Professional Documents
Culture Documents
Dai Nam Liet Truyen Tap01
Dai Nam Liet Truyen Tap01
LỜ I NÓ I ĐẦ U
LỜ I TÂ U CỦ A SỬ QUÁ N
PHÀ M LỆ
CHỨ C TƯỚ C, TÊ N HỌ CÁ C QUAN THAM GIA
BIÊ N SOẠ N "ĐẠ I NAM LIỆ T TRUYỆ N TIỀ N BIÊ N"
QUYỂN 1
TRUYỆ N CÁ C HẬ U PHI
Triệu Tổ Tĩnh Hoà ng Hậ u
Thá i Tổ Gia Dụ Hoà ng Hậ u
Hy Tô ng Hiếu V
Thầ n Tô ng Hiếu Chiêu Hoà ng Hậ u họ Đoà n
Thá i Tô ng Hiếu Triết Hoà ng Hậ u họ Chu
Hiếu Triết Hoà ng Hậ u họ Tố ng
Anh Tô ng Hiếu Nghĩa Hoà ng Hậ u họ Tố ng
Hiển Tô ng Hiếu Minh Hoà ng Hậ u, họ Tố ng
Nguyễn Kính Phi
QUYỂN 2
TRUYỆ N CÁ C HOÀ NG TỬ
Con trưở ng Triệu Tổ Hoà ng Đế
Cá c con Thá i Tổ Hoà ng Đế
Cá c con Hi Tô ng Hoà ng Đế
Cá c con Thầ n Tô ng Hoà ng Đế
Cá c con Thá i Tô ng Hoà ng Đế
Cá c con Anh Tô ng Hoà ng Đế
Cá c con Hiển Tô ng Hoà ng Đế
Cá c con Tú c Tô ng Hoà ng Đế
Cá c con Thế Tô ng Hoà ng Đế
Phụ lụ c
TRUYỆ N CÁ C CÔ NG CHÚ A
Con gá i Triệu Tổ Hoà ng Đế
Cá c con gá i Thá i Tổ Hoà ng Đế.
Cá c con gá i Hi Tô ng Hoà ng Đế.
Con gá i Thầ n Tô ng Hoà ng Đế.
Cá c con gá i Thá i Tô ng Hoà ng Đế.
Cá c con gá i Anh Tô ng Hoà ng Đế.
Cá c con gá i Hiển Tô ng Hoà ng Đế
Cá c con gá i Tú c Tô ng Hoà ng Đế.
Cá c con gá i Thế Tô ng Hoà ng Đế.
Con gá i Duệ Tô ng Hoà ng Đế.
QUYỂN 3
TRUYỆ N CÁ C BỀ TÔ I (I)
Tố ng Phướ c Trị
Tố ng Phướ c Hiệp
Tố ng Phướ c Hò a
Mạ c Cả nh Huố ng
Trầ n Đứ c Hò a
Đà o Duy Từ
Bù i Tá Há n
Trương Trà
Lương Vă n Chính
Nguyễn Hữ u Tiến
Nguyễn Hữ u Dậ t
Nguyễn Hữ u Hà o
Nguyễn Hữ u Cả nh
Nguyễn Hữ u Bá c
QUYỂN 4
TRUYỆ N CÁ C BỀ TÔ I (II)
Nguyễn Cử u Kiều
Nguyễn Cử u Thế
Nguyễn Cử u Vâ n
Nguyễn Cử u Chiêm
Nguyễn Cử u Đà m
Nguyễn Cử u Phá p
Nguyễn Cử u Dậ t
Nguyễn Cử u Tuấ n
Trương Phướ c Phấ n
Trương Phướ c Hù ng
QUYỂN 5
TRUYỆ N CÁ C BỀ TÔ I (III)
Nguyễn Đă ng Đệ
Nguyễn Đă ng Thịnh
Nguyễn Cư Trinh
Nguyễn Đă ng Tiến
Nguyễn Đă ng Cẩ n
Nộ i tá n Phạ m
Vũ Phi Thừ a
Nguyễn Khoa Chiêm
Nguyễn Khoa Đă n
Nguyễn Khoa Toà n
Nguyễn Khoa Kiên
Trầ n Đình  n
Vũ Đình Phương
Vũ Xuâ n Nù ng
Phạ m Hữ u Kính
Nguyễn Quang Tiền
Hồ Quang Đạ i
Lê Quang Đạ i
Mai Cô ng Hương
Đặ ng Đạ i Độ
Trầ n Phướ c Thà nh
Lê Xuâ n Chính
Nguyễn Hữ u Tô n
Nguyễn Thừ a Tự
Nguyễn Đă ng Trườ ng
Bù i Hữ u Lễ
Nguyễn Danh Khoá ng
Trầ n Vă n Thứ c
Đoà n Đứ c Hiệp
Đỗ Vă n Hoả ng
Lê Đa Uẩ n
QUYỂN 6
TRUYỆ N CÁ C BỀ TÔ I (IV)
Mạ c Thiên Tứ
Trầ n Thượ ng Xuyên
TRUYỆ N CÁ C NGƯỜ I Ẩ N DẬ T
Nguyễn Đă ng Đà n
Võ Trườ ng Toả n
Đặ ng Đứ c Thuậ t và Lê Đạ t
Nguyễn Hương
Hoà ng Quang
TRUYỆ N CÁ C CAO TĂ NG
Tạ Nguyên Thiều
Thạ ch Liêm
Viên Quang
Giá c Linh
Hoà ng Lung
Tố ng Thị
Bù i Đă ng Tườ ng
Đạ i Nam liệt truyện gồ m 87 cuố n, 2000 trang bả n thả o, chia là m hai phầ n chính:
Tiền biên và Chính biên, ghi chép tương đố i đầ y đủ về sự tích , cô ng trạ ng cá c cô ng
thầ n , liệt nữ , danh tă ng... và gia phả nhà Nguyễn trướ c và sau khi "Gia Long lậ p
quố c". Bộ sá ch đã đượ c cá c nhà dịch thuậ t nghiên cứ u sắ p xếp tạ i là m 4 tậ p:
TIỀ N BIÊ N
LỜ I TÂ U CỦ A SỬ QUÁ N
Kính nghĩ: nhà nướ c ta đượ c lò ng trờ i thương, Thá i Tổ Gia Dụ Hoà ng Đế gâ y nền
cõ i Nam, thầ n truyền thá nh nố i, hơn hai tră m nă m, đứ c tố t cô ng to, kỷ cương rộ ng,
cô ng dụ ng lớ n đã rõ rà ng ở sử sá ch. Song mộ t đờ i có tô i hiền mộ t đờ i, mộ t ngườ i có
sự trạ ng mộ t ngườ i. Dầ u đờ i đã xa, sự tích thiếu só t nhiều, nhưng nếu cò n đượ c
mộ t, hai phầ n cũ ng đủ để cho đờ i sau soi xét.
Thiệu Trị nă m thứ nhấ t (1841) kính soạ n Thự c lụ c tiền biên về liệt thá nh(4) đã
đượ c sắ c dụ tậ n mặ t rằ ng nên soạ n Liệt truyện luô n thể. Lũ thầ n đã thô ng tư đi cá c
địa phương tra hỏ i sự tích, lạ i tham khả o thự c lụ c và rộ ng nghe cả lờ i truyền ngô n
hết lò ng bà n định sắ p xếp biên tậ p thà nh sá ch. Đầ u từ truyện cá c hậ u, phi, thứ đến
truyện cá c hoà ng tử , các cô ng chú a, thứ nữ a đến cá c bề tô i rồ i đến truyện cá c
ngườ i ẩ n dậ t, truyện cao tă ng, cuố i cù ng phụ lụ c truyện nghịch thầ n, gian thầ n gồ m
có 7 mụ c, cộ ng 6 quyển. Đã đem bả n mẫ u tiến trình, đượ c châ u phê rằ ng "đã xem
rồ i, cho kiểm cứ u lạ i, in ra, để truyền đờ i sau. Khâ m thử !"
Nay cẩ n tấ u
Tự Đứ c nă m thứ 5 (1852) thá ng 3 ngà y 29, đề.
Chỉ truyền: "Hữ u ty chọ n ngà y tố t, giao khắ c in, rồ i do Sử quá n kiểm kỹ, đó ng thà nh
quyển để truyền đờ i sau. Cò n mọ i việc khá c đều chuẩ n y lờ i tâ u".
(Tên bầ y tô i là m lờ i tâ u):
PHÀ M LỆ
1. Đầ u chép hậ u phi, thứ đến hoà ng tử , cô ng chú a, là tr885;ng thứ bậ c nhâ n luâ n;
kế đến cá c bề tô i là nêu cô ng lao sự nghiệp; thứ nữ a đến cá c ngườ i ẩ n dậ t là nêu
nhữ ng ngườ i điềm đạ m từ tố n; thứ nữ a đến cá c cao tă ng chép cho đủ ; cuố i cù ng
đến cá c nghịch thầ n, gian thầ n, là ră n đe kẻ á c.
4. Hoà ng tử và cô ng chú a có sự tích gì đá ng ghi thì chép cả khô ng thì chép theo thứ
tự lớ n bé cố t để giữ lấy sự thự c.
5. Dướ i họ tên cá c bề tô i, biên rõ quê quá n, nếu khô ng kê cứ u đượ c thì bỏ trố ng.
8. Tên ngườ i gặ p chữ hú y, nếu là hoà ng tử , cô ng chú a thì theo Ngọ c phả , viết theo
lố i chiết tự (tả tù ng... hữ u tù ng...), nếu là tên cá c bề tô i thì đổ i dù ng chữ khá c.
9. Ngườ i trong Khá nh phả (8) nếu phạ m tộ i to: phả n nghịch, thì tướ c bỏ họ , chỉ viết
tên (như loạ i Hiệp, Trạ ch) khô ng cho dự trong Khá nh phả nữ a.
10. Sự tích trong Liệt truyện đều dự a và o Thự c lự c và tham khả o cá c hà nh trạ ng
cá c gia phả , ngoà i ra cò n hỏ i rộ ng, tìm thêm nếu có sự thự c că n cứ đượ c thì đều
thâ u lượ m mà ghi chép.
Vâ ng sắ c kê khai chứ c tướ c, tên họ cá c bề tô i biên soạ n quyển Đạ i Nam liệt truyện
tiền biên:
Tổ ng tà i:
Cố mệnh lương thầ n, Phụ chính đạ i thầ n, Thá i bả o, Cầ n chính điện Đạ i họ c sĩ, lĩnh
Binh bộ Thượ ng thư sung Cơ mậ t viện đạ i thầ n, Quả n lý Khâ m thiên giá m kiêm lĩnh
Quố c tử giá m sự vụ , sung Kinh diên giả ng quan, Tuy Thịnh quậ n cô ng, thầ n:
Trương Đă ng Quế.
Phó Tổ ng tà i:
Thá i tử Thiếu bả o, Hiệp biện Đạ i họ c sĩ, lĩnh Hộ bộ Thượ ng thư sung Cơ mậ t viện
đạ i thầ n, thầ n: Hà Duy Phiên.
Phụ chính đạ i thầ n, Hiệp biện Đạ i họ c sĩ, lĩnh Lễ bộ Thượ ng thư, sung Cơ mậ t viện
đạ i thầ n, Hiệp lý Kinh kỳ thủ y sư, thầ n: Lâ m Duy Nghĩa.
Toả n tu:
Hà n lâ m viện Chưở ng viện họ c sĩ, sung Kinh diên nhậ t giả ng quan, thầ n: Tô Trâ n.
Thiêm sự phủ Thiêm sự , sung Kinh diên nhậ t giả ng quan, thầ n: Phạ m Hữ u Nghi.
Nguyên Hà n lâ m viện Trự c họ c sĩ, thầ n: Nguyễn Hữ u Tố .
Khả o hiệu :
Đằ ng lụ c :
TRUYỆ N CÁ C HẬ U PHI
Bà họ Nguyễn họ Nguyễn khá c) tiên tổ là ngườ i huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hả i Dương, sau
dờ i đến ở Quý huyện(10) tỉnh Thanh Hó a. Cha là Minh Biện, là m quan đờ i Lê đến
Đặ c tiến, Phụ quố c Thượ ng tướ ng quâ n, Thự vệ sự (nă m Minh Mạ ng thứ 4) (1823)
truy phong là m Hự u chính phù bình trung đẳ ng thầ n. Anh là Ư Tỵ cũ ng là m quan
nhà Lê đến Thá i phó Uy quố c cô ng. Hậ u lấ y Triệu Tổ Hoà ng Đế ta, sinh đượ c mộ t
con trai là Thá i Tổ Hoà ng Đế, mù a xuâ n thá ng Giêng (khô ng nhớ nă m) bà mấ t. Đờ i
truyền là tá ng chung và o lă ng Trườ ng Nguyên ở nú i Thiên Tô n, tỉnh Thanh Hó a.
Nă m Bính Dầ n (1806), Gia Long thứ 5 lạ i truy tô n là Từ Tín Chiêu Ý Hoằ ng Nhâ n
Thụ c Đứ c Tĩnh Hoà ng Hậ u.
Bà i sá ch vă n đạ i lượ c nó i: Khô n nguyên to sá ng, đều sá nh vớ i đứ c Kiền. Hậ u đứ c
thuầ n toan cho nên hay giú p chú a; biểu hiện tô n sù ng cử hà nh mọ i lễ. Kính nghĩ,
Từ Tín Chiêu Ý Hoằ ng Nhâ n Nguyễn Đứ c Phi điện hạ đứ c kính êm đềm, tiếng tố t
vang dậ y. Con chá u đô ng như chung tư(12) đà n đầy nhà cử a. Siêng nă ng dậ y từ gà
gá y, chă m só c gia đình. Cho nên, nay nhờ Phướ c to; cà ng thêm sá ng rộ ng. Nết tố t
cô ng cao, biểu dương sao dá m để chậ m. Vậ y kính là m sá ch và ng, dâ ng tô n hiệu là
Từ Tín Chiêu Ý Hoằ ng Nhâ n Thụ c Đứ c Tĩnh Hoà ng Hậ u, thờ chung và o Triệu Miếu.
Nă m Bính Dầ n (1806) Gia Long thứ 5, lạ i truy tô n là m Huy Cung Từ Thâ n Ô n Thụ c
Thuậ n Trang Hiếu Vă n Hoà ng Hậ u.
Kính nghĩ, Huy Cung Nguyễn Thuậ n Phi điện hạ ; trinh tĩnh đoan trang, bao hà m
rộ ng sá ng: phong hó a khắ p gầ n xa, đứ c tố t khô ng bờ bến. Đú c thà nh giố ng tết,
phồ n thịnh Phướ c to. Nay trên nhờ đứ c thiêng liêng, nố i mã i ngô i tô n quý. Vậ y xét
điển lễ kính dâ ng tên hay. Cẩ n tiến sá ch và ng dâ ng tô n hiệu là Huy Cung Từ Thậ n
Ô n Thụ c Thuậ n Trang Hiếu Vă n Hoà ng Hậ u, thờ chung và o gian tả nhấ t nhà Thá i
Miếu.
Thầ n Tô ng Hiếu Chiêu(16) Hoà ng Hậ u họ Đoà n
Người huyện Diên Phướ c, tỉnh Quả ng Nam, bà là con gá i thứ 3 củ a Thạ ch
Quậ n cô ng Đoà n Cô ng Nhạ n. Mẹ là phu nhâ n Vũ Thuậ n Hó a. Bà là ngườ i minh mẫ n
thô ng sá ng. Nă m 15 tuổ i đêm há i dâ u ở bã i, trong tră ng mà há t. Bấ y giờ Hy Tô ng
Hoà ng Đế ta đi chơi Quả ng Nam, Thầ n Tô ng Hoà ng Đế ta theo đi hộ giá . Đêm đá p
thuyền chơi tră ng. Đỗ thuyền ở gà nh Điện Châ u (bâ y giờ là bã i  n Phú Tâ y) câ u cá ,
nghe tiếng há t, lấ y là m lạ , sai ngườ i đến hỏ i, biết là con gá i họ Đoà n, cho tiến và o
hầ u chú a ở tiềm để, đượ c yêu chiều lắ m. Bà sinh mộ t trai, ấ y là Thá i Tô ng Hoà ng
Đế. Nă m Tâ n Sử u (1661) Lê Vĩnh Thọ nă m thứ 4 mù a hạ , thá ng 5, bà mấ t, tá ng
Vĩnh Diện (ở Thượ ng Cố c Hù ng Cương thuộ c xã Chiêm Sơn, tỉnh Quả ng Nam). Thế
Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 6, Giá p Tý (1744) truy dâ ng tô n thụ y là Trinh Thụ c Từ
Tĩnh Huệ Phi, sau lạ i thêm 2 chữ "Mẫ n Duệ". Gia Long nă m thứ 5 Bính Dầ n (1806)
lạ i truy tô n là m Trinh Thụ c Từ Tĩnh Mẫ n Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu Hoà ng Hậ u.
Kính nghĩ, Trinh Thụ c Từ Tĩnh Mẫ n Duệ Đoà n Huệ Phi điện hạ : sá ng thơm tú my,
phép tố t trinh thuầ n. Khô n nguyên hợ p đứ c, phong hó a gâ y từ đình vi, cả m độ ng
kết thai, Phướ c trạ ch truyền cho xã tắ c. Để Phướ c yên tố t nố i đờ i vô cù ng. Nay, trên
nhờ Phướ c thiêng, lạ i dự ng nghiệp cả . Kính dâ ng huy chương, để tô n nền tố t. Cẩ n
tiến sá ch và ng dâ ng tô n hiệu là :Trinh Thụ c Từ Tĩnh Mẫ n Duệ Huệ Kính Hiếu Chi
Hoà ng Hậ u, thờ chung và o gian hữ u nhấ t nhà Thá i Miếu.
Thá i Tô ng Hiếu Triết(17) Hoà ng Hậ u họ Chu
Ban đầ u, bà hầ u chú a ở nơi tiềm để, là m chá nh phu nhâ n, sinh 2 trai, mộ t gá i. Con
trai trưở ng là Diên đượ c tấ n phong Phướ c Quậ n cô ng, con thứ là Thuầ n, đượ c
phong Hiệp Quậ n cô ng, con gá i là Ngọ c Tà o. Nă m Giá p Tý (1684), Lê Chính Hò a
nă m thứ 5 mù a đô ng, thá ng 11, bà mấ t, thọ 60 tuổ i, tặ ng Tá n Quố c Chá nh Phu
Nhâ n, tá ng lă ng Vĩnh Hưng thuộ c sơn phậ n phườ ng An Ninh huyện Hương Thủ y.
Thế Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 6, Giá p Tý (1744) truy dâ ng tô n thụ y là Từ Mẫ n Chiêu
Thá nh Trang Phi sau thêm 2 chữ "Trang Liệt".
Kính nghĩ, Từ Mẫ n Chiêu Thá nh Trang Liệt Chu Trang Phi điện hạ . Dá ng tố t trinh
tĩnh, phép cả trang nghiêm. Hợ p đứ c vớ i liên nguyên, truyền sá ng bở i khô n hậ u,
phong hó a gâ y từ thơ "quan thư"(18) â n trạ ch đầ m ấ m như thơ "cù mộ c"(19).
Khuô n mẫ u đá ng là m phép, thá nh thiện khó hình dung. Nay, đã thà nh cô ng to, nhớ
lạ i nghiệp tố t, bèn theo điển lễ, bá o đá p đứ c là nh. Cẩ n tiến sá ch và ng dâ ng tô n hiệu
là : Từ Mẫ n Chiêu Thá nh Cung Tĩnh Trang Thậ n Hiếu Triết Hoà ng Hậ u , thờ chung
và o gian tả nhị nhà Thá i Miếu.
Bà i sá ch vă n lượ c rằ ng: Giữ nhâ n luâ n, dù ng điển lễ, bá o nguồ n gố c tô n ngườ i thâ n,
là đạ o hiếu con chá u vậ y.
Kính nghĩ, Từ Tiên Huệ Thá nh Trinh Thuậ n Tố ng Tĩnh Phi điện hạ sao Bả o vụ sá ng
soi, quẻ Thầ n khô n hợ p đứ c. Phép khuê mô n tậ p quen, lễ tô n miếu kính cẩ n. Trên
sá ch Kiền nguyên, sinh ra con trưở ng, kế thừ a dẫ n mố i lâ u dài, khá nh trạ ch mở nền
thịnh lớ n. Cho nên nay trên nhờ thiêng liêng mở mang bờ cõ i, thà nh nghiệpnà y,
bèn theo điển lễ, lẽ cả cù ng tô n. Cẩ n tiến sá ch và ng dâ ng tô n hiệu là : Từ Tiên Huệ
Thá nh Trinh Thuậ n Tĩnh Nhâ n Hiếu Triết Hoà ng Hậ u, thờ chung và o gian tả nhị
nhà Thá i Miếu.
Bà vố n họ Hồ , sau khi và o cung, đượ c cho họ là Tố ng, ngườ i huyện Hương Trà phủ
Thừ a Thiên, là con gá i Chưở ng doanh Hồ Vă n Mai. Và o cung đượ c chú a yêu chiều,
cho là m Hữ u Cung tầ n thứ 4. Sau đó đượ c thă ng Chiêu Nghi. Tính ngườ i nhâ n
thuậ n, cung kính, trong cung đều đượ c cả m hó a vì đứ c tính bà . Sinh đượ c 2 trai:
trưở ng là Tú c Tô ng Hoà ng Đế(25) lú c sinh có hương lạ đầy nhà , thứ là Tứ , phong
Luâ n Quố c cô ng. Nă m Bính Thâ n (1716, Lê Vĩnh Thịnh nă m thứ 12), mù a xuâ n
thá ng 2, bà mấ t, thọ 37 tuổ i, tặ ng Minh Phi, liệt và o hà ng phu nhâ n, thụ y là Từ Tuệ,
tá ng lă ng Vĩnh Thạ nh (thuộ c xã Trú c Lâ m, huyện Hương Trà ). Nă m Giá p Tý (1744)
Thế Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 6, truy dâ ng tô n thụ y là Từ Huệ Cung Thụ c Kính Phi,
sau thêm 2 chữ "Ý Đứ c". Gia Long nă m thứ 5 Bính Dầ n (1806) truy tô n là Từ Huệ
Cung Thụ c Ý Đứ c Kính MHiếu Minh Hoà ng Hậ u. Bài sá ch vă n đạ i lượ c rằ ng: Đó n
quẻ Kiền là quẻ Khô n sá nh vớ i đế gọ i là hậ u. Lễ đặ t bở i nghĩa, kính vớ i ngườ i tô n, là
để tỏ lễ nhà tô n miếu. Kính nghĩ, Từ Huệ Cung Thụ c Ý Đứ c Tố ng Kính Phi điện hạ :
dá ng đẹp nổ i trâ m cà i hoa giắ t, đứ c tố t như ngọ c cư, ngọ c hà nh. Thù y mị đề tiên
phò ng gương mẫ u ưu cầ n giú p chú a như thơ Kê minh(26) chung đú c điềm Hoa
chử (27) tố t là nh, thịnh vượ ng về sau thơ Lâ n chỉ(28). Cho nên nay trên độ i ơn
thừ a, mở mang nghiệp lớ n. Bèn xét lẽ vă n, tá n dương đứ c tố t. Cẩ n tín sá ch và ng
dâ ng tô n hiệu là : Từ Huệ Cung Thụ c Ý Đứ c Kính Mụ c Hiếu Minh Hoà ng Hậ u, thờ
chung và o gian tả tam nhà Thá i Miếu.
BÀ I 1
Phiên â m:
Dịch nghĩa:
Cớ chi trờ i lạ i cướ p phi ta !
Sầ u để ngà n nă m mó c hẹ pha !
BÀ I 2
Phiên â m:
Dịch nghĩa:
Là n mâ y lớ p lớ p đến che rồ i !
Mơ hồ tấ c dạ ngờ đâ u đó ,
Phiên â m:
Dịch nghĩa:
Bia lă ng gầ n đọ c để khuâ y sầ u.
BÀ I 4
Phiên â m:
Đố i cả nh kỷ hồ i hà m biệt lệ
Dịch nghĩa:
Để lạ i chá u con nố i vạ n đờ i;
Bà ngườ i quý huyện tỉnh Thanh Hó a, cha là Trương Phướ c Phan là m đến Trấ n biên
doanh lưu thủ Chưở ng doanh, tặ ng Quố c cô ng, có truyện riêng(k">29). Bà lú c mớ i
và o hầ u nơi tiềm để đượ c phong là m Nhã cơ, sinh 2 trai: trưở ng là Thế Tô ng Hoà ng
Đế, thứ là Du, lạ i có tên là Nghiễm, tặ ng Thiếu bả o quậ n cô ng. Nă m Canh Tý (Lê
Thá i Bả o nă m thứ nhấ t) 1720 mù a thu, thá ng 7, bà mấ t thọ 22 tuổ i, tặ ng Tu Dung Á
Phu Nhâ n, thụ y là Từ Ý , tá ng lă ng Vĩnh Phong (thuộ c sơn phậ n xã Long Hổ , huyện
Hương Trà ), Thế Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 6 Giá p Tý (1744) truy dâ ng tô n thụ y là
Từ ý Quang Thuậ n Thụ c Phi, sau thêm 2 chữ "Chiêu Hiến". Gia Long nă m thứ 5
Bính Dầ n (1806) lạ i truy tô n là m Từ ý Quang Thuậ n Chiêu Hiến Thụ c Huệ Hiếu
Ninh Hoà ng Hậ u.
Kính nghĩ, Từ Ý Quang Thuậ n Chiêu Hiến Trương Thụ c Phi điện hạ : tiếng hay trong
sá ng, đứ c tố t đoan trang, sao bả o vụ sá ng liền thầ n cự c, nghi hình tú c mụ c như
ngọ c cư ngọ c hà nh, khí phù dư(30) đú c đượ c thá nh minh, dò ng dõ i lâ u bền như
thá i sơn bà n thạ ch. Cho nên nay trên nhờ ơn thiêng thêm sá ng Phướ c trướ c. Kính
dâ ng huy xưng, để tỏ đứ c tố t. Cẩ n tiến sá ch và ng dâ ng tô n hiệu là : Từ Ý Quang
Thuậ n Chiêu Hiến Thụ c Huệ Hiếu Ninh Hoà ng Hậ u, thờ chung và o gian hữ u tam
nhà Thá i Miếu.
Thế Tô ng Hiếu Vũ Hoà ng Hậ u họ Trương
Kính nghĩ, Ô n Thà nh Trương Thá i Phi điện hạ : Bố n đứ c gồ m đủ , tră m nết đều hay,
bao hà m rộ ng sá nh đế, trinh thuầ n đó n lấ y trờ i. Tiết tấ u ngọ c cư ngọ c vũ , êm vang
ở cô ng đườ ng, lợ i ích cá i tó c tấ c da, để Phướ c cho chá u chắ t. Cho nên nay trên nhờ
thiêng liêng nố i dà i ngô i bá u, bèn theo lễ to, kính dâ ng tên quý. Cẩ n tiến sá ch và ng
dâ ng tô n hiệu là Ô n Thà nh Huy Ý Trang Từ Dụ c Thá nh Hiếu Vũ Hoà ng Hậ u, thờ
chung ở gian tả tứ nhà Thá i Miếu.
Tuệ Tĩnh Thá nh Mẫ u Nguyên Sư Nguyễn thị
Bà lú c mớ i và o cung, rấ t đượ c yêu quý, sinh 2 trai, con trưở ng là Diệu, tặ ng Thiếu
bả o Quậ n cô ng, con thứ hai tứ c là Duệ Tô ng Hoà ng Đế(32font>). Loạ n nă m Giá p
Ngọ (1774) bà đi tu ở chù a Phướ c Thà nh. Nă m Gia Long thứ 3 (1804) mù a hạ , bà
mấ t. Sá ch tặ ng là m Tuệ Tĩnh Thá nh Mẫ u Nguyên Sư, hiệu là Thiệu Long giá o chủ ,
tá ng ở xã An Cự u (thuộ c huyện Hương Thủ y) Gia Long nă m thứ 4 (1805), cấ p điền
15 mẫ u. Tô n Thấ t Sà i coi việc thờ cú ng.
QUYỂ N 2
TRUYỆ N CÁ C HOÀ NG TỬ
Con là Uyên, theo Thá i Tổ Hoà ng Đế và o Nam, là m quan đến Đề lĩnh Thượ ng khố
Độ i trưở ng.
Uyên có 2 con là Thao và Thanh, đều là m đến Chưở ng doanh Quậ n cô ng.
Con Thao là Trá ng, có dũ ng lượ c, thườ ng đi đá nh dẹp, nhiều lầ n lậ p đượ c quâ n
cô ng. Nă m Mậ u Tý (1588) mù a thu, Thá i Tô ng Hoà ng Đế mớ i nố i ngô i chú a, cho
rằ ng Quả ng Bình thủ y doanh tham tướ ng Nguyễn Triều Vă n vố n hèn nhá t, bèn
triệu về dù ng Trá ng lên thay. Sau khi đến nơi, Trá ng sử a khí giớ i, dạ y sĩ tố t, việc
phò ng bị ngoà i biên cà ng đượ c nghiêm mậ t. Nă m Bính Thâ n (1596) mù a hạ , Trá ng
theo tiết chế Nguyễn Hữ u Tiến đem quâ n lấ y Nghệ An, cù ng Phó tướ ng Nguyễn
Cử u Kiều đem chu sư đá nh nhau vớ i thủ y quâ n giặ c. Bính Ngọ (1606) nă m thứ 18,
mù a đô ng, Trá ng đượ c thă ng Cự u doanh trấ n thủ . Nă m Đinh Mã o (1627) mù a hạ ,
Anh Tô ng Hoà ng Đế nố i ngô i chú a, thă ng Chưở ng doanh quậ n cô ng. Nă m ấ y Trá ng
mấ t. Đến nă m Gia Long thứ 4 (1805) vì l thầ n hồ i quố c sơ, Trá ng đượ c liệt và o bậ c
ba, ấ m thụ mộ t ngườ i chá u đượ c thế tậ p là m thứ độ i trưở ng để giữ việc thờ cú ng,
cấ p cho 3 mẫ u ruộ ng thờ , 1 ngườ i coi mả . Trá ng có 6 trai là Định, Đạ t, Đồ ng, Vĩnh,
Thuậ n, Kính. Định và Đồ ng đều là m đến Chưở ng doanh, Đạ t và Kính đều là m đến
Cai cơ, Vĩnh và Thuậ n đều là m đến Cai độ i.
Hoà ng trưở ng tử : Hà
Mẹ là Đoan Quố c Thá i Phu Nhâ n. Hà là m quan nhà Lê, vì có quâ n cô ng, là m đế;n Tả
đô đố c Quậ n cô ng. Nă m Mậ u Ngọ (1558, Lê Chính Tự nă m đầ u), mù a đô ng, đem gia
quyến theo và o Thuậ n Hó a. Nă m Bính Tý (1576) mù a hạ , Hà mấ t, tặ ng Thá i bả o
Hò a quậ n cô ng. Hà có 6 trai: Lộ c, Vệ, Hoằ ng, Tuyên, Đố ng, Nghĩa. Duy Lộ c, Vệ,
Tuyên và Nghĩa là m to hơn cả , Lộ c là m đến Chưở ng doanh.
Vệ thườ ng đem quâ n đá nh giặ c, có nhiều chiến cô ng, lên đến Chưở ng cơ. Hi Tô ng
Hoà ng Đế nă m thứ 7, Canh Thâ n (1620) quâ n Trịnh và o lấ n cướ p. Chú a sai Vệ đem
quâ n đi chố ng cự , quâ n Trịnh khô ng dá m đến gầ n. Nă m thứ 14 Đinh Mã o (1627)
Trịnh Trá ng lạ i rầ m rộ kéo quâ n và o xâ m lấ n. Trá ng sai tướ ng là Nguyễn Khả i đó ng
doanh trạ i ở bờ bắ c sô ng Nhậ t Lệ. Chú a sai Vệ là m Tiết chế quâ n bộ , chố ng đá nh.
Tô n Thấ t Trung là m Tiết chế quâ n thủ y, tiếp ứ ng. Hai bên đố i lũ y chố ng . Quâ n
Trịnh đá nh và o trậ n củ a Vệ, Vệ sai bắ n sú ng lớ n để đá nh phá , quâ n Trịnh kinh sợ .
Tô n Thấ t Trung đem quâ n thủ y nhâ n lú c nướ c triều lên, tiến sá t quâ n doanh củ a
Khả i. Quâ n Trịnh sợ , vỡ chết rấ t nhiều, Trịnh Trá ng bèn rú t quâ n về.
Tuyên ban đầ u là m Cai cơ, sau dầ n thă ng đến Chưở ng cơ. Hi Tô ng Hoà ng Đế nă m
thứ 7, Canh Thâ n (1620) nghịch Hợ p và nghịch Trạ ch mưu đồ là m loạ n, mậ t đưa
thư cho chú a Trịnh, ướ c hẹn là m nộ i ứ ng. Chú a Trịnh tin, cho đó ng quâ n ở Nhậ t Lệ
để đợ i. Hợ p và Trạ ch đem quâ n là m phả n, chú a Hi Tô ng sai Tuyên là m tiên phong
tự đem đạ i quâ n đi đá nh. Hợ p và Trạ ch thua chạ y, Tuyên đuổ i theo bắ t đượ c đem
về dâ ng. Thầ n Tô ng Hoà ng Đế khi mớ i lên ngô i chú a, nghịch Anh giữ Quả ng Nam
là m phả n, đắ p lũ y Câ u Đê là m kế cố thủ . Chú a sai Tuyên đi đá nh. Tuyên dẫ n quâ n
bộ đi đườ ng tắ t thẳ ng đến Quả ng Nam, đố t trạ i giặ c. Anh sợ , chạ y ra Đạ i Chiêm
(cử a biển Quả ng Nam). Tuyên đuổ i theo, bắ t đượ c đó ng gô ng giả i về Kinh. Tuyên
trí dũ ng hơn ngườ i, liệu tình hình giặ c để nắ m lấ y phầ n thắ ng. Hai lầ n dẹp yên nộ i
loạ n, binh cơ thầ n tình nhanh chó ng, đá nh là thà nh cô ng, ai cũ ng phụ c là viên
tướ ng có mưu lượ c. Khi chết khô ng có con kế tự .
