khánh nhỏ và lắc lên leng keng, tức thì tràng phan bên trong
phòng đổ xuống rớt mảnh vải điều bay phất phơ lên không khí rồi chụp xuống, làm hiện ra hình người bị
trùm phủ trong vải. Từ lúc những tiếng chuông đồng loạt vang lên, tôi đã có cảm giác những tia lạnh và
điện chạy giật khắp người, có vẻ hơi nhột và sợ sệt. Khi nhìn thấy hình thù một người bị phủ trong lớp
vải đỏ, nhìn ánh mắt chú Cường, tôi đoán ngay đó là hình dạng của linh hồn mụ bà. Không thể tin được.
Bà ta thật cao lớn, hơn 2 mét chứ không ít đâu. Vị thầy chắp tay nói:
- A-di-đà Phật! Dẫu là quỷ thần, cũng là chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi. Bần tăng nếu có đắc tội mong
vị thứ cho.

Nói rồi thầy đứng dậy xá một cái. Tức thì tấm vải đỏ rớt xuống đất. Chú Cường nói:

- Thầy biết vị đó ở đâu chứ?

Thầy Thông gật gù bảo:

- Không thấy rõ nhưng cảm nhận được, vị ấy đứng gần thí chủ đây.

- Giờ thì các cậu khỏi giấu thầy, thầy biết các cậu ngay từ đầu không phải những người bình thường rồi,
nên mới lưu lại để xem xét. Âm khí vương trên mặt mày và quần áo thế kia chứng tỏ các cậu không phải
chỉ tiếp xúc với một linh thể đâu. Theo thầy đoán, nếu không phải ngạ quỷ âm hồn thì cũng là Tu-la Dạ-
xoa. – Thầy Thông lại nói tiếp.

Tôi thầm thán phục nghĩ trong bụng, đúng là cao nhân bất lộ tướng. Ai ngờ trong một ngôi chùa vắng ở
chốn làng xã này lại có một bậc thầy quá giỏi, có thể nói là cao tăng đương đại. Thầy Thông nói thêm vài
câu rồi ngỏ ý muốn luận thử một quẻ Dịch cho chú Cường. Ba lần hạ quẻ đều ra điềm bậc trung, thầy nói
trong đó có quẻ Lôi Trạch Quy Muội xếp hào lục ngũ, dự điềm quả là có liên quan đến việc quỷ thần
nhưng không phải là xấu, vì có sự khiêm nhường lẫn nhau. Tuy nhiên, thầy bấm độn lại cho rằng mạng
căn của chú Cường không dài, e rằng sự thành thì cũng lìa đời, còn nếu thoái lui thì có thể giữ mạng
thêm 10 năm. Chú Cường lắc đầu và cười nói:

- 10 năm ở dương gian cũng chẳng đáng là gì. Ngày xưa cụ Khổng Tử từng nói: “Triêu văn đạo, tịch khả
tử.” Buổi sáng được nghe thấy những đạo lý lớn của trời đất, thấu hiểu huyền cơ của cổ nhân, dẫu cho
buổi chiều nhắm mắt xuôi tay cũng không lấy làm ân hận. Thà là con học hỏi được một bồ trí khôn rồi
mãn nguyện ra đi còn hơn sống 10 năm canh cánh trong lòng. Thầy chắc là thấu hiểu nỗi lòng của con
suốt mấy mươi năm trời. Có Trời Phật trên cao làm chứng cho con đó.

- A-di-đà Phật! Chẳng biết là nạn kiếp, hay là thiện tai! Tùy con định đoạt. – Thầy Thông chắp tay, rồi nói
chuyện thêm một hồi nữa. Tôi có kể cho thầy nghe những chuyện vừa qua ở giáo xứ Cầu Rầm, thầy gật
đầu nói:

- Thiên Chúa giáo có lý lẽ của họ, điều đó không sai. Nhà Phật không khuyến khích con người tham sinh
úy tử, miễn là sống thuận với pháp, giữ gìn giới hạnh, đó là con đường để yên ổn thân tâm trong vòng
luân hồi đáng sợ. Nếu như thực sự muốn cầu đạo, biết những điều mà thế nhân không ai biết thì phải
hết lòng vì muốn phụng sự chúng sinh. Thầy nói với các vị, đạo chẳng đâu xa: Phụng sự chúng sinh là
cúng dường chư Phật. Dù cho các cậu có tò mò đi tìm kiếm những lĩnh vực bị cấm, nhưng chỉ cần luôn
khắc ghi một chữ này, nhớ lấy chữ TÂM. Muốn biết việc mình làm đúng hay sai, quay về tự tâm mà suy
xét, tự khắc sẽ hiểu, thầy chẳng khuyên chi nhiều. Còn như đã đối mặt với duyên pháp, chỉ xin đừng
quên lời Phật dạy thuở xưa: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng, nhược kiến tướng phi tướng, tắc kiến
Như Lai.” Chớ có dùng mắt dùng tai mà suy đoán chân lý, chỉ có dùng tâm mà thôi.