>Hoà ng tử thứ 2 : Há n.
Diễn có 4 trai là Tuấ n, Đườ ng, Cơ, Phú đều theo Thá i Tổ và o Nam. Hi Tô ng Hoà ng
Đế nă m thứ 19 Nhâ m Thâ n (1632) Tuấ n là m Quả ng Bình trấ n thủ , hiệu lệnh
nghiêm tú c, quan lạ i và nhâ n dâ n đều đượ c ở yên. Sau đó Tuấ n đượ c triệu về là m
đến Đô đố c. Đườ ng và Cơ đều là m đến Chưở ng doanh, Phú là m đến Độ i trưở ng.
Hoà ng tử thứ 5 : Hả i.
Mẹ là Minh Đứ c Vương Thá i Phi. Khê có mưu lượ c và tà i phá n đoá n, trướ c là m
Chưở ng cơ, tướ c Tườ ng quan hầ u. Hi Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 13 Bính Dầ n (1626
Lê Vĩnh Tộ thứ 8) mù a xuâ n, tấ n phong Tổ ng trấ n, Tườ ng quậ n cô ng. Chú a sai xử
đoá n việc nướ c, chỉ nhữ ng vụ trọ ng á n tử tù mớ i tâ u Phướ c. Đến lú c chú a se mình,
triệu Khê và o nhậ n di mệnh, chú a bả o: "Ta nố i nghiệp tổ tiên có chí trên tô n phò
nhà vua, dướ i cứ u giú p nhâ n dâ n. Nay, thế tử chưa từ ng trả i nhiều, phà m cá c đạ i sự
quâ n quố c đều giao cho hiền đệ xử đoá n cả . Khê khấ n đầ u khó c, nó i: "Tô i xin đem
hết sứ c hèn mọ n để mong bá o đá p".
Thầ n Tô ng Hoà ng Đế khi mớ i nố i ngô i chú a, Quả ng Nam trấ n thủ là Anh là m phả n
(Anh là con thứ 3 Hi Tô ng) chú a dù ng dằ ng khô ng nỡ giết. Khê xin vì đạ i nghĩa mà
quyết đoá n, bèn ra quâ n bắ t Anh, giết đi (việc nà y nó i rõ ở truyện Anh). Chú a nghĩ
Khê có cô ng to cho dù ng ấ n đồ ng, đi kiệu đen. Nă m thứ 11 Bính Tuấ t (1646 Lê
Phướ c Thá i nă m thứ 4) mù a thu, Khê mấ t, thọ 58 tuổ i, chú a rấ t thương tiếc, tặ ng
phong Tá lý tâ y thầ n đặ c tiến thượ ng trụ quố c bình chương quâ n quố c đạ i sự Tổ ng
trấ n, Quậ n cô ng, thụ y Trung Nghị, lậ p đền thờ ở xã Nam Phổ (thuộ c huyện Phú
Vang). Hiển Tô ng Hoà ng Đế cho con chá u Khê đượ c hưở ng ngụ lộ c ở Nam Phổ . Gia
Long nă m thứ 4 (1805) cho Khê đượ c liệt và o hạ ng thượ ng đẳ ng trong cá c cô ng
thầ n khai quố c, ấ m thụ mộ t ngườ i chá u đượ c thế tậ p Độ i trưở ng để giữ việc cú ng
tế, cấ p cho 15 mẫ u ruộ ng thờ , 6 ngườ i coi mộ . Lạ i cho thờ phụ và o Thá i Miếu. Nă m
Minh Mạ ng 12 (1831) truy tặ ng hà m Khai quố c cô ng thầ n, Tô n nhâ n phủ tô n nhâ n
lệnh, thụ y Trung Trự c, tướ c Nghĩa Hưng Quậ n vương.
Khê là chỗ họ thâ n nhà chú a phụ chính trướ c sau hơn 40 nă m, trả i thờ 3 đờ i chú a,
đứ c cả , cô ng to, đượ c đờ i trô ng cậ y và coi trọ ng.
Khê có 13 con trai: Thanh, Nghiêm, Sanh, Khiêm, Thự c, Độ , Mã o, Minh, Nghị, Phá p,
Sử , Triều và Diệu đều là m đến Chưở ng doanh. Sanh lạ i có tên khá c là Đạ t, thườ ng
cầ m quâ n đá nh giặ c, có quâ n cô ng, lú c chết đượ c tặ ng phong Tả quâ n đô đố c
chưở ng sự , Quậ n cô ng. Diệu là m đến Ngoạ i tả chưở ng doanh.
Cá c con Hi Tô ng Hoà ng Đế
Hoà ng trưở ng tử : Kỳ
Mẹ là Hoà ng hậ u Nguyễn Thị. Kỳ, ban đầ u đượ c trao Chưở ng cơ, Hi Tô ng Hoà ng Đế
nă m đầ u, Giá p Dầ n (1614 Lê Hoà ng Định thứ 15) thă ng Hữ u phủ Chưở ng phủ sự ,
Trấ n thủ Quả ng Nam. Kỳ đến trấ n, chă m là m ơn huệ, vỗ về thương yêu
quâ n và dâ n, trong cõ i đượ c yên ổ n. Nă m thứ 1 3 là nă m Tâ n Mù i (1631 Lê Đứ c
Long thứ 3) mù a hạ , Kỳ mấ t. Kỳ ở Quả ng Nam â n và uy đều sá ng tỏ đến lú c chết, sĩ
dâ n ai cũ ng thương tiếc, tặ ng phong Thiếu bả o, Khá nh quậ n cô ng. Gia Long nă m
thứ 4 (1805) đượ c cấ p 5 ngườ i coi mả .
Kỳ có 4 trai là Nhuệ, Xuâ n, Tà i, Trí đều là m đến Chưở ng doanh. Chá u 5 đờ i là Thậ n,
là m Cai độ i. Duệ Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 9 Giá p Ngọ (1774), Thậ n theo Chưở ng cơ
Tô n Thấ t Thă ng đi đá nh "giặ c" Tâ y Sơn ở Quả ng Nam. Thă ng nhá t, chạ y trướ c;
Thậ n cố đá nh, bị chết trậ n. Hai em Thậ n là Hoà n và Đă ng đều là m Độ i trưở ng theo
Tả quâ n Nguyễn Cử u Dậ t đi đá nh ở Quả ng Nam, chiến đấ u vớ i giặ c đều chết trậ n.
Hoà ng tử thứ 7: Lộ c.
Hoà ng tử thứ 8: Tứ .
Sinh mẫ u là ai khô ng rõ . Tứ ban đầ u là m Phó tướ ng Quả ng Nam, Thầ n Tô ng Hoà ng
Đế khi mớ i nố i ngô i chú a, Quả ng Nam trấ n thủ là Anh dấ y binh là m phả n, đắ p lũ y
Câ u Đê, Tứ khô ng theo, đượ c khỏ i tộ i. Khô ng rõ nă m mấ t, khô ng có con.
Khô ng có truyện.
Hoà ng tử thứ 11 : Đô n.
Vũ mấ t sớ m, khô ng con.
(1833) xó a sổ họ đi, cho biệt tịch là m họ Nguyễn Thuậ n (việc nà y chép rõ ở truyện
nghịch thầ n).
Thá ng 11, tướ ng Trịnh là Lê Hiến tiến sá t đến lũ y Trấ n Ninh, Thuầ n đó ng quâ n ở
Cừ Hà . Chư tướ ng chia đó ng ở đồ n Sa Trủ y, và cử a biển Nhậ t Lệ để là m thanh thế
cứ u ứ ng cho nhau. Quâ n Trịnh tiến đá nh, khô ng đượ c. Chú a Trịnh Tạ c triệu tướ ng
tá đến quở trá ch nghiêm khắ c. Lê Hiến lạ i đố c quâ n đến sá t dướ i lũ y lấ p hà o phá
lũ y hết sứ c đá nh gấ p, trong mộ t ngà y lũ y Trấ n Ninh suýt bị vỡ đến mấ y lầ n. Tướ ng
giữ lũ y ấ y là Trương Phướ c Cương muố n bỏ Trấ n Ninh lui về đồ n Mộ i Nạ i. Thuầ n
bả o rằ ng: "Quâ n ta lui mộ t chú t, giặ c tấ t thừ a cơ đuổ i đá nh chú ng tố ng chế đượ c
nữ a. Nên gắ ng sứ c cố giữ , thế nà o ta cũ ng đến cứ u. Bèn sai ngườ i ruổ i ngự a đến lũ y
Sa Phụ ra lệnh cho Nguyễn Hữ u Dậ t cứ u Trấ n Ninh. Cò n mình thì dờ i quâ n đến giữ
Sa Phụ . Trịnh lạ i sai tướ ng là Thắ ng (khô ng nhớ họ ) đem 30 chiếc chiến thuyền từ
cử a biển và o giữ bến sô ng để cắ t đườ ng cứ u viện cho Trấ n Ninh. Thuầ n lậ p tứ c sai
cai cơ Kiên Lễ (khô ng nhớ họ ) đang đêm đến thẳ ng đồ n Sa Trủ y, đặ t sú ng lớ n lên
phá o đà i, rình thuyền quâ n củ a Thắ ng đi qua thì bắ n. Lạ i sai tham tướ ng Tà i Lễ
(khô ng nhớ họ ) đem chiến thuyền ra cử a biển, đá nh kẹp lạ i. Quâ n Thắ ng quả bị
quâ n Kiên Lễ đá nh bạ i, quâ n thế Trấ n Ninh do đấ y lạ i đượ c vữ ng mạ nh. Quâ n Trịnh
đá nh nhiều lầ n khô ng phá đượ c. Thá ng 12, Lê Hiến lạ i chấ n chỉnh quâ n đò i đá nh
Trấ n Ninh, Thuầ n sai Cai cơ Thắ ng Lâ m (khô ng nhớ họ ) đem hơn 60 thớ t voi từ bã i
biển Trườ ng Sa, vò ng quanh đi ra, và o lũ y Sa Phụ . Lạ i sai thủ y quâ n bơi thuyền như
bay ra khơi, chỗ đố i ngạ n cử a biển Di Luâ n; nướ c triều lên thì đi, nướ c triều xuố ng
thì về để là m nghi binh. Lê Hiến mấ y ngà y liền đá nh lũ y khô ng hạ đượ c, lạ i nghe
nó i chú a Trịnh Tạ c đến sô ng Gianh, bị cả m gió độ c, ố m nặ ng phả i quay về, Lê Hiến
cà ng sợ , bèn rú t quâ n chạ y. Thuầ n đem quâ n đuổ i theo đến nú i Lê Đệ, rồ i về.
Trậ n nà y chú a Trịnh dố c quâ n cả nướ c và o xâ m lượ c, tình thế rấ t nguy cấ p. Thuầ n
mớ i 20 tuổ i, vâ ng mệnh cầ m quâ n, điều độ đú ng khớ p. Chư tướ ng phụ c tù ng cho
nên có thể lấ y ít thắ ng nhiều, khỏ i hoạ n nạ n, yên ngoà i biên, cô ng lao rấ t lớ n. Sau
khi quâ n địch rú t lui, phà m nhữ ng quâ n lính Bắ c hà bị bắ t, Thuầ n đều sai cấ p tiền
gạ o, quầ n, á o, tha cho về, khô ng giết mộ t ngườ i nà o. Lạ i đặ t mộ t lễ đà n ở trong
thà nh Trấ n Ninh tế tướ ng sĩ trậ n vong, cũ ng đặ t mộ t đà n ở ngoà i thà nh tế tướ ng sĩ
quâ n Bắ c chết trậ n.
Thuầ n dẫ n quâ n về đến Thạ ch Xá , đem tin thắ ng trậ n bá o lên. Chú a mừ ng quá , nó i
rằ ng: "Con ta mấ lầ n bó p họ ng giặ c Bắc, từ nay về sau họ Trịnh khô ng dá m dò m
thẳ ng và o Nam triều ta nữ a". Chú a bèn sai quan đem và ng, bạ c, tiền, lụ a, hậ u
thưở ng tướ ng sĩ và ban yến yên ủ i chư quâ n. Nă m Quý Sử u (1673), mù a xuâ n,
Thuầ n đem quâ n khả i hoà n, đến phủ Cẩ m Phướ c và o yết kiến. Chú a hà i lò ng lắ m,
thưở ng cho 100 lạ ng và ng, 1000 lạ ng bạ c, 50 tấ m gấ m. Thuầ n từ chố i và tâ u rằ ng:
"Đấ y là oai củ a chú a thượ ng và sứ c củ a chư tướ ng, chứ tô i có tà i nă ng gì". Chú a nó i
rằ ng: "Có cô ng lớ n nên nhậ n thưở ng to, sao lạ i từ chố i?" Thuầ n bèn lạ y tạ .
>
Cả trai gá i cộ ng 146 ngườ i. Nay trong Hoà ng tử phả chỉ khả o đượ c 38 ngườ i. (Cũ ng
có ngườ i tìm đượ c hà ng thứ mà khô ng rõ tên).
Mẹ là Trầ n thị, đượ c tặ ng phong Tu Dung phu nhâ n. Thể là m Thủ y cơ Chưở ng cơ.
Nă m Nhâ m Ngọ (1762, Lê Cả nh Hưng nă m 23), mù a thu, Thể chết, thọ 74 tuổ i, tặ ng
Chưở ng dinh. Thể có 7 trai là Mẫ n, Thưở ng, Tạ o, Hộ i, Chiêm, Mịch, Thi.
Hoà ng tử thứ 3 .
Khuyết cả truyện.
Hoà ng tử thứ 5: Hả i.
Hoà ng tử thứ 8: Tứ .
Quố c phó Trương Phướ c Loan thấ y Dụ c là bề tô i tô n thấ t củ a nướ c, có danh tiếng
lừ ng lẫ y, muố n kéo là m vây cá nh, bèn gả con gá i cho Dụ c. Dụ c đứ ng đắ n, khô ng a
dua; Loan ghét, sai ngườ i vu Dụ c mưu phả n. Đến khi tra xét khô ng có chứ ng cớ gì,
bèn bã i chứ c cho Dụ c về nhà riêng. Khi đã về nhà , Dụ c đặ t tên chỗ ở là "Tĩnh Viên
đườ ng", ngà y ngà y cù ng mặ c khá ch ngâ m vịnh là m vui, tuyệt khô ng nó i đến việc
nướ c. Dụ c, hay thơ, cao cờ , biết â m nhạ c. Đờ i truyền rằ ng điệu Nam cầ m củ a ta(37)
là do Dụ c đặ c ra trướ c. Nă m Tâ n Mã o (1771) Dụ c mấ t, thọ 44 tuổ i.
Con thứ 2 con củ a Tứ là Tĩnh, lạ i có tên là Chính là m Ngoạ i tả Chưở ng dinh quậ n
cô ng. Nă m Giá p Ngọ (1774), mù a đô ng, theo Duệ Tô ng Hoà ng Đế và o Nam, nă m Ấ t
Mù i (1775) mù a xuâ n, đi đến Quả ng Nam, cù ng Tô n Thấ t Chấ t xin lậ p hoà ng tô n
Dương là m đô ng cung để rà ng buộ c lò ng ngườ i. Đô ng cung đã đượ c lậ p rồ i, lũ Tĩnh
đều lệ thuộ c và o cả . Rồ i Tĩnh lạ i theo đô ng cung và o Bình Định. Mù a thu nă m ấ y,
"giặ c" Tâ y Sơn Nguyễn Vă n Nhạ c, sai Tĩnh đi Quả ng Ngã i, chiêu dụ quâ n và dâ n,
liên kết cá c ngườ i Man. Sau đó Tĩnh bị giặ c giết chết.
Con thứ ba củ a Tứ là Thă ng, là m đến Bố chính doanh Trấ n thủ Chưở ng doanh quậ n
cô ng. Nă m Giá p Ngọ (1774) mù a xuâ n "giặ c" Tâ y Sơn quấ y nhiễu cướ p bó c Quả ng
Nam, Thă ng điều độ ng chư quâ n đi đá nh, nhưng sợ thế giặ c lớ n, đương đêm chạ y
về. Đến lú c quâ n Trịnh và o Thuậ n Hó a, Thă ng đến cử a quâ n Hoà ng Ngũ Phướ c xin
hà ng. Sau đó chết.
Con thứ củ a Tĩnh là Huy, là m đến Thị trung Hữ u nhị Vệ uý lĩnh trấ n thủ Bình Định.
<>
Lạ i có tên là Đườ ng, mẹ là Hoà ng thị. Thử ban đầ u là m Chưở ng cơ Trấ n phủ . Nă m
Quý Mù i (1763, Lê Cả nh Hưng nă m 24) mù a thu, Thử mấ t, thọ 66 tuổ i. Tặ ng
Chưở ng doanh. Thử có 7 trai: Giả ng, Hộ i, Ngũ , Tín, Hoan, Cấ u, Trí.
Con thứ là Khẩ m, là m đến Cai độ i; con thứ nữ a là Tuyền là m đến Hữ u thủ y Cai cơ.
Nă m Giá p Ngọ (1774) mù a đô ng, Tuyền theo Duệ Tô ng và o Nam, nă m Bính Thâ n
(1776) mù a hạ , đá nh nhau vớ i giặ c bị chết trậ n.
Phong.
Lạ i có tên là Mạ ch. Mẹ Nguyễn thị đượ c tặ ng phong Chiêu phi, liệt và o hà ng phu
nhâ n. Phong ban đầ u là m Hữ u dự c cơ Chưở ng cơ. Nă m Giá p Tuấ t (1754, Lê Cả nh
Hưng nă m thứ 15) mù a thu, Phong mấ t, thọ 46 tuổ i đượ c tặ ng Thiếu bả o Thạ nh
Quậ n cô ng. Có 2 con trai là Tiến và Đạ o.
Sinh mẫ u là ai, Hạ o chết nă m nà o và thọ bao nhiêu tuổ i đều khô ng rõ . Có 1 con trai
là Lượ ng.
Hoà ng tử thứ 32 : Lộ c.
Cá c con Tú c Tô ng Hoà ng Đế
Hoà ng tử thứ 2 : Du.
</div>
Mẹ là Hữ u Cung tầ n Nguyễn thị. Tườ ng ban đầ u là m Cai độ i. Nă m Đinh Sử u (1757,
Lê Cả nh Hưng nă m thứ 18) mù a đô ng, Tườ ng mấ t, thọ 30 tuổ i, đượ c tặ ng Cai cơ.
Con trai là Huy.
Cá c con
>
Hoà ng tử thứ 3 : Mã o.
Gia Long nă m thứ nhấ t (1802) Thế Tổ Cao Hoà ng Đế cho rằ ng Mã o có cô ng nuô i
giữ , bèn ban cho 30 mẫ u để là m ruộ ng thờ . Con Mã o là Liên lạ i có tên là Đồ ng. Nă m
Quý Sử u (1793) mù a hạ , và o Gia Định, là m đến Cai độ i. Gia Long nă m thứ 17
(1818) Liên m7;c tặ ng là Trá ng Vũ cô ng thầ n, Phụ quố c Vũ liệt tướ ng quâ n, Cai cơ.
Lạ i có tên là Thà nh; mẹ là ai khô ng rõ . Nă m Giá p Ngọ (1774) Thà nh là m Tiết chế
thủ y bộ , Thà nh quậ n cô ng. Nă m ấ y mù a đô ng, quâ n nhà Trịnh đến Hồ Xá , Thà nh
cù ng Nguyễn Cử u Phá p bắ t Quố c phó Trương Phướ c Loan đưa đến quâ n thứ
Hoà ng Ngũ Phướ c. Nă m Ấ t Mù i (1775) mù a xuâ n, đi theo Duệ Tô ng và o Quả ng
Nam. Lú c chú a đi Gia Định, Thà nh ố m, khô ng đi theo đượ c, lưu lạ i ở Quả ng Nam.
Nă m ấ y, mù a hạ , Thà nh chết, thọ 41 tuổ i, có 5 con trai là Chiêu, Quý, Đà m, Hoả ng và
Diệu. Hoả ng có truyện riêng.
Hoà ng tử thứ 5: Dụ c.
Mẹ là Chiêu Nghi phu nhâ n Trầ n thị. Ban đầ u Kính là m Hữ u dự c Cai độ i. Nă m Giá p
Ngọ (1774) mù a thu, Duệ Tô ng Hoà ng Đế duyệt binh ở cử a biển Tư Hiền (trướ c là
Tư Dung) thă ng Kính là m Chưở ng doanh Quậ n cô ng quyền coi việc nướ c. Nă m Ấ t
Mù i (1775) mù a xuâ n, Kính theo chú a và o Gia Định, gặ p bã o, chết đuố i ở biển lú c
mớ i 38 tuổ i. Có 3 con trai là Tình, Tuyền và Đạ o.
Hoà ng tử thứ 8: Bả n.
Hoà ng tử thứ 9: Hạ o.
Phụ lụ c
Hoà ng tô n Dương, tuổ i trẻ, ngườ i đẹp, mà y mắ t như tranh vẽ, có đứ c độ , đượ c dâ n
tình trô ng mong. Nă m Giá p Ngọ (1774) mù a đô ng, tướ ng Trịnh là Hoà ng Ngũ
Phướ c và o xâ m lấ n Nam Hà , Dương theo Duệ Tô ng và o Quả ng Nam. Nă m Ấ t Mù i
(1775 ) mù a xuâ n, Duệ Tô ng đó ng ở Bến Giá (Giá Tô n). Lũ Tô n Thấ t Chấ t tâ u rằ ng:
"Hoà ng tô n Dương hiền đứ c, trong ngoà i đều mộ t lò ng trô ng cậ y, xin sớ m lậ p là m
Thá i tử để mưu đồ khô i phụ c". Bèn lậ p Dương là m Thá i tử xưng là Đô ng cung trấ n
phủ Quả ng Nam, Tổ ng lý các việc quâ n dâ n trong ngoà i. Khi Duệ Tô ng và o Gia Định,
Đô ng cung đó ng lạ i ở Câ u 2;ê. Lũ Tô n Thấ t Tĩnh, Tô n Thấ t Chấ t và Nguyễn Cử u
Thậ n đều lệ thuộ c dướ i quyền. "Giặ c" Tâ y Sơn Nguyễn Vă n Nhạ c cù ng đồ đả ng
mưu lấ y Đô ng cung để mê hoặ c dâ n chú ng bèn chia quâ n 3 đạ o để chặ n đó n. Đô ng
cung sai mưu sĩ là Quý (khô ng nhớ họ ) đi bả o tướ ng giặ c ở miền thượ ng là thố ng
suấ t Diệu (khô ng nhớ họ ) rằ ng: "Tâ y Sơn dẫ u hung hă ng, nhưng ngoà i Bắ c có quâ n
Trịnh, trong Nam có đạ i binh Gia Định, đằ ng trướ c đằ ng sau đều bị đá nh, kéo dà i
tấ t khó giữ đượ c. Lũ ngươi nếu bè đả ng vớ i trộ m giặ c, sao bằ ng sớ m mưu trở lạ i
vớ i chính nghĩa, theo ta và o Nam, cù ng lo việc khô i phụ c, lưu cô ng danh trên sá ch
sử , há chẳ ng tố t hơn sao ?" Lũ Diệu nghe lờ i. Nă m ấ y mù a hạ , Đô ng cung từ miền
thượ ng đi ra, tră m họ theo đi rấ t nhiều. Tướ ng giặ c là lũ Tậ p Bình và Lý Tà i theo
đến Ô Gia đá nh và o phá đượ c quâ n lũ Diệu, bèn đó n đượ c Đô ng cung về phố Hộ i
An. Tậ p Bình muố n hạ i Đô ng cung, nhưng khuyên giả i mớ i thô i. Nguyễn Vă n Nhạ c
bèn đó n Đô ng cung về Quy Nhơn. Gặ p lú c Tố ng Phướ c Hiệp đem quâ n Gia Định,
đá nh lấy đượ c Phú Yên, tiếng quâ n lừ ng lẫ y, Hiệp sai ngườ i đó n Đô ng cung. Nhạ c
sợ quá dờ i Đô ng cung đến Hà Liêu, An Thá i để trá nh đi. Nhạ c mưu lậ p Đô ng cung
là m chú a để thu phụ c lò ng ngườ i, bèn đó n Đô ng cung về Bồ ng Giang, gả cho con gá i
là Thọ Hương, lạ i cho nhiều và ng, bạ c, gấ m, lụ a và huyện Bình Sơn là m củ a hồ i
mô n. Nhạ c nhiều lầ n xin Đô ng cung lên ngô i chú a; Đô ng cung khô ng nghe.
Nă m Bính Thâ n (1776) mù a xuâ n, Nhạ c dờ i Đô ng cung đến chù a Thậ p Thá p. Mù a
đô ng nă m ấ y, Đô ng cung muố n lén và o Gia Định, bèn mậ t bà n vớ i gia thầ n rằ ng:
"Tâ y Sơn định hã m ta để lừ a dâ n chú ng, nếu ta cứ cấ m cung ở đây thì tướ ng sĩ nă m
doanh và nghĩa binh cá c đạ o vì có ta, tấ t sợ vỡ cơ đồ khi muố n ném chuộ t, khô ng
dá m đá nh mạ nh, vậ y đến ngà y nà o mớ i diệt đượ c giặ c khô i phụ c đượ c nghiệp cũ ,
chi bằ ng quyết kế ra đi, vượ t khỏ i lung lạ c củ a nó , để mưu việc to". Gặ p lú c ấ y có
chủ thuyền tên là Tiến đỗ thuyền ở Hổ Cơ, Đô ng cung mậ t sai mưu sĩ là Quý hẹn
Tiến sử a soạ n thuyền để đợ i Đêm Quý Mã o, trờ i đang mưa to, Đô ng cung cù ng lũ
Trương Phướ c Đĩnh và mưu sĩ Quý độ i mưa ra đi. Ngườ i lá i thuyền nó i: "Ngượ c gió
thì sao?" Đô ng cung liền trả lờ i: "Cứ đi gió sẽ xuô i". Thuyền vừ a khở i hà nh, quả
nhiên gió thuậ n buồ m xuô i, thuyền đi nhanh như tên bắ n. Khi đến hả i phậ n Vị Nê
(Mũ i Né), gặ p Tô n Thấ t Xuâ n từ Quả ng Nam vừ a đi thuyền đến, bèn cù ng và o Nam,
yết kiến chú a ở hà nh tạ i.
Đến nơi, Đô ng cung xin vớ i Duệ Tô ng sai Tham mưu Nguyễn Doanh Khoá ng đi dụ
Lý Tà i. Trướ c đó Lý Tà i theo Tố ng Phướ c Hiệp và o cứ u. Phướ c Hiệp chết. Lý Tà i có
hiềm khích vớ i đả ng Đô ng Sơn(40), bèn giữ nú i Chiêu Thá i để là m phả n. Đến bâ y
giờ Khoá ng tớ i nơi, Lý Tà i sinh ngờ mớ i giữ Khoá ng ở lạ i trong quâ n, đem bộ hạ
đến Sà i Gò n, Duệ Tô ng phả i tạ m lá nh đi. Lý Tà i chia quâ n là m 4 đạ o, đá nh trố ng mà
tiến. Đô ng cung sai kéo cờ cho mọ i ngườ i thấ y cờ có 6 chữ Đô ng cung phụ ng mệnh
chiêu an". Quâ n Lý Tà i trô ng thấ y đều bỏ sú ng, sụ p lạ y, tiếng vang như sấ m. Lý Tà i
bèn đó n Đô ng cung đến Du Miệt (Dầ u Mộ t). Đô ng cung sai ngay Tả nộ i Nguyễn Mẫ n
đi Sà i Gò n thă m hỏ i quan quâ n, chiêu an dâ n chú ng. Ở lạ i đấy và i ngà y, cù ng quâ n
Lý Tà i trở về Sà i Gò n, sai Trương Phướ c Thậ n tâ u xin đó n Duệ Tô ng đến chù a Kim
Chương rồ i đem nhau đến mừ ng. Trong đạ i hộ i cá c quan vă n võ , Duệ Tô ng nhườ ng
ngô i cho Đô ng cung. Đô ng cung nghĩ rằ ng sự thế đã dồ n dậ p ép buộ c, bấ t đắ c dĩ
phả i vâ ng mệnh, xưng là m Tâ n Chính Vương, tô n Duệ Tô ng là m Thá i Thượ ng
Vương. Sau đó thă ng Tô n Thấ t Chấ t là m Thiếu phó , Tô n Thấ t Xuâ n là m Chưở ng cơ,
Lý Tà i là m Bả o giá Đạ i tướ ng quâ n, Tố ng Phướ c Đạ m là m Giá m quâ n, Trầ n Vă n Hò a
là m Nộ i điện Tham mưu.
Mù a hạ , thá ng 4, quâ n giặ c đá nh sô ng Tranh, chú a lui giữ Trà Luậ t. Chưở ng cơ
Tố ng Phướ c Thiêm đem thủ y quâ n đó n đến Ba Việt. Chú a sai Tố ng Phướ c Hự u giữ
Mỹ Lung, Tố ng Phướ c Thiêm giữ Hương Đô i, Tố ng Phướ c Hò a lĩnh chư quâ n bả o
vệ trậ n địa để chố ng giặ c.
Thă ng là chỗ rấ t thâ n trong họ nhà vua, đượ c yêu quý khô ng ai bằ ng. Vua thườ ng
gọ i là Quố c thú c mà khô ng gọ i tên. Mỗ i khi Thă ng và o chầ u riêng, vua bèn đứ ng dậ y
đó n mờ i ngồ i lên giườ ng ngự , Thă ng cố từ chố i mà rằ ng: "Trờ i khô ng có hai mặ t
trờ i, thầ n là Thă ng đâ u dá m ngồ i ở đấ y". Vua sai trả i chiếu xuố ng đấ t cù ng ngồ i.
Lú c Thă ng ra về, vua đứ ng dậ y tiễn. Vua đố ớ i Thă ng, lễ đã i cà ng hậ u, Thă ng giữ lễ
cà ng kính cẩ n, hơn 20 nă m vẫ n như mộ t ngà y. Quậ n cô ng Nguyễn Vă n Nhâ n và Lê
Vă n Duyệt thườ ng nó i vớ i nhau rằ ng: "Cá i â n hoà ng thượ ng ta thâ n vớ i ngườ i thâ n,
cá i đứ c Quố c thú c khiêm thậ t là khiêm xưa nay đều ít có ". Đến bấy giờ Thă ng mấ t,
vua thương xó t khô ng thô i, cho dù ng tang lễ thâ n vương theo chế độ , nghỉ chầ u 5
ngà y, đặ t tên thụ y là Hò a Tĩnh, chi tiền cho sắ m sử a việc tang, sai hoà ng tử Định
Viễn cô ng Bính đến dự tế. Vua lạ i bả o bộ Lễ rằ ng: "Quố c thú c kể ở nhà là bậ c kỳ
đứ c, kể ở nướ c là hạ ng nguyên thầ n, nay khô ng may mấ t đi, con cò n bé, đến khi lớ n
tuổ i sẽ bà n cho tậ p ấ m để nố i mã i việc tế tự ". Thă ng có 4 con trai: Thạ nh, Vĩnh,
Tườ ng, Thù y. Con trưở ng là Thạ nh chết sớ m. Con thứ hai là Vĩnh, thờ i Minh Mạ ng
đượ c tậ p phong Phướ c Long Hầ u. Tườ ng và Thù y đều đượ c ấ m thụ Trợ quố c lang.
TRUYỆ N CÁ C CÔ NG CHÚ A
Hoà ng nữ Ngọ c Bả o
Là chị Thá i Tổ Hoà ng Đế. Ngọ c Bả o lấ y Trịnh Kiểm. Thá i Tổ là m tướ ng có cô ng lao,
bị Kiểm đố kỵ thườ ng muố n mưu hạ i. Bà biết ý, ở giữ a điều đình cả hai bên. Lạ i
khéo léo khuyên xin vớ i vua Lê cho Thá i Tổ cầ m cờ tiết và o trấ n Thuậ n Hó a. Nă m
Bính Tuấ t (1586) mù a thu, cung chú a Trịnh chá y, bà mấ t, đượ c tặ ng phong Vương
thá i phi, thụ y là Từ Nghi. Con trai là Trịnh Tò ng(42).</span>
Hoà ng nữ Ngọ c Tú
Lấ y Trịnh Trá ng, bà đượ c lậ p là m Tâ y cung. Hi Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 10 (1622)
mậ t sai Nguyễn Cử u Kiều đem th32; và bả o ấ n và o Thuậ n Hó a dâ ng chú a. Lạ i sử a
chù a Long Ẩ n ở phườ ng Quả ng Bá , Thă ng Long, truy thuậ t cô ng đứ c Triệu Tổ và
Thá i Tổ và ghi và o bia đá (Minh Mạ ng nă m thứ 2 (1821) đổ i tên chù a là Sù ng  n.
Thiệu Trị nă m thứ nhấ t (1841) lạ i đổ i tên là chù a Hoà ng  n. Nă m Tâ n Mù i (1631)
mù a xuâ n, bà mấ t, đượ c tặ ng phong Chính phi, thụ y Từ Thuậ n. Con trai là Kiều, con
gá i là Ngọ c Trú c đượ c lậ p là m hoà ng hậ u Lê Thầ n Tô ng (1619-1642) .
<
Là chị cù ng mẹ vớ i hoà ng tử Kỳ, bà lấ y Trấ n Biên doanh Trấ n thủ Phó tướ ng
Nguyễn Phướ c Vinh. (Vinh là con trưở ng Mạ c Cả nh Huố ng, đượ c ban quố c tính, sau
lạ i cho đổ i là m họ Nguyễn Hữ u).
Hoà ng nữ Ngọ c Vạ n
Khô ng rõ sự tích.
(Hiển Tô ng có tấ t cả 146 ngườ i con. Nay trong hoà ng nữ phả chỉ có thể khả o đượ c
4 ngườ i. Cũ ng có ngườ i đú ng hà ng thứ mà khuyết tên).
Hoà ng nữ Ngọ c Sá ng
Mẹ là Tả Cung tầ n Trương thị. Ngọ c Thưở ng lấ y Cai độ i Nguyễn Phướ c Mao. (Có lẽ
do bấy giờ đượ c ban cho quố c tính). Nă m Canh Tuấ t (1790) mù a thu, bà mấ t, thọ
78 tuổ i.
Hoà ng nữ Ngọ c San
Sinh mẫ u là ai, khô ng rõ . Ngọ c San lấ y Chưở ng doanh Tố ng Phướ c Dĩnh. Nă m Đinh
Hợ i (1767, Lê Cả nh Hưng nă m 28) mù a hạ , bà mấ t, thọ 51 tuổ i.
ght="0">
Nă m Tâ n Hợ i (1791) bà ngầ m sai ngườ i thâ n tín, tên là Thiện, đá p thuyền buô n và o
Gia Định, đem việc ấ y tâ u lên. Lạ i đem tình hình giặ c độ ng tĩnh ra sao, binh lương
nhiều, ít thế nà o, tâ u bà y từ ng việc mộ t... Lạ i sao chép và tiến lên bà i Hoà i Nam
khú c do Hoà ng Quang, ngườ i xã Thai Dương đã soạ n để trình bà y cho biết lò ng dâ n
nhớ mong.
Đượ c thư củ a bà viết, Thế Tổ Cao Hoà ng Đế rấ t vui lò ng. Bấ y giờ vua sai ngườ i đi
lạ i trinh thá m tình hình giặ c đều bí mậ t cư trú ở nhà bà. Bà lạ i lấ y tiền củ a giao cho
Nguyễn Đứ c Tuấ n đi chiêu dụ nhữ ng lương dâ n trung nghĩa và bè đả ng ngụ y
khuyên họ quy thuậ n. Vua cũ ng sai ngườ i đưa mậ t dụ và giấ y đó ng dấ u để trố ng
giao cho bà tù y nghi viết chỉ sai, chỉ truyền để cấ p cho ngườ i là m việc. Sau, việc bị
lộ , Ngụ y Đô đố c Dậ t đem quâ n đến vây nhà . May sao nhữ ng ngườ i đượ c mậ t sai
bấ y giờ khô ng ở đó . Giặ c tìm mã i, khô ng bắ t đượ c ai bèn cướ p củ a cả i mà đi. Nă m
Đinh Tỵ (1797) Binh bộ giặ c là Nguyễn Đạ i Phá c, đến trấ n thà nh Quy Nhơn. Đứ c
Tuấ n có quen Phá c, biết Phá c ngầ m có ý quy phụ c. Đến lú c Phá c đi, bà sai Đứ c Tuấ n
đi tiễn, dọ c đườ ng, đọ c câ u "Thờ i hồ ! thờ i
Gia Long nă m thứ 8 (1809) bà mấ t, thọ 72 tuổ i. Vua sai quan lo liệu việc tang, tá ng
ở xã Dương Xuâ n, cấ p cho 5 ngườ i coi mả . Sau, lấ y chỗ ở là m đền thờ , mỗ i nă m, đến
ngà y giỗ , cấ p 30 quan tiền. Tự Đứ c nă m thứ 3 (1850) ấ m thụ cho chắ t là Â n là m Bá
hộ , coi việc thờ cú ng.
Hoà ng nữ Ngọ c Á i
Mẹ là Tả Cung tầ n Trương thị. Ngọ c Đạ o lấy Cai cơ Trương Phướ c Nhạ c (con thứ 3
Trương Phướ c Loan). Nă m Ấ t Mù i (1775) mù a xuâ n, bà và Trương Phướ c Nhạ c
cù ng và o Gia Định. Phướ c Nhạ c chết, bà theo Thế Tổ Cao Hoà ng Đế ra đả o Phú
Quố c, rồ i đi Hà Tiên, liệu lý việc quâ n nhu, bị giặ c bắ t đượ c bà bị hạ i, nă m mấ t 37
tuổ i.
Hoà ng nữ Ngọ c D
Hoà ng nữ Ngọ c Cơ
Khô ng rõ sự tích.
TRUYỆ N CÁ C BỀ TÔ I (I)
Nguyễn Ư Kỷ
Con là Đình Dũ ng (có thuyết nó i là họ Mai. Vì trướ c kia, khi nhà Mạ c cướ p ngô i vua
nhà Lê, Triệu Tổ khở i binh ở Ai Lao, Ư Kỷ nuô i Thá i Tổ , sợ nhà Mạ c biết nên đổ i họ
là họ Mai. Đình Dũ ng bèn noi theo họ Mai, đến lú c việc đã yên mớ i đổ i lạ i là họ
Nguyễn), theo cha và o Nam, nhiều lầ n lậ p chiến cô ng là m đến Thá i bả o Quậ n cô ng.
Nă m Tâ n Mù i (1571) mù a thu, thổ mụ c(48) Quả ng Nam là m loạ n, cướ p giết lẫ n
nhau. Đình Dũ ng dẹp yên rồ i lưu trấ n đấ t ấ y, thu thậ p vỗ về quầ n chú ng cò n lạ i,
tră m họ đượ c yên.
Con Đình Dũ ng là Đình Hù ng, tính ngườ i trầ m nghị, có tà i là m tướ ng, vì có quâ n
cô ng đượ c phong tướ c đến Quậ n cô ng. Hi Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 7 (1630), tướ ng
Trịnh là Nguyễn Tịch giữ châ u Nam Bố Chính, Đình Hù ng đem quâ n đá nh ú p, chém
Tịch tạ i trậ n, bèn giữ đấ t ấ y, lậ p là m doanh Bố Chính.
Tố ng Phướ c Trị
Tố ng Phướ c Trị là ngườ i Quý huyện Thanh Hó a. Ô ng là m quan vớ i nhà Lê, tớ i chứ c
Trấ n phủ Thuậ n Hó a, tướ c Luâ n quậ n cô ng. Là m chính sự khoan hò a, Trị đượ c
tră m họ yêu mến, gọ i là "Bả n xứ cô ng". Thá i Tổ Hoà ng Đế và o trấ n Thuậ n Hó a. Trị
dâ ng ngay sổ sá ch bả n đồ trong cõ i, rồ i cù ng Uy quố c cô ng Nguyễn Ư Kỷ và Thố ng
binh Mạ c Cả nh Huố ng đồ ng lò ng hết sứ c giú p nhà chú a. Lú c mớ i khai quố c, Trị
thự c có cô ng. Về sau Trị ố m chết tạ i chứ c. Gia Long nă m thứ 4 (1805) xét sự trạ ng
khai quố c cô ng thầ n xếp Trị và o hạ ng nhì, ấ m thụ cho mộ t ngườ i chá u là m Thứ độ i
trưở ng, đượ c thế tậ p, để coi việc thờ cú ng, cấ p 6 mẫ u tự điền, 3 ngườ i phu coi mả .
Phướ c Khang có 2 con trai: con trưở ng là Phướ c Vinh, là m đến Trung quâ n Đô đố c
phủ , lú c chết tặ ng Thiếu phó Quậ n cô ng. Con thứ hai là Phướ c Thạ ch, là m đến Tiền
quâ n Đô đố c phủ quậ n cô ng.
Con Phướ c Thạ ch là Phướ c Diệu, là m đến ngoạ i Chưở ng doanh kiêm Tà o vụ .
Con Phướ c Diệu là Phướ c Dĩnh, lấ y cô ng chú a Ngọ c San (con gá i thứ ba củ a Tú c
Tô ng) là m đến Phò mã Chưở ng doanh
Tố ng Phướ c Hiệp
Là dò ng dõ i Phướ c Trị. Đờ i Thế Tô ng Hoà ng Đế, Phướ c Hiệp là m Lưu thủ Long Hồ .
Duệ Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 6 (1771) mù a đô ng, quâ n Xiêm lấ n cướ p Hà Tiên.
Mạ c Thiên Tứ chạ y đi Trấ n Giang, cá o cấ p. Đượ c tin, Phướ c Hiệp đem thuyền quâ n
đến cứ u, đó ng ở Châ u Đố c. Quâ n Xiêm lui, và o lầ m sô ng Cù ng. Đạ i binh (củ a Phướ c
Hiệp) đuổ i theo, chém hơn 300 thủ cấ p. Quâ n Xiêm bỏ thuyền chạ y.
Giá p Ngọ , nă m thứ 9 (1774) "giặ c" Tâ y Sơn nổ i dậ y lấ n cướ p Bình Thuậ n. Điều
khiển Gia Định là Nguyễn Cử u Đà m sai Phướ c Hiệp cù ng Cai bạ Nguyễn Khoa
Thuyên lĩnh tướ ng sĩ 5 doanh và truyền hịch hiệu triệu nghĩa binh cá c đạ o, thủ y bộ
đều tiến, đá nh phá đượ c quâ n giặ c, lấy lạ i ba phủ Bình Thuậ n, Diên Khá nh và Bình
Khang, bèn đó ng quâ n ở Vâ n Phong tên cũ là Hò n Khó i(pos=0000931051 >49)
chố ng nhau vớ i giặ c.
Nă m ấ y (Giá p Ngọ 1774) mù a đô ng, quâ n Trịnh xâ m phạ m đô thà nh. Chú a chạ y
và o Quả ng Nam. Nă m Ấ t Mù i (1775) chú a và o Gia Định. Thuyền chú a đến cử a biển
Vâ n Phong (Hò n Khó i). Phướ c Hiệp cù ng Khoa Thuyên đến đó n, chú a lậ p tứ c cho
Phướ c Hiệp là m Tiết chế, Kinh quậ n cô ng, tiến đá nh lấ y lạ i Phú Yên. Nghe nó i Đô ng
cung bị "giặ c" Tâ y Sơn bắ t đượ c, Phướ c Hiệp sai Tri huyện Bạ ch Doã n Triều nó i vớ i
giặ c rằ ng: "Trả Đô ng cung cho ta ! Nếu khô ng thì đạ i binh đến đá nh khô ng có
đườ ng chạ y đâ u !" Thủ lĩnh giặ c là Nguyễn Vă n Nhạ c cả sợ , giả cách sa đến xin
hà ng; Phướ c Hiệp tin lờ i nên khô ng đề phò ng, bị Nguyễn Vă n Huệ tậ p kích, phả i lui
về giữ Vâ n Phong và sai bọ n Phướ c Hò a giữ Ô Loan. Tướ ng giặ c là Lý Tà i đem
thà nh Phú Yên đầ u hà ng Phướ c Hiệp. Chú a sai nhậ n cho Lý Tà i đầ u hà ng và theo
dướ i sự tiết chế củ a Phướ c Hiệp. Trướ c đâ y trậ n Phú Yên tướ ng giặ c là Nghĩa là m
tiên phong đá nh quâ n ta thua nặ ng. Phướ c Hiệp giậ n lắ m, sai Tô n Thấ t Chấ t dụ
Nghĩa xuố ng hà ng, rồ i giết đi cù ng vớ i đồ đả ng hơn 50 ngườ i.
Nă m Bính Thâ n (1776) Tâ y Sơn và o cướ p Gia Định. Phướ c Hiệp và o cứ u. Khi đến
nơi, yết kiến chú a ở hà nh tạ i. Mù a hạ nă m ấ y, Phướ c Hiệp mấ t.
Trướ c kia, Phướ c Hiệp trấ n thủ Long Hồ , có chính sự nhâ n huệ, dâ n yêu như cha
mẹ. Phướ c Hiệp là ngườ i khả ng khá i có tà i lượ c cho việc đá nh giặ c là nhiệm vụ củ a
mình. Đến lú c chết, ai nghe tin cũ ng thương khó c; ngườ i cà y thì nghỉ việc canh
nô ng, ngườ i buô n thì nghỉ chợ bú a đến 3 ngà y. Chú a thương tiếc mã i, truy tặ ng
Hữ u phủ Quố c cô ng, dự ng đền thờ ở Long Hồ , xuâ n thu tế lễ. Đền linh thiêng
hương khó i khô ng ngớ t. Gia Long nă m thứ 9 (1810) xếp thờ và o miếu Trung tiết
cô ng thầ n, đầ u đờ i Minh Mạ ng phong Trung đẳ ng thầ n, thờ ở miếu Hộ i đồ ng.
Tố ng Phướ c Hò a
Phướ c Hò a là em chú bá c (tụ ng đệ) Tố ng Phướ c Hiệp, trướ c là m Cai cơ, lệ thuộ c
quâ n Phướ c Hiệp. Trậ n Phú Yên thấ t lợ i, lui giữ Vâ n Phong, sai Phướ c Hò a đó ng
giữ Ô Loan. Nă m Bính Thâ n (1776) mù a xuâ n "giặ c" Tâ y Sơn và o cướ p Gia Tô ng
Hoà ng Đế đi Trấ n Biên. Phướ c Hiệp sai Phướ c Hò a đem quâ n bả n bộ và o cứ u, đó ng
đồ n ở Lượ ng Phụ , cù ng quâ n cá c đạ o hợ p sứ c đá nh giặ c. Quâ n giặ c bị vỡ , phả i chạ y
(quâ n ta lấ y lạ i đượ c Sà i Gò n), chú a thă ng Phướ c Hò a là m Chưở ng thủ y doanh
Quậ n cô ng. Gặ p lú c hà ng tướ ng Lý Tà i cù ng Đỗ Thanh Nhâ n khô ng hò a hợ p vớ i
nhau(50) chú a rấ t lấ y là m lo, bèn sai Phướ c Hò a cù ng Tố ng Phướ c Thiêm, đó ng
quâ n ở Long Hồ để phò ng bị. Nă m Đinh Dậ u (1777) mù a xuâ n "giặ c" Tâ y Sơn lạ i
và o lấ n cướ p. Sà i Gò n thấ t thủ , chú a chạ y đi Long Xuyên, chư tướ ng theo Tâ n Chính
Vương lui giữ Ba Việt (thuộ c Vĩnh Long), Phướ c Hò a quả n lĩnh chư quâ n, bà y trậ n
để chố ng giặ c. Bấy giờ chư tướ ng phầ n nhiều bị ố m chết. Mộ t mình Phướ c Hò a
chố ng giặ c nhiều lầ n, đá nh đều thắ ng, giặ c sợ . Sau đó giặ c lạ i đá nh Ba Việt. Phướ c
Hò a than rằ ng: "Chú a phả i lo thì bề tô i phả i chết, nghĩa khô ng nên trá nh". Bèn bả o
bộ thuộ c rằ ng: "Lũ ngươi tuổ i cò n trẻ, sứ c cò n khỏ e, nay nên tả n đi cá c nơi, để mưu
tính lậ p cô ng về sau. Ta đã cao tuổ i, khô ng là m gì đượ c, dù muố n số ng để bá o đá p
cũ ng chưa chắ c đượ c. Hơn nữ a, thâ n là m đạ i tướ ng, xã tắ c khô ng giữ đượ c, mà
nhẫ n nhụ c số ng thừ a, há nên thế ư ?" Nó i xong bèn tự tử ... Sau đó đượ c truy tặ ng
Chưở ng doanh Quậ n cô ng. Gia Long nă m thứ 9 (1810) , đượ c thờ và o miếu Trung
tiết cô ng thầ n.
Mạ c Cả nh Huố ng
Con là Đứ c Nghi là m quan đến Phó Đề đố c phủ Quy Ninh (sau đổ i là Quy Nhơn).
Đà o Duy Từ
Ngườ i huyện Ngọ c Sơn, Thanh Hó a. Duy Từ là con nhà xướ ng ca Đà o Tá Há n. Sinh
ra, Duy Từ thô ng minh lạ thườ ng, họ c rộ ng kinh sử , khéo là m vă n, đặ c biệt là tinh
thô ng về nhữ ng mô n tượ ng vĩ thuậ t số . Đi thi Hương nhà Lê, bị quan trườ ng cho là
con nhà xướ ng ca, khô ng cho và o thi. Duy Từ bự c tứ c quay về. Nghe nó i Thá i Tổ
Hoà ng Đế ta yêu dâ n, trọ ng sĩ, hà o kiệt quy phụ c, Duy Từ bèn quyết chí và o Nam. Đi
đến Vũ Xương, ở hơn mộ t thá ng, chưa ai biết là ngườ i thế nà o. Nghe nó i, Thá m lý
Quy Nơn là Trầ n Đứ c Hò a đượ c chú a tin yêu bèn và o Quy Nhơn nương nhờ mộ t
nhà phú ô ng ở xã Tù ng Châ u là m việc chă n trâ u. Mộ t hô m, phú ô ng đặ t tiệc hộ i họ p
cá c danh sĩ, uố ng rượ u ngâ m thơ để mua vui, Duy Từ chiều đến hố i trâ u về cầ m roi
đứ ng ở phía trướ c, cù ng cá c danh sĩ bà n luậ n cổ kim và kinh sử bá ch gia, điều gì
cũ ng thô ng hiểu, cả đá m tiệc đều kinh ngạ c. Phú ô ng lấ y là m l841;, nó i vớ i Đứ c Hò a.
Chú a nghe theo. Nă m Canh Ngọ (1630) mù a xuâ n, điều độ ng cả quâ n và dâ n đắp
lũ y Trườ ng Dụ c, hơn mộ t thá ng, lũ y hoà n thà nh. Duy Từ xin vớ i chú a là m mâ m
đồ ng hai lầ n đá y, để sắ c và o trong, trên đặ t và ng lụ a, phẩ m vậ t rồ i sai Tướ ng thầ n
là Lạ i Vă n Khuô ng là m sứ đi tạ â n. Duy Từ nghĩ sẵ n hơn 10 câ u vấ n đá p trao cho
Vă n Khuô ng đem đi. Vă n Khuô ng đến Đô ng Đô , Trịnh Trá ng triệu và o hỏ i, Vă n
Khuô ng biện bạ ch, khô ng chịu khuấ t, Trá ng sm, đã i Vă n Khuô ng rấ t hậ u. Vă n
Khuô ng bèn đem mâ m đồ ng đự ng và ng lụ a dâ ng lên, rồ i thừ a cơ đi ngay.
Mịch chẳ ng thấ y vết, Á i rụ ng mấ t tim, Sứ c tớ i thì đá nh). Trá ng đem cho cá c quan
xem, khô ng ai biết nghĩa là gì; duy Thiếu ú y Phù ng Khắ c Khoan biết, nồ i rằ ng: đây
là lố i nó i ẩ n ngữ về 4 chữ "dư bấ t thụ sắ c"(51) . Trá ng giậ n lắ m, sai ngườ i đuổ i theo
thì Vă n Khuô ng đã đi xa rồ i. Trá ng muố n phá t binh và o đá nh, gặ p Cao Bằ ng và Hả i
Dương có giặ c, bèn thô i.
Duy T khéo can ngă n trướ c khi có việc, chú a phầ n nhiều lự a ý nghe theo. Duy Từ
thườ ng khuyên chú a lậ p phép duyệt dâ n tuyển lính để chọ n đinh trá ng, là m phép
sá t hạ nh, thi cử để kén lấ y nhâ n tà i. Lạ i nhâ n mộ ng thấ y hù m xá m mọ c cá nh, dâ ng
Nguyễn Hữ u Tiến lên là m tướ ng (việc nà y nó i rõ ở truyện Nguyễn Hữ u Tiến).
Nă m Giá p Tuấ t (1634) mù a đô ng, Duy Từ ố m nặ ng, chú a thâ n đến thă m. Duy Từ
khó c, nó i: "Thầ n gặ p gỡ thá nh minh, chưa bá o đá p đượ c mộ t giọ t, mộ t tí gì, nay ố m
thế nà y cò n biết nó i gì nữ a". Sau đó Duy Từ mấ t, thọ 63 tuổ i. Chú a thương tiếc mã i,
tặ ng phong Hiệp mưu đồ ng đứ c cô ng thầ n, Đặ c tiến Trụ quố c Kim tử vinh lộ c đạ i
phu, Thá i thườ ng tự khanh Lộ c khê hầ u, thụ y Trung Lương, đưa về tá ng ở xã Tò ng
Châ u, sai lậ p đền thờ . Nhiều đờ i phong thêm là : Vỹ quố c gia mưu Phù vậ n Tá n trị
chi thầ n. Cho lấ y thuế đinh phườ ng Đồ ng Duệ huyện Bồ ng Sơn là m ngụ lộ c. Lạ i cho
10 ngườ i chá u gọ i bằ ng chú bá c đượ c miễn thuế thâ n để coi việc thờ cú ng. Gia
Long nă m thứ 4 (1805) xét sự trạ ng khai quố c cô ng thầ n, liệt Duy Từ và o thượ ng
đẳ ng, cho thờ phụ ở Thá i Miếu, cấ p 15 mẫ u tự điền, 6 ngườ i coi mả , ấ m thụ chá u
nộ i là Duy Tình là m Cai hợ p, đượ c thế tậ p Độ i trưở ng, coi giữ việc thờ cú ng. Nă m
Gia Long thứ 9 (1810) cho thờ và o miếu Khai quố c cô ng thầ n. Minh Mạ ng nă m thứ
12 (1831) truy tặ ng là Khai quố c cô ng thầ n, Đặ c tiến Vinh lộ c đạ i phu, Đô ng cá c đạ i
họ c sĩ, Thá i sư, phong Hoằ ng quố c cô ng. Nă m thứ 17 (1836) sai sở tạ i sử a sang
phầ n mộ .
Bù i Tá Há n
Ngườ i huyện Chương Nghĩa, tỉnh Quả ng Nghĩa. Tá Há n là m quan vớ i nhà Lê, từ
chứ c thổ quan, dầ n dầ n là m đến Bắ c quâ n Đô đố c phủ Chưở ng phủ sự , Tổ ng trấ n
Quả ng Nam Thiếu bả o, Trấ n quậ n cô ng. Tá Há n khi là m quan, chú trọ ng ban â n
huệ, vỗ yên quâ n và dâ n, tră m họ yêu mến gọ i là Trấ n Bắc cô ng.
Chá u xa đờ i là Phụ Phong , đầ u đờ i Thiệu Trị (1841) là m quan đến Bố chính Sơn
Tâ y, vì liên lụ y bị tộ i, phả i miễn quan, sau đượ c khở i phụ c, bổ là m Tri phủ Hoằ ng
An, rồ i chết.
Tr
Khô ng rõ quê quá n ở đâ u, ô ng cha là ai. Ban đầ u theo Thá i Tổ Hoà ng Đế và o Nam,
là m quan đến Phó tướ ng, tướ c Trà quậ n cô ng. Bấ y giờ có ngườ i huyện Khang Lộ c
là Mỹ Lương cù ng em là Vă n Lan và Nghĩa Sơn đều nhờ nộ p thó c mà đượ c là m
quan vớ i nhà Lê. Vua Lê cho Mỹ Lương là m Tham đố c, Vă n Lan và Nghĩa Sơn là m
Thự vệ. Chú a Trịnh bèn mậ t sai đi á nh ú p Vũ Xương. Tâ n Mù i, Thá i Tổ Hoà ng Đế
nă m thứ 14 (1571) mù a thu, Mỹ Lương sai Vă n Lan và Nghĩa Sơn đem quâ n mai
phụ c ở Minh Linh, cò n mình thì đem quâ n bí mậ t đi đườ ng nú i, đến Cầ u Ngó i (Ngõ a
Kiều) huyện Hả i Lă ng đặ t phụ c binh, hẹn ngà y giá p cô ng. Chú a biết mưu ấ y, bèn sai
Trà đá nh Nghĩa Sơn và Vă n Lan, cò n chú a thâ n đi đá nh Mỹ Lương ở Cầ u Ngó i, đố t
hết trạ i giặ c. Mỹ Lương trố n chạ y, chú a đuổ i theo bắ t đượ c, chém đi. Trà đến
Phướ c Thị, đá nh nhau vớ i giặ c bị Nghĩa Sơn bắ n chết. Vợ Trà là Trầ n thị ngườ i
Diêm Trườ ng, đượ c tin sụ c sô i că m giậ n, liền ă n mặ c giả trai, đi đố c chiến,
bắ n chết Nghĩa Sơn ở trướ c trậ n. Vă n Lan trố n chạ y, bọ n giặ c bị dẹp tan cả . Chú a
đem quâ n về, bà n xét cô ng lao phong Trầ n thị là m Quậ n phu nhâ n. Gia Long nă m
thứ 4 (1805) xét sự trạ ng cô ng thầ n khai quố c liệt và o hạ ng nhì, cho ấ m thụ mộ t
ngườ i trong dò ng dõ i đượ c thế tậ p là m Thứ Độ i trưở ng, coi việc thờ cú ng phu
nhâ n. Lạ i cấ p cho 6 mẫ u tự điền và 3 ngườ i coi mả .
Lương Vă n Chính
Ngườ i huyện Tuy Hò tỉnh Phú Yên. Tiên tổ là ngườ i Bắ c Hà . Lú c trướ c Vă n Chính
là m quan nhà Lê, đến chứ c Thiên vũ vệ Đô chỉ huy sứ . Đầ u nă m Mậ u Ngọ (1558)
theo Thá i Tổ và o Nam. Khoả ng nă m Mậ u Dầ n (1578) ngườ i Chiêm Thà nh đến lấ n
cướ p, Chính tiến quâ n đến sô ng Đà Diễn, đá nh lấ y đượ c Hồ Thà nh. Vì có quâ n cô ng,
thă ng Đặ c tiến Phụ quố c Thượ ng tướ ng quâ n, tướ c Phù Nghĩa hầ u. Lạ i thă ng là m
quan trấ n An Biên huyện Tuy Viễn. Vă n Chính chiêu tậ p dâ n Xiêm khai khẩ n đấ t
hoang ở Cù Mô ng, Bà Đà i (tứ c Xuâ n Đà i ngà y nay). Cho dâ n di cư đến đấ y. Lạ i mộ
dâ n khai hoang ở trên dướ i triền sô ng Đà Diễn(52) chia lậ p thô n ấ p, ngà y dầ n đô ng
đú c. Lú c Vă n Chính chết, đượ c tặ ng phong Tiền trấ n doanh Tham tướ ng Phù quậ n
cô ng, Bả o quố c chi thầ n. Tỏ ra hiển linh, đượ c ngườ i là ng lậ p đền thờ . ThN71; Tô ng
nă m thứ 2 Canh Thâ n (1740) truy tặ ng Bả o quố c Hộ dâ n Hự u thuậ n chi thầ n. Nă m
thứ 6 Giá p Tý (1744), tặ ng thêm là Bả o quố c Hộ dâ n Hự u thuậ n Phong cô ng Tĩnh
tiết chi thầ n. Minh Mạ ng nă m thứ 3 (1822) sắ c phong Trá ng du Cung vũ Linh ứ ng
Thượ ng đẳ ng thầ n. Con chá u có hai ngườ i đượ c phong tướ c hầ u. Vă n Chính là cô ng
thầ n hồ i quố c sơ, khai khẩ n đấ t đai, mở rộ ng biên giớ i, cô ng lao thậ t rõ rệt. Nhưng
vì sự tích đượ c biết tớ i muộ n, cho nên sá ch Thự c lụ c bỏ só t tên ô ng.
Nguyễn Hữ u Tiến
Tổ tiên là ngườ i huyện Ngọ c Sơn tỉnh Thanh Hó a, sau di cư và o huyện Bồ ng Sơn
tỉnh Bình Định. Tiến trang mạ o khô i ngô , vai như vai hổ , lò ng bà n châ n có 7 nố t
ruồ i. Lú c bé mồ cô i, nhà nghèo phả i đ là m thuê cho ngườ i ta. Tính Tiến trầ m lặ ng,
cương quyết, có chí lớ n, thườ ng nó i: "Ta nếu gặ p thờ i thì sẽ dẹp yên loạ n lạ c để tỏ
tà i nă ng". Ai cũ ng tứ c cườ i, cho là si. Hy Tô ng Hoà ng Đế nă m 18 Tâ n Mù i (1631),
Nộ i tá n Đà o Duy Từ , mộ t hô m nằ m mộ ng thấ y con hổ đen từ phương nam và o. Duy
Từ sai quâ n vâ y bắ t. Hổ thình lình mọ c 2 cá nh bay lên trờ i mú a. Thứ c dậ y, Duy Từ
mặ c á o chỉnh tề, ngồ i đợ i giâ y lá t, Hữ u Tiến từ ngoà i và o, mặ c á o thâ m, cầ m quạ t
lô ng, đứ ng ở dướ i thềm. Duy Từ thấ y ngườ i diện mạ o vẻ khá c thườ ng, hỏ i thì nó i
họ tên, hỏ i nă m sinh thì nó i sinh nă m Nhâ m Dầ n. Duy Từ mừ ng thầ m vì ă n khớ p
vớ i câ u chuyện trong giấ c mộ ng, lưu ở lạ i nó i chuyện. Duy Từ quý trọ ng lắ m, gả con
gá i cho Tiến. Rồ i tiến cử lên chú a. Chú a cho Tiến là m Độ i trưở ng đố c suấ t thuyền
Địch cầ n Nộ i thủ y. Tiến thườ ng ban đêm diễn tậ p quâ n độ i. Có ngườ i trá i lệnh, Tiến
chém ngay Kỳ trưở ng để rao trong quâ n. Do đấ y toà n quâ n đều sợ . Duy Từ nghe
tin, sợ hã i vộ i và o chầ u chú a. Bấ y giờ chú a đương ngồ i xem sá ch, bèn cù ng Duy Từ
bà n binh phá p xưa nay. Duy Từ nó i đến chuyện Tô n Vũ tử dạ y trậ n phá p cho cung
nhâ n, chém ngườ i á i cơ củ a Ngô vương. Chú a khen Ngô vương thì quyết đoá n, Tô n
Vũ thì nghiêm nghị cho nên là m thà nh bá nghiệp. Duy Từ nhâ n đó đem việc Hữ u
Tiến chém Kỳ trưở ng, xin nhậ n tộ i. Chú a nó i: "Quâ n khô ng tề chỉnh thì giết đi, có
tộ i gì đâ u?". Sau đó thă ng Tiến là m Cai độ i. Từ đấy sĩ tố t ai cũ ng sợ và phụ c Tiến,
dầ n thă ng đến Cai cơ, lạ i là m Chưở ng cơ. Thầ n Tô ng Hoà ng Đế, nă m thứ 13 Mậ u Tý
(1648) mù a xuâ n theo Thế tử (tứ c là Thá i Tô ng Hoà ng Đê) chố ng quâ n Trịnh ở cử a
biển Nhậ t Lệ, Hữ u Tiến trướ c đem hơn 100 voi khỏ e, đá nh ú p doanh trạ i giặ c. Kế
đó , đạ i quâ n kéo đến, đạ i phá quâ n giặ c, chém đượ c hơn 10 tướ ng giặ c, bắ t số ng
đượ c giặ c rấ t nhiều, đuổ i đến sô ng Gianh rồ i mớ i về. Hữ u Tiến lĩnh 3000 quâ n
đó ng đồ n ở Vũ Xá để phò ng thủ gọ i là đạ o Lưu Đồ n (tụ c gọ i là doanh Mườ i).
Hậ u thi đứ c hó a chiêu.
Dịch nghĩa:
Cà nh lá có thể rụ ng,
Chú a mừ ng nó i: "Hữ u Tiến và Hữ u Dậ t thự c là hổ tướ ng". Sai sứ đến quâ n thứ khao
thưở ng ủ y lạ o quâ n sĩ, và sai đó ng quâ n lạ i, chiêu tậ p vỗ về nhâ n dâ n, để đợ i cơ hộ i.
Bấ y giờ Hữ u Tiến mớ i lậ p bà i chiêu an để thu phụ c nhâ n tâ m. Tướ ng Trịnh, lũ Đặ ng
Minh Tắ c, đến cử a quâ n xin hà ng. Hữ u Tiến chia cho lệ thuộ c và o các doanh trạ i.
Lạ i là m sổ biên số tướ ng sĩ mớ i hà ng dâ ng lên. Hữ u Dậ t viết thư dụ hà ng Trịnh
Đà o, Đà o khô ng theo, Hữ u Dậ t bèn tung phả n giá n qua bên Trịnh. Trịnh Trá ng ngờ
Đà o, sai bắ t về, Đà o chết ở dọ c đườ ng. Việc nà y đến tai chú a. Chú a hà i lò ng lắ m,
thưở ng Hữ u Tiến 30 lạ ng và ng, 100 lạ ng bạ c, thưở ng Hữ u Dậ t 30 lạ ng và ng, 80
lạ ng bạ c. Lạ i thưở ng thêm Hữ u Dậ t mộ t á o gấ m, mộ t thanh gươm bá u. Cò n chư
tướ ng đều đượ c thưở ng có tầ ng bậ c khá c nhau.