Đồng hồ điểm 12 giờ đêm, thầy đứng dậy xin kết thúc cuộc trò chuyện, mời chúng tôi vào nghỉ. Tôi có
hỏi thầy Thông rằng tại sao các chuông khánh trong chùa đồng loạt vang dậy. Thầy Thông nói:

- Vùng đất này linh thiêng lắm, các hạng chúng sinh tạp loại rất nhiều, quỷ ma cũng không ít, thầy giăng
kết giới để khi có âm khí xông vào chùa sẽ báo động...
Tôi hiểu rồi. Chúng tôi về phòng ngủ. Nhưng đêm đó, tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Trong cuộc nói
chuyện vừa rồi, thầy có kể đến một câu chuyện từ thuở xưa. Câu chuyện đó có liên quan đến cuộc hành
trình của chúng tôi, khi nghe nói chúng tôi sẽ lên huyện Anh Sơn để tới điểm chỉ định, thầy Thông có gợi
về một câu chuyện từ cách đây hàng trăm năm trước, huyền thoại về một nhóm người dẫn đầu là Thiên
Túng đạo nhân (天縱道人). Thiên Túng đạo nhân? Người này rốt cuộc là ai? Chỉ nghe thầy nói rằng nhân
vật này đã từng dẫn rất nhiều người lên một ngọn núi ở Anh Sơn và không thấy trở về.

Sáng hôm sau, chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Chiếc xe chở chúng tôi lên dần rồi vào địa giới huyện Anh
Sơn. Chú Cường nhắm mắt ngồi trên xe như đang ngủ, nhưng thực ra là nghe nhận tín hiệu. Chú quay ra
nói với chúng tôi, điểm cần đến sẽ nằm trên vĩ độ Bắc 18 độ, chúng tôi mất cả buổi chiều để xác định nơi
cần đến. Chú Cường bảo rằng mụ bà muốn chúng tôi xuống xe để bắt đầu đi lên đồi. Chúng tôi bước lên
đồi, trên đó là một cánh rừng nhỏ. Đến một gốc cây, chú Cường bảo chúng tôi đào xới gì đó. Tôi và anh
Hùng liên tục tróc bẻ những lùm cây lau sậy che phủ lên gốc cổ thụ, được một lúc thì trong đó lộ ra một
cái am thờ nhỏ. Rễ của cổ thụ quấn quanh lấy nó và bị lùm cỏ che khuất. Tôi dáo dác nhìn qua nhìn lại
nhưng không biết đây là am thờ ai, bên trên chi chít những hàng chữ khó hiểu, nhưng tôi biết đó không
phải là chữ Hán. Chú Cường bỗng nói với chúng tôi:

- Mụ bà nói nhiệm vụ đã kết thúc. Mụ sẽ chỉ cho tôi đọc một lời nguyền triệu hồi.

Vừa nói xong thì chú cất lên một thứ tiếng rất lạ. Khi dứt đọc, chú quay qua quay lại nhìn, quay trước
quay sau. Anh Hùng không hiểu và hỏi: “Anh nhìn gì thế?” Chú nói rằng không nhìn thấy mụ bà nữa. Mụ
biến mất rồi. Tôi khá hoang mang, tôi thốt lên:

- Bà ấy dẫn đường cho chúng ta. Không có mụ thì chúng ta biết đi thế nào?

Vừa dứt lời thì từ sau lưng tôi... Không, chính xác là từ cái am thờ bị bao bọc dưới rễ cây, một làn khói
xanh đen bốc ra. Chú Cường có vẻ hơi hoảng sợ và giật bắn người lui lại, chúng tôi chưa hiểu gì thì chú
đã hét lên:

- Lui lại mau... Mau lên...

Chú lập tức quay người bỏ chạy, chúng tôi không hiểu gì hết, nhưng cũng chạy theo xuống đồi. Vừa chạy
xuống thì thấy chú Cường phía trước, đang trong tư thế quỳ xuống. Tôi lại gần hỏi chú có chuyện gì, đôi
mắt chú kinh hãi nhìn về phía trước. Sau mấy phút, chú mới dần dần bình tĩnh và nói với chúng tôi:

- Có một thứ đang đứng ngay trước mặt tụi mình. Nó... nó là... Cáo Chín Đuôi!