Mù a thu nă m ấy, Hữ u Tiến sai chư tướ ng chia đườ ng cù ng tiến. Tướ ng Trịnh sợ oai
phong đều cù ng trố n. Trịnh Trương lui giữ Yên Trườ ng, quâ n ta thừ a thắ ng tiến
đến xã Bâ n Xá (thuộ c huyện Thiên Lộ c). Bắ c Hà do đấy ná o độ ng cả lên. Trịnh
Trá ng đượ c tin, lạ i sai Trịnh Ninh và Đà o Quang Nhiêu đem quâ n đi cứ u Trịnh
Trương. Quâ n ta lui đó ng Hà Trung. Tướ ng Trịnh bèn bắ t đem về nhữ ng dâ n ở Kỳ
Hoa đã hà ng ta. Hữ u Tiến sai quâ n ra Thạ ch Hà đó n đá nh, cả phá đượ c giặ c. Lạ i
đá nh đồ n Tiếp Vũ , tướ ng Trịnh là Thâ n Vă n Quả ng thua chạ y. Quâ n ta thừ a thắ ng,
tiến đến sô ng Tam Chế, quâ n Trịnh hợ p sứ c l, chố ng đá nh. Hữ u Dậ t đá nh tướ ng
Trịnh là Vă n Thiêm ở Mẫ n Trườ ng, phá tan đượ c. Hữ u Tiến tiến quâ n đến đó ng
Minh Lương. Tướ ng Trịnh là Quang Nhiêu chạ y về giữ Yên Trườ ng. Lũ Hữ u Tiến
thu quâ n, đó ng đồ n ở Vâ n Cá t, bá o tin thắ ng trậ n. Chú a sai sứ mang và ng lụ a
thưở ng lạ o tướ ng sĩ.
Hữ u Tiến lạ i sai cá c tướ ng là lũ Hoằ ng Vinh đem thủ y quâ n đá nh tướ ng Trịnh là
Trịnh Xuâ n ở cử a biển Nam Giớ i. Hữ u Dậ t dố c quâ n ồ ạ t bắ t đượ c Trịnh Xuâ n và 30
chiến thuyền. Quâ n Trịnh trố n chạ y, lui giữ bến Điềm. Hữ u Tiến đượ c tin Trịnh
Ninh đem quâ n cứ u đã đến xã Tam Lộ ng, bèn bà y thủ y trậ n ở cá c bến ngã ba
Triều(57), Phù Thạ ch(58). Hữ u Dậ t sai Hoằ ng Tín lĩnh chiến thuyền phụ c ở Minh
Lương, cò n mình thì đem bộ binh phụ c ở xã Nam Ngạ n để chẹn đườ ng về củ a Ninh.
Ninh nghe nó i Hữ u Dậ t đó ng quâ n ở xã Nam Ngạ n, cườ i rằ ng: "Hắ n đem cô quâ n
và o sâ u, khá c nà o cá và o lướ i, đủ để cho ta cù ng chư tướ ng ă n gỏ i đấy thô i!" Ninh
bèn chia quâ n cấ p tố c ra xã Nam Ngạ n, đá nh nhau vớ i quâ n ta, nhưng đều bị phụ c
binh ta giết hết. Ninh dẫ n quâ n qua Bình Hồ , lạ i bị thủ y binh củ a Hoằ ng Tín chẹn
đá nh. Quâ n Ninh chết rấ t nhiều. Ninh bèn lui đó ng ở Yên Trườ ng. Sau đó , Trịnh Tạ c
ngờ Ninh, triệu về, cho Trịnh Că n ra thay. Quâ n ta cũ ng lui đó ng Hà Trung, giữ đấ t
7 huyện thuộ c Nghệ An, lấ y sô ng Lam là m ranh giớ i chố ng quâ n Trịnh. Hữ u Tiến
vâ ng mệnh chiêu dụ vỗ về nhâ n dâ n, lạ i tuyển ngườ i tà i họ c chia đặ t quan chứ c, xét
sổ đinh, thu lương và lấy lính. Bấ y giờ dâ n vui là m việc, quâ n có lương thừ a, quâ n
ta đá nh nhiều lầ n đều thắ ng. Trịnh Că n muố n bỏ Nghệ An.
Nă m Bính Ngọ (1666) mù a thu, Hữ u Tiến ố m nặ ng, triệu cá c thuộ c tướ ng đến, bả o
rằ ng: "Ta chịu ơn to củ a nướ c, chưa trừ đượ c họ Trịnh, lò ng că m giậ n cò n để lạ i
đấ y !" Nó i xong rồ i chết, thọ 65 tuổ i.
Hiển Tô ng Hoà ng Đế, nă m thứ 3 Giá p Tuấ t (1694) truy cấ p 18 mẫ u tự điền, 100
ngườ i dâ n để thờ cú ng. Gia Long nă m thứ 4 (1805) xét sự trạ ng khai quố c cô ng
thầ n, liệt và o thượ ng đẳ ng, cho thờ phụ và o Thá i Miếu, ấ m thụ mộ t ngườ i dò ng dõ i
là m Độ i trưở ng, đượ c thế tậ p coi việc thờ cú ng, lạ i cấ p 15 mẫ u tự điền, 6 ngườ i coi
mả . Nă m thứ 9 (1810) cho thờ và o miếu Khai quố c cô ng thầ n. Minh Mạ ng nă m thứ
12 (1831) truy tặ ng Khai quố c cô ng thầ n, Đặ c tiến Trá ng vũ tướ ng quâ n, Tả quâ n
đô thố ng Phủ chưở ng sự , Thá i bả o, thụ y Tương Vũ , phong Anh quố c cô ng, thờ phụ
và o Thá i Miếu như cũ . Nă m thứ 16 (1835) lạ i cho thờ và o Vũ Miếu. Nă m thứ 17
(1836) sai sở tạ i sử a phầ n mộ .
Con là Hữ u Uy, ban đầ u đượ c trao chứ c Cai cơ. Nă m Tâ n Mù i (1691) mù a xuâ n,
Hiển Tô ng nố i ngô i chú a, cho thă ng Chưở ng cơ rồ i cho lên là m Trấ n thủ doanh
Bình Khang. Giá p Tuấ t (1694) mù a xuâ n, Thuậ n Thà nh gâ y biến vâ y Phan Rang,
Kiêm Thắ ng cá o cấ p. Hữ u Uy dẫ n quâ n đến cứ u, giả i đượ c vây. Rồ i Hữ u Uy ố m chết.
Con là Hữ u Phụ ng là m đến Nộ i Độ i trưở ng.
Nguyễn Hữ u Dậ t
Ngườ i Quý huyện tỉnh Thanh Hó a. Dậ t là con Tham tướ ng Chưở ng cơ Nguyễn
Triều Vă n. Lú c mớ i lên vài tuổ i, cù ng đà n trẻ chơi đù a, Dậ t thườ ng bà y trậ n, đặ t
quâ n kỳ và quâ n chính, tự nhậ n mình là đạ i tướ ng. Triều Vă n mừ ng thầ m cho rằ ng
con mình ngà y sau tấ t thà nh ngườ i tà i, bèn cho đi họ c. Gặ p đượ c dị nhâ n, dạ y cho
binh phá p, bở i thế Dậ t họ c cà ng tiến.
Sau đó , Khắ c Loá t sai ngườ i đưa lễ, nộ p lò ng thà nh. Thầ n Tô ng Hoà ng Đế, nă m thứ
5 Canh Thìn (1640) mù a thu, Khắ c Loá t lạ i là m phả n, quay về vớ i Trịnh, quấ y rố i
châ u Nam Bố Chính. Chú a triệu quầ n thầ n bà n luậ n. Hữ u Dậ t bà n rằ ng: "Loá t là kẻ
tiểu nhâ n phả n trắ c, Trá ng dẫ u dung nó , nhưng trong lò ng thự c vẫ n ngờ . Xin là m
thư phả n giá n đưa cho bên Trịnh nó i rằ ng Khắ c Loá t hẹn nhau vớ i ta giả cá ch bấ t
hò a, quâ n ta đá nh thì giả vờ thua, chạ y về, dụ Trá ng đến thì giết đi. Là m vậ y là cố t
để cho Trá ng tứ c giậ n. Ta nhâ n sai quâ n ngầ m sang sô ng Gianh đó n Khắ c Loá t đến
hộ i họ p nhắ c lạ i giao ướ c trướ c, rồ i nhâ n lú c khô ng phò ng bị, ta liền đá nh ú p. Khắ c
Loá t khô ng bị ta bắ t, thì cũ ng bị chú a Trịnh giết thô i". Chú a dù ng mưu ấ y. Trá ng
đượ c thư, quả nhiên cả giậ n, lậ p tứ c sai thá i ú y Trịnh Kiều đem 5000 quâ n và o
châ u Bắc Bố Chính để bắ t Khắ c Loá t. Đến nơi thì Khắ c Loá t bị tướ ng ta là Nguyễn
Cử u Kiều và Trương Phướ c Chấ n đá nh cho chạ y rồ i. Kiều cho là Khắ c Loá t giả cá ch
thua, bèn bắ t Khắ c Loá t giả i đến cho Trá ng giết đi. Quâ n ta lấ y đượ c đấ t châ u Bắ c
Bố Chính. Chú a khao thưở ng tướ ng sĩ, thă ng Hữ u Dậ t là m Giá m chiến.
Tin thắ ng trậ n bá o lên, chú a cho đem và ng lụ a thưở ng cá c tướ ng sĩ theo thứ bậ c.
Mù a thu nă m ấy, Trịnh Că n cho rằ ng Thắ ng Nham (khô ng nhớ họ ) đó ng quâ n ở lũ y
Đồ ng Hô n, đấ t ấ y thấ p và ẩ m ướ t, sợ đến mù a thu lụ t, sẽ bị quâ n ta đá nh ú p, bèn
muố n dờ i đồ n đến châ n nú i Thổ Sơn. Ngườ i do thá m đem việc ấ y về bá o. Hữ u Dậ t
bả o Hữ u Tiến rằ ng: "Tô i đã tính đến ngà y 25 là ngà y Quý Hợ i, sao Chẩ n gặ p (triều
độ ) mặ t trờ i, tấ t có gió dữ mưa to, lạ i có khí đen suố t đến phầ n sao Đẩ u. Mâ y trắ ng
che và o chấ n cung, phương bắc tứ c có nướ c lụ t. Ta nhâ n dịp nà y, đá nh ú p đồ n củ a
Thắ ng Nham, tấ t là phá đượ c". Đến ngà y ấ y, quả nhiên mưa to gió dữ , nướ c sô ng
lên to. Hữ u Dậ t đem quâ n thẳ ng đến Đồ ng Hô n, nhâ n nướ c lụ t, đá nh phá đồ n ấ y.
Thắ ng Nham lên Thổ Sơn, trố n chạ y. Quâ n ta thu đượ c khí giớ i rấ t nhiều. Hữ u Tiến
mừ ng bả o Hữ u Dậ t rằ ng: "Ô ng tính giỏ i như thầ n vậ y". Hữ u Dậ t nó i: "Nhờ oai linh
chú a thượ ng và sứ c cá c tướ ng, tô i có giỏ i gì đâ u".
Nă m Mậ u Tuấ t (1658) mù a thu, Hữ u Tiến mưu quấ y rố i quâ n Trịnh, bèn chia quâ n
lầ n lượ t ra địa phương cá c huyện Đô ng Thà nh, Hưng Nguyên và Nam Đà n. Quâ n
Trịnh cũ ng phò ng thủ nghiêm cẩ n. Quâ n ta lạ i trở về, cầ m cự vớ i giặ c. Chợ t có tên
Phạ m Phượ ng đến quâ n thứ Hữ u Tiến nó i: "Nă m ngoá i Thắ ng Nham giữ Đồ ng Hô n,
bị Đố c chiến(62) đá nh thua, Trịnh Că n sai Tham đố c là Vâ n Khả (khô ng nhớ họ )
lĩnh quâ n thay giữ . Vâ n Khả là ngườ i tham bạ o, có thể tìm cá ch đá nh lấ y đượ c".
Hữ u Tiến sai ngườ i nó i vớ i Hữ u Dậ t. Hữ u Dậ t mừ ng nó i: "Trướ c đây ta xem thiên
vă n thấ y mâ y đen che và o sao Khô i, ngà y 11, Mậ u Thìn, là ngà y lụ c long, tấ t có mưa
lụ t. Nhâ n lú c nướ c lên to mà đá nh, tấ t là thắ ng hắ n". Hữ u Dậ t bèn hẹn Hữ u Tiến hộ i
quâ n để đá nh. Đến ngà y ấ y, quả nhiên mưa to, Hữ u Dậ t trướ c đem thuyền quâ n ậ p
đến lũ y Đồ ng Hô n, đá nh gấ p. Quâ n Trịnh kinh sợ tan vỡ . Vâ n Khả trố n về Yên
Trườ ng. Hữ u Tiến dẫ n quâ n về.
Nă m Canh Tý (1660) mù a thu, quâ n ta đó ng lâ u, nhớ nhà , muố n về, nhữ ng lính mớ i
đầ u hà ng ở Nghệ An phầ n nhiều cũ ng trố n đi. Hữ u Dậ t thì có ý hă ng há i tiến quâ n.
Phầ n đô ng chư tướ ng khô ng đồ ng ý; Hữ u Tiến thấ y Hữ u Dậ t nhiều lầ n đượ c khen
thưở ng, cũ ng đem lò ng ghen ghét. Phù Dương nó i vớ i Hữ u Tiến rằ ng: "Hữ u Dậ t là
bạ ch diện thư sinh, chỉ nó i khéo đượ c chú a tin dù ng, tự sá nh mình vớ i Quả n,
Nhạ c(63), lũ ta thườ ng thẹn cho anh ta. Lạ i nghe nó i sứ giả củ a Trịnh bí mậ t đi lạ i,
sợ có ý gì khá c chă ng!". Hữ u Tiến giả cá ch mắ ng á t đi rằ ng: "Ô ng nó i thế quá lắ m;
đạ o quâ n thầ n lấ y trung á i là m đầ u, trung để thờ chú a, á i để kết bạ n, há nên nghi kỵ
lẫ n nhau để phụ lò ng triều đình ủ y thá c hay sao?" Sau đó , Hữ u Tiến cho quâ n sang
sô ng Tam Chế đá nh giặ c, ít lợ i, bèn rú t quâ n về. Hữ u Tiến lú c cù ng chư tướ ng hộ i
quâ n, khô ng cho Hữ u Dậ t biết. Đến lú c Hữ u Dậ t nghe có tiếng sú ng mớ i cho ngườ i
đến hỏ i. Hữ u Tiến sai Hữ u Dậ t tiến đá nh lũ y Đồ ng Hô n. Hữ u Dậ t lậ p tứ c đem quâ n
bả n bộ đá nh đuổ i quâ n Trịnh. Quâ n Trịnh lạ i quanh ra đằ ng sau nú i, đá nh thình
lình. Gặ p đạ i binh củ a Hữ u Tiến tiếp đến. Quâ n Trịnh khô ng dá m chố ng đá nh, chạ y
về Yên Trườ ng. Hữ u Tiến bèn dố c quâ n kíp sang sô ng Lam đó ng đồ n. Hữ u Dậ t
đó ng quâ n từ Đồ ng Hô n đến xã Lã ng Khê, để là m thế ỷ giố c. Lạ i cho quâ n là m cầ u
phao qua sô ng sang bờ nam. Thanh thế quâ n cà ng lừ ng lẫ y. Trịnh Că n nghe tin, sợ
quá , muố n bỏ Nghệ An, lui giữ Thanh Hó a, nhưng cá c thuộ c tướ ng ngă n trở , bèn
thô i.
Hữ u Tiến và Hữ u Dậ t đem tin thắ ng trậ n bá o lên và xin thêm quâ n để mưu đá nh
lấ y Nghệ An. Chú a cho rằ ng đương lú c giao thờ i thu đô ng, mưa to gió rét ướ t. Mà
chỗ quâ n đó ng lạ i khô ng có địa thế hiểm trở có thể dự a đượ c, thêm và o đó nhâ n
tình đó ng lâ u, nhớ nhà , nay muố n dụ ng binh, thự c chưa lợ i. Chú a bèn hạ lệnh cho
quâ n rú t về lũ y cũ , đợ i mù a xuâ n sang nă m sẽ lạ i đem quâ n đi đá nh. Hữ u Dậ t cù ng
Hữ u Tiến bấ y giờ mớ i sai dỡ cầ u phao, rú t quâ n về bờ nam để cố thủ .
Nguyễn Hữ u Hà o
Nguyễn Hữ u Cả nh
Nă m Canh Thìn (1700) mù a xuâ n, Hữ u Cả nh đến nơi, bày trậ n ở Ngư Khê, đắ p lũ y
Hoa Phong, sai ngườ i xem tình hình hư thự c, chia đườ ng tiến đá nh đến sá t lũ y Bích
Đô i (Gò Biếc) phủ Nam Vang. Nặ c Thu đó n đá nh. Hữ u Cả nh mặ c nhung phụ c, đứ ng
đầ u thuyền, đố c thú c chư quâ n đá nh gấ p. Nặ c Thu sợ chạ y. Nặ c Yêm ra hà ng. Hữ u
Cả nh và o thà nh vỗ yên nhâ n dâ n. Nặ c Thu cũ ng đến quâ n dinh xin hà ng, Hữ u Cả nh
vớ i lò ng thà nh thự c vỗ về yên ủ i. Cho Nặ c Thu về thà nh La Bích chiêu tậ p lưu dâ n.
Cò n mình dẫ n quâ n về bã i Sao Mộ c, bá o tin thắ ng trậ n. Gặ p mưa to gió lớ n, nú i Lao
Đô i ở bã i trướ c bị sạ t lở . Hữ u Cả nh đêm mộ ng thấ y thầ n bả o rằ ng: "Tướ ng quâ n
nên về sớ m, chứ ở lâ u đây khô ng lợ i". Hữ u Cả nh cườ i, rằ ng: "Mệnh ta ở trờ i, há ở
đấ t nà y đâ u". Thứ c dậ y thâ n thể nhọ c mệt. Nhâ n ngà y tết Đoan ngọ , Hữ u Cả nh
gượ ng dậ y, cù ng uố ng rượ u mua vui vớ i cá c tướ ng tá , thình lình thổ ra mộ t cụ c
má u, Hữ u Cả nh lấ y tay á o che đi, khô ng để cho mọ i ngườ i biết để yên lò ng quâ n.
Đến lú c ố m nặ ng, Hữ u Cả nh than rằ ng: "Ta muố n nố i chí ô ng cha, hết sứ c bá o nướ c,
ngặ t vì số trờ i có hạ n. Chứ há phả i sứ c ngườ i là m đượ c đâ u?" Bèn dẫ n quâ n về, đến
Rạ ch Gầ m(66) Hữ u Cả nh chết, thọ 51 tuổ i.
Đượ c tin, chú a rấ t thương tiếc. Tặ ng phong Hiệp tá n cô ng thầ n, Đặ c tiến Chưở ng
doanh, thụ y Trung Cầ n, ban cho và ng, lụ a để hậ u tá ng. Ngườ i Châ n Lạ p lậ p đền thờ
ở đầ u bã i Nam Vang. Ở chỗ ô ng đó ng quâ n, và ở sô ng đạ o Đô ng Khẩ u là chỗ ô ng đi
qua, nhâ n dâ n nhớ cô ng đứ c, đều lậ p đền thờ . Ngườ i ta gọ i bã i ấy là bã i ô ng Lễ,
sô ng ấ y là sô ng ô ng Lễ vì tướ c phong củ a Hữ u Cả nh là Lễ Tà i hầ u. Bã i Đạ i Phố Trấ n
Biên là nơi đỗ quan tà i, nhâ n dâ n cũ ng lậ p đền thờ . Chỗ nà o cũ ng linh ứ ng. Tú c
Tô ng Hoà ng Đế nă m 12 (1736) truy cấ p 50 ngườ i là m dâ n ngụ lộ c. Đầ u thờ i trung
hưng, truy cấ p 5 ngườ i giữ đền thờ , mỗ i nă m chi tiền kho 10 quan để cung cấ p việc
thờ cú ng. Gia Long nă m thứ 4 (1805) truy tặ ng Tuyên lự c cô ng thầ n, Đặ c tiến Phụ
quố c thượ ng tướ ng quâ n, Cẩ m y vệ đô chỉ huy sứ ty, Đô chỉ huy sứ Đô đố c phủ
Chưở ng phủ sự Phó tướ ng chưở ng cơ, liệt và o thượ ng đẳ ng cô ng thầ n, thờ phụ và o
Thá i Miếu, ấ m thụ mộ t chá u là m Độ i trưở ng đượ c thế tậ p để coi việc thờ cú ng, cấ p
cho 15 mẫ u tự điền, 6 ngườ i coi mả . Nă m thứ 9 (1810) đượ c thờ và o miếu Khai
quố c cô ng thầ n. Minh Mạ ng nă m thứ 12 (1831) truy tặ ng là Khai quố c cô ng thầ n
Trá ng vũ tướ ng quâ n, Thầ n cơ doanh Đô thố ng, đổ i thụ y là Trá ng Hoà n, tướ c Vĩnh
An hầ u, thờ phụ và o Thá i Miếu như cũ .
Nguyễn Hữ u Bá c
>
QUYỂ N 4
TRUYỆ N CÁ C BỀ TÔ I (II)
Nguyễn Cử u Kiều
Ngườ i Quý huyện tỉnh Thanh Hó a, (vố n là họ Nguyễn đượ c cho theo quố c tính.
Minh Mạ ng nă m thứ nhấ t (1820) cho đổ i là m họ Nguyễn Cử u). Cha là Quả ng là m
quan nhà Lê đến chứ c Điện tiền Đô kiểm điểm Quậ n cô ng. Kiều là ngườ i khả ng
khá i, có chí lớ n, thấ y chú a Trịnh khô ng theo đạ o là m tô i bèn có tâ m hướ ng về Nam
Hà , Hi Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 10, Quý Hợ i (1623) Kiều từ Đô ng Đô , nhậ n mậ t thư
và bả o ấ n do Trịnh Phi là Ngọ c Tú giao cho, giả là ngườ i đi chọ i gà và o Nam. Chú a
Trịnh biết, cho ngườ i đuổ i theo. Kiều đến sô ng Gianh, khô ng có thuyền mà lính bên
Trịnh đuổ i theo gầ n đến nơi. Kiều mậ t khấ n rằ ng: "Sô ng nếu có thầ n thiêng thì giú p
cho ta qua sô ng, đừ ng để giặ c bắ t". Chợ t thấ y có mộ t con trâ u nằ m ở bờ sô ng, Kiều
bèn cưỡ ;i trâ u sang sô ng. Lên đến bờ sô ng bên nà y khô ng thấ y trâ u đâ u nữ a. Đến
Quả ng Bình, nhờ Hữ u Dậ t tiến cử ra mắ t chú a, dâ ng mậ t thư và bả o ấ n. Chú a mừ ng
quá , cho Kiều là m Độ i trưở ng, quả n thuyền Mã cơ, sau thă ng là m Cai độ i thuyền
Trung đạ o, đượ c gả cô ng chú a thứ ba là Ngọ c Đỉnh, thă ng Chưở ng cơ.
Quý Dậ u, nă m thứ 20 (1633), Kiều ra là m Trấ n thủ Quả ng Bình. Kiều đến trấ n, rộ ng
ban â n tín, vỗ về thương yêu quâ n và dâ n, ai cũ ng bằ ng lò ng. Mù a đô ng nă m ấ y,
quâ n Trịnh đến xâ m lấ n, Kiều xin đó ng cọ c ngă n cử a biển Nhậ t Lệ, để chố ng quâ n
giặ c. Chú a dù ng kế ấ y. Hơn mộ t tuầ n (mườ i ngà y) quâ n Trịnh hơi trễ nả i, quâ n ta
độ t chiến xô ng ra đá nh dữ , quâ n Trịnh tan chạ y.
Thầ n Tô ng nă m thứ 13, Mậ u Tý (1648) mù a xuâ n, chú a Trịnh đem hết quâ n cả
nướ c và o xâ m phạ m cử a biển Nhậ t Lệ, Kiều sai Nguyễn Triều Vă n đem binh thuyền
chố ng cự nhưng khô ng đá nh thắ ng đượ c. Giặ c cậ y quâ n nhiều, tiến đó ng Võ Xá .
Chú a sai Thế tử đem quâ n đi đá nh, đượ c toà n thắ ng.
Nă m ấ y, Thá i Tô ng Hoà ng Đế nố i ngô i chú a, Kiều giữ Tú c vệ, thă ng Chưở ng doanh.
Chú a có ngườ i con há t quê ở Nghệ An là Thị Thừ a, nhan sắ c xinh đẹp, chú a yêu
lắ m. Nhâ n xem sá ch Quố c ngữ (67) thấ y việc vua Ngô yêu Tâ y Thi (đến mấ t nướ c)
chợ t tỉnh ngộ , bèn sai Thị Thừ a đem chiếc á o ngự đến cho Kiều, trong dả i á o có
giấ u mậ t thư sai Kiều dìm chết Thị Thừ a. Nă m thứ 7, Ấ t Mù i (1655) tướ ng Trịnh
giữ châ u Bắ c Bố Chính là Phạ m Tấ t Đồ ng thả quâ n quấ y rố i ngoà i biên, Tiết chế
Nguyễn Hữ u Tiến và Đố c chiến Nguyễn Hữ u Dậ t đem quâ n đi đá nh, sai Xuâ n Sơn
là m tiền phong hạ đạ o, iều đem quâ n đi, cũ ng lệ thuộ c và o đấ y. Quâ n ta tiến đá nh
đượ c Hà Trung, quâ n Trịnh thua chạ y. Kiều đem thủ y quâ n tiến đó ng bờ nam sô ng
Đà m, chiêu phủ hai huyện Kỳ Anh, Thạ ch Hà , quâ n và dâ n về hà ng ngà y cà ng đô ng.
Nă m thứ 8, Bính Thâ n (1656) mù a hạ , quâ n ta tiến đến sô ng Lam, Kiều kiêm lĩnh
chứ c Thủ y sư Phó tướ ng cù ng Tham tướ ng Tô n Thấ t Trá ng đem binh thuyền thẳ ng
đến cử a biển Đan Nha (tứ c cử a Hộ i)) đá nh thủ y binh nhà Trịnh, phá tan đượ c. Gặ p
lũ Phù Dương đem binh miền thượ ng đá nh quâ n củ a tướ ng Trịnh là Đà o Quang
Nhiêu. Quâ n Trịnh ậ p đến, quâ n Phù Dương thua. Kiều đem quâ n đến cố sứ c đá nh,
chém đượ c tướ ng giặ c là Tà o Nham và Diễn Thọ tạ i trậ n. Kiều cũ ng bị thương
nặ ng, về Quả ng Bình thì chết, thọ 58 tuổ i. Chú a đượ c tin, thương tiếc quá , tặ ng
phong Đặ c tiến Phụ quố c thượ ng tướ ng quâ n, Tả quâ n Đô đố c phủ Tả đô đố c,
Nghĩa quậ n cô ng. Lậ p đền thờ ở xã Dương Xuâ n, cấ p cho 50 ngườ i coi mả .
Trướ c kia khi Kiều sang sô ng và o Nam đượ c trâ u thầ n giú p sứ c, hà m ơn mã i, suố t
đờ i khô ng ă n thịt trâ u, và dặ n con chá u khi cú ng tế khô ng đượ c dù ng trâ u. Kiều có
hai trai là Ứ ng và Dự c.
Dự c là m quan đến Quả ng Bình Thủ y doanh Tham tướ ng, rồ i thă ng chưở ng cơ dầ n
lên đến Ch;ng doanh, ra là m Trấ n thủ Cự u doanh. Nă m Giá p Ngọ (1714), mù a hạ ,
Dự c chết, đượ c tặ ng phong chứ c Trấ n phủ .
Con Ứ ng là Thế, con Dự c là Vâ n đều là m quan to, có truyện riêng.
Nguyễn Cử u Thế
Nghĩa là :
Cô ng chú a Ngọ c Phượ ng trướ c định gả cho Thiệu, đến đấ y đình bã i, đem gả cho
Cử u Thế. Nă m Giá p Ngọ (1714) mù a xuâ n, á c man ở Cam Lộ quấ y rố i ngoà i biên,
Cử u Thế đem quâ n đi tiễu dẹp yên đượ c. Về lĩnh Tú c vệ như cũ . Nộ i tá n Nguyễn
Khoa Đă ng là ngườ i cương trự c, giữ phép nghiêm khắ c. Cử u Thế ghét Đă ng, muố n
buộ c tộ i. Nă m Ấ t Tỵ (1725) mù a hạ , Hiển Tô ng mấ t. Cử u Thế nó i thá c lên rằ ng
Đă ng mậ t sai cung nhâ n giấ u ấ n và ng truyền quố c, để là m giả di mệnh, mưu việc
phế lậ p rồ i cho đò i Đă ng về, giết Đă ng ở dọ c đườ ng.
Thô ng trướ c là m Cai độ i, giữ quâ n cấ m vệ, dầ n thă ng đến Nộ i tả Chưở ng cơ, lạ i lên
Chưở ng doanh, tặ ng Trấ n phủ Kính quậ n cô ng.
Quá n lấ y cô ng chú a, là m đến Phò mã Cai cơ. Quá n nhậ n xét sự việc tinh nhanh, là m
đến Nộ i tả Chưở ng doanh, lĩnh hai bộ Lạ i và Lễ, kiêm cai quả n Nhà đồ , tướ c Lưu
quậ n cô ng.
Điển là m đến Hữ u quâ n Phó Tiết chế.
Con là Thố ng cũ ng lấy cô ng chú a, là m quan đến Tiết chế, Chưở ng doanh quậ n cô ng.
Nguyễn Cử u Vâ n
Là con củ a Dự c. Vâ n là m đến Chá nh thố ng Cai cơ. Hiển Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 14,
Ấ t Dậ u (1705), mù a thu, gặ p nướ c Châ n Lạ p có nộ i biến, anh em Nặ c Yêm, Nặ c
Thâ m dấ y quâ n đá nh nhau. Nặ c Thâ m cầ u Xiêm cứ u viện. Nặ c Yêm sợ , chạ y sang
Gia Định, xin mệnh lệnh triều đình ta. Chú a sai Vâ n thố ng lĩnh quâ n thủ y quâ n bộ
Gia Định, tiến đá nh Nặ c Thâ m. Vâ n đem quâ n đến Sầ m Giang thì gặ p viện binh củ a
Xiêm, Vâ n đá nh tan quâ n Xiêm. Nặ c Thâ m chạ y sang Xiêm. Vâ n đem quâ n đưa Nặ c
Yêm lạ i về thà nh La Bích.
Nướ c Châ n Lạ p đã yên, Vâ n bèn khai khẩ n ruộ ng ở Cầ u Ú c(68) (nay thuộ c Định
Trườ ng) để cho quâ n và dâ n noi theo. Vâ n lạ i cho rằ ng giặ c thườ ng ngầ m đến đấ t
ấ y, quấ y rố i phía sau quâ n ta, bèn đắ p lũ y dà i từ Quá n Cai đến chợ Lương Phú (69),
đà o thô ng đầ u nguồ n hai sô ng Cầ u Ú c - Mỹ Tho, dẫ n nướ c về là m hà o ngoà i lũ y để
việc phò ng thủ đ+2;ợ c nghiêm ngặ t.
Bấ y giờ Nặ c Thâ m từ Xiêm về, mưu hạ i Nặ c Yêm, Nặ c Yêm sai ngườ i phi bá o, xin
quâ n đến cứ u, Vâ n cù ng tướ ng giữ đồ n là Trầ n Thượ ng Xuyên đem việc tâ u lên.
Chú a cho viết thư bả o lũ Vâ n nên tù y nghi phủ dụ cho yên tình hình ngoà i biên. Lũ
Vâ n bèn tuyên thị đứ c ý triều đình, ngườ i Châ n Lạ p mến phụ c. Về việc mở mang cõ i
Nam, cô ng Vâ n rấ t nhiều. Sau đó đượ c triệu về, Vâ n ố m chết.
Nguyễn Cử u Chiêm
ont color="black">
Nguyễn Cử u Đà m
Là con thứ củ a củ a Cử u Vâ n. Đà m là m quan đến Hữ u quâ n Phó Tiết chế, Cai cơ. Duệ
Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 7, Nhâ m Thìn (1772) mù a xuâ n, quâ n Xiêm xâ m lấ n Hà
Tiên, Nam Vang. Thư ngoà i biên giớ i bá o cấ p, chú a cho Đà m là m Khâ m sai Chá nh
thố ng suấ t Đố c chiến, cù ng Tham tướ ng Trầ n Phướ c Thà nh lĩnh mộ t vạ n quâ n thủ y
bộ hai doanh Bình Khang, Bình Thuậ n, và 30 chiến thuyền và o giữ quyền điều
khiển Gia Định.
Nguyễn Cử u Phá p
Duệ Tô ng Hoà ng Đế nố i ngô i chú a, Quố c phó Trương Phướ c Loan chuyên quyền,
Phá p thườ ng can ngă n nhưng khô ng đượ c.
Nă m Quý Tỵ (1773), "giặ c" Tâ y Sơn Nguyễn Vă n Nhạ c nổ i loạ n, quan quâ n nhiều
lầ n bị thua, Phá p tiến cử ba ngườ i con là Sá ch, Thậ n và Dậ t đem quâ n và o Quả ng
Nam, đá nh giặ c.