- What? Chú nói gì? Cáo... Ý chú là... Cửu Vĩ Hồ Ly!

Chú quay mặt lại và nói với vẻ nghiêm trọng:

- Đúng!

Cả tôi và anh Hùng đều há mồm. Tôi chưa bao giờ tin là sinh vật này có thật. Không phải nó chỉ có trong
truyền thuyết thôi sao. Lặng đi một lát, chú đột nhiên mừng rỡ đứng dậy và nói:

- Hay quá. Thì ra Cáo không làm hại chúng ta. Nó được mụ bà giới thiệu đến chúng ta đó. Cáo Chín Đuôi
sẽ dẫn chúng ta đến nơi cần đến. Mụ bà phải chia tay, vì nơi đây không thuộc phạm vi quản lý của bà ấy.
Con Cáo nói rằng từ bây giờ chúng ta không được phép đi xe nữa, phải đi bộ đến nơi đó, nó không xa
nữa đâu.
Tối hôm đó, chúng tôi lại đến một nhà người dần gần đồi để xin tá túc. Sớm hôm sau, chúng tôi lại lên
đường. Lần này chúng tôi đã đến nơi. Đó là một ngọn núi nằm gần bên sông Lam, hơi gần gần khu vực
đó là xã Hùng Sơn. Khi lên đây, quang cảnh rừng núi buổi sáng rất mát mẻ nhưng hiu hắt. Chẳng mấy
chốc, chúng tôi đã đến một hốc núi. Cây cối phủ quanh um tùm. Rõ ràng rồi, nơi đây rừng núi cây cỏ
xanh mướt một màu thâm trầm, chúng tôi đã đi lên núi rất cao rồi, chỉ cần tiến thêm không xa nữa thì sẽ
qua địa giới của nước Lào. Chú Cường đi đến hốc núi, dựa đầu áp vào vách núi và dùng tay gõ gõ. Chú
nói hai người chúng tôi rằng hãy dùng dao phay chặt mớ dây leo và rễ cây phủ bám kia đi. Sau nửa tiếng
phát quang thì cuối cùng kẽ hở cũng lộ ra. Thì ra đằng sau đó là một cửa hang. Trong lúc chú Cường và
anh Hùng đang loay hoay làm việc, tôi rảo bước đi xung quanh để xem xét. Tình cờ trông về phía bên
trái, tôi thấy một phiến đá phủ rêu xanh. Tưởng chừng đó chỉ là một phiến đá thiên nhiên, nhưng nhìn
kỹ thì tôi thấy trên đó có khắc chữ. Chữ này thì hiển nhiên là Hán tự, tôi bèn lấy sổ ra viết nghuệch ngoạc
theo hàng chữ mờ mờ trên phiến đá để tiện về tra cứu, nhưng có một số chữ tôi không nhận ra nên chỉ
viết lại được một chút.

Một lát sau, tôi thấy chú Cường đang dồn một đống bùi nhùi và đốt lên một ngọn lửa. Lần này, chú vót
hai cây cọc gỗ và cắm ở hai bên cửa hang, sau đó chú lấy mực đỏ ra và viết các chữ bùa lên trên đó. Chú
nói với chúng tôi:

- Bắt đầu tiến vào cửa hang nhé!

Chúng tôi đã vào được 300m. Như vậy cũng đã là sâu rồi. Theo chỉ dẫn của Cáo Chín Đuôi, chúng tôi thấy
một ngã ba trong hang. Cáo Chín Đuôi báo chúng tôi nên rẽ phải. Nhưng tôi và chú Cường đều tò mò
phía bên trái, chúng tôi thử rẽ sang bên trái xem có gì không. Nó không cản chúng tôi. Nhưng rõ ràng đó
là một hành động ngu xuẩn. Chúng tôi bước vào ngõ cụt. Không. Chú Cường nói đó không phải là ngõ
cụt. Cái đó không phải là vách tường, mà là một cánh cửa động bị đá đóng kín. Chú lại nhắm mắt để hỏi
con Cáo, rồi mở mắt ra nói rằng trên vách tường có một vết khắc hoa văn. Thực ra đó không phải là hoa
văn, mà là ký tự ngôn ngữ của loài Hồ Ly Tinh. Cửa hang này không phải lúc nào cũng có thể mở ra được,
mà phải đúng thời giờ mới có thể gọi nó mở ra. Và rất xui, hiện tại đã đúng thời giờ ấy. Vì sự tò mò
không đáng có, tôi và chú Cường cười khúc khích với nhau, chúng tôi muốn mở cửa hang ra xem có gì
bên trong.