Nă m Giá p Ngọ (1774) tướ ng Trịnh là Hoà ng Ngũ Phướ c và o xâ m lấ n miền Nam.
Khi quâ n Trịnh đến truô ng nhà Hồ (Hồ Xá ), Phá p cho rằ ng vì Phướ c Loan chuyên
quyền sinh loạ n, bèn cù ng Tô n Thấ t Huố ng bắ t Phướ c Loan giả i đến cử a quâ n Ngũ
Phướ c. Khi về rồ i, Phá p đố t bằ ng sắ c, đem gia quyến và o Quả ng Nam, uấ t hậ n
thà nh bệnh, dặ n con là lũ Thậ n, Dậ t rằ ng: "Nhà ta nhiều đờ i chịu ơn nướ c, dẫ u tan
xương chưa đủ bá o đền. Nay ta già yếu, khô ng là m gì đượ c, cá c con nên cố gắ ng,
hết lò ng theo chú a, đừ ng đến cha!"
Phá p là ngườ i thanh liêm, tiết kiệm, bổ ng lộ c đượ c đều giú p cho bà con và chỗ cố
cự u, khô ng chịu lo đến ruộ ng đấ t tà i sả n. Ngườ i ta hỏ i thì Phá p trả lờ i: "Con chá u ta
nếu hiền tà i thì lo gì bầ n tiện! Nếu bấ t tà i bấ t hiền mà để củ a cho thì chỉ thêm mố i
tranh nhau, có ích gì !"
Con trưở ng là Sá ch, cũ ng lấ y cô ng chú a, là m quan đến Phò mã , Cai cơ. Nă m Giá p
Ngọ (1774) đượ c thă ng Khâ m sai Tiết chế, tạ m quả n Nộ i hữ u Chưở ng doanh, tướ c
Thạ c quậ n cô ng, cù ng em là Dậ t đem quâ n đi Quả ng Nam đá nh giặ c. Mù a đô ng nă m
ấ y, quâ n Trịnh và o xâ m lấ n, Duệ Tô ng đi Quả ng Nam. Nă m Ấ t Mù i (1775) khi chú a
và o Gia Định, Sá ch đưa cha là Phá p về Phú Xuâ n rồ i chết.
Con thứ củ a Phá p là Thậ n, trướ c là m Độ i trưở ng Thuyền kiệu. Nă m Giá p Ngọ
(1774), theo chú a đi Quả ng Nam, giữ lũ y Câ u Đê đượ c trao chứ c Hữ u quâ n Đạ i đô
đố c, chiêu phủ binh cá c đạ o, theo hầ u Đô ng cung Dương, sau đó vâ ng mệnh ở lạ i
giú p Đô ng cung. Quâ n giặ c đến đá nh, Câ u Đê thấ t thủ , Thậ n hộ vệ Đô ng cung theo
đườ ng nú i và o Nam. Sau bị giặ c ép đưa Đô ng cung về Quy Nhơn, Thậ n chết vì việc
nướ c.
Nguyễn Cử u Dậ t
Gia Long nă m thứ 9 (1810) Nguyễn Vă n Thà nh dâ ng sớ nó i: "Dậ t chết vì việc nướ c,
lạ i có chiến cô ng, xin chiếu lệ cô ng thầ n, hoặ c cho thờ phụ , hoặ c cho thờ riêng, để
nêu ngườ i trung liệt!". Vua giao cho đình thầ n bà n cho thờ và o miếu Trung tiết
cô ng thầ n. Minh Mạ ng nă m thứ 5 (1824) chá u chắ t tự trình bày rằ ng tiên tổ từ Kiều
đến Dậ t đờ i đờ i có cô ng lao, mong gia â n điển. Vua bèn tặ ng thêm cho Dạ t hà m
Thá i bả o, thụ y là Trung Mẫ n, cấ p cho 2 ngườ i coi mả . Minh Mạ ng nă m thứ 21
(1840) truy tặ ng Kiệt tiết cô ng thầ n, Đặ c tiến Trá ng vũ tướ ng cô ng, Tả quâ n Đô
thố ng phủ Chưở ng phủ sự , Thá i bả o, vẫ n thụ y là Trung Mẫ n, phong Thă ng Hoa
quậ n cô ng, cho thờ phụ và o Thá i Miếu . Nă m Thiệu Trị thứ nhấ t (1841) đổ i phong
là m Thă ng Bình quậ n cô ng. Dậ t có 2 trai là Miêu và Thuậ n, đều chết sớ m, chá u nộ i
là Khanh là m Thứ Độ i trưở ng, coi việc thờ cú ng.
Là chá u nă m đờ i củ a Cử u Kiều. Cha Tuấ n là Cụ c, là m đến Quậ n cô ng. Tuấ n ban đầ u,
do châ n ấ m tử , đượ c cầ m quâ n. Nă m Ấ t Mù i (1775) mù a xuâ n, theo Duệ Tô ng
Hoà ng Đế và o Nam, nă m Bính Thâ n (1776) mù a đô ng, lạ i đem quâ n theo Thế Tổ
Cao Hoà ng Đế ta đi đá nh Châ n Lạ p có cô ng. Nă m Đinh Dậ u (1777) mù a xuâ n, "giặ c"
Tâ y Sơn Nguyễn Vă n Huệ và o cướ p Gia Định, quâ n bộ ngầ m và o miền thượ ng.
Tuấ n theo Tâ n Chính vương chố ng giặ c. Chú a bèn cho Tuấ n là m Nộ i tả Chưở ng cơ
Phó Tiết chế, đem quâ n đó ng ở sô ng Ký, cù ng Tô n Thấ t Xuâ n đó ng ở Hưng Phướ c
và Nguyễn Đạ i Lã đó ng ở nú i Nữ Tă ng để chố ng giặ c. Thế giặ c rấ t mạ nh. Quâ n lũ
Tuấ n đều mớ i mộ , khô ng chố ng nổ i, giặ c thừ a thế, đá nh dữ . Tuấ n cù ng Đạ i Lã đều
tử trậ n. Sau đó Tuấ n đượ c tặ ng Đô đố c phủ Chưở ng phủ sự . Gia Long nă m thứ 3
(1804) cho thờ và o miếu Hiển trung cô ng thầ n ở Gia Định. Nă m thứ 9 (1810), cho
thờ ở miếu Trung tiết cô ng thầ n. Tuấ n có con trai là Định.
</div>
Là ngườ i Quý huyện, tỉnh Thanh Hó a. Phấ n trướ c là họ Trương Cô ng, sau đượ c cho
đổ i là m chữ Phướ c bèn gọ i là họ Trương Phướ c. Cha là Gia, là m quan đến Điện tiền
Đô kiểm điểm, Lương quậ n cô ng đờ i Lê. Lú c Thá i Tổ Hoà ng Đế và o Thuậ n Hó a, Gia
đem gia quyến đi theo. Ban đầ u là m Trấ n thủ Quả ng Bình, nhâ n đó là m nhà ở lũ y
Trấ n Ninh. Hi Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 14 (1627) quâ n Trịnh và o xâ m lấ n, chú a sai
Tô n Thấ t đem quâ n chố ng đá nh. Gia mưu bà n vớ i Nguyễn Hữ u Dậ t, sai giá n điệp
phao đồ n rằ ng tướ ng giặ c là Trịnh Gia â m mưu là m loạ n. Trịnh Trá ng ngờ , bèn rú t
quâ n về.
Phấ n, vũ lượ c hơn ngườ i, xuấ t thâ n từ Cai cơ. Hy Tô ng Hoà ng Đế nă m 17 (1630)
lậ p doanh Bố Chính cho Phấ n là m Trấ n thủ . Thầ n Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 5
(1639) tướ ng là m phả n là Nguyễn Khắ c Loá t quấ y rố i châ u Nam Bố Chính. Chú a
cù ng Nguyễn Hữ u Dậ t, bà n kế trừ đi. Trướ c hết tung phả n giá n qua Trịnh, rồ i sai
Phấ n cù ng Nguyễn Cử u Kiều ngầ m đem quâ n sang sô ng Gianh giả cá ch mờ i Khắ c
Loá t đến gặ p. Khắ c Loá t tin lờ i, khô ng phò ng bị, lũ Phấ n thình lình ậ p đến đá nh ú p.
Khắ c Loá t bố i rố i chạ y về, bị chú a Trịnh sai giết đi. Lũ Phấ n thừ a thắ ng, lấ y hết cả
đấ t châ u Bắ c Bố Chính. Tin thắ ng trậ n ấ y đến nơi, chú a ban thưở ng rấ t hậ u. Nă m
thứ 13 (1647) quâ n Trịnh và o xâ m lấ n, Phấ n cù ng con là Hù ng giữ lũ y Trườ ng Dụ c.
Quâ n Trịnh đá nh mạ nh, sá t ngay ngoà i lũ y. Lũ y ấy đắ p bằ ng đấ t cá t, khô ng bền lắ m,
đạ n giặ c bắ n và o, lũ y bị vỡ vài mươi trượ ng. Quâ n sợ chạ y mấ t bảy tá m phầ n mườ i.
Phấ n đá nh trố ng, vẫy cờ đem bộ hạ mình á c chiến vớ i giặ c. Giặ c vừ a lui vừ a đá nh,
đạ n sú ng dộ i xuố ng nhiều. Cha con Phấ n xô ng pha tên đạ n, giương lọ ng ngồ i ở
trướ c lũ y, đố c quâ n sĩ đan tre dự ng thuyền đổ cá t lấ p và o chỗ lũ y bị sạ t. Sú ng giặ c
cứ nhắ m chỗ cắ m lọ ng bắ n đạ n xuố ng như mưa. Vũ sĩ ở tả hữ u và i tră m ngườ i,
nhiều ngườ i bị thương chết. Phấ n vẫ n ngồ i nghiêm chỉnh, khô ng độ ng, giặ c cho là
thầ n, khô ng dá m đến gầ n. Đượ c mộ t chố c, lũ y vá lạ i xong, giặ c khô ng đá nh đượ c.
Ngườ i ta gọ i là "Phấ n cố trì"(74). Sau đó Phấ n ố m chết, khô ng nhớ thọ bao nhiêu
tuổ i. Gia Long nă m thứ 4 (1805) bà n định đẳ ng cấp khai quố c cô ng thầ n, Phấ n
đượ c liệt và o hạ ng nhì, đượ c cấ p 6 mẫ u tự điền, 3 ngườ i coi mả . Phấ n có 2 con trai
là Hù ng và Cương.
Trương Phướ c Hù ng
Là con trưở ng củ a Phấ n. Ban đầ u là m Cai cơ, Hù ng thườ ng đem quâ n theo cha là
Phấ n đi đá nh giặ c. Hù ng dũ ng cả m, thiện chiến, có phong cá ch củ a cha. Nă m Mậ u
Tý (1648) chiến dịch Trườ ng Dụ c vớ i mộ t toá n cô quâ n Hù ng đó ng gó p nhiều cô ng
sứ c trong việc giữ vữ ng lũ y. Thá i Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 7 (1654), mù a xuâ n,
Hù ng đem quâ n tả n bộ theo Tiết chế Nguyễn Hữ u Tiến đá nh quâ n Trịnh. Hù ng
phụ c quâ n ở Lũ ng Bô ng, quâ n Trịnh ngờ , bèn rú t lui. Mù a đô ng thá ng 10, tướ ng
Trịnh và o Kỳ Anh, lù a số dâ n đã đầ u hà ng, đem về. Nguyễn Hữ u Tiến sai Thiêm
Vinh (khô ng nhớ họ ) là m Tiền phong, Hù ng là m Vệ trậ n, đem quâ n ra huyện Thạ ch
Hà đó n đá nh, cả phá đượ c giặ c.
Hù ng khỏ e mạ nh, can đả m, thườ ng đi trướ c xô ng pha đá nh phá trậ n giặ c, đến đâ u
giặ c cũ ng chạ y giạ t. Quâ n Bắ c Hà sợ Hù ng gọ i là "Hù ng sắ t". Nă m Thá i Tô ng thứ 12
(1659) Hù ng đá nh nhau vớ i giặ c ở lũ y Ngưu Pha, bấ t lợ i. Tiết chế Nguyễn Hữ u Tiến
bèn đem quâ n về Nam. Nă m thứ 16 (1663) mù a hạ , Hù ng đượ c thă ng Chưở ng cơ,
trấ n thủ doanh Bố Chính, rồ i thă ng Trấ n thủ Quả ng Bình, Đố c chiến Quậ n cô ng, rồ i
Hù ng chết. Gia Long nă m thứ 4 (1805) bà n định đẳ ng cấ p cô ng thầ n, Hù ng
đượ c liệt và o hạ ng nhì, đượ c cấ p ruộ ng tự điền và phu coi mả cũ ng như cha là
Phấ n. Con là Phướ c Thứ c có truyện riêng.
<p>Là con củ a Hù ng. Thứ c là m quan đến Chá nh doanh Cai cơ. Hiển Tô ng Hoà ng Đế
nă m 24, Thứ c ra là m Trấ n thủ doanh Bố Chính, rồ i đổ i là m Trấ n thủ Quả ng Bình.
Rồ i lạ i về triều là m Hữ u phó Đô đố c Quậ n cô ng. Chú a cho lấ y lỵ sở Quả ng Bình là m
nhà thờ họ Trương để tỏ lò ng yêu quý. Lạ i ban cho tự điền mộ t khoả nh. Khi chết,
thọ 84 tuổ i, đượ c tặ ng Tá n trị cô ng thầ n Đặ c tiến Khai phủ Phụ quố c Thượ ng
tướ ng quâ n, Cẩ m y vệ chưở ng phủ sự , Tả Đô đố c Thứ c quậ n cô ng. chù a Hoà ng Giá c
huyện Phong Điền cò n có di tích. Thứ c có con là Duyệt, là m đến Cai độ i. Con Duyệt
là Thậ n, chết vì việc nướ c, có truyện riêng.
Trương Phướ c Phan
iv height="0">
Là con củ a Cương. Phan lấ y Ngọ c Nhiễm, cô ng chú a thứ ba củ a Anh Tô ng Hoà ng
Đế. Phan là m đến Chưở ng doanh, rồ i lĩnh chứ c Trấ n thủ doanh Trấ n Biên. Hiển
Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 11 (1701) mù a thu, giặ c biển Man An-liệt (75) là lũ
Thuyền, Tô , Ly, Gia, Thi 5 ngườ i, xưng là 5 ban, cù ng đồ đả ng 200 ngườ i đó ng ở
đả o Cô n Lô n lậ p đồ n trạ i chứ a củ a bá u như nú i. Bố n mặ t đả o, chú ng đều đặ t sú ng
lớ n. Phan đem việc tâ u lên, chú a sai Phan định kế trừ bọ n cướ p ấy. Phan bèn triệu
mộ 15 ngườ i Chà Và , mậ t sai trá hà ng rồ i nhắ m ban đêm phó ng hỏ a đố t giết ban
Nhấ t ban Nhì, bắ t số ng ban Nă m, cò n ban Ba, ban Tư đều đi ra ngoà i biển. Phan
đượ c tin bá o, lậ p tứ c sai binh thuyền đến đả o Cô n Lô n thu hết và ng lụ a đem về nộ p.
Chú a hậ u thưở ng cho. Lú c Phan chết, đượ c tặ ng phong hà m Thá i bả o Phan quố c
cô ng. Phan có 2 con trai là Thô ng và Loan. Thô ng là m đến Chưở ng doanh. Cò n
Loan, xem Gian thầ n truyện.
Tố ng Hữ u Đạ i
color="black">
Ngườ i Quý huyện tỉnh Thanh Hó a. Cha là Hữ u Sĩ theo Thá i Tổ Hoà ng Đế và o Nam
là m quan đến Nho ú y, Thá i bộ c tự khanh. Hữ u Đạ i ban đầ u là m Cai cơ, Thầ n Tô ng
Hoà ng Đế nă m thứ nhấ t (1635) Hữ u Đạ i đượ c thă ng Cự u doanh Trấ n thủ . Nă m thứ
13 (1647) quâ n Trịnh và o lấ n cướ p. Hữ u Đạ i cù ng Nguyễn Hữ u Dậ t lĩnh quâ n bộ ,
theo Thế tử tiết chế, đá nh quâ n Trịnh, thắ ng trậ n to. Thá i Tô ng Hoà ng Đế nă m đầ u,
Hữ u Đạ i đượ c thă ng Chưở ng doanh. Nă m thứ 7 (1655) quâ n Trịnh và o lấ n cướ p,
Hữ u Đạ i theo Tiết chế Nguyễn Hữ u Tiến đem quâ n ra xã Lũ Đă ng, đá nh đuổ i tướ ng
Trnh là Tham đố c Đặ ng Minh Tắ c. Trịnh Đà o đem hết quâ n đến cứ u. Hữ u Đạ i lạ i về
sô ng Gianh đó ng đồ n. Kế đó , Nguyễn Hữ u Tiến tiến quâ n đến doanh Hà Trung, lấ y
Phù Dương là m tiên phong. Hữ u Đạ i tiếp ứ ng, tiến đá nh tướ ng Trịnh Phạ m Tấ t
Đồ ng. Đồ ng phả i đầ u hà ng. Hữ u Đạ i lạ i đá nh phá tướ ng Trịnh là Tà i và Định ở Lạ c
Xuyên Thượ ng, thu đượ c khí giớ i khô ng thể đếm xiết.
Nă m Thá i Tô ng thứ 8 (1656), mù a xuâ n, Hữ u Đạ i đem quâ n miền thượ ng đến Bình
Lã ng, đá nh quâ n củ a tướ ng Trịnh Đà o Quang Nhiêu. Quang Nhiêu bỏ lũ y chạ y. Nă m
Thá i Tô ng thứ 9 (1657) ngườ i huyện Nghi Xuâ n là Phan Lâ n nó i vớ i Hữ u Đạ i rằ ng
"Quâ n Trịnh chia quâ n đi ba đườ ng qua xã Nam Kim để đá nh ú p quâ n Hữ u Đạ i,
Trịnh Că n cầ m đầ u đạ i binh để yểm hộ đà ng sau". Hữ u Dậ t mậ t bá o cho Hữ u Đạ i
bà y trậ n để đợ i. Tiếp đó , bên Trịnh quả dẫ n quâ n đến. Gặ p quâ n Hữ u Đạ i giao
chiến, Hữ u Đạ i giả thua chạ y, quâ n Trịnh đuổ i theo, quâ n phụ c củ a Hữ u Đạ i nổ i
dậ y, quâ n Trịnh bị vỡ , rú t chạ y. Tin thắ ng trậ n đưa đến, chú a thưở ng rấ t hậ u. Sau
đó Hữ u Đạ i chết, đượ c tặ ng phong là Đặ c tiến Phụ quố c Thượ ng tướ ng quâ n, Trấ n
phủ Chưở ng doanh, Phó tướ ng.
Con là Hữ u Thâ n là m đến chứ c Trấ n thủ Quả ng Bình, đượ c tặ ng phong Tiền quâ n
Đô đố c Thiêm sự , Quậ n cô ng.
Nguyễn Đứ c Bả o
Ngư̖Quý huyện, tỉnh Thanh Hó a. Cha là Đứ c Trá ng, lú c đầ u theo chú a và o Nam,
nhậ p tịch xã Phú Xuâ n, là m đến Cai độ i. Đứ c Bả o là m quan lên dầ n đến Chưở ng cơ.
Thế Tô ng Hoà ng Đế nă m 24 (1672) quâ n Trịnh đến lấ n cướ p, Đứ c Bả o cù ng
Trương Phướ c Cương là m tả hữ u tiền phong, đá nh quâ n Trịnh ở sô ng Gianh, thắ ng
trậ n to. Sau là m Trấ n thủ Quả ng Nam, Chưở ng doanh.
Nguyễn Hữ u Doã n
Khô ng rõ quê quá n. Ban đầ u Doã n là m Cai cơ. Thờ i Tú c Tô ng Hoà ng Đế khoả ng
nă m 1725-1727, Điều khiển Gia Định là Trương Phướ c Vĩnh phả i tộ i, chú a bèn sai
Doã n thay là m sự vụ Điều khiển Gia Định. Thế Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 10 (1748),
Mậ u Thìn, ở Châ n Lạ p Nặ c Tha đã đượ c lậ p là m vua, Nặ c Thâ m tự Xiêm đem quâ n
về đá nh. Nặ c Tha chạ y sang Gia Định, Nặ c Thâ m bèn chiếm giữ nướ c. Đến lú c Nặ c
Thâ m chết, con là Đô n, Hiên và Yếm tranh nhau là m vua. Bề tô i Nặ c Thâ m là Xô
Liên Tố c nhâ n đó gâ y biến, sang cướ p bó c Mỹ Tho. Việc ấ y đến tai chú a. Chú a sai
Doã n đi đá nh. Doã n đem quâ n tiến đá nh Xô Liên Tố c, cả phá đượ c giặ c, đố t hết
chiến thuyền, thừ a thắ ng, thẳ ng đến thà nh Nam Vang. Lũ Đô n, Hiên và Yếm đều
trố n. Doã n bèn đưa Nặ c Tha về nướ c. Nướ c Châ n Lạ p đã yên, Doã n lạ i về trấ n.
Trướ c kia đấ t Gia Định nhiều chỗ lầ y lộ i, lú c bắ t đầ u khai thá c, đườ ng bộ chưa
thô ng suố t, ngườ i lữ hà nh lấ y là m khổ , tin bá o biên phò ng cũ ng khô ng tiện. Doã n
bèn đo đạ c địa thế, chă ng dâ y là m đườ ng thẳ ng, từ Nạ i Kiều đến Hưng Phướ c, tù y
nơi mà đặ t nhà trạ m, gọ i là đườ ng Thiên lý, gặ p sô ng lớ n thì sai dâ n sở tạ i đặ t
thuyền chở đò , miễn lao dịch cho ngườ i chở đò , cô ng tư đều lấ y là m tiện.
Hù ng Lộ c (khô ng nhớ họ )
Nguyễn Dương Lâ m
Tiên tổ là ngườ i Quý huyện, tỉnh Thanh Hó a, sau theo và o Nam nhậ p tịch ở phủ
Thừ a Thiên. Cha là Vă n Nghĩa, là m quan đến Thố ng suấ t doanh Quả ng Bình, tướ c
Quậ n cô ng. Dương Lâ m đượ c tậ p ấ m, trả i là m điển binh. Thá i Tô ng Hoà ng Đế nă m
26, Giá p Dầ n (1674), đượ c thă ng Cai cơ đạ o Nha Trang, doanh Thá i Khang. Bấ y giờ
ở nướ c Châ n Lạ p, Nặ c Ô Đà i (lạ i có tên là Bô Tâ m) giết cha là Nặ c Xô , tự lậ p là m
vua. Sợ triều đình đem quâ n đến đá nh, Nặ c Ô Đà i bèn đắ p thà nh Nam Vang và cá c
lũ y Bích Đô i, là m cầ u phao giă ng xích sắ t để tự bả o vệ, lạ i cầ u xin nướ c Xiêm giú p
sứ c, mưu giết nhị vương là Nặ c Nộ n. Nặ c Nộ n sợ , chạ y sang doanh Thá i Khang. Nặ c
Ô Đà i tiến quâ n chiếm giữ Sà i Gò n, đắ p lũ y Hưng Phướ c, phò ng bị rấ t kiên cố . Trấ n
thủ doanh Thá i Khang là Nguyễn Triều đem việc tâ u lên. Chú a nó i: "Nặ c Nộ n là
phiên thầ n, khi có nguy cấ p ta khô ng thể khô ng cứ u". Bèn sai Dương Lâ m là m
Thố ng binh, Thủ hạ p Nguyễn Diên là m tham mưu, Vă n Sù ng (khô ng nhớ họ ) là m
Thị chiến, đem quâ n đi đá nh, chia quâ n đi hai đườ ng. Diên thố ng lĩnh quâ n tiền
phong, gấ p đườ ng tiến thẳ ng lên đến lũ y Hưng Phướ c, nhâ n lú c bấ t ngờ đá nh ú p
mà giữ lấ y lũ y. Kế đó , quâ n Châ n Lạ p tậ p hợ p cả bố n phía, bao vâ y và đá nh rấ t
mạ nh, Nguyễn Diên giữ vữ ng trong lũ y, khô ng ra đá nh. Gặ p quâ n củ a Dương Lâ m
vừ a đến, trong ngoà i đá nh khép lạ i; quâ n Châ n Lạ p tan vỡ . Quâ n ta bèn thừ a thắ ng,
tiến lấ y Sà i Gò n, phá lũ y Bích Đô i, đố t cầ u phao và phá tung xích sắ t, tiến vâ y thà nh
Nam Vang. Nặ c Ô Đà i chạ y trố n, bị đồ đả ng giết chết. Con thứ Nặ c Xô là Nặ c Thu ra
hà ng. Nướ c Châ n Lạ p do đó đượ c yên.
Diên là quan vă n cầ m quâ n mà oai phong chấ n độ ng cả nướ c Châ n Lạ p. Vì quá lao
lự c, Diên ố m chết ở trong quâ n. Vă n Sù ng sau đó cũ ng ố m chết. Dương Lâ m đem
việc tâ u lên, chú a truy tặ ng Diên là Câ u kê, Sù ng là Cai hạ p. Diên chết rồ i, thườ ng
hiển linh, ngườ i Châ n Lạ p lậ p đền thờ ở cử a biển Mỹ Tho.
Dương Lâ m rú t quâ n về, vì có quâ n cô ng, đượ c thă ng là m Trấ n thủ doanh Thá i
Khang, kinh lý việc ngoà i biên. Nă m Kỷ Tỵ (1689), mù a đô ng, chú a triệu về, thă ng
Chưở ng doanh, lĩnh Tham tướ ng Thủ y doanh Quả ng Bình, sau đó Dương Lâ m chết.
Con là Thắ ng Long là m đến Cai cơ Trấ n Biên. Con Thắ ng Long là Phú theo Nguyễn
Hữ u Cả nh đi dẹp Châ n Lạ p, có cô ng, trả i là m Cai cơ, dầ n thă ng đến Trấ n thủ Cự u
doanh, Phú Quậ n cô ng.
Con Phú là Chá nh, là m đến Nộ i tả Chưở ng doanh. Nă m Giá p Ngọ (1714) đá nh nhau
vớ i quâ n Trịnh ở sô ng Phú Lễ bị chết trậ n.
Em Chá nh là Thà nh, là m quan đến Cai cơ, đá nh nhau vớ i "giặ c" Tâ y Sơn, chết ở Lạ i
Con Chá nh là Đồ ng, là m Cai độ i, theo Duệ Tô ng và o Nam đến đèo Hả i Vâ n, rơi lạ i
phía sau, bị quâ n Trịnh giết chết. Đầ u nă m Gia Long (1802) , truy tặ ng Chá nh là Tả
quâ n Đô đố c, Quậ n cô ng, cho thờ ở hai miếu Hiển trung và Trung tiết cô ng thầ n.
Tố ng Vă n Khô i (có chỗ chép là Nguyễn Cử u Khô i)
Tiên tổ ngườ i Quý huyện tỉnh Thanh Hó a, sau dờ i và o ở huyện Bình Dương, tỉnh
Gia Định. Khô i là ngườ i can đả m, quả quyết là m quan dướ i triều Duệ Tô ng, dầ n
thă ng đến Thố ng suấ t Điều khiển Ngũ doanh tướ ng sĩ Gia Định, sau vì tộ i liên lụ y
phả i giá ng là m Cai độ i. Nă m Ấ t Mù i (1775), "giặ c" Tâ y Sơn lấ n cướ p vù ng Phú Yên -
Khá nh Hò a, Khô i đem quâ n từ Gia Định tiến ra Khá nh Hò a, đá nh nhau vớ i "giặ c" ở
Tam Độ c giang (76), Khô i bị chết trậ n. Khô i có hai con trai là Phướ c và Thịnh.
Phướ c, hồ i đầ u trung hưng, là m đến Cai cơ. Can đả m, dũ ng mã nh, Phướ c là tay
thiện chiến, có tính cá ch giố ng cha. Nă m Tâ n Sử u (1781), theo quan quâ n đi đá nh
nghịch đả ng Đô ng Sơn ở Lương Phú , Phướ c bị chết trậ n, đượ c truy tặ ng là Chưở ng
cơ, cù ng cha là Khô i đều đượ c thờ ở hai miếu Hiển trung và Trung tiết cô ng thầ n.
v>
Con Thịnh là Minh, là m quan đến Nghĩa vũ Phó vệ ú y. Khoả ng giữ a đờ i Minh Mạ ng
(1820-1840) đó ng giữ Trấ n Ninh, bị thổ tù là giặ c Huố ng đá nh ú p, Minh bị hạ i,
đượ c tặ ng Vệ ú y hậ u tuấ t cho bạ c lạ ng.
Ngườ i Quý huyện, tỉnh Thanh Hó a, trạ ng mạ o khô i ngô chữ ng chạ c, có sứ c khỏ e,
giỏ i võ nghệ. Đờ i Duệ Tô ng, ban đầ u Kế là m Cai độ i thuyền Ngưng Bích, theo quan
quâ n đi cứ u Cao Miên, có quâ n cô ng, dầ n thă ng đến Chưở ng cơ, lĩnh Trấ n thủ Bình
Khang. Nă m Ấ t Mù i (1775), "giặ c" Tâ y Sơn quấ y rố i cướ p bó c trong bờ cõ i. Tiết chế
Tố ng Phướ c Hiệp sai Kế đem quâ n đi đườ ng nú i, đá nh ú p. Quâ n thua, bị giặ c bắ t
đượ c. Giặ c muố n dụ hà ng, Kế bấ t khuấ t, mắ ng giặ c mà chết. Ngườ i lính hầ u tên là
Khố , đượ c giặ c thả ra, nhưng Khố khô ng chịu, nó i: "Chủ tướ ng đã chết, ta số ng là m
gì!" Giặ c cũ ng giết nố t. Lú c đầ u trung hưng, truy tặ ng Kế là Chưở ng doanh, cấ p
ngườ i coi mả , cho thờ ở hai miếu Hiển trung và Trung tiết cô ng thầ n.
<div height="16">
Nguyễn Hữ u Danh
Ngườ i huyện Duy Xuyên thuộ c Quả ng Nam, ban đầ u là m Cai cơ. Duệ Tô ng, nă m thứ
9 Giá p Ngọ (1774) sai quả n binh lính 5 thuyền và cá c thuyền Quả ng Nam, theo
Chưở ng cơ Tô n Thấ t Thắ ng đi đá nh dẹp, đá nh nhau vớ i giặ c ở Chiến Đà n, bị chết
trậ n.
1. Phan Phướ c  n
Ngườ i huyện Diên Phướ c cũ ng tỉnh Quả ng Nam, trướ c là m Khá m lý, đố c suấ t cá c
huyện thuộ c phủ Thă ng Bình. Nă m Quý Tỵ (1773), "giặ c" Tâ y Sơn nổ i loạ n, Â n đem
theo Tá n lý Đỗ Vă n Hoả ng là m Tiên phong đi đá nh giặ c. Giặ c đương đêm đá nh ú p;
giết Hoả ng, sĩ tố t tan vỡ . Â n bèn thu nhặ t quâ n tà n, lui đó ng ở Câ u Đê. Nă m Giá p
Ngọ (1774) mù a xuâ n, Â n theo Tả quâ n Nguyễn Cử u Dậ t, cai quả n quâ n tiền phong,
tiến đá nh giặ c ở sô ng Tam Kỳ, bị chết trậ n.
color="black">2. Đỗ Hữ u Nghi
Nă m Giá p Ngọ (1774), Nghi theo Đố c chiến Tr(khô ng nhớ họ ) đá nh giặ c, có cô ng,
đượ c bổ Tri huyện Bình Sơn. Lạ i theo Nguyễn Cử u Dậ t đem hương binh đá nh nhau
vớ i giặ c ở sô ng Thanh Hà , bị chết trậ n.
3. Vũ Vă n Duy
QUYỂ N 5
TRUYỆ N CÁ C BỀ TÔ I (III)
Nguyễn Đă ng Đệ
Nghĩa là :
Nguyễn Đă ng Thịnh
Tự là Hương, hiệu là Chuyết Trai. Cha tên Đă ng Trị, là anh Đă ng Đệ, trướ c kia đỗ
Hương tiến (tứ c Cử nhâ n), là m quan đến Vă n chứ c kiêm Giá m trạ ng, đượ c truy
tặ ng Triều nghị đạ i phu. Đă ng Thịnh lú c trẻ thô ng minh, nhanh nhẹn, nhớ dai, họ c
rộ ng, giỏ i vă n. Nă m 14 tuổ i, trú ng tuyển, đượ c bổ Lễ sinh, từ chố i khô ng nhậ n. Hiển
Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 30, khoa Tâ n Sử u (1721), đỗ Hương tiến, sơ bổ là m Tri
huyện Hương Trà , rồ i cấ t nhắ c là m ở Vă n chứ c viện. Ô ng nổ i tiếng về vă n chương.