Chú lập tức định thần, tập trung tư tưởng, bắt ấn lên và nhắm nghiền mắt. Sau đó, chú mở trừng mắt ra.
Tôi và anh Hùng đều thấy rõ, mắt của chú chuyển sang màu vàng có gân máu đỏ. Ôi trời, một ánh mắt
ghê rợn của loài dã thú. Chú nhìn chằm chằm vào dòng hoa văn trên cửa như để làm quen, và bắt đầu
đọc. Tôi chịu thua với thứ ngôn ngữ này. Nhưng vừa lúc đó, những phiến đá lấp lởm chởm như những
chiếc răng nanh từ từ rục rịch rồi tháo rút đi. Chú Cường tự nhiên giật mình và hét lớn với chúng tôi:

- Bỏ mẹ, ngu người rồi, chạy hết đi không là chết đó.

Anh Hùng thì khá nhát và nhanh chân nên phóng ngay, còn chú cũng vội quay người phóng chân nhảy
luôn thay vì chạy. Nhưng tôi thì khá điềm đạm và chậm chạp, tôi đang thắc mắc không hiểu tại sao chú
làm vậy, thì thật khủng khiếp, một chiếc lỗ nhỏ vừa hé ra từ cửa động. Lập tức từ trong đó có một lực
hút kinh khủng, nó hút hết tất cả những thứ vật chất gì ở ngay phía trước cửa. Tôi quá hoảng, tôi chồm
xuống nằm bẹp dưới đất và cố bám lấy một khối đá chĩa nhô lên khỏi đất trông như thạch nhũ ngược.
Tiêu rồi, lỗ hở càng xé rộng ra, lực hút như xé gió và cả hang động vang to lên những tiếng “Ù Ù Ù Ù...”

Tôi ôm gì chặt lấy khối đá và hét lên:


- Cứu cháu với. Cứu em với. Cái đó cái gì vậy?

Anh Hùng thì nhanh chóng biến mất khỏi. Chú Cường thì nép mình vào một góc tường hang. Không hay
rồi. Phần dưới của cơ thể tôi bị nhấc lên lơ lửng giữa không khí luôn, tay tôi thì cố bám chặt lấy, nếu tôi
buông tay thì tôi sẽ bị hút vào trong mất. Các bạn tưởng tượng nó giống như một chiếc máy hút bụi
công suất mạnh, hút hết đất cát đá và mọi thứ vào trong. Tôi chỉ kịp quay đầu nhìn một chút, bên trong
cái lỗ đó đen ngòm. Tôi nghe giọng chú Cường hét lên:

- Cháu Sang! Con Cáo Chín Đuôi báo tin, cái cửa động đó không phải là lối vào đâu. Nó là cửa địa ngục.
Nếu mở nó ra sẽ bị hút vào trong và chết đó...

Tôi hét to lên kinh hãi:

- Chú nói có ích gì nữa... Cứu cháu đi chớ...

- Okay! Chờ tí. Con Cáo đang chỉ cho chú câu chú để đóng cửa động lại.

Hai tay tôi sắp giữ không nổi nữa rồi. Hai lỗ tai tôi ù ù nghe tiếng gió rít quá mạnh. Đầu óc như mụ mị đi,
hình như tôi sắp ngã gục rồi. Tôi có nghe loáng thoáng những tràng đọc của chú. Bàn tay chú thò ra
quăng một tấm khăn vải, trên chiếc khăn hình như có viết chữ bùa màu đỏ. Chiếc khăn đó bị hút vào
chiếc lỗ một cái “vút,” nhưng từ từ lỗ đen cũng thu hẹp lại. Các phiến đá như răng nanh lại chĩa ra chắn
lấy cửa động, thân thể tôi cũng dần dần hạ xuống. Khi cái lỗ nhỏ dần như quả táo thì tôi không giữ được
hai tay mình nữa. Cái lỗ đó không những hút hết vật chất mà thậm chí cả không khí trong hang nữa. Tôi
cảm giác là tôi không thở được, vì không có khí ô-xi. Tôi buông hai tay ra và bị hút vào. Điều may mắn
cuối cùng là, cơ thể tôi to hơn chiếc lỗ nên tôi không bị hút vào đó, tôi bị va vào thành đá và bất tỉnh.

Đúng vậy! Tôi không thở được, gương mặt tím tái hết. Và nằm gục dưới nền trước cửa động đã khép lại
hoàn toàn...

You might also like