Phà m cá c lệi ấ y đều ra từ tay ô ng. Tú c Tô ng nă m đầ u (1725), Thế Tô ng cò n ở thanh
cung (78) Đă ng Thịnh là m Thị giả ng. Nă m Canh Tuấ t (1730), mù a đô ng, thă ng Đô
tri. Nă m Tâ n Hợ i (1731), mù a đô ng, ra là m Cai bạ Quả ng Nam. Nă m Ấ t Mã o (1735),
mù a đô ng, về thă ng Nha ú y. Nă m Giá p Tý (1744), mù a hạ , Thế Tô ng mớ i lên ngô i
chú a. Bà i biểu củ a quầ n thầ n khuyến tiến có câ u rằ ng: "Chính danh phậ n ư nhấ t
quố c, duy tâ n chi thủ y; Hưng lễ nhạ c ư bá ch niên, tích đứ c chi dư" (Chính danh
phậ n ở mộ t nướ c, lú c bắ t đầ u duy tâ n; Đấ y lễ nhạ c ở tră m nă m, sau bao lâ u tích
đứ c). Lạ i có câ u rằ ng: "Dĩ thấ t thậ p lý chi cương vũ , tự khai huyền điểu chi cơ; thẩ n
tam thiên lý chi dư đồ , thương tiễn hoà n khuê chi vị" (Nhà Thương vớ i bảy mươi
dặ m đấ t đai, cò n mở cơ đồ huyền điểu (79); chú a ta có ba nghìn dặ m đấ t nướ c, nên
chính danh vị hoà n khuê) (80) đều là lờ i vă n củ a Đă ng Thịnh. Sau đó vì có cô ng đầ u
là m Kim sá ch tấ n tô n, Đă ng Thịnh đượ c trao Lễ bộ kiêm Lạ i bộ . Phà m nhữ ng chế
độ mớ i đặ t như triều nghi, phụ c sắ c, bà n lễ khả o vă n, phầ n nhiều do Đă ng Thịnh
tá n định. Nă m Ấ t Hợ i (1755), mù a hạ , ô ng mấ t tạ i chứ c, thọ 62 tuổ i, đượ c tặ ng
Chính trị thượ ng khanh Tham nghị, cho nhiều tiền lụ a để tá ng.
Sau khi Đă ng Thịnh chết, chú a sai ngườ i đến nhà thu thậ p sao chép cá c di thả o vă n
chương. Chú a xem bao giờ cũ ng cả m thá n khen ngợ i Đă ng Thịnh giỏ i thơ vă n,
trướ c tá c có : Hiệu tâ n thi tậ p, Chuyêt Trai vă n tậ p, Chuyết Trai vịnh sử tậ p lưu
hà nh ở đờ i. Đă ng Thịnh có 2 trai: con trưở ng là Đă ng Giá m, là m quan đến Cai bạ
doanh Trấ n Biên, tặ ng phong Tư trị thiếu khanh. Con thứ là Đă ng Vinh, là m quan
đến Hà n lâ m trự c giả ng, truy tặ ng Quang lộ c tự kha.
Nguyễn Cư Trinh
Nă m Tâ n Mù i (1751), mù a đô ng, Trinh dâ ng thư trình bày tình trạ ng đau khổ củ a
dan: "Dâ n là gố c nướ c, gố c khô ng bền thì nướ c chẳ ng yên. Ngà y bình thườ ng khô ng
lấ y â n kết dâ n, thì lú c có việc trô ng cậ y nương tự a và o đâ u? Tô i trộ m lo: Dâ n gian
chấ t chứ a tệ hạ i đã nhiều nếu cứ để yên nếp thườ ng, giữ lố i cũ , khô ng tù y nghi
thêm bớ t, thiết lậ p kỷ cương thì mộ t đạ o (81) cò n khô ng thể là m đượ c nữ a là mộ t
nướ c. Nay có ba việc hạ i dâ n là cấ p lương lính, nuô i voi và nộ p tiền á n phí. Cò n cá c
nhũ ng lệ khá c khô ng thể đếm xiết!" Nhâ n đó Trinh điều trầ n bố n điều tệ hạ i đã lâ u:
2. Cá c viên phủ huyện từ trướ c đến giờ thườ ng kiếm lợ i ở nhữ ng việc sai bắ t tra
xét (nhữ ng ngườ i can phạ m) để lấ y bổ ng lộ c tiền tà i, củ a dâ n cà ng hao, phong tụ c
trong dâ n cà ng bạ c. Nay xin liệu cấ p cho lương thườ ng xuyên, thă ng giá ng tuỳ theo
từ ng viên chứ c thanh liêm hay tham ô , siêng nă ng hay lườ i biếng.
3. Lậ u đinh có hai loạ i: có kẻ trố n trá nh sưu thuế mà lang thang, có kẻ đó i rét thâ n
mà xiêu tá n. Nay khô ng chia đẳ ng hạ ng, tấ t cả đều liệt và o sổ đinh, bắ t đó ng thuế
thâ n, họ tấ t sợ hã i mà tả n má t, lén lú t ở nú i rừ ng, dâ n ở lạ i phả i gá nh đậ y bồ i
thườ ng, thì sao chịu nổ i! Nay xin xét số lậ u đinh, ai cò n có nghề là m ă n thì thu thuế
như lệ , ai đó i rét khố n khó thì cho miễn thuế, tù y cá ch vỗ về để hạ ng cù ng dâ n
đượ c số ng lạ i.
4. Nên để cho dâ n yên tĩnh, khô ng nên là m độ ng, độ ng thì dễ loạ n, tĩnh thì dễ trị.
Nay bắ t dâ n să n bắ n ở nú i rừ ng, kiếm gà , lù ng ngự a, khô ng thể tấ t đứ c ý (triều
đình) quấ y rố i nhâ n dâ n địa phương. Lũ giả mạ o đi đến đâ u là m ná o độ ng đến đó ,
ngườ i đều than oá n. Xin từ nay hễ sai ngườ i đi là m việc phả i có giấ y tờ đó ng dấ u,
trình quan địa phương xem xét. Kẻ nà o nhiễu dâ n thì bắ t trị tộ i, may ra lò ng dâ n
yên tĩnh, khỏ i dao độ ng.
Nă m Giá p Tuấ t (1754) mù a hạ , Trinh cù ng Thiện Chính chia đườ ng mà tiến. Trinh
đi đến đâ u, giặ c đều tan chạ y đến đó ; qua Tâ n Lộ ra Đạ i giang, cù ng quâ n Thiện
Chính hộ i ở đồ n Lô Yêm. Bấ y giờ bố n phủ là Soi Rạ p (Lô i Lạ p), Tầ m Bô n, Cầ u Nam
và Nam Vang đều hà ng. Ta bèn chiêu phủ Cô n Man để là m thanh thế.
Cư Trinh là ngườ i có tà i lượ c, khéo quyết đoá n. Nhữ ng việc ô ng tâ u bà y phầ n nhiều
là lờ i trung, bà n phả i. Khi coi việc quâ n ở cõ i Nam, mở đấ t đai, giữ yên ngoà i biên,
huâ n nghiệp hơn ngườ i. ô ng lạ i giỏ i vă n, trộ i thơ, có tậ p Đạ m am lưu hà nh ở đờ i.
Cư Trinh có hai con trai: con trưở ng là Cư Dậ t, là ngườ i có khí khá i. Duệ Tô ng
Hoà ng Đế nă m thứ 9 (1774), quâ n Trịnh và o xâ m lấ n, khi đến huyện Quả ng Điền,
sự thể rấ t gấ p. Dậ t nghĩ nhà mình mấ y đờ i hưở ng lộ c, tự xin liều chết bá o đền nợ
nướ c. Lậ p tứ c đượ c chú a cho là m Cai độ i, đem quâ n đi chố ng giặ c, quâ n thế hơi
mạ nh. Đượ c thă ng Khâ m sai Thố ng binh. Nă m ấy (1774), mù a đô ng quâ n Trịnh
tiến gầ n đá nh gấ p, Cư Dậ t sang sô ng Phú Lễ, bị chết đuố i. Con thứ Cư Trinh là Cư
Tuấ n, lú c mớ i và o Gia Định sung Quố c tử giá m Thị họ c, trả i là m quan đến Cai bạ
Quả ng Trị, vì tham lam, ă n hố i lộ phả i tộ i đồ . Con Cư Tuấ n là Cư Sĩ mớ i 14 tuổ i, xin
thay cha đeoềng xích là m việc khổ sai. Thá nh Tổ Nhâ n Hoà ng Đế thương xó t tha tộ i
cho. Lạ i cho Cư Sĩ và o Giá m họ c, sau đó bổ dù ng, dầ n dầ n là m đến Ngự sử , Á n sá t,
trả i là m Bố chá nh hai tỉnh Phú Yên, Gia Định rồ i chết.
Nguyễn Đă ng Tiến
Thế Tô ng Hoà ng Đế lên ngô i chú a (1744) cho thă ng Tuầ n phủ Phú Yên. Ô ng là m
chính sự có lò ng nhâ n từ . Về triều, thă ng Vă n chứ c viện Thừ a chỉ.
Đă ng Tiến tính cương trự c và thanh cN53;n trọ ng giữ lờ i hứ a, thích giao du tâ n
khá ch, nó i chuyện suố t đêm vui vẻ quên mệt. Nhà nghèo xá c, nhưng vẫ n yên tâ m.
Lú c trẻ, là m vă n thích phong điệu Từ , Dũ (83), lú c cuố i đờ i, đọ c Hà n, Liễu (84) thể
vă n lạ i chuyển ra cổ kính và điển nhã , nhiều ngườ i hậ u họ c đều bắ t chướ c. Khi là m
quan ô ng trong sạ ch, thuộ c lạ i và dâ n đều yêu ô ng khô ng ai nỡ lừ a dố i.
Tá c phẩ m có Minh Khiêm thi tậ p lưu hà nh ở đờ i. Tiến có hai con: con trưở ng là
Đă ng Khuô ng, là m quan đến Cai bạ Quả ng Nam, tuầ n hà nh 5 phủ , kiêm lĩnh chứ c
Bình nhung. Con thứ là Đă ng Huy. Nă m Giá p Ngọ (1774), mù a đô ng, quâ n Trịnh
và o xâ m lấ n miền Nam, Huy chạ y đến nú i Minh Linh, mộ binh cầ n vương, tự xưng
là Bình Bắ c Đạ i tướ ng quâ n, đá nh nhau vớ i giặ c. Quâ n bị thua, Huy chết ở trong
rừ ng.
Nguyễn Đă ng Cẩ n
Trướ c kia Cẩ n có mộ t con ngự a khỏ e, gở i nuô i ở chỗ khá c. Đêm ấ y, nhà chủ mộ ng
thấ y Cẩ n vộ i và ng đến lấ y ngự a, tỉnh dậ y ra chuồ ng ngự a xem thì ngự a đã chết rồ i.
Nhà chủ lấ y là m lạ , vộ i đi bá o tin cho Cẩ n biết, mớ i hay Cẩ n đã chết từ canh hai đêm
ấ y rồ i. Đến lú c tra tấ n bọ n giặ c chú ng đều nó i: Đương đêm, thấ y Cẩ n cưỡ i
ngự a, mú a đao, đó n đá nh, cho nên khô ng trố n và o đâ u đượ c. Ai cũ ng cho là thiêng
bèn lậ p đền thờ Cẩ n ngay ở đấ y.
Con Cẩ n là Đă ng Thô ng, ngụ ở Gia Định. Khi Tâ y Sơn và o "cướ p, Thô ng mộ quâ n
cầ n vương, là m quan đến Khâ m sai Thố ng binh, đá nh nhau vớ i "giặ c" chết trậ n.
Thô ng có 3 con là Vinh, An và Thuậ n, đầ u thờ i trung hưng, đều tò ng quâ n, là m Cai
độ i.
Nộ i tá n Phạ m
Đến lú c Thầ n Tô ng nố i ngô i chú a, Anh bèn giữ Quả ng Nam là m phả n, triệu Phạ m
họ p bà n. Phạ m giả cá ch bà n mưu: xin đắ p lũ y chặ n quâ n, là m kế cố thủ . Rồ i bí mậ t
đem gia thuộ c trố n về, đem sự việc tâ u lên. Chú a bèn sai tướ ng đi đá nh, bắ t đượ c
Anh. Phạ m vì có cô ng, đượ c thă ng là m Nộ i tá n, coi việc chính sự .
Canh Thìn (1640), Thầ n Tô ng nă m thứ 5, chú a thấ y biên cả nh yên ổ n bèn để ý việc
doanh tạ o, xâ y Nam lâ u rấ t lộ ng lẫ y. Phạ m can rằ ng: "Thầ n nghe ngườ i xưa dù ng
ngườ i hiền là m giườ ng cộ t, lấy nhâ n đứ c là m thà nh quá ch, ung dung, lặ ng lẽ chắ p
tay mà nhà nướ c vữ ng như tấ m đá. Xưa, đế Nghiêu ở nhà tranh khô ng vá n, rui mè
khô ng chạ m trổ mà chư hầ u cả m nhậ n, bố n biển mến đứ c, hà tấ t phả i nhà cao lầ u
rộ ng mớ i thích ý? Và nay chú a Trịnh trên cậ y vua Lê, dướ i hiếp cô ng khanh, có ý
dò m ngó miền Nam đã lâ u, chú a thượ ng nên siêng nă ng lo nghĩ liệu cơ mà là m, mở
rộ ng bờ cõ i, chẳ ng tố t hơn sao ? Khô ng nghĩ là m việc ấ y, mà chỉ chă m chỉ lo việc
thô mộ c, thầ n thấ y là chưa nên đâ u". Chú a dịu nét mặ t mà bả o: "Việc nà y là do
nhữ ng kẻ nịnh hó t muố n tâ ng cô ng mà là m, khô ng phả i ý ta". Rồ i lậ p tứ c ra lệnh bã i
việc ấ y. Xa gầ n nghe biết đều cả mừ ng.
Phạ m tính cương trự c, mỗ i khi can ngă n, chú a phầ n nhiều đồ ng ý nghe theo. Tiếc
rằ ng khô ng biết rõ đượ c quê quá n và tuổ i thọ củ a .
Vũ Phi Thừ a
Nă m Nhâ m Tỵ (1672), mù a hạ , quâ n Trịnh và o cướ p trong Nam, chú a sai hoà ng tử
Hiệp là m Nguyên sú y, Phi Thừ a là m Tham mưu, sự vụ cơ mậ t trong quâ n phầ n
nhiều do ô ng bà y kế giú p cho việc lớ n đượ c thà nh cô ng. Sau đó Thừ a đượ c thă ng
Nha ú y coi Lệnh sử ty. Khi chết, đượ c tặ ng phong Tham nghị.
ight="16">
Nguyễn Khoa Chiêm
Là con thứ hai củ a Chiêm. Khoa Đă ng vì là con nhà thế phiệt đượ c bổ Vă n chứ c
viện. Hiển Tô ng Hoà ng Đế nă m 29 Canh Tý (1720), vâ ng mệnh đi Quả ng Nam và
Phú Yên, chia lạ i lậ p ấ p thuộ c. Nhâ m Dầ n (1722) Hiển Tô ng nă m 31, đượ c thă ng
Nộ i tá n kiêm Á n sá t sứ coi hết việc quâ n quố c trọ ng sự , định rõ điều lệ. Đườ ng
rừ ng Nhà Hồ (Hồ Xá ) thườ ng có giặ c cướ p tụ họ p, ngườ i đi đườ ng sợ hã i. Chú a sai
Đă ng đi kinh lý đấ t ấ y. Đă ng tớ i đặ t phép bắ t cướ p, lệnh cấ m nghiêm minh. Từ đó
bọ n cướ p im bặ t. Bờ biển Tam Giang gọ i là xứ Bà u Ngượ c (ở xã Vĩnh Xương và Kế
Mô n, thuộ c huyện Quả ng Điền), nướ c sâ u sô ng cong, mù a thu đô ng thườ ng có gió
to só ng dữ thuyền đi thườ ng bị đắ m. Đă ng cho dâ n đà o và nắ n thẳ ng sô ng ấ y để rú t
bớ t sứ c nướ c. Bấ y giờ thuyền đi mớ i khô ng trở ngạ i, ngườ i đi buô n và khá ch đi
đườ ng đượ c tiện lợ i mọ i ngườ i đều ca tụ ng.
Đă ng là ngườ i nghiêm khắ c, ngay thẳ ng, khô ng nể kẻ quyền thế. Nhữ ng hoà ng thâ n
quố c thích ă n tiêu xa xỉ, thườ ng mượ n tiền kho, lâ u trả lạ i, Đă ng xin đò i nợ , tâ u vớ i
chú a rằ ng: "Phép là m nên bắ t đầ u từ ngườ i thâ n trướ c thì việc mớ i thà nh đượ c",
Chú a nghe theo lờ i xin ấ y. Có mộ t trưở ng cô ng chú a nợ tiền cô ng rấ t nhiều, cá c
thuộ c viên khô ng ai dá m đến cử a đò i nợ. Đă ng sai vài bọ n thị tỳ rình trưở ng
cô ng chú a đi ra, giữ kiệu lạ i, đò i nợ . Bà chú a nà y giậ n quá , và o cung, khó c tố vớ i
nhà chú a rằ ng: "Chú a thượ ng lạ i khô ng bênh vự c đượ c chị à ? Nộ i tá n sao dá m là m
thế!". Chú a yên ủ i bả o: "Phép nướ c thi hà nh từ ngườ i thâ n trướ c, Nộ i tá n chấ p
hà nh đú ng phép, thì là m thế nà o đượ c?" Chú a bèn cho tiền để bà chú a trả nợ . Từ
đó nhữ ng ngườ i mắ c nợ đều đem tiền trả , khô ng dá m để chậ m nữ a.
Đă ng lạ i từ ng nghiêm ngặ t hạ n chế việc mua thịt, ai mua nhiều thì bắ t tộ i. Nhữ ng
kẻ quyền quý vai vế cho là bấ t tiện, phầ n nhiều oá n ghét. Mộ t hô m có ô ng Quố c
thú c (85) (có thuyết nó i là Luâ n quố c cô ng) đó n Đă ng đến nhà , mờ i ă n cơm muố i.
Đă ng từ chố i. Quố c thú c cườ i nó i: "Anh khô ng ă n cơm muố i đượ c sao lạ i cấ m ngườ i
ta ă n cơm thịt". Nhữ ng chuyện chuố c oá n phầ n nhiều đạ i loạ i như thế.
Trướ c kia cù ng cha là Chiêm giữ việc chính sự , Đă ng có tà i xét việc nhấ t là giỏ i
phá n đoá n, phá t hiện kẻ gian vạ ch rõ việc kín như thầ n. Đờ i truyền có ngườ i trồ ng
dưa, đêm bị kẻ khá c dù ng xẻng phá hủ y, khô ng biết thủ phạ m là ai. Ngườ i chủ dưa
đem việc đến kiện. Đă ng lậ p tứ c cho thu hết xẻng củ a cá c ngườ i trong là ng, và ra
lệnh ai nấ y biên tên và o xẻng. Rồ i sai ngườ i lấ y lưỡ i liếm và o xẻng: mộ t cá i xẻng có
vị đắ ng. Đem tra xét, quả nhiên bắ t đượ c đứ a phá hủ y dưa ấ y.
Lạ i, kẻ cướ p ở truô ng Nhà Hồ ă n cướ p giấ y củ a lá i buô n, khô ng truy đượ c dấ u vết
gì. Ngườ i lá i buô n đem việc ấ y đến kiện. Đă ng thong thả sứ c dâ n sở tạ i mỗ i ngườ i
khai họ tên quê quá n, mỗ i ngườ i mộ t bả n. Giá giấ y do đó đắ t lên, tên kẻ cướ p đem
giấ y ra bá n. Nhâ n thế, bắ t đượ c bọ n cướ p giấ y.
Đă ng có hai con trai là Hiếu và Trự c. Hiếu là m quan đến Khâ m sai Tham tá n, Trự c
là m quan đến Tuầ n phủ Phú Yên.
Toà n có ba con trai: trưở ng là Kiên, thứ là Minh, thứ ba là Hà o đều có truyện riêng.
Nguyễn Khoa Kiên
Trầ n Đình  n
Ngườ i huyện Minh Linh, thuộ c Quả ng Trị (Minh Linh trướ c thuộ c Quả ng Bình). Â n
là ngườ i trọ ng hậ u khoan hò a, có độ lượ ng nhã nhặ n, lú c đầ u giữ chứ c Thủ bạ .
Giá p Tý, Thá i Tô ng nă m thứ 36 (1684) mù a đô ng, Đình  n đượ c thă ng Cai hợ p. Khi
Anh Tô ng Hoà ng Đế mớ i nố i ngô i chú a, Đình  n đượ c thă ng Câ u kê kiêm Tri bạ . Kỷ
Tỵ , nă m thứ 2 (1689) đượ c thă ng Cai bạ Phó đoá n sự . Canh Thìn, Hiển Tô ng Hoà ng
Đế nă m thứ 9 (1700) mù a đô ng, thă ng Tham chính Chá nh đoá n sự . Quý Mù i Hiển
Tô ng nă m thứ 12 (1703) mù a thu, Đình  n 78 tuổ i, dâ ng sớ xin cá o lã o. Chú a ban
chiếu â n cầ n nhưng khô ng cho hưu. Đình  n hai ba lầ n trầ n tình cớ xin, chú a mớ i
ưng thuậ n. Đến lú c và o tạ , chú a đích thâ n là m thơ và lờ i tự a viết và o lĩnh hoa trắ ng
để ban cho. Lờ i tự a rằ ng:
"Quố c Chú a Thiên Tú ng Đạ o Nhâ n (87) ngự sắ c ban cho Tham chính Chá nh đoá n
sự Đô ng Triều hầ u Trầ n Đình  n từ chứ c về là ng bà i thơ và lờ i tự a. Khanh trả i giú p
bố n triều đó ng gó p nhiều về chính sự trong nướ c và kỷ cương triều đình. Trong số
bầ y tô i, duy khanh cầ n cù hơn cả . Lạ i mừ ng rằ ng khanh là ngườ i khiêm nhườ ng ô n
hò a, vui đạ o, hiếu thiện. Bở i thế quế thơm, bạ n tố t, mộ t nhà quý hiển, tuổ i gầ n 80
vẫ n chưa bạ c đầ u. Thế là ngườ i Phướ c thọ củ a nướ c ta. Nay vì chuộ ng đạ o, ưa tĩnh,
xin từ chứ c về là ng, ta cố giữ mã i hai ba lầ n vẫ n khô ng lay chuyển đượ c ý chí. Lú c
ra về, ta đặ c cá ch ban cho 10 mẫ u ruộ ng, 10 lính hầ u, dù ng để là m dưỡ ng lã o. Như
thế e chưa đủ hết lò ng ta, vậ y tặ ng mộ t bà i thơ bả y chữ để tỏ hết ý ta". Thơ rằ ng:
Phiên â m:
Hy hy hạ c phá t đồ ng Thương Hạ o
Dịch thơ:
Bính Tuấ t, Hiển Tô ng nă m thứ 15 (1706), mù a xuâ n, ô ng ố m chết, thọ 81 tuổ i. Chú a
nghe tin, thương tiếc mã i, truy tặ ng Đô n hậ u cô ng thầ n Đặ c tiến Trụ quố c Kim tử
vinh lộ c đạ i phu, Đạ i lý tự khanh, thụ y Thuầ n Thiện, cho 18 ngườ i coi mả . Lạ i miễn
thuế tư điền 30 mẫ u để dù ng việc tế tự .
Minh Mạ ng nă m thứ 5 (1824) truy phong là thầ n Cả nh lượ ng, cho dâ n xã Hà Trung
thờ .
 n có hai con trai: trưở ng là Đình Khá nh, thứ là Đình Thuậ n.
Hiển Tô ng nă m thứ 10 (1701) đượ c thă ng Cai bạ Quả ng Nam. Hiển Tô ng nă m thứ
11 (1702), ngườ i châ u Bố Chính bắ t đượ c giá n điệp củ a nhà Trịnh. Tướ ng giữ đồ n
là Trịnh Huyên đưa thư đến doanh Bố Chính trá ch việc ấ y. Tướ ng ngoà i biên tâ u
lên. Chú a sai Đình Khá nh viết thư trả lờ i. Huyên đượ c thư, ỉm việc ấ y đi. Đình
Khá nh ở Quả ng Nam, rấ t có tiếng tố t về chính sự , chú a ban cho câ u đố i ngự chế:
Nghĩa là :
Khi Đình Khá nh chết, đượ c tặ ng phong là Đặ c tiến Kim tử vinh lộ c đạ i phu, Thá i
thườ ng tự khanh, thụ y là Thô ng Trí. Minh Mạ ng nă m thứ 5 gia phong là thầ n Trung
hiếu, cũ ng cho dâ n xã Hà Trung thờ .
Con thứ Đình  n là Đình Thuậ n, do châ n ấ m đượ c bổ Vă n chứ c. Hiển Tô ng Hoà ng
Đế nă m thứ 12 (1703), Thuậ n cù ng Ngoạ i tả Chưở ng cơ Tô n Thấ t Diệu vâ ng chiếu
chỉ đô n đố c binh lính đắ p đê ở kênh Hà Kỳ, từ Lai Cá ch đến Thủ y Tiên, tấ t cả nă m
chỗ để tiện vậ n tả i. Mộ t thá ng thì là m xong, đượ c thưở ng bạ c theo thứ bậ c.
Nă m Hiển Tô ng thứ 13 (1704), Đình Thuậ n đượ c thă ng Đô tri, nă m thứ 15 (1706)
đượ c thă ng Cai bạ Phó đoá n sự .
Con Đình Khá nh là Đình Hy, trả i là m quan đến Cai bạ Bình Thuậ n. Thế Tô ng Hoà ng
Đế nă m đầ u (1738) và o là m Chá nh doanh Tri bạ . Nă m 14 (1752) cù ng Cai cơ kiêm
Hình bộ Nguyễn Hữ u Bá c là m Khâ m sai tuầ n xét quan lạ i cá c huyện trong kỳ phụ .
Đến lú c về, Hy đượ c thă ng Hộ bộ kiêm Binh bộ , rồ i chết.
Con là Hiến, ấ m thụ Hà n lâ m viện, trả i là m quan đến Ký lụ c doanh Quả ng Nam.
Vũ Đình Phương
Ngườ i huyện Lệ Thủ y thuộ c Quả ng Bình. Cha là Thế, đỗ Hương tiến, là m Tri phủ
Quy Ninh (tên gọ i củ a phủ Quy Nhơn từ 1651 đến 1742). Đình Phương từ thuở trẻ
đã chă m họ c, khéo là m vă n. Nă m 18 tuổ i, khoả ng đờ i Thầ n Tô ng Hoà ng Đế, thi
Hương đỗ thủ khoa. Đình Phương mặ t rỗ , ngườ i lù n, đầ u rấ t to, khá c hẳ n mọ i
ngườ i. Ngườ i ta gọ i là : "ô ng cố ng đầ u". Chú a cho vờ i và o yết kiến, thấ y trạ ng mạ o
xấ u nó i: "Đá ng tiếc, có tà i, khô ng có tướ ng". Bèn cho về.
Đình Phương mấ t, thọ 90 tuổ i, đượ c tặ ng phong Thá i thườ ng tự khanh, khô ng có
con kế tự .
Vũ Xuâ n Nù ng
Ngườ i huyện Diên Phướ c thuộ c Quả ng Nam. Lú c trẻ đã hiên ngang, họ c rộ ng, thô ng
kinh sử mà tính ngườ i cương trự c ngay thẳ ng khô ng tin ma quỷ.
Nă m Tâ n Mù i (1751), chú a triệu Kính về, thă ng Cai bạ Quả ng Nam. Đườ ng đi qua
xã Hương Ly (thuộ c Quả ng Nam), đấ t ấ y có chù a thờ Phậ t, trướ c chù a có con Nghê
đá , đêm thườ ng tá c quá i, ngườ i ta sợ hã i bá o cho Kính biết. Kính viết mộ t chữ "tử "
(chết) và o trá n con Nghê. Từ đấ y Nghê khô ng cò n tá c quá i nữ a. Lạ i, ở Quả ng
Nam đồ ng ruộ ng có nạ n nhiều chuộ t, dâ n đến kêu, Kính hạ lệnh bắ t chuộ t đem nộ p.
Dâ n về tìm thì chuộ t đều mấ t tích. Ngườ i ta đều cho Kính là thầ n vậ y.
Kính thườ ng phụ ng mệnh đi tuầ n xét quan lạ i cá c doanh xem ai hay dở . Con trưở ng
củ a Kính nhậ n củ a ngườ i ta đú t ló t. Kính xử tử hình. Nha lạ i đều can ngă n. Kính nó i:
"Thằ ng con ngu như lợ n nà y là m ô nhụ c gia phong để số ng có ích gì! Hơn nữ a, phép
nướ c sờ sờ ra đó , lẽ nà o lấ y tư bỏ cô ng ?" Đến lú c á n dâ ng lên, đượ c chú a tha,
nhưng ngườ i con ấ y cuố i cù ng vì sợ hã i mà chết!
Lạ i, Kính trướ c là m Giá o chứ c, Ký lụ c Quả ng Nam Vũ Xuâ n Nù ng rấ t kính trọ ng.
Mộ t hô m Nù ng đương ngồ i rỗ i, gặ p Kính đến, nó i chuyện rấ t vui. Nhâ n bà n đến chỗ
nghĩa sá ch cò n ngờ , hai bên cù ng nhau biện bạ ch. Kính kiên trì ý mình, khô ng chịu
khuấ t? Nù ng giậ n ra mặ t, nó i: "Về kinh họ c, thiên hạ há chỉ mộ t mình anh biết à ?"
Kính đứ ng phắ t dậ y đi ngay.
Kính có ba con trai là Quả Nghị, Tô n Thà nh, Lạ c Thiện, và mộ t con gá i là Lam Anh,
tiểu tự là Khuê, từ nhỏ đã nhanh nhẹn, thô ng minh, biết là m thơ, tự hiệu là Ngâ m
Xi. Kính rấ t yêu chiều, đó n Nguyễn Dũ ng Hiệu đến dạ y họ c ở nhà , định kén là m rể.
Hiệu là ngườ i huyện Duy Xuyên, thuộ c Quả ng Nam vố n có tiếng hay thơ, hiệu là
Phướ c Am. Kính đi là m quan, lưu Hiệu ở nhà dạ y cá c con. Hiệu cù ng Lam Anh lấy
thư từ tặ ng đá p nhau, rồ i tư thô ng vớ i nhau. Kính về, giậ n lắ m, muố n trầ m hà Lam
Anh. Có ngườ i bạ n khuyên giả i mớ i thô i. Cuố i cù ng gả Lam Anh cho Hiệu. Lam Anh
đã về vớ i Hiệu, cù ng nhau xướ ng họ a, có tậ p Chiến cổ Đườ ng thi lưu hà nh ở đờ i.
Thơ Lam Anh có nhiều câ u hay. Bà i Vịnh
Khuấ t Nguyên có câ u:
Nghĩa là :
Ngườ i huyện Quả ng Điền phủ Thừ a Thiên, họ c vấ n rộ ng khắ p, Quang Tiền giỏ i thơ.
Đờ i Hiển Tô ng Hoà ng Đế , đượ c sung Vă n chứ c viện, đã từ ng là m bà i biểu cầ u
phong đưa sang triều đình nhà Thanh.
Quang Tiền họ c rộ ng, biết nhiều, cà ng tinh thiên vă n. Khoả ng nă m Duệ Tô ng Hoà ng
Đế có sao chổ i mọ c, Quang Tiền chỉ lên sao chổ i nó i vớ i ngườ i ta rằ ng: "Khô ng
ngoà i 4, 5 nă m nữ a, Quả ng Nam sẽ có binh đao", sau quả nhiên đú ng (93). Sự họ c
củ a Quang Tiền tinh thô ng là như th871;.
Hồ Quang Đạ i
Lạ i có tên là Há n Châ u, ngườ i huyện Hương Trà , phủ Thừ a Thiên. Thá i Tô ng Hoà ng
Đế nă m thứ 4 (1652), đỗ thủ khoa Nhâ m Thìn, đượ c bổ Vă n chứ c. Nă m thứ 8
(1656), là m Tri huyện Phú Vang. Khi tạ i chứ c, hò a nhã cai trị dâ n, bớ t sự phiền
nhiễu hà khắ c, cố t giữ trong sá ng yên tĩnh, lạ i và dâ n đều khen . Nă m 11 (1659)
thă ng Tri phủ Thă ng Hoa. Khi về triều, đượ c thă ng Thị giả ng, Tri kinh diên. Khi
mấ t, đượ c tặ ng phong Phụ chính An biên Phướ c đứ c quố c sư.
<div height="0">
Lê Quang Đạ i
Ngườ i huyện Phú Vang, phủ Thừ a Thiên. Cha là Quang Hiến, trướ c là m Ký lụ c, sau
lên Nha ú y rồ i đến Tham nghị. Quang Đạ i ban đầ u vì có vă n họ c đượ c bổ và o viện
Vă n chứ c, rồ i ra là m tham mưu doanh Bình Thuậ n. Tú c Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 10
(1734) thă ng Cai bạ Quả ng Nam; nă m thứ 13 (1737), thă ng Chá nh doanh Cai bạ
Phó đoá n sự ; Thế Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 6 (1744), thă ng là m Hộ bộ kiêm Binh
bộ . Nă m thứ 7 (1745) mù a đô ng mấ t, đượ c tặ ng phong là Chính trị thượ ng khanh,
thụ y là Trung Thà nh.
Mai Cô ng Hương
Đặ ng Đạ i Độ
Đến lú c thi Hương, đỗ thủ khDuệ Tô ng Hoà ng Đế, là m Hà n lâ m viện Thí giả ng. Nă m
Đinh Hợ i (1767) mù a đô ng, thă ng Ký lụ c Quả ng Nam.
Nă m Canh Dầ n (1770) mù a hạ , man Thạ ch Bích quấ y nhiễu ngoà i biên, chú a lậ p
tứ c sai Phướ c Thà nh là m Khâ m sai Cai bạ , tuầ n hà nh 5 phủ , tham mưu việc đá nh
giặ c, điều khiển tướ ng sĩ 6 đạ o doanh đến Quả ng Ngã i, và quâ n lính hai phủ Quy
Nhơn, Phú Yên đi đá nh dẹp yên giặ c ấ y.
">
Nă m Nhâ m Thìn (1772), mù a xuâ n, chú a sai Phướ c Thà nh là m Khâ m sai Tham tá n
doanh đồ n Gia Định, cù ng Chưở ng cơ Nguyễn Cử u Đà m lã nh mộ t vạ n quâ n thủ y,
quâ n bộ Bình Khang, Bình Thuậ n, và 30 chiếc thuyền, thay là m Điều khiển. Bấy giờ
vua Xiêm đến Châ n Lạ p, giữ phủ Nam Vang. Quâ n ta tiến đến, đá nh phá đượ c quâ n
Xiêm, lấy lạ i cá c phủ Nam Vang và La Bích. Nướ c Châ n Lạ p đượ c yên. Vua Xiêm
chạ y sang Hà Tiên, rồ i giả ng hò a vớ i Tổ ng binh Mạ c Thiên Tứ .
Nă m Ấ t Mù i (1775) mù a đô ng, Phướ c Thà nh chết ở quâ n thứ . Gia Long nă m thứ 5
(1806), hà i cố t đượ c đem về tá ng ở là ng cũ là xã Hó a Khuê thuộ c Quả ng Nam. Nă m
thứ 9 (1810), đượ c thờ và o miếu Trung tiết cô ng thầ n.
Con là Phướ c Tụ y là m quan đến Tri phủ . Tự Đứ c nă m thứ 4 (1851) ấ m thụ cho
chá u bố n đờ i là Bồ i là m Bá hộ , trô ng coi việc thờ cú ng Phướ c Thà nh.
Lê Xuâ n Chính
Ngườ i huyện Lệ Thủ y thuộ c Quả ng Bình. Lú c trẻ tuổ i họ c Nho, có tướ ng quâ n trấ n
thủ doanh Lưu Đồ n là Trấ n Ninh hầ u sai giả ng nghĩa cố t yếu củ a kinh Thi. Nă m
Hiển Tô ng
Hoà ng Đế thứ nhấ t (1691), dâ ng biểu tiến cử Xuâ n Chính sung là m Vă n chứ c doanh
Lưu Đồ n, rồ i thă ng là m Ký lụ c.
Con thứ hai củ a Xuâ n Chính là Xuâ n Huyên cũ ng do châ n ấ m tử đượ c và o viện Vă n
chứ c. Thế Tô ng Hoà ng Đế nă m 11 (1749), thă ng Ký lụ c dinh Bố Chính. Nă m thứ 15
(1753) mù a hạ , thă ng Ký lụ c Quả ng Nam. Nă m thứ 18 (1756) thă ng Hình bộ . Nă m
thứ 20 (1758), lạ i là m Cai bạ doanh Quả ng Nam. Nă m thứ 24 (1762), thă ng Hộ bộ
kiêm Binh bộ , lĩnh Đạ i tư nô ng. Nă m Ấ t Dậ u (1765), mù a hạ , Duệ Tô ng Hoà ng Đế
mớ i lên ngô i, đượ c thă ng Tham chính, quả n Hộ bộ kiêm Binh bộ . Canh Dầ n (1770),
nă m thứ 5 chú a cho dự ng Vă n miếu ở Long Hồ , Xuâ n Huyên vâ ng mệnh xem đấ t và
trô ng coi việc xâ y dự ng. Quý Tỵ Duệ Tô ng nă m thứ 8 (1773), mù a xuâ n, Huyên
chết, đượ c tặ ng phong Đạ i lý tự thượ ng khanh, thụ y là Trung Thà nh. Sau đó , vì có
cô ng chọ n đấ t lậ p Vă n miếu, đượ c thờ ở Dụ y Lễ đườ ng bênh Vă n miếu. Nă m đầ u
Gia Long (1802), vẫ n cò n để nguyên thế, đến nă m thứ 7 (1808), đổ i lậ p Vă n miếu ở
chỗ ngà y nay, Xuâ n Huyên mớ i khô ng đượ c thờ ở Dụ y Lễ đườ ng nữ a.
Nguyễn Hữ u Tô n
Tiên tổ là ngườ i huyện Chương Đứ c trấ n Sơn Nam, ban đầ u theo và o Nam, nhậ p
tịch ở xã Mậ u Tà i phủ Thừ a Thiên. Cha là Hữ u Tườ ng, là m quan đến Cai cơ Quả ng
Bình đượ c tặ ng phong Cẩ m y vệ Chưở ng vệ sự . Hữ u Tô n con nhà thế phiệt, có vă n
họ c, nên buổ i đầ u đượ c bổ Vă n chứ c kiêm Thị giả ng. Duệ Tô ng Hoà ng Đế nă m mớ i
lên ngô i ( 1765), thă ng Binh bộ kiêm Thị giả ng như cũ . Nă m thứ 3 (1767), thă ng
Lạ i bộ , Tri kinh diên, kiêm Hình bộ , Tri tà o vậ n. Khi chết đượ c tặ ng phong Tham
nghị, thụ y là Vă n Định.
Nguyễn Thừ a
Ngườ ;i huyện Đă ng Xương thuộ c Quả ng Trị. Buổ i đầ u là m chính sự có tiếng là giỏ i
việc quan, dầ n thă ng đến Ký lụ c Quả ng Nam. Giá p Tý Thế Tô ng nă m thứ 6 (1744),
mù a hạ , thă ng Cai bạ . Kỷ Tỵ , Thế Tô ng nă m thứ 11 (1749), đượ c triệu về triều,
thă ng Hộ bộ kiêm Binh bộ . Thừ a Tự là m việc tinh tườ ng, ngườ i ta phụ c là nhanh.
Canh Ngọ , Thế Tô ng nă m thứ 12 (1750) mù a thu, Thừ a Tự chết, đượ c tặ ng phong
Tham chính, thụ y là Thậ n Cầ n. Ô ng có hai con trai là Thừ a Diễn và Thừ a Mâ n, đều
là m quan to, có truyện riêng.
Nguyễn Đă ng Trườ ng
Ngườ i huyện Hương Trà , phủ Thừ a Thiên. Ô ng nộ i là Đà n, có tiếng là họ c giỏ i, nết
tố t, nên đờ i gọ i là Siêu quầ n tiên sinh, có truyện riêng. Trườ ng cũ ng nổ i tiếng về
vă n họ c, khả ng khá i có chí khí và tiết thá o.
"3" face="Times New Roman">Duệ Tô ng nă m thứ 9 Giá p Ngọ (1774), quâ n Trịnh
và o xâ m lấ n. chú a sai Tiết chế Tô n Thấ t Chấ t và Tô n Thấ t Doanh đem quâ n thủ y,
quâ n bộ đi chố ng cự . Trườ ng là m Tham tá n, đá nh nhau vớ i giặ c ở sô ng Phú Lễ, thấ t
bạ i. Trườ ng theo chú a đi Quả ng Nam, sắ p vượ t biển và o Gia Định thì ngượ c gió
khô ng đi đượ c. Chú a sai Trườ ng lên bộ cầ u đả o. Thuyền chú a thuậ n gió đi ngay ban
đêm. Trườ ng khô ng kịp đi theo, bèn về ẩ n ở thô n quê.
Trướ c đó , Hoà ng tô n Dương bị "giặ c" cưỡ ng ép đem và o Quy Nhơn, Trườ ng bèn bí
mậ t bà n mưu vớ i Dương để Dương và o Gia Định trướ c. Mộ t hô m Trườ ng nó i thự c
vớ i Huệ xin theo chO11; cũ cho toà n nghĩa vua tô i. Huệ nó i: "Tiên sinh đi chuyến
nà y, ý muố n xoay lạ i trờ i đấ t, đượ c chă ng? Tô i e ngà y sau ă n nă n cũ ng muộ n mấ t".
Trườ ng nó i: "Đạ i trượ ng phu ở đờ i lấ y trung hiếu là m đầ u. Tô i nay mang mẹ đi
theo vua, nghĩa ấ y thậ t đã rõ rà ng; cò n việc cù ng hay thô ng, đượ c hay hỏ ng là ở số
mệnh, đâ u có ă n nă n!" Huệ khen khả ng khá i, cho đi và hậ u tiễn cho và ng, lụ a,
Trườ ng đều khô ng nhậ n.
Trườ ng đến Gia Định, yết kiến ở hà nh tạ i, tham dự bà n mưu. Nă m Đinh Dậ u (1777)
Nguyễn Vă n Huệ và o đá nh. Tâ n Chính vương (Hoà ng tô n Dương) đó ng quâ n ở
Trấ n Biên. Quâ n Hò a Nghĩa củ a Lý Tà i đá nh nhau vớ i giặ c, bị thua. Trườ ng xin lui
về Sà i Gò n để tính việc đá nh và giữ .
Đến lú c Sà i Gò n thấ t thủ , Trườ ng lạ i bị bắ t. Huệ hỏ i "Tiên sinh, ngà y nay tính sao?"
Trườ ng đáp: "Việc ngà y nay, chỉ giữ nghĩa, khô ng mong số ng. Vua nhụ c, tô i chết đó
là phậ n sự . Cò n hỏ i là m chi!" Huệ bèn sai giết đi. Lú c sắ p bị hà nh hình, Trườ ng
hướ ng về phía bắc, lạ y hai lạ y rồ i chịu chết.
Con là Cao, cá c họ c trò là Nguyễn Thanh, Nguyễn Luâ n và Nguyễn Thườ ng đều
nhả y xuố ng sô ng tự tử . Mẹ là Hoà ng thị cũ ng hoả ng sợ mà chết (Có mộ t thuyết nó i:
có võ sĩ tên là Điển Nghệ (khô ng nhớ họ ) ở dướ i trướ ng Tâ n Chính vương, đá nh
nhau vớ i giặ c ở sô ng Tranh; lạ c mấ t chú a, nghe tin Nguyễn Đă ng Trườ ng chết, cũ ng
nhả y xuố ng giếng c
Gia Long nă m thứ 3 (1804), triều đình lụ c dụ ng con Trườ ng là Minh cho và o Hà n
lâ m viện. Nă m thứ 9 (1810) cho đưa Trườ ng và o thờ ở miếu Trung tiết cô ng thầ n.
Minh Mạ ng nă m thứ 3 (1822) truy tặ ng hà m Binh bộ Thượ ng thư, xét đến hai chá u
là Trinh và Nguyên, đều miễn thuế thâ n suố t đờ i.
Bù i Hữ u Lễ
Ngườ i huyện Phú Vang, phủ Thừ a Thiên. Buổ i đầ u theo Duệ Tô ng Hoà ng Đế và o
Gia Định, là m Ký lụ c doanh Long Hồ . Nă m Bính Thâ n (1776), "giặ c" Tâ y Sơn và o lấ n
cướ p; tướ ng "giặ c" là Điều khiển Hò a (94) xâ m phạ m Long Hồ , Hữ u Lễ chố ng đá nh,
bị giặ c bắ t đượ c. Hữ u Lễ chử i giặ c, khô ng chịu khuấ t, bị giặ c mổ ă n thịt.
Gia Long nă m thứ 4 (1805), con là Hữ u Thụ c đem việc tâ u bày. Vua nó i "Hữ u Lễ
chết trung, nên tha thuế thâ n cho con để nêu tiết nghĩa ngườ i là m tô i". Bèn cho
Thụ c miễn lao dịch suố t đờ i. Nă m thứ 9 (1810), cho Hữ u Lễ đượ c thờ ở miếu
Trung tiết cô ng thầ n.
Đoà n Đứ c Hiệp
Ngườ i huyện Phú Vang, phủ Thừ a Thiên. Buổ i đầ u là m quan tớ i chứ c Cai á n, có
tiếng là lạ i viên giỏ i. Nă m Ấ t Mù i (1775), theo Thố ng suấ t Tố ng Vă n Khô i đá nh
"giặ c" Tâ y Sơn ở sô ng Tam Đố c thuộ c Bình Hò a, bấ t lợ i. Nă m ấ y, Duệ Tô ng và o
Nam, khi đến cO17;a biển Vâ n Phong, Hiệp đến yết kiến, chú a cho chứ c Hà n lâ m
viện, theo và o Gia Định, chuyên là m Khâ m sai Tham mưu, thă ng Cô ng bộ . Hò a
Nghĩa đạ o Lý Tà i đem quâ n ép bứ c ngự giá . Hiệp khô ng theo, bị hạ i.
Con Hiệp là Luậ n, đờ i Minh Mạ ng (1820-1840) là m quan đến Thố ng chế doanh
Thầ n cơ.
Đỗ Vă n Hoả ng
Con là Liên ban đầ u là m Tri huyện, sau đổ i là m Cai độ i thố ng suấ t quậ n Tam Kỳ.
Nă m Giá p Ngọ (1774), đá nh nhau vớ i "giặ c" ở Liên Sơn (thuộ c Quả ng Nam) bị chết
trậ n.
QUYỂ N 6
TRUYỆ N CÁ C BỀ TÔ I (IV)
Ngườ i Lô i Châ u thuộ c tỉnh Quả ng Đô ng. Khi nhà Minh mấ t, ngườ i Thanh bắ t dâ n
ró c tó c. Cử u cứ để tó c dà i, đi sang Nam. Đến nướ c Châ n Lạ p, Cử u là m ố c nha (95).
Thấ y phủ Sà i Mạ t có ngườ i Kinh, ngườ i Trung Quố c, ngườ i Châ n Lạ p và ngườ i Chà
Và buô n bá n đô ng đú c, Cử u bèn dờ i đến ở Phương Thà nh, mở sò ng bạ c gọ i là "Hoa
chi" để lấ y hồ . Lạ i đà o đượ c hố bạ c, do đó vọ t lên già u có . Cử u chiêu tậ p nhữ ng dâ n
xiêu tá n ở Phú Quố c, Cầ n Bộ t, Rạ ch Giá (Gia Khê), Lũ ng Ca, Hương Ú c và Cà Mau
(KhaMao) lậ p là m 7 xã thô n. Lạ i vì đấ t ở đó có ngườ i tiên ẩ n hiện ở trên sô ng, nên
gọ i là Hà Tiên. Chỗ ấy gầ n nú i, ven biển, có thể tụ họ p buô n bá n để sinh lợ i. Gặ p lú c
ngườ i Xiêm sang đá nh lấ n Châ n Lạ p, ngườ i Châ n Lạ p vố n ươn nhá t, nghe giặ c đến
là chạ y. Tướ ng Xiêm gặ p Cử u bèn dụ đem về nướ c. Cử u bấ t đắ c dĩ đi theo. Sang đến
Xiêm, vua Xiêm thấ y trạ ng mạ o Cử u, cho là lạ , vui mừ ng giữ lạ i, cho ở nú i Vạ n Tuế.
Sau đó , nhâ n nướ c Xiêm có nộ i biến, Cử u bèn lén về Lũ ng Cả . Nhữ ng dâ n xiêu tá n
quy phụ c vớ i Cử u ngà y mộ t đô ng. Cử u thấ y Lũ ng Cả đấ t hẹp khô ng thể ở đô ng
ngườ i đượ c lạ i dờ i về Phương Thà nh. Thương nhâ n và lũ khá c bố n phương
theo đến đô ng nhiều.
Có mưu sĩ là Tô Quâ n bả o Cử u: "Ngườ i Châ n Lạ p tính giả o quyệt gian trá , ít trung
hậ u, khô ng thể nương tự a lâ u đượ c Nghe nó i chú a Nam triều có tiếng nhâ n nghĩa,
uy đứ c vố n đủ tin, chi bằ ng đ871;n gõ cử a xưng thầ n để gâ y thế bá m rễ vữ ng chắ c.
Muô n mộ t có biến cố gì, thì nhờ chú a giú p đỡ ". Cử u cho lờ i bà n ấ y là phả i.
Cử u về trấ n, dự ng thà nh quá ch, lậ p doanh ngũ , đặ t liêu tá , là m nhiều nhà khá ch để
đó n tiếp hiền tà i. Dâ n đến ở ngà y cà ng đô ng, Hà Tiên trở thà nh mộ t đô hộ i nhỏ .
Trướ c đó , mẹ Cử u là Thá i thị nhớ con ngà y mộ t tha thiết, bèn từ Lô i Châ u vượ t
biển đến; Cử u phụ ng dưỡ ng đầ y đủ , ở đã đượ c lâ u. Mộ t hô m, bà mẹ và o chù a Tam
Bả o, cú ng lễ Phậ t ngồ i nghiễm nhiên trướ c Phậ t mà hó a. Cử u nhâ n đó đú c tượ ng bà
mẹ, đặ t và o khá m ở chù a mà thờ . Tượ ng ấy đến nay vẫ n cò n.
2. <i>Bình Sơn điệp thú y (Nú i Bình Sơn trậ p trù ng xanh biếc)
Tin thắ ng trậ n đưa đến, chú a trầ m trồ khen ngợ i và cho là lạ đặ c cá ch trao cho
Thiên Tứ là m Đô đố c Tướ ng quâ n, ban cho á o bà o đỏ và mũ , đai. Nguyễn thị cũ ng
đượ c phong là m phu nhâ n. Bở i thế, Châ n Lạ p khô ng dá m nhò m ngó Hà Tiên nữ a.
Đinh Mã o, Thế Tô ng nă m thứ 9 (1747), Thiên Tứ sai ngườ i cưỡ i thuyền Long bà i
đem phẩ m vậ t cung tiến. Chú a ban khen, cho 4 đạ o sắ c để phong cho cá c viên Cai
độ i, Độ i trưở ng là m ệc ở trấ n, lạ i ban gấ m vó c đồ đạ c và cho về. Gặ p có giặ c biển
tên là Đứ c, đến cướ p bó c ngoà i hả i phậ n Long Xuyên, Thiên Tứ đượ c tin bá o liền
sai con rể là Cai độ i Từ Hữ u Dụ ng đem 10 chiến thuyền, bắ t đượ c bố n tên trong
bọ n phỉ, tên Đứ c chạ y đến Ba Thắ c, bị quâ n Xiêm bắ t đượ c, chém đi. Dư đả ng đều
tan.
Duệ Tô ng Hoà ng Đế nă m đầ u Bính Tuấ t (1766), mù a thu, Phong vương nướ c Xiêm
(vua Xiêm bị bệnh hủ i, ngườ i trong nướ c gọ i là Phong vương) sử a soạ n chỉnh đố n
chiến thuyền ấ n định nhậ t kỳ sang xâ m lấ n Hà Tiên, Thiên Tứ dò biết việc nà y, bèn
bá o cho Điều khiển Gia Định Tố ng Vă n Khô i xin quâ n cứ u ứ ng.
Hà Tiên nhiều lầ n gặ p binh biến, lương nhâ n hao tố n, lò ng dâ n dao độ ng. Thiên Tứ
dâ ng sớ tự đà n hặ c mình. Chú a ban thư khoan dung và yên ủ i. Lạ i sắ c sai Điều
khiển ở Gia Định rằ ng hễ Hà Tiên có việc phi bá o thì phả i ứ ng cứ u ngay.
Ít lâ u sau, phía nam thà nh Hà Tiên có hai cầ u vồ ng đỏ giao lạ i thà nh hình chữ
"thậ p" (+) dà i hơn 30 trượ ng. Lạ i ở dướ i lầ u Bắ c trướ c có bã i cá t, chợ t bị gió lố c
cuố n cá t bay lên lưng trờ i, trong thà nh sầ m tố i lạ i. Phú t chố c cá t ấ y trú t xuố ng
thà nh đố ng, hình như chữ "thậ p". Nhà thuậ t số cho rằ ng đó là điềm thá ng 10 mấ t
thà nh. Kế đó quâ n Xiêm ồ ạ t đến vâ y thà nh. Trong thà nh quâ n ít, khô ng chố ng giữ
đượ c, thà nh bèn bị giặ c chiếm, đú ng và o kỳ thá ng 10.
Thiên Tứ cù ng lũ con là Hoà ng, Xướ ng và Duyên đi đườ ng thủ y chạ y ra Trấ n Giang;
trình bày lý do Hà Tiên thấ t thủ , rồ i dâ ng sớ xin nhậ n tộ i. Chú a ban thư rộ ng tha
cho. Lạ i ưu hậ u cấ p thêm cho lương bổ ng, ra lệnh cho quan Điều khiển sai quâ n
đưa về đạ o Trấ n Giang, để Thiên Tứ chiêu phủ lưu dâ n, lạ i mưu đồ đá nh giặ c.
Nă m Nhâ m Thìn (1772), mù a hạ , vua Xiêm lạ i thừ a thắ ng, đá nh nướ c Châ n Lạ p. Lũ
Điều khiển Nguyễn Cử u Đà m đem quâ n tiến đến Nam Vang, cả phá đượ c quâ n
Xiêm. Vua Xiêm chạ y sang Hà Tiên, đưa thư cho Thiên Tứ cầ u hò a. Thiên Tứ từ
chố i. Vua Xiêm bèn giao cho tướ ng là Trầ n Liên giữ Hà Tiên, cò n mình tự đem quâ n
đến bắ t con trai, con gá i Thiên Tứ và bắ t Chiêu Thú y đem về.
Nă m Quý Tỵ (1773), mù a xuâ n, Thiên Tứ sai ngườ i nhà là Mạ c Tú mang thư sang
Xiêm giả ng hò a. Vua Xiêm mừ ng quá đưa trả con trai con gá i Thiên Tứ mà mình đã
bắ t, và triệu Trầ n Liên về. Thà nh lũ y nhà cử a Hà Tiên đều bị quâ n Xiêm tà n phá .
Thiên Tứ bèn lưu lạ i Trấ n Giang, sai con là Hoà ng về Hà Tiên, tu sử a lạ i.
Nă m Giá p Ngọ (1774), mù a đô ng, "giặ c" Tâ y Sơn Nguyễn Vă n Nhạ c thế rấ t dữ dộ i,
chú a Trịnh lạ i sai quâ n và o xâ m lấ n miền Nam. Thiên Tứ ở Trấ n Giang, hay tin biến
ấ y, sai thuộ c hạ chở thó c và o kinh để cung lương quâ n. Thuyền lương đi đến ngoà i
biển Quy Nhơn thì bị quâ n giặ c đó n cướ p mấ t.
Nă m Bính Thâ n (1776), "giặ c" Tâ y Sơn nhiều lầ n và o cướ p. Quâ n nhà chú a nhiều
trậ n bấ t lợ i. Nă m Đinh Dậ u (1777), chú a đến Cầ n Thơ, hợ p lạ i vớ i quâ n Thiên Tứ ,
bèn sai Tham tướ ng Duyên đem quâ n bả n bộ và o đạ o Đô ng Khâ u tậ p hợ p cá c quâ n
cầ n vương khép lạ i đá nh "giặ c" Tâ y Sơn. Giặ c bị thua. Duyên lạ i về Trấ n Giang, giữ
chỗ hiểm để chố ng giặ c. Thiên Tứ chầ u hầ u chú a, rấ t kính cẩ n. Chú a thấ y quâ n bộ
thuộ c ngườ i ít, sứ c yếu, khó chố ng nổ i giặ c, mớ i sai Đỗ Thanh Nhâ n ngầ m đến Bình
Thuậ n, triệu Chu Vă n Tiếp và o cứ u.
Trướ c đó , "giặ c" Tây Sơn sắ p đem đạ i binh xâ m phạ m Trấ n Giang, Thiên Tứ bà y kế
trá nh giặ c, rằ ng "Trấ n Giang khô ng phả i là nơi hiểm trở có thể đó ng giữ để chố ng
giặ c. Xin chú a theo đườ ng sô ng cạ n Cầ n Thơ, ra đấ t Kiên Giang. Nếu có sự bấ t trắ c
thì ra hả i đả o, đợ i tình thế rồ i hà nh độ ng".
Mù a thu nă m ấy, Thiên Tứ hầ u chú a đi trướ c, sai con là Duyên và o đấ t Hiệp Giang,
đẵ n cây to, lấ p đườ ng thủ y. Chú a ngà y cà ng bồ n chồ n lo lắ ng, triệu Thiên Tứ đến,
bả o rằ ng: "Thế giặ c nay đang dữ dộ i, việc nướ c như thế mong sao gâ y dự ng lạ i
đượ c?". Thiên Tứ khấ u đầ u lạ y khó c, nó i rằ ng: "Thế thì nên triệu thuộ c hạ củ a thầ n
là Quá ch  n đem thuyền đi biển tớ i đó n thá nh giá và cung quyến. Thầ n xin đem hết
sứ c khuyển mã , khô ng ngạ i gian lao, sang Quả ng Đô ng nhà Thanh, kêu xin Trung
Quố c giú p quâ n đá nh giết bọ n giặ c hung á c, thu phụ c lấ y đấ t đai củ a ta. Cứ như
thầ n nghĩ nếu khô ng tính xa như thế thì khô ng có chỗ trú châ n nữ a đâ u". Chú a
chuẩ n y lờ i tâ u. Rồ i chú a đi Long Xuyên. Thiên Tứ bèn sai thuộ c tướ ng là Ngũ
nhung Cai cơ tên Khoan, hầ u chú a đi trướ c. Thiên Tứ lưu lạ i ở cử a biển Kiên Giang,
để đợ i thuyền Quá ch  n đến. Chố c lá t, Long Xuyên thấ t thủ , giặ c sai ngườ i đến dụ
Thiên Tứ xuố ng hà ng. Thiên Tứ khô ng theo chạ y ra đả o Phú Quố c. Khi đượ c tin
giặ c đem chú a về Gia Định, Thiên Tứ , kêu trờ i, than khó cừ nay về sau, ta khô ng cò n
mặ t nà o trô ng thấ y chú a nữ a!"
Bấ y giờ vua Xiêm Trịnh Quố c Anh cho thuyền đến đó n, Thiên Tứ bèn sang Xiêm.
Tô n Thấ t Xuâ n cũ ng từ hả i đả o sang Xiêm cầ u cứ u. Vua Xiêm hậ u đã i, giữ ở lạ i.
Nă m Mậ u Tuấ t (1778) mù a xuâ n, Thế tổ Cao Hoà ng Đế mớ i nhiếp chính (lên ngô i
chú a) sai Cai cơ Lưu Phướ c Trưng sang Xiêm giao hiếu và hỏ i tin tứ c về lũ Thiên
Tứ .
Sanh là con thứ tư củ a Thiên Tứ , lú c gặ p nạ n, theo cha sang Xiêm. Từ khi Thiên Tứ
bị vua Xiêm Trịnh Quố c Anh độ c á c là m hạ i, nhữ ng con chá u trưở ng thà nh đều bị
giết, duy có Sanh cù ng cá c em là Tuấ n, Thiêm, chá u là Cô ng Bính, Cô ng Du, Cô ng Tà i
(con củ a Hoà ng) và Cô ng Thế (con củ a Xướ ng) cò n bé đượ c đạ i thầ n Xiêm là Khả
La Hâ m thương tình cứ u cho thoá t nạ n, nhưng phả i bị đà y ra nơi ven biển.
Cô ng Bính là con Hoà ng và là chá u Thiên Tứ . Khi Sanh đã chết, vua bèn triệu Cô ng
Bính ở Xiêm về, cho là m Lưu thủ Long Xuyên. Khô ng đượ c bao lâ u, Cô ng Bính chết.
Nă m Minh Mạ ng nă m thứ 3 (1822) mù a thu, Thá nh Tổ Nhâ n Hoà ng Đế, nghĩ đến
cha con Thiên Tứ có cô ng vớ i nướ c, tặ ng phong Mạ c Cử u là m Thụ cô ng Thuậ n
nghĩa Trung đẳ ng thá n, Thiên Tứ là m Đạ t nghĩa chi thầ n, Tử Sanh là m Trung nghĩa
chi thầ n, cho xã Mỹ Đứ c thuộ c Hà Tiên thờ cú ng như cũ . Nă m thứ 10 (1829) Cô ng
Du vì già yếu, đượ c hưu trí. Nă m 11 (1830), cho Cô ng Tà i là m Quả n thủ thủ Hà
Tiên.
Tự là Thắ ng Tà i, ngườ i tỉnh Quả ng Đô ng, là m quan Tổ ng binh nhà Minh. Khi nhà
Minh mấ t, giữ nghĩa khô ng là m tô i nhà Thanh. Thá i Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 31, Kỷ
Mù i (1679), mù a xuâ n, cù ng vớ i Long Mô n Tổ ng binh Dương Ngạ n Địch, Phó tướ ng
Hoà ng Tiến và Trầ n Bình An đem biền binh, gia quyến hơn 3000 ngườ i và hơn 50
chiến thuyền đến đỗ ở cá c cử a biển Tư Hiền và Đà Nẵ ng, tự bày tỏ rằ ng: "Chú ng tô i
là bọ ộ thầ n nhà Đạ i Minh, hết lò ng trung vì nướ c, sứ c kiệt thế cù ng, vậ n nhà Minh
đã hết, chú ng tô i khô ng chịu thờ nhà Thanh, sang đây dâ ng lò ng thà nh, xin là m tô i
tớ ". Triều đình bà n rằ ng, họ khá c phong tụ c, khá c tiếng nó i, thình lình kéo đến cũ ng
khó khu xử , nhưng họ cù ng bá ch mà đến vớ i ta, ta khô ng nỡ cự tuyệt. Miền Đô ng
Phố củ a Châ n Lạ p đấ t rộ ng, đồ ng tố t bá t ngá t nghìn dặ m, triều đình chưa kinh lý,
chi bằ ng lấ y sứ c củ a họ cho mở đấ t mà ở . Thế là là m mộ t việc mà đượ c ba điều lợ i.
Chú a ưng thuậ n, ban khen thiết yến và yên ủ i họ , rồ i trao cho là m quan chứ c, cho
đến ở tạ i Đô ng Phố .
Trầ n Thượ ng Xuyên cù ng bọ n Dương Ngạ n Địch đến cử a khuyết tạ ơn mà đi.
Thượ ng Xuyên và o cử a biển Cầ n Giờ đó ng ở Bà n Lâ n (nay thuộ c Biên Hò a). Ngạ n
Địch và Hoà ng Tiến và o cử a biển Soà i Rạ p (Lô i Lạ p) đó ng ở Mỹ Tho (nay thuộ c
Định Tườ ng). Họ khai khẩ n đấ t bỏ khô ng, dự ng phố xá . Ngườ i nhà Thanh cù ng
thuyền buô n cá c nướ c Tâ y dương, Nhậ t Bả n và Chà Và đến tụ tậ p buô n bá n đô ng
đú c. Bở i thế phong hó a vă n minh ngà y dầ n thấ m nhuầ n và o Đô ng Phố .
Tin nà y lên đến triều đình, chú a sai Phó tướ ng doanh Trấ n Biên Mai Vạ n Long đem
quâ n đi đá nh. Hoà ng Tiến chạ y đi rồ i chết. Vạ n Long chiêu tậ p nhữ ng quâ n Long
Mô n cò n lạ i giao cho Thượ ng Xuyên quả n lĩnh, là m tiên phong, đó ng quâ n ở Doanh
Chậ u (nay thuộ c Vĩnh Long), kế đó tiến đá nh Châ n Lạ p và thắ ng đượ c.
Sau đó , Thượ ng Xuyên ố m chết. Ngườ i Trấ n Biên nhớ cô ng, lậ p đền thờ .
Con Thượ ng Xuyên là Trầ n Đạ i Định, do châ n ấ m tử , trả i là m quan đến Thố ng binh.
Tú c Tô ng Hoà ng Đế nă m thứ 6 (1731), mù a hạ , ngườ i Là o là Xá Tố t, đem lính Châ n
Lạ p đến cướ p Gia Định. Đạ i Định đem thuộ c tướ ng Long Mô n, đá nh phá quâ n giặ c
ở Phù Viên (Vườ n Trầ u). Giặ c rú t chạ y về Cầ u Ú c. Đạ i Định lạ i cù ng Điều khiển
Trương Phướ c Vĩnh và Giá m quâ n Nguyễn Cử u Chiêm chia quâ n 3 đườ ng cù ng
tiến, quâ n giặ c tan vỡ . Đạ i Định tiến đó ng Cầ u Nam. Nặ c Tha nướ c Châ n Lạ p (Tha là
con Yêm, Yêm già , sai Tha coi việc nướ c) sợ , chạ y đến Sơn Phủ .
Trướ c đó , lú c chưa dẹp yên giặ c, chú a ban thư xuố ng quở trá ch Phướ c Vĩnh. Phướ c
Vĩnh lú c trướ c ă n hố i lộ củ a Nặ c Tha, rú t quâ n về. Khi nhậ n đượ c chỉ dụ nghiêm
khắ c củ a chú a, lạ i đổ lỗ i cho Đạ i Định chầ n chừ , đó ng quâ n khô ng chịu đi. Đạ i Định
lú c thắ ng trậ n về, biết việc ấ y, muố n tố cá o vớ i triều đình, bèn đương đêm, bơi
thuyền vượ t biển đến Bú t Sơn (thuộ c Quả ng Ngã i). Em họ là Thà nh cho rằ ng Phướ c
Vĩnh là thế thầ n, khô ng thể tranh biện phả i trá i đượ c, khuyên Đạ i Định bỏ qua mà
đi. Đạ i Định nó i: "Cha con ta mộ t nhà chịu ơn to củ a nhà nướ c, nay vì tướ ng ngoà i
biên che lấ p sự thự c, nếu ta giậ n mà đi, tự nhậ n lấ y tiếngấ u, thì khô ng nhữ ng là tộ i
bấ t trung mà lạ i là con bấ t hiếu !" Thà nh cố ngă n trở , cho thuyền theo hướ ng đô ng
mà đi. Đạ i Định tuố t gươm chém Thà nh, cho thuyền quay và o cử a biển Đà Nẵ ng,
là m tờ biểu trầ n tình, do quả n doanh Quả ng Nam đệ lên. Đình thầ n bà n muố n bắ t
tộ i Đạ i Định. Chú a cò n khô ng nỡ , sai giam Đạ i Định ở Quả ng Nam; rồ i sai quan và o
Gia Định tra xét sự trạ ng. Phướ c Vĩnh thêu dệt muố n đổ tộ i cho Đạ i Định, riêng có
Cử u Chiêm hết sứ c biện bạ ch là Đạ i Định bị oan. Lú c bả n á n dâ ng lên thì Đạ i Định
đã ố m chết ở trong ngụ c. Chú a rấ t thương, truy tặ ng hà m Đô đố c Đồ ng tri, thụ y là
Tương Mẫ n.
Con Đạ i Định là Đạ i Lự c là m quan đến chứ c Cai độ i.
TRUYỆ N CÁ C NGƯỜ I Ẩ N DẬ T
Nguyễn Đă ng Đà n
Lạ i có tên là Tườ ng, tự là Thuầ n Nhấ t, biệt hiệu là Bấ t Nhị, ngườ i huyện Hương Trà
phủ Thừ a Thiên. Từ bé đã thô ng minh, đọ c sá ch trô ng qua là thuộ c lò ng. Đến tuổ i
"Vũ Thượ c" (97) nghiên cứ u kinh sử , dố c chí hiếu cổ , khô ng thích tụ c sá o khoa cử .
Tính điềm tĩnh khiêm tố n, ưa là m điều thiện, vui vớ i đạ o lý khô ng thích vinh hoa
danh lợ i. Nhà lá tườ ng đấ t, cũ ng vui số ng như thườ ng. Có tiếng giỏ i lý họ c, lạ i thuộ c
thuậ t thao, kiềm (98).
>
Võ Trườ ng Toả n
Quê huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Trườ ng Toả n là ngườ i thô ng minh, kinh họ c
sâ u rộ ng, lậ p chí cao thượ ng trong sạ ch, muố n sá nh vớ i tiên hiền.
Tự Đứ c nă m thứ 5 (1852), sắ c sai dự ng nhà riêng đề biển treo để biểu dương (Biển
ngạ ch khắ c mấ y chữ rằ ng: Gia Long sơ, tứ hiệu Gia Định xử sĩ Sù ng đứ c Võ tiên
sinh. Nghĩa
là : Đầ u niên hiệu Gia Long cho tên hiệu: Gia Định xử sĩ, Sù ng đứ c Võ tiên sinh).
Đặ ng Đứ c Thuậ t và Lê Đạ t
Về sau, Đạ t già chết. Thuậ t tính ngay thă ng, ngang bướ ng, gặ p việc dá m nó i. Thấ y
hình phạ t đá nh roi nặ ng quá , xin trừ bỏ đi. Vua khô ng nghe. Thuậ t nó i lắ p, ra nó i
vớ i mọ i ngườ i rằ ng: "Nó i khô ng chịu nghe thì giá n giá n nghị nghị là m gì!" Bèn bỏ
quan mà đi. Vua sai Giá m quâ n Tố ng Phướ c Đạ m đuổ i theo, mờ i về. Sau theo đi
đá nh giặ c, chết ở dọ c đườ ng.
Trướ c kia Thuậ t ở Gia Định, lũ Trịnh Hoà i Đứ c, Ngô Nhâ n Tĩnh, Lê Quang Định và
Nguyễn Hương nghe tiếng ô ng thơ hay đều đến tô n là m thầ y. Sự họ c là m thơ ở Gia
Định thịnh lên là bắ t đầ u từ đấ y.
Nguyễn Hương
Ngườ i tỉnh Bình Thuậ n. Buổ i đầ u trung hưng, là m Hà n lâ m thị thư, nổ i tiếng về vă n
chương, nhưng tính phó ng khoá ng, ưa nhà n, khô ng thích là m quan, nên từ chứ c về
nhà , thườ ng ngâ m vịnh để ngụ ý. Ô ng có tậ p thơ lưu hà nh ở đờ i. Bà i thơ Thá i dượ c
(Há i thuố c) có câ u rằ ng: "Họ c đắc trườ ng sinh bí, bấ t cầ u thiên hạ vă n". Nghĩa là :
Họ c đượ c thuậ t trườ ng sinh, khô ng cầ n thiên hạ biết. Lạ i bà i Sơn lộ (Đườ ng nú i) có
câ u: "Sơn nhâ n tự lai vã ng, Sơn thâ m nhâ n bấ t tri". Nghĩa là : Sơn nhâ n tự đi lạ i, nú i
sâ u ngườ i khô ng hay. Có tứ phiêu nhiên, vượ t ngoà i trầ n t
Hoà ng Quang
Ngườ i huyện Hương Trà , phủ Thừ a Thiên, tà i giỏ i, có nhâ n cá ch và kiến thứ c. Từ bé
đã chă m họ c, lớ n lên thấ m nhuầ n thô ng suố t nghĩa lý kinh sử , lạ i hay vă n chương,
đặ c biệt là trộ i về vă n quố c â m. "Giặ c" Tây Sơn Nguyễn Vă n Huệ biết danh tiếng
ô ng, trao cho quan chứ c nhưng ô ng khô ng là m. Quang thấ y chính sự củ a "giặ c"
phiền nhiễu hà khắ c, lò ng ngườ i nhớ cũ , bèn là m khú c há t "Hoà i nam" mở đầ u kể
sự khai thá c gian nan củ a cá c thá nh, nhâ n đứ c, ơn huệ thấ m nhuầ n khắ p nơi; cuố i
bà i thì truy tộ i quyền thầ n, nghiến ră ng că m giậ n ngụ y tặ c, lờ i rấ t bi trá ng, ngườ i ta
truyền nhau ca há t.
Thá i trưở ng cô ng chú a Ngọ c Tuyên chép đượ c bà i ca ấy cho ngườ i đem đến kinh
đô Gia Định để dâ ng. Thế Tổ Cao Hoà ng Đế sai truyền bá ở trong quâ n. Ngườ i nghe
có kẻ rơi nướ c mắ t.
TRUYỆ N CÁ C CAO TĂ NG
Tạ Nguyên Thiều
Tên tự là Hoá n Bích, ngườ i huyện Trình Hương, phủ Triều Châ u, tỉnh Quả ng Đô ng.
Nă m 19 tuổ i, xuấ t gia, đến ở chù a Bá o Tự , là mô n đệ củ a Khoá ng Viên hò a thượ ng.
Thá i Tô ng Hoà ng Đế, nă m thứ 17 Ấ t Tỵ (1665), Nguyên Thiều theo thuyền buô n
sang Nam, cắ m tích trượ ng ở phủ Quy Ninh, dự ng chù a Thậ p Thá p Di Đà , mở rộ ng
Phá p mô n. Sau đó , Nguyên Thiều đến nú i Phú Xuâ n ở Thuậ n Hó a (nay là phủ Thừ a
Thiên), dự ng chù a Quố c  n, xây thá p Phổ Đồ ng. Rồ i vâ ng mệnh Anh Tô ng Hoà ng
Đế đi sang Quả ng Đô ng, mờ i Thạ ch Liêm hò a thượ ng và lấ y phá p tượ ng phá p khí.
Khi về đượ c sắ c sai trụ trì ở chù a Hà Trung.
Dịch nghĩa:
Rõ rà ng vậ t khô ng vậ t
Phiên â m :
Ưu ưu bá t nhã ..
Trá c lậ p khả tấ t.
Thị thâ n bả n kh
Hoằ ng giá o lợ i vậ t.
Biến Phướ c từ vâ n.
Dịch nghĩa:
Chính giá c tố t tố t.
Cá i thâ n vố n khô ng
Thạ ch Liêm hò a thượ ng, hiệu Đạ i Sá n Ô ng Thị, quê ở Chiết Tâ y Trung Quố c, họ c
rộ ng tao nhã uyên bá c. Nhữ ng nghề thiên vă n tinh tượ ng; luậ t lịch, bó i toá n, địa lý,
xem số , viết chữ triện chữ lệ, vẽ tranh, truyền thầ n cá i gì cũ ng biết. Lạ i giỏ i là m thơ.
Cuố i nhà Minh, ngườ i Thanh và o cai trị Trung Quố c, Liêm giữ nghĩa, khô ng chịu
là m tô i nhà Thanh, bèn lạ y từ mẹ già , xuố ng tó c đi tu, cầ m tích trượ ng vâ n du,
nhữ ng sơn thủ y danh thắ ng, châ n đi gầ n khắ p. Anh Tô ng Hoà ng Đế nghe nó i Liêm
họ c đủ đạ o Phậ t, bèn sai Tạ Nguyên Thiều đi sang Quả ng Đô ng đó n cao tă ng. Liêm
mừ ng, liền cù ng Nguyên Thiều vượ t biển sang Nam. Khi đến nơi, chú a cho Liêm ở
chù a Thiên Mụ . Đờ i Hiển Tô ng Hoà ng Đế thườ ng mờ i và o nó i chuyện đạ o Phậ t.
Chú a yêu quý vì là ngườ i họ c tinh và rộ ng. Liêm khéo can ngă n từ lú c việc chưa xả y
ra, cũ ng có nhiều điều bổ ích.
Xa tưở ng chiếu bồ trên ngọ c điện, đã chứ ng tin tứ c nú i Hoà ng Mai (104). Nay nhâ n
lá thuyền sang sô ng rộ ng, bà y tỏ tâ m tò ng rú t đấ t xa. Tră ng theo nướ c trà o, đưa tin,
từ xa đến. Thơ tă ng ngoà i cõ i, tiếc khô ng nó i đượ c dà i.
Thơ rằ ng:
Đô ng phong tâ n lã ng mã n giang tầ n.
(Gió đô ng só ng mớ i rộ n sô ng tầ n.
Mưa mó c hồ sơn lạ i mớ i dầ n.
Dương hò a đầ m ấ m cho câ y cỏ .
Đạ t Bả n
Đạ t Bả n ngườ i tỉnh Bình Định, tinh việc bà n đạ o huyền vi. Thế Tô ng Hoà ng Đế, nă m
thứ 18 Ấ t Hợ i, Đạ t Bả n đi tiêu giao đến Đô ng Phố , cắ m gậ y tích ở chù a Kim
Chương; cẩ n trì giớ i luậ t, tu sử a chù a ấy, đụ c chạ m, sơn thiếp, rộ ng rã i lộ ng lẫ y đã
đượ c chú a sắ c cho biển ngạ ch treo và o chù a.
Viên Quang
Viên Quang đạ i lã o hò a thượ ng là chính phá i đờ i thứ 36 củ a dò ng Lâ m Tế. Viên
Quang kiên trì mậ t hạ nh từ tuổ i trẻ đến già , ngà y cà ng tinh tiến. Tính yêu mâ y khó i,
ít đặ t châ n đến nhữ ng nơi thà nh thị huyên ná o. Chố ng gậ y tích đến chù a Giá c Lâ m,
trong nú i, hết phiền nã o, dướ i rừ ng mở ngô i chù a.
Gia Long nă m thứ 15 (1816), mở rộ ng giớ i đà n, thiện nam tín nữ quy y cà ng nhiều
(chù a nà y ở nú i Cầ m Sơn tỉnh Gia Định, phía tâ y cá ch lũ y Bá n Bích 3 dặ m).
Giá c Linh
Giá c Linh hiệu là Huyền Khê Hò a thượ ng, ngườ i Quả ng Đô ng, chính phá i Lâ m Tế
đờ i thứ 35. Lú c bé, thích du hiệp, lạ i giỏ i võ nghệ. Vì hiềm thù giết ngườ i, nên trố n
và o chù a là m sư. Vượ t biển Đô ng Phố , là m sư ngao du. Rồ i đến Thuậ n Hó a, dự ng
chù a Phá p Vâ n (sau đổ i gọ i là chù a Thiên Phướ c) tinh trì giớ i hạ nh, đồ đệ
Mọ i ngườ i nghe nó i Giá c Linh tinh võ nghệ, đến xin họ c, Giá c Linh nhậ n dạ y, khô ng
từ chố i ai. Lâ u ngà y, họ c trò ngờ thầ y cò n giấ u, khô ng dạ y hết. Mộ t hô m, sư đang
ngồ i ă n cơm ở bà n ă n, họ c trò ngầ m cầ m đù i sắ t tớ i sau lưng giơ lên đá nh. Sư nghe
tiếng gió , cầ m chiếc đũ a gạ t cá i đù i sắ t nả y ra. Võ nghệ tinh đến như thế.
Hoà ng Lung
Hoà ng Lung, ngườ i tỉnh Bình Định, đi chơi đến Hà Tiên thấ y nú i Bạ ch Thá p ở phía
bắ c nú i Vâ n Sơn, cá c ngọ n bà y quanh, cỏ câ y xanh tố t, bèn cắ m gậ y tích là m chù a tu
ở đấy. Tú c Tô ng Hoà ng Đế, nă m thứ 13 Đinh Tỵ , Lung tịch, đồ đệ xây thá p 7 tầ ng để
xá lị và o trong thá p. Mỗ i nă m cứ đến tiết tam nguyên, có hạ c đến đền mú a, vượ n
xanh dâ ng quả , lưu luyến bịn rịn, như có ý tham thiền nghe kinh.
Tố ng Thị
Tố ng Thị (106) là con gá i mộ t nhà già u ở Hà Tiên. Khi tuổ i vừ a cậ p kê (15 tuổ i) nữ
cô ng cà ng giỏ i. Nhữ ng ngườ i là m mố i tấ p nậ p đến đầy sâ n, Tố ng Thị đều chố i từ
khô ng nhậ n lễ dạ m hỏ i củ a ai và nó i: "Đợ i Phậ t chỉ giá o mớ i kết nhâ n duyên". Cha
mẹ khô ng hiểu nhưng cũ ng miễn cưỡ ng nghe theo.
Bù i Đă ng Tườ ng
Bù i Đă ng Tườ ng ngườ i huyện Bình Sơn, tỉnh Quả ng Ngã i. Nă m 12 tuổ i, đi tu ở chù a
Phổ Phướ c, phá p danh là Long Kỳ đạ i sư. Duệ Tô ng, nă m thứ 8 Quý Tỵ , Tâ y Sơn
Nguyễn Vă n Nhạ c nổ i loạ n quấ y nhiễu cõ i lá ng giềng. Chú a sai quan quâ n đi đá nh,
có Cai độ i Trang (khô ng nhớ họ ) đem quâ n Trườ ng kiếm đá nh "giặ c". Tết chết,
quâ n đều tan vỡ . Tườ ng bả o đồ đệ rằ ng: "Nhạ c là mộ t đứ a dâ n thườ ng, dá m gâ y
loạ n, giết quan quâ n là m hạ i tră m họ . Lũ ta ă n mà u mỡ đấ t nà y, há chẳ ng nghĩ đến
ơn quố c vương đấ t nướ c à ". Bèn đến kinh nhậ n mậ t chỉ về mộ nghĩa dũ ng. Lạ i mộ
nhữ ng tà n quâ n Trườ ng kiếm cò n đượ c và i mươi ngườ i, nuô i giấ u ở chù a Liên Tô n.
Trí Chấ t hò a thượ ng Hoà ng Bả o Giá m, phú hộ Vũ Vă n Tạ o đem củ a giú p cho. Tườ ng
là m danh sá ch quâ n ứ ng nghĩa dâ ng lên kinh. Sợ việc hở ra, cù ng vớ i anh là Quyền
tạ m đem nhữ ng ngườ i mộ đượ c và quâ n Trườ ng kiếm đến trú ngụ ở sá ch man Kha
Tung, đợ i quan quâ n đến mớ i đem quâ n ra. Rồ i thì giặ c do thá m biết, bắ t lũ Vũ Vă n
Tạ o, Hoà ng Bả o Giá m đem dìm chết ở sô ng Phú Đă ng. Tườ ng sợ giặ c tìm bắ t nên đi
theo đườ ng nú i ra Quả ng Nam, mộ thêm nghĩa binh, đượ c và i tră m ngườ i đem
đá nh giặ c ở huyện Duy Xuyên, phá đượ c giặ c, thu đượ c khí giớ i rấ t nhiều, sai ngườ i
đến kinh bá o tin thắ ng trậ n. Chú a khen tố t, trao cho Tườ ng là m Khâ m sai Vệ quố c
sư. Lạ i sai Thố ng binh Bỉnh (khô ng nhớ họ ) đi cù ng Tườ ng hợ p quâ n đá nh giặ c. Kế
đá nh nhau vớ i giặ c ở đấ t Cả nh Phướ c, bị thua, Tườ ng cù ng Bỉnh đều chết trậ n, nă m
ấ y Tườ ng mớ i 37 tuổ i.
nt color="black">
Hiệp, Trạ ch
Hiệp, Trạ ch đều là con thứ 8 củ a Thá i Tổ Hoà ng Đế. Lú c trướ c đều là m quan
Chưở ng cơ, lạ i có quâ n cô ng đều đượ c phong tướ c đến Quậ n cô ng. Hy Tô ng Hoà ng
Đế, nă m thứ 7, Canh Thâ n, Hiệp, Trạ ch mưu là m loạ n, mậ t đưa thư cho chú a Trịnh
phá t binh, tự là m nộ i ứ ng, ướ c rằ ng việc thà nh đượ c chia nhau trấ n thủ đấ t ấy.
Trịnh Trá ng tin lờ i sai Đô đố c Nguyễn Khả i đem 5000 quâ n đó ng ở Nhậ t Lệ để đợ i.
Hiệp có con, Trạ ch khô ng có con. Chá u chắ t Hiệp nă m Minh Mạ ng thứ 10 (1829)
cho lĩnh mộ t nử a lương Tô n Thấ t. Đến nă m thứ 14 (1833) thì xó a tên trong sổ Tô n
Thấ t, cho đổ i thà nh họ Nguyễn Thuậ n. Ở đâ u thì và o sổ đinh chịu sai dịch như bình
dâ n.
<font color="black">
Anh, Trung là con thứ ba và thứ tư củ a Hy Tô ng Hoà ng Đế. Anh là m quan đến
Chưở ng cơ. Nă m Tâ n Mù i, mù a hạ , trấ n thủ Quả ng Nam là Tô n Thấ t Kỳ chết, chú a
cho Anh thay là m Trấ n thủ Quả ng Nam. Chú a lo Anh là ngườ i kiêu că ng, muố n
dù ng vă n thầ n để trô ng coi, bèn cho Vă n chứ c Phạ m (khô ng nhớ họ ) là m Ký lụ c.
Hoà ng tử thứ hai (tứ c Thầ n Tô ng Hoà ng Đế, cù ng Phạ m thâ n vớ i nhau), lú c đi tiễn,
Phạ m bá i biệt, nó i rằ ng: "Phạ m ở đấ y thì minh cô ng yên gố i, khô ng lo gì nữ a". Từ
đấ y Anh là m việc gì, hoà ng tử thứ hai đều biết hết.
Anh ở Quả ng Nam, ngầ m nả y sinh chí khá c, muố n cướ p ngô i Thế tử . Lạ i nuô i riêng
và i tră m dũ ng sĩ, mậ t ghi họ tên gọ i là "sổ đồ ng tâ m". Muố n ra là m Trấ n thủ Quả ng
Bình để tiện thô ng mưu vớ i chú a Trịnh, bèn mậ t sai ngườ i mưu vớ i Vă n chứ c
Quả ng Bình là Lý Minh (khô ng nhớ họ ). Lý Minh hợ p nhữ ng tên bấ t đắ c chí trong
hạ t, vu khố ng cho Trấ n thủ Quả ng Bình là Tô n Thấ t Tuấ n lấ n hạ i tră m họ , xin đổ i
Tuấ n đi nơi khá c cho Anh thay. Chú a lú c đầ u tin lờ i ấ y, bèn bã i Tuấ n mà triệu tậ p
Anh. Gặ p lú c Anh đi să n xa vắ ng, mươi ngà y khô ng về, chú a giậ n, bèn cho Nguyễn
Cử u Kiêu thay trấ n. Đến lú c Anh đi să n về, nghe biết việc ấy thấ t vọ ng to, lạ i cho
ngườ i đến hỏ i Lý Minh. Lý Minh mậ t viết thư cho Anh, nó i rằ ng: "Kiêu là ngườ i hèn
nhá t, nếu quâ n Trịnh đến nơi, Kiêu tấ t chạ y trướ c, nhâ n thế mà mưu, thế nà o cũ ng
xong việc". Anh mừ ng, là m thư sai ngườ i đi nộ p lò ng thà nh vớ i chú a Trịnh. Quâ n
Trịnh quả đến nơi, bắ n sú ng là m hiệu, khô ng thấ y Anh đến. Ngườ i nhà Trịnh ngờ ,
bèn lui quâ n về.
Huệ và Thô ng
Huệ, Thô ng đều là con thứ ba thứ tư củ a Thiếu sư Phướ c quậ n cô ng Tô n Thấ t Diễn.
Trướ c đều là m quan đến Chưở ng cơ. Hiển Tô ng Hoà ng Đế, nă m thứ 4 Giá p Tuấ t;
Huệ, Thô ng mưu là m loạ n. Chưở ng cơ Tô n Thấ t Nhuậ n sai Đứ c Nhâ n (khô ng nhớ
họ ) đem sự trạ ng tố cá o, bắ t giao cho đình thầ n tra hỏ i đều biết hết phả n trạ ng.
Huệ, Thô ng cù ng 7 ngườ i đồ ng mưu, đều bị giết chết. Vì cớ ấ y, phụ chép và o sau
phả Tô n Thấ t.
Huệ có con, Thô ng khô ng có con. Chá u nă m đờ i Huệ là Huyên, trả i là m quan đến
Lưu thủ Cai cơ, Chá nh quả n Nhà đồ . Minh Mạ ng nă m thứ 5 (1824), theo lờ i bà n củ a
bộ Lễ khẩ n giả m mộ t nử a tiền lương. Nă m Minh Mạ ng thứ 14, xó a tên trong sổ Tô n
Thấ t, cho đổ i là m họ Nguyễn Thuậ n. Cho ở đâ u thì đă ng hộ tịch, chịu sai dịch ở đó .
Trương Phướ c Loan, ngườ i Quý huyện tỉnh Thanh Hó a, là con thứ Quố c cô ng
Trương Phướ c Phan. Do nhiều đờ i là m quan, đượ c giú p quố c chính. Thế Tô ng mấ t,
Hưng Tổ ta, theo thứ tự , đượ c nố i ngô i chú a nhưng Lợ là ngườ i thô ng minh quyết
đoá n, khó chế phụ c đượ c, bèn là m giả tờ di chiếu, đem giam và o lã nh thấ t. Duệ
Tô ng mớ i 12 tuổ i, Loan cho là con trẻ, cù ng thá i giá m Chử 2;ứ c (khô ng nhớ họ ),
Chưở ng doanh Nguyễn Cử u Thô ng là m giả di chiếu, đưa Duệ Tô ng lên là m chú a.
Duệ Tô ng đã lên ngô i chú a, cũ ng ham chơi đù a, đều do Phướ c Loan dẫ n dụ cả . Chú a
nghĩ Loan có cô ng to, thă ng là m Quố c phó , coi việc bộ Hộ , quả n cơ Trung tượ ng
kiêm việc Tà o vậ n. Con trưở ng Loan là Thắ ng lấ y con gá i thứ hai Thế Tô ng là Ngọ c
Nguyện, con thứ là Nhạ c lấ y con gá i thứ bả y là Ngọ c Đạ o, đều là m quan đến
Chưở ng doanh Cai cơ. Mộ t nhà quý hiển quyền nghiêng trong ngoà i. Lạ i dắ t dẫ n đồ
đả ng là Thá i Sinh là m bộ Hộ , chia giữ việc quan yếu. Ngà y cà ng kiêu rô ng, tham lậ n
tà n nhẫ n, là m bậ y khô ng sợ ai, nguờ i đờ i gọ i là "Trương Tầ n Cố i".
Nă m Quý Ty (1773), mù a xuâ n, Tâ y Sơn Nguyễn Vă n Nhạ c nổ i loạ n, thư ngoà i biên
giớ i cá o cấ p. Tướ ng sĩ số ng thờ i bình lâ u ngà y khô ng quen chiến trậ n. Nhiều ngườ i
tìm cá ch để khỏ i ra trậ n. Loan lạ i ă n củ a đú t đổ i sai ngườ i khá c. Mọ i ngườ i đều tứ c
giậ n. Quâ n lính ra trậ n là chạ y nên thế giặ c cà ng dữ . Nă m Giá p Ngọ , mù a đô ng,
tướ ng Trịnh Hoà ng Ngũ Phướ c và o đá nh miền nam phá t hịch kể tộ i trạ ng Loan, nó i
Loan che lấ p tai mắ t chú a, hà ngượ c tră m họ , lầ n nà y cấ t quâ n chỉ vì muố n trừ mộ t
tên Loan, khô ng có ý và o lấ n cướ p. Quâ n Trịnh đến Hồ Xá , Chưở ng doanh Tô n Thấ t
Huố ng và lũ Nguyễn Cử u Phá p bắ t Loan đưa đến quâ n thứ Ngũ Phướ c. Lạ i giết đồ
đả ng là lũ Thá i Sinh. Loan sai con đem và ng bạ c đú t ló t tướ ng Trịnh đến hà ng
nghìn lạ ng và ng. Ngũ Phướ c giam Loan ở trong quâ n. Con Loan lạ i đem và ng đú t
ló t. Nă m Bính Thâ n (1776), mù a đô ng, Ngũ Phướ c cho giả i Loan ra thà nh Thă ng
Long. Loan chết trong lú c đi đườ ng.
CHÚ THÍCH
gia, Biểu, Thư, Liệt truyện. Đến khi Ban Cố soạ n Há n Thư, nhậ p loạ i Thế gia và o
(15) Tiềm để: nơi vua chú a ở khi chưa lên ngô i.
ht="0">
(19) Cù mộ c: nó i về hậ u phi thương yêu các cơ thiếp.>
(20) Quý huyện: Tứ c huyện Tố ng Sơn. Vì là quê hương nhà vua, nên gọ i thêm mỹ
từ "quý".
(26) Kê minh : Mộ t thơ ở "Tô phong" Kinh Thi nó i hiền phi đờ i xưa, khuyên vua
dậ y sớ m đN75; coi chầ u.
(27) Hoa chử : Mẹ vua Phụ c Hi ở bên Hoa Tư, cả m khí cầ u vồ ng vò ng quanh mình
bèn có thai, sinh ra Phụ c Hi.
">(28) Lâ n chỉ: Mộ t thơ ở thiên Thiệu nằ m trong Kinh Thi khen bà Hậ u phi sinh
nhiều con chá u có đứ c tố t như con lâ n.</font>
height="0">
(30) Phù dư: Khí rung độ ng vì sứ c gió .
v>
(31) Tứ c là Hưng Tổ Hiếu Khang Nguyễn Phướ c Cô n, cha củ a Nguyễn Phướ c Á nh
(Gia Long).
(35) Tù ng: chính â m là tò ng, nhưng vì kiên tên chú a Trịnh Tò ng lâ u ngà y thà nh
quen, nên nay chú ng tô i cứ phiên â m là tù ng cho dễ hiểu.
(36) Tứ c Thanh Hó a.
(38) Niên hiệu Cả nh Hưng chỉ đến nă m thứ 47 (Bính Ngọ , 1786). Cò n Mậ u
Thâ n là Chiêu Thố ng nă m thứ 2 (1788).
(39) Kể từ nă m Gia Long chiến thắ ng Tâ y Sơn, lên ngô i hoà ng đế (1802).
(41) Tuyên Vương: tướ c tặ ng phong củ a hoà ng tử Hiệu, cha củ a hoà ng tô n Dương.
ight="0">
(42) Theo Từ thư, phá t â m là Tò ng, nhưng từ đờ i chú a Trịnh đến nay, vì kiêng tên
hú y vẫ n quen đọ c là Tù ng (Trịnh Tù ng).>
(43) Theo Nguyễn Phướ c tộ c thế phả thì Ư Kỷ là em bà Triệu Tổ Tĩnh Hoà ng Hậ u
(B.tậ p)
(45) Quý hương: tứ c Gia Miêu ngoạ i trang ở huyện Tố ng Sơn, Thanh Hó a, quê củ a
chú a Nguyễn. Nă m Gia Long thứ 3 (1804) triều Nguyễn đổ i gọ i Gia Miêu ngoạ i
trang là Quý hương, Tố ng Sơn là Quý huyện.
(46) Cậ u củ a chú a.
t="0">
(56) Cử a Rò n : Nguyên vă n là "Di Luâ n hả i khẩ u".
(58) Phù Thạ ch: tên xã thuộ c huyện La Sơn, Nghệ An.
(60) xem chuyện chú a Nguyễn Thá i Tô ng Hiếu Triết nằ m mộ ng thấ y thầ n nhâ n cho
thơ ở truyện Nguyễn Hữ u Tiến.
"0">
(61) Phong Bá i: quê Há n Cao tổ . Nhữ ng ngườ i ở phong Bá i đều là họ hà ng thâ n
thuộ c Há n Cao tổ .
(63) Quả n Trọ ng đờ i Xuâ n thu, giú p Tề Hoà n cô ng là m thà nh nghiệp bá . Nhạ c Nghị
đờ i Chiến quố c, giú p Yên Chiêu vương đá nh nướ c Tề, bá o thù cho nướ c Yên.
(64) Truyện Song tinh bấ t dạ : (Hai sao đêm khô ng tố i) tứ c là truyện Khiên Ngưu và
Chứ c Nữ (vợ chồ ng Ngâ u).
(65) Há n vă n là Lộ c Dã.
(66) Há n Vă n là Sầ m Khê.
height="0">
(68) Tên Nô m là Vũ ng Gù , tứ c sô ng Hưng Hò a thườ ng gọ i là sô ng Và m Cỏ Tâ y.
(69) cò n có tên là chợ Sô ng Tranh, thuộc huyện Kiến Đă ng, Định Tườ ng.
height="0">
(74) Phấ n cố trì: Phướ c Phấ n "cố ; giữ ".
(79) Huyền điểu: Bà Giả n Địch nuố t trứ ng chim đen, sinh ra ô ng Tiết là tổ nhà
Thương cho nên gọ i nhà Thương là "cơ đồ huyền điểu".
iv height="0">
(80) Hoà n khuê: Thứ ngọ c mà vua chư hầu đượ c cầ m, cho nên dù ng hoà n
khuê, để tượ ng trưng cho vua chư hầ u.
(82) Có tà i liệu chép là Tì Man. C��n Man tứ c ngườ i Chă m Thuậ n Thà nh (Bình
Thuậ n).
iv>
(84) Hà n, Liễu: Hà n Dũ và Liễu Tô ng Nguyên đờ i Đườ ng, vă n chương cổ kính, đều
nổ i tiếng là nhà vă n lớ n.ont>
ght="0">
(<6) Hoa vă n: Chỉ nhữ ng ngườ i là m Lạ i viên.
>
(87) Đạ o hiệu củ a Nguyễn Phướ c Chu (Hiển Tô ng Hiếu Minh Hoà ng Đế).>
(89) Há n thầ n: Chỉ Trương Lương, mưu thầ n củ a Há n cao tổ , sau đi tu tiên.
t="0">
(91) Can thà nh; Can : cá i khiên, thà nh : bứ c thà nh dù ng để giữ trong và chố ng
ngoà i.nt>
(92) Mộ t tỉnh : do chữ "độ c tinh" trong Sở từ "chú ng nhâ n giai tú y, ngã độ c tinh",
nghĩa là "mọ i ngườ i đều say, riêng mình ta tỉnh".>
(95) Ố c nha: phiên â m Việt Há n củ a từ Khmer "OKnha", chứ c quan nướ c Châ n Lạ p
cổ , đứ ng đầ u đơn vị hà nh chính địa phương cấ p cao nhấ t.pan>
(96) Chấ t Tri tứ c P'hut Yodfa, vua mở đầ u dò ng Rama, tứ c Rama I củ a Xiêm. Nướ c
Xiêm theo đạ o Phậ t nên vua xưng là Phậ t vương.
(97) Vũ Thượ c: Họ c mú a nhạ c Thượ c khi 13 tuổ i (Kinh Lễ - thiên "Nộ i tắ c").
eight="0">
(98) Thao kiềm: Sá ch Lụ c thao, sá ch Ngọ c kiềm, đ;ều là binh phá p.
(100) ô ng Đạ t nó ng như lử a.
iv>
(101) Bí ngữ : nhữ ng ý kiến, khẩ u quyết... tu hà nh có ý nghĩa sâ u xa, kín đá o khó có
thể lĩnh hộ i tứ c thờ i.
(102) Xá lỵ : từ nhà Phậ t, chỉ chung nhữ ng gì cò n só t lạ i sau khi hỏ a tá ng thâ n Phậ t
hoặ c cá c bậ c đắ c đạ o.
(104) Nú i Hoà ng Mai ở huyện Hoà ng Mai, tỉnh Hồ Bắ c. Thiền tô ng thứ 6 là Hoằ ng
 n tu ở chù a nú i Hoà ng Mai, cho nên Thiền tô ng thứ 6 gọ i là Thiền tô ng Hoà ng Mai.
(105) Y bá t: Lệ nhà chù a khi sư già sắ p tịch truyền phá p cho ngườ i nố i nghiệp thì
truyền giao cho m̕7;t cái áo cà sa và mộ t cá i bá t ă n cơm, gọ i là truyền y bá t.
>(106) Tố ng thị: Gia Định thà nh thô ng chí chép rõ là Tố ng Thị Sương.